KINH PHÓNG QUANG BÁT-NHÃ
Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Vô-la-xoa, người nước Vu Điền.
QUYỂN 12
Phẩm 53: THÂN CẬN BẠN TỐT CHÂN THẬT
Bấy giờ ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Hàng tân học Bồ-tát học sáu pháp Ba-la-mật như thế nào?
Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Hàng tân học Bồ-tát muốn học sáu pháp Ba-la-mật thường phải đi theo phụng sự, thân cận những bạn tốt chân thật, đi theo và gần gũi những người có khả năng hiểu và giảng Bát-nhã ba-la-mật. Người có khả năng hiểu rõ và giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật thường khuyến khích giúp đỡ người khác, làm cho họ học tập sáu pháp Ba-la-mật và giữ ǵn phụng hành để chứng đắc Vô thượng Bồ-đề. Chớ so sánh năm ấm với quả vị Vô thượng Bồ-đề, chớ so sánh sáu pháp Ba-la-mật với quả vị Vô thượng Bồ-đề, chớ so sánh nội ngoại không, hữu vô không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười tám pháp Bất cộng với trí Nhất thiết. V́ sao? V́ người không so sánh năm ấm liền đạt được trí Nhất thiết; Người không so sánh sáu pháp Ba-la-mật, nội ngoại không, hữu vô không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo và mười tám pháp Bất cộng liền đắc được trí Nhất thiết.
Này thiện nam! Khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật chớ nên phát khởi ý tưởng lệ thuộc vào năm ấm. V́ sao? Này thiện nam, năm ấm chẳng nên lệ thuộc cũng chớ lệ thuộc vào sáu pháp Ba-la-mật.
Này thiện nam! Sáu pháp Ba-la-mật chẳng có thể lệ thuộc, cũng không nên lệ thuộc vào nội ngoại không, hữu vô không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười tám pháp Bất cộng cho đến trí Nhất thiết cũng không lệ thuộc. V́ sao? V́ bậc trí Nhất thiết cũng chẳng lệ thuộc, cũng chớ phát sinh sự lệ thuộc quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-la-hán và Bích-chi-phật, cũng không phát sinh sự lệ thuộc Bồ-tát thừa và quả vị Vô thượng Bồ-đề. V́ sao? Này thiện nam, quả vị Vô thượng Bồ-đề chẳng có thể lệ thuộc. V́ sao? V́ tướng của các pháp đều là không.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát chịu khổ đối với pháp không, vô tướng nên phát tâm Vô thượng Bồ-đề muốn chứng Phật trí.
Phật dạy:
–Này Tu-bồ-đề! Đúng như vậy. Bồ-tát rất chịu khổ đối với pháp không, vô tướng nên phát tâm Vô thượng Bồ-đề để được Phật trí.
Này Tu-bồ-đề! V́ thế gian nên Bồ-tát thương xót, an ổn thế gian và muốn cứu tất cả chúng sinh trong thế gian. V́ chúng sinh, nên Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề, v́ làm chỗ nương tựa cho thế gian, bảo hộ thế gian, làm ngọn đèn soi sáng cho thế gian, nên Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề; làm tướng lãnh, làm người dẫn đường cho thế gian, làm nhà, làm quy hướng cho thế gian, nên Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề.
Này Tu-bồ-đề! Thế nào là Bồ-tát v́ chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề? V́ muốn độ thoát chúng sinh trong năm đường làm cho an ổn, ở bờ vô úy, thản nhiên vào Niết-bàn, nên Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề.
Thế nào là Bồ-tát muốn an ổn cho thế gian? Này Tu-bồ-đề, bậc Đại Bồ-tát v́ muốn độ cho chúng sinh thoát khỏi khổ não ưu sầu đến được bờ vô ưu, thản nhiên vào Niết-bàn nên làm an vui cho thế gian.
Này Tu-bồ-đề! V́ sao Bồ-tát cứu giúp thế gian? Thế gian lắm sự sinh tử, nên Bồ-tát chuyên cần vất vả cứu giúp chúng sinh làm cho họ thoát khỏi các sự khổ. Bồ-tát dùng giáo pháp cứu giúp hóa độ rồi tiếp theo dùng ba thừa độ thoát họ, v́ thế Bồ-tát cứu giúp thế gian.
Này Tu-bồ-đề! V́ sao Bồ-tát bảo hộ thế gian? Chúng sinh trong thế gian chịu sinh tử nên Bồ-tát bảo hộ làm cho họ không còn tái sinh. Chúng sinh chịu nhiều sự già, bệnh, chết nên Bồ-tát bảo hộ làm cho không già, không bệnh, không chết; những người buồn rầu làm cho họ đạt đến Vô-dư Niết-bàn. V́ thế, Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề để bảo hộ thế gian.
Này Tu-bồ-đề! V́ sao nói Bồ-tát làm nhà cho thế gian? Bậc Đại Bồ-tát này khi đắc quả Vô thượng Bồ-đề thuyết các pháp không trở ngại cho thế gian. Thế nên nói Bồ-tát làm nhà cho thế gian.
Này Tu-bồ-đề! V́ sao Bồ-tát làm ngọn đèn sáng cho thế gian? Từ nơi tối tăm của ba cõi, bậc Đại Bồ-tát nâng đỡ chúng sinh làm cho họ đạt đến Niết-bàn, thế nên Bồ-tát làm ngọn đèn sáng cho thế gian.
V́ sao Bồ-tát làm tướng lãnh cho thế gian? Bồ-tát khi đắc được Phật trí, v́ thế gian nói sắc không phải là của ta, không phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức không phải là của ta, không phải thức; cho đến trí Nhất thiết không phải là của ta, chẳng phải trí Nhất thiết.
Này Tu-bồ-đề! Cũng vậy, sắc chẳng phải ngã, chẳng phải sắc, giống như sắc chẳng phải ngã, các pháp cũng như vậy.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như lời Thế Tôn dạy, năm ấm chẳng phải của ta, các pháp cũng vậy, Bồ-tát không có giác ngộ các pháp. V́ sao? V́ sắc không có chỗ phân biệt cho đến trí Nhất thiết cũng không có chỗ phân biệt, cũng không nói là năm ấm cũng không mới là trí Nhất thiết.
Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Như lời ông nói, năm ấm không có chỗ phân biệt, cho đến trí Nhất thiết cũng không có chỗ phân biệt, cũng không nói là năm ấm, cũng không nói là trí Nhất thiết.
Này Tu-bồ-đề! Đây cũng là Bồ-tát chịu khổ thường thực hành Pháp này không nhàm chán mỏi mệt và cũng không biếng nhác. Bồ-tát nói: “Ta sẽ giác ngộ, cũng sẽ hành tŕ pháp thanh tịnh, rồi tuyên bố chỉ bày cho người chưa giác ngộ.
Này Tu-bồ-đề! V́ thế nên Bồ-tát nói cho thế gian nghe rằng sắc chẳng phải của ta.
