Thành Duy Thức Luận
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang Việt dịch: Ḥa Thượng Thích Thiện Siêu Mùa An cư P.L. 2539 – 1995
-o0o-
QUYỂN 3
- Thức A lại da này cùng với mấy Tâm sở tương ưng?
Thường cùng với Tâm sở xúc, tác ư, thọ, tưởng, tư tương ưng. Nghĩa là thức A lại da từ vô thỉ cho đến khi chưa chuyển thành trí, trong tất cả địa vị, nó thường cùng với năm Tâm sở này tương ưng, v́ thuộc Tâm sở biến hành vậy.
- Xúc tâm sở là khi ba thứ căn, cảnh, thức hoà thuận, xúc phân biệt theo sự biến khác của ba thứ hoà thuận đó, mà khiến Tâm, Tâm sở tiếp xúc cảnh, và có công dụng làm chỗ nương cho Tâm sở thọ, tưởng và tư. Nghĩa là căn, cảnh, thức ba thứ cùng nhau tùy thuận, nên gọi là ba sự ḥa, xúc nương ba thứ ḥa đó phát sanh, khiến ba thứ đó được ḥa hợp. Cho nên nói Tâm sở xúc là vị trí của ba thứ ḥa hợp kia. Ba thứ đều có công năng tùy thuận nhau sanh các Tâm sở, nên gọi là biến khác. Xúc tương tợ với sự biến khác đó mà khởi lên, nên gọi là phân biệt. Nhưng khi căn biến khác có sức dẫn khởi lên xúc mạnh hơn thức và cảnh, cho nên Tập Luận chỉ nói: "Xúc phân biệt theo sự biến khác của căn".
Ḥa hợp tất cả Tâm, Tâm sở khiến đồng tiếp xúc cảnh. Đó là tự tánh của xúc.
Xúc tâm sở đă có công năng tương tợ với ba sự ḥa thuận khởi lên Tâm sở, cho nên lấy sự làm chỗ nương cho Tâm sở thọ v.v... làm nghiệp dụng. – Kinh Khởi Tận nói: "Thọ, tưởng và hành uẩn, tất cả đều lấy xúc làm duyên, do đó nên nói thức, xúc và thọ. Nhân hai thứ căn và cảnh ḥa hợp sanh thức; nhân ba thức căn, cảnh và thức ḥa hợp sanh xúc; nhân bốn thứ căn, cảnh, thức, và xúc ḥa hợp sanh thọ". Luận Du già chỉ nói: "Xúc làm chỗ nương cho thọ, tưởng, tư". Trong đây "Tư" là chủ, là thắng ở trong hành uẩn, nên chỉ nói "Tư" là nhiếp hết 47 Tâm sở khác (51 Tâm sở trừ thọ, tưởng, xúc, tư c̣n 47). Tập Luận chỉ nói: "Xúc làm chỗ nương cho thọ, v́ xúc sanh thọ là kế cận, là thắng hơn các Tâm sở khác". Nghĩa là tướng sở thủ khả ư của xúc cùng với tướng sở thủ thuận ích của thọ hết sức gần nhau. Lại v́ xúc dẫn phát sanh thọ mạnh hơn các tâm sở khác.
- Nhưng tự tánh của xúc là thật chứ chẳng phải giả, v́ Tâm sở trong sáu sáu pháp, là sáu căn, sáu trần, sáu thức, sáu ái, sáu xúc, sáu thọ, và v́ nhiếp vào xúc thực (trong bốn cách ăn), và v́ là một duyên trong mười hai chi nhân duyên, giống như tánh của thọ (là thật có riêng), chứ xúc không phải chính là ba sự ḥa hợp (là giả có).
Tác ư tâm sở là tánh cảnh giác tâm, có nghiệp dụng dẫn tâm đến cảnh. Nghĩa là nó cảnh giác chủng tử tâm đáng khởi nên khởi, và dẫn tâm đă khởi khiến đến cảnh, nên gọi là tác ư. Tuy nó cũng có thể dẫn khởi Tâm sở, song v́ Tâm vương là chủ nên chỉ nói dẫn tâm.
Có thuyết nói: "Khiến tâm (đang duyên cảnh này) xoay đến cảnh khác, hoặc nói ngay nơi một cảnh giữ tâm trụ lại, gọi là tác ư". Hai lối nói đó đều phi lư; v́ như vậy th́ tác ư không phải là Tâm sở biến hành, và chẳng khác chi định Tâm sở.
Thọ tâm sở là tính lănh nạp tướng của cảnh thuận, nghịch và trung b́nh, và có nghiệp dụng khởi tâm ái, v́ nó khởi lên ba thứ muốn là muốn hợp lại, muốn ĺa ra và muốn không cả hai.
Có người cho rằng thọ có hai thứ:
1. Cảnh giới thọ, tức lănh thọ cảnh sở duyên.
2. Tự tánh thọ, tức lănh thọ cái xúc đồng sanh với nó.
Và họ cho rằng trong hai thứ thọ ấy chỉ có tự tánh thọ mới là tự tướng của thọ, c̣n cảnh giới thọ v́ chung một tướng cảnh giới với Tâm, Tâm sở khác, không phải là tự tướng của thọ.
Kia nói thế phi lư, v́ Thọ tâm sở quyết không duyên Xúc tâm sở cùng sanh với nó. Nếu Thọ tâm sở sanh ra tương tợ với Xúc tâm sở, mà gọi là lănh thọ xúc, như vậy hễ cái ǵ quả tương tợ với nhân, đều là "thọ" cả hay sao? Lại xúc đă là nhân của thọ th́ nên gọi là nhân thọ chứ sao gọi là tự tánh thọ?
Nếu bảo như vua ăn các vật của quốc ấp (vua từ quốc ấp sanh, lại ăn vật của quốc ấp) cũng vậy, thọ là lănh thọ, xúc được sanh ra thọ thể, gọi là tự tánh thọ, th́ lư cũng không đúng, v́ trái với chủ trương của ông (cho tự tánh thọ là lănh nạp cái xúc cùng sanh với thọ). Lại thọ không thể tự chứng biết được thọ (như dao không tự cắt).
Nếu bảo thọ tuy lănh nạp mà không bỏ tự tánh nó, gọi là tự tánh thọ, th́ lư đáng tất cả pháp đều là tự tánh thọ. Cho nên biết lối nói của kia chỉ để dụ dỗ trẻ con thôi (vừa rồi phá tự tánh thọ) .
- Nhưng cảnh giới thọ, không phải chung với các tướng của Tâm, Tâm sở khác, v́ khi lănh thọ tướng thuận hoặc nghịch nhất định thuộc về ḿnh, gọi là cảnh giới thọ, không chung với các tướng của Tâm, Tâm sở khác (thọ lấy sự lănh nạp làm tướng, thức lấy sự liễu biệt làm tướng, tưởng lấy sự thu nhận cảnh tượng làm tướng, dục lấy sự hy vọng cảnh làm tướng, tuệ lấy sự giảm trạch cảnh quán làm tướng ... nên không tướng nào chung nhau).
Tướng Tâm sở là tính chấp thủ tướng mạo của cảnh, và có nghiệp dụng thiết đặt ra các danh ngôn. Nghĩa là nhờ có tưởng an lập tướng phân ranh giới của cảnh, mới có thể theo đó thiết đặt danh ngôn.
Tư tâm sở là tánh khiến tâm tạo tác, và có nghiệp dụng sai khiến tâm làm lành, dữ. Nghĩa là thủ lấy tướng chánh nhân của cảnh rồi khu dịch khiến tâm làm lành, dữ (thủ tướng tà nhân th́ khiến tâm tạo ác v.v...).
Năm Tâm sở trên đă nhiếp thuộc vào biến hành, cho nên quyết định cùng với Tạng thức tương ưng. Tướng của Biến hành, đoạn sau sẽ nói rộng.
- Hành tướng năm Tâm sở xúc v.v... tuy khác với hành tướng của thức Dị thục, nhưng mà đồng thời, đồng chỗ nương, đồng cảnh sở duyên, đồng có tự thể như nhau, nên gọi là tương ưng.
Lại "thọ" tương ưng với thức Dị thục này, nó chỉ có chơn Dị thục, và cứ chuyển theo dẫn nghiệp quá khứ, không cần đợi các duyên hiện tại. V́ chỉ cứ nhậm vận chuyển theo thế lực của nghiệp thiện ác, cho nên chỉ là "xả thọ". C̣n khổ thọ, lạc thọ là Dị thục sanh, không phải chân Dị thục, nó phải đợi có duyên hiện tại mới có. Do đó khổ thọ, lạc thọ không tương ưng với thức Dị thục này.
- Lại do thức Dị thục này thường không biến chuyển, loài hữu t́nh thường chấp nó làm tự nội ngă, nếu nó cùng với khổ thọ, lạc thọ tương ưng, th́ ra nó có chuyển biến, hữu t́nh đâu c̣n chấp nó làm ngă. Cho nên biết thức này chỉ tương ưng với "xả thọ".
Hỏi: - Nếu vậy tại sao thức này cũng là Dị thục quả của nghiệp ác chiêu cảm?
Đáp: - Đă chấp nhận thiện nghiệp có thể chiêu cảm xả thọ, th́ ác nghiệp đây cũng nên thế, v́ xả thọ không trái với khổ, lạc. Ví như pháp vô kư, thiện hay ác nó đều chiêu cảm được cả.
