佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

 

KINH PHÓNG QUANG BÁT-NHÃ

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Vô-la-xoa, người nước Vu Điền.

QUYỂN 13

Phẩm 57: KIÊN CỐ

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Ma Ba-tuần đến chỗ Bồ-tát thưa: Trí Nhất thiết b́nh đẳng với hư không, pháp có không đều là không, pháp ấy và h́nh tướng cũng không. Đối với không đã không có pháp th́ không thể có việc bắt đầu, việc đã qua cũng không có, hoàn toàn không có pháp nào, việc tương lai đã không thể có, tướng có không đều là không. Nếu cho rằng là không, nên các ông không chịu khổ để thành tựu quả Vô thượng Bồ-đề th́ đó là việc ma, chẳng phải do Phật nói. Chư Hiền nên biết việc ma, các vị nên hiểu rõ như vậy th́ sẽ không bị đọa trong cảnh giới ác lâu dài.

Phật dạy:

–Thiện nam, thiện nữ nào nếu nghe lời dạy này th́ biết đó là việc ma. Ma muốn phá hoại không cho ta chứng đắc Vô thượng Bồ-đề. Tất cả các pháp có không này tuy b́nh đẳng với hư không, nhưng tất cả chúng sinh không thể thấy, không thể biết được. Ta sẽ dùng cái không của có không để thực hành đại thệ nguyện, chứng đắc trí Nhất thiết, thuyết pháp cho chúng sinh, làm cho họ đều được độ thoát, làm cho chúng sinh hướng đến quả Tu-đà-hoàn, A-la-hán, Bích-chi-phật, chứng đắc quả Vô thượng Bồ-đề.

Đại Bồ-tát từ khi phát tâm đến nay, ý chí kiên cố, không lay chuyển, ý chí kiên cố rồi th́ không tin vào các việc khác, thực hành sáu pháp Ba-la-mật, liền tiến lên địa vị Bồ-tát.

Tu-bồ-đề thưa hỏi:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao Bồ-tát không thoái chuyển gọi là Aduy-việt-trí, thoái chuyển là A-duy-việt-trí phải không?

Phật đáp:

–Không thoái chuyển là A-duy-việt-trí, thoái chuyển cũng là A-duy-việt-trí.

Tu-bồ-đề hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Việc ấy như thế nào? 

Phật đáp:

–Từ địa vị A-la-hán, Bích-chi-phật có thoái chuyển là A-duyviệt-trí, từ A-la-hán, Bích-chi-phật mà không có thoái chuyển mới gọi là Bồ-tát thoái chuyển.

Này Tu-bồ-đề! Do h́nh tướng và hành động đầy đủ, biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển. Bồ-tát có h́nh tướng như vậy, ma Batuần kia không thể phá hoại, không thể ngăn chận họ tiến đến quả Vô thượng Bồ-đề.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển muốn được bốn Thiền liền chứng được; muốn được thiền diệt thoát, thiền ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, thiền Không, Vô tướng, Vô nguyện đều có thể chứng được; muốn được năm thần thông đều có thể chứng được. Tuy chứng được các Thiền, nhưng Bồ-tát không chấp vào các chỗ chứng; không chấp vào chỗ chứng Thanh văn, Bích-chi-phật mà theo khả năng của ḿnh để tế độ chúng sinh.

Này Tu-bồ-đề! Do hành tướng và hành động đầy đủ, biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển thường nghĩ tới đạo, không xa ĺa đạo, không tham h́nh sắc, thân tướng, chỗ ở, sáu pháp Ba-la-mật, bốn Tâm vô lượng, bốn Không định, Thần thông, mười Lực, mười tám pháp Bất cộng, cũng không tham cõi Phật; không tham việc giáo hóa chúng sinh, không tham thấy Phật, không tham căn lành. V́ đối với không, không có pháp, không thấy, hoàn toàn không. Pháp không tướng làm sao có thể tham được. V́ sao? V́ tướng của các pháp, các việc có không hoàn toàn đều là không.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển đã có đầy đủ tâm niệm của Bồ-tát, hoàn hảo bốn việc đi, đứng, nằm, ngồi; thức, ngủ, ra vào, chánh niệm, tỉnh giác, không trạo cử. Tu-bồ-đề, do h́nh tướng, hành động đầy đủ như vậy, biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.

Này Tu-bồ-đề! Chúng sinh được Bồ-tát không thoái chuyển dùng phương tiện quyền xảo hiện thân tại gia, hưởng thọ năm dục, bố thí y phục, đồ ăn uống cho những người nghèo khổ, khó khăn, cung cấp đầy đủ những thứ mà họ cần dùng, tự ḿnh và khuyên người thực hành sáu pháp Ba-la-mật, thường khen ngợi công đức của sáu pháp Ba-la-mật, thấy người thực hành th́ vui theo.

Bồ-tát không thoái chuyển ở tại gia có châu báu đầy khắp Diêm-phù-đề, Bồ-tát đem bố thí cho chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới mà không chút tham tiếc. Bồ-tát không có ý dâm dục, thường thực hành pháp b́nh đẳng, nói năng khiêm tốn, nhún nhường, không khinh dễ người, không làm cho chúng sinh sân hận.

Này Tu-bồ-đề! Do h́nh tướng hành động đầy đủ, nên biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Duyệt-xoa Hòa-di-la-hằng thường theo ủng hộ Bồ-tát. Duyệt-xoa nói: “Chúng tôi thường ủng hộ Bồ-tát này cho đến lúc ngài thành Chánh đẳng giác, làm cho ý Bồ-tát không tán loạn, không xa ĺa đạo. Lại có năm dòng họ Duyệt-xoa Hòa-di cũng theo ủng hộ Đại Bồ-tát không thoái chuyển, làm cho các vị tiểu thần, thần phi nhân, không thể làm hại được.”

Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển có Tín căn, Chí căn, Tinh tấn căn, Tam-muội căn, Trí tuệ căn, các căn đầy đủ, là người dũng mãnh không khiếp sợ.

Tu-bồ-đề bạch Phật: 

–Đối với đạo ý chí kiên cố không thoái chuyển, đó là dũng mãnh không khiếp sợ, nên biết đó là tướng trạng của Bồ-tát không thoái chuyển.