Này Tu-bồ-đề! V́ sao Bồ-tát làm hòn đảo cho thế gian? Thí như vùng đất bị ngăn khỏi đất liền sông biển lớn được gọi là đảo, làm nơi tạm trú rất có lợi ích cho con người. Năm ấm thời tương lai và quá khứ bị chia làm hai, trí Nhất thiết tương lai và quá khứ cũng bị chia làm hai. Theo sự chia cắt này th́ các pháp cũng bị chia cắt, các pháp bị chia cắt th́ quá khứ tương lai cũng bị chia cắt. Như vậy những sự chia cắt là tịnh là vui, là chân thực, là không, ái hết th́ không còn chỗ nương tựa, không còn trần cấu và không còn ǵ cả. Đó gọi là Niết-bàn.
Này Tu-bồ-đề! Khi Bồ-tát đắc được Phật trí Vô thượng Bồ-đề liền truyền bá đây là giáo hóa bằng Pháp thanh tịnh, đây là giáo hóa bằng pháp chân thật để tế độ chúng sinh. Thế nên nói Bồ-tát làm hòn đảo cho thế gian.
Này Tu-bồ-đề! V́ sao nói Bồ-tát làm người dẫn đường cho thế gian? Khi Bồ-tát đắc được Phật trí Vô thượng Bồ-đề, v́ chúng sinh trên thế gian nói pháp năm ấm không sinh không diệt, không đắm trước, không chia cắt, thuyết pháp từ quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán, Bích-chi-phật và v́ những hàng này nói năm ấm không sinh, không diệt rồi đem giáo pháp này lưu bố khắp thế gian.
Này Tu-bồ-đề! Khi Bồ-tát đắc được Phật trí đã thuyết pháp này nên gọi là người dẫn đường cho thế gian.
Này Tu-bồ-đề! V́ sao nói Bồ-tát làm nơi hướng đến cho thế gian? Khi Bồ-tát đắc được Phật trí Vô thượng Bồ-đề đã nói pháp chân như của năm ấm và chân như của trí Nhất thiết hướng đến không. Năm ấm không th́ không có chỗ hướng đến, cũng không hướng đến, cũng không phải không hướng đến. V́ sao? V́ năm ấm và không cũng không đến không đi. Bồ-tát thuyết pháp này rồi lại v́ chúng sinh thuyết không của trí Nhất thiết, cũng không đến không đi, hướng mà không có chỗ hướng đến.
Này Tu-bồ-đề! V́ thế nên nói Bồ-tát làm chỗ hướng đến cho thế gian.
Này Tu-bồ-đề. V́ sao? V́ các pháp quá khứ như không, đi qua mà không trở lại. V́ sao? V́ không cũng không đến, không đi; nơi các pháp đến cũng không có tướng, nguyện. V́ sao? V́ tướng, nguyện qua rồi th́ không trở lại; tướng, nguyện cũng không đến cũng không đi. Nơi các pháp đến cũng không có chỗ đến, cũng không tạo nghiệp, cũng không sinh, không diệt, không đắm trước; cũng không cắt đứt, như mộng, như huyễn, như tiếng vang, như ảnh, như biến hóa, như sóng nắng. Các pháp cũng như vậy, đã đi rồi th́ không trở lại bao giờ. V́ sao? V́ biến hóa cũng không đi không đến bao giờ.
Này Tu-bồ-đề! Nơi các pháp đến cũng không có bờ mé, cũng không trở lại, các pháp không chuyển động, không đứng yên, không đến, không đi, không hòa hợp cũng không tan rã; không có ngã, mạng sống, tuổi thọ...
Này Tu-bồ-đề! Chúng sinh còn không thật có huống chi là có đi và trở lại.
Này Tu-bồ-đề! Chỗ trụ của các pháp có thường, lạc, ngã, tịnh. Các pháp vô thường, khổ, bất tịnh và vô ngã. Chỗ trị của các pháp có dâm, nộ, si, kiến chấp, thân kiến. Các pháp trụ này cũng trụ nơi chân như, như pháp tánh, như chân tế, như khắp cả, như nơi tánh chẳng thể nghĩ bàn; trụ nơi không đổi dời; chỗ trụ của các pháp cũng không đến cũng không đi. V́ sao? V́ các pháp cũng không đến cũng không đi, các pháp trụ như năm ấm. V́ sao? V́ năm ấm còn không thể thấy huống chi là có đến đi. Các pháp trụ như sáu pháp Ba-la-mật, sự trụ này vẫn không thể thấy huống chi là có sự đi và lại.
Các pháp trụ như nội ngoại không và hữu vô không, như trụ nơi ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, trụ nơi mười tám pháp Bất cộng; như mười tám pháp Bất cộng cũng không đến không đi. Các pháp trụ như Thanh văn, Bích-chi-phật đạo, trụ như Vô thượng Bồ-đề cũng không có đi và lại. V́ sao? V́ quả Vô thượng Bồ-đề không có đi và lại cũng không thật có.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Người nào có khả năng hiểu được Bát-nhã ba-la-mật sâu xa này?
Phật dạy:
–Những Đại Bồ-tát tạo công đức từ thời Phật quá khứ, đã cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật và đã thân cận các bậc bạn lành chân thật mới có khả năng hiểu được Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát có những tướng nào th́ có khả năng hiểu được Bát-nhã ba-la-mật sâu xa?
Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát nào đoạn trừ được dâm, nộ, si th́ chính là tướng ấy. Bồ-tát nào có khả năng hiểu rõ được Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, th́ như là đã đoạn được dâm, nộ, si.
Phẩm 54: HIỂU SÂU XA
Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát hiểu được Bát-nhã ba-la-mật sâu xa th́ đạt được đến đâu?
Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Bậc Đại Bồ-tát nào có khả năng hiểu rõ Bát-nhã ba-la-mật sâu xa này th́ đạt được trí Nhất thiết.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Người đạt được trí Nhất thiết là bậc Đại Bồ-tát hiểu được Bát-nhã ba-la-mật sâu xa. Người hướng đến trí Nhất thiết là người dẫn đường cho chúng sinh.
Tu-bồ-đề thưa:
–Bạch Thế Tôn! Niệm Bát-nhã ba-la-mật là không niệm các pháp. Niệm Bát-nhã ba-la-mật là không còn chỗ niệm, không có đầu mối.
Phật hỏi Tu-bồ-đề:
–Niệm Bát-nhã ba-la-mật th́ những ǵ không có chỗ niệm?
Tu-bồ-đề thưa:
–Bạch Thế Tôn! Niệm Bát-nhã ba-la-mật th́ năm ấm không có chỗ niệm; niệm Bát-nhã ba-la-mật th́ ta và chúng sinh không có chỗ niệm; niệm Bát-nhã ba-la-mật th́ sáu pháp Ba-la-mật không có chỗ niệm; nội ngoại không, hữu vô không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười tám pháp Bất cộng của Phật không có chỗ niệm; niệm Bát-nhã ba-la-mật th́ từ Tu-đà-hoàn cho đến trí Nhất thiết không có chỗ niệm. Phật dạy:
–Lành thay, lành thay! Đúng như lời của Tu-bồ-đề, niệm Bát-nhã ba-la-mật th́ không niệm năm ấm, cho đến trí Nhất thiết cũng không có chỗ niệm.
