KINH BÁCH DỤ
Tâm Minh NGÔ TẰNG GIAO chuyển thơ
Trang 1
MỤC LỤC
* LỜI NÓI ĐẦU
* PHẦN DUYÊN KHỞI
1. Người ngu ăn muối
2. Để dành sửa
3. Khoanh tay chịu đ̣n
4. Giả chết dối chống
5. Khát không uống nước
6. Giết con thành gánh
7. Nhận người làm anh
8. Trộm áo nhà vua
9. Kẻ ngốc khen cha
10. Phú ông cất lầu
11. Bà La Môn giết con
12. Quạt nước đường
13. Sự thật chứng minh
14. Giết kẻ dẫn đường
15. Muốn con mau lớn
16. Tưới mía bằng nước mía
17. V́ nhỏ mất lớn
18. Trên lầu mài dao
19. Ghi dấu trên thuyền để t́m đồ rơi xuống bể
20. Trả thịt
Trang 2
21. Cầu con
22. Bán trầm hương
23. Trộm mền
24. Gieo mè
25. Nước và lửa
26. Bắt chước vua
27. Trị vết thương
28. Xẻo mũi
29. Đốt áo
30. Nuôi dê
31. Mua lừa
32. Trôm vàng
33. Chặt cây t́m trái
34. Thâu ngắn đường đi
35. Thấy bóng trong gương
36. Lầm móc con mắt
37. Giết trâu
38. Bảo nước đừng chảy
39. Sơn tường
40. Người sói đầu t́m thuốc
41. Hai con quỷ tranh vặt
42. Che da lạc đà
43. Mài đá
44. Ăn bánh
45. Giữ của
46. Ăn trộm trâu
47. Giả tiếng oan ương
48. Chó và cây
49. Vị tiên lầm lộn
50. Sửa lưng gù
51. Người tớ gái
52. Tṛ vui giả dối
53. Lăo sư bị hành hạ
54. Đầu rắn và đuôi rắn tranh cải
55. Cạo râu vua
56. Cái không có
57. Bị đạp rụng răng
58. Chia của
59. Xem làm b́nh
60. Thấy vàng dưới nước
Trang 3
61. Tạo h́nh người
62. Ăn thịt gà
63. Chạy trốn
64. Quỷ trong nhà cũ
65. An bánh độc
66. Chết ch́m
67. Đánh cuộc
68. Hại người thành hại ḿnh
69. Tổ truyền ăn mau
70. Nếm trái tần bà
71. Đui mắt
72. Sưng môi
73. Ngựa đen đuôi trắng
74. Mang bồn tắm
75. Giết lạc đà
76. Nông phu mơ tưởng công chúa
77. T́m sữa
78. Đi không về rồi
79. Gánh ghế cho vua
80. Uống thuốc nước rửa ruột
81. Không nên vu oan cho người hiền đức
82. Gieo lúa
83. Khỉ bị đánh
84. Nguyệt thực
85. Đau mắt
86. V́ của giết con
87. Bọn cướp chia của
88. Khỉ mất đậu
89. Chuột vàng và rắn độc
90. Lượm được tiền
91. Người nghèo
92. Đứa nhỏ được đường
93. Bà già đánh cọp
94. Hiểu lầm
95. Hai con hạc
96. Giả mù
97. Cướp áo lông dê
98. Đứa nhỏ bắt rùa
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh động và súc tích ẩn tàng các giá trị triết lư giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lư và giáo pháp. Kinh có tác dụng phổ biến Đạo Phật bằng phương pháp thí dụ. Đức Phật mang những truyện xưa có liên quan đến thiện ác, tội phước, báo ứng làm thí dụ cụ thể để từ đó nêu ra sự dại dột mê lầm, vạch rơ ra cái vô minh của chúng sinh. Đa số truyện thường lấy hạng người b́nh dân hoặc những kẻ khờ dại quá mức làm đối tượng. Một số truyện lại dùng cả loài vật làm vai chính. Sau mỗi truyện nêu làm thí dụ là phần luận bàn ngắn gọn.
Nghe truyện ngụ ngôn để thấy ra ư nghĩa rồi lĩnh hội được lời dạy của Đức Phật.Kinh có ích lợi nhiều cho các người tu học, dù đă xuất gia, hay c̣n là cư sĩ và cho toàn thể Phật tử nói chung. Tôn chỉ của bộ kinh là muốn đem ánh sáng trí tuệ để xua tan đi màn si ám của những ư thức vô minh trong quá tŕnh tu tập của người Phật tử.
Kinh mang một thể loại văn học Phật giáo rất đặc thù. Kinh có công dụng tương tự như những truyện trong cuốn sách “Cổ Học Tinh Hoa” của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc hay tập truyện thơ của Aesop hoặc những truyện thơ ngụ ngôn của thi hào La Fontaine nước Pháp hồi thế kỷ thứ 17. V́ thế những truyện kể trong Kinh BÁCH DỤ c̣n có tác dụng giáo dục nói chung cho tất cả mọi người đọc, không phân biệt tôn giáo. Tuy nhiên ngoài tính cách giáo dục về phương diện đạo đức như những tác phẩm kể trên, Kinh BÁCH DỤ c̣n mang lại ư nghĩa những lời giáo huấn về mặt tôn giáo. “Ngoại đạo” được đề cập tới nhiều trong kinh là những đạo cùng thời với Đức Phật cả hơn 2600 năm trước đây.
Truyện vui có thể coi như là những lớp đường phèn rất ngon ngọt bọc ngoài những vị thuốc đắng. Thuốc có đắng mới dă tật, đây là những tật xấu của chúng sinh. Truyện vui cũng được coi như những lớp lá cây dùng để gói thuốc giải độc ở bên trong. Một khi đă được giải độc, đă thấm nhuần được những lời giáo huấn đầy chân lư thời chúng ta nên loại ra những lời châm biếm khôi hài giễu cợt như vứt bỏ đi những lá cây bọc ngoài sau khi đă dùng thuốc và đă được lành bệnh.
Kinh BÁCH DỤ này được dịch giả THÍCH NỮ NHƯ HUYỀN dựa vào bản tiếng Hán rồi phiên dịch ra văn xuôi tiếng Việt (bản in ghi năm 1958) từ “cốt truyện” cho tới “lời bàn”. Trong lời nói đầu dịch giả cho biết: “Bộ Kinh Bách Dụ gồm có 98 bài thí dụ của Phật nói do ngài Pháp Sư Tăng Già Tư Na sao lục trong kinh tạng”…“Một đời thuyết giáo trong bốn mươi chín năm, tùy theo căn cơ chúng sanh sai khác, Đức Phật nói ra vô lượng pháp môn không đồng. Khi nói thấp, khi nói cao, từ dễ lần đến khó, đem gần tỉ dụ xa. Chung qui chỉ hướng về một mục đích duy nhất là làm cho chúng sanh tự giác ngộ bản tánh sáng suốt của ḿnh”.
