|    	  
	 
	 KINH BÁCH DỤ 
	Tâm Minh NGÔ TẰNG GIAO chuyển thơ 
	Trang 1
  
	MỤC LỤC 
	* LỜI NÓI ĐẦU  
	* PHẦN DUYÊN KHỞI 
	1. Người ngu ăn muối 
	2. Để dành sửa 
	3. Khoanh tay chịu đ̣n 
	4. Giả chết dối chống 
	5. Khát không uống nước 
	6. Giết con thành gánh 
	7. Nhận người làm anh 
	8. Trộm áo nhà vua 
	9. Kẻ ngốc khen cha 
	10. Phú ông cất lầu 
	11. Bà La Môn giết con 
	12. Quạt nước đường 
	13. Sự thật chứng minh 
	14. Giết kẻ dẫn đường 
	15. Muốn con mau lớn 
	16. Tưới mía bằng nước mía 
	17. V́ nhỏ mất lớn 
	18. Trên lầu mài dao 
	19. Ghi dấu trên thuyền để t́m đồ rơi xuống bể 
	20. Trả thịt 
	Trang 2
  
	21. Cầu con 
	22. Bán trầm hương 
	23. Trộm mền 
	24. Gieo mè 
	25. Nước và lửa 
	26. Bắt chước vua 
	27. Trị vết thương 
	28. Xẻo mũi 
	29. Đốt áo 
	30. Nuôi dê 
	31. Mua lừa 
	32. Trôm vàng 
	33. Chặt cây t́m trái 
	34. Thâu ngắn đường đi 
	35. Thấy bóng trong gương 
	36. Lầm móc con mắt 
	37. Giết trâu 
	38. Bảo nước đừng chảy 
	39. Sơn tường 
	40. Người sói đầu t́m thuốc 
	41. Hai con quỷ tranh vặt 
	42. Che da lạc đà 
	43. Mài đá 
	44. Ăn bánh 
	45. Giữ của 
	46. Ăn trộm trâu 
	47. Giả tiếng oan ương 
	48. Chó và cây 
	49. Vị tiên lầm lộn 
	50. Sửa lưng gù 
	51. Người tớ gái 
	52. Tṛ vui giả dối 
	53. Lăo sư bị hành hạ 
	54. Đầu rắn và đuôi rắn tranh cải 
	55. Cạo râu vua 
	56. Cái không có 
	57. Bị đạp rụng răng 
	58. Chia của 
	59. Xem làm b́nh 
	60. Thấy vàng dưới nước 
	Trang 3
  
	61. Tạo h́nh người 
	62. Ăn thịt gà 
	63. Chạy trốn 
	64. Quỷ trong nhà cũ 
	65. An bánh độc 
	66. Chết ch́m 
	67. Đánh cuộc 
	68. Hại người thành hại ḿnh 
	69. Tổ truyền ăn mau 
	70. Nếm trái tần bà 
	71. Đui mắt 
	72. Sưng môi 
	73. Ngựa đen đuôi trắng 
	74. Mang bồn tắm 
	75. Giết lạc đà 
	76. Nông phu mơ tưởng công chúa 
	77. T́m sữa 
	78. Đi không về rồi 
	79. Gánh ghế cho vua 
	80. Uống thuốc nước rửa ruột 
	81. Không nên vu oan cho người hiền đức 
	82. Gieo lúa 
	83. Khỉ bị đánh 
	84. Nguyệt thực 
	85. Đau mắt 
	86. V́ của giết con 
	87. Bọn cướp chia của 
	88. Khỉ mất đậu 
	89. Chuột vàng và rắn độc 
	90. Lượm được tiền 
	91. Người nghèo 
	92. Đứa nhỏ được đường 
	93. Bà già đánh cọp 
	94. Hiểu lầm 
	95. Hai con hạc 
	96. Giả mù 
	97. Cướp áo lông dê 
	98. Đứa nhỏ bắt rùa 
	
  
	  
	 
	LỜI NÓI ĐẦU 
	Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh động và súc tích ẩn tàng các giá trị triết lư giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lư và giáo pháp. Kinh có tác dụng phổ biến Đạo Phật bằng phương pháp thí dụ. Đức Phật mang những truyện xưa có liên quan đến thiện ác, tội phước, báo ứng làm thí dụ cụ thể để từ đó nêu ra sự dại dột mê lầm, vạch rơ ra cái vô minh của chúng sinh. Đa số truyện thường lấy hạng người b́nh dân hoặc những kẻ khờ dại quá mức làm đối tượng. Một số truyện lại dùng cả loài vật làm vai chính. Sau mỗi truyện nêu làm thí dụ là phần luận bàn ngắn gọn. 
	Nghe truyện ngụ ngôn để thấy ra ư nghĩa rồi lĩnh hội được lời dạy của Đức Phật.Kinh có ích lợi nhiều cho các người tu học, dù đă xuất gia, hay c̣n là cư sĩ và cho toàn thể Phật tử nói chung. Tôn chỉ của bộ kinh là muốn đem ánh sáng trí tuệ để xua tan đi màn si ám của những ư thức vô minh trong quá tŕnh tu tập của người Phật tử.  
	Kinh mang một thể loại văn học Phật giáo rất đặc thù. Kinh có công dụng tương tự như những truyện trong cuốn sách “Cổ Học Tinh Hoa” của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc hay tập truyện thơ của Aesop hoặc những truyện thơ ngụ ngôn của thi hào La Fontaine nước Pháp hồi thế kỷ thứ 17. V́ thế những truyện kể trong Kinh BÁCH DỤ c̣n có tác dụng giáo dục nói chung cho tất cả mọi người đọc, không phân biệt tôn giáo. Tuy nhiên ngoài tính cách giáo dục về phương diện đạo đức như những tác phẩm kể trên, Kinh BÁCH DỤ c̣n mang lại ư nghĩa những lời giáo huấn về mặt tôn giáo. “Ngoại đạo” được đề cập tới nhiều trong kinh là những đạo cùng thời với Đức Phật cả hơn 2600 năm trước đây.  
	Truyện vui có thể coi như là những lớp đường phèn rất ngon ngọt bọc ngoài những vị thuốc đắng. Thuốc có đắng mới dă tật, đây là những tật xấu của chúng sinh. Truyện vui cũng được coi như những lớp lá cây dùng để gói thuốc giải độc ở bên trong. Một khi đă được giải độc, đă thấm nhuần được những lời giáo huấn đầy chân lư thời chúng ta nên loại ra những lời châm biếm khôi hài giễu cợt như vứt bỏ đi những lá cây bọc ngoài sau khi đă dùng thuốc và đă được lành bệnh.   
	Kinh BÁCH DỤ này được dịch giả THÍCH NỮ NHƯ HUYỀN dựa vào bản tiếng Hán rồi phiên dịch ra văn xuôi tiếng Việt (bản in ghi năm 1958) từ “cốt truyện” cho tới “lời bàn”. Trong lời nói đầu dịch giả cho biết: “Bộ Kinh Bách Dụ gồm có 98 bài thí dụ của Phật nói do ngài Pháp Sư Tăng Già Tư Na sao lục trong kinh tạng”…“Một đời thuyết giáo trong bốn mươi chín năm, tùy theo căn cơ chúng sanh sai khác, Đức Phật nói ra vô lượng pháp môn không đồng. Khi nói thấp, khi nói cao, từ dễ lần đến khó, đem gần tỉ dụ xa. Chung qui chỉ hướng về một mục đích duy nhất là làm cho chúng sanh tự giác ngộ bản tánh sáng suốt của ḿnh”.   
	“Bách” là một trăm. “Dụ” là thí dụ. Soạn giả đă theo sát nguyên bản và chuyển nội dung cuốn Kinh BÁCH DỤ trên thành thể “thơ lục bát” với những ngôn từ b́nh dị để mọi người dễ đọc, dễ nghe, dễ hiểu và dễ nhớ. Phần “lời bàn” ngay sau truyện cũng được chuyển thành thơ và in chữ nghiêng.   
	Khi chuyển thơ soạn giả cũng tham khảo thêm ba bản dịch khác của Kinh BÁCH DỤ. Nói chung thời các bản dịch chỉ có chút ít khác biệt. Ba bản này là: 
	   1. “PHẬT HỌC NGỤ NGÔN” bản dịch từ tiếng Hán của Ḥa Thượng Thích Tâm Châu. Người dịch cho biết Kinh Bách Dụ: “là cuốn kinh số 209 Trong Đại Tạng Kinh”…“Lẽ ra kinh Bách Dụ phải đủ 100 bài thí dụ, nhưng đây chỉ có 98 bài”…“Bộ này chính tên là Bách Dụ Kinh. Nội dung toàn bộ đều là lời thí dụ, ngụ ư răn dạy những người ngu si, không hiểu, để đi thẳng vào đường hiểu biết chân chính, nên nay đổi là Phật học Ngụ ngôn”. 
	   2. “KINH BÁCH DỤ” bản dịch từ tiếng Hán của Tỳ Kheo Thích Tâm Khanh (năm 2000). Trong cuốn này người dịch cho biết: “Nguyên tác kinh Bách Dụ do Tôn giả Tăng Già Tư Na (Sanghasena) tuyển soạn 98 câu truyện thí dụ từ kinh điển do chính kim ngôn đức Thích Tôn tuyên thuyết. Năm thứ 10 niên hiệu Vĩnh Minh (493 TL), bộ kinh được tôn giả Cầu Na Tỳ Địa (Gunavaddhi), người xứ Trung Ấn chuyển dịch sang Hán ngữ”.  
	   3. “SAKYAMUNI’S ONE HUNDRED FABLES” do Tetcheng Liao (Tiến Sỹ Luật Khoa Viện Đại Học Paris) dịch Kinh Bách Dụ từ tiếng Hán sang tiếng Anh kèm thêm lời chú thích (năm 1981). Về việc Kinh chỉ có 98 truyện, thiếu 2 truyện, dịch giả  ghi: “Một mặt có thể giải thích rằng để thuận tiện nên nói thành con số chẵn. Mặt khác có thể giải thích rằng lời nói đầu và lời nói cuối sách cũng được kể luôn thêm vào cho chẵn thành một trăm truyện”.   
	Ướcmong rằng những truyện thơ tuy mộc mạc và b́nh dị lại đầy vẻ giễu cợt trong cuốn Kinh này sẽ chuyên chở được những lời dạy thâm sâu và quư báu của Đức Phật tới khắp cả chúng sinh.  
	NAM  MÔ  BỔN  SƯ  THÍCH  CA  MÂU  NI  PHẬT  
	Mùa Phật Đản 2007 
	DIỆU PHƯƠNG 
	  
