* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

LUẬN CÂU-XÁ
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân
Hán dịch Huyền Trang

Việt dịch: Đạo Sinh

--o0o--

Chương. 3b : Phân biệt giới

Phần 10

Phần trước đă giải thích xong thế giới hữu t́nh; phần này sẽ giải thích về thế giới hội tập (khí thế gian, bhājanaloka). 

安立器世間  風輪最居下

其量廣無數  厚十六洛叉

次上水輪深  十一億二萬

下八洛叉水  餘凝結成金

此水金輪廣  徑十二洛叉

三千四百半  周圍此三倍.

[Thành lập khí thế gian: 

Phong luân ở dưới cùng,

Bề rộng không đo được, 

Bề cao mười sáu ức. 

Bề trên là thủy luân.

Cao mười một ức hai vạn;

Phần nước ở dưới sâu tám ức,

Phần c̣n lại ngưng kết thành vàng.

Thủy luân và kim luân

Có đường kính mười hai ức

Ba ngàn bốn trăm năm mươi;

Chu vi gấp ba lần.]

Luận: Người ta cho rằng tam thiên đại thiên thế giới đă được lập thành như thế và có h́nh dạng kích cỡ không giống nhau. Trước tiên do nghiệp lực tăng thượng của chúng sinh mà phong luân đă nương vào hư không để sinh khởi ở tầng thấp nhất. Bề dày của phong luân là mười sáu trăm ngàn (lạc-xoa, lakṣa), tức một triệu sáu trăm ngàn Du-thiện-na (yojanas); bề rộng của nó không thể đo lường được. Thể của nó thuộc chất rắn. Giả sử như có một đại Nặc-kiện-na (mahānagna) dùng kim cương ném vào nó th́ kim cương sẽ bị vỡ tan mà phong luân vẫn không tổn hoại ǵ. Cũng chính v́ nghiệp lực tăng thượng của hữu t́nh mà từng khối tuyết và một trận mưa với những hạt lớn như gọng xe đă rơi xuống bề mặt của phong luân. Lượng nước này tạo thành thủy luân sâu một triệu một trăm hai mươi ngàn yojanas.

(Hỏi) Tại sao lượng nước này không bị tràn ra ngoài?

(Đáp) Có luận sư nói răng nước đă được giữ lại nhờ có nghiệp lực của chúng sinh; cũng giống như các thứ ăn uống không chảy ngay xuống ruột (pakvāśaya) trước khi được tiêu hóa. Có luận sư khác cho rằng nước được giữ lại nhờ gió, cũng giống như lúa ở trong giỏ (kusūlanyāyena, koṣṭhanyāyena).

Sau đó, v́ được tác động bởi một loại gió do nghiệp kích khởi nên phần trên của nước kết tinh thành vàng, cũng giống như sữa khi được đun nóng đă đặc lại thành kem. Do đó thủy luân chỉ c̣n cao tám trăm ngàn yojanas. Phần đất bằng vàng (kāñcabamayī bhūmi) ở trên dày ba trăm hai mươi ngàn yojanas.

Thủy luân và kim luân có bề rộng bằng nhau, đường kính dài một triệu hai trăm lẻ ba ngàn bốn trăm năm mươi yojanas; và chu vi rộng gấp ba lần số này, tức ba triệu sáu trăm mười ngàn ba trăm năm mươi yojanas.  

蘇迷盧處中  次踰健達羅

伊沙馱羅山  朅地洛迦山

蘇達梨舍那  頞濕縛羯拏

毘那怛迦山  尼民達羅山

於大洲等外  有鐵輪圍山

前七金所成  蘇迷盧四寶

入水皆八萬  妙高出亦然

餘八半半下  廣皆等高量

[Trong đó các núi Meru,

Yugandhara,

Īṣādhara,

Khadikara,

Sudarśaṇa,

Aśavakarṇa,

Vinataka,

Nimindhara;

Bên ngoài các đại châu

Có núi Cakravāda.

Núi Meru có bốn mặt bằng châu báu.