Này Tu-bồ-đề! Niệm sáu pháp Ba-la-mật th́ được cảm ứng ủng hộ của Bồ-tát không thoái chuyển. Bồ-tát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa th́ không vào sáu pháp Ba-la-mật cũng không vào trí Nhất thiết.
Người thực hành Bát-nhã ba-la-mật không làm theo lời của người khác, không tin vào con đường khác, không giữ ǵn theo cho là quan trọng; Đại Bồ-tát không thoái chuyển thực hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa không còn dâm, nộ, si; chỉ thực hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa. Đại Bồ-tát không thoái chuyển không bao giờ ĺa sáu pháp Ba-la-mật và khi nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật sâu xa không sợ sệt, không nhàm chán mỏi mệt, quyết không thoái chuyển, thường tư duy nhớ nghĩ lắng nghe rồi đọc tụng giữ ǵn và thực hành theo ứng hợp với giáo lý Bát-nhã ba-la-mật.
Này Tu-bồ-đề! Ông nên biết Bồ-tát không thoái chuyển đã từng nghe những việc trong Bát-nhã ba-la-mật từ đời trước, cũng đã từng đọc tụng thọ tŕ và thực hành theo. V́ sao? V́ Bồ-tát không sợ hãi, từ xa xưa cho đến nay thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật này.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật sâu xa không sợ hãi cũng không đổi dời, v́ sao thực hành lại tăng thêm lợi ích.
Phật dạy:
–Thực hành Bát-nhã ba-la-mật ứng hợp với trí Nhất thiết.
Tu-bồ-đề thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tại sao thực hành Bát-nhã ba-la-mật ứng hợp với trí Nhất thiết?
Phật dạy:
–Như dựa vào sự ứng hợp với Không, Vô tướng, Vô nguyện là ứng hợp với Bát-nhã ba-la-mật sâu xa. Nương vào Bát-nhã ba-la-mật sâu xa như nương vào hư không, nương vào không sự sinh, không sự diệt, không nương vào sự đắm trước mà nương vào sự đoạn trừ, như vào chân như, dựa vào pháp tánh, dựa vào sự chẳng thể nghĩ bàn, dựa vào sự không tạo tác, dựa vào mộng.
Tu-bồ-đề thưa:
–Bạch Thế Tôn! Dựa vào Bát-nhã ba-la-mật sâu xa như dựa vào hư không, dựa vào mộng. Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa không tùy thuộc theo năm ấm và trí Nhất thiết để thực hành.
Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng không dựa vào năm ấm, không dựa vào trí Nhất thiết. Năm ấm và trí Nhất thiết cũng không có tác giả, cũng không phải không tạo tác, không đến, không đi, không có chỗ dừng, cũng không có chỗ nương tựa, không có chỗ ra, không có nơi vào, không có số lượng, không có giới hạn th́ cũng không có khả năng giác ngộ, chẳng phải trí Nhất thiết làm cho giác ngộ. V́ sao?
V́ chân như của năm ấm, chân như của trí Nhất thiết, chân như của năm ấm cùng với trí Nhất thiết như nhau không khác, chân như của mười tám pháp. Chân như của trí Nhất thiết cũng như nhau không khác, tất cả đều như nhau, không có hai.
Phẩm 55: THÁN TÂM SỰ THẬM THÂM
Lúc bấy giờ, các Thiên tử ở cõi Dục và cõi Sắc dùng các hoa thơm ở cõi trời tung rải lên trên Đức Phật rồi đến chỗ Ngài làm lễ và chắp tay thưa:
–Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật thật sâu xa khó hiểu biết rõ, không thể suy nghĩ và bàn luận, là nhừng điều hiểu biết của bậc trí, là nơi thế gian phải nên tin, là con đường thẳng của các Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác. Chư Phật từ con đường này đến Vô thượng Bồ-đề đều nhờ ân Bát-nhã ba-la-mật sâu xa này. Đây là giáo lý duy nhất. Giáo lý duy nhất nghĩa là năm ấm là trí Nhất thiết, trí Nhất thiết là năm ấm, chân như của trí Nhất thiết, chân như của năm ấm, trí Nhất thiết và năm ấm là một Như, không hai. Như của Phật và Như của trí Nhất thiết cũng không có hai.
Phật bảo với các Thiên tử cõi Sắc và cõi Dục:
–Đúng như vậy! Như lời các Thiên tử, năm ấm là trí Nhất thiết, trí Nhất thiết là năm ấm; Phật là trí Nhất thiết, trí Nhất thiết là Phật là một Như không hai. Do vậy, này các Thiên tử, Như Lai thản nhiên, vô vi mà không thuyết pháp. V́ sao? V́ pháp này rất sâu xa thanh tịnh, khó hiểu rõ được, đặc biệt có thể tin. đạo của Như Lai thời quá khứ, tương lai, hiện tại không có người giác ngộ, pháp không có hai, đó chính là pháp.
Này các Thiên tử! Như hư không rất sâu xa vi diệu, pháp này cũng như vậy, giống như sự thâm sâu nhiệm mầu của các pháp. Pháp này cũng sâu xa nhiệm mầu, pháp tánh chẳng thể nghĩ bàn, tánh chân thật không có bờ bến, không đến, không đi, không thường, không đoạn, không sinh, không diệt, rất sâu xa vi diệu, không có giác ngộ; do không có giác ngộ nên rất sâu xa vi diệu. Bát-nhã ba-la-mật rất sâu xa vi diệu.
Này các Thiên tử! V́ các pháp này rất sâu xa vi diệu, nên chúng sinh, ta, người, thọ mạng cũng rất sâu xa vi diệu. Năm ấm sâu xa vi diệu, sáu pháp Ba-la-mật sâu xa vi diệu; nội ngoại không, hữu vô không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cho đến trí Nhất thiết rất sâu xa vi diệu.
Này các Thiên tử! Do sự rất sâu xa vi diệu này nên Bát-nhã ba-la-mật rất sâu xa vi diệu.
Các Thiên tử ở cõi Sắc và cõi Dục đều bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Đối với thế gian, pháp này rất đặc biệt rất đáng tin. Người nói như vậy nghĩa là cũng không thọ nhận năm ấm cho đến mười tám pháp Bất cộng cũng không có chỗ thọ nhận. Nói như vậy nghĩa là từ Tu-đà-hoàn cho đến trí Nhất thiết cũng không thọ nhận giữ lấy và cũng không thọ nhận. Giữ lấy các pháp thế gian đều là thọ nhận. Thọ nhận, giữ ǵn như thế nào? V́ nghĩ năm ấm của ta, ta thuộc về năm ấm, mười tám pháp Bất cộng là của ta, ta thuộc về mười tám pháp Bất cộng; từ Tu-đà-hoàn cho đến trí Nhất thiết đều là của ta, ta thuộc về trí Nhất thiết. Đây là sự thọ nhận của thế gian.