	  
	PHẦN DUYÊN KHỞI 
	    
	Lời Thầy A NAN: “Chính tôi được nghe: Một thời kia Đức Phật ở trong vườn trúc Thước Phong, thành Vương Xá, cùng với các vị đại Tỳ kheo, Bồ tát, Ma ha tát và Thiên, Long bát bộ, chừng ba vạn sáu ngh́n người chung hợp.  
	Khi ấy, trong pháp hội có năm trăm vị Phạm chí dị học. Các vị từ nơi toà ngồi của ḿnh đứng dậy bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Chúng tôi nghe nói đạo Phật rộng, sâu không đạo nào có thể sánh kịp, nên chúng tôi lại đây muốn hỏi Ngài mấy điều, mong Ngài vui ḷng giảng giải cho.” 
	Đức Phật đáp: “Hay lắm, các vị cứ việc hỏi.” 
	Phạm Chí hỏi: “Con người có hiện hữu hay không?” Phật đáp: “Cũng ‘có’ và cũng ‘không’.” 
	Phạm chí hỏi tiếp: “Như nay thấy có, làm sao Ngài lại nói là không? Như nay không thấy, làm sao Ngài lại nói là có?” Phật đáp: “Sinh cho là ‘có’, chết cho là ‘không’, nên nói là hoặc có hoặc không.” 
	Phạm chí hỏi: “Người ta do đâu mà sống được?” Phật đáp: “Người ta do ngũ cốc mà sống.” 
	Phạm chí hỏi: “Ngũ cốc do đâu mà sinh ra?” Phật đáp: “Ngũ cốc do nơi tứ đại là ‘đất, nước, gió, lửa’ mà sinh ra.” 
	Phạm chí hỏi: “Tứ đại do từ đâu sinh ra?” Phật đáp: “Tứ đại do từ ‘không’ mà sinh ra.” 
	Phạm chí hỏi: “Không do đâu mà sinh ra?” Phật đáp: “Không do chỗ ‘vô sở hữu’ mà sinh ra.” 
	Phạm chí hỏi: “Vô sở hữu từ đâu sinh ra?” Phật đáp: “Do ‘tự nhiên’ sinh ra.” 
	    Phạm chí hỏi: “Tự nhiên do từ đâu sinh ra?” Phật đáp: “Do ‘Niết bàn’ sinh ra.” 
	Phạm chí hỏi: “Niết bàn do đâu sinh ra?” Phật đáp: “Sao các vị hỏi điều sâu xa thế! Các vị không biết Niết bàn là pháp bất sinh, bất diệt hay sao?” 
	Phạm chí lại hỏi: “Bạch Ngài, Phật đă nhập Niết bàn chưa?” Phật đáp: “Ta chưa nhập Niết bàn.” 
	Phạm chí hỏi: “Ngài chưa nhập Niết bàn sao Ngài biết được Niết bàn là an lạc vĩnh viễn?” Phật nói: “Nay ta hỏi lại các vị, chúng sinh trong thiên hạ khổ hay vui?” 
	Phạm chí đáp: “Chúng sinh khổ lắm.” Phật hỏi: “Thế nào là khổ?” 
	Phạm chí đáp: “Chúng tôi thấy chúng sinh khi chết đau khổ không thể chịu được nên chúng tôi biết chết là khổ.” Phật nói: “Nay các vị tuy chưa chết mà cũng biết chết là khổ, thời ta thấy chư Phật mười phương bất sinh, bất diệt, nên ta biết Niết bàn là an lạc vĩnh viễn.” 
	Lúc đó năm trăm vị Phạm chí tâm ư thông suốt, xin thọ ‘ngũ giới’, chứng ngộ quả ‘Tu đà hoàn’, rồi ngồi lại chỗ cũ.  
	Đức Phật nói: “Các vị nghe cho kỹ, nay ta sẽ v́ các vị mà nói rộng về những thí dụ sau đây.” 
	   