Phần nằm dưới nước của ngọn núi là tám vạn,

Phần nổi của núi Meru cũng chừng đó.

Tám dăy kia cứ thấp dần một nửa;

Và có chiều rộng giống như chiều cao.]

Luận: Ở kim luân có chín ngọn núi lớn. Ở giữa là núi Meru (Tô-mê-lư = Diệu cao), vây quanh là bảy ngọn núi khác đồng tâm với núi Meru; dăy Nimindhara (Ni-dân-đạt-la) tạo thành một ṿng bánh xe bao bọc núi Meru và sáu ngọn núi ở bên trong, và v́ thế mới có tên như vậy. Bên ngoài dăy Nimindhara là các đại châu. Bao bọc tất cả các dăy núi và đại châu này là dăy Cakravāda (Thiết luân vi); sở dĩ có tên như vậy là v́ nó vây quanh các đại châu và tạo cho thế giới h́nh dạng của một bánh xe. Dăy Yugandhara (Du-kiện-đạt-la = Tŕ song) và sáu dăy bao quanh nó đều bằng vàng; dăy Cakravāda bằng sắt. Mặt phía bắc của ngọn Meru bằng vàng, phía đông bằng bạc, phía nam bằng lưu ly, phía tây bằng pha lê; v́ thế khoảng không gian đối xứng với các mặt đều có màu sắc riêng tùy theo thành phần cấu tạo riêng của bốn mặt núi. Mặt trước của ngọn Meru hướng về châu Jambudvīpa (Thiện bộ châu) và được ngọn lưu ly cấu thành cho nên khi nh́n lên trời chúng ta thấy có màu sắc của ngọc lưu ly.

(Hỏi) Do đâu mà có các chất cấu tạo khác nhau của núi Meru?

(Đáp) Lượng nước rơi xuống Kim luân có nhiều tiềm lực khác nhau (chủng chủng uy đức); dưới ảnh hưởng của những loại gió có nhiều hiệu năng khác nhau, lượng nước này đă biến dạng và chuyển thành các chất báu. Chính v́ sự biến dạng như thế nên nước là nhân mà các thứ châu báu là quả của nhân này chứ không phải là một hành động xảy ra cùng thời; và hoàn toàn khác với chủ trương chuyển biến (pariṇāma) của Số luận (Sāṃakhyas).

(Hỏi) Chủ trương chuyển biến của Số luận là ǵ?

(Đáp) Số luận chủ trương ở trong một hữu pháp thường tồn (dharmin, dravya) có các pháp sinh khởi và biến mất. Tại sao chủ trương như thế là phi lư? - Bởi v́ không thể thừa nhận một mặt là hữu pháp trường tồn, một mặt lại là các pháp sinh diệt. Tuy nhiên Số luận không cho rằng có một hữu pháp nằm ngoài các pháp; họ nói rằng một pháp khi chuyển biến sẽ trở thành sở y của các tính chất khác nhau v́ thế pháp này mới có tên là hữu pháp; nói cách khác, sự chuyển biến này (pariṇāma) chỉ là sự biến dạng của hữu pháp (dravya). Nhưng nói như vậy th́ không thể nào chấp nhận được; bởi v́ ở đây có sự mâu thuẫn về cách dùng từ: Họ thừa nhận cái kia (nhân) là cái này (quả) nhưng lại nói rằng cái này không giống như cái kia.

Vàng, bạc, các chất báu và đất được cấu tạo như vậy đă kết tụ lại nhờ các thứ gió do nghiệp lực tạo ra; và chúng đă tạo thành núi cũng như các đại châu.

Như vậy tất cả các ngọn núi ở Kim luân đều có phần dưới nằm ch́m dưới nước tám mươi ngàn yojanas. Phần trồi lên của núi Meru cũng cao bằng số đó; như vậy toàn bộ núi Meru cao một trăm sáu mươi ngàn yojanas. Phần trồi lên của núi Yugandhara là bốn mươi ngàn yojanas; của núi Īṣādhara là hai mươi ngàn và tiếp tục như vậy cho đến núi Cakravāda là ba trăm mười hai phẩy năm yojanas. Càng nổi cao trên mặt nước bao nhiêu th́ chúng càng rộng lớn bấy nhiêu. [Từ ghana ở trong tụng văn có nghĩa là rộng lớn.]    

