Thành Duy Thức Luận
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang Việt dịch: Ḥa Thượng Thích Thiện Siêu Mùa An cư P.L. 2539 – 1995
-o0o-
QUYỂN 7
XI.Thức Biến Hiện Thứ Ba ( tiếp theo phần 2)
Đă nói tướng của hai mươi Tùy phiền năo, bốn Bất định tâm sở, tướng nó thế nào?
Tụng nói:
Bất định là Hối, Miên,
Tầm, Tứ hai đều hai.
Luận rằng: "Bốn thứ Hối, Miên, Tầm, Tứ đối với thiện và nhiễm đều bất định; không phải như xúc, tác ư v.v... định biến khắp các tâm; không phải như dục, thắng giải v.v... định biến khắp các địa, cho nên lập tên bất định".
Hối là ố tác, là tánh ghét việc ḿnh đă làm, truy ức hối hận; có nghiệp dụng làm chướng ngại tu chỉ (v́ hối th́ hay trạo cử). Đây là danh từ chính nơi quả (truy hối) mà giả lập nhân (ố tác), trước ghét việc ḿnh đă làm (nhân), sau mới nhớ lại hối hận (quả); hoặc hối hận sao trước kia ta không làm, cũng là ố tác, như truy hối rằng: " Sao ta trước kia không làm việc như thế, như thế, ấy là ố tác".
Miên là thụy miên, ngủ nghỉ, có tánh khiến tâm muội lược (liệt), thân không tự tại, và có nghiệp dụng làm chướng ngại tu quán (v́ miên th́ hay hôn trầm). Nghĩa là khi nó ngủ mê th́ thân không tự tại, tâm rất hôn ám bại liệt, nó chỉ một mặt hướng bên trong. "Muội" là khác với khi tu định, "lược" là khác với khi thức. Để hiển bày thụy miên không phải là không có thể dụng, tuy ở năm vô tâm vị (là khi không có ư thức khởi lên, vô tâm như khi nhập Vô tưởng định, Diệt tận định, thùy miên, chết ngất, trời Vô tưởng) cũng giả lập tên gọi thùy miên nhưng cũng như năm cái và mười triền. Năm cái là năm thứ ngăn che tâm, là tham dục, sân nhuế, hôn trầm, thụy miên, trạo cử ố tác, và nghi. Mười triền là mười thứ trói buộc tâm, là vô tàm, vô quư, tật xan, hối, miên, trạo cử, hôn trầm, phẫn, phú) tương ưng với tâm (cho nên nói định có thật thể dụng).
- Có ư kiến cho rằng : "Hối và miên đó lấy si làm thể, v́ luận Du già nói: "Nó là Tùy phiền năo và si phần".
- Có ư kiến cho rằng nói thế không đúng, v́ Hối, Miên cũng thông cả thiện tánh. Nên nói hai thứ đó nếu ô nhiễm th́ lấy si làm thể, nếu thanh tịnh tức lấy không si làm thể. Luận dựa theo phần nhiễm mà nói Hối, Miên là nhiếp vào Tùy phiền năo và si phần.
- Có ư kiến cho rằng kia nói thế cũng không đúng lư, v́ Hối, Miên cũng thông vô kư mà vô kư th́ tánh không phải si và không si. Nên nói ố tác lấy tư và tuệ làm thể, v́ do tuệ và tư suy xét chọn lựa việc làm. C̣n thùy miên th́ hợp dùng một phần tư và tưởng làm thể, v́ khi ngủ vẫn tư tưởng các cảnh mộng. V́ Luận đều nói nó chỉ có theo nghĩa thế tục. Tánh nhiễm ô của Hối, Miên là tánh đẳng lưu của si; như bất tín là si phần.
Có ư kiến cho rằng nói thế không đúng, v́ không phải tư, tuệ, tưởng, mà chính lấy sự triền phược thân tâm là tánh của Hối, Miên. Nên nói hai thứ Hối, Miên đều có tự thể riêng, v́ có hành tướng khác với các Tâm sở khác, nhưng v́ tùy theo tướng si mà nói có Hối, Miên, nên gọi là có theo thế tục.
Tầm là t́m cầu, là tánh khiến tâm mau chóng đối với cảnh ư ngôn, quán sát một cách thô thiển.
Tứ là tư sát, là tánh khiến tâm mau chóng đối với cảnh ư ngôn (cảng của ư thức tiếp nhận phần nhiều dựa theo danh ngôn, nói cách khác là cảnh chỉ có trên danh ngôn, chứ không có trên thực tế - đản hữu giả danh, đô vô thật nghĩa). Quán sát một cách tế nhị, cả hai thứ Tầm và Tứ này đều có nghiệp dụng làm chỗ nương để thân tâm được an trú hay không an trú. Nó lấy một phần tư và tuệ làm thể, v́ đối với cảnh ư ngôn suy đạt nông cạn hay sâu xa mà Tầm và Tứ thành có nghĩa khác nhau. Nếu ĺa tư và tuệ th́ hai thứ Tầm và Tứ không có thể loại riêng.
- Trong bài Tụng chữ "hai đều hai" có ư kiến cho rằng Tầm và Tứ mỗi thứ đều có nhiễm và tịnh hai loại.
Có ư kiến cho rằng lời giải thích trên không đúng, v́ Hối và Miên cũng có hai loại nhiễm và tịnh. Nên nói như trước các Tâm sở nhiễm có thứ là phiền năo, có thứ là Tùy phiền năo. Hai thứ Hối, Miên và Tầm, Tứ này đều có tánh bất thiện và vô kư; hoặc là mỗi thứ đều có triền (hiện hạnh) và tùy miên (chủng tử).
Có ư kiến cho rằng lối giải trên cũng không đúng, v́ bài Tụng sau khi nêu đủ bốn thứ bất định mới nói đến chữ "hai đều hai" đó. Vậy nên nói "hai" là chỉ cho hai thứ: Một là Hối, Miên, hai là Tầm, Tứ. Hai thứ có hai đó, chủng loại khác nhau. Cho nên nói một chữ "hai" là hiển thị hai thứ hai. Nghĩa là mỗi thứ đều có hai là nhiễm và không nhiễm, chứ không phải như các Tâm sở kia hoặc chỉ là thiện, hoặc chỉ là nhiễm. Hoặc chỉ đơn giản biệt với Tâm sở nhiễm cho nên nói "hai đều hai" đó. Có ngựi cũng nói bốn thứ đó là Tùy phiền năo.
Nay v́ để hiển thị nghĩa "Bất định" của bốn thứ kia, nên nói" hai đều hai". Tụng nói như thế rất có tác dụng vậy.
- Trong bốn thứ đó, Tầm và Tứ chắc là giả có, v́ Thánh nói: "Nó là do tư và tuệ hợp thành". Hối và Miên có người cũng nói là giả có, v́ luận Du già nói: "Nó chỉ có theo thế tục".
Có ư kiến cho rằng hai thứ Hối, Miên là thật có, chỉ hai thứ Tầm Tứ là giả có. Nói "có theo thế tục" là nói dựa theo tướng phiền năo khác mới có, chứ không phải chỉ hai thứ Hối, Miên là giả có. Lại như chủng tử ở trong thức, thể nó tuy thật mà có luận cũng nói "chỉ có theo thế tục".
Trong bốn thứ đó Tầm và Tứ không tương ưng nhau, v́ thể loại tuy đồng mà bên Tầm thô, bên Tứ tế khác nhau.
Dựa theo Tầm, Tứ có nhiễm hay ĺa nhiễm mà lập ra ba địa khác nhau là hữu tầm hữu từ địa (cơi Dục và Sơ Thiền gia hạnh), vô tầm duy từ địa (Sơ Thiền căn bản), vô tầm vô từ địa (Nhị Thiền), chứ không dựa theo chủng tử hiện hành của nó có hay không, cho nên không tạp loạn. - Tầm, Tứ và Hối, Miên tương ưng được với nhau. Hối, Miên cũng tương ưng nhau.
- Cả bốn thứ đều không tương ưng với thức thứ bảy, thứ tám, như trước đă nói. Hối, Miên chỉ tương ưng với thức thứ sáu, chứ không tương ưng với năm thức trước. Có ư kiến cho Tầm, Tứ cũng tương ưng năm thức trước, v́ luận nói: "Năm thức có Tầm Tứ".
Lại nói Tầm, Tứ chính là bảy cách phân biệt, đó là hữu tướng phân biệt, vô tướng, nhậm vận, tầm cầu, tư sát, nhiễm ô, bất nhiễm ô phân biệt. Luận Tạp Tập lại nói: "Nhậm vận phân biệt", đó là ngũ thức (ngũ thức chỉ phân biệt một cách nhậm vận tự nhiên, chứ không phân biệt theo cách có tầm cầu, tư sát).
- Có ư kiến cho rằng Tầm, Tứ chỉ tương ưng với ư thức. Luận nói: "Tầm cầu, tư sát đều là pháp riêng của ư thức".
- Lại nói Tầm, Tứ tương ưng với ưu và hỷ thọ, chứ không nói tương ưng với khổ và lạc thọ; c̣n xả thọ th́ biến khắp, không đợi nói. Tại sao không nói Tầm Tứ tương ưng với khổ và lạc thọ? Tuy ở Sơ tịnh lự (Sơ Thiền), ư địa vẫn có lạc thọ, nhưng lạc đó không rời hỷ, nên chung gọi là hỷ. Tuy ở chỗ thuần khổ, có khổ thọ nơi ư địa, nhưng nó tương tợ với ưu, nên gọi chung là ưu.
Lại nói Tầm, Tứ lấy danh thân, cú thân v.v... làm cảnh sở duyên, chứ không phải năm thức trước mà có thể lấy danh thân, cú thân v.v... làm cảnh sở duyên. Như Luận Du già nói: "Ở năm thức có Tầm, Tứ", là hiển thị Tầm, Tứ suất nhĩ, phần nhiều do năm thức dẫn khởi, chứ không phải nói Tầm, Tứ tương ưng với năm thức. Luận Tạp Tập nói: "Nhậm vận phân biệt", đó là năm thức, với nghĩa phân biệt được nói trong luận Du già có khác nhau. Tạp Tập kia nói: "Nhậm vận phân biệt" chính là năm thức tức chỉ cho tự tánh phân biệt; c̣n Du già bảy thứ phân biệt chính là Tầm, Tứ tương ưng với ngũ câu ư thức. Cho nên kia dẫn chứng đó không thành. Do đó năm thức quyết định không có Tầm, Tứ.