“Bách” là một trăm. “Dụ” là thí dụ. Soạn giả đă theo sát nguyên bản và chuyển nội dung cuốn Kinh BÁCH DỤ trên thành thể “thơ lục bát” với những ngôn từ b́nh dị để mọi người dễ đọc, dễ nghe, dễ hiểu và dễ nhớ. Phần “lời bàn” ngay sau truyện cũng được chuyển thành thơ và in chữ nghiêng.
Khi chuyển thơ soạn giả cũng tham khảo thêm ba bản dịch khác của Kinh BÁCH DỤ. Nói chung thời các bản dịch chỉ có chút ít khác biệt. Ba bản này là:
1. “PHẬT HỌC NGỤ NGÔN” bản dịch từ tiếng Hán của Ḥa Thượng Thích Tâm Châu. Người dịch cho biết Kinh Bách Dụ: “là cuốn kinh số 209 Trong Đại Tạng Kinh”…“Lẽ ra kinh Bách Dụ phải đủ 100 bài thí dụ, nhưng đây chỉ có 98 bài”…“Bộ này chính tên là Bách Dụ Kinh. Nội dung toàn bộ đều là lời thí dụ, ngụ ư răn dạy những người ngu si, không hiểu, để đi thẳng vào đường hiểu biết chân chính, nên nay đổi là Phật học Ngụ ngôn”.
2. “KINH BÁCH DỤ” bản dịch từ tiếng Hán của Tỳ Kheo Thích Tâm Khanh (năm 2000). Trong cuốn này người dịch cho biết: “Nguyên tác kinh Bách Dụ do Tôn giả Tăng Già Tư Na (Sanghasena) tuyển soạn 98 câu truyện thí dụ từ kinh điển do chính kim ngôn đức Thích Tôn tuyên thuyết. Năm thứ 10 niên hiệu Vĩnh Minh (493 TL), bộ kinh được tôn giả Cầu Na Tỳ Địa (Gunavaddhi), người xứ Trung Ấn chuyển dịch sang Hán ngữ”.
3. “SAKYAMUNI’S ONE HUNDRED FABLES” do Tetcheng Liao (Tiến Sỹ Luật Khoa Viện Đại Học Paris) dịch Kinh Bách Dụ từ tiếng Hán sang tiếng Anh kèm thêm lời chú thích (năm 1981). Về việc Kinh chỉ có 98 truyện, thiếu 2 truyện, dịch giả ghi: “Một mặt có thể giải thích rằng để thuận tiện nên nói thành con số chẵn. Mặt khác có thể giải thích rằng lời nói đầu và lời nói cuối sách cũng được kể luôn thêm vào cho chẵn thành một trăm truyện”.
Ướcmong rằng những truyện thơ tuy mộc mạc và b́nh dị lại đầy vẻ giễu cợt trong cuốn Kinh này sẽ chuyên chở được những lời dạy thâm sâu và quư báu của Đức Phật tới khắp cả chúng sinh.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Mùa Phật Đản 2007
DIỆU PHƯƠNG
PHẦN DUYÊN KHỞI
Lời Thầy A NAN: “Chính tôi được nghe: Một thời kia Đức Phật ở trong vườn trúc Thước Phong, thành Vương Xá, cùng với các vị đại Tỳ kheo, Bồ tát, Ma ha tát và Thiên, Long bát bộ, chừng ba vạn sáu ngh́n người chung hợp.
Khi ấy, trong pháp hội có năm trăm vị Phạm chí dị học. Các vị từ nơi toà ngồi của ḿnh đứng dậy bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Chúng tôi nghe nói đạo Phật rộng, sâu không đạo nào có thể sánh kịp, nên chúng tôi lại đây muốn hỏi Ngài mấy điều, mong Ngài vui ḷng giảng giải cho.”
Đức Phật đáp: “Hay lắm, các vị cứ việc hỏi.”
Phạm Chí hỏi: “Con người có hiện hữu hay không?” Phật đáp: “Cũng ‘có’ và cũng ‘không’.”
Phạm chí hỏi tiếp: “Như nay thấy có, làm sao Ngài lại nói là không? Như nay không thấy, làm sao Ngài lại nói là có?” Phật đáp: “Sinh cho là ‘có’, chết cho là ‘không’, nên nói là hoặc có hoặc không.”
Phạm chí hỏi: “Người ta do đâu mà sống được?” Phật đáp: “Người ta do ngũ cốc mà sống.”
Phạm chí hỏi: “Ngũ cốc do đâu mà sinh ra?” Phật đáp: “Ngũ cốc do nơi tứ đại là ‘đất, nước, gió, lửa’ mà sinh ra.”
Phạm chí hỏi: “Tứ đại do từ đâu sinh ra?” Phật đáp: “Tứ đại do từ ‘không’ mà sinh ra.”
Phạm chí hỏi: “Không do đâu mà sinh ra?” Phật đáp: “Không do chỗ ‘vô sở hữu’ mà sinh ra.”
Phạm chí hỏi: “Vô sở hữu từ đâu sinh ra?” Phật đáp: “Do ‘tự nhiên’ sinh ra.”
Phạm chí hỏi: “Tự nhiên do từ đâu sinh ra?” Phật đáp: “Do ‘Niết bàn’ sinh ra.”
Phạm chí hỏi: “Niết bàn do đâu sinh ra?” Phật đáp: “Sao các vị hỏi điều sâu xa thế! Các vị không biết Niết bàn là pháp bất sinh, bất diệt hay sao?”
Phạm chí lại hỏi: “Bạch Ngài, Phật đă nhập Niết bàn chưa?” Phật đáp: “Ta chưa nhập Niết bàn.”
Phạm chí hỏi: “Ngài chưa nhập Niết bàn sao Ngài biết được Niết bàn là an lạc vĩnh viễn?” Phật nói: “Nay ta hỏi lại các vị, chúng sinh trong thiên hạ khổ hay vui?”
Phạm chí đáp: “Chúng sinh khổ lắm.” Phật hỏi: “Thế nào là khổ?”
Phạm chí đáp: “Chúng tôi thấy chúng sinh khi chết đau khổ không thể chịu được nên chúng tôi biết chết là khổ.” Phật nói: “Nay các vị tuy chưa chết mà cũng biết chết là khổ, thời ta thấy chư Phật mười phương bất sinh, bất diệt, nên ta biết Niết bàn là an lạc vĩnh viễn.”
Lúc đó năm trăm vị Phạm chí tâm ư thông suốt, xin thọ ‘ngũ giới’, chứng ngộ quả ‘Tu đà hoàn’, rồi ngồi lại chỗ cũ.
Đức Phật nói: “Các vị nghe cho kỹ, nay ta sẽ v́ các vị mà nói rộng về những thí dụ sau đây.”