Hỏi: - Tại sao thức Dị thục này không tương ưng với Tâm sở Biệt cảnh?
Đáp: - V́ năm Tâm sở Biệt cảnh có tánh trái nhau. Nghĩa là:
Tâm sở dục (hy vọng) chỉ sanh ra đối với cảnh vui thích, c̣n thức này nhậm vận theo nghiệp chuyển, không có hy vọng ǵ.
Tâm sở thắng giải chỉ phát sanh đối với cảnh đă ấn hợp kiên tŕ quyết định, c̣n thức này hôn muội không ấn hợp kiên tŕ ǵ.
Tâm sở niệm chỉ nhớ rơ đối với việc đă từng trải qua, tập quen, c̣n thức này hôn muội yếu kém không thể nhớ rơ ǵ.
Tâm sở định có khả năng khiến tâm chuyên chú vào một cảnh, c̣n thức này cứ nhậm vận từng sát na duyên theo cảnh duyên khác nhau.
Tâm sở tuệ chỉ chọn lựa việc được, mất v.v... c̣n thức này vi tế, muội liệt không thể chọn lựa ǵ.
Thế nên thức Dị thục này không cùng năm Tâm sở Biệt cảnh tương ưng.
- Laị thức này là tánh Dị thục (vô lư) cho nên không tương ưng với Tâm sở có tánh thiện (mười một thiện Tâm sở) và tâm sở có tánh ô nhiễm (phiền năo tâm sở).
- Bốn Tâm sở bất định như ố tác, thùy miên, tầm, tứ tuy có khi là tánh vô kư, song v́ có gián đoạn, nên quyết không phải thức Dị thục tương ưng.
Hỏi: - Pháp có bốn thứ là thiện, bất thiện, hữu phú vô kư, vô phú vô kư. A lại da thức thuộc về pháp nào?
Đáp: - Thức này chỉ là vô phú vô kư, v́ là tánh Dị thục. Thức Dị thục nếu là thiện hay ô nhiễm th́ lưu chuyển sanh tử và hoàn diệt. Niết bàn (nếu thiện th́ chỉ thành hoàn diệt, nhiễm th́ chỉ thành lưu chuyển) không thể thành được.
Lại thức này là chỗ nương của thiện và ô nhiễm, nếu nó chỉ là thiện hay chỉ là ô nhiễm th́ nó trái ngược nhau, không thể cùng làm chỗ nương cho cả hai thứ.
Lại thức này là chỗ bị huân tập, nếu thiện hay nhiễm th́ như mùi rất thơm hoặc rất thối, đều không thể chịu sự huân tập từ các mùi khác với nó. Và nếu không huân tập th́ nhân quả tạp nhiễm và thanh tịnh đều không thành được. Cho nên thức này chỉ là vô phú vô kư.
Phú nghĩa là pháp ô nhiễm làm chướng ngại Thánh đạo, lại thường che lấp tâm làm cho bất tịnh. Thức này không phải ô nhiễm nên gọi là vô phú.
Kư nghĩa là điều thiện, ác, quả báo khả ái, phi khả ái, và tự thể thù thắng, đều có thể ghi nhận rơ ràng. Thức này không phải thiện, ác nên gọi là vô kư.
- Câu "Xúc Tâm sở v.v... cũng như thế", nghĩa là như thức A lại da, chỉ nhiếp về tánh vô phú vô kư, các Tâm sở xúc, tác, ư, thọ, tưởng, tư cũng thế, v́ pháp tương ưng tất phải đồng tánh với nhau.
- Lại năm Tâm sở xúc v.v... như A lại da, cũng là Dị thục, sở duyên và hành tướng của nó đều không thể biết rơ, và nó duyên ba thứ tánh cảnh là chủng tử, căn thân, khí giới, th́ năm Tâm sở tương ưng với nó cũng tánh vô phú vô kư ... Cho nên luận văn nói: "Xúc Tâm sở v.v... cũng như thế".
- Có thuyết cho rằng: "Tâm sở xúc v.v... như A lại da, cũng là Dị thục và Nhất thiết chủng"; rộng nói cho đến "nó là tánh vô phú vô kư"; v́ câu tụng chỉ nói: "cũng như thế", chứ không giản biệt.
Lối nói kia cũng phi lư. V́ sao? V́ xúc nương theo thức, không được tự tại, như Tâm sở tham, tín v.v... không thể thọ huân, làm sao xúc v.v... đồng với thức A lại da có khả năng giữ ǵn chủng tử.
Lại nếu Tâm sở xúc v.v... cũng có thể chịu sự huân tập, th́ lư đáng một hữu t́nh có sáu cá thể chủng tử (Một Tâm vương, năm Tâm sở biến hành cùng huân). Nếu vậy khi có quả sanh khởi, nó từ chủng tử nào mà sanh khởi? Lẽ không thể nói từ cả sáu chủng tử sanh khởi, v́ chưa từng thấy nhiều hạt giống sanh ra một mầm. Nếu nói quả sanh ra chỉ từ một chủng tử, th́ năm thứ chủng tử kia trở thành vô dụng. Cũng không thể nói từ chủng tử này đến chủng tử kia lần lượt sanh quả, v́ khi huân tập đồng một lúc, có thế lực ngang nhau. Lại cũng không thể nói cả sáu quả (do A lại da và năm Tâm sở Biến hành) đồng thời vụt sanh, v́ không thể có một hữu t́nh trong cùng một sát na sanh ra sáu nhăn thức, nhĩ thức v.v...
- Ai nói Xúc tâm sở v.v... cũng có thể thọ huân và giữa ǵn chủng tử?
- Nếu không thể, tại sao nói: "Xúc v.v... cũng như thức", gọi là Nhất thiết chủng.
- Đó là v́ năm Tâm sở xúc, tác ư v.v... có tướng phần tương tợ chủng tử, nên gọi là Nhất thiết chủng. Và v́ cảnh sở duyên của xúc cùng với sở duyên của thức bằng nhau, v́ ở cơi Vô sắc, Xúc tâm sở có cảnh sở duyên, v́ thân - sở - duyên - duyên tất phải khi nào cũng có.
- Tướng chủng tử tương tợ trên Xúc tâm sở nói đây, không phải là nhân duyên sanh ra hiện thức, giống như trên Xúc Tâm sở hiện ra tướng nhăn căn tương tợ, nó không phải thật làm chỗ nương cho thức, cũng như lửa tương tợ không có công dụng đốt cháy.
- Lời cứu nạn của người kia phi lư. Xúc, tác ư v.v... duyên tướng chủng tử tương tợ, điều này đến đoạn nói về "chỗ chấp thọ" mới nên đem so sánh với thức.
- Do đó, trước đây bài tụng nói câu "nhất thiết chủng" hẳn là nói đến nghĩa thức thọ huân, giữ ǵn chủng tử, (chứ không nói sở duyên chủng tử hữu lậu). Nếu không phải vậy, th́ ở bổn tụng có lỗi nói trùng lập.
Lại tụng kia nói câu "cũng như vậy" v́ không có giản biệt, cho nên đem so sánh làm chứng không thành. Không thể nói năm Tâm sở xúc v.v... cũng có khả năng liễu biệt. Xúc ... cũng tương ưng với xúc như thức ... đo đó nên biết câu "cũng như vậy" trong bài tụng, là tùy theo chỗ thích hợp mà nói, chứ không phải bảo xúc giống như thức Dị thục tất cả. (19)
- Thức A lại da là đoạn hay thường?
- Chẳng phải đoạn chẳng phải thường. V́ nó hằng mà chuyển vậy. "Hằng" nghĩa là thức này từ vô thỉ đến nay, một loại tương tục thường hằng không gián đoạn, v́ là căn gốc từ đó thi thiết có ba cơi, sáu đường, bốn loài. V́ thể tánh bền chắc, duy tŕ chủng tử không để mất. "Chuyển" nghĩa là thức này từ vô thỉ đến nay, niệm niệm sanh diệt, trước sau biến khác, nhân diệt quả sanh, chẳng phải thường nhất, nên có thể làm chỗ cho bảy chuyển thức huân tập thành chủng tử. Nói "hằng" là ngăn không phải đoạn, nói "chuyển" là biểu thị không phải thường. Giống như ḍng nước dốc. Nhân quả là như vậy, như ḍng nước dốc chẳng phải đoạn chẳng phải thường, tiếp nối măi thành có sự trôi nổi, ch́m đắm. Thức này cũng vậy, từ vô thỉ đến nay, sanh diệt tiếp nối chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, làm trôi nổi ch́m đắm loài hữu t́nh, không để thoát ra khỏi.
Lại như ḍng nước dốc, tuy có bị gió kích động nổi sóng mà vẫn chảy không dứt. Thức này cũng vậy, tuy có gặp các duyên khởi lên nhăn thức v.v... vẫn hằng tiếp nối không dứt.
Lại như ḍng nước dốc, tuy chảy lên xuống mà các vật cá, tôm, cỏ rác vẫn theo ḍng chảy không rời bỏ, Thức cũng vậy, các tập khí bên trong và các pháp xúc Tâm sở bên ngoài vẫn thường đi theo chuyển biến.
Pháp và dụ như trên, ư muốn hiển bày thức này từ vô thỉ nhân quả tiếp nối chẳng phải đoạn, chẳng phải thường.