Phật bảo:

–Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đạo niệm của Bồ-tát không thoái chuyển đều đầy đủ. Bồ-tát không học chú thuật, sách cúng tế, không làm mê hoặc người, không làm thầy thuốc pha chễ thuốc thang, không học xem bói tướng của ngoại đạo thần tiên, không đoán biết ý của người nam người nữ. V́ Bồ-tát đối với pháp không, không có pháp tướng, không thấy việc này, không có tướng này, thường nguyện thanh tịnh. Do hành động và tướng mạo đầy đủ, biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Nay ta sẽ nói hành động, tướng mạo của Bồ-tát không thoái chuyển; hãy lắng nghe, ghi nhận.

Tu-bồ-đề thưa:

–Xin Thế Tôn dạy cho con.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không xa ĺa đạo hạnh mà thuận theo năm ấm, các giới, các nhập. V́ năm ấm là không, nên giới và nhập cũng không, hành động không trái với sự việc của quốc độ. V́ sao? V́ trị ở pháp không, không thấy pháp có tăng giảm, không nghịch với việc trộm cắp, v́ do trụ nơi không, ở trong pháp không, không thấy pháp có đem đến hoặc mang đi, không trái với việc binh, v́ trụ ở tánh không, ở trong pháp không, không thấy pháp có nhiều, có ít; không trái với việc đấu tranh, v́ trụ ở trong pháp không, không thấy pháp có thương có ghét. Lời nói thường hòa thuận, v́ trụ ở các pháp không, cũng không thấy có thường, vô thường.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển không nói việc thành quách, v́ trụ nơi không như hư không, không thấy hợp cũng không thấy tan, cũng không thấy sự việc hợp tan. V́ sao? V́ trụ ở nơi bốn tế, không thấy có được có mất, không nói ta hoặc việc của ta, không nói các việc thế tục, chỉ nói Bát-nhã ba-la-mật, không xa ĺa trí Nhất thiết. Bồ-tát thực hành Bố thí ba-la-mật, không tham lam ganh tî; thực hành Tŕ giới ba-la-mật, không làm theo ác giới; thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật, không sân hận; thực hành Tinh tấn ba-la-mật, không giải đãi, thực hành Thiền định ba-la-mật, không bị tán loạn; thực hành Trí tuệ ba-la-mật, không bị ngu si; thực hành các pháp không là chủ các pháp chứ không phải là chủ của phi pháp; thực hành pháp tánh khen ngợi những người không phá hoại pháp, làm bạn thân của các đệ tử Như Lai, Duyên giác, với Bồ-tát, những người mới phát tâm Bồ-đề, những thiện nam, tín nữ. Bồ-tát thường mong cầu được gặp các Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác, được chiêm ngưỡng chư Phật mười phương, nguyện vãng sinh về quốc độ của Đức Phật mà Bồ-tát gặp, liền được vãng sinh, ngày đêm thường nhớ đến Phật. V́ sao? V́ các Bồ-tát không thoái chuyển tùy thuận chúng sinh mà vào cõi Dục, vâng giữ mười điều thiện, được sinh ở trước mười phương chư Phật, vượt qua Thiền thứ nhất cho đến Thiền thứ tư, từ Thiền thứ tư đến Thiền vô sắc, liền được sinh ở trước mười phương chư Phật. Tu-bồ-đề, do đầy đủ tướng mạo, hành động, nên biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, an trụ nội không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn giải thoát cũng không nói ta là không thoái chuyển, không nói ta chẳng phải là không thoái chuyển, tự ḿnh an trú trong địa vị đó, hoàn toàn không nghi ngờ. V́ sao? V́ lúc đầu không thấy pháp có thay đổi, không thay đổi. Ví như vị Tu-đà-hoàn an trú trong đạo của ḿnh, không còn nghi ngờ. Bồ-tát không thoái chuyển cũng như vậy, tự an trú trong địa vị của ḿnh, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật. Việc ma vừa phát sinh, Bồ-tát liền hay biết, không theo sự sai khiếncủa nó mà còn phá hoại nó. Còn như người ngu th́ cứ ôm lòng xấu ác, đến chết vẫn không thay đổi.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển tự an trú trong địa vị của ḿnh cũng như vậy. Chư Thiên, Nhân loại, Quỷ thần, Rồng, A-tu-la, ma Ba-tuần cũng không thể làm cho Bồ-tát lay chuyển được. V́ sao? V́ Bồ-tát vượt lên trên tất cả chư Thiên, Rồng, Quỷ thần trong thế gian, tự ḿnh có đầy đủ năm Thần thông, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, làm phát triển căn lành ở nơi cõi Phật, thưa hỏi giáo pháp với các Phật. Chỗ trụ xứ có việc ma, Bồ-tát biết liền rồi dùng phương tiện quyền xảo mà ở cảnh giới của ma. Đối với địa vị của ḿnh, Bồ-tát không nghi ngờ chán nản. V́ đối với chân tánh Bồ-tát không hoài nghi, biết chân tánh chẳng phải một cũng chẳng phải hai, vượt qua địa vị A-la-hán, Bích-chi-phật.

Này Tu-bồ-đề! Đối với pháp Không, Vô tướng, Bồ-tát không thấy sinh, cũng không thấy diệt, không thấy xả bỏ cũng không thấy dính mắc, cũng không nghĩ rằng: “Ta sẽ chứng đắc Phật trí”; cũng không nói “Ta không chứng đắc Phật trí.” V́ sao? V́ tự tướng của Chánh đẳng giác là không. Bồ-tát này tự an trú ở địa vị hoàn toàn đầy đủ, không mong các việc nào khác, không ǵ có thể phá hoại được địa vị này, v́ Bồ-tát không thoái chuyển có trí tuệ hơn hẳn người khác.

Ma Ba-tuần giả làm Phật đến chỗ Bồ-tát nói:

–Ông hãy chấp nhận địa vị A-la-hán đi, ông không được thọ ký thành Chánh đẳng giác đâu. Ông cũng chưa chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn. Các Đức Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác, không thọ ký cho ông. Ông cũng chưa có việc này, cũng không có tướng mạo thế này, để xứng đáng được thọ ký.