	______________________ 
	  
	* 1 * 
	NGƯỜI NGU ĂN MUỐI 
	  
	Thưở xưa có một người ngu 
	Đến thăm nhà bạn rất ư thân t́nh 
	Chủ nhà vui đăi khách ḿnh 
	Bữa cơm đạm bạc, có canh ăn cùng 
	Chàng chê canh lạt khó dùng 
	Chủ bèn nêm chút muối trong canh này 
	Chàng ăn cảm thấy ngon ngay 
	Nên chàng tự nghĩ loay hoay trong đầu: 
	“Ngon nhờ ít muối thêm vào 
	Muối nhiều ngon chắc gấp bao nhiêu lần!” 
	Thế rồi chàng chẳng ngại ngần 
	Xin nguyên chén muối bỏ luôn miệng ḿnh 
	Nuốt đi hết, tưởng ngon lành 
	Nào ngờ chất muối mặn kinh hồn người 
	Anh chàng tưởng chết tới nơi 
	Muối kia mà ngấm tàn đời c̣n đâu 
	Vội vàng móc họng ra mau 
	Để nôn, để mửa ngơ hầu cứu nguy. 
	* 
	Tu hành chớ có mê si 
	Uống ăn vừa phải lợi th́ vô biên 
	Đừng theo tà giáo tuyên truyền 
	Nhịn ăn nhịn uống mà thêm sai lầm 
	Giữ ǵn sức khoẻ tối cần 
	Mới mong đắc đạo thánh nhân tuyệt vời, 
	Dù cho nhịn bảy ngày trời 
	Hay mười lăm bữa, khổ đời thêm thôi 
	Tự ḿnh hành hạ thân người 
	Chỉ thêm đói khát. So thời giống sao 
	Giống người ăn muối biết bao 
	Rời xa chân lư, lạc vào cơi mê. 
	  
	* 2 * 
	ĐỂ DÀNH SỮA 
	  
	Có người dự định tháng sau 
	Mời nhiều khách đến cùng nhau vui vầy 
	Sữa ḅ đăi khách bữa này 
	Cho nên phải trữ sữa ngay bây giờ 
	Để dành nhiều lo pḥng hờ 
	Lỡ khi khách đến bất ngờ thiếu đi. 
	Anh chàng lẩn thẩn nghĩ suy: 
	“Mỗi ngày ḿnh nặn sữa kia ra hoài 
	Mang thùng lớn chứa đủ rồi 
	Nhưng mà lại sợ sữa thời dễ hư 
	Để lâu sữa sẽ bị chua 
	Chi bằng sữa đó đừng đưa ra ngoài 
	Giữ nguyên trong vú ḅ thôi 
	Tới ngày đăi khách sai người nặn ra 
	Bớt đi được công việc nhà 
	Sữa khi đó mới chắc là thơm ngon 
	Quả là phương pháp tinh khôn!” 
	Nghĩ xong chàng tách ḅ con ra liền 
	Rồi đem ḅ mẹ nhốt riêng 
	Chàng không nặn sữa, để nguyên ít ngày. 
	Thời gian trôi lẹ làng thay 
	Tháng sau khách đă tới ngay đầy nhà 
	Chàng bèn dắt ḅ mẹ ra 
	Sữa tươi cố nặn nhưng mà có đâu 
	Vú ḅ nặn măi thật lâu 
	Chẳng hề được giọt sữa nào. Than ôi! 
	Vây quanh khách khó nín cười 
	Khi hay rơ chuyện đầu đuôi lạ lùng: 
	“Chủ nhà quả thật điên khùng 
	Để dành sữa lại ở trong vú ḅ!” 
	* 
	Ở đời chớ có đợi chờ 
	Phát tâm bố thí phải lo làm liền 
	Đợi chi tới lúc nhiều tiền 
	Lỡ làng công chuyện, chẳng nên chút nào. 
	Góp gom của cải khó sao 
	Chưa xong đă gặp biết bao muộn phiền 
	Hoả tai, lũ lụt trong miền, 
	Hoặc là trộm cướp ngày đêm ŕnh ṃ, 
	Vua quan chiếm đoạt, tận thu, 
	Bất ngờ thần chết có từ một ai 
	Kịp đâu bố thí cho người. 
	Kẻ ngu dành sữa so thời khác chi! 
	  
	* 3 * 
	KHOANH TAY CHỊU Đ̉N 
	  
	Có anh chàng ngốc sói đầu 
	Một hôm kẻ lạ chợt đâu ngó vào 
	Thấy đầu không sợi tóc nào 
	Hắn dùng lê đánh lên bao nhiêu lần 
	Trái lê đánh bật máu luôn 
	Máu tuôn anh vẫn không buồn nói chi 
	Đứng im hứng chịu đ̣n kia 
	Không màng chống lại, không hề tránh ra. 
	Bất ngờ có bạn đi qua 
	Động ḷng trắc ẩn, xót xa khuyên liền: 
	“Sao anh cứ đứng lặng yên 
	Để người ta đánh măi trên đầu ḿnh, 
	Không đánh lại v́ nể t́nh 
	Thời nên tránh né, sao đành đứng nguyên, 
	Đầu anh đầy máu hai bên 
	Đau không? Sao chẳng kêu rên thế này?” 
	Anh chàng ngốc trả lời ngay: 
	“Tên kia xấc láo lại đầy ngu si 
	Thấy tôi tóc chẳng có chi 
	Tưởng đầu tôi giống đá kia trong vườn 
	Đá xinh xắn, đá dễ thương 
	Cho nên hắn mới lầm đường đánh lên 
	Trái lê cứng, đầu tôi mềm 
	Máu ra lênh láng măi thêm tuôn trào 
	Hắn vô tri thức biết bao 
	Bạn ơi tôi biết tính sao bây giờ?” 
	Bạn nghe nói giận vô bờ 
	Trách anh chàng ngốc: “Thật là đáng thương 
	Bị người đánh đă chán chường 
	Mà anh vẫn đứng b́nh thường. Lạ thay! 
	Ngu si nhất cơi đời này 
	Chính là anh chứ ai đây sánh cùng!” 
	* 
	Thầy tu một số buông lung 
	Bao nhiêu Giới cấm coi thường sá chi 
	Buông luôn Định với Tuệ kia 
	Chỉ ưa g̣ ép oai nghi bên ngoài 
	Hầu mong được khắp mọi người 
	Cúng dường cung kính. Khổ đời vậy thay! 
	Tu hành theo kiểu thế này 
	Đớn đau kết quả gặt ngay tức th́ 
	So cùng với kẻ ngu kia 
	Thấy sao tương tự, khác ǵ nhau đâu! 
	  
