佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

| Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 |


Số 0159

KINH ĐẠI-THỪA BẢN-SINH TÂM-ĐỊA-QUÁN

Đường, Bát-Nhă dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt.

QUYỂN 5

IV.- PHẨM VÔ-CẤU-TÍNH [1]

Khi Trưởng-giả Trí-Quang cùng các Trưởng-giả khác đă xuất-gia rồi, tề-chỉnh pháp-phục năm thể gieo xuống đất, lễ xuống chân Phật, chắp tay cung-kính bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Chúng tôi theo Phật, nghe được những điều chửa được nghe về các lỗi-lầm sở-hữu của tại-gia; chúng tôi phát tâm Bồ-đề, chán, bỏ thế-gian, cạo bỏ râu tóc làm Tỷ-khưu. Chúng tôi kính xin Như-Lai, Ứng Chính đẳng-giác v́ bọn chúng tôi và các chúng-sinh diễn nói về công-đức thù-thắng của sự xuất-gia, khiến người được nghe, phát tâm thanh-tịnh, thích hạnh viễn-ly, làm cho Phật-chủng không dứt: Thế-Tôn là bậc có ơn lớn, Ngài vận vô-duyên từ-bi [2] thương-xót chúng-sinh như ông La-hầu-la, [3] nay kính xin Thế-Tôn cho chúng tôi biết: Bồ-tát xuất-gia nên an-trụ thế nào? Nên tu-tập nghiệp vô-cấu thế nào? Và, nên điều-phục tâm hữu-lậu thế nào?” [4] 

Bấy giờ, đức Thế-Tôn tán-thán Trí-Quang cùng các Tỷ-khưu: “Quư hóa thay! Quư hóa thay! Các ông thực là chân Phật-tử! Các ông v́ hết thảy chúng-sinh đời mai sau hỏi Như-Lai những việc như thế. Đúng như thế! Đúng như thế! Đúng như lời các ông nói, Như-Lai Thế-Tôn thương-xót chúng-sinh, b́nh-đẳng vô nhị cũng như con một. Nay các ông nghe cho kỹ và nhớ nghĩ cho khéo, Tôi nay sẽ v́ các ông phân-biệt diễn nói về Bồ-tát xuất-gia an-trụ như thế này, tu-hành nghiệp Vô-cấu như thế này, điều-phục tâm hữu-lậu như thế này”. Các Tỷ-khưu bạch: “Dạ, bạch Thế-tôn! Chúng tôi nguyện muốn được nghe lời đức Thế-Tôn dạy!” 

Đức Phật bảo Trí-Quang Tỷ-khưu: “Bồ-tát xuất-gia an-trụ tâm như thế, thời thường quán như thế này: Ta được thân người, các căn đầy-đủ, vậy ta từ nơi nào mất đi, mà sinh lại thế-gian này? Ta ở trong ba cơi, rồi sẽ sinh vào cơi nào? Trong bốn đại-châu, ta sẽ sinh vào châu nào? Trong sáu đạo, ta sẽ thụ-sinh vào đạo nào? Bởi nhân-duyên ǵ, ta bỏ được cha mẹ, vợ con họ-hàng xuất-gia tu đạo, thân khỏi vướng vào tám nạn? Trong kiếp Trang-nghiêm thuở quá-khứ, ngh́n Phật đều nhập Niết-bàn rồi, trong kiếp Tinh-tú thuở vị-lai, ngh́n Phật chưa ra đời, trong Hiền-kiếp hiện-tại ngh́n Phật, bao nhiêu Phật Như-Lai đă xuất-hiện ra đời, hóa-duyên sắp hết và sắp nhập Bát-niết-bàn? Bao nhiêu Phật Thế-Tôn chưa ra đời, là do căn-duyên của các chúng-sinh chưa chín, chưa được nghe chính-pháp chăng? Lại, thời nào trong đương-lai Ngài Di-Lặc từ cơi trời Đâu-suất sinh xuống nhân-gian và hiện thành Phật-đạo? Trong thân ta có nghiệp thiện ǵ? Học giới, định, tuệ sẽ có đức ǵ? Chư Phật quá-khứ đều đă chẳng gặp, Thế-tôn đương-lai liệu được thấy chăng? Ta nay hiện ở trong các nơi phàm-phu, vậy ba nghiệp phiền-năo, ǵ là nặng hơn? Nhất sinh trở lại ta tạo tội-nghiệp ǵ? Ta từng trồng căn lành ở nơi đức Phật nào? Thân-mệnh ta đây được bao nhiêu thời? Ngày nay đă qua, mệnh theo giảm bớt, cũng như người dắt dê tới chỗ mổ xẻ, dần dần đến chỗ chết, không c̣n nơi trốn-tránh, vậy khi thân hoại, mệnh hết sẽ sinh vào nơi nào? Khổ trong ba đường ác làm sao thoát khỏi được? Thân ta đây ta yêu thích và nuôi-nấng nó cho nó hơn lên nhưng, từng niệm niệm nó suy, già đi, không có thời nào tạm dừng, vậy ai là người có trí-tuệ lại yêu thích thân này? Trí-Quang nên biết: Bồ-tát xuất-gia ngày đêm thường quán-sát như thế, đừng tham hưởng năm dục-lạc của thế-gian, cần tinh siêng tu-tập, đừng thường thường tạm bỏ và phải coi như là cần phải bỏ đá nặng nơi đỉnh đầu, gỡ lửa cháy trên đầu. Tâm thường sám-hối những tội trước của quá-khứ, an-trụ vào bốn vô-cấu-tính, một ḷng tu-hành mười hai hạnh Đầu-đà, [5] điều-phục tâm ḿnh như bọn Chiên-đà-la. [6] Phật-tử như thế gọi là xuất-gia. 

Tỷ-khưu Trí-Quang! V́ nghĩa ǵ gọi người chân-thực tu hạnh Sa-môn như bọn Chiên-đà-la? – V́ mỗi khi người Chiên-đà-la du-hành, tay cầm cây tích-trượng, không dám đi giữa đường, nếu có người đi gần sát tới ḿnh thời rung gậy tích cho người ta nghe thấy tránh đi. Ở trong đại-chúng, tâm họ thực-hành sự nhún-nhường, không dám khinh-mạn, khi bị người quở-trách, tâm không oán-hận và chưa từng bao giờ báo-thù lại, ngay đến bị mạ-nhục, đánh-đập cũng im-lặng chịu đựng. Sao vậy? – Tự biết ḿnh thuộc ḍng họ thấp-hèn, không dự vào bậc ǵ trong hàng đại-chúng, bởi nhân-duyên ấy nên bị những sự giận-tức mà không báo-thù lại. 

Trí-Quang nên biết! Bồ-tát xuất-gia cũng như thế, cạo bỏ râu tóc, h́nh-dáng cũng như đứa trẻ thơ, tay cầm giữ đồ ứng-khí (b́nh-bát), nương-tựa vào người để nuôi sống thân-mệnh, thân mặc áo ca-sa [7] như mặc giáp-trụ, cầm gậy tích đi, như cầm dáo-mác, cầm gươm trí-tuệ, phá giặc phiền-năo, tu hạnh như đứa trẻ thơ, làm lợi-ích cho hết thảy. Thế nên, hết thảy tên nhọn tham, sân, si không thể vào thân bậc Sa-môn chân-thực được. Bồ-tát xuất-gia dùng ba môn quán, tu hạnh nhẫn-nhục là chân-xuất-gia: quán các chúng-sinh là hóa-thân của Phật, quán nơi thân ḿnh là ngu-phu thực; quán các hữu-t́nh khởi ra tưởng là bậc tôn-quư, quán nơi thân ḿnh khởi ra tưởng là hàng tôi-tớ; lại quán chúng-sinh khởi ra tưởng coi chúng-sinh như cha mẹ, quán nơi thân ḿnh khởi ra tưởng coi ḿnh như con trai, con gái. Bồ-tát xuất-gia thường làm những quán ấy, hoặc bị người đánh mắng, hoàn-toàn không báo-thù lại, mà chỉ t́m phương-tiện khéo-léo để điều-phục tâm ḿnh. 

Tỷ-khưu Trí-Quang! Các ông nghe kỹ! Thế nào là bốn vô-cấu-tính? – Là: Quần áo, đồ nằm, thức ăn uống và thuốc men. Bốn sự như thế tùy theo chỗ có được, hoặc xấu hoặc tốt cũng vừa ḷng, xa-ĺa hẳn tâm tham-cầu, thế là “vô-cấu-tính”. Các Tỷ-khưu! Bởi nhân-duyên ǵ bốn hạnh như thế gọi là “vô-cấu-tính”? Trí-Quang nên biết! Ba mươi bảy phẩm Bồ-đề-phận-pháp [8] của chư Phật Như-Lai đều từ đấy phát-sinh và Phật, Pháp, Tăng-bảo do đó mà thường không bị đoạn-tuyệt, nên được gọi là “vô-cấu-tính”. [9] 

Khi ấy, đức Thế-Tôn nói kệ rằng:

Tỷ-khưu Trí-Quang ông nghe kỹ!

Bồ-tát xuất-gia cần nên làm:

Vô-duyên đại-từ nhiếp chúng-sinh,

Cũng như con một đều b́nh-đẳng.

Phát tâm Bồ-đề cầu chính-giác,

Nên làm ba việc thành Phật-pháp:

Tâm thường-trụ bốn vô-cấu-tính;

Nên tu mười hai hạnh Đầu-đà,

Nhún ḷng như bọn Chiên-đà-la.

Trong bốn uy-nghi nghĩ thế này:

Mười phương vô-lượng các Bồ-tát;

Sát-na, sát-na hướng Thánh-đạo,

Các vị tu chứng, ta cũng thế!

Làm sao lưu-chuyển trong ba cơi,

Thường trong sinh-tử vô-lượng khổ?

Nay thân ta này ở cơi nào?

Sáu đạo luân-hồi ở đạo nào?

Thai, noăn, thấp, hóa [10] nhận loài nào?

Thân, khẩu, ư-nghiệp tu nghiệp nào?

Trong chỗ tạo tội, tội ǵ nặng?

Tâm trong ba tính, [11] tâm nào nhiều?

Quán-sát vi-tế như thế rồi,

Đại-từ, đại-bi thường tiếp nối;

Đại-hỷ, đại-xả, tâm ấy trước,

V́ người có duyên nói diệu-pháp.