山間有八海  前七名為內

最初廣八萬  四邊各三倍

餘六半半陜  第八名為外

三洛叉二萬  二千踰繕那.

[Giữa các dăy núi có tám biển

Bảy biển đầu gọi là “bên trong”

Biển thứ nhất rộng tám vạn,

Ở ngoại vi rộng gấp ba lần;

Sáu biển c̣n lại cứ hẹp dần một nửa

Biển thứ tám gọi là “bên ngoài”

Rộng ba ức hai vạn

Hai ngàn du thiện na.]

Luận: Nằm giữa các dăy núi, từ Meru cho đến Nimindhara, có bảy biển chứa đầy loại nước có tám tính chất (bát công đức thủy): Ngọt, mát, ngon, nhẹ, trong, không có mùi hôi, không khao cổ, không đau bụng.

Biển thứ nhất, nằm giữa núi Meru và Yugandhara, rộng tám mươi ngàn yojanas; ở vùng ngoại biên, tức tiếp giáp với núi Yugandhara, lại rộng gấp ba lần, tức là hai trăm bốn mươi ngàn yojanas.

Bề rộng của các biển c̣n lại cứ giảm dần một nửa. Biển thứ nh́, nằm giữa núi Yugandhara và Īṣādhara, rộng bốn mươi ngàn yojanas và cứ như vậy cho đến biển thứ bảy nằm giữa núi Vinataka và Nimidhara, rộng một ngàn hai trăm năm mươi yojanas. Ở đây không tinh đến vùng ngoại biên v́ quá phiền phức. Bảy biển này là các biển bên trong. Biển c̣n lại, nằm giữa núi Nimidhara và Cakravāda, được gọi là biển lớn bên ngoài. Biển này toàn nước mặn và rộng ba trăm hai hai ngàn yojanas.  

於中大洲相  南贍部如車

三邊各二千  南邊有三半

東毘提訶洲  其相如半月

三邊如贍部  東邊三百半

西瞿陀尼洲  其相圓無缺

徑二千五百  周圍此三倍

北俱盧畟方  面各二千等

中洲復有八  四洲邊各二.

[Trong đó có các đại châu:

Jambudvīpa giống như chiếc xe,

Ba mặt rộng hai ngàn,

mặt nam rộng ba phẩy năm

Pūrvavideha

Có h́nh bán nguyệt,

Ba mặt rộng như Jambudvīpa,

Mặt đông rộng ba trăm năm mươi;

Godānīya có h́nh tṛn,

Đường kính hai ngàn năm trăm,

Chu vi gấp ba lần;

Uttarakuru h́nh vuông,

Mỗi mặt đều rộng hai ngàn yojanas.

Lại có tám châu ở giữa;

mỗi hai châu nằm kề bốn châu trên.]

Luận: Nằm ở biển ngoài, đối xứng với bốn mặt của núi Meru, là bốn đại châu (dvīpas): (1) Jambudvīpa (Nam thiệm bộ châu) có ba mặt đều rộng hai ngàn yojanas và một mặt rộng ba phẩy năm yojanas v́ thế có h́nh như chiếc xe. Ở giữa có ṭa kim cang nằm trên kim luân, là nơi Bồ-tát tọa khởi Kim cang dụ định để trở thành a-la-hán và phật; bởi v́ không có chỗ nào khác, không có người nào khác đủ năng lực tŕ giữ loại định này của Bồ-tát.

(2) Pūrvavideha (Đông thắng thân châu) Có h́nh bán nguyệt; ba mặt rộng hai ngàn yojanas, giống như kích cỡ của Nam thiệm bộ châu; mặt c̣n lại rộng ba trăm năm mươi yojanas.