______________________
* 1 *
NGƯỜI NGU ĂN MUỐI
Thưở xưa có một người ngu
Đến thăm nhà bạn rất ư thân t́nh
Chủ nhà vui đăi khách ḿnh
Bữa cơm đạm bạc, có canh ăn cùng
Chàng chê canh lạt khó dùng
Chủ bèn nêm chút muối trong canh này
Chàng ăn cảm thấy ngon ngay
Nên chàng tự nghĩ loay hoay trong đầu:
“Ngon nhờ ít muối thêm vào
Muối nhiều ngon chắc gấp bao nhiêu lần!”
Thế rồi chàng chẳng ngại ngần
Xin nguyên chén muối bỏ luôn miệng ḿnh
Nuốt đi hết, tưởng ngon lành
Nào ngờ chất muối mặn kinh hồn người
Anh chàng tưởng chết tới nơi
Muối kia mà ngấm tàn đời c̣n đâu
Vội vàng móc họng ra mau
Để nôn, để mửa ngơ hầu cứu nguy.
*
Tu hành chớ có mê si
Uống ăn vừa phải lợi th́ vô biên
Đừng theo tà giáo tuyên truyền
Nhịn ăn nhịn uống mà thêm sai lầm
Giữ ǵn sức khoẻ tối cần
Mới mong đắc đạo thánh nhân tuyệt vời,
Dù cho nhịn bảy ngày trời
Hay mười lăm bữa, khổ đời thêm thôi
Tự ḿnh hành hạ thân người
Chỉ thêm đói khát. So thời giống sao
Giống người ăn muối biết bao
Rời xa chân lư, lạc vào cơi mê.
* 2 *
ĐỂ DÀNH SỮA
Có người dự định tháng sau
Mời nhiều khách đến cùng nhau vui vầy
Sữa ḅ đăi khách bữa này
Cho nên phải trữ sữa ngay bây giờ
Để dành nhiều lo pḥng hờ
Lỡ khi khách đến bất ngờ thiếu đi.
Anh chàng lẩn thẩn nghĩ suy:
“Mỗi ngày ḿnh nặn sữa kia ra hoài
Mang thùng lớn chứa đủ rồi
Nhưng mà lại sợ sữa thời dễ hư
Để lâu sữa sẽ bị chua
Chi bằng sữa đó đừng đưa ra ngoài
Giữ nguyên trong vú ḅ thôi
Tới ngày đăi khách sai người nặn ra
Bớt đi được công việc nhà
Sữa khi đó mới chắc là thơm ngon
Quả là phương pháp tinh khôn!”
Nghĩ xong chàng tách ḅ con ra liền
Rồi đem ḅ mẹ nhốt riêng
Chàng không nặn sữa, để nguyên ít ngày.
Thời gian trôi lẹ làng thay
Tháng sau khách đă tới ngay đầy nhà
Chàng bèn dắt ḅ mẹ ra
Sữa tươi cố nặn nhưng mà có đâu
Vú ḅ nặn măi thật lâu
Chẳng hề được giọt sữa nào. Than ôi!
Vây quanh khách khó nín cười
Khi hay rơ chuyện đầu đuôi lạ lùng:
“Chủ nhà quả thật điên khùng
Để dành sữa lại ở trong vú ḅ!”
*
Ở đời chớ có đợi chờ
Phát tâm bố thí phải lo làm liền
Đợi chi tới lúc nhiều tiền
Lỡ làng công chuyện, chẳng nên chút nào.
Góp gom của cải khó sao
Chưa xong đă gặp biết bao muộn phiền
Hoả tai, lũ lụt trong miền,
Hoặc là trộm cướp ngày đêm ŕnh ṃ,
Vua quan chiếm đoạt, tận thu,
Bất ngờ thần chết có từ một ai
Kịp đâu bố thí cho người.
Kẻ ngu dành sữa so thời khác chi!
* 3 *
KHOANH TAY CHỊU Đ̉N
Có anh chàng ngốc sói đầu
Một hôm kẻ lạ chợt đâu ngó vào
Thấy đầu không sợi tóc nào
Hắn dùng lê đánh lên bao nhiêu lần
Trái lê đánh bật máu luôn
Máu tuôn anh vẫn không buồn nói chi
Đứng im hứng chịu đ̣n kia
Không màng chống lại, không hề tránh ra.
Bất ngờ có bạn đi qua
Động ḷng trắc ẩn, xót xa khuyên liền:
“Sao anh cứ đứng lặng yên
Để người ta đánh măi trên đầu ḿnh,
Không đánh lại v́ nể t́nh
Thời nên tránh né, sao đành đứng nguyên,
Đầu anh đầy máu hai bên
Đau không? Sao chẳng kêu rên thế này?”
Anh chàng ngốc trả lời ngay:
“Tên kia xấc láo lại đầy ngu si
Thấy tôi tóc chẳng có chi
Tưởng đầu tôi giống đá kia trong vườn
Đá xinh xắn, đá dễ thương
Cho nên hắn mới lầm đường đánh lên
Trái lê cứng, đầu tôi mềm
Máu ra lênh láng măi thêm tuôn trào
Hắn vô tri thức biết bao
Bạn ơi tôi biết tính sao bây giờ?”
Bạn nghe nói giận vô bờ
Trách anh chàng ngốc: “Thật là đáng thương
Bị người đánh đă chán chường
Mà anh vẫn đứng b́nh thường. Lạ thay!
Ngu si nhất cơi đời này
Chính là anh chứ ai đây sánh cùng!”
*
Thầy tu một số buông lung
Bao nhiêu Giới cấm coi thường sá chi
Buông luôn Định với Tuệ kia
Chỉ ưa g̣ ép oai nghi bên ngoài
Hầu mong được khắp mọi người
Cúng dường cung kính. Khổ đời vậy thay!
Tu hành theo kiểu thế này
Đớn đau kết quả gặt ngay tức th́
So cùng với kẻ ngu kia
Thấy sao tương tự, khác ǵ nhau đâu!
* 4 *
VỢ GIẢ CHẾT DỐI CHỒNG
Một chàng cưới được vợ xinh
Nàng tuy rất đẹp, tính t́nh lại hoang
Chàng thương vợ thật nồng nàn
Nhưng nàng trái lại phũ phàng chẳng yêu
Ngoại t́nh một sớm một chiều
T́nh nhân sẵn đó nàng theo tức th́
Muốn về nhà bỏ chồng kia
T́m qua người mới tính bề kết duyên.
Khi chồng vắng mấy ngày liền
Nàng t́m một lăo bà quen thân nàng
Nhỏ to kín đáo dặn rằng:
“Khi tôi rời khỏi ngôi làng ngày mai
Bà t́m xác chết của ai
Xác cô con gái không người thân quen
Mang về nhà để một bên
Chồng tôi trở lại bà liền báo ngay
Rằng tôi là xác chết này
Mọi người tẩm liệm sẵn đây đợi chàng.”
Bà già thực hiện chu toàn
Đúng theo kế hoạch của nàng vợ hư.