	* 4 * 
	VỢ GIẢ CHẾT DỐI CHỒNG 
	  
	Một chàng cưới được vợ xinh 
	Nàng tuy rất đẹp, tính t́nh lại hoang 
	Chàng thương vợ thật nồng nàn 
	Nhưng nàng trái lại phũ phàng chẳng yêu 
	Ngoại t́nh một sớm một chiều 
	T́nh nhân sẵn đó nàng theo tức th́ 
	Muốn về nhà bỏ chồng kia 
	T́m qua người mới tính bề kết duyên. 
	Khi chồng vắng mấy ngày liền 
	Nàng t́m một lăo bà quen thân nàng 
	Nhỏ to kín đáo dặn rằng: 
	“Khi tôi rời khỏi ngôi làng ngày mai 
	Bà t́m xác chết của ai 
	Xác cô con gái không người thân quen 
	Mang về nhà để một bên 
	Chồng tôi trở lại bà liền báo ngay 
	Rằng tôi là xác chết này 
	Mọi người tẩm liệm sẵn đây đợi chàng.” 
	Bà già thực hiện chu toàn 
	Đúng theo kế hoạch của nàng vợ hư. 
	Khi chồng về lại nhà xưa 
	Nh́n qua xác chết rất ư buồn rầu 
	Chàng ngồi khóc suốt canh thâu 
	Rồi đem hỏa táng, có đâu hay ǵ 
	Tin rằng vợ đă chết đi 
	Tro xương c̣n lại chàng th́ dấu yêu 
	Đựng trong hũ để mang theo 
	“Khối t́nh quá khứ” nâng niu đêm ngày. 
	Vợ chàng lúc đó vui vầy 
	Kết duyên đầm ấm với tay nhân t́nh, 
	Thời gian thoáng chốc trôi nhanh 
	Thế rồi chồng mới lạnh tanh với nàng 
	Nay ruồng rẫy v́ chán chường 
	Khiến nàng tủi phận t́m đường trở lui 
	Quay về tổ ấm trước thôi  
	Thưa cùng chồng cũ những lời yêu thương: 
	“Em đây là vợ của chàng 
	Trở về nối lại dở dang cuộc t́nh!” 
	Người chồng lớn tiếng thanh minh: 
	“Vợ tôi đă chết cỏ xanh nấm mồ 
	Cô sao ăn nói hồ đồ 
	Dối gian chi vậy! Thế cô muốn ǵ?” 
	Cô nàng biện bạch tía lia 
	Mong chồng nhận vợ xưa kia là ḿnh 
	Nhưng chồng phủ nhận tận t́nh: 
	“Vợ tôi đă chết rành rành từ lâu 
	Tôi nào tin được cô đâu 
	Nhận cô làm vợ nghe sao lạ kỳ!” 
	*  
	Thế gian nào có khác ǵ 
	Lắm người thành kiến rất chi sai lầm 
	Nhưng không chịu cải đổi dần, 
	Như phường ngoại đạo tà tâm lâu đời 
	Dù nghe Giáo Pháp tuyệt vời 
	Cũng không tin tưởng vào nơi Đạo Vàng 
	Giống người chồng ngốc thảm thương 
	Vợ tuy c̣n sống trăm đường chẳng tin. 
	  
	* 5 * 
	KHÁT KHÔNG UỐNG NƯỚC 
	  
	Thuở xưa có kẻ đi đường 
	Rất là khát nước nên dừng chốn đây 
	Kiếm t́m nước khắp Đông Tây 
	Thấy sương lóng lánh giăng đầy phía xa 
	Tưởng là nước vội t́m qua 
	Mới hay lầm lẫn. Thế là trở lui. 
	Cuối cùng t́m được nước rồi 
	Ḍng sông trong mát, nước trôi không ngừng 
	Nhưng chàng chỉ đứng ḍm chừng 
	Nh́n xem. Không uống. Lạ lùng vậy thay! 
	Người ta thấy, vội hỏi ngay: 
	“Anh đi t́m nước, nước đầy dưới sông 
	Sao không uống, chỉ đứng trông?” 
	Anh chàng đáp lại vô cùng kỳ khôi: 
	“Nước sông này nhiều quá trời 
	Một lần mà uống có đời nào xong, 
	Uống một lần hết nước sông 
	Thời tôi mới uống, mới không ngại ngần.” 
	Mọi người quanh đấy cười ầm 
	Chê anh chàng nọ ngu đần măi thôi. 
	* 
	Thế gian có một ít người 
	Không gần chân lư, sống đời lầm sai 
	Luôn gàn bướng chẳng nghe ai 
	Cho là Giới Luật Phật thời lớn lao 
	Lại thêm nghiêm ngặt xiết bao 
	Thọ tŕ, tuân giữ hết nào dễ đâu 
	Họ tin vậy nên từ lâu 
	Sa chân giới cấm, lao đầu bến mê 
	Để rồi đau khổ tràn trề 
	Trong ṿng sinh tử năo nề nổi trôi 
	Khó mà đắc Đạo trọn đời 
	Xem ra đáng trách, nghĩ thời đáng thương 
	Khác chi kẻ khát đi đường 
	Kiếm ra được nước không màng uống thôi! 
	  
	* 6 * 
	GIẾT CON CHO ĐỦ GÁNH 
	  
	Có người nuôi bảy đứa con 
	Một con bỗng chết, không c̣n sống thêm 
	Thi hài anh chẳng chôn liền 
	Trong nhà anh vẫn giữ nguyên con ḿnh 
	Rồi anh cùng cả gia đ́nh 
	Dọn đi nơi khác. Quả t́nh lạ thay! 
	Láng giềng thấy vậy nói ngay: 
	“Sao không gánh xác chết này đi chôn 
	Mà anh lại bỏ đi luôn 
	Hành vi như vậy chẳng khôn chút nào 
	Rất là dại dột biết bao.” 
	Anh kia bèn đáp: “Biết sao bây giờ 
	Chắc chi tôi đă dại khờ 
	Một con nằm chết vậy mà khó khăn 
	Muốn cho quang gánh được cân 
	Hai đầu cần có xác thân hai người 
	Gánh đi chôn mới dễ thôi 
	Mới thành đủ gánh đôi nơi cân bằng.” 
	Thế rồi anh chợt nghĩ rằng 
	Giết thêm đứa nữa dễ dàng gánh ra 
	Nghĩ xong anh chẳng nề hà 
	Giết thêm một đứa thế là đủ đôi 
	Hai con thành một gánh rồi 
	Gánh lên chôn tại núi đồi trên cao. 
	* 
	Truyện này tỉ dụ giống sao 
	Người tu Giới Luật phạm vào ít thôi 
	Nhưng không sám hối một lời 
	Ăn năn cũng tránh. Tính bài dối gian 
	Làm như giữ Giới đàng hoàng 
	Có ai chỉ trích lại càng ngang nhiên 
	Bao Giới Luật cứ phạm thêm 
	Nói rằng: “Sau đó sẽ liền ăn năn 
	Sẽ liền sám hối một lần 
	Cho thêm thuận tiện, đâu cần ngưng ngay.” 
	Tu như vậy sai lầm thay 
	Giới như ngọc quư hàng ngày phải tuân, 
	Tu sai thời tiếc vô ngần 
	Giống người ngu xuẩn bội phần kể trên 
	Muốn cho đủ gánh hai bên 
	Vô minh sai khiến giết thêm con ḿnh. 
	  
	* 7 * 
	NHẬN NGƯỜI LÀM ANH 
	  
	Một người giàu có thuở xưa 
	Tác phong đứng đắn lại thừa thông minh 
	Cho nên các kẻ chung quanh 
	Tỏ ḷng thán phục, tỏ t́nh kính yêu 
	Xa gần ái mộ rất nhiều. 
	Bỗng đâu có kẻ sớm chiều lân la 
	Tới lui thăm viếng thiết tha 
	Rồi sau nhận họ: “Ông là anh tôi.” 
	Điều này cũng dễ hiểu thôi 
	Của làm tối mắt khiến người dối gian 
	Kết thân thích, nhận họ hàng   
	Để mà lợi dụng bạc vàng chứ đâu. 
	Ít lâu sau người nhà giàu 
	Khốn cùng, sa sút hết mau bạc tiền 
	Kẻ kia bèn trở mặt liền 
	Giờ đây lại nói: “Chẳng quen thuộc ǵ 
	Ông nào có phải anh chi.” 
	Lời sao lănh đạm, nghe th́ đáng khinh 
	Bà con lối xóm bực ḿnh 
	Cười chê kẻ đó: “Quả t́nh bất nhân!” 
	* 
	Truyện này thí dụ rất gần 
	Có phường tà giáo manh tâm lọc lừa 
	Lời hay của Phật nhận bừa 
	Nhận là giáo pháp từ xưa của ḿnh 
	Đến khi dân chúng ở quanh 
	Cùng nhau bảo họ thực hành ngay đi 
	Những người này chẳng phụng tŕ 
	Chẳng theo giáo pháp thực thi chút ǵ 
	Hoàn toàn chỉ muốn ngăn che 
	Âm mưu tội ác u mê gian tà. 
	May thay Giáo Pháp Phật Đà 
	Dễ chi bị bọn tà ma lộng hành. 
	  