Tu-bồ-đề! Bồ-tát nghe việc này không sợ sệt, không nghi ngờ, không nhàm chán, không lưỡng lự. Bồ-tát này nên biết đã được các Đức Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác thọ ký rồi. V́ sao? V́ Bồ-tát tự biết ḿnh có đủ những việc như vậy nên có thể thọ ký làm bậc Chánh đẳng giác.

Ma Ba-tuần lại giả làm Phật, đến chỗ Bồ-tát, đem việc ma thọ ký cho Bồ-tát thành Chánh đẳng Chánh giác. Bồ-tát này liền biết đó là ma, hoặc là do ma sai khiếngiả làm Phật đến chứ không phải là Phật, chỉ muốn làm cho ta chấp nhận quả vị A-la-hán, Bích-chi-phật thôi.

Tu-bồ-đề! Nếu ma Ba-tuần lại giả làm Phật đến chỗ Bồ-tát mà bảo rằng:

–Việc ông làm không phải là Phật nói, cũng chẳng phải do đệ tử của Phật nói, chỉ là việc ma mà thôi.

Tu-bồ-đề! Bồ-tát cũng biết rõ đó là ma hoặc do ma sai khiến, chứ không phải là Phật. Ma muốn phá hoại không cho ta chứng quả Bồ-đề, nhưng ý ta không hề lay chuyển. Bồ-tát này không bị lay chuyển, v́ đã dược chư Phật quá khứ thọ ký rồi và đã an trụ ở địa vị không thoái chuyển. V́ sao? V́ h́nh tướng, hành động đầy đủ có thể giữ vững không thoái chuyển. V́ vậy, nên biết đó là tướng của Bồ-tát không thoái chuyển.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật muốn hộ tŕ các pháp nên không tiếc thân mạng. Đó là Bồ-tát ủng hộ Chánh pháp của Phật trong quá khứ, vị lai, hiện tại.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bồ-tát muốn hộ tŕ Chánh pháp không tiếc thân mạng nên hộ tŕ những pháp nào?

Phật dạy:

–Ta nói pháp không người ngu chê bai, phỉ báng, nói là phi pháp, phi luật hành, phi chánh giáo.

Tu-bồ-đề! V́ pháp này nên Bồ-tát hộ tŕ Chánh pháp. Bồ-tát nên nghĩ thế này: “Trong hội thuyết pháp của chư Phật đời vị lai, ta là một trong những người được thọ ký. Pháp này lại là pháp của ta, do pháp này nên ta không tiếc thân mạng.”

Tu-bồ-đề! V́ pháp này nên Bồ-tát không tiếc thân mạng. Do h́nh tướng hành động đầy đủ nên biết là Bồ-tát không thoái chuyển.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Nghe nói pháp thâm sâu, Bồ-tát không thoái chuyển không nghi ngờ, không kinh ngạc, thọ tŕ lời dạy của chư Phật, không hề quên sót. V́ sao? V́ Bồ-tát đã thực hành Đà-lani.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát chứng đắc những Đà-la-ni nào mà có thể thọ tŕ các pháp của Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác không quên sót?

Phật dạy:

–Bồ-tát do nghe và thọ tŕ các pháp Đà-la-ni liền có thể thọ tŕ kinh pháp của chư Phật không quên sót.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đó là lời Như Lai nói, không phải là do Thanh văn nói; cũng không phải Trời, Rồng, Quỷ thần, A-tu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc nói.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–V́ chứng đắc pháp Đà-la-ni, nên khi mới nghe các thứ âm thanh, Bồ-tát không kinh ngạc, không hồ nghi. Do h́nh tướng hành động đầy đủ nên biết đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển.

Phẩm 58: THẬM THÂM

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát không thoái chuyển, có công đức đầy đủ không thể nói hết.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Đúng vậy, Bồ-tát không thoái chuyển có công đức lớn không thể nói hết. V́ Bồ-tát có trí tuệ vô ngại, vô hạn, các A-la-hán, Bích-chi-phật không thể sánh bằng. Bồ-tát không thoái chuyển trụ trong tuệ này liền được thần thông; chư Thiên, nhân loại không thể sánh kịp.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Phải trải qua hằng sa kiếp khen ngợi công đức, hành động tướng mạo đầy đủ của Bồ-tát không thoái chuyển. Bồ-tát thể nhập an trụ vào trí tuệ thâm sâu, thực hành sáu pháp Ba-la-mật, đầy đủ ba mươi bảy phẩm Trợ đạo và trí Nhất thiết, có thể nhờ đó làm cho mọi người biết được công đức của Đại Bồ-tát không thoái chuyển không?

Phật dạy:

–Lành thay, lành thay! Ông khéo hỏi chỗ thâm áo của Bồ-tát không thoái chuyển. Chỗ thâm áo đây là Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô sở hữu, vô sinh diệt, từ các nhiễm mà nói lên Niết-bàn thanh tịnh, nói về Như, về tịch diệt, về pháp tánh, chân tế. Các pháp thâm áo này đều là biểu tượng của Niết-bàn.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nói như vậy chỉ có Niết-bàn là thâm áo, còn các giáo pháp khác không phải là thâm áo sao?

Phật bảo:

–Này Tu-bồ-đề! Thâm áo cũng là các giáo pháp vậy. Này Tu-bồ-đề! Năm ấm là thâm áo, sáu trần là thâm áo, cho đến đạo cũng là thâm áo.

Này Tu-bồ-đề! Tại sao năm ấm là thâm áo? Năm ấm như như, do đó thâm áo, cũng là đạo Như. V́ vậy năm ấm là thâm áo, đạo cũng là thâm áo. Thế nào là như như? Như không phải là năm ấm, cũng không xa ĺa năm ấm. Như chẳng phải là đạo, cũng không xa ĺa đạo.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát không thoái chuyển thật là kỳ diệu, thâm áo vi diệu như vậy. Diệt trừ năm ấm là Niết-bàn, các pháp thuộc đạo hay thế tục, thuộc sở tác hay vô tác; hữu lậu hay vô lậu đều phải diệt trừ hết th́ mới là Niết-bàn.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật sâu xa vi diệu, Đại Bồ-tát nên ghi nhớ hoặc thọ tŕ, an trụ tâm niệm vào giáo pháp Bát-nhã ba-la-mật, sự học cũng theo giáo pháp Bát-nhã ba-la-mật. Như vậy, Bồ-tát đầy đủ như giáo pháp Bát-nhã ba-la-mật. Bồ-tát thọ tŕ, nhớ nghĩ đầy đủ như vậy sẽ được vô lượng công đức căn lành, diệt trừ được khổ trong vô lượng kiếp sinh tử, huống chi là hết lòng hộ tŕ, thực hành Bát-nhã ba-la-mật là pháp tương ứng vơi đạo.