- Có ư kiến cho rằng ố tác tương ưng với ưu và xả thọ, v́ nó chỉ có trong khi lo âu, thông cả tánh vô kư.
Thụy miên tương ưng với cả hỷ, ưu và xả thọ, v́ hành tướng nó thông cả khi trung dung vừa mừng vừa lo. Tầm, Tứ tương ưng với cả ưu, hỷ, xả, lạc thọ, v́ ở Sơ tịnh lự ư thức tương ưng với lạc.
- Có ư kiến cho rằng bốn thứ Bất định đó cũng tương ưng với khổ thọ, v́ ở trong chỗ thuần khổ, ư thức tương ưng với khổ.
- Bốn thứ tâm sở Bất định đó dều tương ưng với năm Biệt cảnh, v́ hành tướng và sở duyên của hai bên không trái nghịch nhau.
- Hối, Miên chỉ tương ưng với mười Thiện tâm sở, v́ chỉ ở cơi Dục không có tâm khinh an. Tầm, Tứ th́ tương ưng cả mười một Thiện tâm sở, v́ trong Sơ tịnh lự vẫn tương ưng với khinh an. Hối chỉ tương ưng với vô minh. V́ hành tướng nó thô mà tham v.v... th́ vi tế, Thụy miên, Tầm, Tứ tương ưng với mười tiểu Tùy phiền năo, v́ kia, dây qua lại không trái nhau.
Hối cũng tương ưng với trung, tùy, đại tùy hoặc, chứ không phải với phẫn, v́ phẫn v.v... mười tiểu tùy, v́ tiểu tùy mỗi thứ đều tự chủ. Thụy miên, Tầm, Tứ tương ưng với cả hai mươi Tùy phiền năo, v́ trong khi thụy miên đều khởi lên các phiền năo đó.
Bốn bất định tâm sở đều thông cả ba tánh thiện, ác, vô kư, v́ trong nghiệp vô kư cũng có truy hối.
- Có ư kiến cho rằng hai thứ Hối, Miên chỉ có sanh đắc thiện, v́ hành tướng thô bỉ và muội lược. C̣n hai thứ Tầm, Tứ cũng thông cả gia hạnh thiện (sanh đắc thiện do đă tập quen từ trước, bây giờ sanh ra là có, gia hạnh thiện là điều thiện do cố gắng gần bạn lành, nghe Chánh pháp rồi suy nghĩ thực hành mà có được), v́ trong khi nghe thành tuệ vẫn có Tầm, Tứ.
- Có ư kiến cho rằng hai thứ Hối, Miên cũng có gia hạnh thiện, v́ trong khi văn và tư vẫn có Hối, Miên. Ba thứ Miên, Tầm, Tứ đều thông cả nhiễm tịnh và vô kư; c̣n ố tác (hối) th́ không phải nhiễm, v́ sự liễu giải thô mảnh.
Trong bốn tịnh vô kư là Dị thục, Oai nghi, Công xảo, Biến hóa (thân quả báo Dị thục trong ba cơi là Dị thục; đi, đứng, nằm, ngồi là oai nghi; khắc chạm vẽ là công xảo, biến hóa thần thông là biến hoá). Hối chỉ có hai thứ vô kư giữa v́ hành tướng nó thô mảnh, không phải định (biến hóa vô kư) và quả báo (Dị thục vô kư). Miên th́ chỉ trừ vô kư thứ tư, v́ không phải do định dẫn sanh, trong tâm Dị thục sanh cũng có Miên vậy. Tầm, Tứ trừ vô kư đầu, v́ sự liễu giải của nó vi tế liệt nhược, không thể tầm sát được các danh nghĩa.
Ố tác và thụy miên chỉ có ở cơi Dục. Tầm, Tứ có cả ở Dục giới, và Sơ tịnh lự, v́ các pháp ở các địa trên đều diệu tịnh, nên không có bốn Bất định Tâm sở này. Hối, Miên khi sanh thượng địa chắc không c̣n hiện khởi. Tầm, Tứ khi sanh ở thượng địa cũng có thể duyên cảnh hạ địa, khi sanh ở hạ địa cũng có thể duyên cảnh thượng địa.
- Có ư kiến cho rằng hối, Miên không thể duyên thượng địa, v́ hành tướng nó thô lậu rất muội lược.
- Có ư kiến cho rằng Hối, Miên cũng duyên được cảnh thượng địa, v́ như người có tà kiến hối hận việc tu định của cơi trên và v́ mộng cũng có thể duyên khắp các việc đă trải qua.
- Hối không phải có ở vị vô học, v́ khi ĺa dục đă bỏ Hối. Thụy miên, Tầm, Tứ đều thông cả ba học. Người cầu giải thoát, có thiện pháp hữu vi, đều gọi là học. Người học đă đến cứu cánh có thiện hữu vi, th́ gọi là vô học (thiện pháp này c̣n sanh diệt nên gọi là hữu vi).
Hối, Miên chỉ thông kiến đạo, tu đạo đoạn trừ, v́ nó cũng do thế lực tà kiến khởi lên, v́ không phải do vô lậu đạo trực tiếp dẫn sanh, nên cũng chẳng phải như ưu căn do tham cầu giải thoát mà có, hoặc v́ đă đoạn rồi th́ gọi là không phải đoạn. Tầm, Tứ tuy không phải chơn vô lậu đạo, nhưng có thể dẫn sanh vô lậu đạo và từ vô lậu đạo dẫn sanh, nên nó nhiếp đủ cả kiến, tu và phi sở đoạn.
- Có ư kiến cho rằng Tầm, Tứ là phi sở đoạn, và trong năm pháp (là tướng, danh, phân biệt, chánh trí, như như), nó chỉ nhiếp về phân biệt, v́ luận Du già nói: "Tầm Tứ là phân biệt".
- Có ư kiến cho rằng Tầm, Tứ cũng nhiếp thuộc chánh trí, v́ chánh tư duy trong Tám chánh đạo là vô lậu; v́ chánh tư duy có thể khiến tâm tầm cầu. Lại nói Tầm, Tứ là nguyên nhân của ngôn thuyết (có Tầm, Tứ mới khởi ngôn thuyết).
Ở địa vị chưa cứu cánh th́ chưa thể biết khắp thuốc và bịnh, (thuốc là pháp môn tu, bịnh là tâm bịnh của chúng sanh), do đó ở trong trí hậu đắc, muốn nói pháp dạy người, phải nhờ đến Tầm, Tứ chứ không phải như ở Phật địa, vô công dụng mà nói. Cho nên Tầm, Tứ cũng thông vô lậu. Tuy nói Tầm, Tứ là phân biệt, nhưng không nhất định nói nó thuộc pháp phân biệt thứ ba, v́ trong chánh trí hậu đắc cũng ... phân biệt.
C̣n phân biệt bốn Tâm sở Bất định này theo các mặt khác, chuẩn như trên mà biết. (39)
- Sáu vị Tâm sở pháp như trên là ĺa Tâm vương có tự tánh riêng hay chính là phận vị sai biệt của Tâm vương? Nếu vậy có lỗi ǵ?
Cả hai cách đều có lỗi. V́ nếu ĺa Tâm vương (tâm thể) có tự tánh riêng th́ tại sao Thánh giáo nói chỉ có thức (chứ không nói Tâm sở). Lại tại sao nói tâm một ḿnh đi xa (chứ không nói Tâm sở). Sáu giới là địa, thủy, hỏa, phong, không thức hợp thành hữu t́nh (chứ không nói Tâm sở hợp thành). Luận Trang Nghiêm nói: " Lại làm sao thông được? " Như luận đó nói tụng rằng:
Cho tâm tợ hai hiện
(tợ hai pháp thiện nhiễm mà hiện)
Như vậy, tợ "tham" thảy.
Hoặc tương tợ "tín" thay,
Không pháp nhiễm, tịnh riêng.
Nếu Tâm sở chính là phận vị sai biệt của tâm th́ tại sao Thánh giáo nói cùng với tâm tương ưng. Có tánh riêng mới tương ưng, chứ không phải tự tánh mà tương ưng tự tánh. Lại làm sao nói Tâm và Tâm sở cùng thời khởi như mặt trời và ánh sáng. Và luận Du già nói: "Lại làm sao thông được". Luận này nói rằng Tâm sở chẳng phải chính là tâm. Như bài Tụng trong luận kia rằng:
Năm chủng tánh không thành
(ngũ chủng tánh thủ uẩn)
Phận vị sai biệt, lỗi (nói do phận vị sai biệt mà lập năm uẩn, sai)
V́ nhân duyên không khác
(trong một sát na)
Là trái với Thánh giáo.
Nên nói Tâm sở ĺa tâm có tự tánh riêng.
V́ Tâm thắng hơn nên nói là Duy thức, v́ Tâm sở dựa thế lực của tâm mà sanh nên nói tâm tợ kia hiện, chứ không phải pháp thiện kia chính là tâm.
Lại phàm nói chữ "Thức tâm" là cũng nhiếp luôn cả Tâm sở, v́ thường tương ưng với tâm. Do đó nói chữ "Duy thức" và nói "hiện tợ kia" đều không có lỗi. Nhưng đây là chỉ dựa theo nghĩa thế tục mà nói là có, c̣n theo thắng nghĩa th́ Tâm sở và Tâm chẳng phải ĺa, chẳng phải tức. Các thức trông qua lại với nhau, nên biết cũng thế.
Đó là diệu lư chơn tục của Đại thừa.
- Đă nói Tâm sở tương ưng với sáu thức, vậy làm sao biết phận vị hiện khởi của nó?
Tụng rằng:
nương dựa thức căn bản,
Năm thức theo duyên hiện,
Đồng thời khởi, hoặc không,
Như sóng ṃi nương nước,
Ư thức thường hiện khởi,
Trừ sanh trời Vô tưởng,
Và hai định Vô tâm,
Khi ngủ say, chết ngất.