Phật bảo các thiên tử:
–Như lời các Thiên tử th́ pháp này cũng không thọ nhận giữ ǵn năm ấm cũng không thọ nhận giữ ǵn trí Nhất thiết.
Này các Thiên tử! Những ai thọ nhận, thực hành năm ấm, thọ nhận và thực hành trí Nhất thiết th́ không chịu tiếp nhận thực hành sáu pháp Ba-la-mật, cũng không chịu thực hành trí Nhất thiết.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Pháp này không trái với các pháp và có pháp thuận là: sáu pháp Ba-la-mật, nội ngoại không, hữu vô không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo cho đến trí Nhất thiết. Những pháp này không trở ngại các pháp. Tại sao không trở ngại? V́ không trở ngại năm ấm cho đến trí Nhất thiết cũng không có trở ngại. Tướng không trở ngại các pháp ví như hư không. V́ sao? V́ trụ ở như của pháp tánh, Như của chân tế, Như của sự chẳng thể nghĩ bàn, như của Không, Vô tướng, Vô nguyện. Pháp Bát-nhã ba-la-mật này không sinh cũng không diệt, v́ năm ấm không sinh, không có; cho đến trí Nhất thiết cũng không sinh, không có. Pháp này không có v́ dấu vết của năm ấm không thể thấy, dấu vết của trí Nhất thiết cũng không thể thấy.
Lúc ấy, các Thiên tử ở cõi Dục và cõi Sắc đều bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Trong các đệ tử của Ngài, Tôn giả Tu-bồ-đề là chân thật đệ tử của Phật. V́ sao?
V́ Tôn giả chỉ nói về pháp không, pháp không trói buộc.
Lúc ấy Tu-bồ-đề bảo các Thiên tử ở cõi Dục và cõi Sắc:
–Như lời của các ông nói, ta là đệ tử chân chánh trong hàng đệ tử của Phật. Thế nào là đệ tử chân chánh?
Các Thiên tử đáp:
–Phật sinh từ chân như nên không đi không đến, chân như của Tu-bồ-đề cũng không đến không đi. Do dó, Tu-bồ-đề từ Phật sinh. Chân như của Phật cũng là chân như của tất cả các pháp. Như của các pháp là chân như của Phật. Chân như cũng chẳng phải chân như. Thế nên Tu-bồ-đề từ Phật sinh ra trụ nơi chân như của Phật. Chân như của Tu-bồ-đề cũng trụ như vậy. Chân như của Phật không có tạo tác, không có hành động cũng không có sở hữu. Chân như Tu-bồ-đề cũng như vậy. Chân như của Phật không ngại, chân như của các pháp cũng không trở ngại. Chân như của Phật và các pháp nhất Như, không có hai cũng không có tác giả. Như của không tạo tác thường như vậy, không thể không như vậy, từ sự có như vậy không thể không Như thế, thường một không có hai. Thế nên biết Tôn giả Tu-bồ-đề từ Như Lai sinh, Như là chân như của Phật, không thể bị phá hoại. Chân như của Tu-bồ-đề cũng không bị phá hoại, cũng không không bị phá hoại. Như chân như của Phật không thể thấy, cũng không thể phá hoại, chân như của Tu-bồ-đề cũng như vậy. V́ vậy nên biết, Tu-bồ-đề chân thật từ Phật sinh, như chân như của Phật, không có quá khứ, hiện tại, tương lai. Chân như của các pháp cũng không có quá khứ, hiện tại, tương lai. Do đó, nên biết Tu-bồ-đề từ Phật sinh, chân như của quá khứ, hiện tại, tương lai cũng là chân như của Phật. Chân như của Phật cũng là chân như của quá khứ hiện tại tương lai như nhau không có hai. Chân như của năm ấm và Như của Như Lai cũng chỉ có một không có hai. Chân như của ngã, tuổi thọ, mạng sống, chúng sinh giống như chân như của Phật chỉ có một không có hai; chân như của sáu pháp Ba-la-mật, nội ngoại không, hữu vô không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo cho đến trí Nhất thiết cũng như chân như của chư Phật là Nhất như không có hai. Thế nào là chân như?
Này Tu-bồ-đề! Chân như là điều mà Bồ-tát giác ngộ, được danh hiệu là Như Lai.
Khi nói phẩm “Như ” này, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, hiện lên ở phương Đông th́ lặn ở phương Tây, hiện lên ở phương Tây th́ lặn ở phương Đông, hiện ở phương Nam th́ lặn ở phương Bắc, hiện ở phương Bắc th́ lặn ở phương Nam, hiện lên ở bốn góc th́ ch́m ở giữa, hiện lên ở giữa th́ lặn ở bốn góc.
Lúc ấy, các Thiên tử ở cõi Dục, cõi Sắc ở tam thiên đại thiên thế giới dùng hoa trời, hương thơm, chiên-đàn dâng lên Đức Phật và Tôn giả Tu-bồ-đề đồng thời khen ngợi:
–Thế Tôn, thật là kỳ lạ! Thật là đặc biệt thay! Tôn giả Tu-bồ-đề chính là Phật tử chân chánh từ chân như của Như Lai sinh ra.
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề nói với các Thiên tử:
–Này các Thiên tử! Tu-bồ-đề cũng không từ năm ấm sinh ra, không sinh ra từ chân như của năm ấm, cũng không rời chân như của năm ấm sinh ra, không từ chân như của trí Nhất thiết sinh ra cũng không rời chân như trí Nhất thiết sinh ra, không từ chân như hữu vi và vô vi sinh ra, cũng không rời chân như của hữu vi và vô vi sinh ra. V́ sao? V́ các pháp đều không có sở hữu, cũng không có pháp đáng ưa thích, đắm trước.
Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chân như và các pháp ấy trụ trong đạo pháp rất sâu xa vô cùng, năm ấm vẫn còn không thể thấy, huống chi chân như của năm ấm. Cho đến trí Nhất thiết còn không thể thấy, huống chi là chân như của trí Nhất thiết.
Phật bảo:
–Đúng như vậy! Này Xá-lợi-phất! Chân như rất sâu xa, năm ấm và trí Nhất thiết vẫn không thể thấy, huống chi là chân như của trí Nhất thiết. Này Xá-lợi-phất! Chân như rất sâu xa, gọi chân như là như vậy.
Lúc ấy, có hai trăm Tỳ-kheo hết sạch các lậu, tâm ý khai phóng; năm trăm Tỳ-kheo-ni xa ĺa trần cấu phát sinh Pháp nhãn, năm ngàn Bồ-tát ở cõi người và cõi trời đạt được Vô sinh pháp nhẫn; sáu mươi Bồ-tát dứt hết lậu hoặc, tâm ý khai giải.
Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Sáu mươi Bồ-tát này đã cúng dường năm trăm vị Phật, hết lòng thực hành sáu pháp Ba-la-mật, nhưng không có phương tiện quyền xảo, nên học hết năm pháp Ba-la-mật xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật, không dùng phương tiện thắng trí để thực hành Bố thí, Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định... Các hành tướng nên không đạt được đạo Bồ-tát mà chỉ đắc được Tu-đà-hoàn, La-hán và Bích-chi-phật đạo.
Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát dù đắc được đạo Không, Vô tướng, Vô nguyện nhưng xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật, không có phương tiện thắng trí th́ chỉ chứng được Thanh văn thừa.
Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Thế nào là đắc được pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, xa ĺa phương tiện thắng trí nên chứng được chân tế đắc được Thanh văn thừa? Thế nào là đầy đủ pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, đắc được phương tiện thắng trí, chứng đắc được Vô thượng Bồ-đề?
Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Xa ĺa trí Nhất thiết mà niệm Không, Vô tướng, Vô nguyện, không tương ưng với phương tiện thắng trí th́ gọi là Thanh văn thừa.
Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát nào đắc được pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện ứng hợp với trí Nhất thiết và không xa ĺa phương tiện thắng trí, liền đạt được Vô thượng Bồ-đề.
Này Xá-lợi-phất! Ví như con chim to lớn, thân lớn đến một trăm, hai trăm, ba trăm do-tuần nhưng không có hai cánh. Nó muốn đi từ cung trời Đao-lợi xuống cõi Diêm-phù-đề, nhưng khi hạ xuống nửa đường lại muốn trở lên cung trời Đao-lợi. Này Xá-lợi-phất! Con chim này có trở lại chỗ cũ được không?
Xá-lợi-phất đáp:
–Bạch Thế Tôn! Không.
Phật hỏi:
–Giả sử con chim này hạ được xuống đất và muốn thân thể không bị đau đớn có được không?
Xá-lợi-phất đáp:
–Bạch Thế Tôn! Chắc chắn nó phải bị đau đớn, chết ngất hoặc bị chết. V́ sao? V́ thân nó to lớn lại không có cánh.
Này Xá-lợi-phất! Giả sử Bồ-tát này đã từ hằng hà sa số kiếp cùng thực hành năm pháp Ba-la-mật nên dù có đắc đạo lớn, muốn phát tâm lớn, muốn được vô lượng giác tuệ nhưng xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật, không có phương tiện thắng trí th́ bị đi vào La-hán, Bích-chi-phật đạo. V́ sao? Phương tiện thắng trí, xa ĺa trí Nhất thiết và Bát-nhã ba-la-mật mà thực hành năm pháp Ba-la-mật th́ liền đi vào Lahán, Bích-chi-phật đạo.
Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát dù đã tạo các công đức từ quá khứ, hiện tại, vị lai như Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm và Trí tuệ nhưng đắm trước vào tướng đó, th́ đó là không thấu hiểu Tŕ giới, Thiền định, Trí tuệ, Giải thoát kiến và Giải thoát tuệ của Như Lai; cũng không biết không thấy, chỉ nghe về pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, chỉ nghe âm thanh rồi lấy tướng đó cho là đắc được Vô thượng Bồ-đề, chấp vào tướng cho rằng: Đây là trụ xứ của Bồ-tát, của Phật, của Thanh văn và Bích-chi-phật.
Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật, phương tiện thắng trí, đem công đức này muốn đắc được Vô thượng Bồ-đề th́ đó là chấp tướng.
Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát khởi ý niệm trí Nhất thiết không rời sáu pháp Ba-la-mật, không ĺa phương tiện thắng trí và không xa ĺa Tŕ giới, Thiền định, Trí tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến của Như Lai trong ba đời, không có đắm trước; đối với pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện cũng không có chấp.
Này Xá-lợi-phất! Nên biết, Bồ-tát ấy không đi vào La-hán, Bích-chi-phật đạo. V́ sao? V́ Đại Bồ-tát từ khi phát tâm đến nay, không chấp tướng để thực hành sáu pháp Ba-la-mật, không chấp tướng đối với Trí giới, Thiền định, Trí tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai.
Này Xá-lợi-phất! Không chấp tướng thực hành sáu pháp Ba-la-mật, không chấp tướng thực hành trí Nhất thiết th́ gọi là Bồ-tát có phương tiện thắng trí.
Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như những điều con được nghe Như Lai dạy hôm nay; Bồ-tát không xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật, phương tiện thắng trí th́ đạt đến Vô thượng Bồ-đề. V́ sao? V́ Bồ-tát này từ khi phát tâm đến nay không bao giờ thấy pháp có người đang giác ngộ, năm ấm cho đến trí Nhất thiết cũng như vậy.
Xá-lợi-phất thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có người thực hành Bồ-tát đạo, nhưng xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật và phương tiện thắng trí th́ nên biết những Bồ-tát này còn nghi ngờ với những quả vị Vô thượng Bồ-đề. V́ sao? V́ xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật, phương tiện thắng trí nên chỉ thực hành sáu pháp Ba-la-mật, v́ còn chấp tướng nên biết còn hồ nghi.
–Bạch Thế Tôn! Do đó, Bồ-tát muốn đắc được Vô thượng Bồ-đề th́ không nên xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật, phương tiện thắng trí, phải trụ nơi Bát-nhã ba-la-mật và phương tiện thắng trí, cũng không chấp tướng không ỷ lại, thực hành năm pháp Ba-la-mật cho đến trí Nhất thiết cũng không chấp tướng.
Lúc đó, các Thiên tử cõi Sắc và cõi Dục đều bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Muốn cầu Vô thượng Bồ-đề th́ khó được. V́ sao? V́ Bồ-tát giác ngộ hết các pháp nhưng không có chỗ đắc.
Phật dạy:
–Đúng như vậy! Này các Thiên tử! Rất khó, ta cũng đã thành Vô thượng Bồ-đề, không có quả thành, cũng không có chỗ chứng đắc, cũng không thấy Pháp có chỗ thành, có chỗ đắc. V́ sao? Này các Thiên tử, v́ các pháp thường tịnh.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như những điều con nghe từ Phật hôm nay, việc cầu quả vị Vô thượng Bồ-đề thật khó đạt được. Con rất là vui thích đạt được quả vị Bồ-đề. V́ sao? V́ các pháp không, không có chỗ giác ngộ. Trong pháp không, các pháp không có chỗ nắm bắt cũng không có pháp giác ngộ và không có người giác ngộ. V́ sao? V́ tùy theo pháp không tăng, không giảm mà học năm pháp Ba-la-mật cho đến trí Nhất thiết. Như vậy nên những pháp này đều không, cũng không thể thấy, không thể nắm bắt được. Do đó, bạch Thế Tôn! Thật vui thay khi Bồ-tát giác ngộ thành Vô thượng Bồ-đề! V́ sao? V́ năm ấm và tự tánh của năm ấm là không; trí Nhất thiết và sự việc của trí Nhất thiết là không.
Xá-lợi-phất nói với ngài Tu-bồ-đề:
–Do vậy, quả vị Vô thượng Bồ-đề khó hiểu, khó chứng đắc; như hư không không có ý niệm: Ta sẽ thành Vô thượng Bồ-đề; Bồ-tát cũng, không thể có ý niệm: Ta sẽ thành Vô thượng Bồ-đề. V́ sao? V́ các pháp như hư không. Bồ-tát hiểu được các pháp như hư không mới thành Vô thượng Bồ-đề. Nếu các Bồ-tát biết được các pháp như hư không th́ hay thay, quả vị Vô thượng Bồ-đề rất khó thành. Hằng hà sa các Bồ-tát cầu Vô thượng Bồ-đề nhất định không thoái chuyển! Do đó, này Tu-bồ-đề, hay thay! Quả vị Vô thượng Bồ-đề rất khó thành.