	* 8 * 
	TRỘM ÁO NHÀ VUA 
	  
	Có người ở chốn quê mùa 
	Lén vào kho áo nhà vua trộm về 
	Bộ y phục đẹp kể chi 
	Trộm xong trốn tới vùng kia xa vời. 
	Khi vua biết vụ trộm rồi 
	Phái nhiều binh lính khắp nơi truy t́m 
	Cuối cùng cũng bắt được liền 
	Giải tên ăn trộm lên trên pháp đ́nh. 
	Bị tra hỏi, hắn gian t́nh 
	Chối luôn tội trộm của ḿnh mới đây 
	Khai rằng bộ y phục này 
	Là do tổ phụ lâu nay lưu truyền. 
	Vua ra lệnh mặc thử liền 
	Hắn đem y phục mặc lên thân người 
	Mặc sao lộn bậy tức cười 
	Món trên xuống dưới, dưới thời lên trên 
	Áo quần, mũ măng đảo điên 
	Tỏ ra hắn chẳng hề quen bao giờ. 
	Vua bèn phán: “Không c̣n ngờ 
	Điều này chứng tỏ ngươi là kẻ gian 
	Đây là y phục cung vàng 
	Riêng vua cùng với các quan thường dùng.” 
	Trộm khờ cứng họng hết đường 
	Cúi đầu thú nhận tội cùng vua thôi. 
	* 
	Truyện này thí dụ lâu rồi 
	Vua là Đức Phật của thời xa xưa 
	C̣n y phục được coi như 
	Chính là Giáo Pháp tối ư nhiệm mầu 
	Nhà quê kẻ trộm khác đâu 
	Là phường tà giáo mưu cầu gian manh 
	Trộm của người rồi chí t́nh 
	Nhận làm giáo pháp của ḿnh đấy thôi 
	Trộm điều Phật dạy tuyệt vời 
	Khoe rằng giáo pháp của nơi chính ḿnh 
	Nhưng không biết cách thực hành 
	V́ không thấu hiểu cho rành trước sau 
	Cho nên lộn bậy đuôi đầu 
	Đảo điên bản chất lộ mau tức th́. 
	  
	* 9 * 
	KẺ NGỐC KHEN CHA 
	  
	Có ông nọ thuở xưa xa 
	Hay khen đức hạnh của cha ruột ḿnh 
	Khoe cùng người đứng chung quanh: 
	“Cha tôi chính trực, hiền lành măi thôi 
	Không làm hại sinh mạng người 
	Ghét quân cướp giật, ghét ai lọc lừa 
	Công b́nh, đức độ, nhân từ 
	Tránh lời gian dối, lại ưa giúp đời 
	Cứu người nguy khốn khắp nơi 
	Từ bi nở đẹp tuyệt vời trong tâm.” 
	Bấy giờ có kẻ ở gần 
	Vốn mang bản chất ngu đần, vô minh 
	Nghe xong chợt nghĩ: “Quả t́nh 
	Ḿnh nên ca tụng cha ḿnh một phen.” 
	Hắn bèn lên tiếng bon chen: 
	“Cha tôi đức hạnh vượt trên khắp làng 
	Cha ông so chẳng sánh ngang.” 
	Bà con quanh đó rộn ràng hỏi ngay: 
	“Cha anh như vậy tốt thay 
	Thế th́ đức hạnh trước đây thế nào?” 
	Kẻ ngu vênh mặt tự hào: 
	“Cha tôi từ nhỏ ưa nào chuyện dâm 
	Tuyệt đường t́nh dục bao năm 
	Chẳng hề biết đến. Không ham chuyện này.”  
	Mọi người cười rộ hỏi ngay: 
	“Cha anh đoạn dục từ ngày ấu thơ 
	Làm sao đẻ được anh ra?” 
	Kẻ ngu cứng họng khó mà nói chi. 
	* 
	Ở đời khen ngợi chuyện ǵ 
	Cần cho chân thật, chớ hề dối gian 
	Nói sai tai hại vô vàn 
	Không mang hiệu quả, xa gần khinh khi 
	Phật tuyên “ngũ giới” xưa kia 
	Dạy đừng “vọng ngữ”. Ta th́ chớ quên! 
	  
	* 10 * 
	NHÀ GIÀU CẤT LẦU 
	  
	Có chàng giàu có kể chi 
	Tiền nhiều nhưng lại ngu si tức cười 
	Không hề biết đến việc đời, 
	Một hôm chàng chợt dạo chơi trong vùng 
	Ngang căn nhà của phú ông 
	Rất chi đẹp đẽ, vô cùng cao sang 
	Ba tầng lầu thật huy hoàng 
	Chàng nh́n ham thích xốn xang nghĩ rằng: 
	“Tiền ta tuy chẳng sánh bằng 
	Ít ra đủ cất một tầng cũng hay.” 
	Chàng về hào hứng mời ngay 
	Một nhà kiến trúc vùng này tới mau 
	Hỏi thăm: “Nhà ba tầng lầu 
	Thời ông có cất khi nào hay chưa?” 
	Người xây cất cười rồi thưa: 
	“Ba tầng lầu đó tôi thừa khả năng.” 
	Thế là hợp với ư chàng 
	Chàng nhờ người đó vội vàng khởi công: 
	“Cất lầu ba giống phú ông 
	Làm ngay cho đẹp, phải trông tuyệt vời.” 
	Người xây cất đồng ư thôi 
	Thợ thời đem tới, đất thời san ra 
	Đắp nền móng, dựng tường nhà. 
	Chàng giàu ít bữa ghé qua xem chừng  
	Hỏi thăm cho biết tỏ tường: 
	“Này ông kiến trúc, ông đương làm ǵ?” 
	Người xây cất đáp tức th́: 
	“Nhà ba tầng đó, có chi lạ nào.” 
	Chàng giàu bèn nói: “Vậy sao, 
	Xây chi tầng dưới tốn hao phiền hà 
	Chỉ cần xây cái lầu ba.” 
	Người xây cất đáp: “Làm nhà trước sau 
	Phải xây tầng dưới khởi đầu 
	Xong rồi ta mới xây lầu tầng trên.” 
	Chàng giàu ngu ngốc ngăn liền: 
	“Không! Tôi chỉ muốn trả tiền cho ông  
	Cất lầu ba cho chóng xong 
	C̣n hai tầng dưới tôi không yêu cầu!” 
	Người xây cất cười hồi lâu 
	Tận t́nh giảng giải. Chàng đâu nghe ǵ. 
	Tỏ ra cố chấp kể chi 
	Yêu cầu kiên quyết thực thi ư ḿnh. 
	Chàng giàu ngu ngốc thật t́nh 
	Cất lầu công việc đành đ́nh lại thôi. 
	* 
	Truyện này tỉ dụ ở đời 
	Trong hàng Phật tử có người biếng tu 
	Phụng thờ “Tam Bảo” ơ hờ 
	Tu “Giới, Định, Tuệ” cũng lơ là hoài  
	Tưởng lầm tu vậy đúng rồi 
	Không cần theo bước của người tu lâu 
	Muốn ḿnh “chứng quả” thật mau 
	Bỏ ba “quả vị” khởi đầu đường tu 
	Vượt ngay tới quả thứ tư 
	Thành A La Hán theo như ước nguyền. 
	Tu như vậy thật cuồng điên 
	So cùng chàng ngốc ở trên khác ǵ! 
	  