Luận rằng: Căn bản thức tức là thức A đà na thứ tám, là căn bản sanh ra các thức nhiễm tịnh. Nương dựa là sáu chuyển thức trước lấy căn bản thức này làm chỗ nương trực tiếp chung.
Năm thức là năm chuyển thức trước. Có chủng loại giống nhau, cho nên chung lại để gọi chữ "tùy duyên hiện" là nói nó không phải thường sanh khởi. "Duyên" tức là tác ư, căn, cảnh, không, minh, Căn bản y (tức thức thứ tám), Nhiễm tịnh y (tức thức thứ bảy), Phân biệt y (tức thứ sáu), Chủng tử y. Nghĩa là năm thức thân, bên trong nương căn bản thức, bên ngoài tùy theo tác ư và năm căn, năm cảnh, khi đủ các duyên ḥa hợp mới hiện khởi được. Do đó hoặc cùng khởi lên một lần, hoặc không, v́ ngoại duyên hợp lại có khi gấp, khi dần dần, như sóng nước tùy theo duyên nhiều ít mà nổi lên. Pháp và dụ như thế, nói rộng như trong kinh.
Do năm chuyển thức hành tướng thô động, nương cậy các duyên nhiều khi không đủ, cho nên lúc sanh khởi th́ ít mà lúc không sanh khởi th́ nhiều. C̣n ư thức thứ sáu tuy cũng thô động, nhưng các duyên mà nó nương cậy không lúc nào không có đủ, chỉ khi do duyên trái ngược (như vô tâm định), mới có lúc không sanh khởi. C̣n thức thứ bảy, thức thứ tám th́ hành tướng vi tế, các duyên mà nó nương cậy lúc nào cũng có, cho nên nó không bị chướng ngại về duyên làm cho nó không hiện hành.
Lại năm thức thân không thể tư lự, chỉ chuyển hướng ra bên ngoài nhờ nhiều duyên mới khởi được, cho nên lúc gián đoạn th́ nhiều, mà lúc hiện hành th́ ít.
Ư thức thứ sáu, tự ḿnh tư lự, chuyển hướng cả bên trong, bên ngoài, không cần nhờ nhiều duyên cho nên chỉ trừ năm trường hợp không hiện khởi mà thôi. V́ vậy Ư thức gián đoạn th́ ít, mà hiện khởi th́ nhiều. Do đó không nói Ư thức tùy duyên hiện như năm thức.
Năm trường hợp là ǵ? Đó là sanh cơi trời Vô tưởng v.v...
Trời Vô tưởng là người tu định Vô tưởng, do sức nhàm chán tư tưởng thô phù mà được sanh trong cơi trời kia, trái với Tâm, Tâm sở không hằng hành, chỉ lấy sự diệt tưởng làm chính, nên gọi là trời Vô tưởng. Cho nên ở tại đây sáu chuyển thức đều đoạn.
- Có ư kiến cho rằng ở cơi trời kia thường không có sáu thức, v́ Thánh giáo nói: "Ở cơi kia không có chuyển thức" nói: "Ở đó chỉ có sắc thân" (chi sắc trong 12 chi),lại nói: "Ở đó là chỗ vô tâm".
Có ư kiến cho rằng ở cơi trời kia khi sắp mệnh chung phải khởi lên chuyển thức sau đó mới mệnh chung, v́ trời kia phải khởi lên phiền năo ái nhuận sanh về cơi dưới. Luận Du già nói: "Khi tư tưởng lúc sau cùng hiện ra th́ các hữu t́nh cơi ấy theo đó liền mất". Nhưng nói cơi trời đó không có chuyển thức là dựa vào thời gian lâu dài mà nói, chứ không phải hoàn toàn không có.
- Có ư kiến cho rằng ở trời Vô tưởng khi sanh cũng có chuyển thức, v́ thân trung hữu kia chắc chắn phải khởi phiền năo ái nhuận sanh, như thân bản hữu ở các cơi Thiền, lúc mới sanh cũng phải có chuyển thức (từ khi chết đến khi sanh là thân trung hữu hay trung ấm, khi thụ sanh là thân sanh hữu từ khi sanh đến khi chết là thân bản hữu, khi chết là thân tử hữu. Gọi là bốn hữu lưu chuyển). Luận Du già nói: "Nếu sanh cơi trời Vô tưởng, chỉ có nhập định mà không khởi định". Nếu có tư tưởng khởi sanh th́ liền chết mất ngay đó. Giả nói bước đầu sanh của thân bản hữu, nếu không có chuyển thức th́ làm sao có thể gọi là nhập định? V́ trưóc có sau không mới gọi là nhập.
Lại trong Quyết trạch phần của luận Du già nói: "Ở trời kia những Tâm, Tâm sở sanh đắc đă diệt hết gọi là vô tưởng". Câu này ư nói bước đầu sanh của thân bản hữu kia có chuyển thức Dị thục sanh tạm khởi, chỉ do sức nhân duyên đă tập định từ trước mà sau đó chuyển thức không c̣n sanh lại. Do sức định Vô tưởng đó dẫn khởi ra phận vị sai biệt của Dị thục vô kư mà gọi là vô tưởng. Như hai định Vô tưởng và diệt tận do gia hạnh thiện dẫn sanh, nên được gọi là thiện. Nếu không như vậy, hết thảy chuyển thức không hiện hành, th́ sao nói chỉ có Tâm, Tâm sở sanh đắc đă diệt hết? Cho nên biết trong bước đầu sanh ở cơi trời Vô tưởng vẫn có sáu chuyển thức tạm khởi.
- Trời Vô tưởng chỉ ở tại đệ Tứ tịnh lự (Tứ Thiền), v́ ở cơi dưới th́ tư tưởng thô động khó đoạn trừ, mà thân Dị thục ở cơi Vô sắc trên th́ không có chỗ Dị thục vô tưởng. Chính do tư nghiệp dẫn phát ra Vô tưởng định mà chiêu cảm quả dị thục ở cơi trời Vô tưởng.
Trong bài tụng câu: "Và hai định Vô tâm" là Vô tưởng định và Diệt tận định. Ở hai định này đều không có sáu thức, nên gọi là vô tâm.
Vô tưởng định là có kẻ dị sanh (phàm phu) dẹp được ḷng tham câu sanh của cơi trời Biến tịnh ở Tam Thiền, nhưng chưa dẹp được ḷng tham ở cơi trời trên, do trưóc tiên tác ư về tưởng xuất lư làm cho Tâm, Tâm sở bất hằng hành (nơi ư thức) đoạn diệt, lấy sự tưởng diệt đó làm đầu mà lập tên Vô tưởng. Và làm cho thân an ḥa nên gọi là Định. Tu tập định này có ba bậc: Bậc tu hạ là pháp tu hiện tại bị thối mà không thể mau chóng làm cho nó phát hiện trở lại, nên sau đó sanh cơi trời Vô tưởng, thân không mấy sáng sạch, h́nh sắc không mấy rộng lớn. Định giữa chừng chết yểu. Tu bậc trung là pháp tu hiện tại không bị thối, giả sử có thối cũng mau chóng phát sanh trở lại, nên sau đó sanh cơi trời Vô tưởng, tuy thân rất sáng sạch, h́nh sắc rộng lớn, nhưng không hoàn toàn. Tuy có chết yểu nhưng không chắc chắn. Tu bậc thượng là pháp tu hiện tại không thối. Sau đó sanh cơi trời Vô tưởng, thân rất sáng sạch, h́nh sắc rộng lớn, không bị chết yểu, sống hết tuổi thọ mới chết.
Định này chỉ thuộc vào đệ Tứ tịnh lự. Lại là thiện, v́ do thiện gia hạnh dẫn sanh. Hạ địa và thượng địa không có định này, như đoạn trước ở cơi trời Vô tưởng đă nói. Trong bốn nghiệp là thuận hiện thọ, thuận sanh thọ, thuận hậu thọ, thuận bất định thọ; định này có ba thứ, trừ nghiệp thuận hiện thọ.
- Có ư kiến cho rằng định này chỉ khỏi lên ở Dục giới, do sức thuyết giáo của ngoại đạo mà khởi lên, v́ ở trong loài Người mới có tuệ giải rất mănh lợi.
- Có ư kiến cho rằng trước tu tập ở cơi Dục, sau sanh lên cơi Sắc, có thể dẫn phát hiện ra, trừ sanh trời Vô tưởng và trời Cứu cánh.
Định Vô tưởng này do nhàm chán tư tưởng và hân thích quả báo cơi trời Vô tưởng kia mà nhập định, cho nên nó chỉ là hữu lậu, chứ không phải Thánh định vô lậu.
- Diệt tận định là bậc Thánh Hữu học, Vô học, hoặc là bậc Thánh Hữu học mà đă đè bẹp hoặc ĺa hết ḷng tham câu sanh ở cơi Vô sở hữu xứ, c̣n ḷng tham cơi Phi phi tưởng không nhất định. Do trước hết tác ư về sự ngưng dứt tưởng làm cho Tâm, Tâm sở ô nhiễm bất hằng hành nơi sáu thức và một phần hằng hành nơi thức thứ bảy diệt hết, mà lập tên Diệt tận. Và v́ làm cho thân an ḥa nên cũng gọi là định. Lại do nhàm chán riêng "thọ" và "tưởng", nên cũng gọi là định Diệt thọ tưởng.
Tu Diệt tận định này có ba bậc: Tu bậc hạ th́ pháp tu hiện tại bị thối rồi là không thể mau chóng làm phát sanh trở lại.Tu bậc trung là pháp tu hiện tại không bị thối, giả sử có bị thối cũng mau chóng làm phát sanh trở lại. Tu bậc thượng, hoàn toàn không bị thối.
Định này khi mới tu phải dựa ở cơi trời Hữu đỉnh (Phi phi tưởng thiên), duyên lịch quán pháp vô lậu làm gia hạnh mà nhập. Trong chín bậc định thứ lớp (Tứ thiền, Tứ không và Diệt tận định), định này ở cuối cùng , và tuy thuộc cơi Hữu đỉnh nhưng nhiếp về vô lậu.