Tu-bồ-đề hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:
–Ý Tôn giả nghĩ sao? Đối với quả vị Vô thượng Bồ-đề, năm ấm có thoái chuyển không?
Xá-lợi-phất đáp:
–Không!
Tu-bồ-đề hỏi:
–Cho đến chân như có thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Bồ-đề không?
Xá-lợi-phất đáp:
–Không!
Hỏi:
–Ý Tôn giả nghĩ sao? Có sự khác xa ĺa năm ấm là thoái chuyển không? Có sự xa ĺa trí Nhất thiết là thoái chuyển không?
Đáp:
–Không!
Hỏi:
–Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Ý ngài thế nào? Chân như của năm ấm là thoái chuyển không? Chân như của trí Nhất thiết là thoái chuyển không?
Đáp:
–Không!
Hỏi:
–Có sự xa ĺa Như của năm ấm và Như của trí Nhất thiết là thoái chuyển không?
Đáp:
–Không!
Hỏi:
–Ý ngài thế nào? Như pháp, pháp tánh, pháp trụ, đạo pháp, chân tế, tánh chẳng thể nghĩ bàn có thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Bồ-đề không?
Xá-lợi-phất đáp:
–Không!
Hỏi:
–Sự xa ĺa chân như đến tánh chẳng thể nghĩ bàn là thoái chuyển không?
Xá-lợi-phất đáp:
–Không có sự việc đó, pháp này cũng không thể nắm bắt được.
Hỏi:
–Vậy pháp này có sự thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Bồ-đề không?
Đáp:
–Như pháp nhẫn mà Tu-bồ-đề đã nói, không có một Bồ-tát nào thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Bồ-đề, hạnh tam thừa của Bồ-tát mà Như Lai đã thọ ký đều không có nơi chốn. Như những lời Tôn giả nói th́ chỉ có một Phật thừa thôi.
Bân-nậu-nan-đà-ni-tử thưa với Tôn giả Xá-lợi-phất:
–Tôn giả Tu-bồ-đề chỉ muốn nói một Bồ-tát thừa thôi sao? Tôn giả nên hỏi lại Tu-bồ-đề?
Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề:
–Có phải Tôn giả muốn nói Bồ-tát chỉ có một thừa phải không?
Tu-bồ-đề nói:
–Tôn giả muốn nói chân như trong ba thừa là La-hán thừa, Bích-chi-phật thừa và Bồ-tát thừa là một thừa có phải không?
Đáp:
–Không!
Hỏi:
–Tôn giả Xá-lợi-phất! Ý Tôn giả nghĩ thế nào? Trong chân như có ba thừa không?
Đáp:
–Không có.
Hỏi:
–Trong chân như có một việc, hai việc, ba việc không?
Đáp:
–Không!
Hỏi:
–Pháp này gọi là vô vi, không sự có. Tại sao lại muốn t́m cầu ba thừa La-hán, Bích-chi-phật và Chánh đẳng giác?
Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát đối với việc chân như sinh ra các pháp, nghe những điều này Bồ-tát không sợ hãi, không thoái chuyển mà đạt đến quả vị Bồ-đề.
Khi ấy, Phật khen ngợi Tu-bồ-đề:
–Lành thay, lành thay! Những lời ông nói đều là Phật sự. Bồ-tát nghe đến Pháp này th́ đạt được chân như không còn sợ hãi, không còn thoái chuyển th́ nên biết Bồ-tát này sẽ thành Vô thượng Bồ-đề.
Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát phải theo đường nào?
Phật dạy:
–Bồ-tát phải theo đường Vô thượng Bồ-đề.
Tu-bồ-đề thưa:
–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát muốn theo và đạt được Vô thượng Bồ-đề th́ trụ ở đâu?
Phật dạy:
–Bồ-tát phải thường có ý b́nh đẳng, lòng đại Từ nhớ nghĩ không có thiên lệch đối với tất cả chúng sinh, v́ các chúng sinh mà nói pháp, làm cho họ an ổn, nói lời từ hòa, không gây thương tổn; xem chúng sinh như cha mẹ, bản thân và con; đem lòng từ khuyến khích người không giết hại sự sống, thường khuyên chúng sinh làm mười điều lành và khi thấy chúng sinh thực hành Chánh kiến xa ĺa tà kiến th́ rất hoan hỷ. Đại Bồ-tát muốn thành Vô thượng Bồ-đề phải trụ như vậy, tự thực hành bốn Đế, bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng và bốn Không định; khuyến hóa người, thấy người thực hành th́ vui theo; tự thực hành sáu pháp Ba-la-mật và khuyên người thực hành sáu pháp Ba-la-mật, thấy ai thực hành sáu pháp Ba-la-mật th́ đều hoan hỷ; tự thực hành nội ngoại không, hữu vô không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo; tự thực hành tám Bối xả, mười Lực, đại Từ, đại Bi; tự thực hành quán thuận và quán nghịch mười hai nhân duyên, thấy người thực hành th́ rất tùy hỷ; tự thực hành Thanh văn, Bích-chi-phật, khuyên người thực hành nhưng không chứng thật tế, thấy người thực hành th́ rất tùy hỷ; tự ḿnh đạt được Bồ-tát, dạy người tiến đến địa vị Bồ-tát, tự thực hành thần thông làm thanh tịnh quốc độ chư Phật và dạy dỗ chúng sinh khuyên họ học, thấy người học thí rất tùy hỷ; tự ḿnh diệt trừ các tập khí, tự thành tự thọ mạng; tự nhận pháp trụ, khuyên người khác trụ pháp, thấy người khác thực hành th́ rất hoan hỷ.
Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát muốn thành tựu Vô thượng Bồ-đề phải học và phải trụ như vậy. Đại Bồ-tát phải học Bát-nhã ba-la-mật với phương tiện thắng trí, học như vậy, trụ như vậy không có trở ngại đối với năm ấm, cho đến pháp trụ cũng không có trở ngại. V́ sao? V́ Bồ-tát này học “Vô sinh”, không nhận năm ấm cho đến trí Nhất thiết cũng không có chỗ nhận. V́ sao? V́ không nhận năm ấm th́ chẳng phải năm ấm, không nhận trí Nhất thiết th́ chẳng phải trí Nhất thiết.
Khi Phật nói phẩm Bồ-tát trụ này rồi, hai ngàn Bồ-tát đều đắc Vô sinh pháp nhẫn.
Phẩm 56: KHÔNG THOÁI CHUYỂN
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con phải căn cứ vào hành tướng nào để biết được bậc không thoái chuyển?
Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Người hiểu được địa vị phàm phu, Thanh văn, Bích-chi-phật cho đến Như Lai, hết thảy đều Nhất như không có phân biệt, chỉ có một, không có hai, tự thân chân như b́nh đẳng chỉ có một, không có phân biệt. Nghe như vậy rồi, Bồ-tát nào hiểu rõ không còn nghi ngờ, đối với chân như không còn sai lầm ǵ cả, lời nói không có thêm bớt, không nh́n lỗi của người khác. Do hành tướng này nên ta biết là Bồ-tát không thoái chuyển.
Tu-bồ-đề thưa:
–Bạch Thế Tôn! Lại dùng tướng mạo nào để biết được Bồ-tát không thoái chuyển.
Phật dạy:
–Các pháp không có h́nh, không có diện mạo, không có tướng.
Tu-bồ-đề thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp không có h́nh tướng th́ từ sự thoái chuyển nào gọi là Bồ-tát không thoái chuyển?
Phật dạy:
–Thoái chuyển đối với năm ấm th́ biết được Bồ-tát không thoái chuyển.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát thoái chuyển đối với sáu pháp Ba-la-mật, nội không, ngoại không, hữu vô không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười tám pháp Bất cộng, Thanh văn, Bích-chi-phật và Vô thượng Bồ-đề.
Này Tu-bồ-đề! Nên biết đây là Bồ-tát không thoái chuyển. V́ sao? Này Tu-bồ-đề, v́ năm ấm không có h́nh tướng, đạo cũng không có h́nh tướng. V́ thế nên Bồ-tát không thoái chuyển đối với năm ấm và đạo. V́ sao? V́ năm ấm và đạo không có nơi chốn.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không quan sát nh́n ngó những hành vi và hiểu biết, nhận thức của ngoại đạo, Sa-môn, Bà-lamôn; không quan sát về nhận thức sai và đúng của ngoại đạo, không nghi ngờ và không phê phán sự giữ giới của Sa-môn, Bà-la-môn, ngoại đạo; cũng không đùa cợt, hý luận, tà kiến; không đem hương, hoa, lọng, lụa, cờ xí phụng sự các Thiên thần, cũng không dạy người khác vâng theo tà kiến. Căn cứ vào h́nh tướng này nên biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển không sinh vào nhà hạ tiện, không sinh vào nơi có tám nạn khổ kịch liệt, không làm thân phụ nữ. Dựa vào những sự kiện này nên biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển thường thực hành mười điều lành, không có hủy phạm, ngay trong giấc mộng vẫn thực hành và khuyên người thực hành mười điều lành, khi thấy người thực hành mười điều lành th́ rất tùy hỷ. Dựa vào sự việc bày nên biết là Bồ-tát không thoái chuyển.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển v́ chúng sinh nên thực hành sáu pháp Ba-la-mật và phát nguyện giữ ǵn mười hai bộ kinh, khuyến hóa và làm tròn ước nguyện của chúng sinh, đem công đức này bố thí cho chúng sinh được thành Vô thượng Bồ-đề. Dựa vào sự việc này nên biết là Bồ-tát không thoái chuyển.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển không có nghi ngờ, b́nh luận các kinh sâu xa.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát không thoái chuyển không nghi ngờ các kinh sâu xa?
Phật dạy:
–Bồ-tát này cũng không thấy có pháp, không thấy năm ấm, cũng không thấy đạo và có sự b́nh phẩm nghi ngờ. Do sự việc này nên biết Bồ-tát không thoái chuyển.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển th́ thân, miệng, ý hành động từ hòa, nhu nhuyễn, thường bố thí cho chúng sinh. Do sự việc này nên biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển không tương ứng với năm triền cái, không có sợ hãi và tham luyến. Dựa vào sự việc này nên biết Bồ-tát không thoái chuyển.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển nằm, ngồi, đi, đứng, ngủ, thức đều từ tốn không có nôn nóng. Do sự việc này nên biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển thanh tịnh, trong sạch vui vẻ không có bụi nhớp; y phục, mền mùng, giường nằm cũng sạch sẽ, ít bệnh tật. Trong thân người có tám mươi bốn ngàn loài trùng rúc rỉa, nhưng Bồ-tát không thoái chuyển th́ trong thân không có những loài trùng này. V́ sao? V́ nhờ công đức của Bồ-tát này vượt hơn cả chư Thiên, Quỷ, Thần, A-tu-la và ra khỏi thế gian, làm các việc lành, nên công đức được tăng trưởng, thân, khẩu, ý thanh tịnh. Do sự việc này nên biết đây là Bồ-tát không thoái chuyển.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát được thân, khẩu, ý thanh tịnh?
Phật dạy:
–Tùy theo các việc lành nên thân, khẩu, ý thanh tịnh, phiền não tiêu trừ; khi công đức tăng thêm th́ phiền não giảm bớt. Nhờ ba việc: Thân, khẩu, ý thanh tịnh nên Bồ-tát vượt qua địa vị Thanh văn và Bích-chi-phật. Do những sự việc này nên biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển không tham lợi dưỡng, không tham y phục, đủ mười hai pháp của Sa-môn; không có ý ganh ghét, cũng không ngu si tham lợi dưỡng, luôn b́nh đẳng tinh tấn không có ác giới. Do những sự việc này nên biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không thoái chuyển thường an ổn, nhất tâm phụng hành giáo pháp được nghe và Bát-nhã ba-la-mật như nhau. Nếu có những việc thế tục nào th́ Bồ-tát làm cho đều khế hợp với Bát-nhã ba-la-mật, nhưng người chưa vào được pháp tánh đều có nhận thức hợp với Bát-nhã ba-la-mật. Do những sự việc này nên biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.
Nếu ma Ba-tuần làm địa ngục lớn hoặc nhỏ, rồi trong mỗi địa ngục có vô số ức ngàn Bồ-tát bị các sự khổ não, ma Ba-tuần nói với Bồ-tát: Những người chịu khổ này đều được chư Phật quá khứ thọ ký rồi, đều là Bồ-tát không thoái chuyển, vậy mà ngày nay đều bị đọa vào trong địa ngục chịu những sự thống khổ. Các vị đều được Phật thọ ký là Bồ-tát không thoái chuyển. Đó là Phật đã thọ ký cho các vị vào trong địa ngục chứ không phải thọ ký cho các vị thành Bồ-tát đâu, chi bằng các vị hãy bỏ đạo Bồ-tát đi, mới có thể được sinh Thiên, không phải chịu khổ trong địa ngục.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát nào ý không tán loạn th́ không bao giờ bị đọa vào địa ngục và nên biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.
Lúc ấy, ma Ba-tuần mặc y phục của Sa-môn đi đến chỗ Bồ-tát nói: Trước kia ông có thể nhận sáu pháp Ba-la-mật v́ muốn cầu Vô thượng Bồ-đề, bây giờ ông hãy ăn năn và từ bỏ những pháp đã hành th́ sẽ được giải thoát. Trước kia ông đã phát nguyện cúng dường chư Phật và chúng đệ tử từ khi bắt đầu phát tâm cho đến khi pháp diệt tận, nay ông hãy ăn năn và từ bỏ những phước đức do việc làm lành và tùy hỷ khuyến khích để cầu quả Vô thượng Bồ-đề trong thời gian ấy ta sẽ nói cho bạn nghe về những lời Phật dạy, những giáo pháp trong kinh sâu xa, pháp quan trọng của Như Lai, chớ những điều bạn đã nghe chẳng phải là kinh Phật, chẳng phải là giáo pháp của Như Lai, đó là sự tuyển tập của ngoại đạo.