Ví như người tánh t́nh ham muốn phóng túng, hẹn với cô gái xinh đẹp, nhưng cô gái ấy có việc không đến chỗ hẹn đúng lúc. Ý ông nhưng ghĩ thế nào? Trong thời gian cô gái chưa đến th́ người nam kia có bao nhiêu ý tưởng phát sinh?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát phụng hành Bát-nhã ba-la-mật đúng như pháp ấy, nhất tâm trong một ngày không thoái chuyển th́ dứt trừ được khổ trong nhiều kiếp. Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật trong một ngày được công đức thiện căn còn nhiều hơn Bồ-tát chỉ thực hành bố thí trong hằng hà sa kiếp.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Bồ-tát cúng dường Tam bảo trong hằng hà sa kiếp được phước đức nhiều không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều, không thể đếm được.

Phật dạy:

–Vẫn không bằng phước đức của Bồ-tát nghĩ và thực hành Bát-nhã ba-la-mật chỉ trong một ngày đúng như lời Bát-nhã ba-la-mật dạy. Công đức này không thể đếm được. V́ sao? V́ Bồ-tát nhờ đó mà mau thành tựu Chánh đẳng giác.

Này Tu-bồ-đề! Nếu có Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật trải qua hằng hà sa kiếp tạo công đức cúng dường các bậc Tu-đà-hoàn, A-la-hán, Bích-chi-phật cho đến Chánh đẳng giác, ý ông thế nào? Người đó được công đức nhiều không?

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật dạy:

–Vẫn không bằng phước đức của Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật đúng như pháp ấy, công đức đó không thể đếm được. V́ Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật th́ hơn hẳn A-la-hán, Bích-chi-phật, từ địa vị Bồ-tát thành tựu được Chánh đẳng giác.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát trải qua hằng sa kiếp thực hành sáu pháp Ba-la-mật, phước đức ấy nhiều không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật dạy:

–Vẫn không bằng phước đức của Bồ-tát theo lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật, chỉ trong một ngày thực hành sáu pháp Ba-la-mật, công đức đó không thể tính đếm được. V́ sao? V́ Bát-nhã ba-la-mật là mẹ của các Đại Bồ-tát, an trụ trong Bát-nhã ba-la-mật th́ đầy đủ tất cả Phật pháp.

Này Tu-bồ-đề! Nếu có Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, trải qua hằng sa kiếp thực hành pháp thí, theo ông, công đức của Bồ-tát đó có nhiều không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật dạy:

–Vẫn không bằng công đức pháp thí của Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật chỉ trong một ngày đúng như pháp ấy dạy, công đức đó không thể đếm được. V́ Bồ-tát không xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật th́ không xa ĺa trí Nhất thiết. Bồ-tát muốn được thành tựu Vô thượng Chánh đẳng giác th́ không nên xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Có phải năm ấm không thể lường, không thể đếm, không thể giới hạn không?

Phật dạy:

–Đúng vậy!

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Do đâu mà năm ấm không thể lường, không thể đếm, không thể giới hạn?

Phật dạy:

–Năm ấm là không thể đếm, không thể lường được.

Tu-bồ-đề thưa:

–Chỉ có năm ấm là không còn các pháp khác không phải là không hay sao?

Phật dạy:

–Trước đây ta chẳng nói các pháp là không hay sao?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn cũng nói các pháp là không; không cũng là không cùng tận, không thể đếm, không thể lường, không thể đo được tướng. Bạch Thế Tôn, nghĩa pháp này không thể đếm được.

Phật dạy: 

–Đúng như lời ông nói. V́ các pháp không thể đắc được. Phật nói bao nhiêu cũng không thể đắc được. Pháp này là Không, Vô tướng, Vô nguyện, Vô sở hữu, Vô sở sinh. Đó là tịch diệt Niết-bàn, là Như Lai vô tận cho đến Niết-bàn.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu chưa từng có. Con đã từng nghe pháp không sự chứng đắc của Thế Tôn dạy, các pháp như lời Thế Tôn nói cũng không thể chứng đắc. Do các pháp không thể chứng đắc, không cũng không thể chứng đắc, nghĩa không thể chứng đắc có tăng giảm không?

Phật dạy:

–Không có tăng giảm.

Tu-bồ-đề thưa:

–Sáu pháp Ba-la-mật cũng không có tăng, giảm; ba mươi bảy phẩm Trợ đạo cũng không có tăng, giảm; Tám giải thoát, bốn Vô ngại tuệ, bốn Tâm vô lượng, mười tám pháp Bất cộng, mười Lực, bốn Vô sở úy của Phật cũng không tăng, không giảm.

Tu-bồ-đề thưa tiếp:

–Bạch Thế Tôn! Nếu pháp này từ sáu pháp Ba-la-mật cho đến bốn Vô sở úy; nếu có tăng, có giảm th́ không thành tựu Vô thượng Bồ-đề.

Phật dạy:

–Đúng vậy! Pháp không thể được, cũng không tăng, không giảm. Nếu thực hành Bát-nhã ba-la-mật hoặc nghĩ đến Bát-nhã ba-la-mật, hoặc tu tập phương tiện quyền xảo của Bát-nhã ba-la-mật, cũng không nghĩ rằng tôi được tăng sáu pháp Ba-la-mật hay bị giảm sáu pháp Ba-la-mật, mà nên nghĩ thế này: “Chỉ có danh tự nên có sáu pháp Ba-la-mật mà thôi, đem tâm niệm, ý nghĩ, thiện căn này, hồi hướng quả Vô thượng Bồ-đề, đúng như các pháp.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Vô thượng Bồ-đề, là Như của các pháp? Bạch Thế Tôn, những ǵ là tướng Như của các pháp, gọi là Vô thượng Bồ-đề?