Khi chồng về lại nhà xưa
Nh́n qua xác chết rất ư buồn rầu
Chàng ngồi khóc suốt canh thâu
Rồi đem hỏa táng, có đâu hay ǵ
Tin rằng vợ đă chết đi
Tro xương c̣n lại chàng th́ dấu yêu
Đựng trong hũ để mang theo
“Khối t́nh quá khứ” nâng niu đêm ngày.
Vợ chàng lúc đó vui vầy
Kết duyên đầm ấm với tay nhân t́nh,
Thời gian thoáng chốc trôi nhanh
Thế rồi chồng mới lạnh tanh với nàng
Nay ruồng rẫy v́ chán chường
Khiến nàng tủi phận t́m đường trở lui
Quay về tổ ấm trước thôi
Thưa cùng chồng cũ những lời yêu thương:
“Em đây là vợ của chàng
Trở về nối lại dở dang cuộc t́nh!”
Người chồng lớn tiếng thanh minh:
“Vợ tôi đă chết cỏ xanh nấm mồ
Cô sao ăn nói hồ đồ
Dối gian chi vậy! Thế cô muốn ǵ?”
Cô nàng biện bạch tía lia
Mong chồng nhận vợ xưa kia là ḿnh
Nhưng chồng phủ nhận tận t́nh:
“Vợ tôi đă chết rành rành từ lâu
Tôi nào tin được cô đâu
Nhận cô làm vợ nghe sao lạ kỳ!”
*
Thế gian nào có khác ǵ
Lắm người thành kiến rất chi sai lầm
Nhưng không chịu cải đổi dần,
Như phường ngoại đạo tà tâm lâu đời
Dù nghe Giáo Pháp tuyệt vời
Cũng không tin tưởng vào nơi Đạo Vàng
Giống người chồng ngốc thảm thương
Vợ tuy c̣n sống trăm đường chẳng tin.
* 5 *
KHÁT KHÔNG UỐNG NƯỚC
Thuở xưa có kẻ đi đường
Rất là khát nước nên dừng chốn đây
Kiếm t́m nước khắp Đông Tây
Thấy sương lóng lánh giăng đầy phía xa
Tưởng là nước vội t́m qua
Mới hay lầm lẫn. Thế là trở lui.
Cuối cùng t́m được nước rồi
Ḍng sông trong mát, nước trôi không ngừng
Nhưng chàng chỉ đứng ḍm chừng
Nh́n xem. Không uống. Lạ lùng vậy thay!
Người ta thấy, vội hỏi ngay:
“Anh đi t́m nước, nước đầy dưới sông
Sao không uống, chỉ đứng trông?”
Anh chàng đáp lại vô cùng kỳ khôi:
“Nước sông này nhiều quá trời
Một lần mà uống có đời nào xong,
Uống một lần hết nước sông
Thời tôi mới uống, mới không ngại ngần.”
Mọi người quanh đấy cười ầm
Chê anh chàng nọ ngu đần măi thôi.
*
Thế gian có một ít người
Không gần chân lư, sống đời lầm sai
Luôn gàn bướng chẳng nghe ai
Cho là Giới Luật Phật thời lớn lao
Lại thêm nghiêm ngặt xiết bao
Thọ tŕ, tuân giữ hết nào dễ đâu
Họ tin vậy nên từ lâu
Sa chân giới cấm, lao đầu bến mê
Để rồi đau khổ tràn trề
Trong ṿng sinh tử năo nề nổi trôi
Khó mà đắc Đạo trọn đời
Xem ra đáng trách, nghĩ thời đáng thương
Khác chi kẻ khát đi đường
Kiếm ra được nước không màng uống thôi!
* 6 *
GIẾT CON CHO ĐỦ GÁNH
Có người nuôi bảy đứa con
Một con bỗng chết, không c̣n sống thêm
Thi hài anh chẳng chôn liền
Trong nhà anh vẫn giữ nguyên con ḿnh
Rồi anh cùng cả gia đ́nh
Dọn đi nơi khác. Quả t́nh lạ thay!
Láng giềng thấy vậy nói ngay:
“Sao không gánh xác chết này đi chôn
Mà anh lại bỏ đi luôn
Hành vi như vậy chẳng khôn chút nào
Rất là dại dột biết bao.”
Anh kia bèn đáp: “Biết sao bây giờ
Chắc chi tôi đă dại khờ
Một con nằm chết vậy mà khó khăn
Muốn cho quang gánh được cân
Hai đầu cần có xác thân hai người
Gánh đi chôn mới dễ thôi
Mới thành đủ gánh đôi nơi cân bằng.”
Thế rồi anh chợt nghĩ rằng
Giết thêm đứa nữa dễ dàng gánh ra
Nghĩ xong anh chẳng nề hà
Giết thêm một đứa thế là đủ đôi
Hai con thành một gánh rồi
Gánh lên chôn tại núi đồi trên cao.
*
Truyện này tỉ dụ giống sao
Người tu Giới Luật phạm vào ít thôi
Nhưng không sám hối một lời
Ăn năn cũng tránh. Tính bài dối gian
Làm như giữ Giới đàng hoàng
Có ai chỉ trích lại càng ngang nhiên
Bao Giới Luật cứ phạm thêm
Nói rằng: “Sau đó sẽ liền ăn năn
Sẽ liền sám hối một lần
Cho thêm thuận tiện, đâu cần ngưng ngay.”
Tu như vậy sai lầm thay
Giới như ngọc quư hàng ngày phải tuân,
Tu sai thời tiếc vô ngần
Giống người ngu xuẩn bội phần kể trên
Muốn cho đủ gánh hai bên
Vô minh sai khiến giết thêm con ḿnh.
* 7 *
NHẬN NGƯỜI LÀM ANH
Một người giàu có thuở xưa
Tác phong đứng đắn lại thừa thông minh
Cho nên các kẻ chung quanh
Tỏ ḷng thán phục, tỏ t́nh kính yêu
Xa gần ái mộ rất nhiều.
Bỗng đâu có kẻ sớm chiều lân la
Tới lui thăm viếng thiết tha
Rồi sau nhận họ: “Ông là anh tôi.”
Điều này cũng dễ hiểu thôi
Của làm tối mắt khiến người dối gian
Kết thân thích, nhận họ hàng
Để mà lợi dụng bạc vàng chứ đâu.
Ít lâu sau người nhà giàu
Khốn cùng, sa sút hết mau bạc tiền
Kẻ kia bèn trở mặt liền
Giờ đây lại nói: “Chẳng quen thuộc ǵ
Ông nào có phải anh chi.”
Lời sao lănh đạm, nghe th́ đáng khinh
Bà con lối xóm bực ḿnh
Cười chê kẻ đó: “Quả t́nh bất nhân!”