Nếu khi tu định này đă được tự tại xuất nhập, th́ ở những tâm sau cùng của bảy địa kia (ngoài Hữu đỉnh) định này cũng được hiện tiền. Định này tuy nó thuộc Đạo đế, nhưng nhiếp về chẳng phải học, vô học, v́ ở đây là tương tợ như Niết bàn.
Định này khi mới khởi tu là ở trong cơi Người, nhờ sức thuyết giáo của Phật và đệ tử Phật mà phát khởi; và v́ ở trong cơi Người có tuệ giải cực mănh lợi. nhờ tu ở cơi Dục mà sau sanh lên hai cơi trên này cũng được hiện tiền. Kinh Ô đà di là chứng cứ cho điều này. Cơi trời Vô sắc cũng gọi là trời Ư thành. Người đối với giáo lư dạy về Tạng thức chưa có ḷng tin, th́ tuy có sanh cơi Vô sắc cũng không phát khởi định này, v́ họ sợ không c̣n sắc tâm th́ trở thành đoạn diệt. Nhưng người đă có tâm tin đối lư Tạng thức, th́ khi sanh cơi Vô sắc, định này cũng được hiện ra, v́ họ biết có Tạng thức, không sợ đoạn diệt.
- Cần phải đoạn hết lậu hoặc thuộc kiến sở đoạn của ba cơi mới phát khởi định này, v́ hàng Dị sanh phàm phu không thể dẹp và dứt Tâm Tâm sở do kiến sở đoạn của cơi Hữu đỉnh. Lại Định này vi diệu phải do trí Hậu đắc sau khi chứng hai Không mới dẫn phát sanh.
Có ư kiến cho rằng đối trong nhóm lậu hoặc tu sở đoạn của tám địa dưới (chín địa trừ Phi phi tưởng c̣n tám) phải dứt hết chín phẩm tu hoặc của cơi Dục, và khắc phục tu hoặc của bảy địa kia, vậy sau mới phát khởi được định này. V́ chủng tử lậu hoặc cơi Dục có đủ hai tánh là bất thiện và hữu phú rất phiền tạp, làm chướng ngại Định diệt tận này rất mạnh. Kinh luận nói chỉ quả Bất hoàn, Tam thừa vô học, và các Bồ tát, mới có thể được định này. Các vị ấy tùy thích mà sanh lên tám địa trên, sau đó đều khởi lên được định này.
Có ư kiến cho rằng phải đoạn hết lậu hoặc thuộc loại tu sở đoạn ở bốn địa dưới, và dẹp hoặc đoạn các lậu hoặc của năm địa khác, vậy sau mới bắt đầu khởi lên định này, v́ chủng tử phiền năo tương ưng với biến dị thọ (là khổ, lạc, ưu, hỷ) ở bốn địa dưới, làm chướng ngại việc tu định này rất mạnh. Các vị này tùy theo sự thích được sanh lên năm cơi trên mà định này đều được khởi lên sau.
Hỏi: - Nếu chỉ dẹp lậu hoặc cơi dưới có thể sanh khởi định này, sau đó lậu hoặc v́ không đoạn mà không thối, vẫn được sanh cơi trên. Làm sao sanh cơi trên rồi mới đoạn lậu hoặc cơi dưới?
Đáp: - Đoạn được, không lỗi ǵ, như người sanh cơi trên mà đoạn câu sanh hoặc của thức Mạt na cơi dưới. Nhưng hàng Thánh Bất hoàn, do sức đối trị mạnh, chính ngay khi thức nhuận sanh, mà không khởi hiện hành phiền năo nhuận sanh, chỉ do chủng tử lậu hoặc (chứ không phải do hiện hành lậu hoặc) mà nhuận sanh cơi trên thôi. Tuy lậu hoặc bị dẹp, hoặc có thối khởi, hoặc không thối khởi, nhưng không có nghĩa dẹp lậu hoặc cơi dưới mà sanh thượng địa. Cho nên không có cái lỗi khi sanh cơi trên mới đoạn lậu hoặc cơi dưới.
Có những Bồ tát khi c̣n ở địa vị Nhị thừa đă được Diệt tận định, sau mới hồi tâm hướng đến Đại thừa, mong trong tất cả địa vị Đại thừa ba Hiền mười Thánh đều khởi lên định này. Nếu không được vậy th́ hoặc có hạng đợi cho đến khi ở Thất địa (Viễn hành địa) măn tâm, mới có thể dẹp vĩnh viễn hết thảy phiền năo. Tuy ở Thất địa chưa đoạn hẳn tu hoặc của cơi Dục, mà nhu là đă đoạn và có thể khởi lên định này, v́ Luận nói: "Bồ tát đă vào Viễn hành địa mới có thể hiện khởi Diệt tận định".
Lại có Bồ tát lợi căn từ Sơ địa đă có thể dẹp hẳn hết thảy phiền năo, như A la hán. Họ ở trong Thập địa đều khởi lên định này, v́ kinh nói: "Hàng Bồ tát ở sáu địa đầu cũng có thể khởi Diệt tận định".
Bài Tụng nói: "Vô tâm thùy miên và muộn tuyệt", nghĩa là khi ngủ mê man, và chết ngấy trầm trọng th́ sáu thức trước không hiện hành. Do các duyên mệt mỏi nặng nề dẫn thân đến chỗ trái với sáu thức, nên gọi là ngủ mê trầm trọng. Khi ngủ mê tuy không có tự thể Tâm sở ngủ, song do "ngủ" dần đến tợ như Tâm sở ngủ mà giả gọi là ngủ mê.
lại do duyên cảm mạo gió và nóng dẫn thân đền chỗ trái với sáu thức trước, cho nên gọi chết ngất trầm trọng, hoặc nói các duyên đó đều là thiếu phần của xúc.
Trừ năm trường hợp trên đó, ư thức thường hiện khởi.
Hỏi: - Ngay trong khi sanh và chết cũng không có ư thức, tại sao chỉ nói năm trường hợp trên, ư thức không hiện hành?
- Có ư kiến cho rằng chính khi chết và khi sanh cũng đều không có ư thức, mà chữ "cập" và chữ "dữ" trong bài Tụng là nói rơ điều đó?
Đáp: - Kia nói thế không đúng, v́ sao? V́ Thánh giáo chỉ nói có sáu trường hợp vô tâm mà thôi. Đó là năm trường hợp đă nêu trên và Vô dư Niết bàn. nên nói khi chết khi sanh, nhiếp thuộc về khi chết ngất làm một, v́ tâm khi sanh và chết là ở trường hợp rất muộn tuyệt vậy. Tuy nói chữ "cập" chữ "dữ" chính là hiển thị năm trường hợp vô tâm, khỏi bị lẫn lộn. Trong đây hiển rơ sau khi sáu thức đoạn, th́ dựa vào tự chủng của nó nơi bản thức mà khởi trở lại, do đó mà không cho năm trường hợp vô tâm này là nhập Vô dư y Niết bàn (Vô dư y Niết bàn th́ không khởi lại ư thức).
Trong năm trường hợp vô tâm trên, kẻ dị sanh có bốn, trừ Diệt định; Thánh, chỉ có ba trường hợp sau; trong đó Như Lai và Tự tại Bồ tát chỉ c̣n một trường hợp sau hết là Diệt tận định, chứ không có thùy miên, muộn tuyệt.
Cho nên tám thức nơi các hữu t́nh, có thức thứ tám và thứ bảy là thường cùng chuyển một lần, nếu khởi thức thứ sáu th́ có ba thức cùng khởi đó là thức sáu, bảy, tám. C̣n năm thức kia tùy theo duyên hợp mà khởi lên từ một đến năm, thời có bốn thức cũng chuyển (đó là Nhăn thức, Ư thức, Mạt na, Đệ bát. Nhĩ thức khởi cũng như vậy), cho đến có tám thức cùng chuyển.
Đây là lược nói nghĩa các thức cùng khởi sanh.
Hỏi: - Nếu một hữu t́nh mà có nhiều thức cùng chuyển hiện một lần th́ tại sao nói đó là một hữu t́nh?
Đáp: - Nếu dựa theo thức khởi lên nhiều ít mà lập hữu t́nh, th́ theo Ông, người ở trường hợp vô tâm là không phải hữu t́nh sao? Lại trong trường hợp có một phần tâm của cơi khác hiện ra, tại sao chỉ có thể nói là tự phần hữu t́nh (như ở cơi Người mà trong tâm họ khởi lên niệm ác của địa ngục, sao không gọi người đó là hữu t́nh địa ngục, mà chỉ gọi họ là người?) Nhưng lư do lập hữu t́nh là dựa nơi mạng căn hoặc Dị thục thức (quả báo thức), đều không trái lư; v́ mạng căn và thức Dị thục đều thường có, và chỉ có một (thành một hữu t́nh).
Hỏi: - Một thân chỉ một đối Đẳng vô gián duyên (chỉ một thân mà niệm trước làm duyên cho niệm sau, tạo thành tiếp nối một loại thân), vậy tại sao cùng lúc lại có nhiều thức chuyển hiện?
Đáp: - Đă chấp nhận một Đẳng vô gián duyên dẫn ra nhiều Tâm sở niệm sau, th́ tại sao lại không chấp nhận một Đẳng vô gián duyên này có thể dẫn ra nhiều Tâm vương? Lại ai nhất định nói Đẳng vô gián duyên chỉ có một? Nhưng nói nhiều thức cùng sanh th́ phải chấp nhận có nhiều Đẳng vô gián duyên. Lại như muốn cùng một lúc tiếp nhận được nhiều cảnh, nhiều cảnh hiện ra, làm sao không kíp nhận. V́ các căn và các cảnh có sự ḥa hợp ngang nhau, mà thức th́ sanh trước sanh là không đúng lư. Lại như thế tính các Tâm sở tuy không khác nhau nhưng thể loại thiện ác khác nhau, đă chấp nhận có nhiều tâm cùng sanh, th́ tại sao không chấp nhận Tâm vương có các thể loại Tâm sở khác nhau vẫn được cùng sanh một lần? Lại như sóng trong nước, bóng trong gương, chỉ dựa nơi một nước và một gương mà khởi lên nhiều thứ, cho nên dựa một Tâm vương mà nhiều thức cũng khởi cũng thế. Lại nếu không chấp nhận ư thức cùng khởi với năm thức, th́ năm thức tiếp nhận cảnh sở duyên không thể rơ ràng, như khi ư thức tán loạn, duyên vật đă diệt mất từ lâu.