(3) Godānīya (Tây ngưu hóa châu), hướng về mặt phía đông của ngọn Meru, có h́nh tṛn như mặt trăng; chu vi rộng bảy ngàn năm trăm yojanas, đường kính dài hai ngàn năm trăm yojanas.

(4) Uttarakuru (Bắc câu lư châu), đối diện mặt phía bắc của ngọn Meru, có h́nh vuông giống như chỗ ngồi; mỗi mặt đều rộng hai ngàn yojanas tạo thành một chu vi dài tám ngàn yojanas. Khi nói “đẳng” (đều) là chỉ cho bốn mặt của châu này đều như nhau.

H́nh dạng của các đại châu như thế nào th́ khuôn mặt của chúng sinh cư ngụ ở đó cũng giống như vậy.

Ngoài ra c̣n có thêm tám châu lục có kích cỡ trung b́nh (trung châu). Các châu này mang tên của các chúng sinh cư ngụ ở đó. Hai châu Cāmaras (Già-mặt-la) và Avaracāmaras (Phiệt-la-già-mặt-la) nằm cạnh Jambudvīpa; Dehas (đề-ha) và Videhas (Tỳ-đề-ha) nằm cạnh Pūrvavideha; Śāṭahas (Xá-suy) và Uttarakuru (Ôt-đát-la-mạn-đốt-lư-nổ) nằm cạnh Godānīya; Kurus (cự-lạp-bà) và Kauravas (kiêu-thập-bà) nằm cạnh Uttarakuru.

Tất cả các châu này đều là nơi cư ngụ của loài người. Tuy nhiên có thuyết nói rằng một trong số các châu này (tức, Cāmara) là nơi ở của loài La-sát-bà (Rākṣasas).

此北九黑山  雪香醉山內

無熱池縱廣  五十踰繕那.

[Phía bắc chín ngọn hắc sơn 

Là Hương túy sơn, ở đó có

Hồ Vô nhiệt, rộng

Năm mươi yojanas.]

Luận: Ở châu Jambudvīpa, khi đi về phía bắ sẽ gặp ba ngọn núi Kiến, [sở dĩ có tên như vậy v́ chúng có h́nh giống như con kiến] (Hắc sơn); tiếp theo là ba ngọn núi Kiến khác; rồi đến ba ngọn núi Kiến khác nữa; và cuối cùng là ngọn Đại tuyết sơn (Himavat).

Xa hơn nữa về phía bắc là ngọn Hương túy sơn (Gandhamādana), có hồ Vô nhiệt năo (Anavatapta) là nơi phát xuất bốn con sông lớn: Sông Gangā (Khắc-già), sông Sindhu (Tín-độ), sông Sītā (Đồ-đa), sông Vakṣu (Phược-sô).

Hồ này rộng và sâu năm mươi yojanas, chứa đầy nước có tám tính chất (giống như đă nói ở trên). Chỉ những người có thần thông mới đến được nơi này. Cành hồ là cây Jambu (Thiệm bộ lâm thọ). Đại châu của chúng ta mang tên Jambudvīpa chính là lấy tên của cây hoặc quả của loại cây này.

(Hỏi) Địa ngục nằm ở đâu? Có kích cỡ như thế nào?

Tụng đáp:  

此下過二萬  無間深廣同

上七奈落迦  八增皆十六

謂煻煨屍糞  鋒刃烈河增

各住彼四方  餘八寒地獄.

[Biên giới châu này hai vạn (du-thiện-na)

Là địa ngục Vô gián, sâu và rộng bằng nhau;

Bên trên là bảy địa ngục khác.

Tám địa ngục này đều có mười sáu điểm “gia tăng”

Là tro nóng, phân bùn, 

Dao nhọn, sông sôi

ở cả bốn mặt.

số c̣n lại là tám địa ngục cực lạnh.]  