Bồ-tát nào ý tán loạn nghi ngờ th́ nên biết Bồ-tát đó chẳng phải nhận được Như Lai thọ ký, Bồ-tát đó chưa trụ trong Chánh định, chưa không thoái chuyển. Bồ-tát nào không nghi ngờ, không tán loạn, không thay đổi, ý không ghi nhận, không tin những việc khác, không nghe lời dạy của họ và thực hành sáu pháp Ba-la-mật, mau chóng được đạo tuệ trí Nhất thiết, nương tựa chính ḿnh, không nghe những giáo pháp của ngoại đạo. Thí như La-hán, lậu hoặc đã hết tự ḿnh thấy pháp, không tin vào ngoại đạo th́ ma quyết chắc không có khả năng phá được. La-hán, Bích-chi-phật nhất định không thể thoái chuyển được Bồ-tát không thoái chuyển.
Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đúng như lời nói của ông! La-hán và Bích-chi-phật không thể lay động Bồ-tát không thoái chuyển, Bồ-tát không thoái chuyển là người nhất định sẽ đạt đến quả vị Vô thượng Bồ-đề, chính thức trụ nơi không thoái chuyển, vẫn còn không tin Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác, huống nữa là tin La-hán, Bích-chi-phật và các học thuyết khác của ma Ba-tuần. V́ sao? V́ không bao giờ thấy pháp đáng tin cũng không thấy chân như năm ấm có thể tin, cũng không thấy chân như của đạo có thể tin. Tu-bồ-đề nên biết, theo những h́nh tướng này, quán xét những sự việc này biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.
Tu-bồ-đề! Ma lại hóa làm Tỳ-kheo mặc pháp phục rồi đi đến trước mặt nói:
–Thiện nam! Như những việc ông làm đều là việc của thế tục, chẳng phải trí Nhất thiết.
Ma lại nói: “Ta sẽ cắt đứt những sự cần khổ của bạn.” Ma lại nói những giáo lý giống như đạo pháp, hoặc chỉ dạy Pháp tử thi, hoặc nói bốn Thiền, bốn Không định.
Ma nói tiếp:
–Thiện nam! Đây là Chánh đạo, từ đây có thể dắc được Tu-đà-hoàn đạo; có thể đến A-la-hán, Bích-chi-phật. Từ những lời dạy của ta có thể đoạn trừ sinh tử, gốc rễ của khổ đau, bạn cần ǵ phải học khổ cực như vậy! Hãy theo những lời dạy của ta, bạn có thể sinh lên trời cõi Dục, cõi Sắc.
Tu-bồ-đề! Nghe những lời này rồi, Bồ-tát rất vui, ý không tán loạn, không thoái chuyển, cũng không nghi ngờ và suy nghĩ: Tỳkheo này đem những lời giống như pháp đến làm lợi ích cho ta rất nhiều, v́ những lời dạy giống như pháp không đưa đến quả vị Tu-đà-hoàn, La-hán, Bích-chi-phật đạo cho đến quả vị Vô thượng Bồ-đề. Nếu ta nghe lời của Tỳ-kheo này nói tương ứng với sự hiểu biết của ta, biết rõ những điều Tỳ-kheo ấy nói cho ta rồi th́ hiểu hết cả ba thừa.
Lúc đó biết được Bồ-tát vui vẻ, ma Ba-tuần liền nói với Bồ-tát:
–Này thiện nam! Bạn muốn biết sự cúng dường hằng sa chư Phật các thứ y phục, mền mùng, thức ăn, thức uống, giường nằm, thuốc men của các Bồ-tát lại không những đã nhận được sự thực hành năm pháp Ba-la-mật từ hằng sa chư Phật quá khứ, được nghe, được hỏi chư Phật quá khứ về sự việc Bồ-tát nên học và thực hành như thế nào về năm pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, đại Từ, đại Bi, như những lời dạy của chư Phật nên làm như vầy, nên trụ như vầy, như những sự ứng hợp với Bồ-tát, từ đây sẽ thành Vô thượng Bồ-đề. Theo những lời dạy, như những việc làm, làm đúng như vậy sẽ đạt được trí Nhất thiết. Các Bồ-tát ở quá khứ đã làm và được các công đức này còn không thể đắc được Vô thượng Bồ-đề huống ǵ bạn chỉ học như vậy th́ làm sao đắc được Vô thượng Bồ-đề.
Nghe như vầy! Bồ-tát không đổi ý, không sợ hãi lại còn hoan hỷ gấp bội và nói:
–Tỳ-kheo này làm lợi ích cho ta đắc quả Tu-đà-hoàn cho đến trí Nhất thiết.
Biết được ý của Bồ-tát không lay động, ma Ba-tuần liền hóa làm chúng đại Tỳ-kheo mà bảo với Bồ-tát:
–Hàng Tỳ-kheo này các lậu đã hết, phát tâm cầu Phật không thể thành Phật, nay đều chứng A-la-hán. Như vậy những người này không thể thành Phật, huống nữa là mong muốn thành Vô thượng Bồ-đề.
Người biết được ma sự không bị rơi vào La-hán, Bích-chi-phật đạo sẽ đắc thành Vô thượng Bồ-đề.
Bồ-tát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật cho đến trí Nhất thiết không thoái chuyển th́ sẽ thành Vô thượng Bồ-đề.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Bồ-tát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật, suy nghĩ như những lời Phật dạy, gắng sức vâng giữ không xa ĺa lời dạy của chư Phật đạt đến trí Nhất thiết không có tổn giảm.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật suy nghĩ; người biết được ma sự nhất định không có tổn giảm nơi Vô thượng Bồ-đề.
Này Tu-bồ-đề! Do những sự kiện này nên biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.
Ngài Tu-bồ-đề thưa:
–Bồ-tát đối với sự thoái chuyển nào mà nói là không thoái chuyển?
Phật dạy:
–Đối với tướng thoái chuyển, đối với năm ấm, mười hai pháp, mười tám giới, dâm, nộ, si, kiến, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, Thanh văn, Bích-chi-phật và Phật gọi là không thoái chuyển.
V́ sao? V́ Bồ-tát không thoái chuyển không có tướng mạo đạt đến quả vị Bồ-tát; đối với pháp bất sinh cũng không có sở hữu. Đã không có sở hữu nên không có tạo tác cũng không hành động, cũng không sinh, thế nên gọi là Vô sinh pháp nhẫn. Bồ-tát đắc được pháp Nhẫn này th́ gọi là Bồ-tát không thoái chuyển. Do những sự kiện này nên biết đó là Bồ-tát không thoái chuyển.
KINH PHÓNG QUANG BÁT-NHÃ
|