Nghĩa là tánh của thức này từ vô thỉ lại, sát na, sát na, quả sanh nhân diệt. V́ quả sanh cho nên chẳng phải đoạn, nhân diệt cho nên chẳng phải thường. Chẳng phải đoạn, chẳng phải thường là ư nghĩa của lư Duyên khởi. Cho nên nói thức này hằng mà chuyển như ḍng nước dốc.
Hỏi: - Quá khứ và vị lai đă không phải thật có, nên nói phi thường là được, chứ sao lại phi đoạn? Mà phi thường tức là đoạn, thi đâu đưọc thành chánh lư Duyên khởi?
Đáp: - Quá khứ và vị lai nếu là thật có th́ có thể cho là phi đoạn, chứ sao lại phi thường? Mà phi đoạn tức là thường, cũng không thành chánh lư Duyên khởi.
Hỏi: - Tuy nhiên đâu phải chỉ bác lỗi người khác mà nghĩa của ḿnh được thành?
Đáp: - Nếu không tồi tà th́ khó mà hiển chánh. Ngay khi nhân trước diệt là quả sau sanh, hai đầu như quả cân cao thấp cùng lúc. Như thế nhân quả tiếp nối như ḍng nước, cần ǵ phải thật có quá khứ và vị lai mới thành phi đoạn.
Hỏi: - Ngay khi nhân hiện hữu th́ hậu quả chưa sanh. Vậy nhân đó là nhân của cái ǵ? Ngay khi quả hiện hữu th́ nhân trước đă qua mất, vậy quả ấy là quả của cái ǵ? Đă không nhân quả th́ cái ǵ ĺa đoạn thường?
Đáp: Nếu nói ngay khi có nhân đă có hậu quả, vậy quả đó đă sẵn có cần ǵ đợi nhân trước? Nhân đă không có th́ quả làm sao có? Không nhân không quả, đâu có ĺa đoạn thường?
- Theo Đại thừa giáo, nghĩa nhân quả được thành là nương nơi tác dụng của pháp thể, cho nên điều cật nạn của ông không liên quan ǵ đến tông chỉ Đại thừa của tôi. Nếu theo ông, quả thể đă vốn có th́ quả dụng cũng vốn có và nhân duyên được chờ đợi cũng vốn có, như thế th́ nhân quả quyết không có.
- Vậy hăy nên tin theo chánh lư duyên khởi của Đại thừa, đó là chánh lư thâm diệu ly ngôn. Nói nhân nói quả, đều là giả thiết đặt. Cứ quán sát pháp hiện tại thấy có tác dụng dẫn đến sau, giả lập cho đó là quả đương lai và đối lại nói là nhân hiện tại. Quán sát pháp hiện tại có tướng thù đáp đối với trước, giả lập cho đó là nhân quá khứ, và đối lại nói là quả hiện tại. "Giả" nghĩa là trên hiện thức hiện ra tợ như tướng nhân, tướng quả kia.
Như vậy lư thú nhân quả rơ ràng, xa ĺa hai bên đoạn thường, khế hội trung đạo. Các người có trí nên thuận theo đó mà tu học.
- Có các Bộ phái khác nói: "Tuy không có quá khứ, vị lai, song có nhân quả thường tiếp nối". Nghĩa là pháp hiện tại, di chuyển rất nhanh như là có hai thời kỳ đầu và cuối. Khi sanh th́ đáp trả nhân, khi diệt th́ dẫn sanh quả. Thời gian tuy có hai mà thể là một. Ngay khi nhân trước diệt là ngay khi quả sau sanh. Thể tướng tuy khác nhau mà đều thật có. Như vậy nhân quả chẳng phải giả bịa đặt, nhưng ĺa đoạn thường, không bị cật nạn trên. Làm sao người có trí lại bỏ đây mà tin kia?
Luận chủ: Lời kia chỉ nói là suông, hoàn toàn không có thật nghĩa. Nếu chỉ trong một niệm mà có hai thời, sanh và diệt trái nhau, th́ làm sao có thể đồng trong hiện tại? Diệt nếu ở hiện tại th́ sanh phải ở vị lai. "Có" gọi là sanh, đă là hiện tại, "không" gọi là diệt, làm sao chẳng phải là quá khứ? Diệt nếu là chẳng phải không, th́ sanh chẳng phải có. Sanh đă là hiện hữu, th́ diệt nên là hiện vô. Lại cả hai trái nhau, làm sao thể là một? Chẳng phải như khổ với lạc mà thấy có điều đó. Sanh và diệt nếu là một, th́ thời gian trước sau phải hai, c̣n sanh và diệt khác nhau, th́ đâu có thể nói thể đồng. Cho nên sanh và diệt đều có trong hiện tại, đồng nương một thể, lư lẽ ấy không thành.
- Kinh Bộ Sư, chủ trương nhân quả tiếp nối, lư cũng không thành; v́ họ không chấp nhận có thức A lại da giữ ǵn chủng tử.
- Do đó, nên tin theo chánh lư duyên khởi nhân quả tiếp nối của Đại thừa. (20)
- Thức này từ vô thỉ thường hằng và chuyển biến như ḍng nước, vậy cho đến địa vị nào mới xả bỏ nó hoàn toàn?
- Ở địa vị A la hán mới hoàn toàn xả bỏ nó. Nghĩa là các bậc Thánh dứt phiền năo chướng đến khi hoàn toàn sạch hết th́ gọi là A la hán. Bấy giờ thứ phiền năo thô trọng ở thức này vĩnh viễn xa ĺa, nên gọi đó là xả bỏ.
Trong đây nói A la hán là nhiếp chung cả quả vị vô học của ba thừa. V́ cả ba thừa đều đă sát hại vĩnh viễn giặc phiền năo, xứng đáng lănh thọ sự cúng dường tốt đẹp của thế gian, vĩnh viễn không c̣n chịu quả sanh tử phân đoạn.
- Làm sao biết như thế? – V́ trong Quyết trạch phần ở luận Du già nói: "Các vị A la hán, Độc giác và Như Lai đều không c̣n thành tựu thức A lại da" (tức không c̣n ngă ái chấp tàng). Tập Luận lại nói: "Các Bồ tát khi đắc Bồ đề, th́ liền dứt phiền năo và sở tri chướng, thành quả vị A lại da và Như Lai".
Hỏi: - Nếu vậy, vi Bồ tát chưa vĩnh viễn dứt sạch chủng tử phiền năo, không phải là A la hán, th́ lư đáng các vị ấy đều phải thành tựu thức A lại da, thế cớ sao cũng chính trong Quyết trạch phần kia nói: "Bồ tát bất thối, cũng không thành tựu thức A lại da?" (Thành tựu đây có nghĩa là c̣n có thức A lại da).
Đáp: Quyết trạch phần kia nói thế là chỉ cho người ở quả vị vô học của Nhị thừa mà hồi tâm thú hướng đại Bồ đề, chắc chắn họ không c̣n trở lui khởi phiền năo chướng. V́ bấy giờ họ đă thú hướng Bồ đề nên được đổi tên gọi là Bồ tát bất thối. Người này không thành tựu thức A lại da, tức là họ thuộc vào trong hàng A la hán. Cho nên luận văn kia không trái với nghĩa này.
Lại bậc Bồ tát ở Đệ bát Bất động trở lên, nơi họ tất cả phiền năo vĩnh viễn không hiện hành, cứ nhậm vận trôi trong ḍng pháp chấp, có thể ở trong các hạnh như bố thí v.v... mà khởi lên đủ các hạnh, và v́ từng sát na, sát na chuyển tiến thêm dần; cho nên ở địa vị này mới được gọi là Bồ tát bất thối và bất động.
Song vị Bồ tát bất động địa này tuy chưa dứt sạch chủng tử phiền năo trong Dị thục thức, mà ngă kiến, ngă ái duyên thức Dị thục này cũng không c̣n chấp tàng làm tự nội ngă, đo đó vĩnh viễn bỏ tên gọi A lại da. Nên nói ở địa vị này không thành tựu thức A lại da, và cũng gọi đây là A la hán.
- Có thuyết cho rằng Bồ tát từ Sơ địa trở lên v́ đă chứng được chơn lư do hai không biểu lộ, đă được hai thứ trí căn bản, hậu đắc thù thắng, đă dứt hai trọng chướng (chủng tử) phân biệt, và trong một hạnh khởi đủ các hạnh, nên tùy họ có v́ sự lợi ích chúng sanh mà khởi phiền năo th́ họ cũng không gây tội lỗi phiền năo, cho nên gọi họ là Bồ tát bất thối. Song vị Bồ tát này tuy chưa dứt sạch phiền năo câu sanh, mà phân biệt duyên thức này cũng không c̣n chấp tàng làm tự nội ngă. Do đó, cũng bỏ tên A lại da. Cho nên nói ở địa vị này không thành tựu thức A lại da và trong bài tụng này cũng nói Bồ tát Sơ địa trở lên là A la hán. Thế nên trong Tập Luận nói lời như thế này: "Thập địa Bồ tát tuy chưa vĩnh viễn dứt sạch tất cả phiền năo, nhưng phiền năo này chỉ như các thứ độc bị chú thuật và thuốc đối trị, nó không có tội lỗi của phiền năo. Trong mọi địa vị, họ như A la hán đă dứt sạch phiền năo, cho nên cũng gọi họ là A la hán".