Ngày đêm tu tâm không ngừng tạm,

Như bỏ đá đầu, gỡ đầu cháy.

Niệm ba môn quán thường chẳng rời,

Quán các chúng-sinh là thân Phật;

Chỉ ta riêng ở trong phàm-loại,

Hết thảy chúng-sinh đều tôn-quư,

Ta làm tôi-tớ ở thấp-hèn;

Chúng-sinh trên đời như cha mẹ,

Ta như trai, gái lành hiếu-dưỡng.

Bị người đánh mắng chẳng giận hiềm,

Siêng tu nhẫn-nhục không ghen, oán.

Bốn sự cúng-dàng tâm không ham,

Như thế gọi là “vô-cấu-tính”.

Ba mươi bảy phẩm Bồ-đề-phận,

Cùng được quả-báo thân Như-Lai;

Thù-thắng vô-lậu pháp như thế,

Bốn vô-cấu-tính là căn-bản.

Không hạnh buông-lung, thường tu-tập,

Thế là xuất-gia: Chân-phật-tử!

Mầm trí Bồ-đề niệm niệm thêm,

Vô-lậu Thánh-đạo đều thành-tựu.

Chóng vượt qua được vô-lượng kiếp,

Ngồi trên Hoa-vương [12] trong pháp-giới.

Phúc, trí trang-nghiêm đều viên-măn,

Vô-biên kiếp-hải lợi quần-sinh;

Do vô-cấu-tính đều thành-thục,

Chứng thường-trụ-quả của Như-Lai. [13] 

Lại nữa, Tỷ-khưu Trí-Quang! Bồ-tát xuất-gia đối với vấn-đề y-phục, không nên tham-trước, dù tốt dù xấu tùy chỗ ḿnh được thế nào nên vậy, thường thường đối với thí-chủ cần phải v́ họ sinh ra ruộng phúc cho họ, chớ hiềm thô xấu và không được v́ vấn-đề y-phục mà nói rộng pháp-yếu, khởi ra mọi phương-tiện tương-ứng với tâm tham. 

Phàm-phu trong thế-gian v́ vấn-đề y-phục tham-cầu phi-pháp, tạo nghiệp bất thiện, mà phải sa-đọa vào đường ác, trải vô-lượng kiếp không được gặp chư Phật, không được nghe chính-pháp. Chịu khổ trong các đường ác xong rồi, lại sinh trở lại nhân-gian, bị nghèo cùng khốn-khổ, cầu không được khổ, ngày đêm bức-bách, áo không đủ che h́nh, ăn không đủ giữ mệnh. Mọi khổ như thế đều do đời trước v́ việc y-phục, giết nhiều sinh-mệnh, tạo ra nhiều tội. 

Bồ-tát xuất-gia không thế, tùy chỗ ḿnh được thế nào nên vậy, không hiềm thô-ác, chỉ mang ḷng thẹn-hổ để sung-túc cho pháp-y, [14] được mười thắng-lợi: Một là, che thân ḿnh, xa-ĺa được sự xấu-hổ, đầy-đủ đức biết thẹn-hổ để tu-hành thiện-pháp. Hai là, xa-ĺa sự lạnh, nóng , ruồi, muỗi, thú dữ, trùng độc, để an-ổn tu đạo. Ba là, hiện ra tướng mạo Sa-môn xuất-gia, người ta trông thấy sinh tâm vui-vẻ, xa-ĺa được tâm tà-vạy. Bốn là, Ca-sa tức là bóng-dáng lá cờ báu của Nhân, Thiên, chúng-sinh tôn-trọng kính-lễ được sinh Phạm-thiên. Năm là, khi mặc Ca-sa tưởng-tượng là lá cờ báu, diệt được mọi tội, sinh mọi phúc-đức. Sáu là, bản-chế Ca-sa nhuộm thành hoại-sắc là để muốn xa-ĺa năm dục-tưởng, không sinh tâm tham-ái. Bảy là, Ca-sa là áo thanh-tịnh của Phật, dứt hẳn được phiền-năo, tạo ra ruộng phúc tốt lành. Tám là, thân mặc Ca-sa, tội nghiệp tiêu-trừ, mười thiện nghiệp-đạo, niệm niệm tăng-trưởng. Chín là, Ca-sa cũng như ruộng tốt hay làm tăng-trưởng Bồ-tát-đạo. Mười là, Ca-sa cũng như áo giáp, mũ trụ, tên độc phiền-năo không hại được. 

Trí-Quang nên biết! Bởi nhân-duyên ấy, chư Phật trong ba đời cùng các bậc Duyên-giác, Thanh-văn thanh-tịnh xuất-gia, thân đều mặc Ca-sa và ba bậc Thánh ấy đồng ngồi trong rừng báu giải-thoát, cầm gươm trí-tuệ, phá ma phiền-năo, cùng vào các cơi Niết-bàn nhất-vị. 

Lúc đó, đức Thế-Tôn nói bài kệ rằng: 

Tỷ-khưu Trí-Quang nên nghe khéo!

Áo đại-phúc-điền mười thắng-lợi.

Y-phục thế-gian thêm dục-nhiễm,

Áo pháp Như-Lai không như thế.

Áo pháp ngăn đời sự thẹn-hổ,

Thẹn-hổ viên-măn sinh ruộng phúc.

Xa-ĺa rét, nắng và trùng độc,

Tâm-đạo vững bền được cứu-cánh.

Thị-hiện xuất-gia ĺa tham-dục,

Dứt năm tà-kiến, [15] chính tu-tŕ.

Chiêm-lễ Ca-sa tướng bảo-chàng,

Cung-kính sinh phúc bậc Phạm-vương.

Phật-tử mặc áo tưởng như tháp,

Cảm Nhân, Thiên-phúc, tội tiêu-diệt.

Dáng nghiêm chí-kính; chân-sa-môn,

Chỗ làm không nhiễm theo trần-tục.

Chư Phật khen ngợi là ruộng tốt,

Lợi-lạc mọi loài đây hơn cả;

Thần-lực Ca-sa không nghĩ, bàn,

Hay khiến trồng tu Bồ-đề-hạnh.

Mầm đạo lớn thêm như lúa Xuân,

Diệu-quả Bồ-đề như trái Thu;

Kim-cương bền-vững thực giáp-trụ,

Tên độc phiền-năo không hại được.

Tôi nay khen qua mười thắng-lợi,

Nhiều kiếp nói rộng không hết được;

Nếu có thân rồng đeo một sợi,

Được thoát khỏi miệng chim trả ăn.

Nếu người qua bể mang áo này,

Không sợ các nạn quỷ, rồng, cá.

Sấm chớp ầm-ầm như trời giận,

Mặc áo Ca-sa không sợ hăi.

Tại-gia nếu hay thân kính giữ,

Hết thảy quỷ dữ không dám gần.

Nếu hay phát tâm cầu xuất-gia,

Chán bỏ thế-gian, tu đạo Phật.

Ma-cung mười phương đều chấn-động,

Người ấy chứng thân Pháp-vương chóng. [16] 

Lại nữa, Bồ-tát Trí-Quang! Phật-tử xuất-gia thường làm hạnh khất-thực, dù rằng phải xả thân-mệnh, chứ không bao giờ dứt tâm ấy. Sở-dĩ thế là sao? Hết thảy chúng-sinh đều y trụ nơi ẩm-thực, bởi thế nên khất-thực lợi-ích vô cùng. Các ông nên biết! Bồ-tát xuất-gia thường đi khất-thực, v́ nó có mười thắng-lợi. Những ǵ là mười? Một là, thường đi khất-thực để nuôi sống thân-mệnh ḿnh, nhưng được xuất-nhập tự-do không bị hệ-thuộc vào người khác. Hai là, khi đi khất-thực, trước tiên nói diệu-pháp cho người ta nghe, khiến người ta khởi tâm thiện, sau mới xin thức-ăn cho ḿnh. Ba là, v́ những người không biết bố-thí, phát tâm đại-bi v́ họ nói chính-pháp cho họ nghe, khiến họ khởi tâm xả-thí, mà sinh được thắng-phúc. Bốn là, làm theo lời Phật dạy để tăng-trưởng giới-phẩm, phúc-đức viên-măn, trí-tuệ vô cùng. Năm là, thường đi khất-thực, đối với bảy mạn, chín mạn [17] tự-nhiên tiêu-diệt, mọi người cung-kính cho là ruộng phúc tốt lành. Sáu là, khi khất-thực sẽ được tướng “vô-kiến-đỉnh” [18] của Như-Lai, ứng-nhận sự cúng-dàng rộng lớn của thế-gian. Bảy là, Phật-tử các ông theo học pháp này, trụ-tŕ Tam-bảo, làm lợi-ích cho chúng-sinh. Tám là, khi khất-thực không được v́ cầu thức ăn uống mà khởi ra tâm hy-vọng, khen ngợi hết thảy con trai, con gái. Chín là, khi đi khất-thực nên theo lần-lượt, không nên phân-biệt nhà nghèo, nhà giàu. Mười là, thường đi khất-thực chư Phật hoan-hỷ, được nhất-thiết-trí, là duyên lành hơn hết. 

Bồ-tát Trí-Quang! Tôi v́ các ông nói qua về mười sự lợi-ích như thế, nếu phân-biệt rộng ra thời vô-lượng vô-biên. Tỷ-khưu các ông, cùng những người đời sau cầu Phật-đạo nên học như thế! 

Bấy giờ đức Thế-Tôn nói bài kệ rằng: 

Bồ-tát Trí-Quang ông nghe kỹ!

Đại-sĩ xuất-gia nên bỏ tham;

Phát tâm tu-hành đạo xuất-thế,

Khất-thực Đầu-đà là căn-bản.

Phàm-phu nương món ăn hữu-lậu,

Bậc Thánh-y món ăn vô lậu:

Hữu-lậu, vô-lậu các phàm, Thánh,

Hết thảy đều y món ăn, sống.

Tôi v́ các ông là Phật-tử,

Khai-diễn hai lợi-hạnh [19] xuất-thế;

Như-Lai ba đời đều khen-ngợi,

Công-đức khất-thực có mười lợi:

Riêng gọi hạnh này là tối-thắng,

Xuất nhập tự-tại không ràng-buộc;

Trước khiến thí-chủ phát sơ-tâm,

Xu-hướng Bồ-đề, sau mới ăn.