Phật dạy:

–Tướng Như của năm ấm, của Niết-bàn là Vô thượng Bồ-đề; tướng Như ấy cũng không tăng, không giảm, v́ Bồ-tát không xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật lại càng tinh tấn thực hành Bát-nhã ba-la-mật, cũng không thấy các pháp có tăng, có giảm. V́ vậy, pháp không thể chứng đắc, cũng không tăng không giảm.

Này Tu-bồ-đề! Sáu pháp Ba-la-mật cũng không tăng không giảm, cho đến bốn Vô ngại trí cũng không tăng, không giảm. Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật nên nghĩ rằng không tăng, không giảm.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát thành tựu Vô thượng Bồ-đề là dùng tâm đầu tiên hay dùng tâm sau cùng mà thành. Tâm đầu tiên và tâm cuối cùng đều chẳng phải là một, th́ làm sao thiện căn hợp nhau được mà thành tựu Vô thượng Bồ-đề?

Bạch Thế Tôn! Tâm chẳng phải là một th́ làm sao thành tựu công đức, mà không thành tựu công đức th́ không thành tựu Bồ-đề?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Ta sẽ v́ ông mà nói ví dụ, những người có trí nhờ ví dụ mà hiểu rõ vấn đề. Ý ông thế nào? Ví như tim đèn mới đốt là nhờ ngọn lửa ban đầu hay là ngọn lửa lúc sau mà nó cháy được. Khi tim đèn cháy sáng là do ngọn lửa ban đầu hay do ngọn lửa lúc sau?

Tu-bồ-đề thưa:

–Không phải dùng ngọn lửa ban đầu, cũng không phải rời ngọn lửa ban đầu để cháy; không phải dùng ngọn lửa lúc sau, cũng không phải rời ngọn lửa lúc sau mà nó cháy sáng.

Phật bảo:

–Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không dùng tâm ban đầu cũng không rời tâm ban đầu mà thành Chánh đẳng giác; Bồ-tát không dùng tâm sau cũng không rời tâm sau mà thành Chánh đẳng giác.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật là thực hành từ khi mới phát tâm cho đến khi lên địa vị Thập trụ, thành tựu Chánh đẳng giác.

Tu-bồ-đề thưa:

–Thế nào là từ Thập trụ đến thành tựu Chánh đẳng giác?

Phật dạy:

–Trước tiên nhờ Trí địa, quán địa mới thành tựu Chánh đẳng giác. Từ Bát bối quán địa, Bạt địa, Ly dục địa, Dĩ biện dịa, Bích-chi-phật địa, Chánh đẳng giác địa, Phật địa; hoàn thành Phật địa rồi th́ thành Chánh đẳng giác.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Sự phát sinh mười hai nhân duyên là thâm áo, không do phát tâm ban đầu cũng không rời nhân duyên phát tâm ban đầu mà thành Chánh đẳng giác; không do phát tâm lúc sau cũng không rời phát tâm lúc sau mà chứng đắc Chánh đẳng giác.

Phật bảo:

–Tu-bồ-đề, ý ông thế nào? Ý đã diệt rồi có thể làm cho sinh lại được không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ý đã diệt rồi th́ không sinh lại được nữa.

Phật bảo:

–Tu-bồ-đề! Ý đã sinh là v́ pháp diệt phải không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thật là pháp diệt.

Phật dạy:

–Pháp đã diệt là diệt phải không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không phải.

Phật hỏi:

–Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Như vậy là trụ vào đâu?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Trụ vào Như như.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Nếu như trụ vào chân tế sẽ trụ vào Như như phải không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không phải.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Ý ông thế nào? Như là thâm áo phải không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đúng là thâm áo.

Phật hỏi:

–Tu-bồ-đề! Như là ý phải không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không. Như không phải là ý.

Phật hỏi:

–Tu-bồ-đề! Ý là rời Như chăng?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không phải.

Phật hỏi:

–Tu-bồ-đề! Như thấy được Như chăng?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Như không thấy được Như. Như cùng Như không thấy nhau.

Phật hỏi:

–Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành như vậy có phải là thực hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát thực hành như vậy là thực hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.

Tu-bồ-đề thưa tiếp:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát thực hành như vậy là thực hành pháp nào?

Phật dạy:

–Thực hành như vậy là thực hành mà không chỗ thực hành. V́ sao? V́ thực hành Bát-nhã ba-la-mật là không có điều ǵ để thực hành.

Tu-bồ-đề hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Như là không có ǵ cũng không làm ǵ?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật là thực hành điều ǵ?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đó là thực hành chỗ cứu cánh không có hai.

Phật hỏi:

–Thực hành chỗ cứu cánh là có bao nhiêu hành động và có tướng hành không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không có.

Phật hỏi:

–Vô tướng là niệm hữu tướng phải không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không.

Phật hỏi:

–Thế nào là niệm hữu tướng?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng không niệm hữu tướng và vô tướng. Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không có đủ mười Lực và mười tám pháp Bất cộng của Phật th́ không thành tựu Chánh đẳng giác.

Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo đối với các pháp không nhớ nghĩ cũng không không nhớ nghĩ. V́ sao? V́ Bồ-tát biết tướng tất cả các pháp đều là không. Bồ-tát trụ ở pháp không v́ chúng sinh mà thực hành ba Tam-muội, dùng ba Tam-muội để giáo hóa chúng sinh.

Bạch Thế Tôn, thế nào là ba Tam-muội của Bồ-tát?

Phật dạy:

–An trụ ở ba Tam-muội này là tương ưng với Không, Vô tướng, Vô nguyện. Tất cả chúng sinh đều vướng mắc vào Không, Vô tướng, Vô nguyện. Đại Bồ-tát làm an ổn giáo hóa chúng sinh bằng pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, thực hành Bát-nhã ba-la-mật. Bồ-tát dùng ba Tam-muội này để giáo hóa chúng sinh.

Phẩm 59: THỰC HÀNH TRONG MỘNG

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:

–Trong chiêm bao Bồ-tát thực hành ba Tam-muội Không, Vô tướng, Vô nguyện th́ có lợi ích ǵ đối với Bát-nhã ba-la-mật không?