Luận chủ: - Kia nói thế phi lư. Từ đệ Thất địa trở về trước vẫn c̣n có ngă kiến, ngă ái câu sanh, (chứ không phải phân biệt) chấp tàng thức này làm tự nội ngă, th́ thế nào mà bỏ được tên A lại da. C̣n nếu ngă kiến ngă ái phân biệt (chứ pháp phải câu sanh) kia không c̣n chấp tàng thức này làm tự nội ngă mà cũng gọi là bỏ, th́ các bậc hữu học trong hàng Dự lưu v.v... cũng có thể đă bỏ tên A lại da sao? Nếu chấp nhận như thế th́ trái nghịch, phá hại điều đă nói trong các luận.
- Bồ tát ở địa thượng, đều do chánh trí, nên dầu có phiền năo cũng không lỗi lầm. Hàng Dự lưu không thể có được việc đó, đâu có thể đem hàng Dự lưu kia sánh với Bồ tát?
Luận chủ: - Trong lục thức của vị Bồ tát nhập địa dầu có khởi phiền năo, nhưng do có chánh trí nên không mắc tội lỗi của phiền năo, c̣n đệ thất thức ở địa vị tâm hữu lậu, vẫn nhậm vận hiện hành chấp tàng thức thứ tám, như vậy đâu không phải đồng với Dự lưu. Do đó nên biết kia nói phi lư.
Nhưng A la hán đă dứt sạch phiền năo thô trọng trong Tạng thức, không c̣n chấp tàng A lại da thức làm tự nội ngă, đo đó vĩnh viễn mất hẳn tên gọi A lại da, mà gọi là "bỏ", chứ không phải xả bỏ tất cả thức thể A lại da. Chớ bảo rằng A la hán không có thức giữ ǵn chủng tử, bấy giờ bèn nhập Vô dư Niết bàn.
Thức thứ tám, tuy mỗi hữu t́nh đều có, song tùy theo nghĩa sai biệt khác mà đặt ra nhiều tên gọi.
Hoặc gọi là Tâm, bởi nó là nơi chứa nhóm các chủng tử do các pháp huân tập vào. Hoặc gọi là A đà na, bởi nó chấp giữ chủng tử và sắc căn không để hoại mất. Hoặc gọi là Sở tri y, bởi nó làm chỗ nương dựa cho các pháp sở tri nhiễm tịnh. Hoặc gọi là Chủng tử thức, bởi nó nhậm vận chấp tŕ các chủng tử các pháp khắp cả thế và xuất thế gian. Các tên nêu trên đây xuyên suốt mọi địa vị từ phàm phu đến Hiền Thánh.
Hoặc gọi là A lại da, bởi nó nhiếp giữ các pháp tạp nhiễm và bởi nó bị ngă kiến, ngă ái chấp tàng làm tự nội ngă. Tên gọi này chỉ có ở địa vị Dị sanh, hữu học, chứ không thể có ở địa vị vô học và Bồ tát bất thối, v́ các địa vị này đâu c̣n có nghĩa chấp tàng pháp tạp nhiễm.
Hoặc gọi là Dị thục thức, bởi nó dẫn đến quả Dị thục của nghiệp thiện ác trong đường sanh tử. Tên gọi này chỉ có ở địa vị Dị sanh, Nhị thừa và Bồ tát, chứ không phải có địa vị Như Lai v́ Như Lai đâu c̣n có pháp Dị thục vô kư.
Hoặc gọi là Vô cấu thức, bởi nó làm chỗ nương dựa cho các pháp cực thanh tịnh vô lậu. Tên gọi này chỉ có địa vị Như Lai. V́ ở Bồ tát, Nhị thừa và Dị sanh c̣n chấp giữ chủng tử hữu lậu, c̣n có thể chịu huân tập, chưa được thức thứ thứ tám trọn lành thanh tịnh. Như Khế kinh nói:
Thức vô cấu của Như Lai,
Là tánh tịnh vô lậu,
Giải thoát hết mọi chướng,
Trí viên cảnh tương ưng.
Tên A lại da v́ tội lỗi nặng, v́ bị xả bỏ trước hết, cho nên trong tụng đây nhấn mạnh trước. Thức thể Dị thục th́ khi Bồ tát sắp chứng Bồ đề liền xả bỏ, và khi Thanh văn, Độc giác nhập Vô dư y Niết bàn cũng xă bỏ. C̣n thức thể Vô cấu không có bao giờ xả, v́ thời gian lợi lạc hữu t́nh là vô tận. Bốn tên Tâm, A đà na, Sở tri y, Nhất thiết chủng, xuyên suốt tất cả địa vị, tùy nghĩa nhiễm tịnh thích hợp mà gọi tên.
- Nhưng thức thứ tám tổng có hai địa vị:
1. - Ở địa vị hữu lậu, nó nhiếp thuộc tánh vô kư, tuy tương ưng với năm Tâm sở biến hành, chỉ duyên cảnh chấp thọ và xứ như trên đă nói.
2. Ở địa vị vô lậu, nó nhiếp thuộc thiện tánh, tương ưng với 21 Tâm sở là năm Biến hành, năm Biệt cảnh và 11 thiện, v́ (Biến hành tâm sở) thường tương ưng với nhất thiết tâm, (Dục tâm sở) thường ưa chứng tri cảnh sở quán, v́ (Thắng giải tâm sở) thường ấn nhập kiên tŕ nơi cảnh sở quán, v́ (Niệm tâm sở) thường nhớ rơ cảnh đă trải qua, v́ (Định tâm sở) Thế Tôn không lúc nào là không có định tâm, v́ (Tuệ tâm sở) thường quyết trạch hết thảy pháp, v́ có ḷng tin cực tịnh, nên thường tương ưng 11 thiện, v́ không ô nhiễm nên không tương ưng căn tùy phiền năo. V́ không tán động nên không tương ưng Tâm sở Bất định, và nó cũng chỉ tương ưng với xả thọ, v́ hằng thường nhậm vận tự tại chuyển một cách b́nh đẳng. Và lấy tất cả pháp làm cảnh sở duyên, v́ trí viên cảnh duyên khắp hết thảy pháp. (21)
IX. CHỨNG MINH CÓ THỨC THỨ TÁM
- Làm sao biết ngoài nhăn thức v.v... riêng có tự thể thức thứ tám?
Lấy Thánh giáo và chánh lư làm định lượng mà biết có. Như trong Khế kinh Đại thừa A tỳ đạt ma nói:
Giới từ vô thỉ lại,
Hết thảy pháp đều nương,
Do đó có các thú,
Và Niết bàn chứng đắc.
Thức thứ tám này, tự tánh vi tế cho nên lấy tác dụng để chỉ bày nó. Nữa bài tụng đầu chỉ rơ thức thứ tám có tác dụng làm nhân duyên. Nữa bài tụng sau chỉ rơ thức thứ tám có tác dụng làm chỗ nương tựa, chấp tŕ lưu chuyển (các thú) và hoàn diệt (Niết bàn). Chữ "giới) có nghĩa là nhân, tức là chủng tử thức, từ vô thỉ lại, lần lượt tiếp nối, đích thân sanh ra các pháp, cho nên gọi là nhân (giới). Chữ "nương" (y) nghĩa là duyên, tức là thức chấp tŕ. Thức này từ vô thỉ lại làm chỗ nương tựa một cách b́nh đẳng cho hết thảy pháp, cho nên gọi là duyên. Nghĩa là v́ nó chấp tŕ (tŕ) các chủng tử, và làm chỗ nương (y) cho các pháp hiện hành, do chủng tử mà biến ra pháp hiện hành kia và do chấp tŕ mà làm chỗ nương cho pháp hiện hành kia.
Biến ra pháp kia là biến ra khí thế giới và thân có các căn. Làm chỗ nương cho pháp kia là làm chỗ nương cho các chuyển thức. V́ thức chấp thọ năm sắc căn, mà khiến cho năm thức nhăn, nhĩ, v.v... nương căn đó chuyển hiện; lại làm chỗ nương cho thức Mạt na, và ư thức thứ sáu nương Mạt na đó chuyển hiện. V́ Mạt na và ư thức đều thuộc chuyển thức, nên giống như nhăn thức v.v... phải nương nơi căn câu hữu mới phát khởi được. Thức thứ tám v́ là thức tánh, nên cũng lấy thức thứ bảy làm câu hữu y. Đây là nói về cái dụng làm nhân duyên của thức thứ tám.
Trong bài tụng chữ "đo đó có" là do có thức thứ tám này. Chữ "có các thú: là các cơi thiện ác. Nghĩa là do có thức thứ tám này chấp tŕ tất cả pháp thuận với luân hồi lưu chuyển; mà khiến các hữu t́nh phải lưu chuyển trong sanh tử. Tuy hoặc, nghiệp và sanh (tứ sanh), đều là lưu chuyển, nhưng "thú" (đường) là quả, v́ trọng yếu hơn nên nói nhấn mạnh (các thú). Hoặc chữ "chư thú" xuyên suốt cả năng thú và sở thú. V́ đồ tư dụng (tức hoặc và nghiệp) của các thú, cũng gọi tên là thú.
Các hoặc, nghiệp và sanh, đều nương nơi thức này. Đó là thức này có tác dụng làm chỗ y tŕ cho sự lưu chuyển.