V́ trừ sẻn tham nói diệu-pháp,

Rảo tới đại-xả vô-lượng-tâm;

Theo đại-sư dạy đi khất-thực,

Tăng-trưởng vô-lượng các phạm-hạnh.

Bảy mạn, chín mạn tự trừ diệt,

Được các Nhân, Thiên thường cung-kính;

Đỉnh-tướng Như-Lai không thấy được,

Quay xe diệu-pháp hóa mười phương.

Hết thuở vị-lai truyền pháp này,

Khiến không đoạn-tuyệt Tam-bảo-chủng;

Nếu v́ ăn uống khởi tâm tham,

Không nên khen-ngợi các nam, nữ.

Khởi ư b́nh-đẳng đại-từ-bi,

Không sinh phân-biệt giàu, nghèo khó.

Thanh-tịnh khất-thực Phật khen-ngợi,

Nhất-thiết chủng-trí từ đấy sinh.

Như-Lai ba đời hiện ra đời,

V́ chúng-sinh nói bốn món ăn: [20]

Đoạn, xúc, tư, thức là bốn món,

Là món ăn hữu-lậu của đời.

Chỉ có Pháp-hỷ, Thiền-duyệt-thực, [21]

Mới là món ăn của Hiền-Thánh.

Các ông chán bỏ mùi đời này,

Nên cầu món ăn vô-lậu hơn! [22]

Lại nữa, Bồ-tát Trí-Quang! Phật-tử xuất-gia đối với thuốc men không nên tham-đắm. Nếu khi có bệnh, thứ thuốc người ta sắc rồi bỏ đi, như vị Ha-lê (Haritaki) Tỳ-lê và A-ma-lặc (Àmalaka) thời nên lấy những thứ thuốc ấy mà uống; cho đến một đời chỉ uống những thứ thuốc bỏ đi ấy mà thôi. Và, đối với những thứ thuốc ấy vẫn thường sinh niệm “tri-túc” (biết đủ), như thế gọi là “chân-thực Sa-môn”. 

Phật-tử xuất-gia thường uống thuốc bỏ đi, người ấy thu được mười thắng-lợi. Những ǵ là mười? Một là, v́ cầu thuốc thang nhưng, không phải gần luôn với người khác, thời tắt hẳn được tâm tham-cầu và an-trụ được trong chính-niệm. Hai là, “bất-tịnh quán-môn” [23] được thành-tựu dễ-dàng, tâm xuất-thế được vững-vàng. Ba là, đối với các trân-vị, thường không sinh tâm tham-đắm, chóng chứng được chính-trí, hưởng mùi Thiền-duyệt. Bốn là, đối với hết thảy tài-vật thế-gian, thường biết “tri-túc”, chóng được giải-thoát. Năm là, không phải gần những phàm-phu thế-gian mà thường thân-cận với những bạn lành thanh-tịnh xuất-thế-gian. Sáu là, v́ không hiềm ghét các thứ thuốc bỏ đi, thời đối với các thức ăn uống không tốt cũng được giải-thoát. Bảy là, đối với những thứ thuốc quư, quyết không hy-vọng, được hết thảy thế-gian tôn-trọng. Tám là, chóng điều-phục được các bệnh phiền-năo, chứng được pháp-thân thường-trụ của Như-Lai. Chín là, dứt hẳn hết thảy phiền-năo trong ba cơi, chữa khỏi những bệnh nặng về thân-tâm chúng-sinh. Mười là, thuận lời Phật dạy tu hạnh Bồ-tát, phúc-trí viên-măn, được Đại-bồ-đề. 

Trí-Quang nên biết! Tôi v́ các ông nói qua về mười thắng-lợi của sự uống thuốc bỏ đi, diệu-hạnh như thế, Bồ-tát xuất-gia trong quá-khứ, hiện-tại, vị-lai đều cùng tu-học. Các ông cần nên v́ các chúng-sinh mà diễn-thuyết, lưu-bố phương-pháp này đừng để đoạn-tuyệt, tức là v́ Như-Lai đặt rộng sự cúng-dàng; dù thế-gian có của đem cung-kính cúng-dàng cũng không bằng được. Và, đối với hạnh Bồ-tát lại không bị thoái-chuyển, chóng chứng đạo vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề. 

Khi ấy, đức Thế-Tôn nói lại nghĩa trên bằng lời kệ sau này: 

Tỷ-khưu Trí-Quang ông nghe khéo!

Người xuất-gia uống thuốc vô-cấu;

Diệu-hạnh Bồ-tát, đó là trước,

Chúng-sinh có bệnh như ḿnh bệnh.

Lấy ơn đại-bi cứu mọi khổ,

Lại dùng từ-tâm cho an-lạc;

Thuốc hay tối-thượng cho người ta,

Người trước bỏ đi, ḿnh lấy uống.

Bồ-tát không kén thuốc tốt, xấu,

Chỉ chữa các bệnh cho an-ổn;

Lấy thứ thuốc thừa người ta bỏ,

Uống thuốc lấy đủ trị khỏi bệnh.

Lấy thuốc người bỏ có mười lợi,

Như-Lai ba đời cùng khen-ngợi:

Tuy cầu thuốc men không gần người,

Tắt hẳn cầu cạnh, nương chính-niệm

Quán-môn “bất-tịnh” dễ thành-thục,

Gây nhân Bồ-đề đời xa sau;

Không ham cam-vị bỏ mọi tham,

Nên cầu Pháp-hỷ, Thiền-duyệt-thực.

Của báu ở đời tri-túc được,

Thu được thất Thánh-tài [24] vô-lậu;

Bỏ kẻ phàm-phu, không ở chung,

Thân-cận Thánh-Hiền làm lương-hữu.

Bởi thế không hiềm các thuốc bỏ,

Với đồ ẩm-thực, dứt tham-cầu;

Cỗ quư, thuốc hay không hy-vọng,

Thế-gian bởi thế đều tôn-trọng.

Hay chữa thân tâm-bệnh phiền-năo,

Ngộ được Chân-như pháp-tính-nhân;

Dứt hẳn tập-khí trong ba cơi,

Chứng được vô-thượng chân-giải-thoát.

Thuận lời Phật dạy hướng Bồ-đề,

Phúc-trí viên-thành thân quả-báo.

Phật-tử các ông đều tu học,

Sẽ ngồi nơi Kim cương đạo-tràng. [25] 

Lại nữa, Trí-Quang! Bồ-tát xuất-gia xa ĺa chỗ huyên-náo, ở nơi A-lan-nhă, [26] tu-nhiếp tâm ḿnh trong vô-lượng ngh́n năm để cầu Phật-đạo. Như-Lai trong ba đời bỏ những nơi huyên-náo, ở những nơi không-nhàn vẳng-lặng, tu thêm muôn hạnh, chứng quả Bồ-đề. Bậc Duyên-giác, bậc Thanh-văn hết thảy Hiền-Thánh chứng được Thánh-quả cũng đều ở nơi tịch-tĩnh như thế. Nơi A-lan-nhă có mười thắng-đức, làm cho người tu, chứng được ba quả Bồ-đề. [27] Những ǵ là mười thắng-đức? Một là, v́ được tự-tại, ở nơi A-lan-nhă, trong bốn uy-nghi không bị hệ-thuộc người khác. Hai là, bỏ “ngă, ngă-sở” nên gọi là A-lan-nhă, v́ vậy khi ở dưới gốc cây không c̣n sự chấp-trước. Ba là, đối với những đồ ngồi nằm không ham-đắm, do đó nên được nằm trên giường “tứ vô-úy”. [28] Bốn là, nơi A-lan-nhă, ba độc ít-ỏi, nên bỏ được cảnh sở-duyên của tham, sân, si. Năm là, thích ở nơi A-lan-nhă tu hạnh viễn-ly, không cầu năm thứ dục-lạc của Nhân, Thiên. Sáu là, bỏ nơi huyên-náo ở nơi nhàn-tịch, tu-tập Phật-đạo không tiếc thân-mệnh. Bảy là, ưa thích nơi tịch-tĩnh, hết thảy sự-nghiệp thế-gian được thành-tựu dễ-dàng, không chướng-ngại. Tám là, hết thảy sự-nghiệp của thế-gian hay xuất-thế-gian đều được thành-tựu dễ-dàng, không chướng-ngại. Chín là, nơi A-lan-nhă là “Tam-muội-không” [29] hay chứng được trăm ngh́n thứ đại-tam-muội. Mười là, lấy “thanh-tịnh như-không” làm nhà cửa, [30] tâm không chướng-ngại, được đại-trí-tuệ. 

Trí-Quang nên biết! Nơi A-lan-nhă có vô-lượng công-đức như thế! Bởi nhân-duyên ấy, Phật-tử xuất-gia thề bỏ thân-mệnh, không bỏ rừng núi; nếu v́ nghe pháp hay cúng-dàng người đau, sư-tăng, cha mẹ, phải ra ngoài nơi A-lan-nhă vào trong làng xóm thời nên chóng trở về nơi A-lan-nhă. Nếu có nhân-duyên chưa về được, nên tưởng: “Nay ở nơi làng xóm này cũng như ở chốn núi rừng, tài vật sở đắc giả-dối như chiêm-bao, và nếu có được, không nên tham-trước!” Phật-tử như thế là “Ma-ha-tát”. [31] 

Bấy giờ, đức Thế-Tôn nói bài kệ rằng: 

Trí-Quang các ông nghe cho kỹ!

Nơi ở của người không phiền-năo:

Xa nơi huyên-náo ở nơi tĩnh,

Đó là những nơi thần-tiên ở.

Bồ-tát ba đời cầu Bồ-đề,

Ở trong Lan-nhă thành chính-giác;

Duyên-giác, Thanh-văn các Thánh-chúng,

Cũng ở nơi này chứng Bồ-đề.

Ở A-lan-nhă được mười lợi,

Hay khiến chứng được quả Tam-thừa:

Du-hành tự-tại như sư-tử,

Trong bốn uy-nghi không ràng-buộc.

Dưới cây rừng núi bậc Thánh ham,

Không “ngă, ngă-sở” là Lan-nhă;

Áo mặc đồ nằm không ràng-buộc,

Ngồi ṭa sư-tử “tứ-vô-úy”.