	* 11 * 
	BÀ LA MÔN GIẾT CON 
	  
	Có người ngoại đạo thuở xưa 
	Tự xưng ḿnh giỏi nên ưa khoe tài 
	Rành quá khứ, biết tương lai 
	Bao điều học vấn trên đời tinh thông 
	Nói ra trôi chảy vô cùng. 
	Một hôm chàng muốn phô trương tay nghề 
	Bèn đi đến một nước kia 
	Ôm theo con nhỏ, năo nề khóc than. 
	Mọi người thấy lạ hỏi han: 
	“Tại sao anh khóc vô vàn tang thương?” 
	Chàng lên tiếng đáp năo nùng: 
	“Con tôi sẽ chết trong ṿng bảy hôm 
	Cho nên tôi rất đau buồn.” 
	Bà con thương hại khuyên luôn anh này: 
	“Con anh hiện mạnh khoẻ thay 
	Làm sao chỉ sống bảy ngày nữa thôi 
	Chắc là anh tính lầm rồi 
	Chỉ thêm buồn khổ hại người, ích chi.” 
	Chàng bèn quả quyết tức th́: 
	“Tôi xem chính xác, ít khi sai lầm 
	Mặt trời có thể mờ dần, 
	Mặt trăng có thể khuất luôn trên trời, 
	Muôn sao có thể rụng rơi 
	Riêng tôi đoán đúng mọi lời tiên tri.” 
	Bảy ngày lần lượt trôi đi 
	Con chàng không chết. Có ǵ lạ đâu. 
	Chàng bèn tính toán trong đầu 
	Muốn cho danh dự trước sau bảo tồn 
	Chàng ra tay giết con luôn 
	Chứng minh ḿnh chẳng đoán lầm đoán sai. 
	Bà con thấy vậy phục tài 
	Cùng nhau tin tưởng, đồng thời ngợi ca 
	Tiếng tăm từ đó vang xa 
	Số người tôn kính thật là nhiều thôi. 
	* 
	Biết bao ngoại đạo ở đời 
	Muốn người tin phục, buông lời dối gian 
	Nhận ḿnh đắc đạo thánh nhân 
	Rồi mang thủ đoạn bạo tàn phô trương 
	Khi cần mê hoặc người thường 
	Hầu mong hưởng lợi. Trăm phương khác ǵ 
	Kẻ gian manh kể trên kia 
	Giết con cho đúng “tiên tri”, đúng lời. 
	Kẻ này sẽ gặt tức thời 
	Tương lai quả báo tơi bời sầu bi! 
	  
	* 12 * 
	QUẠT NƯỚC ĐƯỜNG 
	  
	Thuở xưa có một anh kia 
	Nấu đường cát trắng chuyên nghề đă lâu 
	Một hôm đang bận, chợt đâu 
	Có ông khách nọ sang giàu đến thăm 
	Anh ngưng nấu, chạy lăng xăng 
	Hết ḷng o bế khách sang tới nhà, 
	Muốn mời khách uống nước trà 
	Anh đi lấy nước đổ ra cái nồi 
	Thêm đường một ít vào rồi 
	Bắc lên ḷ nấu, lửa thời chụm lên 
	Lửa to, nước nóng sôi liền 
	Sôi lên sùng sục. Anh bèn lo âu 
	Nước đường nóng, dễ uống đâu 
	E rằng khách quư chờ lâu bực ḿnh 
	Phải làm cho nước nguội nhanh 
	Anh bèn quạt nước ở quanh trong nồi 
	Quạt lâu, đường vẫn cứ sôi 
	V́ anh lính quưnh quên dời nồi đi 
	Nồi c̣n trên bếp lửa kia 
	Dưới c̣n lửa nóng đường th́ vẫn sôi. 
	Anh chàng quạt lẹ đă đời 
	Cho nên toát cả mồ hôi dầm dề. 
	Mọi người quanh đó cười chê: 
	“Phí công quạt măi không hề ích chi 
	Dưới nồi không tắt lửa đi 
	Quạt hoài nước chẳng dễ ǵ nguội cho!” 
	* 
	Truyện này tỉ dụ người tu 
	Tham, Sân, Si chẳng diệt trừ cho nhanh 
	Lửa phiền năo đó hoành hành 
	Làm sao giải thoát ngọn ngành khổ đau 
	Dù tu khổ hạnh dài lâu 
	Nằm giường gai góc có đâu ích ǵ 
	Hành thân, hành xác thảm thê 
	Uổng công, vô ích, dễ chi viên thành 
	Tương lai đau khổ quẩn quanh 
	Trôi lăn trong cơi tử sinh xoay ṿng. 
	  
	* 13 * 
	SỰ THẬT CHỨNG MINH 
	  
	Trong nhà một nhóm ngồi quanh 
	Phẩm b́nh đức hạnh một anh ở ngoài 
	Một người lên tiếng chê bai: 
	“Anh này mọi việc trên đời đều hay 
	Trừ hai điều đáng chê thay 
	Một là sân hận nổi ngay dễ dàng 
	Hai là lỗ măng vô vàn 
	Mỗi khi chạm việc liên quan đến ḿnh.” 
	Người này đang kể sự t́nh 
	Thời anh chàng đó th́nh ĺnh đi ngang 
	Bên tai nghe lọt rơ ràng 
	Đùng đùng nổi giận vội vàng ra tay 
	Nhảy chồm ngay vào nhà này 
	Túm người đang nói trong đây đánh liền 
	Miệng thời la hét cuồng điên: 
	“Ta nào sân hận, chớ nên nói càn 
	Ta nào lỗ măng hung tàn!” 
	Mọi người quanh đó can ngăn thốt lời: 
	“Hăy nh́n hành động của ngươi 
	Những ǵ hiện tại tức thời chứng minh 
	Hận sân, lỗ măng đầy ḿnh 
	Người ta b́nh phẩm quả t́nh chẳng sai.” 
	* 
	Trần gian tội lỗi lắm người 
	Suốt ngày trác táng, cả đời say sưa 
	Nào đâu tự nhận thói hư 
	Chẳng ưng chỉ trích, không ưa phê b́nh 
	Nghe chê, xấu hổ, bực ḿnh 
	Giận lên t́m cách gian manh trả thù 
	Khó mà tiến trên đường tu, 
	Dấn sâu cơi ác vốn từ xưa kia 
	Gánh vào hậu quả năo nề! 
	  