Câu "Và Niết bàn chứng đắc" là do có thức thứ tám này, cho nên có Niết bàn chứng đưọc, nghĩa là do có thức thứ tám này chấp tŕ tất cả pháp thuận với sự hoàn diệt, khiến kẻ tu hành chứng đắc Niết bàn. Trong đây chỉ nói đạo chứng đắc, v́ Niết bàn không dựa nới thức này mà có. Hoặc đây chỉ nói Niết bàn sở chứng, v́ nó chính là điều mà kẻ tu hành mong cầu.
Hoặc ở đây nói chung cả Niết bàn (Diệt đế) và đạo (Đạo đế) đều là nhiếp thuộc vào phẩm loại hoàn diệt. Nghĩa là Tụng nói chữ "Niết bàn" là biểu thị cảnh tịch diệt được chứng. C̣n Tụng nói chữ "chứng đắc" tiếp sau, là biểu thị đạo năng đắc. Do đạo năng đoạn (vô gián đạo) mà đoạn đưọc lậu hoặc sở đoạn, đến địa vị cứu cánh chứng đắc Niết bàn. Đạo năng đoạn, lậu hoặc ở đoạn, đạo năng chứng, Niết bàn sở chứng đều nương nơi thức này. Đó là thức này có tác dụng làm chỗ y tŕ cho hoàn diệt.
Lại, trong bài tụng trên, câu đầu là hiển thị tự tánh của thức này hằng có từ vô thỉ. Ba câu sau là hiển thị nó làm chỗ y chỉ hoặc tổng, hoặc biệt cho hai pháp tạp nhiễm và thanh tịnh. Pháp tạp nhiễm là Khổ đế, Tập đế, tức là sở thú và bốn loài sanh, và năng thú là hoặc, nghiệp. Pháp thanh tịnh là Diệt đế, Đạo dế, tức Niết bàn sở chứng và đạo năng chứng. Niết bàn và đạo, cả hai thứ kia đều nương thức này mà có. C̣n nếu nương chuyển thức th́ không thành.
Hoặc câu đầu của bài tụng hiển thị thức thể từ vô thỉ tiếp nối, ba câu sau hiển thị làm chỗ y chỉ cho ba thứ tự tánh, là Y tha khởi tánh (câu tụng hai), Biến kế sở chấp tánh (câu tụng ba) và Viên thành thật tánh (câu tụng bốn). Theo thứ lớp như thế nên biết.
- Những nghĩa được nói trong bài tụng trên, nếu ĺa thức thứ tám th́ các nghĩa ấy không thành. Chính trong kinh Đại thừa A tỳ đạt ma kia c̣n nói:
Do thức nhiếp tàng hết,
Chủng tử của các pháp,
Nên gọi A lại da.
Ta chỉ dạy người thắng.
Do bản thức thứ tám này đầy đủ các chủng tử, cho nên có thể nhiếp tàng các pháp tạp nhiễm, để nương theo nghĩa ấy mà đặt tên thức thứ tám này là A lại da, chẳng phải như "Thắng tánh" của phái Thắng luận chấp nó chuyển biến thành Giác đại v.v... ở đây, thể chủng tử với quả của chủng tử chẳng phải một, v́ năng y chỉ và bị y chỉ đều cùng sanh, cùng diệt.
V́ nó cùng với pháp tạp nhiễm nhiếp tàng lẫn nhau, đồng thời nó là nơi bị loài hữu t́nh chấp tàng làm ngă, cho nên thức này tên là A lại da.
- Các vị Bồ tát đă vào kiến đạo được chơn hiện quán, gọi đó là người thắng. Các vị này có thể chứng biết thức A lại da, cho nên đức Thế Tôn ta chính thức v́ họ khai thị dạy bảo. Hoặc tất cả Bồ tát trước mười địa đều được gọi là người thắng. Tuy trước khi vào kiến đạo, họ chưa thể chứng biết thức A lại da, nhưng có thể tin biết lư Duy thức để cầu được quả chuyển y nó, nên Phật cũng dạy cho. Các chuyển thức không thể có được các nghĩa đó.
- Kinh Giải Thâm Mật cũng nói như vầy:
Thức A đà na rất thâm tế,
Các chủng tử như ḍng nước dốc,
Ta không chỉ dạy hàng phàm phu,
Sợ chúng phân biệt chấp làm ngă.
V́ có khả năng chấp tŕ chủng tử các pháp, lại có khả năng chấp thọ năm sắc căn và thân của sắc căn nương, cũng có khả năng chấp thủ uẩn nghiệp kiết sanh tiếp nối, cho nên nói thức này tên là A đà na. Hạng hữu t́nh không có chủng tánh giác ngộ th́ không thể biết cùng căn để của nó, nên nói là rất sâu; c̣n hạng có chủng tánh Nhị thừa thú tịch th́ không thể thông đạt, nên nói là rất tế. Đây là chủng tử thật của hết thảy pháp, hể gặp duyên kích thích th́ liền hiện sanh các sóng ṃi chuyển thức, và thường hằng không gián đoạn, như ḍng nước dốc. Trong bài tụng, nói "phàm" tức chỉ hạng người không có chủng tánh giác ngộ; nói "ngu" tức chỉ cho hàng Nhị thừa thú tịch. V́ sợ hai hạng đó đối với thức này khởi tâm phân biệt, vọng chấp làm ngă mà bị đoạ vào đường ác, chướng ngại cho sự sanh vào Thánh đạo, nên đức Thế Tôn ta không chỉ dạy cho họ.
Chỉ có thức thứ tám mới có đủ các tướng như thế.
- Kinh Nhập Lăng già cũng nói như vầy:
Như biển gặp duyên gió,
Khởi đủ thứ sóng ṃi,
Sanh tác dụng hiện tiền,
Không lúc nào gián đoạn
Biển Tạng thức cũng thế,
Gió cảnh giới kích động,
Thường khởi các sóng thức,
Sanh tác dụng hiện tiền.
Các thức nhăn, nhĩ, v.v... không thể giống như biển lớn, thường tiếp nối chuyển biến khởi lên các sóng thức, cho nên biết phải riêng có thức tánh thứ tám.
Trong vô lượng kinh Đại thừa đều nói riêng có thức thứ tám này. Mà các kinh Đại thừa đều là thuận với lư vô ngă, và trái với sát thủ thứ (hữu t́nh ngă), là kinh có lư lẽ trái bỏ lưu chuyển sanh tử, thú hướng hoàn diệt Niết bàn, tán thán Phật, Pháp, Tăng, hủy báng các ngoại đạo, biểu thị các pháp uẩn, xứ, giới, ngăn ngừa thắng tánh của ngoại đạo. Cho nên người ưa thích Đại thừa đều chấp nhận kinh Đại thừa có thể hiển bày nghĩa lư không điên đảo, v́ nó nhiếp thuộc vào Khế kinh, ví như kinh Tăng Nhất v.v... đều là thuộc vào chí giáo lượng.
Lại, Thánh Từ Thị dùng bảy nhân sau đây để chứng minh kinh Đại thừa thật là do Phật nói:
1. V́ trước đó Phật không thọ kư – Nêú kinh Đại thừa là do những người sau khi đức Phật diệt độ, muốn phá hoại Chánh pháp mà nói ra, th́ tại sao Thế Tôn không dự kư trước, như Ngài từng dự kư các việc bố ủy sẽ xảy ra?
2. V́ vốn cùng lưu hành – Kinh Đại, Tiểu thừa giáo trước đến nay cùng lưu hành, vậy th́ làm sao biết riêng kinh Đại thừa là không phải của Phật nói.
3. V́ không phải cảnh giới của người khác – Giáo lư Đại thừa rộng lớn rấtr sâu, không phải là cảnh giới của hàng ngoại đạo tư lường biết đến đưọc, trong kinh luận của họ chưa từng nói đến giáo lư Đại thừa, dẫu có nói cho họ nghe, họ cũng không tin thọ. Cho nên kinh Đại thừa chẳng phải là người không phải Phật nói được.
4.. V́ nên công nhận - Nếu bảo giáo lư Đại thừa do các đức Phật khác nói chứ không phải do đức Thích Ca nói, thế th́ giáo lư Đại thừa là Phật nói, lẽ đó rơ ràng phải công nhận.
5. V́ lẽ có, không có - Nếu chấp nhận có giáo lư Đại thừa, thời nên tin giáo lư ấy là do Phật nói, v́ ngoài kinh Đại thừa th́ không có giáo lư Đại thừa. Nếu bảo không có giáo lư Đại thừa, th́ giáo lư Thanh văn thừa cũng không có, v́ ngoài Đại thừa giáo th́ quyết định không biết nương vào đâu để thành Phật. Không Phật th́ ai ra đời giảng giáo lư Thanh văn thừa. Cho nên chỉ chấp nhận Thanh văn thừa giáo là Phật nói, mà chê bai Đại thừa giáo là không đúng lư.
6. V́ đối trị - Những người y theo Đại thừa giáo siêng năng tu hành, đều có thể đạt đến trí vô phân biệt, có khả năng chính thức đối trị tất cả phiền năo. Thế nên tin kinh Đại thừa là Phật nói.