Hỏi: - Tại sao cùng khởi với năm thức chỉ một ư thức, mà đối với sắc, thanh v.v... lại có thể tiếp nhận một thứ hoặc nhiều thứ?
Đáo: - Như Nhăn thức v.v... mỗi mỗi đối với cảnh của riêng ḿnh mà tiếp nhận một thứ hoặc nhiều thứ, th́ có lỗi ǵ? V́ kiến phần và tướng phần của sáu thức đều có nhiều thứ.
Hỏi: - Tại sao các thức đồng thể loại với nhau mà không cùng sanh khởi (trong một sát na không hai thức đồng loại khởi lên) duyên một cảnh?
Đáp: - Đối với cảnh sở duyên, nếu có thể nhận rơ th́ một thức đă có thể nhận rơ rồi, các thức khác không dùng nữa.
Hỏi: - Nếu vậy, năm thức đă nhận rơ cảnh của riêng ḿnh, cần ǵ có ư thức cùng khởi mới nhận rơ?
Đáp: - Ngũ câu ư thức c̣n giúp cho năm thức khởi, chứ không phải chỉ một việc nhận rơ cảnh của năm thức duyên. Lại ư thức đối với cảnh sở duyên của năm thức có thể nhận biết rơ ràng khác với năm thức, cho nên không phải vô dụng. Do đó Thánh giáo nói ư thức gọi là có phân biệt, c̣n năm thức th́ không.
Hỏi: - Nhiều thức cùng khởi sao không tương ưng nhau (như Tâm, Tâm sở tương ưng nhau)?
Đáp: - V́ không phải đồng một cảnh. Giả sử đồng một cảnh th́ chỗ nương căn và thể loại của thức này thức kia khác nhau (như năm thức nương năm căn mà ư thức chỉ nương ư căn, năm thức tương ưng ba mươi bốn Tâm sở mà ư thức th́ tương ưng năm mươi mốt Tâm sở). Vậy năm thức cùng năm căn tuy đồng duyên một cảnh song không tương ưng nhau.
- Tự tánh tám thức không thể nói nhất định là một, v́ hành tướng (kiến phần), chỗ nương (căn), cảnh sở duyên và Tâm sở tương ưng khác nhau. Lại một thức này diệt, các thức khác không diệt, v́ tướng năng huân và sở huân khác nhau. Nhưng cũng không phải nhất định là khác, v́ kinh nói tám thức như nước và sóng b́nh đẳng không sai khác (thức thứ tám như nước, bảy chuyển thức như sóng). Nếu tám thức nhất định khác nhau th́ không phải là tính nhân quả của nhau. Tám thức là y tha khởi, ví như sự huyễn, không có tánh nhất định.
Như trước đă nói thức tướng sai biệt là dựa theo lư thế tục mà nói, chứ không phải theo lư chơn thắng nghĩa; v́ trong lư chơn thắng nghĩa th́ tâm và ngôn đều dứt. Như bài tụng trong kinh Lăng già nói:
Tâm, ư, thức tám thứ,
Do tục, tướng có khác,
Do chơn, tướng không khác,
Tướng, sở tướng đều không.
Trên đă phân biệt rộng tướng của ba năm biến, làm chỗ nương cho hai phần Kiến, Tướng mà nó biến ra. Làm sao biết nương nơi tướng của thức biến, giả nói là ngă, là pháp, chứ ngă pháp đó không có thực thể riêng và do đó mà hết thảy duy có thức ư?
Tụng rằng:
Các thức ấy chuyển biến,
Phân biệt, bị phân biệt,
Do kia, đây đều không,
Nên hết thảy Duy thức.
Luận rằng: Các thức ấy, là ba thức năng biến và Tâm sở của nó như đă nói trước, chúng đều có thể biến ra tương tợ hai phần Kiến và Tướng, đó gọi là chuyển biến. Kiến phần được biến ra, gọi là phân biệt, v́ có khả năng nhận biết tướng phần. Tướng phần được biến ra, th́ gọi là bị phân biệt, v́ là tướng của Kiến phần nhận biết.
Do lư nghĩa chính đáng đó, mà biết ngă và pháp kia ĺa khỏi sự biến hiện của thức, th́ đều nhất định không có. V́ ĺa khỏi năng thủ (Kiến phần) và sở thủ (Tướng phần) th́ không có riêng vật ǵ được. Không thể có một thật vật ǵ ĺa khỏi tướng năng thủ, sở thủ đó. Cho nên hết thảy pháp Hữu vi (Sắc, Tâm, Tâm sở, Bất tương ưng hành), Vô vi (Hư không vô vi v.v... ) hoặc thật (sắc, tâm), hoặc giả (Bất tương ưng hành) đều không ĺa khỏi thức.
Chữ "Duy" chỉ để ngăn các thật vật ĺa ngoài thức, chứ không phải để ngăn luôn Tâm sở pháp v.v... không ĺa thức (Duy là ngăn ngoại cảnh chẳng phải có), Thức là biểu thị Tâm, Tâm sở chẳng phải không).
Hoặc chữ "chuyển biến" có nghĩa là nội thức chuyển hiện ra tướng ngă pháp tương tợ như là cảnh bên ngoài. Chính khả năng chuyển biến đó, gọi là phân biệt, v́ lấy hư vọng phân biệt làm tự tánh, đó chính là Tâm và Tâm sở trong ba cơi.
Cảnh được chấp đó, gọi là phân biệt, tức là ngă và pháp bị vọng chấp cho là thật có. Do tánh phân biệt đó biến ra giả ngă, giả pháp tợ như là cảnh bên ngoài, chứ thật ngă và thật pháp bị phân biệt chấp trước kia quyết định đều là không có. Trước kia đă dẫn giáo và lư để phá điều đó. Thế nên hết thảy duy có thức, chỉ do hư vọng phân biệt mà có thôi, điều đó đă cực thành.
Chữ "Duy đă không ngăn những pháp không ĺa thức, vậy chơn không v.v... cũng là có, mà không ĺa thức.
Do đó xa ĺa bệnh chấp trước nhị biến là chấp tăng và chấp giảm, nên nghĩa lư Duy thức được thành tựu, khế hợp Trung đạo.
Hỏi: - Do giáo lư ǵ mà nghĩa lư Duy thức được thành lập?
Đáp: - Điều đó, đă chẳng nói rồi sao?
Hỏi: Tuy nói mà chưa rơ, v́ không phải chỉ phá nghĩa lư của người khác, mà nghĩa lư của ḿnh tự nhiên được thành. Hăy nên tŕnh bày xác đáng thêm để thành lập giáo lư Duy thức này.
Đáp: - Khế kinh nói: "Ba cơi duy tâm"; lại nói: "Các cảnh sở duyên đều Duy thức biến hiện"; lại nói: "Các pháp đều không ĺa tâm", lại nói" "Hữu t́nh cấu hay tịnh là do tâm"; lại nói: "Hàng Bồ tát thành tựu được bốn trí, th́ có thể tùy theo đó ngộ nhập lư Duy thức vô cảnh". Bốn trí đó là:
1. Tương vi thức tướng trí – Túc trí biết về tướng mâu thuẫn nhau giữa các thức. Nghĩa là như đối nơi một cảnh mà quỷ, người trời theo nghiệp sai khác, nh́n thấy khác nhau (như đồng một cảnh mà quỷ thấy là máu,người thấy là nước, trời thấy là lưu ly). Cảnh nếu thật có, th́ tại sao lấy khác nhau như vậy?
2. Vô sở duyên thức trí - Tức trí biết về thức duyên vô cảnh. Như khi duyên cảnh tượng quá khứ, vị lại và cảnh trong mộng, nó không phải cảnh thật mà thức vẫn hiện thấy có. Cảnh kia đă không mà vẫn thấy có, th́ các cảnh khác trong hiện tại cũng vậy.
3. Tự ưng vô đảo trí - Tức trí biết về trí kẻ ngu tự không điên đảo. Như nếu trí kẻ ngu duyên đúng được cảnh thật, th́ trí đó tự nhiên là trí không điên đảo, họ không cần phải dụng công tu vẫn được giải thoát. (Ư nói nếu ngă pháp có thật th́ người nào thấy có ngă pháp là người thấy đúng, không điên đảo. Đă không điên đảo th́ họ không cần ǵ phải tu dứt ngă chấp để cầu giải thoát).
4. – Tùy ba trí chuyển trí. Đó là:
a. Tùy tự tại giả trí chuyển trí - Tức người đă chứng đắc tâm tự tại, tùy họ muốn chuyển biến đất thành nước, nước thành lửa đều được. Cảnh nếu thật có, th́ làm sao chuyển biến được như thế.
b. Tùy quán sát giả trí chuyển trí - Tức người tu pháp quán đă đắc thắng định, tùy họ quán một cảnh mà hiện ra nhiều tướng vẫn được. Cảnh nếu có thật th́ làm sao lại chuyển cảnh theo tâm được như vậy?
c. Tùy vô phân biệt trí - Tức khi khởi lên trí vô phân biệt chứng thật lư chơn như, th́ mọi cảnh tướng thông thựng không c̣n hiển hiện. Cảnh nếu có thật, th́ tại sao khi đó nó không hiển hiện?
Bồ tát thành tự bốn trí nêu trên th́ quyết chắc ngộ nhập lư Duy thức.
Lại tụng nói:
Sở duyên của tâm ư thức,
Đều không ĺa tâm tự tánh.
Cho nên Ta nói hết thảy,
Chỉ có thức, không ǵ khác.
Những Thánh giáo như thế để chứng minh không phải một. Cực thành nhăn thức v.v... v́ là một trong năm thức, ví như các thức kia, không thân duyên được ǵ ngoài sắc cảnh của riêng nó. Các thức khác, v́ là thức, ví như nhăn thức, cũng không thân duyên được ǵ ngoài các pháp của riêng nó. Tướng phần thân sở duyên của sáu thức quyết định không ĺa ngoài sáu thức, v́ nó nhiếp vào một trong hai phần Kiến, Tướng, ví như Kiến phần duyên kia. Pháp sở duyên ví như pháp tương ưng (Tướng phần), quyết định không ĺa Tâm và Tâm sở.