Tu-bồ-đề đáp:

–Nếu ban ngày thực hành ba Tam-muội có lợi ích đối với Bát-nhã ba-la-mật th́ ban đêm trong lúc chiêm bao cũng có lợi ích như vậy. V́ sao? V́ ban ngày với ban đêm lúc chiêm bao giống nhau.

Thưa Xá-lợi-phất! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, nếu có Bát-nhã ba-la-mật th́ lúc nằm mộng liền nghĩ đến Bát-nhã ba-la-mật.

Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề:

–Nếu lúc nằm mộng Bồ-tát làm việc ǵ th́ có thành tựu không? Theo lời Phật dạy, các pháp như mộng nên không có sự thành tựu, không có được sự thọ nhận. V́ sao? V́ trong chiêm bao không bao giờ thấy pháp được thành tựu, được thọ nhận, cũng không thấy có chỗ được, khi tỉnh mộng có được ǵ không?

Tu-bồ-đề đáp:

–Người trong lúc chiêm bao thấy có giết hại, nói là ta giết, như vậy sướng lắm, khi tỉnh dậy người ấy nhớ lại việc làm trong mộng. Sự việc đó thế nào?

Xá-lợi-phất đáp:

–Mọi việc đều có nhân duyên của nó, không có nhân duyên th́ không thể có.

Tu-bồ-đề nói:

–Đúng vậy, mọi việc đều có nhân duyên, có duyên th́ có niệm, có niệm th́ có việc. Việc do thấy nghe liền có hiểu biết, chấp trước, xả ly, không phải do không thấy, không nghe mà có duyên khởi. V́ thế, Xá-lợi-phất, do nhân duyên nên có việc sinh khởi, nên có niệm sinh.

Xá-lợi-phất hỏi:

–Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Phật nói ý nghĩ và việc làm đều tịch tĩnh, tại sao việc làm có sinh khởi có thành tựu và thọ nhận?

Tu-bồ-đề đáp:

–Khi ý tưởng phát sinh liền có nhân duyên, có nhân duyên liền có việc, có việc liền có niệm.

Xá-lợi-phất thưa:

–Nếu Bồ-tát ở trong mộng thực hành sáu pháp Ba-la-mật, đem công đức này để mong cầu Vô thượng Bồ-đề th́ đó có phải là hành động không?

Tu-bồ-đề đáp:

–Bồ-tát Di-lặc được Thế Tôn thọ ký. Ông nên hỏi Di-lặc có thể giải đáp câu hỏi đó.

Bấy giờ, Xá-lợi-phất hỏi Di-lặc:

–Như lời tôi hỏi, Tu-bồ-đề nói Tôn giả có thể giải đáp, xin ngài giải đáp cho tôi.

Lúc đó Bồ-tát Di-lặc bảo ngài Xá-lợi-phất:

–Các ông muốn ta dùng danh, sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà đáp không, nên dùng việc nào giải đáp, nên dùng không của sắc để giải đáp hay dùng không của thọ, tưởng, hành, thức để giải đáp; không của sắc không thể giải đáp; không của thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy. Trước kia ta không thấy pháp nào có khả năng giải đáp, cũng không có thọ ký quả Vô thượng Bồ-đề, cũng không có chỗ thọ ký, pháp này đều không có hai.

Xá-lợi-phất thưa:

–Theo lời Tôn giả nói như vậy là Tôn giả đã chứng đắc phải không?

Bồ-tát Di-lặc đáp:

–Tuy nói vậy, tôi cũng không chứng đắc.

Xá-lợi-phất nghĩ rằng: “Bồ-tát Di-lặc là bậc đại tài, đã thâm nhập sáu pháp Ba-la-mật, giải đáp các việc không chấp trước.” Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Ông thấy có pháp này để chứng đắc La-hán không?

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không thấy pháp này có chứng đắc.

Phật dạy:

–Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng không nghĩ là pháp này đã thọ ký, pháp này nên thọ ký được Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát thực hành pháp này là thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng không có nghi ngờ ǵ. Ta sẽ chứng đắc Phật trí cũng không nghi ngờ là không được.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi Bồ-tát thực hành Bố thí ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh nào đói khát, áo không đủ mặc, nghèo cùng khốn khổ, không thể tự sống được th́ Bồ-tát nên phát lòng đại Bi: “Khi ta chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, cõi nước của ta không có nghèo cùng khốn khổ như vậy mà cơm ăn áo mặc đủ như cõi trời Tứ thiên, trời Đao-lợi, vua trời thứ sáu, ăn mặc đều tự nhiên đầy đủ.”

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành pháp này là đầy đủ Bố thí ba-la-mật.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành Giới ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh không có lòng từ mà giết hại mạng sống, tà kiến, nghi ngờ, phạm mười điều ác, thấy có người mạng sống ngắn ngủi, nhiều tật bệnh, xấu xí, gầy ốm, hạ tiện, liền phát lòng đại Bi làm cho ta vâng giữ Giới ba-la-mật: “Khi ta thành Phật, trong nước ta không có hạng người này.” Bồ-tát như vậy là đầy đủ Giới, không bao lâu sẽ chứng đắc Phật trí.