7. V́ nghĩa khác văn – Giáo lư Đại thừa ư thú rất sâu sắc, không thể theo văn thủ nghĩa nói, rồi sanh tâm phỉ báng cho là không phải Phật nói.
Do các lư như trên nên biết kinh Đại thừa thật do Phật nói. Như trong luận trang nghiêm có bài tụng tóm tắt nghĩa trên:
Trước chẳng kư, cùng lưu hành
Không phải cảnh giới ngoại đạo.
Đồng công nhận có, không có,
Đối trị, và nghĩa khác văn.
Trong kinh thuộc các bộ phái Phật giáo cũng mật ư nói riêng thức A lại da, như trong kinh A cấp ma (A hàm) của Đại chúng bộ, có chỗ mật ư nói thức này gọi là Căn bản thức, là chỗ nương của nhăn thức v.v... ví như cội cậy là gốc của nhánh lá, chứ không phải nhăn thức v.v... có được nghĩa đó.
- Trong kinh thuộc phái Thượng tọa bộ và Phân biệt luận giả, đều có mật ư nói thức này gọi là Hữu phần thức. Hữu là tam hữu (ba cơi), phần là nhân. Chỉ có thức này thường hằng cùng khắp mới có thể làm nhân của Tam hữu.
- Hóa địa bộ nói thức này là Cùng sanh tử uẩn. Ĺa thức thứ tám không thể riêng có pháp uẩn nào đi đến tận cùng ngằn mé sanh tử, không bao giờ gián đoạn. Nghĩa là ở cơi trời Vô sắc bị gián đoạn, ở cơi trời Vô tưởng th́ các tâm khác bị diệt mất, c̣n tâm Bất tương ưng hành pháp th́ ĺa sắc và tâm không thể tự có. Đó là điều đă được công nhận. Cho nên biết chỉ có thức A lại da này mới gọi là Cùng sanh tử uẩn.
- Trong kinh Tăng Nhứt thuộc phái Thuyết Nhất thiết Hữu bộ cũng mật ư nói: Thức này gọi là A lại da như nói ái A lại da, lạc A lại da, hân A lại da, hỷ A lại da, nghĩa là ḷng tham của Mạt na đối với A lại da (Àlya - răma, Àlya - rata, Àlya - sammudita) trong ba đời tổng có và biệt khác nhau, nên lập ra bốn tên ấy. Loài hữu t́nh chấp nó làm tự nội ngă thật, cho đến khi chưa chấm dứt cái chấp đó, th́ luôn luôn sanh tâm ưa đắm nó. Cho nên A lại da thức mới là chỗ thật đáng ưa đám, chứ không chịu chấp "năm thủ uẩn", v́ khi sanh vào chỗ thuần chịu khổ th́ không ưa đắm thân năm thủ uẩn ở đó, mà thường xuyên chán ghét thân năm thủ uẩn đó, nghĩ rằng ta lúc nào sẽ xả bỏ được mạng căn năm thủ uẩn này, chúng đồng phận này, thân tâm đau khổ này, để cho ta được tự tại hưởng khoái lạc.
Năm dục cũng chẳng phải là chỗ thật đáng ưa đắm, nghĩa là người ĺa dục, tuy họ không c̣n tham ưa năm dục, nhưng họ vẫn ưa cái ta của ḿnh.
Lạc thọ cũng không phải là chỗ thật đáng ưa đắm, nghĩa là người xa ĺa tạp nhiễm đệ Tam Thiền, tuy họ chán lạc thọ của đệ Tam Thiền, nhưng họ vẫn ưa cái ta của ḿnh.
Thân kiến cũng chẳng phải là chỗ thật đáng ưa đắm, nghĩa là những người không phải là bậc vô học nhưng tin lư vô ngă, tuy họ không sanh ḷng ưa đắm thân kiến, song đối với cái ta bên trong họ vẫn ưa đắm.
Các chuyển thức cũng chẳng phải cũng chẳng phải là chỗ thật đáng ưa đắm, nghĩa là những người không phải vô học nhưng cầu diệt Tâm, tuy họ chán ghét các chuyển thức, nhưng họ vẫn ưa cái ta của ḿnh.
Sắc thân cũng chẳng phải cũng chẳng phải là chỗ thật đáng ưa đắm, nghĩa là những người ĺa sắc ô nhiễm, tuy họ chán ghét sắc thân, nhưng họ vẫn ưa cái ta của ḿnh.
Bất tương ưng hành pháp ĺa Sắc và Tâm không thể tự có cho nên cũng chẳng phải là chỗ thật đáng ưa đắm.
Kẻ Dị sanh, hàng Hữu học trong khi khởi ngă ái, tuy đối với các uẩn khác hoặc có ái, không ái, nhưng đối với thức thứ tám này luôn luôn vẫn ưa chấp đó làm ngă.
Cho nên chỉ có thức thứ tám này là chỗ thật đáng ưa đắm. Do đó trong kinh Tăng Nhất nói đến tên A lại da chính để hiển thị thức A lại da này vậy.
- Trên đây đă dẫn Thánh giáo làm chứng có thức A lại da. Bây giờ sẽ hiển bày chánh lư làm chứng.
1. Khế kinh nói:Chỗ tập hợp và phát khởi chủng tử các pháp ô nhiễm, thanh tịnh đó gọi là tâm. Nếu không thức này th́ cái Tâm giữ ǵn chủng tử kia không có được. Các chuyển thức khi ở Diệt tận định v.v... bị gián đoạn. Các căn, các cảnh, tác ư, thiện tâm v.v... chủng loại khác nhau, dễ sanh, dễ mất như điền chớp, không chắc chắn, không thể huân tập, không thể giữ ǵn chủng tử, nên chẳng phải là cái tâm tập hợp và phát khởi các chủng tử nhiễm tịnh. Chỉ có thức thứ tám này, một loại trước sau tương tục không gián đoạn, có tánh kiên trụ và có thể chịu huân tập như mè, là tương đương với nghĩa chữ Tâm của kinh nói. Nếu không chấp nhận có Tâm giữ ǵn chủng tử th́ không những trái kinh mà cũng trái với chánh lư. V́ các pháp nhiễm tịnh được khởi lên không do được huân tập. Không huân tập thành chủng tử, th́ sự khởi lên đó chỉ là uổng công. Khi pháp nhiễm tịnh khởi lên đă không nhân nơi chủng tử, thời đồng như ngoại đạo chấp tự nhiên sanh.
- Sắc và pháp Bất tương ưng hành không phải là Tâm, ví như tiếng vang, như ánh sáng, không phải là chỗ của pháp nhiễm tịnh bên trong huân tập, th́ nó đâu có thể giữ ǵn chủng tử. Lại những pháp Sắc và Bất tương ưng này ĺa thức không thể tự có, th́ làm sao chấp nó làm chỗ nương cho chủng tử bên trong?
Các Tâm sở pháp tương ưng với chuyển thức, nó như chuyển thức có gián đoạn, dễ khởi dễ mất, không tự tại, không phải Tâm, nên không thể giữ ǵn chủng tử, cũng không chịu sự huân tập. Cho nên đúng lư phải có cái Tâm giữ ǵn chủng tử riêng.
- Có thuyết cho rằng sáu thức từ vô thỉ, nương nơi căn và cảnh có phận vị trước sau, thức thể tùy ba tánh chuyển biến, song đồng một loại, nên có thể chịu sự huân tập và giữ ǵn chủng tử. Do đó thành nhân quả nhiễm tịnh, chứ cần ǵ phải chấp có thức thứ tám?
- Lời nói đó vô nghĩa. V́ sao? V́ nếu chấp thức loại có thật th́ đồng với ngoại đạo Thắng luận. Nếu chấp thức loại là giả th́ không có tác dụng mạnh mẽ, nên không thể giữ ǵn chủng tử thật của nội pháp.
Lại chấp thức loại đó, nó nhiếp thuộc tánh ǵ? Nếu là tánh thiện, ác, thời không thể chịu sự huân tập, v́ nó thuộc hữu kư, giống như Trạch diệt vô vi. Nếu nó là vô kư, th́ khi tâm thiện hoặc ác nổi lên, là không có tâm vô kư, thức loại ấy tát phải đoạn, không thể nói sự thể của thức có thiện, có ác mà loại chỉ là vô kư, v́ loại khác nhau th́ cũng đồng như tánh thể thức khác nhau.
Loại ở địa vị vô tâm, thức loại này quyết không có. Đă có gián đoạn, tánh không kiên trụ, th́ làm sao chấp nó có thể giữ ǵn chủng tử và chịu sự huân tập.
Lại A la hán hoặc tâm loài Dị sanh, sáu thức loại đồng là vô kư, thể thời có thể A la hán huân tập các pháp nhiễm, loài Dị sanh lại huân tập pháp vô lậu. Chấp nhận thế th́ có lỗi.
Lại các căn nhăn, nhĩ v.v... hoặc các pháp khác cùng với nhăn thức, mà loại của căn,loại của pháp và loại của thức đó đồng là vô kư, th́ nó nên huân tập lẫn nhau. Nhưng các ông không chấp nhận như thế. Thế nên, không nên chấp thức loại chịu sự huân tập.
Lại sáu thức, hoặc tự thể hoặc chủng loại của nó trước sau hai niệm đă không cùng khởi một lần, như cách nhiều niệm trước sau th́ không thể huân tập nhau, v́ năng huân và sở huân phải đồng thời.