Luận: Cách hai mươi ngàn yojanas bên dưới châu Jambudvīpa là đại địa ngục Vô gián (A-tỳ-chỉ-đại-nại-lạc-ca, Avīci). Địa ngục này đều có chiều cao và chiều rộng là hai mươi ngàn yojanas; như vậy đáy của nó cách bề mặt của châu Jambudvīpa là bốn mươi ngàn yojanas.

(Hỏi) Tại sao địa ngục này có tên là vô gián?

(Đáp) Có hai giải thích: (1) Ở địa ngục này không có sự gián đoạn (vīci) của khổ; trong khi ở các địa ngục khác, khổ có thể bị gián đoạn. Như ở địa ngục Đẳng hoạt (Saṃjīva), thân thể chúng sinh tuy bị làm cho nát tan thành bụi nhưng sau đó khi gặp luồng gió lạnh thổi tới th́ lại hồi sinh, từ đó mới có tên là Đẳng hoạt. (2) Ở địa ngục này không hề có lạc thọ làm gián đoạn khổ. Ở các địa ngục khác tuy không có lạc thọ thuộc dị thục sinh nhưng người ta cho rằng vẫn có loại lạc thọ đẳng lưu.

Phía trên địa ngục vô gián là bảy địa ngục khác chồng chất lên nhau. Tính từ dưới lên là địa ngục Cực nhiệt (Pratāpana), Viêm nhiệt (Tapana), Đại khiếu (Mahāraurava), Hào khiếu (Raurava), Chúng hợp (Saṃghāta), Hắc thằng (Kālasūtra), và Đẳng hoạt. Có thuyết cho rằng bảy địa ngục này nằm ngang với địa ngục Vô gián.

Mỗi một trong tám địa ngục đều có mười sáu loại “gia tăng” (utsadas). Điều này xuất phát từ một lời dạy của Thế tôn: “Tám loại địa ngục mà ta đă tŕnh bày th́ rất khó ra khỏi, chứa đầy các chúng sinh làm ác, và mỗi loại đều có mười sáu thứ “gia tăng”; chúng có bốn bức tường; bốn cửa ra vào; chúng có bề rộng cũng giống như bề dài; chúng có các bức tường sắt bao quanh; nền của chúng cũng bằng sắt; đất cũng bằng sắt cháy sáng; ngập đầy lửa ngọn dài đến hàng trăm yojanas.” (Dīgha, 19, 19; Ekottara, 36, 4; Saṃyukta, 47, 4).

(Hỏi) Mười sáu loại “gia tăng” là ǵ?

(Đáp) Ở mỗi cửa ra vào của các địa ngục này đều có: 

(1)                                 Một ḷ tro nóng (đường ổi, kukūla) sâu đến đầu gối. Khi chúng sinh đặt chân vào đó th́ da, thịt và máu đều bị cháy tiêu; cho đến khi nào thoát ra mới được phục hồi như cũ.

(2)                                 Một đống phân bùn (thỉ phẩn, kuṇapa) trong đó có một loại trùng nước tên là “Mơm nhọn”, thân trắng đầu đen, khi có chúng sinh nào sa vào đó th́ chúng đâm vào thấu xương.

(3)                                 Một con đường lớn cắm đầy lưỡi dao nhọn (đao nhẫn lộ, kṣuramārga, kṣuradhrārāmārga); khi bước vào đó, chúng sinh đều bị chảy máu, da thịt tan nát.

Một khu rừng có lá như cây kiếm (kiếm diệp lâm, asipattravana); những ngọn lá kiếm này khi rơi xuống sẽ cắt đứt tay chân của những người bị đọa vào đó; và sau đó sẽ có loài chó Śyāmaśabalas (Ô-bác cẩu) tranh nhau ăn hết số tay chân này.

Một khu rừng gai (thiết thích lâm, ayaḥaśalmalīvana), trong đó gai nhọn mọc dài đến mười sáu ngón tay; khi chúng sinh leo lên cây th́ gai sẽ quay mũi nhọn xuống; khi chúng sinh rơi từ trên xuống th́ gai lại quay mũi nhọn lên. Ngoài ra c̣n có một loại chim mỏ sắt (ayastuṇḍa) tranh nhau mổ mắt chúng sinh bị đọa vào đó.