Này Tu-bồ-đề! Khi thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh sân hận dùng dao, mâu, gạch, đá giết hại lẫn nhau, Bồ-tát phát đại nguyện: “Ta sẽ nỗ lực thực hành nhẫn nhục cho đến khi thành Phật làm cho trong nước của ta không có hạng người và các việc ác này. Khi ta thành Phật, trong nước của ta tất cả chúng sinh đều thân ái hòa thuận với nhau như cha mẹ, anh em, không sát hại lẫn nhau.” Bồ-tát thực hành như vậy là đầy đủ nhẫn nhục, không bao lâu sẽ chứng đắc Phật trí.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành Tinh tấn ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh đối với pháp ba thừa phát sinh tướng biếng nhác, không tinh tấn, Bồ-tát liền phát đại nguyện: “Ta sẽ tự ḿnh cố gắng tinh tấn, không biếng nhác. Khi thành Phật ta sẽ làm cho chúng sinh tinh tấn đối với giáo pháp Tam thừa trong nước ta đều được độ thoát.” Bồ-tát như vậy là đầy đủ tinh tấn, không bao lâu sẽ chứng đắc Phật trí.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành Thiền định ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh hành động theo năm triền cái: Dâm dật, sân hận, tham ngủ, trạo cử, nghi ngờ, xa ĺa bốn Thiền, bốn Không định, Bồ-tát liền phát đại nguyện làm cho ta thực hành Thiền định ba-la-mật, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật: “Khi ta thành Phật, tất cả chúng sinh trong nước của ta không có tán loạn.” Bồ-tát như vậy là đầy đủ Thiền định, không bao lâu sẽ chứng đắc Phật trí.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành Trí tuệ ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh phạm điều ác hoặc kẻ tục người đạo, xa ĺa Chánh kiến, thực hành việc tà đạo, nói không có quả báo, chết là hết, nói có chúng sinh, Bồ-tát phát đại nguyện: “Ta sẽ nỗ lực thực hành sáu pháp Ba-la-mật, làm thanh tịnh cõi Phật giáo hóa chúng sinh. Khi ta thành Phật, trong nước của ta không có hạng người có tà kiến.” Như vậy là Bồ-tát đầy đủ Trí tuệ ba-la-mật, mau chứng trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi Bồ-tát thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh ở trong ba hạng: Một là chánh kiến, hai là tà kiến, ba là cũng không tà kiến cũng không chánh kiến th́ phát nguyện: “Ta sẽ thực hành sáu pháp Ba-la-mật giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật. Khi ta thành Phật người trong nước của ta không thấy việc tà kiến, không nghe tiếng tà kiến.” Như vậy là Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau đến trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, côn trùng, Bồ-tát nên phát đại Từ: “Ta sẽ thực hành sáu pháp Ba-la-mật. Khi ta thành Phật, trong nước của ta không nghe tên ba đường ác.” Như vậy Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau đến trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy đất, núi, gò, ngòi, rãnh, hầm hố, gai góc, cây cỏ dơ bẩn, Bồ-tát phát nguyện rộng lớn: “Ta sẽ nỗ lực thực hành Bát-nhã ba-la-mật. Khi ta thành Phật, nước ta đều bằng phẳng như lòng bàn tay, người trong nước ta không thấy các thứ ô uế.” Như vậy Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau đến trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Không thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy trên mặt đất không có vàng ròng châu báu, chỉ toàn là đất. Bồ-tát liền phát nguyện: “Ta sẽ nỗ lực thực hành sáu pháp Ba-la-mật. Khi ta thành Phật, trong nước ta từ lòng đất trở lên toàn là vàng ròng.” Như vậy là Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau đến trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh tham đắm, Bồ-tát phát nguyện rằng: “Ta sẽ nỗ lực thực hành sáu pháp Ba-la-mật, khi ta thành Phật, người trong nước ta không còn tham đắm.” Như vậy là Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau đến trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy bốn dòng họ: Sát-lợi, Phạm chí, nhà nông, thợ thuyền, quan lại, binh sĩ th́ tôi phát nguyện rằng: “Ta sẽ nỗ lực thực hành sáu pháp Ba-la-mật, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật. Khi ta thành Phật, trong nước ta không có bốn dòng họ, chỉ thuần một dòng họ.” Như vậy là Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau đến trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh thuộc gia đ́nh thượng lưu, trung lưu, hạ lưu; Bồ-tát lại phát nguyện: “Ta sẽ nỗ lực thực hành sáu pháp Ba-la-mật, giáo hóa chúng sinh làm thanh tịnh cõi Phật. Khi ta thành Phật tất cả chúng sinh trong nước ta không có tầng lớp sang hèn.” Như vậy là Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau đến trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh đủ các chủng loại h́nh sắc, Bồ-tát phát nguyện rằng: “Ta sẽ nỗ lực thực hành sáu pháp Ba-la-mật, giáo hóa chúng sinh làm thanh tịnh cõi Phật. Khi ta thành Phật, người trong nước ta không có nhiều màu da, tất cả đều xinh đẹp, cùng một màu da đẹp nhất.” Như vậy Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau đến trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy nhà vua, Bồ-tát phát nguyện rằng: “Ta sẽ nỗ lực thực hành sáu pháp Ba-la-mật, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật. Khi ta thành Phật, trong nước ta không có danh hiệu của vua, chỉ có Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác là Pháp vương.” Như vậy Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau chứng trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh gây nghiệp sinh vào năm đường, Bồ-tát phát nguyện: “Ta sẽ nỗ lực thực hành sáu pháp Ba-la-mật, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật. Khi ta thành Phật người trong nước ta không có hành động làm cho sinh vào năm đường, đều thực hành ba mươi bảy phẩm Trợ đạo.” Như vậy Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau chứng trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy bốn cách sinh: Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh và hóa sinh, Bồ-tát phát nguyện: “Ta sẽ nỗ lực thực hành sáu pháp Ba-la-mật, giáo hóa chúng sinh làm thanh tịnh cõi Phật. Khi ta thành Phật, người trong nước ta không có ba cách sinh kia mà chỉ có một loại hóa sinh mà thôi.” Như vậy Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau chứng trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, Bồ-tát nếu thấy chúng sinh không có năm Thần thông, không có ánh sáng, Bồ-tát phát nguyện: “Khi ta thành Phật, mọi người trong nước ta đều chứng đắc năm Thần thông, đều có ánh sáng chiếu tận nơi xa.” 

Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh đại tiểu tiện, Bồ-tát phát nguyện: “Khi ta thành Phật thân người trong nước ta như thân chư Thiên, không có nạn khổ đại tiểu tiện.” 

Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, Bồ-tát phát đại nguyện: “Khi ta thành Phật, người trong nước ta không có phân biệt thời gian về ngày, tháng, năm.” 

Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh mạng sống ngắn ngủi, Bồ-tát phát đại nguyện: “Khi ta thành Phật, mạng sống người trong nước ta rất dài, không có kỳ hạn.” Như vậy, Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, thành tựu Chánh đẳng giác. 

Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh không có tướng tốt, Bồ-tát phát đại nguyện: “Ta sẽ nỗ lực thực hành sáu pháp Ba-la-mật, khi ta thành Phật, người trong nước ta đều đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc Đại nhân.” Như vậy là Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau đến trí Nhất thiết. 

Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nếu thấy chúng sinh không có thiện căn, Bồ-tát phát nguyện: “Khi ta đắc Phật trí, người trong nước ta đầy đủ thiện căn, đồng như Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác.” Bồ-tát suy nghĩ như vậy th́ đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau đến trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, Bồ-tát nói rằng ta sẽ nỗ lực, mau thành Chánh đẳng giác. Trong nước ta không có ba cấu, bốn bệnh. Như vậy là Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau đến trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, Bồ-tát nói rằng ta sẽ nỗ lực, mau thành Chánh đẳng giác. Khi ta thành Phật, trong nước ta không có tên của hai đạo, tất cả đều trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành sáu pháp Ba-la-mật, chứng đắc Phật trí sẽ làm cho trong nước không còn nghe đến tên hung dữ.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành sáu pháp Ba-la-mật sẽ nghĩ rằng ta chưa đắc Phật trí, trước tiên nên biết tuổi thọ, ánh sáng, số Tỳ-kheo Tăng của ta, sau đó mới đắc Phật trí, tất cả mỗi mỗi đều không thể biết được kiếp số tuổi thọ và số Tỳ-kheo Tăng của ta. Như vậy là Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau đến trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nghĩ rằng khi thành Phật, ta sẽ làm cho nước của ta lớn bằng cả hằng hà sa số cõi nước Phật. Như vậy Bồ-tát đầy đủ Chánh đẳng giác, mau đến trí Nhất thiết.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Khi thực hành sáu pháp Ba-la-mật, Bồ-tát nên phát nguyện: “Tuy đường sinh tử th́ dài, chúng sinh vô số, hư không vô biên, tánh chúng sinh cũng không có giới hạn, ta ở trong đó cũng không chứng Vô sinh, cũng không Niết-bàn.” Nghĩ vậy, nhưng Bồ-tát vẫn phát nguyện độ hết chúng sinh. Đó là Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mau đến trí Nhất thiết.

Phẩm 60: HẰNG-GIA-ĐIỀU

Lúc bấy giờ, trong hội chúng có một người tên là Hằng-gia-điều, đứng dậy sửa y phục, quỳ gối, chắp tay bạch Phật rằng:

–Con sẽ phụng hành sáu pháp Ba-la-mật, hộ tŕ cõi Phật như lời Thế Tôn dạy về Bát-nhã ba-la-mật.

Tán thán Đức Phật xong, cô gái đem các loại hoa kim ngân, hoa thủy lăng, tấm y hoàng kim, chuỗi anh lạc dâng cúng Đức Phật. Những vật này hóa thành cái đài bốn trụ ở trên đầu Đức Phật, được trang trí bằng bốn thứ báu, trang nghiêm xinh đẹp chưa từng có.

Cô gái nói:

–Con sẽ đem công đức này hồi hướng cho chúng sinh, cùng phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Bấy giờ, biết ý cô gái nên Đức Thế Tôn mỉm cười, theo thường pháp của chư Phật, hào quang từ kim khẩu phóng ra chiếu khắp mười phương, vô số cõi Phật, nhiễu quanh thân Phật ba vòng rồi trở về đỉnh đầu.

Khi đó, A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục quỳ gối chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao Ngài mỉm cười? Xin nói cho con biết?

Phật bảo A-nan:

–Cô gái tên Hằng-gia-điều này vào đời vị lai sẽ thành Phật, hiệu là Kim Hoa Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác. Khi cô gái này bỏ thân nữ sẽ nhận thân người nam, rồi sinh vào cõi Phật Diệu Lạc. Ở nước Phật đó, tu hành phạm hạnh. Đại Bồ-tát này sinh ra ở nước nào cũng thường có danh hiệu là Kim Hoa. Ở nước đó trọn đời du hóa khắp nước, từ cõi Phật này đến cõi Phật kia, không xa ĺa chư Phật.

Này A-nan! Ví như Chuyển luân thánh vương đi từ cung điện này sang cung điện khác, từ lúc sinh đến lúc băng hà, chân không hề chạm đất. Bồ-tát Kim Hoa này cũng vậy, đến lúc đạt Phật trí luôn luôn được thấy Phật.

Lúc bấy giờ A-nan nghĩ rằng: “Bồ-tát Kim Hoa này, sau khi thành Phật, các hội của Bồ-tát là hội của cả chư Phật, chúng Tỳkheo rất nhiều, không thể dùng số ngàn vạn ức để tính được.” Phật bảo A-nan:

–Này A-nan! Bồ-tát Kim Hoa này, lúc thành Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác, cõi nước của Ngài không có các điều ác, điều bất thiện như nói ở trên. Bát-nhã ba-la-mật làm thanh tịnh, xinh đẹp cõi Phật chứ không có ǵ ác.

A-nan bạch Phật:

–Cô gái này tu từ thời Đức Phật nào đến nay mà được nhiều công đức như vậy?

Phật bảo A-nan:

–Cô gái này phát tâm từ thời Đức Đề-hòa-kiệt-la. Lúc rải hoa cúng dường, cô gái này nguyện rằng: Con sẽ đem công đức này hồi hướng thành Chánh đẳng giác.

Cũng như lúc ta đem năm cành hoa vàng rải dâng cúng dường Đức Phật Đề-hòa-kiệt-la và phát nguyện thành Chánh đẳng giác. Lúc đó, Đức Phật kia biết ta đầy đủ công đức liền thọ ký cho ta thành Chánh đẳng giác. Bồ-tát Kim Hoa này trông thấy ta được thọ ký liền phát nguyện rằng: “Con cũng sẽ được thọ ký như Bồ-tát này.”

Này A-nan! Bồ-tát Kim Hoa này mới phát tâm từ thời Đức Phật Đề-hòa-kiệt-la. 

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Cô gái này đã thành tựu trí Vô thượng Chánh đẳng giác.

KINH PHÓNG QUANG BÁT-NHÃ

 Mục Lục

Quyển-1   Quyển-2   Quyển-3   Quyển-4   Quyển-5   Quyển-6   Quyển-7   Quyển-8   Quyển-9   Quyển-10   Quyển-11   Quyển-12   Quyển-13   Quyển-14   Quyển-15   Quyển-16   Quyển-17   Quyển-18   Quyển-19   Quyển-20

 

previous.png         back_to_top.png         next.png

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0