Đối với người chấp "sáu thức cùng lúc sanh khởi có thể huân nhau", (năm thức trước cùng lúc huân thức thứ sáu) th́ do ư thú đă nói trên mà biết thức thứ sáu đă không phải sở huân, nên nó cũng không thể giữ ǵn chủng tử.
- Có người chấp Sắc, Tâm, tự loại không gián đoạn, niệm trước làm chủng tử cho niệm sau, lư nhân quả được thành. Cho nên lời nói trước đây (nói tập khởi gọi là Tâm để chỉ thức A lại da) làm chứng không thành.
- Lối chấp kia phi lư, v́ không có sự huân tập. Nghĩa là tự loại niệm trước sau kia đă không có sự huân tập, th́ làm sao chấp niệm trước làm chủng tử cho niệm sau? Lại nữa, tự loại có gián đoạn th́ không thể sanh trở lại, và hàng Nhị thừa vô học không có thân ngũ uẫn đời sau, v́ ngựi kia lấy sắc tâm khi chết làm chủng tử cho thân sau.
Cũng không nên chấp Sắc, và Tâm lần lượt làm chủng tử sanh ra nhau, v́ chuyển thức và sắc đều không chịu sự huân tập, như trước đă nói rồi.
- Có thuyết cho rằng các pháp ba đời đều có nhân chiêu cảm quả, quả thù đáp nhân, chứ nhọc ǵ phải chấp có thức thứ tám giữ ǵn chủng tử. Nhưng Khế kinh sở dĩ nói tâm là chủng tử, v́ tâm có công dụng thế mạnh khởi lên pháp nhiễm tịnh.
- Lời nói các pháp ba đời đó phi lư. V́ qúa khứ và vị lai chẳng phải thường, chẳng phải hiện có, giống như hoa đốm giữa không, không phải thật có. Lại nói không có tác dụng, không thể chấp nó làm nhân duyên được. Nếu không có thức thứ tám giữ ǵn chủng tử nhiễm tịnh, th́ lư nhân quả không thành.
- Có người chấp lư "không, vô tướng" của Đại thừa là rốt ráo, chỉ nương theo tợ tỷ lượng mà bác sạch hết, chẳng những không có thức này cũng không có hết thảy pháp. Những người này chỉ làm trái hại lời kinh đă dẫn ở trước, đối với việc tri Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo, nhân quả nhiễm tịnh, họ đều chấp cho là không thật, thời thành đại tà kiến. Ngoại đạo hủy báng nhân quả nhiễm tịnh, cũng không bảo là hoàn toàn không có, mà chỉ chấp cho là không phải thật. Nếu hết thảy đều không thật có, thời các Bồ tát không nên v́ xả bỏ sanh tử không thật có mà tinh cần tu tập tư lương Bồ đề không thật có. Ai là ngựi có trí lại đi t́m đứa con của người con gái đá, lập đội quân để đánh địch mộng huyễn?
Cho nên, nên tin có có tâm giữ ǵn chủng tử, mà dựa vào đó kiến lập nhân quả nhiễm tịnh. Và tâm kia tức là thức thứ tám này vậy.
2. Lại Khế kinh nói: Có tâm Dị thục do nghiệp thiện ác chiêu cảm. Nếu không có thức thứ tám này th́ tâm Dị thục kia không thể có. V́ nhăn thức v.v... có gián đoạn không phải lúc nào cũng là nghiệp quả (khi nó vô kư là nghiệp quả, khi nó khởi thiện, ác, th́ không phải nghiệp quả), ví như điền chớp, nên chẳng phải là tâm Dị thục, tâm Dị thục không thể dứt rồi lại nối, v́ mạng căn (Dị thục) không có việc ấy.
Sáu thức nhăn, nhĩ, v.v... do nghiệp chiêu cảm, ví như âm thanh không phải hằng số tiếp nối, nó là Dị thục sanh chứ không phải chơn Dị thục.
Quyết định phải chấp nhận có tâm chơn Dị thục thù đáp lại dẫn nghiệp, biến khắp không gián đoạn, biến hiện căn, thân, khí giới làm chỗ nương cho hữu t́nh, v́ căn thân khí giới ĺa tâm Dị thục không thể có được. Bất tương ưng hành pháp th́ không có thật thể; các chuyển thức th́ không phải hằng có. Nếu không tâm Dị thục này th́ cái ǵ biến ra căn thân khí giới; lại nương nơí pháp ǵ mà luôn có loài hữu t́nh.
Lại khi ở trong định không tư lự ǵ hết, hoặc khi không ở trong định th́ có tư lự chuyện khác, vẫn thường khởi lên nhiều sự cảm thọ nơi thân. Nếu không có tâm Dị thục chấp giữ cảm thọ đó th́ không thể lúc sau đó thân có sự vui thích hoặc lao tổn. Nếu không hằng có tâm Dị thục th́ làm sao khi ra định lại có sự cảm thọ nơi thân này?
Ở điạ vị những loài hữu t́nh không phải là Phật, khởi lên các tâm thiện khác, chắc phải tâm chơn Dị thục đồng thời hiện khởi.
Hỏi: Sao riêng Phật không có tâm Dị thục?
Đáp: - Như chấp nhận khi khởi lên tâm chơn Dị thục kia, th́ đó là các loài hữu t́nh chứ chẳng phải Phật.
Do đó các hữu t́nh thường có tâm chơn Dị thục và tâm ấy chính là thức thứ tám này.
3.Lại Khế kinh nói: Loài hữu t́nh lưu chuyển trong năm thú bốn loài sanh. Nếu không có thức này th́ cái thể của năm thú bốn loài sanh (giới thú sanh thể) kia không thể có được. Nghĩa là phải có đủ bốn nghĩa là thật có, hằng thường, biến khắp, không lộn xộn mới có thể lập chính cái pháp đó làm thể của năm thú, bốn loài sanh. Nếu pháp không phải Dị thục, th́ thể thú sanh sẽ rối loạn, trụ ở đây mà khởi lên pháp nơi thú sanh khác.
Các sắc Dị thục và một phần do nghiệp cảm ở trong năm thức, nó không biến khắp thú sanh, v́ ở trong cơi vô sắc, hoàn toàn không có sắc và không có năm thức hiện hành. Các điều thiện sanh ra đă có (báo đắc) và những điều do nghiệp cảm ở trong ư thức tuy khắp thú sanh, khởi lên không rối loạn, nhưng không hằng có.
Bất tương ưng hành pháp không có thật thể. Tất cả pháp nói trên đều không thể lập làm thật thể chính thức của ngũ thú, tứ sanh.
Chỉ có Dị thục tâm và tâm sở của nó thật có, hằng thường, biến khắp, không tạp, mới chính thức chơn thật làm thật thể của thú sanh. Nếu không có tâm Dị thục này th́ khi sanh cơi Vô sắc (không có sắc và năm thức, chỉ có ư thức) ở vị trí khởi lên thiện tâm, tất không phải thể thú sanh. Giả sử chấp nhận đó là thể thú sanh thu nhiếp các pháp hữu lậu, th́ các vị A na hàm khi sanh vào cơi Vô sác, khởi lên tâm vô lậu, th́ không phải thể thú sanh. Nói vậy là trái lư.
Để tránh khỏi lỗi trước và lỗi này, nên biết chỉ có pháp Dị thục mới chính thức chơn thật là thể của thú sanh. Do vậy mà đức Như Lai không nhiếp vào thể thú sanh, v́ Phật không c̣n có pháp Dị thục vô kư, và Phật cũng không nhiếp thuộc vào cơi nào, v́ Phật không c̣n có ba lậu, và v́ Thế Tôn đă xả bỏ Khổ, Tập đế. Các chủng tử hư luận nơi Ngài dă vĩnh viễn dứt sạch.
Thể của thú sanh đích thực là chỉ có tâm Dị thục và tâm sở của nó, nhưng tâm và tâm sở của nó này ĺa ngoài thức thứ tám là không thể có được. Thế nên biết riêng có thức thứ tám này.
4. Lại Khế kinh nói:"Thân có sắc căn là cái có chấp và thọ, nếu không có thức thứ tám này th́ cái khả năng chấp thọ thân có sắc kia không có". Nghĩa là năm sắc căn và chỗ nương của nó chỉ trong đời hiện tại là có chấp thọ, tất nó phải do tâm có khả năng chấp thọ nó, mà tâm ấy chỉ là tâm Dị thục do nghiệp trước dẫn đến, chứ không phải pháp thiện và nhiễm, hay một lại vô kư nào có khả năng biến khắp tiếp nối chấp thọ thân có sắc căn. Các chuyển thức nhăn, nhĩ v.v... cũng không có được khả năng như vậy.
Lời nói "Chỉ có tâm Dị thục chấp thọ căn thân" này ư muốn chỉ rơ các chuyển thức nhăn, nhĩ v.v... dều không có tính cách nhất loại có khả năng biến khắp tiếp nối chấp thọ thân có sắc căn bên trong của ḿnh, chứ không phải nói năng chấp thọ chỉ là tâm Dị thục, (v́ vô cấu thức cũng chấp thọ) đừng cho rắng sắc thân vô lậu của đức Phật không có chấp thọ (sắc thân của Phật có vô cấu thức chấp thọ). Nhưng đây nói chấp thọ sắc thân hữu lậu th́ chỉ là tâm Dị thục.