Bỏ các phiền-năo là Lan-nhă,

Hết thảy tham-ái không ham-đắm.

Ở ngoài sự-vật chán trần-lao,

Không ham năm dục-lạc trên đời.

Người xa huyên-náo, ưa tịch-tĩnh,

Bỏ thân, xả mệnh cầu Phật-đạo;

Ở nơi tịch-tĩnh không tiếng người,

Tán-loạn trong tâm không phát-khởi.

Nghiệp thiện thế-gian, xuất-thế-gian,

Tâm không chướng-ngại đều thành-tựu.

Bởi thế, Lan-nhă là căn-bản,

Hay sinh trăm ngh́n thứ Tam-muội.

Lấy “đại-không-tịch” làm hư-không,

Thân-tâm người tu không chướng-ngại.

Đầy-đủ được mười thắng-lợi ấy,

Thế nên các Thánh thường ở đó.

Trí-Quang các ông, các Phật-tử,

Nếu muốn chóng thành Nhất-thiết-trí;

Cho đến trong mộng không bỏ rời,

Nơi A-lan-nhă: Bồ-đề-đạo.

Sau Tôi diệt-độ, người phát tâm,

Thường hay ở nơi A-lan-nhă;

Không lâu ngồi trên Bảo-hoa-vương,

Chứng được pháp-thân thường-lạc-quả. [32] 

Khi đức Thế-Tôn nói pháp ấy, vô-lượng trăm ngh́n vị Sơ-phát-tâm đối với đạo vô-thượng được Bất-thoái-chuyển. Bọn ông Trí-Quang, các Bồ-tát-chúng được Đà-ra-ni, đầy-đủ đại-thần-thông. Trăm vạn Nhân, Thiên phát tâm Bồ-đề, ngộ ba pháp-môn giải-thoát. 

Lúc đó, Như-Lai bảo đại-chúng rằng: “Nếu có tịnh-tín thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào được nghe pháp-môn sâu xa về bốn “vô-cấu-tính” như thế, thụ-tŕ, đọc tập, giải-thuyết, biên chép, những người ấy ở nơi sinh của họ, họ sẽ gặp được bậc thiện-tri-thức, tu hạnh Bồ-tát măi măi không bị thoái-chuyển, không bị hết thảy các nghiệp phiền-năo nhiễu-loạn; trong đời hiện-tại được phúc-trí lớn, trụ-tŕ Tam-bảo, được sức tự-tại, nối tiếp Phật-chủng không đoạn-tuyệt. Và, khi mệnh mất quyết được sinh lên cung trời Tri-túc, yết-kiến Ngài Di-Lặc, chứng ngôi Bất-thoái; trong hội đầu Long-Hoa được nghe chính-pháp, thụ Bồ-đề-kư, chóng thành Phật-đạo; nếu nguyện muốn sinh sang cơi nước chư Phật trong mười phương, thời tùy sở-nguyện ḿnh mà được văng-sinh, được thấy Phật, nghe pháp, cứu-cánh bất-thoái vô-thượng chính-đẳng chính-giác.” [33] 

TOÁT-YẾU

IV.- PHẨM VÔ-CẤU-TÍNH 

Các ông Trưởng-giả được xuất-gia rồi, liền xin Phật nói cho nghe về công-đức thù-thắng của sự xuất-gia: Bồ-tát xuất-gia nên an-trụ thế nào? Nên tu-tập nghiệp vô-cấu thế nào? Nên điều-phục tâm hữu-lậu thế nào? 

Đức Phật dạy:“Bồ-tát xuất-gia ngày đêm cần quán-tưởng: Thân ta có đây do đâu mất đi mà sinh ra? Sau đây ta sẽ sinh vào châu nào, đạo nào? Tại sao ta xuất-gia được? Chư Phật quá-khứ đă qua, chư Phật vị-lai chưa ra đời, hiện tại c̣n bao nhiêu đức Phật sẽ ra đời? Bao giờ đức Di-Lặc ra đời? Thân ta có nghiệp thiện ǵ? Học giới, định, tuệ, có đức ǵ? Sau đây liệu có gặp được Phật không? Ba nghiệp trong thân này ǵ là nặng hơn? Ta đă tạo tội ǵ? Ta đă trồng thiện-căn ở nơi đức Phật nào? Thân ta được bao lâu nữa? Mất đi sẽ sinh vào đâu? Ta sao khỏi được ba đường dữ? Thân này luôn luôn suy-giảm, ta yêu-thích làm ǵ? 

Bồ-tát không ham năm dục, siêng-năng tu-tập, quán-tưởng không ngừng, coi như gỡ lửa cháy trên đầu. Và, tâm thường sám-hối, trụ vào 4 vô-cấu-tính, tu 12 hạnh Đầu-đà cùng điều-phục tâm ḿnh. 

Bốn vô-cấu-tính là bốn thứ tùy chỗ có được thế nào nên thế, không tham-cầu. Và, do 4 thứ ấy sinh ra 37 Bồ-đề-phận của chư Phật; ngôi Tam-bảo không bị đoạn-tuyệt. Bốn vô-cấu-tính ấy là: quần áo, đồ nằm, thức ăn uống và thuốc men. 

- Bồ-tát xuất-gia đối với quần-áo, đồ nằm dù xấu, tốt không chê, khen, chỉ nhất tâm hồi-hướng công-đức cho thí-chủ và luôn luôn mang ḷng thẹn-hổ, sung-túc cho pháp-y được 10 thắng-lợi: xa ĺa tu-sỉ, xa ĺa lạnh, nóng…,hiện tướng xuất-gia, được sự tôn-kính, diệt tội sinh phúc, không sinh tham-ái, tạo ruộng phúc tốt, thiện-nghiệp tăng-trưởng, tăng-trưởng Bồ-tát-đạo và phiền-năo không hại. 

- Bồ-tát xuất-gia thường làm hạnh khất-thực, dù xả thân-mệnh chứ không bỏ. Khất-thực có 10 thắng-lợi: Sống ḿnh bằng tự-do, nói pháp cho người, khởi tâm xả-thí, tăng-trưởng phúc-trí, tiêu-diệt khinh-mạn, được vô-kiến đỉnh-tướng, Tam-bảo thường-trụ, không khởi hy-vọng khen chê, tâm không phân-biệt và được Nhất-thiết-trí. 

- Bồ-tát xuất-gia đối với thuốc men không ham-đắm. Khi có bệnh chỉ uống thứ thuốc bỏ đi của người mà vẫn sinh niệm tri-túc. Uống thuốc bỏ đi được 10 thắng-lợi: Được uống thuốc nhưng không gần người, thành bất-tịnh-quán, không sinh tham-đắm, biết tri-túc được giải-thoát, được gần bạn lành, không tâm hiềm-ghét, không tâm hy-vọng, điều-phục được bệnh phiền-năo, dứt hẳn phiền-năo và được Đại-bồ-đề. 

- Bồ-tát xuất-gia xa-ĺa chỗ huyên-náo ở nơi A-lan-nhă, thu-nhiếp thân-tâm, để cầu Phật-đạo. Chư Phật, Hiền-thánh trong ba đời đều ở nơi A-lan-nhă mà thành Bồ-đề. Ở nơi A-lan-nhă có 10 thắng-đức: Không bị hệ-thuộc, bỏ “ngă, ngă-sở”, được 4 vô-úy, bỏ tham, sân,si, không cầu năm dục, không tiếc thân-mệnh, sự-nghiệp thế-gian dễ thành, sự-nghiệp xuất-thế dễ thành, chứng nhiều đại-định và được đại-trí-tuệ. 

Đức Phật nói về vô-cấu-tính rồi, nhiều người phát tâm vô-thượng bất-thoái-chuyển; các Bồ-tát cùng bọn ông Trí-Quang được Đà-ra-ni thần-thông và nhiều Nhân, Thiên phát tâm Bồ-đề được 3 pháp giải-thoát. 

Đức Phật kết-khuyến: “Nếu ai được nghe, thụ-tŕ, đọc tụng, giải-thuyết, biên chép phẩm Vô-cấu-tính này hiện-thế được nhiều lợi-lạc, sau này được gặp đức Di-Lặc, được thụ-kư và sẽ thành Phật. 


[1] Vô-cấu-tính: Đối với 4 thứ: quần áo, đồ nằm, thức ăn uống, thuốc men, tuy phải dùng nhưng, không tham-cầu, không làm nhiễm-ô chân-tính là “vô-cấu-tính”.

[2] Vô-duyên từ-bi: “Từ-bi” có nghĩa là cho vui, cứu khổ. “Vô-duyên từ-bi” là 1 trong 3 loại từ-bi. Ba loại từ-bi là: 1/ Chúng-sinh-duyên từ-bi: Tâm từ-bi coi tất cả chúng-sinh như cha mẹ, quyến-thuộc. V́ có duyên với họ, nên thường nghĩ tới sự cho vui, cứu-khổ họ. Tâm từ-bi này phần nhiều do tại nơi phàm-phu hoặc những người hữu học, chưa dứt được phiền-năo mà phát-khởi. 2/ Pháp-duyên từ-bi: Bậc Thánh-nhân trong Tam-thừa đă dứt được phiền-năo, đạt tới pháp-không (sự-vật là không), phá được tướng “ngă” nơi ta, cùng phá và diệt được tướng nhất (một), dị (khác), chỉ thương chúng-sinh không biết là “pháp-không”, nhất tâm muốn gỡ khổ, được vui, nên tùy theo ư họ mà gỡ khổ, cho vui cho họ. 3/ Vô-duyên từ-bi: Tâm từ-bi này chỉ có nơi Phật. Tâm chư Phật không trụ vào trong tính hữu-vi vô-vi, không trụ vào trong ba đời: quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, biết rơ mọi duyên là không thực, điên-đảo hư-vọng, nên tâm không bị duyên vào đó. Song, chư Phật v́ thấy chúng-sinh không biết thực-tướng của các pháp, phải đi lại trong năm đường, tâm chấp-trước vào các pháp, lấy, bỏ, phân-biệt, v́ vậy nên tâm không duyên với chúng-sinh, nhưng, vẫn làm cho hết thảy chúng-sinh tự-nhiên được sự lợi-ích trong sự cho vui, cứu khổ.