Những giáo lư chơn chánh để chứng minh cho nghĩa lư Duy thức như thế, không phải chỉ có một. Cho nên, nên thêm tín thọ lư Duy thức: "Ngă và pháp chẳng phải có, mà chơn không và chơn thức năng duyên chẳng phải không. Ĺa có ĺa không, một khế hợp Trung đạo". Từ tôn Di lặc nương lẽ đó mà nói hai bài tụng rằng:
Hư vọng phân biệt có (do hư vọng phân biệt mà có Kiến tướng).
Nơi đây, hai đều không (Nơi Kiến tướng, ngă pháp đều không).
Trong đây, chỉ có không (Trong y tha Kiến tướng đó, chỉ có chơn không vô ngă).
Nơi đó, cũng có đây (Trong chơn không vô ngă cũng có Y tha kiến tướng).
Nên nói hết thảy pháp (hữu vi vô vi).
Chẳng không, chẳng không không (Có Y tha nên chẳng không, không Biến kế nên chẳng có).
Có không và có vậy (Có cả không và có).
Thế thời khế Trung đạo.
Bài tụng này là chỉ dựa vào mặt nhiễm phần Y tha khởi mà nói. Đúng lư cũng có tịnh phần Y tha khởi.
Hỏi: Nếu chỉ do nội thức hiện ra tương tợ như cảnh bên ngoài, th́ tại sao hiện thấy trong thế gian loài hữu t́nh và phi t́nh có nơi chốn và thời gian quyết định? Thân phần và tác dụng không quyết định?
Đáp: - Ví như cảnh mộng v.v... là điều để giải thích chỗ nghi này.
Hỏi: - Duyên ǵ đức Thế Tôn nói mười hai xứ?
Đáp: - Mười hai xứ nương nơi thức được biến hiện, không phải thật có riêng. V́ dẫn người ngộ nhập lư ngă không mà đức Thế Tôn nói mười hai xứ, giống như để ngăn ngừa chấp đoạn kiến mà nói loài hữu t́nh tương tục. Lại v́ dẫn người ngộ nhập lư pháp không nên lại nói lư Duy thức, khiến họ biết ngoại pháp cũng chẳng phải thật có.
Hỏi: - Tánh Duy thức này, há chẳng phải cũng không như ngă pháp?
Đáp: - Không phải vậy.
Hỏi: - Không phải vậy th́ thế nào?
Đáp: - Thức tánh không phải là pháp của vọng t́nh chấp. Nghĩa là dựa vào ngă pháp do thức biến, lấy lư suy xét th́ ngă pháp ấy trống rỗng không thể nắm bắt được, nên nói là pháp không, chứ không phải bảo không có "tánh Duy thức" do chánh trí ly ngôn chứng nhập,
mà nói là pháp không; v́ thức này nếu không có, th́ không có tục đế, nếu tục đế không có th́ chơn đế cũng không; v́ chơn tục dựa nhau mà kiến lập. Nếu bác không có hai đế, là ác thủ không, chư Phật nói đó là hạng người không thể chữa trị. Nên biết các pháp có không và bất không. Do đó đức Từ Tôn nói hai bài tụng trên kia.
Hỏi: - Nếu các sắc cũng lấy thức làm thể tánh, thi tại sao nó lại tương tợ hiện ra như một loại sắc tướng kiên cố tương tục?
Đáp: - Đó là do thế lực của ḿnh của danh ngôn huân tập mà khởi lên, nó làm chỗ nương cho pháp nhiễm và tịnh. Nghĩa là sắc tướng này nếu không có, th́ không có điên đảo vọng chấp, đă không có điên đảo vọng chấp th́ không có tạp nhiễm, cũng không có pháp thanh tịnh. Thế nên các thức cũng hiện ra sắc tương tợ. Như có bài tụng nói:
Loạn tướng và loạn thể,
(sắc tướng sở biến và tâm thể năng biến)
Nên nhận là sắc thức, (loạn tướng)
Và chẳng phải sắc thức, (loạn thể)
Nếu không, cái khác không
(cái này không cái kia không).
Hỏi: - Ngoại cảnh và sắc thanh v.v... hiện thấy rơ ràng, hiện lượng nhận biết được, tại sao bảo là không có?
Đáp: - Khi hiện lượng nhận biết th́ không chấp nó là vật ở ngoài, sau đó ư thức khởi lên phân biệt mới tưởng lầm cho nó ở ngoài. Cho nên cảnh hiện lượng là tự tướng phần bởi thức biến hiện, cũng nói nó là có, nhưng v́ ư thức vọng chấp nó là sắc thật có bên ngoài, đó là vọng chấp có, nên mới nó là không.
Lại cảnh sắc, thanh v.v... là không phải sắc, thanh mà tợ như sắc, thanh, không phải ở ngoài thức mà tợ như ở ngoài. Như cảnh thấy trong mộng, không thể chấp đó là cảnh sắc bên ngoài thật.
Hỏi: - Nếu sắc thấy được trong khi đang thức đều như cảnh trong mộng, không ĺa khỏi thức, cũng như khi từ mộng tỉnh dậy liền biết sắc đó là duy tâm, thế th́ cớ ǵ khi đang thức đây mà đối với cảnh sắc của ḿnh duyên, lại không biết đó là Duy thức?
Đáp: - Giống như mộng chưa tỉnh, không thể tự biết, phải đợi đến khi tỉnh thức mới truy biết đó là cảnh trong mộng. Nên biết cảnh sắc trong khi đang thức đây cũng vậy, nếu chưa đến địa vị thật giác ngộ th́ không thể biết, phải đợi đến khi thật giác ngộ, mới có thể truy giác cảnh khi thức; c̣n chưa đến địa vị thật giác ngộ th́ vẫn như người ở trong mộng. Cho nên đức Phật nói đó là sống chết trong đêm trường, do đó mà chưa nhận rơ lư sắc cảnh Duy thức.
Hỏi: -Ngoại sắc thật không, có thể không phải là cảnh của nội thức, c̣n tha tâm (tâm ngườ́ khác) thật có, sao lại không phải là cảnh sở duyên của tự thức?
Đáp: - Ai nói tha tâm không phải là cảnh sở duyên của tự thức? Chỉ không nói nó là thân sở duyên, nghĩa là khi trên tự thức sanh tướng phần tha tâm, tâm đó không thật có tác dụng, không như tay đích thân cầm được ngoại vật, hay như mặt trời tỏa ánh sáng chiếu đến ngoại cảnh, mà chỉ như trong gưong có cảnh hiện ra như cảnh bên ngoài, gọi là biết tha tâm (tha tâm trí) chứ không phải trực tiếp biết được. Cái trực tiếp biết được là tướng do thức biến ra, cho nên Khế kinh nói: "Không có tí pháp nào có thể trực tiếp nhận biết tí pháp nào cả, chỉ khi thức sanh, tợ như có tướng vật kia hiện ra, gọi à nhận biết vật kia. Giống như duyên tha tâm, duyên sắc v.v... cũng thế.
Hỏi: Đă có tâm người khác ở ngoài làm cảnh duyên cho tâm người này, th́ sao gọi là Duy thức?
Đáp: -Lạ thay tánh cố chấp, gặp đâu sanh nghi đó! Đâu phải Duy thức giáo chỉ có thức của một người!
Hỏi: - Không vậy th́ thế nào?
Đáp: - Ông nên nghe cho kỹ, nếu chỉ có thức của một người th́ làm sao có mười phương phàm Thánh, tôn ti, nhân quả khác nhau? Ai nói cho ai? Pháp ǵ cầu ǵ? Cho nên nói Duy thức là có ư thú sâu xa.
Nói "Thức" là tổng quát chỉ rơ hết thảy hữu t́nh mỗi mỗi đều có tám thức, sáu vị Tâm sở, Tướng phần, Kiến phần được biến ra, phận vị sai khác và chơn như do lư không hiển lộ. Đó là tự tướng của thức (Tâm vương), tương ưng của thức (Tâm sở), sắc tướng được biến của Tâm, Tâm sở phận vị sai khác của thức (Bất tương ưng hành), thật tánh của bốn pháp sắc Tâm, Tâm sở, Bất tương ưng (vô vi). Những pháp như thế đều không rời thức, tổng quát lại gọi là Duy thức.
Chữ "Duy" là cốt ngăn kẻ phàm phu chấp nhất định có sắc ĺa ngoài thức.
Nếu biết rơ về ư chỉ của Duy thức giáo như thế, th́ có thể không bị điên đảo, khéo chuẩn bị tư lương, mau ngộ nhập lư pháp không, chứng bậc Vô Thượng Giác, cứ vớt kẻ hàm thức khỏi sanh tử luân hồi, chứ không phải hạng người ác thủ không, bác không tất cả, trái nghịch với giáo lư, mà có thể thành tựu những việc ngộ độ sanh như thế. Thế nên nhất định nên tin hết thảy đều Duy thức.
- Nếu chỉ có thức, hoàn toàn không có ngoại duyên, thi do đâu mà thức sanh ra nhiều sự phân biệt?
Tụng rằng:
Do thức Nhất thiết chủng,
Biến như vậy như vậy,
V́ năng lực triển chuyển,
Kia kia phân biệt sanh.
Luận rằng: Thức Nhất thiết chủng là chỉ cho công năng sai biệt ở trong bản thức, nó có khả năng sanh ra tự quả. Công năng sai biệt ấy sanh ra quả đẳng lưu, dị thục, sĩ dụng và tăng thượng; thế nên gọi là Nhất thiết chủng. Trừ quả ly hệ (giải thoát) là không phải do chủng tử sanh, v́ phải nhờ đạo vô lậu phát khởi dứt hết kiết sử mới chứng đắc quả ly hệ. Đạo vô lậu, tuy từ chủng tử vô lậu sanh, song đối với quả ly hệ chỉ có nghĩa triển chuyển, nhưng không phải là ư chính được nói trong bài tụng đây. V́ ở đây chỉ nói chủng tử có khả năng sanh ra phân biệt, nó lấy bản thức làm thể, nên lập tên là Chủng tử thức; v́ chủng tử ĺa bản thức th́ không có tự tánh riêng.