	* 14 * 
	GIẾT KẺ DẪN ĐƯỜNG 
	  
	Một đoàn đông toàn thương gia 
	Dự trù vượt biển đi xa buôn hàng 
	T́m đường sinh sống lang thang 
	Lộ tŕnh đoàn phải băng ngang cánh đồng 
	Đầy nguy hiểm, rộng mênh mông 
	Cả đoàn lúng túng, đường không biết rành 
	Bàn nhau mời kẻ giúp ḿnh 
	Đi theo chỉ lối, khởi hành luôn thôi.   
	Nửa đường vừa vượt qua rồi 
	Đoàn buôn bất chợt gặp ngôi miếu thần 
	Giữa đồng bát ngát vô ngần, 
	Chiếu theo tập quán của dân vùng này 
	Thời đoàn cần cúng miếu ngay 
	Một người phải giết tại đây tế thần 
	Mới mong đi thoát cả đoàn. 
	Thương gia xúm lại họp bàn riêng tư: 
	“Chúng ḿnh thân thích từ xưa 
	Đồng hương, bè bạn, rất ư lâu đời 
	Lạ thời chỉ có một người 
	Là người đưa lối, giết thời tiện thay 
	Để đem cúng tế miếu này.” 
	Bàn xong là họ ra tay tức th́ 
	Mang người đưa lối giết đi 
	Giết xong nghĩ chuyện cúng kia yên lành 
	Đoàn buôn tiếp tục lộ tŕnh 
	Tiếc rằng không có ai rành đường đi, 
	Giữa đồng hoang vắng bốn bề 
	Bơ vơ, lạc lơng, thảm thê, hăi hùng 
	Để rồi cả bọn cuối cùng 
	Thảy đều chết thảm trong vùng hiểm nguy. 
	* 
	Truyện này tỉ dụ mỗi khi 
	Muốn vào biển Phật Pháp kia kiếm t́m 
	Những châu báu quư lưu truyền 
	Pháp lành ta phải tu liền ngay thôi 
	Noi theo Giáo Pháp tuyệt vời 
	Đưa đường chỉ lối tới nơi an lành. 
	Nhiều người điên đảo tu hành 
	Pháp lành, Chân Lư chí t́nh bỏ qua 
	Quay cuồng trong cơi ta bà 
	Đường dài sinh tử khó ra được nào  
	Ch́m trong biển khổ dâng trào 
	Trôi xa bờ giác, lạc vào bến mê. 
	  
	* 15 * 
	MUỐN CON MAU LỚN 
	  
	Thuở xưa có một ông vua 
	Quư yêu công chúa mới vừa sinh ra 
	Nên vua mong muốn thiết tha 
	Con ḿnh mau lớn để mà ngắm trông 
	Vua bèn triệu đến hoàng cung 
	Lương y một vị tiếng lừng khắp nơi 
	Rồi vua thương lượng cùng người: 
	“Hiện ông có thuốc tuyệt vời ǵ không 
	Để cho công chúa uống xong 
	Tức th́ mau lớn ta mong nhờ người.” 
	Lương y từ tốn trả lời: 
	“Thuốc hay như vậy kiếm thời cũng ra 
	Nhưng mà phải đến phương xa 
	Có điều tôi muốn tŕnh qua cùng ngài 
	Tháng ngày t́m thuốc kéo dài 
	Thời công chúa phải ở ngoài chốn riêng 
	Ngài đừng thăm. Cần cữ kiêng. 
	Khi nào kiếm thuốc đă yên chuyện rồi 
	Và công chúa dùng xong xuôi 
	Tới thăm thuận tiện thời tôi thỉnh mời.” 
	Vua nghe, ưng thuận, y lời. 
	Lương y từ biệt thảnh thơi ra về 
	Lên đường đi kiếm thuốc kia 
	Mười hai năm chẵn tới kỳ trở lui 
	Kiếm ra được thuốc quư rồi 
	Đưa công chúa uống tức thời thuốc tiên 
	Xong đưa công chúa đi liền 
	Vào tŕnh diện đấng vua hiền trong cung. 
	Nhà vua rất đỗi vui mừng 
	Thấy công chúa đă vô cùng lớn khôn 
	Ngợi khen thầy thuốc kia luôn: 
	“Thầy tài, thầy giỏi không c̣n ai hơn, 
	Và công chúa được nhờ ơn 
	Thuốc hay, chóng lớn, vô vàn tốt tươi.” 
	Sau khi vua nói dứt lời 
	Sai quan ban thưởng cho người có công 
	Nhiều tài vật quư vô song. 
	Mọi người rơ chuyện cười ông vua này 
	Là người dại dột lắm thay 
	Tuổi con mà cũng không hay biết ǵ. 
	*  
	Người tu Đạo Phật từ bi 
	Hành tŕ cần phải rất chi chân t́nh 
	Tinh anh t́m hiểu tự ḿnh 
	Rằng: “Khi nước đến sẽ thành ra ao 
	Ḍng trong sẽ hiện trăng sao.” 
	Mới mong công đức trước sau vẹn toàn 
	Nếu không cố gắng chuyên cần 
	Không theo Phật Pháp vô ngần thâm sâu 
	Chỉ mong kết quả cho mau 
	Khó mà đạt được đạo mầu tối cao. 
	Kẻ ngu muội đáng cười sao! 
	  
	* 16 * 
	TƯỚI MÍA BẰNG NƯỚC MÍA 
	  
	Hai người trồng mía thi đua 
	Cùng so tài nghệ hơn thua một ngày 
	Xem ai giỏi, xem ai hay 
	Ai trồng mía tốt thưởng ngay, khen liền, 
	Ai trồng mía xấu thời phiền 
	Bị người kia phạt. Hai bên đồng ḷng. 
	Một anh tự nghĩ: “Mía ngon 
	V́ xưa nay ngọt, ai c̣n lạ chi 
	Muốn tăng thêm vị ngọt kia 
	Ḿnh dùng nước mía tưới th́ tốt cây.” 
	Nghĩ xong anh thực hiện ngay 
	Mang nhiều mía ép, nước đầy chảy ra 
	Rồi bưng nước mía đem qua 
	Tưới lên vườn mía anh ta mới trồng. 
	Chao ơi, hao tốn vô cùng 
	Mà rồi kết quả lại không được ǵ 
	Cả vườn mía mới trồng kia 
	Đều hư hoại hết. Ngu si! Đáng cười! 
	* 
	Truyện này tỉ dụ ở đời  
	Khi tu Phật Pháp lắm người kỳ khôi 
	Không theo đường chính sẵn rồi 
	Giở tṛ gian dối, lôi thôi, khác thường 
	Đui mù tu luyện sai đường 
	Ỷ quyền, ỷ thế giàu sang của ḿnh 
	Cướp ngang tài sản dân lành 
	Đem làm phước thiện mong thành công ngay 
	Quả lành mong sẽ tới tay 
	Ngờ đâu kết quả đắng cay vô vàn  
	Hao tinh thần, phí thời gian 
	Nhọc công vô ích, đạo vàng thấy đâu 
	Tương lai tai họa thảm sầu 
	Giống người tưới mía trước sau khác ǵ! 
	  
	* 17 * 
	V̀ NHỎ MẤT LỚN 
	  
	Có chàng cho mượn năm đồng 
	Đă lâu con nợ cũng không trả tiền 
	Chàng bèn t́m đến đ̣i liền 
	Qua nhà con nợ ở bên kia làng 
	Có ḍng sông rộng chắn ngang 
	Phải đi đ̣ khiến anh chàng tốn hao 
	Ba đồng một lượt, ít sao! 
	Tới nơi người mượn nợ nào có đây 
	Vắng xa nhà đă mấy ngày 
	Thế là chàng lại phải quay đầu về 
	Trả ba đồng, giống lượt đi 
	Tiền đ̣ qua lại vị chi sáu đồng 
	Tính ra quả thật nhọc công 
	Lại thêm tổn thất mà không được ǵ. 
	* 
	Ở đời thấy có nhiều khi 
	V́ tranh chút lợi rất chi tầm thường 
	Chúng sinh hành động lầm đường 
	Thanh danh bại hoại thảm thương theo liền 
	Gặt về kết quả muộn phiền 
	Và rồi chút lợi cũng bền được đâu, 
	Đời này tiếng xấu ngập đầu 
	Đời sau quả báo đớn đau dữ dằn. 
	  