Các chuyển thức th́ theo duyên hiện tại khởi lên, như tiếng, như gió. C̣n tâm thiện, tâm nhiễm không phải do nghiệp dẫn đến ví như Phi trạch diệt. Dị thục sanh không phải là chơn Dị thục, không phải là chỗ nương cho khắp các pháp, không tiếp nối, ví như điển chớp không có khả năng chấp thọ sắc thân hữu lậu.
- Nói các Tâm thức là gồm luôn Tâm sở trong đó, v́ nó quyết định tương ưng nhau, ví như nói chữ "Duy thức" (gồm luôn cả Tâm sở).
Không phải các "Sắc căn" và "Bất tương ưng hành" có khả năng chấp thọ thân có sắc căn, v́ không có sở duyên, ví như hư không.
Cho nên cần có có tâm chấp thọ riêng, và tâm ấy chính là thức thứ tám này.
5. Lại Khế kinh nói: Ba pháp Thọ, Noăn, Thức, nương tựa duy tŕ lẫn nhau mà được tồn tại liên tiếp. Nếu không có thức này th́ cái thức có khả năng giữ ǵn Thọ và Noăn kia được trụ lâu, không thể có được". Nghĩa là các chuyển thức có gián đoạn, có biến chuyển như gió và tiếng, không có tác dụng thường xuyên giữ ǵn, không thể lập "chuyển thức" làm cái thức giữ ǵn Thọ, Noăn. Chỉ có thức Dị thục không gián đoạn, không biến chuyển như Thọ và Noăn, mới có tác dụng thường xuyên giữ ǵn, nên có thể lập thức Dị thục này làm cái thức giữ ǵn Thọ và Noăn. Kinh nói ba thứ ấy nương tựa ǵn giữ lẫn nhau, nếu chỉ Thọ và Noăn là nhất loại tiếp nối, c̣n thức th́ không, là không hợp chánh lư.
Hỏi: - Tuy nói ba pháp Thọ, Noăn, Thức nương tựa giữ ǵn lẫn nhau, nhưng chỉ chấp nhận Noăn là không biến khắp ba cơi (cơi Vô sắc không có Noăn). Sao không chấp nhận riêng "Thức" có gián đoạn, chuyển biến?
Đáp: - Điều này đối với lư lẽ trước kia chẳng phải là điều sai lầm đáng cật nạn. Nghĩa là nếu ở chỗ đó có đủ ba pháp không gián đoạn chuyển biến là có thể thường xuyên giữ ǵn lẫn nhau. Nếu không như vậy, th́ không có tác dụng thường xuyên giữ ǵn nhau.
Trước đây dùng lư này để chỉ rơ cái thức được nói trong ba pháp Thọ, Noăn, Thức , không phải là chuyển thức. Nên nếu cho Noăn không biến khắp ba cơi, th́ đâu có phá hoại lư lẽ trước kia? Cho nên như trước nói, lư nghĩa là rốt ráo được thành.
Lại trong ba pháp, Thọ và Noăn chỉ là hữu lậu, cho nên biết Thức giữ ǵn Thọ, Noăn kia cũng là hữu lậu. Khi sanh cơi Vô sắc, khởi lên tâm vô lậu, bấy giờ không có tâm Dị thục th́ thức nào duy tŕ thọ mạng ở cơi Vô sắc kia? Do đó nên biết có thức Dị thục nhất loại hằng thường và biến khắp, duy tŕ Thọ, Noăn và Thức đó là thức thứ tám vậy.
6. Lại Khế kinh nói: "Các loại hữu t́nh, trong khi thọ sanh và khi mạng chung, chắc chắn ở trong hữu tâm tán loạn, chứ không ở trong định vô tâm. Nếu không có thức Dị thục này thời cái tâm trong khi sanh và khi chết đó không thể có". Nghĩa là khi sanh và khi chết, thân tâm hôn muội, như ngủ mê không chiêm bao, mê man, khi đó các chuyển thức minh mẫn chắc chắn không hiện khởi. Lại ở trong vị trí sanh và chết đó, hành tướng và sở duyên của sáu chuyển thức đều không thể biết, giống như ở vị trí vô tâm, chuyển thức chắc chắn không hiện hành. Hành tướng và sở duyên của sáu chuyển thức nếu có hiện hành th́ chắc sẽ được biết rơ như những lúc khác, không phải như lúc mới sanh hay lúc sắp chết. Hành tướng và sở duyên của chơn Dị thục thức quá vi tế không thể rơ được. Nó là quả báo do nghiệp dẫn, tiếp nối trong một thời gian, hằng không chuyển biến. Chính cái hữu tâm tán loạn đó, gọi là tâm khi sanh tử. Không trái với chánh lư.
- Có thuyết cho rằng: "Ngũ thức ở vị trí thọ sanh đó quyết không có, th́ ư thức thủ cảnh hoặc nhân ngũ thức, hoặc nhân tha giáo và nhân định lực mà khởi lên, các nhân đó khi thọ sanh đă không có được, nên ở vị trí thọ sanh, ư thức cũng không có (thuyết này chỉ năm thức làm nhân sanh ư thức, nên nói như vậy)".
- Nếu vậy, hữu t́nh sanh cơi Vô sắc, sau đó lẽ ra ư thức vĩnh viễn không sanh ra được (v́ ở Vô sắc không có năm thức); v́ định tâm chắc phải do từ ư thức tán loạn dắt dẫn, mà ngũ thức và tha giáo ở cơi Vô sắc không có, th́ tâm tán loạn dẫn khởi lên định tâm không do đâu có được.
Nếu bảo định kia do sức tập quán từ trước; sau đó bỗng nhiên hiện ra. Nếu vậy, sao trong khi mới sanh cơi kia không hiện khởi?
Lại ở cơi Dục, cơi Sắc khi mới thọ sanh, ư thức tập quán cũng nên hiện khởi. Nếu do v́ hôn muội nên lúc ban sơ chưa hiện tiền được, th́ đấy chính là nguyên nhân v́ hôn muội không hiện khởi, phải do chủng tử trong bổn thức mới hiện khởi. Đă được công nhân trước kia, cần ǵ lại phải nhọc công nói do ba nhân khác (là nhân năm thức, nhân tha giáo, nhân định lực).
- Có các bộ phái khác chấp: "Ở vị trí khi sanh và khi chết, có một loại ư thức vi tế, mà hành tướng và sở duyên của nó đều không thể biết rơ". nên biết loại ư thức vi tế ấy chính là thức thứ tám đây; v́ đă công nhận ư thức thô hiển không phải là một loại vi tế khó biết như vậy.
Lại khi sắp chết, do nghiệp thiện ác mà có cảm xúc lạnh lần lượt khởi lên trên dưới ở nơi thân. Nếu không thức Dị thục này, th́ việc đó không thành được. V́ chuyển thức th́ không thể chấp thọ thân được. C̣n năm thức nhăn, nhĩ v.v... đều có chỗ nương riêng nên hoặc không hiện hành. C̣n đệ lục ư thức bấy giờ không trụ nơi thân, và đệ lục ư thức duyên cảnh không nhất định, lại khi sắp gá trong thân hằng thời tương tục, th́ cảm xúc lạnh không thể do đệ lục ư thức tạm phát ra được. Vậy nên biết chỉ có tâm Dị thục do nghiệp lực đời trước, hằng thời biến khắp tương tục chấp thọ thân phần, nên khi sắp chết tâm Dị thục xả bỏ chỗ chấp thọ nào nơi thân, th́ cảm xúc lạnh sanh ra ở đó. V́ Thọ, Noăn và Thức không ĺa nhau, hễ chỗ nào có cảm xúc lạnh khởi lên th́ chỗ đó là phi hữu t́nh, chỗ thân chết phi t́nh này tuy cũng do Dị thục tâm biến ra và duyên, nhưng không chấp Thọ. Cho nên quyết định có thức thứ tám này.
7. Lại Khế kinh nói:"Thức duyên danh sắc, danh sắc duyên thức", hai pháp đó lần lượt nương nhau, ví như bó câu lau, cùng lúc đứng vững. Nếu không có thức thứ tám này th́ tự thể của "thức" trong thức duyên danh sắc không có được. Và trong kinh kia tự giải thích rằng, danh là bốn uẩn không phải sắc, sắc là cái h́nh trạng trong bào thai như Kiết la lam v.v... Hai thứ này cùng với thức nương nhau mà trụ, như hai bó câu lau thường cùng duyên nhau trong một lúc mà trụ, không hề ĺa nhau. Các chuyển thức nhăn, nhĩ v.v... nhiếp vào trong danh. Nếu thức thứ tám không có, th́ nói cái ǵ là thức duyên danh sắc đây? Cũng không thể nói thức uẩn thuộc về danh trong danh sắc đó chỉ là cho năm thức thân, c̣n thức trong câu "Thức duyên danh sắc" là chỉ cho thức thứ sáu, v́ khi ở giai đoạn h́nh trạng Kiết la lam chưa có năm thức.
Lại các chuyển thức có gián đoạn chuyển biến, không có sức hằng thời chấp tŕ danh sắc, làm sao nói nó thường cùng danh sắc duyên nhau.
Vậy nên biết "Thức duyên danh sắc" là rơ ràng chỉ cho thức thứ tám.
(Hết quyển ba của bản Hán)
|