Ba nơi khốn khổ này cùng tạo thành một loại “gia tăng” bởi v́ chúng có chung một loại h́nh phạt gây ra thương tích.

(4)                                 Một con sông nước sôi (liệt hà, vaitaraṇī) có tro nóng đun cháy. Hai bên bờ có người (puruṣa) (ngục tốt, narakapāla) cầm kiếm, giáo và lao để đẩy lui những chúng sinh nào muốn ra khỏi ḍng sông này. Ở trong ḍng sông, dù chúng sinh có lặn xuống nước hoặc trồi người lên, bơi ngược hay bơi xuôi theo ḍng nước, bơi ngang hay vùng vẫy, cũng đều bị nước sôi đun chín; giống như những hạt mè, hạt lúa được trút vào trong một cái chảo lớn đặt trên lửa.

Ḍng sông này chảy quanh đại địa ngục giống như một cái hào sâu.

Bốn thứ “gia tăng” này tạo thành mười sáu loại do sự khác nhau ở các nơi; bởi v́ ở bốn cửa ra vào của đại địa ngục đều có bốn loại “gia tăng” này.

(Hỏi) Tại sao gọi là “gia tăng” (utsada)?

Nói “gia tăng” là để chỉ cho những nơi làm tăng thêm sự khổ sở. Ở bên trong địa ngục tất cả chúng sinh vốn đă phải chịu nhiều cực h́nh, nhưng c̣n phải chịu nhiều cực h́nh hơn nữa ở những nơi được gọi là “gia tăng” này. Có thuyết (Manoratha) cho rằng sau khi bị giam giữ trong địa ngục th́ chúng sinh lại phải rơi vào những nơi này để chịu khổ thêm nữa nên gọi là “gia tăng”.

Từ vấn đề này lại nảy sinh một vấn đề khác:

(Hỏi) Ở trên có nói đến các “ngục tốt” canh giữ hai bên bờ sông Liệt hà. Vậy th́ các “ngục tốt” này có phải là chúng sinh hữu t́nh không?

(Đáp) Không phải chúng sinh hữu t́nh.

(Hỏi) Nếu vậy tại sao cử động được?

(Đáp) Là do nghiệp lực của chúng sinh, cũng giống như loại gió tạo ra khí thế gian (kiếp phong).

(Hỏi) Nếu vậy, làm thế nào để giải thích lời nói sau đây của đại đức Pháp thiện hiện (Dhārmika Subhūti): “Những người tâm hoài phẩn hận thích gây ra nghiệp ác và tội lỗi, vui mừng trước đau khổ của người khác, sẽ tái sinh làm ngục tốt cho Diệm vương (Diệm ma tốt Yamarākṣasas)”?

(Đáp) Những chúng sinh này có tên là Diễm ma tốt bởi v́ đều là thuộc hạ của Diệm vương có nhiệm vụ ném chúng sinh bị đọa địa ngục theo lệnh của Diệm vương chứ không có nghĩa là những “người canh gác địa ngục” có nhiệm vụ tra tấn các chúng sinh bị đọa vào đó.

Tuy nhiên có thuyết lại cho rằng ngục tốt là chúng sinh hữu t́nh.

(Hỏi) Nếu vậy các ác nghiệp mà ngục tốt đă tạo sẽ chiêu cảm quả dị thục ở chỗ nào?

(Đáp) Chính ở địa ngục. Bởi v́ quả dị thục của các tội vô gián đều khởi ở địa ngục, vậy th́ tại sao dị thục của ngục tốt lại không thể khởi ở đó?

(Hỏi) Nhưng tại sao ngục tốt ở ngay trong lửa mà không bị thiêu cháy?

(Đáp) Bởi v́ nghiệp lực dẫn khởi sự tái sinh trong lửa và ngăn không cho lửa chạm vào các ngục tốt này; hoặc v́ chính loại nghiệp lực này khiến cho thân của ngục tốt được các đại chủng dị loại tạo thành.