[3] La-hầu-la (Rahula): Tàu dịch là “Phú-chướng”. Là con trai của Thái-Tử Tất-đạt-đa (tức là đức Phật). Theo Phật xuất-gia, là vị Mật-hạnh đệ nhất.

[4] Đoạn trên, từ chữ “Khi” đến chữ “nào”, các ông Trưởng-giả xin Phật dạy cho về cách an-trụ, tu-tập, điều-phục tâm như thế nào?

[5] Mười hai hạnh Đầu-đà: “Đầu-đà” (Dhùta): Tàu dịch là “Đẩu-tẩu” có nghĩa là vị thực-hành phương-pháp giũ bỏ, nghĩa là không tham-trước về 3 món: quần áo, ăn uống và nơi ở. Thực-hành hạnh này cần giữ 12 điều: 1/ Mặc áo đụp. 2/ Chỉ có 3 áo. 3/ Đi khất-thực. 4/ Không ăn nhiều bữa. 5/ Ăn một bữa đúng trưa. 6/ Ăn có hạn. 7/ Ở nơi A-lan-nhă. 8/ Ngồi nơi mộ-địa. 9/ Ngồi dưới gốc cây. 10/ Ngồi nơi đất trống. 11/ Ngồi nơi đất cỏ. 12/ Thường ngồi không nằm.

[6] Chiên-đà-la (Candàla): Tức là người đồ-tể. Xưa kia, tại Ấn-độ hạng người này là người ngoài 4 giai-cấp trong xă-hội. Hạng người này đi ra đường phải cầm cờ, lắc chuông v.v…để người ta biết để tránh.

[7] Ca-sa (Kasàya): Có nghĩa là áo nhuộm hoại-sắc, không để chính-sắc. Ca-sa là áo của các vị Tỷ-khưu. Ca-sa có ba bậc: 1/ An-đà-hội (Antarvàsaka) 5 điều. 2/ Uất-đa-la-tăng (Uttaràsanga) 7 điều. 3/ Tăng-già-lê (Sanghàti) 9 điều đến 25 điều.

[8] 37 Bồ-đề-phận-pháp: Tức 37 đạo-phẩm: 4 niệm xứ, 4 chính-cần, 4 như-ư-túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác-chi và 8 chính-đạo. (Xem trong quyển Bước đầu học Phật có giải rơ)

[9] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ” đến chỗ “Vô-cấu-tính”, đức Phật dạy về cách an-trụ, tu-hành và điều-phục của Bồ-tát xuất-gia. Bồ-tát xuất-gia luôn luôn quán nhân-quả 3 đời tại nơi ḿnh, cần tu hạnh Đầu-đà, điều-phục tâm ḿnh như bọn Chiên-đà-la và không tham-cầu về 4 sự thường dùng: quần áo, đồ nằm, ăn uống, thuốc-thang. Do đó, phát sinh đạo-phẩm và Tam-bảo thường-trụ.

[10] Thai, noăn, thấp, hóa: Tức là 4 loại sinh: 1/ Thai-sinh (Jaràyuja): loài do thai-nghén rồi sinh con. 2/ Noăn-sinh (Andaja): Loài sinh trứng. 3/ Thấp-sinh (Samsvedaja): Loài nương nơi ẩm-thấp mà sinh. 4/ Hóa-sinh (Upapàduka): Loài y vào nghiệp-lực mà hóa-sinh.

[11] Ba tính: Thiện, ác và vô-kư (không thiện không ác).

[12] Hoa-vương: Tức là ṭa Kim-cương hoa-quang-vương. “Hoa-vương”: bông hoa cao quư, rộng khắp biểu-tượng cho pháp-giới vô-lượng. Pháp-giới vô-lượng ví như hoa sen ngh́n cánh, mỗi cánh là trăm ức cơi và mỗi cơi có một đức Phật thuyết-pháp độ-sinh. Theo ư nghĩa trên, thời trong câu “Hoa-vương” này có nghĩa là chư Phật thành Phật (chứng được pháp-thân), sẽ đem lại phúc-lợi cho tất cả chúng-sinh trong pháp-giới không phân-biệt.

[13] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy” đến chỗ “Như-Lai”, đức Phật nhắc lại ư-nghĩa đă nói trong chính-văn về việc an-trụ, tu-hành điều-phục, để gây mầm Bồ-đề, thành tựu vô-lậu thánh-đạo và làm lợi-lạc cho quần-sinh.

[14] Pháp-y: Áo đúng pháp, không tham-cầu, không thừa-thăi

[15] Năm tà-kiến: 1/ Thân-kiến: chấp ta và của ta. 2/ Biên-kiến: chấp một bên, hoặc là “đoạn” hay là “thường”. 3/ Tà-kiến: không tin nhân, quả. 4/ Kiến-thủ: chấp chặt tri-kiến ḿnh là hơn. 5/ Giới-cấm-thủ: chấp giữ những giới-cấm phi-lư.

[16] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa”, đến chữ “chóng”, đức Phật nói rơ sự cần-thiết và lợi-ích của y-phục. Việc y-phục, người biết tri-túc, không tham-cầu, thời sẽ là ruộng phúc cho thí-chủ, mầm đạo Bồ-đề sẽ tươi tốt như lúa về mùa Xuân, sẽ hưởng được quả tốt như quả chín ṃm trong mùa Thu; không bị sợ-hăi trong các tai-nạn và chóng thành vô-thượng-giác.

[17] 7 mạn, 9 mạn: “Mạn” có nghĩa là cậy ḿnh khinh người:

7 mạn: 1/ Mạn: kém mà cho ḿnh hơn. 2/ Quá-mạn: bằng mà cho ḿnh hơn. 3/ Mạn-quá-mạn: người hơn mà cho ḿnh hơn. 4/ Ngă-mạn: chấp ta, của ta sinh ngông-nghênh. 5/ Tăng-thượng-mạn: chưa chứng Thánh-quả cho ḿnh đă chứng. 6/ Ty-mạn: người hơn ḿnh nhiều phần lại cho ḿnh là kém ít phần. 7/ Tà-mạn: làm ác được kết-quả sinh ngông-nghênh.

9 mạn: 1/ Ngă-thắng-mạn: bằng, lại cho ta là hơn. 2/ Ngă-đẳng-mạn: hơn, lại nghĩ ta bằng. 3/ Ngă-liệt-mạn: người hơn nhiều, cho ta là kém ít. 4/ Hữu-thắng ngă-mạn: nghĩ người so-sánh với ḿnh là hơn. 5/ Hữu-đẳng ngă-mạn: nghĩ người cùng ḿnh bằng. 6/ Hữu-liệt-ngă: nghĩ người kém ḿnh. 7/ Vô-thắng-ngă: nghĩ người đối với ḿnh không hơn. 8/ Vô-đẳng-ngă: nghĩ người đối với ḿnh không bằng. 9/ Vô-liệt-ngă: nghĩ người đối với ḿnh không kém.

[18] Vô-kiến-đỉnh: Tức là tướng Nhục-kế của Phật. Tướng này ở trên đỉnh đầu Phật, hết thảy Nhân, Thiên không trông thấy được, nên gọi là “vô-kiến-đỉnh”.

[19] Hai lợi-hạnh: Lợi ḿnh và lợi người.

[20] Bốn món ăn: 1/ Đoạn-thực: xưa gọi là “đoàn-thực”: Những đồ ăn phải chia ra từng phần, từng nắm, từng miếng mà ăn. 2/ Xúc-thực: xưa gọi là “lạc-thực”: xúc-chạm những việc vui mừng, thân-thể lớn khỏe, không ăn cũng không biết đói. 3/ Tư-thực: xưa gọi là “niệm-thực”: Ư-thức thứ 6 nghĩ (tư) đến cảnh mong muốn, sinh ra niệm hy-vọng, mà giúp-đỡ các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) sinh-trưởng. 4/ Thức-thực: 8 thức hay chống-chơi và ǵn-giữ cho thân-mệnh chúng-sinh, nên gọi là “thức-thực”. Bốn món trên đều chống-chơi, ǵn-giữ và nuôi lớn thân-mệnh chúng-sinh, nên gọi là “thực” (món ăn).

[21] Pháp-hỷ, Thiền-duyệt-thực: Nghe pháp vui mừng căn lành thêm lớn, giúp ích cho thân-mệnh trí-tuệ, cũng như những món ăn của thế-gian giúp cho thân-thể, nên gọi là “Pháp-hỷ-thực”. Lấy sự vui vẳng-lặng trong thiền-định nuôi-nấng thân-tâm, nên gọi là “Thiền-duyệt-thực”.

[22] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa” cho đến chỗ “vô-lậu hơn”, đức Phật dạy về việc khất-thực. Khất-thực có nhiều lợi-ích cho ḿnh và lợi-ích cho người. Người khất-thực phải có tâm b́nh-đẳng, ăn đủ sống, không tham-cầu và biết rằng 4 món ăn của thế-gian c̣n là món ăn hữu-lậu (c̣n phải sinh-tử, chưa giải-thoát), chỉ có món ăn: Pháp-hỷ, Thiền-duyệt là món ăn của Hiền-thánh, là món ăn vô-lậu (được giải-thoát, không c̣n sinh-tử).

[23] Bất-tịnh quán-môn: Môn quán về thân không trong-sạch.

[24] Thất Thánh-tài: 7 thứ của của Hiền-thánh: 1/ Tín: tín-thụ chính-pháp. 2/ Tiến: tinh-tiến cầu đạo. 3/ Giới: giữ-ǵn giới-luật. 4/ Tàm-quí: biết thẹn-hổ nơi ḿnh và người. 5/ Văn: tin nghe chính-giáo. 6/ Xả: vui bỏ hết thảy. 7/ Định-tuệ: lắng trong vọng-niệm, soi tỏ sự lư.

[25] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa” đến chỗ “đạo-tràng”, đức Phật dạy các Phật-tử xuất-gia khi có bệnh nên uống thứ thuốc của người đă sắc bỏ đi, Uống thứ thuốc này tức là không c̣n có sự khen, chê, tham-cầu, để dễ quán bất-tịnh, diệt phiền-năo và phúc-trí chóng viên-thành.