Hai chữ "Chủng thức" là giản biệt thức không phải chủng, không phải thức, v́ có thứ thức mà không phải chủng (như hiện thức), có thứ chủng mà không phải thức (như hạt giống). Lại nói "Chủng thức" là hiển thị chủng tử ở trong bản thức, chứ không phải chỉ cho cái thức chấp tŕ chủng tử, sau sẽ nói rơ.
Chủng tử ở trong thức ấy nhờ các duyên của các hiện thức trợ giúp bèn chuyển ra như thế. Nghĩa là từ vị trí sanh chuyển biến đến vị trí thành thục, để nói rơ số chủng tử chuyển biến đó có nhiều, cho nên nói hai lần như thế, như thế. Nghĩa là tất cả chủng tử nhiếp hết vào ba thứ huân tập (là danh ngôn, ngă chấp, hữu chi) cộng (chủng tử y báo) và bất cộng (chủng tử chánh báo), tức gom hết chủng tử của thức.
Năng lực triển chuyển là tám hiện thức (tám thức hiện hành) và Tướng phần; Kiến phần của Tâm sở tương ưng với nó, chúng nó đều có năng lực tương trợ lẫn nhau. Chính tám hiện thức v.v... gọi chung là phân biệt, v́ hiện thức lấy hư vọng phân biệt làm tự tánh. Phân biệt có nhiều chủng loại Tâm vương có, Tâm sở có, cho nên tụng nói là "kia kia".
Ư bài tụng này nói tuy không có ngoại duyên, nhưng do trong bản thức có hết thảy chủng tử chuyển biến sai biệt và do năng lực triển chuyển của tám thức hiện hành mà các phân biệt kia được sanh, chớ đâu cần có ngoại duyên mới khởi lên phân biệt. Các tịnh pháp được khởi lên, nên biết cũng giống thế, do chủng tử vô lậu và có thức vô lậu hiện hành làm duyên mà sanh khởi vậy.
- Bài tụng trên đă nói chủng tử và hiện hành đều làm duyên sanh ra thức phân biệt. Làm sao biết được tướng duyên sanh đó?
- Duyên có bốn thứ:
1. Nhân duyên – Nghĩa là pháp hữu vi trực tiếp sanh ra quả của chính nó, có hai là chủng tử và hiện hành.
Chủng tử - Nghĩa là các công năng sai biệt của thiện, nhiễm, vô kư và các cơi, các địa ở trong bản thức, nó có khả năng dẫn ra công năng cùng loại kế tiếp (chủng sanh chủng) và đồng thời khởi lên hiện quả cùng loại (chủng sanh hiện). Đây chỉ trông với kia mới là tánh nhân duyên (nghĩa là chỉ chủng tử sanh chủng tử, chủng tử sanh hiện hành mới là nhân duyên).
Hiện hành – Nghĩa là bảy chuyển thức và Tâm sở tương ưng với nó biến ra Tướng phần, Kiến phần, ba tánh, ba cơi, bốn địa v.v... Trừ thiện pháp của Phật quả và tánh vô kư quá yếu là không huân bản thức, c̣n tất cả các thứ hiện hành khác như bảy chuyển thức v.v... đều có thể huân sanh chủng tử cùng loại nơi bản thức. Chuyển thức đây chỉ trong đến chủng tử cùng loại của nó mới là tánh nhân duyên (đây nghĩa là hiện hành huân chủng tử cũng là tánh nhân duyên).
Hỏi: - Thức thứ tám sao không năng huân mà chỉ là sơ huân?
Đáp: - Tâm phẩm thứ tám nếu là năng huân, thi không c̣n có cái ǵ làm sở huân.
Hỏi: - Ba tánh, ba cơi, chín địa, làm sao cũng là năng huân?
Đáp: - V́ không phải riêng thức thể tự chứng phần là chỗ nương của các thứ đó mới là năng huân.
Hỏi: - Tại sao thiện pháp của Phật quả và vô kư yếu kém không huân tập?
Đáp: - V́ tánh vô kư quá yếu kém. Phật quả quá viên măn, cho nên không huân thành chủng tử.
Pháp hiện hành đồng loại, triển chuyển trông nhau (như hiện hành nhăn thức đối hiện hành nhăn thức) đều chẳng phải là nhân duyên, v́ mỗi thứ đều từ chủng tử riêng sanh. Pháp hiện hành khác loại, triển chuyển trông nhau cũng chẳng phải nhân duyên, v́ không phải thân sanh ra nhau.
- Có thuyết cho đồng loại, dị loại hiện hành, triển chuyển trông nhau đều làm nhân duyên cho nhau. Nên biết đó chỉ là giả nói; hoặc nói theo môn tùy chuyển.
- Có thuyết chỉ nói chủng tử là nhân duyên, đó là dựa chỗ mạnh của chủng tử mà nói (chứ hiện hành chủng tử cũng là nhân duyên) chưa phải hết lư.
- Thánh giáo nói chuyển thức và A lại da thức triển chuyển làm nhân duyên cho nhau.
2. Đẳng vô gián duyên – Nghĩa là tám hiện thức (tám thức hiện hành) của nó, nhóm trước đối với nhóm sau tự loại b́nh đẳng không gián đoạn mà mở đường để cho nhóm sau được sanh ra.
Nhiều chủng tử Tâm, Tâm sở đồng loại cùng khởi một lần, nếu như không tương ưng, là không phải Đẳng vô gián duyên. Do đó tám thức không phải làm Đẳng vô gián duyên cho nhau. Chỉ Tâm, Tâm sở tuy thường cùng khởi, nhưng tương ưng nhau ḥa hợp như một, không thể thi thiết cách ĺa sai khác, cho nên được làm Đẳng vô gián duyên cho nhau.
Tâm tối hậu nhập Vô dư y Niết bàn, hết sức yếu kém, không có công dụng mở đường, lại không c̣n có pháp Đẳng vô gián sẽ khởi lên, cho nên không phải thuộc duyên Đẳng vô gián này.
Làm sao biết như vậy? V́ Luận có nói: "Nếu thức trước b́nh đẳng không gián đoạn, th́ thức sau b́nh đẳng quyết định được sanh ra", tức nói thức trước làm Đẳng vô gián duyên cho thức sau. Chính do nghĩa này nên nói thức A đà na ở trong ba cơi, chín địa đều có thể đắp đổi làm duyên Đẳng vô gián cho nhau, v́ cơi dưới, cơi trên chết sống, mở đường cho nhau; Tâm hữu lậu vô gián có tâm vô lậu sanh; c̣n tâm vô lậu nhất định không sanh tâm hữu lậu; v́ trí Đại viên cảnh khi đă sanh khởi rồi th́ chắc chắn không đoạn mất. Thiện và vô kư đối với nhau cũng thế (vô kư Dị thục thức sanh thiện vô cấu thức, chứ thiện vô cấu thức không sanh vô kư Dị thục thức).
Hỏi: - Thức thứ tám này, ở cơi nào mà sau đó từ tâm hữu lậu dẫn sanh tâm vô lậu?
Đáp: - Hoặc từ cơi Sắc, hoặc thân cuối cùng ở cơi Dục, nghĩa là kẻ dị sanh phát tâm cầu Phật quả, nhất định sau khi sanh cơi Sắc th́ tâm hữu lậu dẫn sanh tâm vô lậu, sau đó chắc chắn sanh lên cung Đại Tự Tại ở cơi trời Tịnh Cư, chứng được Bồ đề. Nếu hàng Nhị thừa vô học hồi tâm hướng về đại Bồ đề, th́ nhất định khi thân cuối cùng ở cơi Dục dẫn sanh tâm vô lậu, v́ sau khi hồi tâm, c̣n lưu lại sanh thân chỉ ở cơi Dục. Vị ấy tuy chắc chắn sanh lên cung trời Đại Tự Tại mới được thành Phật, nhưng do sức bản nguyện mà lưu lại sanh thân th́ là ở cơi Dục.
- Có ư kiến cho rằng ở cơi Sắc cũng có hàng Thanh Văn hồi tâm hướng về Đại thừa nguyện lưu lại sanh thân, điều này đă không trái với giáo lư. Thế nên thức đệ bát vô lậu nơi hàng Thanh Văn cũng được hiện tiền cuối cùng của cơi Sắc.
Nhưng Thánh giả ở trời Ngũ Tịnh Cư th́ không có hồi tâm Đại thừa, v́ không thấy kinh nào nói Thánh giả Ngũ Tịnh Cư phát tâm Đại thừa.
- Chuyển thức thứ bảy ở trong ba cơi, chín địa cũng được đắp đổi làm duyên Đẳng vô gián cho nhau, v́ nó hệ thuộc theo thức thứ tám sanh ở chỗ nào, th́ tâm hữu lậu (có ngă pháp), vô lậu (có B́nh đẳng tánh trí) cũng được đắp đổi cho nhau, v́ ở trong mười địa được dẫn sanh cho nhau.
Thiện và vô kư, trông qua nhau cũng thế. Ở trong vô kư, nhiễm và không nhiễm, cũng mở đường cho nhau, v́ trí quả về sanh không, ở trong địa vị trước và địa vị sau được dẫn ra nhau.
Đây là ở cơi Dục, cơi Sắc, tâm hữu lậu cũng sanh tâm vô lậu, chứ không phải ở cơi Vô sắc, v́ hàng Bồ tát địa thượng không sanh đến ở cơi Vô sắc.
- Chuyển thức thứ sáu ở trong ba cơi, chín địa, tâm hữu lậu, vô lậu, thiện, bất thiện v.v... mỗi mỗi đắp đổi làm duyên Đẳng vô gián cho nhau, v́ v́ ở địa vị nhuận sanh vào cơi này và địa kia, lại dẫn sanh nhau.
Bắt đầu khởi tâm vô lậu, chỉ sau khi sanh cơi Sắc, v́ thiện pháp thuộc Quyết trạch phần (chỉ cho bốn gia hạnh vị là Noăn, Nhẫn, Đẳng, Thô đệ nhất) chỉ có ở cơi Sắc.