Trên đây là tám loại địa ngục cực nóng. Ngoài ra lại có tám địa ngục khác cực lạnh là Ách-bộ-đà (arbuda), Ni-thích-bộ-đà (nirarbuda), Ách-tích-tra (aṭaṭa), Hốc-hốc-bà (hahava), Hỗ-hỗ-bà (huhuva), Ốt-bát-la (utpala), Bát-đặc-ma (padma), Ma-ha-bát-đặc-ma (mahāpadma). Trong số các địa ngục này có địa ngục được đặt tên dựa theo h́nh trạng của chúng sinh bị đọa vào đó; tức những chúng sinh có h́nh dạng giống như một arbuda, một bông sen, v.v.; có địa ngục được đặt tên theo tiếng kêu rên của chúng sinh bị thống khổ v́ lạnh như Ách-tích-tra.

Các địa ngục này đều nằm dưới châu Jambudvīpa và ngang với các địa ngục lớn.

(Hỏi) Làm thế nào chỉ ở dưới một châu Jambudvīpa này lại có đủ chỗ các địa ngục có kích cỡ lớn hơn cả châu này?

(Đáp) Các đại lục đều có h́nh giống như đống lúa, càng hướng về phía đáy bao nhiêu càng rộng lớn bấy nhiêu. Đại dương cũng không xuyên thẳng quanh các châu lục được. (Vibhāṣā, 172, 7; Cullavagga, 9, 1.3).

Mười sáu địa ngục này đều do nghiệp lực của chúng sinh tạo thành; có các địa ngục khác như Cô địa ngục (prādeśika) lại do nghiệp lực của một người, hai người hoặc nhiều người tạo thành. Chúng có rất nhiều loại và không có chỗ nhất định: Có thể ở sông, núi, sa mạc, v.v..

Địa điểm chính (bổn xứ) của các địa ngục đều nằm ở phía dưới. Đối với bàng sinh th́ có ba chỗ là đất, nước và trên không; chỗ chính của chúng là ở đại dương và những con nào đến sau th́ đi đến những chỗ khác.

Vua của loại quỷ có tên là Diệm ma (Yama); chỗ ở của Diễm ma vương, và dây cũng là chỗ chính của loài quỷ, nằm ở độ sâu năm trăm yojanas bên dưới châu Jambudvīpa, và có chiều sâu và rộng cũng giống như vậy. Loài quỷ ở các nơi khác chính là số thặng dư của quỷ ở nơi này và chúng rất khác nhau. Có loại cũng có thần thông và oai đức giống như chúng thiên. Kinh có nói rất rơ về các điểm khác nhau của loài này.

(Hỏi) Mặt trời và mặt trăng có kích cỡ, v.v., như thế nào?

Tụng đáp:  

日月迷盧半  五十一五十

夜半日沒中  日出四洲等

雨際第二月  後九夜漸增

寒第四亦然  夜減晝翻此

晝夜增臘縛  行南北路時

近日自影覆  故見月輪缺.

[Mặt trời, mặt trăng cao bằng nửa núi Meru

(Rộng) năm mươi mốt, năm mươi yojanas

Nửa đêm ở châu này là lúc mặt trời lặn

Hoặc mọc (ở chỗ kia) ;

Cả bốn châu đều như vậy

Từ ngày thứ chín thuộc nửa sau

Của tháng mưa thứ hai, ban đêm dài dần;

Cũng từ ngày đó của tháng lạnh thứ tư

Ban đêm ngắn dần, ban ngày ngược lại với ban đêm.

Ngày và đêm đều tăng một lạp phược

Khi mặt trời di chuyển về phía nam hoặc bắc.

Khi gần mặt trời th́ bị bóng che nên thấy mặt trăng khuyết.]  

Luận: Mặt trời và mặt trăng dựa vào gió. V́ nghiệp lực chung của chúng sinh mà có gió sinh khởi để tạo ra (nirmā) giữa không trung (antarikṣe) mặt trăng, mặt trời và các ngôi sao. Tất cả các thiên thể này đều quay quanh núi Meru giống như bị cuốn theo một ḍng nước xoáy.