[26] A-lan-nhă: (Àrinya): Nơi núi rừng thanh-vắng mà các vị tu-hành ở, Tàu dịch là: “Vô-tránh-thanh”: nơi xa vắng không c̣n có tiếng căi-cọ; “Nhàn-tịch”: nơi vẳng-lặng, thong-thả; “Không-nhàn”: nơi trống-trải, rộng-răi bao-la, không huyên-náo, được tự-tại; “Viễn-ly-xứ”: nơi xa tránh sự xôn-rộn của đời.

[27] Ba quả Bồ-đề: Tức là 3 chính quả của Thanh-văn, Duyên-giác và Phật.

[28] Tứ vô-úy: Bốn pháp nói về tâm hóa-tha không sợ. Vô-ú có 2 thứ: vô-úy của Bồ-tát và vô-úy của Phật.

A.- Vô-úy của Phật: 1/ Nhất-thiết-trí vô-sở-úy: nói được nhất-thiết-trí tâm không sợ-hăi. 2/ Lậu-tận vô-sở-úy: nói dứt hết mọi phiền-năo, tâm không sợ-hăi. 3/ Thuyết-chướng-đạo vô-sở-úy: nói ra pháp chướng-hại đạo Phật, tâm không sợ-hăi. 4/ Thuyết-tận-khổ-đạo vô-sở-úy: nói rằng hết khổ-đạo, tâm không sợ-hăi.

B.- Vô-úy của Bồ-tát: 1/ Nghe giữ và ghi nhớ giáo-pháp không quên nên thuyết-pháp không sợ. 2/ Biết pháp-dược và biết căn-tính chúng-sinh nên thuyết-pháp không sợ. 3/ Khéo hay về sự vấn-đáp nên thuyết-pháp không sợ. 4/ Hay ngắt dứt nỗi ngờ của chúng-sinh nên thuyết-pháp không sợ.

[29] Tam-muội không: Ư nói nơi A-lan-nhă là nơi tu định, nơi này cũng ví như hư-không hàm-tàng muôn vật, muôn vật đều hàm-tàng trong hư-không, như mọi môn định đều tự nơi A-lan-nhă mà sinh-trưởng.

[30] Ư nói: Ở nơi A-lan-nhă tâm trong sạch, rộng-răi như hư-không.

[31] Ma-ha-tát: Gọi đủ là Ma-ha-tát-đỏa (Mahàsatt-va), Tàu dịch là “Đại tâm, Đại chúng-sinh, Đại hữu-t́nh”; có nghĩa là chúng-sinh có tâm rộng lớn, làm những việc lớn-lao. Ma-ha-tát là tiếng gọi thông-thường chỉ cho vị Bồ-tát.

[32] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa” đến chỗ “thường lạc-quả” đức Phật dạy: Bồ-tát xuất-gia cần phải ở nơi thanh-vắng, tránh xa sự huyên-náo, tu-tập muôn hạnh, để chứng Bồ-đề. Nơi ấy có 10 thắng-đức nên chư Phật và Tam-thừa. Thánh-nhân đều do nơi ấy mà thành đạo. Người phát tâm ở nơi A-lan-nhă, quyết sẽ chứng pháp-thân.

[33] Đoạn trên, từ chỗ “Khi đức Thế-Tôn” đến chỗ “chính-giác” là nói về sự nghe pháp cũng như sự thụ-tŕ pháp-môn này, hiện nay và mai sau được nhiều sự lợi-ích.

V.- PHẨM A-LAN-NHĂ 

Bấy giờ, trong pháp-hội có một vị Đại-bồ-tát tên là THƯỜNG-TINH-TIẾN nhờ uy-thần của Phật, liền từ ṭa đứng dậy, chễ áo vai hữu, gối hữu để xuống đất, chắp tay cung-kính bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói nơi A-lan-nhă là Bồ-đề đạo-tràng, nếu có người nào phát tâm cầu Bồ-đề, không nên ĺa bỏ nơi A-lan-nhă ấy. Trong nơi A-lan-nhă ấy có nhiều chúng-sinh như: hổ, báo, sài-lang, trùng-độc, thú-dữ cho đến chim bay, thợ săn, không biết đến Như-Lai, không nghe chính-pháp, lại không kính Tăng, các chúng-sinh ấy không tu lại thiện-căn, xa ĺa sự giải-thoát, thế mà, làm sao Như-Lai lại khiến người tu-học ở nơi A-lan-nhă ấy để chóng được thành Phật? Kính xin Thế-Tôn v́ các chúng-sinh phân-biệt, giải-thuyết, giải-quyết cho sự ngờ vực ấy, làm cho chúng-sinh được vui-vẻ phát tâm Bồ-đề, khiến họ không bị thoái-chuyển!”

Đức Phật bảo Bồ-tát Thường-Tinh-Tiến: “Quư hóa thay! Quư hóa thay! Thiện-nam-tử! Ông đem ḷng đại-từ hỏi Như-Lai về sự thanh-tịnh giải-thoát, lợi-ích cho những người tu-hành mai sau, công-đức ấy vô lượng. Ông nghe kỹ, nghe kỹ và nhớ nghĩ khéo! Nay Tôi v́ ông phân-biệt diễn nói về các công-đức của nơi A-lan-nhă!” Bồ-tát Thường-Tinh-Tiến bạch: “Dạ, bạch Thế-Tôn! Con nguyện muốn được nghe!” 

Đức Phật bảo Bồ-tát Thường-Tinh-Tiến: “Như ông nói nơi A-lan-nhă được thành bậc Thánh nhưng, trong rừng núi nhiều chúng-sinh bởi nhân-duyên ǵ, không được thành Phật. Nghĩa ấy không phải. Sở-dĩ thế là sao? – Các chúng-sinh kia không biết Tam-bảo, không biết chán, đủ, không biết thiện, ác; ở trong rừng núi tuy có nhiều trân-bảo của thế-gian, mà họ vẫn không biết được chỗ ẩn-náu của nó. Đại-bồ-tát không như thế, Thiện-nam-tử! Bồ-tát biết Phật, Pháp, Tăng-bảo là của báu xuất-thế-gian, bảy ngọc báu ẩn-náu là của báu thế-gian, các vị đều phân-biệt được mọi sắc-tướng của nó, biết chỗ ở của nó nhưng, không tham-cầu, cũng không thích thấy, huống là c̣n nhặt lấy? 

Bồ-tát xuất-gia phát tâm kiên-cố không tiếc thân-mệnh, ĺa bỏ cha mẹ, lục-thân quyến-thuộc, thích ở nơi rừng núi, thường nghĩ: “Giả-sử khi hết kiếp, cơi tam-thiên đại-thiên này bảy mặt trời mọc ra, hỏa-tai bừng cháy, thiêu-đốt muôn vật, mặt trời, trăng, sao, núi Tu-di, bảy núi Kim-sơn, núi Thiết-vi…, lúc thời đến đều bị tiêu-tan; ngay đến cơi cao nhất ba cơi là cơi trời Phi-phi-tưởng, khi hết tám vạn kiếp lại sinh xuống cơi đất; Chuyển-luân Thánh-vương có ngh́n con vây quanh, thất-bảo quyến-thuộc và bốn châu đều phục, mà khi quả-báo của thọ-mệnh hết cũng không dừng được chốc lát. Nay ta cũng thế, giả-sử tuổi thọ đủ trăm năm, bảy báu đầy-đủ, hưởng-thụ mọi sự khoái-lạc nhưng, sứ-giả Diễm-ma đến là không khỏi được vô-thường. Thấy thế nên suy-nghĩ rằng: “Nay ta không ǵ bằng thay thế cha mẹ ta cùng các chúng-sinh tu hạnh Bồ-tát, sẽ được thân kim-cương bất-hoại, rồi trở lại trong ba cơi độ cho cha mẹ”. Phát-nguyện ấy rồi ở nơi Lan-nhă v́ các chúng-sinh phát ra những thệ-nguyện rộng lớn. [1] 

Bồ-tát thượng-căn phát-nguyện: “Nguyện, con khi chưa thành Phật trở lại, thường ở nơi đất trống, luôn luôn ngồi không nằm”. Bồ-tát trung-căn phát-nguyện: “Nguyện, con khi chưa thành Phật trở lại, thường ngồi ở dưới cây có lá che rợp, không nằm”. Bồ-tát hạ-căn phát-nguyện: “Nguyện, con khi chưa thành Phật trở lại, thường ngồi trong nhà đá, không nằm”. 

Ba căn trong Bồ-tát xuất-gia như thế, ngồi trong ba ṭa [2] vừa nói, đều nghĩ: “Bồ-tát thuở quá-khứ ngồi trên ṭa này, chứng được Đà-ra-ni-môn công-đức tự-tại; các Bồ-tát trong đời đă qua, hiện nay và mai sau, đều ở trên ṭa này được Đà-ra-ni tu chứng tự-tại; ta cũng như thế, nay ta ngồi nơi này quyết sẽ thành-tựu Đà-ra-ni, được tự-tại. Nếu chưa thành-tựu và được tự-tại, ta quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă!” 

Hoặc có Bồ-tát chưa viên-măn được bốn tâm vô-lượng (từ, bi, hỷ, xả) quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-măn được năm sức thần-thông, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-măn được sáu pháp Ba-la-mật, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-măn được phương-tiện thiện-sảo, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa điều-phục được hết thảy hữu-t́nh, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-măn được bốn nhiếp-pháp, [3] quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa tu-tập được pháp lục-niệm [4] quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa thành-tựu được “trí-tuệ, đa-văn”, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa thành-tựu được sức tin bền-vững, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa dứt trừ được sáu mươi hai kiến, [5] quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa tu-tập được tám chính-đạo, [6] quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa dứt hẳn được tập-khí của phiền-năo-chướng, sở-tri-chướng, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-măn được trí-tuệ vi-diệu trong việc tùy bệnh cho thuốc, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-măn được tâm Đại-bồ-đề, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă, Hoặc có Bồ-tát chưa viên-măn được hằng-sa Tam-muội, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa thành-tựu được vô-lượng thần-thông, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát dùng sức thần-thông nơi đại-định (định-thông-lực) thấy mười tám “không” [7] mà tâm không kinh, đại-sự như thế nếu chưa thành-tựu, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-măn được Nhất-thiết-trí, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-măn được Nhất thiết-chủng-trí, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa tu-tập được ba mươi bảy Bồ-đề phận-pháp, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-măn được muôn hạnh trong Thập-địa, [8] quyết không ĺa-bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát ở trong trăm kiếp chưa tu-hành được về nghiệp-quả của tướng tốt, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-măn được bốn trí của Như-Lai, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-măn được sự chứng Đại-niết-bàn, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát ngồi ṭa Kim-cương mà chưa chứng được vô-thượng chính-đẳng chính-giác, quyết ngồi luôn không đứng dậy. Thế là Bồ-tát thực-hành hạnh A-lan-nhă. 

Thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia phát tâm Bồ-đề, vào trong rừng núi, ngồi trên ba ṭa vừa nói, mài luyện thân tâm, trải bao đại-kiếp, tu muôn hạnh, chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề. 

Lúc đó, đức Thế-Tôn nói lại nghĩa trên bằng lời kệ sau này: 

Thời xưa nhân-địa các Như-Lai,

Ở A-lan-nhă, ĺa trần-tục;

Đoạn, dẹp phiền-năo, sở-tri-chướng,

Vượt qua ba cơi chứng Bồ-đề.

Bồ-tát quá-khứ tu hành-nguyện,

Lấy A-lan-nhă làm nhà cửa;

Trong vô-số kiếp tu phúc-trí,

Cứu-cánh Thập-địa chứng tam thân.

Bồ-tát vị-lai cầu Phật-quả,

Vào trong núi sâu tu diệu-hạnh;

Dứt trừ hai chướng, nhân sinh-tử,

Sẽ chứng tam-không chân giải-thoát.

Mười phương hiện-tại các Bồ-tát,

Tu-tŕ muôn hạnh ở “không-nhàn”;

Không tiếc thân-mệnh cầu Bồ-đề,

Niệm niệm chứng được vô-sinh-trí.

Nếu muốn chóng chứng Tam-muội sâu,

Nhân tu diệu-định, siêu-thần-thông;

Nơi A-lan-nhă tâm không rộn,

Biến được đại-địa thành thất-bảo.

Nếu muốn dạo chơi khắp mười phương,

Đi lại tự-tại vận thần-thông;

Cúng-dàng chư Phật lợi quần-sinh,

Ở nơi Lan-nhă không sợ-hăi.

Muốn chứng trí như-huyễn hữu, vô, [9]

Hiểu thấu các pháp bản-lai-không;

Ở A-lan-nhă, Bồ-đề-tràng,

Khiến chúng, cũng vào chân-giải-thoát. [10]

Nếu muốn chóng được như-như-trí,

Chứng-hội các pháp như-như-tính;

Hết đại-kiếp-hải lợi quần-sinh

Thường ở Lan-nhă nơi không-tịch.

Nếu người muốn được nan-tư-trí,

Tu-di thu vào trong hạt cải;

Tu-di, hạt cải tướng bất-hoại,

Vào nhà thần-thông trong Lan-nhă. [11]

Nếu người muốn được vô-ngại-trí,

Một tiếng diệu-âm dùng thuyết-pháp;

Tùy loại chúng-sinh đều được thoát,

Nên ở Lan-nhă tu diệu-quán.

Nếu muốn không sinh và không diệt,

Ứng-hiện quốc-độ khắp mười phương;

Phóng quang thuyết-pháp lợi quần-sinh,

Chớ ĺa Lan-nhă nhà không-tịch.

Nếu lấy ngón chân ấn đại-địa,

Khiến cơi mười phương đều chấn-động;

Thấy tướng, phát tâm trừ tà-kiến,

Nên ở Lan-nhă quán tự-tâm. [12]

Nếu muốn trong khi Phật xuất-hiện,

Tối-sơ kính dâng vi-diệu-cúng;

Thí-ba-la-mật đều viên-măn,

Ở A-lan-nhă tu diệu-hạnh.

Nếu người, khi Phật nhập Niết-bàn,

Tối-hậu cúng-dàng thành nghĩa “Thí”;

Dứt hẳn nghèo-cùng và tám nạn,

Thệ-nguyện ở trong A-lan-nhă.

Nếu muốn phúc-trí đều viên-măn,

Chư Phật mai sau sắp Niết-bàn;

Nhận nguyện rộng lớn, Phật giao cho,

Ở A-lan-nhă tu lục niệm.

Sau khi chư Phật nhập Niết-bàn,

Kết tập di-pháp độ chúnh-sinh;

Trợ-tán chân-thừa của chư Phật,

Ở nhà “không-tịch” trong Lan-nhă.

Đại-sư Nhân, Thiên: Đấng Thế-Tôn,

Khó thấy, khó gặp hơn Ưu đàm;

Nếu muốn yết-kiến, sửa cúng-dàng,

Nên ở Lan-nhă, bi-nguyện rộng.

Mọi báu tuy tôn, PHÁP tôn hơn,

Thành Phật, hóa lợi do đây cả;

Như người muốn được thường nghe pháp,

Ở A-lan-nhă tu phạm-hạnh.

Đầu, từ thân này đến thân Phật,

Thường nguyện phát tâm hoằng chính-giáo;

Cho đến khi chưa được Bồ-đề,

Niệm niệm không bỏ A-lan-nhă.

Nếu người muốn báo ơn cha mẹ,

Thay thế cha mẹ phát thệ-nguyện;

Vào Bồ-đề-tràng trong Lan-nhă,

Ngày đêm thường tu về diệu-đạo.

Nếu muốn đời nay thêm phúc-trí,

Mai sau không đọa trong tám nạn;

Như thế, chúng-sinh phát thiện tâm,

Ở A-lan-nhă tu bi-nguyện.

Bồ-tát ba đời cầu chân-giác,

Được đạo Niết-bàn trong Lan-nhă;

Thế nên gọi là đại-đạo-tràng,

Thánh-chúng Tam-thừa đồng ở đó.

Bồ-tát chán khổ vào rừng núi,

V́ độ quần-sinh cầu Thánh-đạo;

Tự chưa thành Phật độ người trước,

Sáu đạo, bốn loài đều thương-xót.

Bồ-tát thượng-căn ở đất trống,

Bồ-tát trung-căn trong bóng lá;

Bồ-tát hạ-căn ở nhà đá,

Chưa thành Phật-đạo thường không nằm.

Bồ-tát ba đời ở Lan-nhă,

Được sức tự-tại Đà-ra-ni;

Nay ta thề cùng tâm Bồ-đề,

Chửa được Tổng-tŕ, ở đây măi.

Được Đại-bồ-đề ở Lan-nhă,

Vào đại-viên-tịch do đây được;

Bồ-tát khởi phát trí kim-cương,

Đoạn hoặc, chứng chân [13] thành Diệu-giác.

Hóa rộng chúng-sinh qua làng xóm,

V́ cầu tịch-diệt ưa rừng núi;

Nhân muôn hạnh đầy, quả cũng trọn,

Hết thời vị-lai độ mọi loài.

Khi đức Thế-Tôn nói về hạnh A-lan-nhă của Bồ-tát xuất-gia như thế, vô lượng Bồ-tát chứng Cực-hỷ-địa; Hằng-hà-sa vô số Bồ-tát ĺa hẳn tướng, dụng vi-tế phiền-năo, chứng Bất-động-địa; bất-khả-thuyết, bất-khả-thuyết Đại-bồ-tát dứt hết thảy hoặc-chướng vào Diệu-giác-địa; vô-biên chúng-sinh phát tâm vô-đẳng-đẳng, vô-thượng chính-đẳng chính-giác; chín vạn bảy ngh́n chúng-sinh xa ĺa trần-cấu, được pháp-nhăn-tịnh. [14] 

TOÁT-YẾU

V.- PHẨM A-LAN-NHĂ 

Bấy giờ trong pháp-hội, Đại-bồ-tát Thường-Tinh-Tiến bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Phật nói nơi A-lan-nhă là đạo-tràng Bồ-đề, ai phát tâm Bồ-đề không nên rời nơi ấy, sao các thú dữ, trùng-độc, chim bay, thợ săn ở ngay nơi ấy lại không nghe, biết Tam-bảo, tu lại thiện-căn, mà Phật cứ bảo người tu-học ở nơi ấy để chóng thành Phật?” 

Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Thường-Tinh-Tiến: “Ông nói thế không phải. Chính v́ các chúng-sinh kia không biết chi cả. Ngay đến những thứ quư báu ở trong rừng, họ cũng không biết ở chỗ nào. Bồ-tát không thế. Bồ-tát biết Tam-bảo là của quư, nên của báu của đời Bồ-tát biết rơ-ràng nhưng không tham-cầu. Bồ-tát phát tâm kiên-cố, không tiếc thân-mệnh, bỏ t́nh thân-quyến, ở nơi rừng núi, thường nghĩ: “Ba cơi này có lúc cũng sẽ tiêu-tan, dù người ở ngôi tôn như Chuyển-luân-vương hay như thân ta sống đến trăm tuổi cũng không tránh khỏi vô-thường. Chi bằng ta thay cha mẹ cùng chúng-sinh tu hạnh Bồ-tát, sẽ được thân kim-cương bất-hoại, rồi trở lại ba cơi độ cho hết-thảy”. Do đó, Bồ-tát thượng-căn ở nơi A-lan-nhă nguyện: “Trong khi chưa thành Phật ngồi luôn, ở nơi đất trống không nằm!” Bồ-tát trung-căn nguyện: “Trong khi chưa thành Phật ngồi dưới gốc cây không nằm!” Bồ-tát hạ-căn nguyện: “Trong khi chưa thành Phật ngồi trong hang đá không nằm!” Và, các Bồ-tát đều nghĩ: “Các Bồ-tát trong ba đời đều ngồi trên ṭa này tu chứng Đà-ra-ni tự-tại, ta đây cũng quyết thành-tựu như vậy, nếu không, ta không ĺa bỏ nơi này!” 