Ba thức Nhăn, Nhĩ, Thân chỉ có ở hai cơi Dục, Sắc, với hai địa là Ngũ thú tạp cư và Sơ Thiền. C̣n hai thức tỉ, thiệt chỉ có ở một cơi Dục và Ngũ thú tạp cư địa, th́ tự loại mỗi thức đắp đổi làm duyên Đẳng vô gián cho nhau. Thiện v.v... trông qua nhau nên biết cũng có duyên Đẳng vô gián.
- Có ư kiến cho rằng ngũ thức hữu lậu và vô lậu, tự loại đắp đổi làm duyên Đẳng vô gián cho nhau, v́ khi chưa thành Phật nó được đắp đổi khởi lên.
- Có ư kiến cho rằng sau ngũ thức hữu lậu khởi lên ngũ thức vô lậu, chứ không phải sau ngũ thức vô lậu khởi lên ngũ thức hữu lậu; v́ ngũ thức vô lậu, trừ Phật, người khác không thể có; v́ năm sắc căn của người đang ở nhân vị nhất định là hữu lậu, nó nhiếp thuộc về Tướng phần của Dị thục thức. Năm căn hữu lậu là chỗ dựa riêng của năm thức, chắc chắn cùng đồng cảnh, vậy năm căn hữu lậu mà phát ra năm thức vô lậu, là không hợp lư; v́ năm căn vô lậu phát ra năm thức vô lậu đối với cảnh th́ sáng, cón năm căn hữu lậu phát ra năm thức hữu lậu đối với cảnh th́ mở, hai bên khác nhau.
3. Sở duyên – Nghĩa là nếu có thật pháp và là có tướng được mang theo, Tâm và Tâm sở lấy đó làm chỗ dựa để phát sanh và làm đối tượng tư lự, th́ gọi là Sở duyên duyên. Thể nó có hai: 1. Thân. 2. Sơ. Nếu Tướng phần cùng với Kiến phần đồng một thể nương tựa không rời nhau, đó là đối tượng tư lự và chỗ dựa bên trong của Kiến phần, th́ nên biết đó là Thân sở duyên duyên. Nếu bản chất cùng với Kiến phần năng duyên tuy rời nhau nhưng mượn làm thật chất mà phát khởi thành đối tượng cho tư lự và làm chỗ dựa cho Kiến phần bên trong, th́ đó là Sơ sở duyên duyên.
Thân Sở duyên duyên là tướng của tâm năng duyên, quyết định khi nào cũng có, v́ nếu ĺa chỗ dựa và đồng thời làm đối tượng tư lự đó, th́ tâm năng duyên không thể phát sanh. C̣n Sơ sở duyên duyên th́ đối với tâm năng duyên hoặc có, hoặc không không nhất định. V́ ĺa cảnh làm chỗ dựa và sở duyên bên ngoài, th́ tâm năng duyên cũng vẫn phát sanh.
- Về Tâm phần thứ tám – Có ư kiến cho rằng nó chỉ có Thân sở duyên duyên, v́ nó tùy theo năng lực của nghiệp nhân câu sanh nhậm vận biến ra Tướng phần mà duyên, chứ không cần phải dựa vào bản chất bên ngoài rồi mới biến duyên.
- Có ư kiến cho rằng thức thứ tám cũng có Sơ sở duyên duyên, v́ cần phải nhờ cái khác biến ra bản chất, rồi nó mới vin theo đó mà biến ra Tướng phần để duyên.
- Có ư kiến cho rằng hai thuyết trên đều không đúng lư, v́ tự thân, tha thân, tự độ, tha độ, đều có thể thọ dụng lẫn nhau; v́ thân hoặc độ do thức thứ tám của người khác biến ra lại làm bản chất cho người này duyên, c̣n chủng tử của người này đối với người khác th́ không có ích dụng ǵ, người này cũng biến ra chủng tử của người khác, là không có lư; v́ không phải các hữu t́nh đều có chủng tử ngang nhau.
- Nên nói Tâm phẩm thứ tám (gồm Tâm vương, Tâm sở) có Sơ sở duyên duyên hay không, trong tất cả trường hợp không nhất định.
Tâm phẩm thứ bảy (gồm Tâm vương, Tâm sở Mạt na) ở địa vị chưa chuyển y, v́ nó là câu sanh ngă pháp, nên chắc chắn phải dựa vào Kiến phần đệ bát làm bản chất bên ngoài mới khởi được, cho nên định có Sơ sở duyên duyên, c̣n ở địa vị chuyển y th́ không có Sơ sở duyên duyên, v́ bấy giờ duyên chơn như th́ không có bản chất bên ngoài.
- Tâm phẩm thứ sáu (gồm Tâm vương, Tâm sở ư thức) hành tướng mănh lợi, tự tại chuyển khởi trong mọi trường hợp, bản chất bên ngoài để dựa hoặc có hoặc không, cho nên không nhất định có hay không Sơ sở duyên duyên.
- Tâm phẩm năm thức trước, khi ở địa vị chưa chuyển y, v́ nó thô thiển, đần độn, yếu kém, phải dựa bản chất bên ngoài mà duyên, nên nhất định có Sơ sở duyên duyên; c̣n khi ở địa vị đă chuyển y, th́ không nhất định có Sơ sở duyên duyên, v́ khi này duyên được pháp quá khứ, vị lai không có bản chất bên ngoài.
4. Tăng thượng duyên - Nghĩa là nếu có pháp ǵ mà thế lực công dụng thù thắng có thể hoặc thuận, hoặc nghịch đối với pháp khác, đó gọi là Tăng thượng duyên. Ba duyên trước kia cũng là Tăng thương duyên, nhưng ở duyên thứ tư này là chỉ chung cho tất cả những duyên ǵ c̣n sót lại ngoài ba thứ duyên trên. Đó là tướng khác nhau giữa bốn duyên.
Thế lực công dụng của Tăng thượng duyên có thuận, hoặc nghịch đối với bốn trường sanh, trụ, thành, và đắc khác nhau.
Công dụng Tăng thương duyên đối với sự vật tuy nhiều, nhưng rơ rệt hơn cảnh chỉ hai mươi hai, đó tức là 22 căn (gồm năm sắc căn nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân; nam căn, nữ căn, mạng căn; năm thọ căn là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả; năm thiện căn là tín, tấn, niệm, định, tuệ; ba vô lậu căn là vị tri đương tri, dĩ tri, cụ tri) trong đó năm sắc căn lấy tịnh sắc căn nhăn, nhĩ v.v... được biến hiện từ bản thức làm tự tánh. Nam căn, nữ căn lấy một phần thân căn làm tự tánh. Mạng căn không có tự tánh riêng, chỉ dựa vào phận vị của chủng tử thân sanh nơi bản thức mà giả lập. Ư căn lấy chung cả tám thức làm tự tánh. Năm thức căn lấy mỗi sự lănh thọ riêng làm tánh. Năm căn tín, tấn, niệm, định, tuệ th́ lấy tín v.v... và các thiện niệm làm tánh.
Thế của "Vị trí đương căn" có ba bậc:
a. Bậc căn bản, ở địa vị kiến đạo, trong 15 tâm đầu có Vị tri đưong tri, trừ sát na tâm thứ mười sáu không có Vị tri đương tri (v́ ở tâm thứ mười sáu là thuộc Dĩ tri căn) không c̣n có điều chưa biết sẽ biết.
b. Bậc Gia hạnh, ở địa vị bốn gia hạnh là Noăn, Đănh, Nhẫn, Thế đệ nhất pháp, gần nhất có thể dẫn sanh đến bậc căn bản trên.
c. Bậc tư lương, là từ khi v́ cầu đạt được thấy Tứ đế mà tu hiện quán, phát khởi thiện pháp tối thắng cho đến khi chưa được thuận Quyết trạch phần thuộc gia hạnh vị, trong giai đoạn đó có được thiện căn, gọi là bậc Tư lương (Tư lương vị) v́ thiện căn này có thể xa xôi giúp làm phát sanh bậc Căn bản (Căn bản vị).
Lấy chín căn là tín, tấn, niệm, định, tuệ, ư, hỷ, lạc, và xả trong ba bậc đó hợp lại làm tự tánh của Vị tri đương tri căn. Riêng ở bậc Gia hạnh, Tư lương v́ cầu chứng đưọc pháp thiện thù thắng lúc sau cao hơn mà sầu lo, th́ nó cũng lấy thêm ưu căn làm tự tánh. Nhưng v́ ưu căn không phải là thiện căn chính, cho nên phần nhiều không kể đến.
Những vị ở ba địa Vô sắc trước (tức là Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu) mà có Vị tri đương tri căn này là v́ trong khi ở đệ Tứ Thiền được thắng kiến đạo họ có tu thêm ba định Vô sắc nên có được. Hoặc các vị Nhị thừa hồi tâm hướng Đại thừa, v́ muốn chứng pháp không, nên trước khi vào Thập địa họ cũng khởi lên trí Vô lậu sanh không, nhiếp thuộc chín địa trong ba cơi. Các vi Bồ tát này đều nhiếp thuộc căn Vị tri đương tri căn này. Bồ tát kiến đạo cũng có căn này, nhưng nói ở địa tiền, v́ thời gian kiến rất ngắn.
Bắt đầu từ sát na tối hậu của kiến đạo cho đến Kim cang dụ định (tâm tối hậu của A na hàm, tâm tối hậu của Đẳng Giác, đều gọi là Kim cang dụ định), có được chín Vô lậu như tín, tấn v.v... th́ đều là tánh của Dĩ tri căn. Ông chưa ĺa dục v́ cầu chứng giải thoát cao hơn mà tâm sầu lo, th́ lại có thêm ưu căn. Nhưng ưu căn này không phải thiện căn chính, nên phần nhiều không kể đến.
Các bậc Vô học có đủ chín Vô lậu căn, th́ đó đều là tự tánh của Cụ tri căn. (Cụ tri căn cũng lầy chín Vô lậu căn làm tự tánh).
Ở cơi Hữu Đảnh tuy có duyên quán pháp vô lậu nhưng không được minh lợi, nên không phải là ba Vô lậu căn này.
Hai mươi hai căn có tự tánh như vậy; c̣n các nghĩa môn khác của hai mươi hai căn, nên biết như Luận đă nói.
(Hết cuốn VII của bản Hán)
|