*
Truyện này thí dụ rất gần
Có phường tà giáo manh tâm lọc lừa
Lời hay của Phật nhận bừa
Nhận là giáo pháp từ xưa của ḿnh
Đến khi dân chúng ở quanh
Cùng nhau bảo họ thực hành ngay đi
Những người này chẳng phụng tŕ
Chẳng theo giáo pháp thực thi chút ǵ
Hoàn toàn chỉ muốn ngăn che
Âm mưu tội ác u mê gian tà.
May thay Giáo Pháp Phật Đà
Dễ chi bị bọn tà ma lộng hành.
* 8 *
TRỘM ÁO NHÀ VUA
Có người ở chốn quê mùa
Lén vào kho áo nhà vua trộm về
Bộ y phục đẹp kể chi
Trộm xong trốn tới vùng kia xa vời.
Khi vua biết vụ trộm rồi
Phái nhiều binh lính khắp nơi truy t́m
Cuối cùng cũng bắt được liền
Giải tên ăn trộm lên trên pháp đ́nh.
Bị tra hỏi, hắn gian t́nh
Chối luôn tội trộm của ḿnh mới đây
Khai rằng bộ y phục này
Là do tổ phụ lâu nay lưu truyền.
Vua ra lệnh mặc thử liền
Hắn đem y phục mặc lên thân người
Mặc sao lộn bậy tức cười
Món trên xuống dưới, dưới thời lên trên
Áo quần, mũ măng đảo điên
Tỏ ra hắn chẳng hề quen bao giờ.
Vua bèn phán: “Không c̣n ngờ
Điều này chứng tỏ ngươi là kẻ gian
Đây là y phục cung vàng
Riêng vua cùng với các quan thường dùng.”
Trộm khờ cứng họng hết đường
Cúi đầu thú nhận tội cùng vua thôi.
*
Truyện này thí dụ lâu rồi
Vua là Đức Phật của thời xa xưa
C̣n y phục được coi như
Chính là Giáo Pháp tối ư nhiệm mầu
Nhà quê kẻ trộm khác đâu
Là phường tà giáo mưu cầu gian manh
Trộm của người rồi chí t́nh
Nhận làm giáo pháp của ḿnh đấy thôi
Trộm điều Phật dạy tuyệt vời
Khoe rằng giáo pháp của nơi chính ḿnh
Nhưng không biết cách thực hành
V́ không thấu hiểu cho rành trước sau
Cho nên lộn bậy đuôi đầu
Đảo điên bản chất lộ mau tức th́.
* 9 *
KẺ NGỐC KHEN CHA
Có ông nọ thuở xưa xa
Hay khen đức hạnh của cha ruột ḿnh
Khoe cùng người đứng chung quanh:
“Cha tôi chính trực, hiền lành măi thôi
Không làm hại sinh mạng người
Ghét quân cướp giật, ghét ai lọc lừa
Công b́nh, đức độ, nhân từ
Tránh lời gian dối, lại ưa giúp đời
Cứu người nguy khốn khắp nơi
Từ bi nở đẹp tuyệt vời trong tâm.”
Bấy giờ có kẻ ở gần
Vốn mang bản chất ngu đần, vô minh
Nghe xong chợt nghĩ: “Quả t́nh
Ḿnh nên ca tụng cha ḿnh một phen.”
Hắn bèn lên tiếng bon chen:
“Cha tôi đức hạnh vượt trên khắp làng
Cha ông so chẳng sánh ngang.”
Bà con quanh đó rộn ràng hỏi ngay:
“Cha anh như vậy tốt thay
Thế th́ đức hạnh trước đây thế nào?”
Kẻ ngu vênh mặt tự hào:
“Cha tôi từ nhỏ ưa nào chuyện dâm
Tuyệt đường t́nh dục bao năm
Chẳng hề biết đến. Không ham chuyện này.”
Mọi người cười rộ hỏi ngay:
“Cha anh đoạn dục từ ngày ấu thơ
Làm sao đẻ được anh ra?”
Kẻ ngu cứng họng khó mà nói chi.
*
Ở đời khen ngợi chuyện ǵ
Cần cho chân thật, chớ hề dối gian
Nói sai tai hại vô vàn
Không mang hiệu quả, xa gần khinh khi
Phật tuyên “ngũ giới” xưa kia
Dạy đừng “vọng ngữ”. Ta th́ chớ quên!
* 10 *
NHÀ GIÀU CẤT LẦU
Có chàng giàu có kể chi
Tiền nhiều nhưng lại ngu si tức cười
Không hề biết đến việc đời,
Một hôm chàng chợt dạo chơi trong vùng
Ngang căn nhà của phú ông
Rất chi đẹp đẽ, vô cùng cao sang
Ba tầng lầu thật huy hoàng
Chàng nh́n ham thích xốn xang nghĩ rằng:
“Tiền ta tuy chẳng sánh bằng
Ít ra đủ cất một tầng cũng hay.”
Chàng về hào hứng mời ngay
Một nhà kiến trúc vùng này tới mau
Hỏi thăm: “Nhà ba tầng lầu
Thời ông có cất khi nào hay chưa?”
Người xây cất cười rồi thưa:
“Ba tầng lầu đó tôi thừa khả năng.”
Thế là hợp với ư chàng
Chàng nhờ người đó vội vàng khởi công:
“Cất lầu ba giống phú ông
Làm ngay cho đẹp, phải trông tuyệt vời.”
Người xây cất đồng ư thôi
Thợ thời đem tới, đất thời san ra
Đắp nền móng, dựng tường nhà.
Chàng giàu ít bữa ghé qua xem chừng
Hỏi thăm cho biết tỏ tường:
“Này ông kiến trúc, ông đương làm ǵ?”
Người xây cất đáp tức th́:
“Nhà ba tầng đó, có chi lạ nào.”
Chàng giàu bèn nói: “Vậy sao,
Xây chi tầng dưới tốn hao phiền hà
Chỉ cần xây cái lầu ba.”
Người xây cất đáp: “Làm nhà trước sau
Phải xây tầng dưới khởi đầu
Xong rồi ta mới xây lầu tầng trên.”
Chàng giàu ngu ngốc ngăn liền:
“Không! Tôi chỉ muốn trả tiền cho ông
Cất lầu ba cho chóng xong
C̣n hai tầng dưới tôi không yêu cầu!”
Người xây cất cười hồi lâu
Tận t́nh giảng giải. Chàng đâu nghe ǵ.
Tỏ ra cố chấp kể chi
Yêu cầu kiên quyết thực thi ư ḿnh.
Chàng giàu ngu ngốc thật t́nh
Cất lầu công việc đành đ́nh lại thôi.
*
Truyện này tỉ dụ ở đời
Trong hàng Phật tử có người biếng tu
Phụng thờ “Tam Bảo” ơ hờ
Tu “Giới, Định, Tuệ” cũng lơ là hoài
Tưởng lầm tu vậy đúng rồi
Không cần theo bước của người tu lâu
Muốn ḿnh “chứng quả” thật mau
Bỏ ba “quả vị” khởi đầu đường tu
Vượt ngay tới quả thứ tư
Thành A La Hán theo như ước nguyền.