Hoặc có các Bồ-tát nguyện không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă nếu chưa dứt trừ được 62 kiến, chưa dứt trừ được tập-khí của hai chướng. Hoặc có các Bồ-tát nguyện không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă nếu chưa viên-măn được: 4 tâm vô-lượng, 5 sức thần-thông, 6 Ba-la-mật, 4 nhiếp-pháp, 8 chính-đạo, 6 niệm. Và, nếu chưa được thiện-sảo phương-tiện, chưa điều-phục được hết thảy hữu-t́nh, chưa được trí-tuệ đa văn, chưa được sức tin vững-chắc, chưa được trí-tuệ vi-diệu trong việc tùy bệnh cho thuốc, chưa được đại-bồ-đề-tâm, chưa được hằng-sa tam-muội, chưa được vô-lượng thần-thông, chưa thành-tựu định-thông-lực, thấy 18 không, chưa được Nhất-thiết-trí, Nhất-thiết-chủng-trí, chưa chứng được 37 bồ-đề-phận-pháp, chưa được hạnh-môn trong Thập-địa, chưa tu được nghiệp-quả về tướng tốt, chưa được 4 trí, chưa chứng Đại-niết-bàn và chưa thành vô-thượng-giác…quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. 

Bồ-tát xuất-gia phát tâm bồ-đề ở trong rừng núi, mài luyện thân tâm, tu muôn hạnh trong nhiều đại-kiếp, để chứng vô-thượng chính-đẳng bồ-đề! 

Khi đức Phật nói về hạnh A-lan-nhă, rất nhiều Bồ-tát hoặc chứng được Cực-hỷ-địa, hoặc chứng được Bất-động-địa, hoặc vào Diệu-giác-đạo và nhiều chúng-sinh hoặc phát tâm vô-thượng bồ-đề, hoặc xa ĺa trần-cấu, được pháp-nhăn-tịnh. 


[1] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ” đến chỗ “rộng lớn”, Bồ-tát Tinh-Tiến ngờ hỏi về việc nơi A-lan-nhă. Đức Phật nói rơ nghiệp-duyên chúng-sinh ở nơi ấy, để phá tan sự ngờ vực. Và, Ngài c̣n nói rộng về các Bồ-tát thích ở rừng núi, v́ quán thấy lẽ khổ trong vô-thường, nên nguyện tu-hành để báo ân.

[2] Ba ṭa: Ngồi nơi đất trống, dưới cây và nhà đá.

[3] Bốn nhiếp-pháp: Bốn phương-pháp thực-hành để dắt dẫn chúng-sinh, tin theo chính-đạo: 1/ Bố-thí. 2/ Ái-ngữ. 3/ Lợi-hành. 4/ Đồng-sự.

[4] Lục-niệm: Sáu phương-pháp nhớ nghĩ: 1/ Niệm-Phật: nghĩ đến Phật đủ mười hiệu, phúc-trí viên-măn, mong muốn bằng Phật. 2/ Niệm-Pháp: nghĩ đến Pháp là lời nói của Phật có nhiều công-đức, mong muốn chứng được. 3/ Niệm-Tăng: nghĩ đến các vị Tăng, được vô-lậu-pháp, đầy-đủ ba học, làm ruộng phúc cho đời, mong tu hạnh ấy. 4/ Niệm-giới: nghĩ đến giới-hạnh có nhiều thế-lực ngăn trừ ác-pháp, mong gắng hộ-tŕ. 5/ Niệm-thí: nghĩ đến hạnh bố-thí có công-đức lớn, trừ bệnh sẻn tham, muốn đem thiện-pháp bố-thí cho chúng-sinh. 6/ Niệm-thiên: nghĩ đến các cơi trời, do tu thiện-căn, giới, thí, được sự khoái lạc tự nhiên, mong đủ công-đức ấy, sinh lên những nơi ấy.

[5] 62 Kiến: Sáu mươi hai thứ tà-kiến (tư-tưởng sai lầm) này, kinh, luận giải-thích không đồng, nay y vào phẩm Phật-mẫu trong kinh Bát-nhă phân-tích sự thiên chấp về: sắc, thụ, tưởng, hành, thức và thân, thần như sau:

A.- Chấp 5 uẩn thuộc quá-khứ : 1/ Sắc là thường. 2/ Sắc là vô-thường. 3/ Sắc là thường, vô-thường. 4/ Sắc là phi thường, phi vô-thường. Thụ, Tưởng, Hành, Thức 4 uẩn đều chấp 4 thứ như vậy nên thành 20 kiến.

B.- Chấp 5 uẩn thuộc hiện-tại: 1/ Chấp sắc (không-gian) là hữu biên (có bờ cơi, nghĩa là có chỗ cùng cực). 2/ Chấp sắc là vô-biên. 3/ Chấp sắc là hữu-biên, vô-biên, 4/ Chấp sắc là phi-hữu-biên, phi-vô-biên. Thụ, Tưởng, Hành, Thức 4 uẩn đều chấp 4 thứ như vậy, nên thành 20 kiến.

C.- Chấp 5 uẩn thuộc vị-lai: 1/ Chấp sắc là như khứ: chấp sắc thân sinh lại thế-gian này thế nào, khi chết đi, đến đời sau vẫn như thế. 2/ Chấp sắc là bất-như-khứ: quá-khứ không có chỗ lại, thời vị-lai cũng không có chỗ đi. 3/ Chấp sắc là như-khứ, bất-như-khứ: sắc thân, thức-thần ḥa-hợp thành người, sau khi chết thức-thần đi, sắc thân không đi. 4/ Chấp sắc là phi như khứ, phi bất như khứ (câu này có nghĩa là đả phá câu thứ ba). Thụ, Tưởng, Hành, Thức bốn uẩn đều chấp bốn thứ như vậy, nên thành 20 kiến.

Chấp 5 uẩn trong 3 đời thành 60 kiến và thêm chấp về “thân”, “thần” là “nhất” (một) hay là “dị” (khác), mà thành 62 kiến.

[6] 8 chính-đạo: chính-kiến, chính-tư-duy, chính-ngữ, chính-nghiệp, chính-mệnh, chính-tinh-tiến, chính-niệm và chính-định.

[7] 18 không: “Không”: Các pháp do nhân-duyên sinh, rốt-ráo không có thực-thể, gọi là “không”. Lại là sự không-tịch của lư-thể. 18 Không: 1/ Nội không. 2/ Ngoại-không. 3/ Nội ngoại không. 4/ Không-không. 5/ Đại không. 6/ Đệ nhất nghĩa không. 7/ Hữu-vi không. 8/ Vô-vi không. 9/ Tất-cánh (rốt-ráo) không. 10/ Vô-thủy không. 11/ Tán không. 12/ Tính không. 13/ Tự-tính không. 14/ Chư pháp-không. 15/ Bất khả đắc không. 16/ Vô pháp không. 17/ Hữu pháp không. 18/ Vô pháp, hữu pháp không.

[8] Thập-địa: 1/ Hoan-hỷ-địa. 2/ Ly-khổ-địa. 3/ Phát-quang-địa. 4/ Diệm-tuệ-địa. 5/ Nan-thắng-địa. 6/ Hiện-tiền-địa. 7/ Viễn-hành-địa. 8/ Bất-động-địa. 9/ Thiện-tuệ-địa. 10/ Pháp-vân-địa. Mười bậc này đều gọi là “địa”, v́ thâu tóm các công-đức hữu-vi và vô-vi dùng làm tự-tính, cùng làm chỗ nương-tựa chắc-chắn hơn cả cho sự tu-hành, khiến hay sinh-trưởng, cho nên gọi là “Địa”.

[9] Trí như-huyễn hữu, vô: “Như-huyễn” có nghĩa là vẫn giả mà giống như thực. Như những người làm tṛ, xuất hiện vai này, vai khác trên sân khấu, làm cho người ta trông thấy, nghe thấy như thực, gọi đó là “huyễn”. Sự huyễn tuy thấy, nghe như thực, mà chẳng phải thực. V́ vậy, đem ví-dụ cho hết thảy pháp (sự vật) là không thực. Nơi đây nói được trí-tuệ, quán-chiếu hữu (có), vô (không) là như-huyễn, nên gọi là “trí như-huyễn hữu, vô”.

[10] Đoạn trên, từ chữ “Muốn” đến chữ “thoát”, 4 câu kệ này nói: ở nơi Lan-nhă chứng được trí như-huyễn hiểu rơ các vật bản-lai là không và làm cho chúng-sinh cùng hiểu, để vào được nơi giải-thoát chân-thực.

[11] Đoạn trên từ chỗ “Nếu muốn chóng được như-như-trí”, đến chỗ “trong Lan-nhă”, 8 câu kệ này nói: ở nơi Lan-nhă sẽ chứng được chính-trí trong lư-thể của pháp-tính b́nh-đẳng không hai, đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh măi măi. Chứng được chính-trí ấy, đầy-đủ sức thần-diệu không thể nghĩ bàn, quán-chiếu rơ thực-tính, thực-tướng của mọi pháp, như hạt cải là vật cực nhỏ, núi Tu-di là vật rất lớn, mà thực-tướng lư-thể của chúng vẫn b́nh-đẳng không hai. Do b́nh-đẳng không hai và do trí-lực vi-diệu, sự chuyển-biến qua nhau, không chi chướng-ngại nên nói “Tu-di thu vào trong hạt cải”.

[12] Đoạn trên từ chỗ “Nếu người” đến chỗ “tự tâm”, 12 câu kệ ấy cũng nói về: ở nơi Lan-nhă sẽ được trí-tuệ vô-ngại, cất tiếng vi-diệu nói pháp, chúng-sinh nghe được đều giải-thoát. Và, tùy duyên ứng-hiện độ-sinh, dùng thần-thông, tới đâu chỉ ấn ngón chân xuống đất là khắp nơi rung-chuyển, đất nước trang-nghiêm, chúng-sinh phát tâm theo chính-đạo.

[13] Đoạn hoặc chứng chân: Dứt trừ vọng-hoặc (phiền-năo) chứng-nhập chân-trí.

[14] Đoạn trên, từ chỗ “Bồ-tát thượng căn phát-nguyện” (thuộc chính-văn), đến chỗ “được pháp nhăn-tịnh” này, đức Phật nói về các Bồ-tát ở nơi Lan-nhă, tùy theo tŕnh-độ, tự lập những lời thệ-nguyện kiên-cố, nếu không chứng-quả không bỏ A-lan-nhă. Tiếp sang bài kệ cũng nhắc lại nghĩa trên và nói nhiều về trí-lực và lợi-ích vi diệu. Sau cùng, nói về chúng-hội nghe pháp được lợi.

 

Đến đây hết quyển thứ 5

 

previous.png   back_to_top.png   next.png

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0