	* 18 * 
	TRÊN LẦU MÀI DAO 
	  
	Có chàng nọ thuở xa xưa 
	Từ lâu phục dịch cho vua của ḿnh 
	Quả là khổ sở thật t́nh 
	Tâm tư mỏi mệt, thân h́nh tang thương 
	Nhà vua bèn thưởng cho chàng 
	Lạc đà vừa chết để mang về nhà. 
	Món quà vua quư ban ra 
	Chàng mang về tính lột da tức th́ 
	Tiếc thay dao lụt quá đi 
	Lưỡi kia không sắc dễ chi đứt nào. 
	Chàng đi t́m đá mài dao 
	Thấy viên đá ở lầu cao trên cùng 
	Chàng leo lên mài dao xong 
	Quay lui trở xuống đem dùng dao kia 
	Lột da. Dao lại lụt đi 
	Mới dùng chốc lát có ǵ dài lâu 
	Thế là chàng lại leo lầu 
	Đem dao mài nữa rồi mau xuống liền 
	Lột da. Dao lụt. Lại lên 
	Xuống lên nhiều lượt cho nên mệt người 
	Chàng bèn nảy ư lạ đời: 
	“Lạc đà ta vác lên nơi tầng lầu 
	Vừa lột da vừa mài dao 
	Thật là thuận tiện. Ai nào khôn hơn!” 
	Nghĩ xong chàng thực hiện luôn 
	Cho là ḿnh quả vô ngần thông minh. 
	Xa gần lên tiếng phẩm b́nh: 
	“Rất chi ngu xuẩn, thật t́nh dở hơi!” 
	* 
	Truyện này tỉ dụ ở đời 
	Bao nhiêu giới cấm lắm người không theo 
	Rồi vung tiền của thật nhiều 
	Để đem bố thí mong gieo phước lành 
	Mong sao cho bản thân ḿnh 
	Sau này sẽ được tái sinh cơi Trời 
	Giống người đần độn trên thôi 
	Nào đâu kết quả! Nực cười lắm thay! 
	  
	* 19 * 
	GHI DẤU TRÊN THUYỀN 
	  
	Một chàng vượt biển đi xa 
	Thuyền qua ngọn sóng bất ngờ đánh rơi 
	Chén bằng bạc quư sáng ngời 
	Chén rơi xuống biển và rồi ch́m sâu 
	Chàng bèn làm dấu thật mau 
	Hông thuyền ghi lại để sau dễ t́m 
	Rồi chàng tiếp tục chèo thuyền 
	Trong tâm tự nghĩ: “Nào quên dễ ǵ 
	Chỗ chén rơi đă khắc ghi 
	Ngang hông thuyền đó kiếm th́ khó chi.” 
	Thời gian hai tháng trôi đi 
	Thuyền chàng đến địa phương kia xa vời 
	Ngay trên sông, ở ngoài khơi 
	Anh chàng bỗng nhớ chén rơi, muốn t́m 
	Bèn theo dấu tại mạn thuyền 
	Định tâm sẽ nhảy xuống miền nước sâu. 
	Có người nh́n thấy hỏi mau: 
	“Anh làm ǵ lại lặn vào biển khơi?” 
	Chàng ung dung khẽ đáp lời: 
	“Tôi t́m chén bạc đánh rơi ngày nào.” 
	Người kia hỏi: “Rơi tại đâu?” 
	Anh chàng: “Rơi tại biển sâu mới rồi 
	Cách đây hai tháng mà thôi 
	Và tôi cẩn thận ghi nơi hông thuyền 
	Chỗ chén rơi để khỏi quên 
	Ngày nay theo dấu nhảy t́m khó chi.” 
	Mọi người nghe vậy cười chê: 
	“Nước sông nước biển có ǵ khác đâu 
	Nhưng nơi chốn thời khác nhau 
	Ngàn trùng cách biệt trước sau xa vời 
	Rơi một đằng, lặn một nơi 
	Làm sao t́m được chén rơi của ḿnh.” 
	* 
	Truyện này nhắc nhở chúng sinh: 
	“Có người ngoại đạo tu hành buông lơi 
	Không theo chính hạnh tuyệt vời, 
	Tu theo khổ hạnh, công thời tiêu tan 
	Vừa vô ích, vừa lầm than 
	Một ly sai biệt dậm ngàn mất đi, 
	Ta cần sáng suốt kể chi 
	Phải theo đúng Chánh Pháp khi tu hành!” 
	  
	* 20 * 
	TRẢ THỊT 
	  
	Nước kia có một ông vua 
	Nghe lời đồn đăi khó ưa về ḿnh 
	Ngoài đời có kẻ phê b́nh 
	Rằng ḿnh bạo ngược, tính t́nh tàn hung 
	C̣n về chính trị chẳng thông, 
	Vua nghe tức bực trong ḷng lắm thay 
	Vua bèn hạ lệnh ra ngay: 
	“Bắt cho kỳ được tên này về cung 
	Tên này phạm thượng vô cùng.” 
	Tuy nhiên mật thám truy lùng không ra 
	Biết ai mà bắt bây giờ 
	Nịnh thần có kẻ bất ngờ tŕnh tâu, 
	Vua nghe ra lệnh tóm đầu 
	Một viên quan nọ có đâu tội t́nh 
	Rồi lên án chịu cực h́nh 
	Lóc trăm lạng thịt trên ḿnh quan kia 
	Sau xương sống, thật thảm thê 
	Gọi là trừng phạt tội “khi quân” này. 
	Thế rồi sau một ít ngày 
	Có người minh chứng vua hay rơ ràng 
	Vị quan đó bị hàm oan 
	Dám đâu nói xấu cung vàng khi nao. 
	Nhà vua hối hận biết bao 
	Oan người vô tội lẽ nào để yên 
	Phải đền bù cho người hiền 
	Đền bù tổn thất lại liền một khi 
	Vua bèn ra lệnh lạ kỳ 
	Dùng ngàn lạng thịt tức th́ đắp lên 
	Ngay xương sống, trả lại liền 
	Nghĩ bù đắp vậy là yên mọi bề. 
	Vị quan được trả thịt về 
	Vẫn c̣n đau đớn năo nề khóc than 
	Cứ rên rỉ suốt canh tàn 
	Nhà vua nghe được chẳng cần xét suy 
	Đến nơi vặn hỏi quan kia: 
	“Ngươi c̣n khóc lóc làm chi nữa mà 
	Thịt ngươi ta chỉ lấy ra 
	Có trăm lạng thịt. Nay ta đền bồi 
	Một ngàn lạng thịt đủ rồi 
	Cớ sao ngươi vẫn c̣n ngồi than thân?” 
	Nạn nhân mệt mỏi vô ngần 
	Không c̣n sức lực, chịu thầm đớn đau, 
	Người chung quanh vội tŕnh tâu: 
	“Nếu ai mà có chặt đầu đại vương 
	Rồi sau họ lại bồi thường 
	Một ngàn đầu khác cũng không ích ǵ 
	Làm sao dính lại đầu kia!” 
	Vua nghe nói vậy, lầm ĺ, lặng thinh. 
	* 
	Kẻ ngu trong đám chúng sinh 
	Tham vui hiện tại thoả t́nh không thôi 
	Sợ đâu hậu quả tương lai, 
	Họ gây khổ năo cho người chung quanh 
	Góp gom tiền của về ḿnh 
	Rồi đem làm phúc, quả lành cầu mong 
	Mong bao tội lỗi diệt xong, 
	Nghĩ suy như vậy là không đúng rồi. 
	Truyện nhà vua lóc thịt người 
	Khuyên đừng cẩu thả buông lơi việc ǵ 
	Bạo tàn, lỗ măng ích chi 
	Kẻo khi lầm lỡ khó bề sửa sai! 
	  
	Tiếp Tục   
	Trang 1     Trang 2     Trang 3
  
	  
	
   |