Tu như vậy thật cuồng điên
So cùng chàng ngốc ở trên khác ǵ!
* 11 *
BÀ LA MÔN GIẾT CON
Có người ngoại đạo thuở xưa
Tự xưng ḿnh giỏi nên ưa khoe tài
Rành quá khứ, biết tương lai
Bao điều học vấn trên đời tinh thông
Nói ra trôi chảy vô cùng.
Một hôm chàng muốn phô trương tay nghề
Bèn đi đến một nước kia
Ôm theo con nhỏ, năo nề khóc than.
Mọi người thấy lạ hỏi han:
“Tại sao anh khóc vô vàn tang thương?”
Chàng lên tiếng đáp năo nùng:
“Con tôi sẽ chết trong ṿng bảy hôm
Cho nên tôi rất đau buồn.”
Bà con thương hại khuyên luôn anh này:
“Con anh hiện mạnh khoẻ thay
Làm sao chỉ sống bảy ngày nữa thôi
Chắc là anh tính lầm rồi
Chỉ thêm buồn khổ hại người, ích chi.”
Chàng bèn quả quyết tức th́:
“Tôi xem chính xác, ít khi sai lầm
Mặt trời có thể mờ dần,
Mặt trăng có thể khuất luôn trên trời,
Muôn sao có thể rụng rơi
Riêng tôi đoán đúng mọi lời tiên tri.”
Bảy ngày lần lượt trôi đi
Con chàng không chết. Có ǵ lạ đâu.
Chàng bèn tính toán trong đầu
Muốn cho danh dự trước sau bảo tồn
Chàng ra tay giết con luôn
Chứng minh ḿnh chẳng đoán lầm đoán sai.
Bà con thấy vậy phục tài
Cùng nhau tin tưởng, đồng thời ngợi ca
Tiếng tăm từ đó vang xa
Số người tôn kính thật là nhiều thôi.
*
Biết bao ngoại đạo ở đời
Muốn người tin phục, buông lời dối gian
Nhận ḿnh đắc đạo thánh nhân
Rồi mang thủ đoạn bạo tàn phô trương
Khi cần mê hoặc người thường
Hầu mong hưởng lợi. Trăm phương khác ǵ
Kẻ gian manh kể trên kia
Giết con cho đúng “tiên tri”, đúng lời.
Kẻ này sẽ gặt tức thời
Tương lai quả báo tơi bời sầu bi!
* 12 *
QUẠT NƯỚC ĐƯỜNG
Thuở xưa có một anh kia
Nấu đường cát trắng chuyên nghề đă lâu
Một hôm đang bận, chợt đâu
Có ông khách nọ sang giàu đến thăm
Anh ngưng nấu, chạy lăng xăng
Hết ḷng o bế khách sang tới nhà,
Muốn mời khách uống nước trà
Anh đi lấy nước đổ ra cái nồi
Thêm đường một ít vào rồi
Bắc lên ḷ nấu, lửa thời chụm lên
Lửa to, nước nóng sôi liền
Sôi lên sùng sục. Anh bèn lo âu
Nước đường nóng, dễ uống đâu
E rằng khách quư chờ lâu bực ḿnh
Phải làm cho nước nguội nhanh
Anh bèn quạt nước ở quanh trong nồi
Quạt lâu, đường vẫn cứ sôi
V́ anh lính quưnh quên dời nồi đi
Nồi c̣n trên bếp lửa kia
Dưới c̣n lửa nóng đường th́ vẫn sôi.
Anh chàng quạt lẹ đă đời
Cho nên toát cả mồ hôi dầm dề.
Mọi người quanh đó cười chê:
“Phí công quạt măi không hề ích chi
Dưới nồi không tắt lửa đi
Quạt hoài nước chẳng dễ ǵ nguội cho!”
*
Truyện này tỉ dụ người tu
Tham, Sân, Si chẳng diệt trừ cho nhanh
Lửa phiền năo đó hoành hành
Làm sao giải thoát ngọn ngành khổ đau
Dù tu khổ hạnh dài lâu
Nằm giường gai góc có đâu ích ǵ
Hành thân, hành xác thảm thê
Uổng công, vô ích, dễ chi viên thành
Tương lai đau khổ quẩn quanh
Trôi lăn trong cơi tử sinh xoay ṿng.
* 13 *
SỰ THẬT CHỨNG MINH
Trong nhà một nhóm ngồi quanh
Phẩm b́nh đức hạnh một anh ở ngoài
Một người lên tiếng chê bai:
“Anh này mọi việc trên đời đều hay
Trừ hai điều đáng chê thay
Một là sân hận nổi ngay dễ dàng
Hai là lỗ măng vô vàn
Mỗi khi chạm việc liên quan đến ḿnh.”
Người này đang kể sự t́nh
Thời anh chàng đó th́nh ĺnh đi ngang
Bên tai nghe lọt rơ ràng
Đùng đùng nổi giận vội vàng ra tay
Nhảy chồm ngay vào nhà này
Túm người đang nói trong đây đánh liền
Miệng thời la hét cuồng điên:
“Ta nào sân hận, chớ nên nói càn
Ta nào lỗ măng hung tàn!”
Mọi người quanh đó can ngăn thốt lời:
“Hăy nh́n hành động của ngươi
Những ǵ hiện tại tức thời chứng minh
Hận sân, lỗ măng đầy ḿnh
Người ta b́nh phẩm quả t́nh chẳng sai.”
*
Trần gian tội lỗi lắm người
Suốt ngày trác táng, cả đời say sưa
Nào đâu tự nhận thói hư
Chẳng ưng chỉ trích, không ưa phê b́nh
Nghe chê, xấu hổ, bực ḿnh
Giận lên t́m cách gian manh trả thù
Khó mà tiến trên đường tu,
Dấn sâu cơi ác vốn từ xưa kia
Gánh vào hậu quả năo nề!
* 14 *
GIẾT KẺ DẪN ĐƯỜNG
Một đoàn đông toàn thương gia
Dự trù vượt biển đi xa buôn hàng
T́m đường sinh sống lang thang
Lộ tŕnh đoàn phải băng ngang cánh đồng
Đầy nguy hiểm, rộng mênh mông
Cả đoàn lúng túng, đường không biết rành
Bàn nhau mời kẻ giúp ḿnh
Đi theo chỉ lối, khởi hành luôn thôi.
Nửa đường vừa vượt qua rồi
Đoàn buôn bất chợt gặp ngôi miếu thần
Giữa đồng bát ngát vô ngần,
Chiếu theo tập quán của dân vùng này
Thời đoàn cần cúng miếu ngay
Một người phải giết tại đây tế thần
Mới mong đi thoát cả đoàn.
Thương gia xúm lại họp bàn riêng tư:
“Chúng ḿnh thân thích từ xưa
Đồng hương, bè bạn, rất ư lâu đời
Lạ thời chỉ có một người
Là người đưa lối, giết thời tiện thay
Để đem cúng tế miếu này.”
Bàn xong là họ ra tay tức th́
Mang người đưa lối giết đi
Giết xong nghĩ chuyện cúng kia yên lành
Đoàn buôn tiếp tục lộ tŕnh
Tiếc rằng không có ai rành đường đi,
Giữa đồng hoang vắng bốn bề
Bơ vơ, lạc lơng, thảm thê, hăi hùng
Để rồi cả bọn cuối cùng
Thảy đều chết thảm trong vùng hiểm nguy.
*
Truyện này tỉ dụ mỗi khi
Muốn vào biển Phật Pháp kia kiếm t́m
Những châu báu quư lưu truyền
Pháp lành ta phải tu liền ngay thôi
Noi theo Giáo Pháp tuyệt vời
Đưa đường chỉ lối tới nơi an lành.
Nhiều người điên đảo tu hành
Pháp lành, Chân Lư chí t́nh bỏ qua
Quay cuồng trong cơi ta bà
Đường dài sinh tử khó ra được nào
Ch́m trong biển khổ dâng trào
Trôi xa bờ giác, lạc vào bến mê.
* 15 *
MUỐN CON MAU LỚN
Thuở xưa có một ông vua
Quư yêu công chúa mới vừa sinh ra
Nên vua mong muốn thiết tha
Con ḿnh mau lớn để mà ngắm trông
Vua bèn triệu đến hoàng cung
Lương y một vị tiếng lừng khắp nơi
Rồi vua thương lượng cùng người:
“Hiện ông có thuốc tuyệt vời ǵ không
Để cho công chúa uống xong
Tức th́ mau lớn ta mong nhờ người.”
Lương y từ tốn trả lời:
“Thuốc hay như vậy kiếm thời cũng ra
Nhưng mà phải đến phương xa
Có điều tôi muốn tŕnh qua cùng ngài
Tháng ngày t́m thuốc kéo dài
Thời công chúa phải ở ngoài chốn riêng
Ngài đừng thăm. Cần cữ kiêng.
Khi nào kiếm thuốc đă yên chuyện rồi
Và công chúa dùng xong xuôi
Tới thăm thuận tiện thời tôi thỉnh mời.”
Vua nghe, ưng thuận, y lời.
Lương y từ biệt thảnh thơi ra về
Lên đường đi kiếm thuốc kia
Mười hai năm chẵn tới kỳ trở lui
Kiếm ra được thuốc quư rồi
Đưa công chúa uống tức thời thuốc tiên
Xong đưa công chúa đi liền
Vào tŕnh diện đấng vua hiền trong cung.
Nhà vua rất đỗi vui mừng
Thấy công chúa đă vô cùng lớn khôn
Ngợi khen thầy thuốc kia luôn:
“Thầy tài, thầy giỏi không c̣n ai hơn,
Và công chúa được nhờ ơn
Thuốc hay, chóng lớn, vô vàn tốt tươi.”
Sau khi vua nói dứt lời
Sai quan ban thưởng cho người có công
Nhiều tài vật quư vô song.
Mọi người rơ chuyện cười ông vua này
Là người dại dột lắm thay
Tuổi con mà cũng không hay biết ǵ.
*
Người tu Đạo Phật từ bi
Hành tŕ cần phải rất chi chân t́nh
Tinh anh t́m hiểu tự ḿnh
Rằng: “Khi nước đến sẽ thành ra ao
Ḍng trong sẽ hiện trăng sao.”
Mới mong công đức trước sau vẹn toàn
Nếu không cố gắng chuyên cần
Không theo Phật Pháp vô ngần thâm sâu
Chỉ mong kết quả cho mau
Khó mà đạt được đạo mầu tối cao.
Kẻ ngu muội đáng cười sao!
* 16 *
TƯỚI MÍA BẰNG NƯỚC MÍA
Hai người trồng mía thi đua
Cùng so tài nghệ hơn thua một ngày
Xem ai giỏi, xem ai hay
Ai trồng mía tốt thưởng ngay, khen liền,
Ai trồng mía xấu thời phiền
Bị người kia phạt. Hai bên đồng ḷng.
Một anh tự nghĩ: “Mía ngon
V́ xưa nay ngọt, ai c̣n lạ chi
Muốn tăng thêm vị ngọt kia
Ḿnh dùng nước mía tưới th́ tốt cây.”
Nghĩ xong anh thực hiện ngay
Mang nhiều mía ép, nước đầy chảy ra
Rồi bưng nước mía đem qua
Tưới lên vườn mía anh ta mới trồng.
Chao ơi, hao tốn vô cùng
Mà rồi kết quả lại không được ǵ
Cả vườn mía mới trồng kia
Đều hư hoại hết. Ngu si! Đáng cười!
*
Truyện này tỉ dụ ở đời
Khi tu Phật Pháp lắm người kỳ khôi
Không theo đường chính sẵn rồi
Giở tṛ gian dối, lôi thôi, khác thường
Đui mù tu luyện sai đường
Ỷ quyền, ỷ thế giàu sang của ḿnh
Cướp ngang tài sản dân lành
Đem làm phước thiện mong thành công ngay
Quả lành mong sẽ tới tay
Ngờ đâu kết quả đắng cay vô vàn
Hao tinh thần, phí thời gian
Nhọc công vô ích, đạo vàng thấy đâu
Tương lai tai họa thảm sầu
Giống người tưới mía trước sau khác ǵ!
* 17 *
V̀ NHỎ MẤT LỚN
Có chàng cho mượn năm đồng
Đă lâu con nợ cũng không trả tiền
Chàng bèn t́m đến đ̣i liền
Qua nhà con nợ ở bên kia làng
Có ḍng sông rộng chắn ngang
Phải đi đ̣ khiến anh chàng tốn hao
Ba đồng một lượt, ít sao!
Tới nơi người mượn nợ nào có đây
Vắng xa nhà đă mấy ngày
Thế là chàng lại phải quay đầu về
Trả ba đồng, giống lượt đi
Tiền đ̣ qua lại vị chi sáu đồng
Tính ra quả thật nhọc công
Lại thêm tổn thất mà không được ǵ.
*
Ở đời thấy có nhiều khi
V́ tranh chút lợi rất chi tầm thường
Chúng sinh hành động lầm đường
Thanh danh bại hoại thảm thương theo liền
Gặt về kết quả muộn phiền
Và rồi chút lợi cũng bền được đâu,
Đời này tiếng xấu ngập đầu
Đời sau quả báo đớn đau dữ dằn.
* 18 *
TRÊN LẦU MÀI DAO
Có chàng nọ thuở xa xưa
Từ lâu phục dịch cho vua của ḿnh
Quả là khổ sở thật t́nh
Tâm tư mỏi mệt, thân h́nh tang thương
Nhà vua bèn thưởng cho chàng
Lạc đà vừa chết để mang về nhà.
Món quà vua quư ban ra
Chàng mang về tính lột da tức th́
Tiếc thay dao lụt quá đi
Lưỡi kia không sắc dễ chi đứt nào.
Chàng đi t́m đá mài dao
Thấy viên đá ở lầu cao trên cùng
Chàng leo lên mài dao xong
Quay lui trở xuống đem dùng dao kia
Lột da. Dao lại lụt đi
Mới dùng chốc lát có ǵ dài lâu
Thế là chàng lại leo lầu
Đem dao mài nữa rồi mau xuống liền
Lột da. Dao lụt. Lại lên
Xuống lên nhiều lượt cho nên mệt người
Chàng bèn nảy ư lạ đời:
“Lạc đà ta vác lên nơi tầng lầu
Vừa lột da vừa mài dao
Thật là thuận tiện. Ai nào khôn hơn!”
Nghĩ xong chàng thực hiện luôn
Cho là ḿnh quả vô ngần thông minh.
Xa gần lên tiếng phẩm b́nh:
“Rất chi ngu xuẩn, thật t́nh dở hơi!”
*
Truyện này tỉ dụ ở đời
Bao nhiêu giới cấm lắm người không theo
Rồi vung tiền của thật nhiều
Để đem bố thí mong gieo phước lành
Mong sao cho bản thân ḿnh
Sau này sẽ được tái sinh cơi Trời
Giống người đần độn trên thôi
Nào đâu kết quả! Nực cười lắm thay!
* 19 *
GHI DẤU TRÊN THUYỀN
Một chàng vượt biển đi xa
Thuyền qua ngọn sóng bất ngờ đánh rơi
Chén bằng bạc quư sáng ngời
Chén rơi xuống biển và rồi ch́m sâu
Chàng bèn làm dấu thật mau
Hông thuyền ghi lại để sau dễ t́m
Rồi chàng tiếp tục chèo thuyền
Trong tâm tự nghĩ: “Nào quên dễ ǵ
Chỗ chén rơi đă khắc ghi
Ngang hông thuyền đó kiếm th́ khó chi.”
Thời gian hai tháng trôi đi
Thuyền chàng đến địa phương kia xa vời
Ngay trên sông, ở ngoài khơi
Anh chàng bỗng nhớ chén rơi, muốn t́m
Bèn theo dấu tại mạn thuyền
Định tâm sẽ nhảy xuống miền nước sâu.
Có người nh́n thấy hỏi mau:
“Anh làm ǵ lại lặn vào biển khơi?”
Chàng ung dung khẽ đáp lời:
“Tôi t́m chén bạc đánh rơi ngày nào.”
Người kia hỏi: “Rơi tại đâu?”
Anh chàng: “Rơi tại biển sâu mới rồi
Cách đây hai tháng mà thôi
Và tôi cẩn thận ghi nơi hông thuyền
Chỗ chén rơi để khỏi quên
Ngày nay theo dấu nhảy t́m khó chi.”
Mọi người nghe vậy cười chê:
“Nước sông nước biển có ǵ khác đâu
Nhưng nơi chốn thời khác nhau
Ngàn trùng cách biệt trước sau xa vời
Rơi một đằng, lặn một nơi
Làm sao t́m được chén rơi của ḿnh.”
*
Truyện này nhắc nhở chúng sinh:
“Có người ngoại đạo tu hành buông lơi
Không theo chính hạnh tuyệt vời,
Tu theo khổ hạnh, công thời tiêu tan
Vừa vô ích, vừa lầm than
Một ly sai biệt dậm ngàn mất đi,
Ta cần sáng suốt kể chi
Phải theo đúng Chánh Pháp khi tu hành!”
* 20 *
TRẢ THỊT
Nước kia có một ông vua
Nghe lời đồn đăi khó ưa về ḿnh
Ngoài đời có kẻ phê b́nh
Rằng ḿnh bạo ngược, tính t́nh tàn hung
C̣n về chính trị chẳng thông,
Vua nghe tức bực trong ḷng lắm thay
Vua bèn hạ lệnh ra ngay:
“Bắt cho kỳ được tên này về cung
Tên này phạm thượng vô cùng.”
Tuy nhiên mật thám truy lùng không ra
Biết ai mà bắt bây giờ
Nịnh thần có kẻ bất ngờ tŕnh tâu,
Vua nghe ra lệnh tóm đầu
Một viên quan nọ có đâu tội t́nh
Rồi lên án chịu cực h́nh
Lóc trăm lạng thịt trên ḿnh quan kia
Sau xương sống, thật thảm thê
Gọi là trừng phạt tội “khi quân” này.
Thế rồi sau một ít ngày
Có người minh chứng vua hay rơ ràng
Vị quan đó bị hàm oan
Dám đâu nói xấu cung vàng khi nao.
Nhà vua hối hận biết bao
Oan người vô tội lẽ nào để yên
Phải đền bù cho người hiền
Đền bù tổn thất lại liền một khi
Vua bèn ra lệnh lạ kỳ
Dùng ngàn lạng thịt tức th́ đắp lên
Ngay xương sống, trả lại liền
Nghĩ bù đắp vậy là yên mọi bề.
Vị quan được trả thịt về
Vẫn c̣n đau đớn năo nề khóc than
Cứ rên rỉ suốt canh tàn
Nhà vua nghe được chẳng cần xét suy
Đến nơi vặn hỏi quan kia:
“Ngươi c̣n khóc lóc làm chi nữa mà
Thịt ngươi ta chỉ lấy ra
Có trăm lạng thịt. Nay ta đền bồi
Một ngàn lạng thịt đủ rồi
Cớ sao ngươi vẫn c̣n ngồi than thân?”
Nạn nhân mệt mỏi vô ngần
Không c̣n sức lực, chịu thầm đớn đau,
Người chung quanh vội tŕnh tâu:
“Nếu ai mà có chặt đầu đại vương
Rồi sau họ lại bồi thường
Một ngàn đầu khác cũng không ích ǵ
Làm sao dính lại đầu kia!”
Vua nghe nói vậy, lầm ĺ, lặng thinh.
*
Kẻ ngu trong đám chúng sinh
Tham vui hiện tại thoả t́nh không thôi
Sợ đâu hậu quả tương lai,
Họ gây khổ năo cho người chung quanh
Góp gom tiền của về ḿnh
Rồi đem làm phúc, quả lành cầu mong
Mong bao tội lỗi diệt xong,
Nghĩ suy như vậy là không đúng rồi.
Truyện nhà vua lóc thịt người
Khuyên đừng cẩu thả buông lơi việc ǵ
Bạo tàn, lỗ măng ích chi
Kẻo khi lầm lỡ khó bề sửa sai!
Tiếp Tục
Trang 1 Trang 2 Trang 3
|