(Hỏi) Mặt trời và mặt trăng cách đây bao xa?

(Đáp) Bằng một nửa chiều cao của núi Meru và chuyển dịch ngang tầm với đỉnh núi Yugaṃdhara.

(Hỏi) Chúng có kích cỡ như thế nào?

(Đáp) Mặt tṛn của mặt trời là năm mươi mốt yojanas và của mặt trăng là năm mươi yojanas.

“Cung điện” (vimāna) nhỏ nhất trong các cung điện của các ngôi sao bằng một krośa (câu-lư-xá); [cung điện lớn nhất là mười sáu yojanas].

V́ nghiệp lực của chúng sinh mà bên ngoài phía dưới của cung điện mặt trời đă h́nh thành một mặt tṛn bằng đá lửa phát nhiệt và ánh sáng; và bên ngoài phía dưới của mặt trăng cũng h́nh thành một mặt tṛn bằng đá nước phát ra hơi lạnh và ánh sáng. Tùy theo từng trường hợp chức năng của chúng là làm sinh trưởng, tồn tại hoặc hủy diệt mắt, thân, hoa quả, mùa màng, cây cỏ.

Trong thế giới của bốn đại châu chỉ có một mặt trăng và một mặt trời; tuy nhiên mặt trời không thể tác động đến cả bốn đại châu trong cùng một lúc.

Khi ở châu Uttarakuru là nửa đêm th́ ở châu Pūrvavideha mặt trời vừa lặn; và khi ở châu Jambudvīpa là nửa đêm th́ ở châu Godānīya mặt trời vừa mọc. Và cứ tiếp tục như vậy.

V́ có sự thay đổi về sự vận hành của mặt trời mà ngày và đêm có dài và ngắn khác nhau.

Ban đêm trở nên dài hơn kể từ ngày thứ chín thuộc về nửa sau của tháng mưa thứ hai (bhādrapada), và trở nên ngắn dần bắt đầu từ ngày thứ chín thuộc về nửa sau của tháng lạnh thứ tư (phālguna). Đối với ngày th́ ngược lại: Khi ban đêm dài ra th́ ban ngay ngắn lại và khi ban đêm ngắn lại th́ ban ngày lại dài ra. Sự kiện ban ngày và ban đêm dần dần trở nên dài hơn tùy thuộc vào mặt trời chuyển dịch nghiêng về phía nam hay phía băc của châu Jambudvīpa.

(Hỏi) Tại sao bề mặt của mặt trăng bị khuyết vào thời kỳ đầu của nửa tháng sáng?

(Đáp) Luận Thi thiết viết: “Khi cung điện mặt trăng vận hành sát với cung điện mặt trời th́ bóng của mặt trời in lên cung điện của mặt trăng. V́ thế khi bóng che khuất mặt đối diện th́ mặt sáng sẽ bị khuyết.” Nhưng các luận sư đời trước (Du-già sư Yogācāras) lại cho rằng tùy theo các vận hành của mặt trăng mà xuất hiện khi tṛn khi khuyết.

(Hỏi) Chúng sinh cư ngụ ở các cung điện mặt trời, mặt trăng thuộc về loại nào?

(Đáp) Đó là chúng thiên thuộc hạ của tứ đại vương (Cāturmabhārājakāyikas) và chỉ có loại chúng thiên này độc cư ở các cung điện này; tuy nhiên cũng có một số lớn thuộc hạ của tứ đại vương cư ngụ trên đất liền, ở các tầng cấp (pariṣaṇḍās) của núi Meru và các núi khác.

(hỏi) Có bao nhiêu tầng như thế; chúng có kích cỡ như thế nào? Và chúng thiên nào cư ngụ ở đó?

Tụng đáp:  

妙高層有四  相去各十千

傍出十六千  八四二千量

堅手及持鬘  恒憍大王眾

如次居四級  亦住餘七山.

[Núi Meru có bốn tầng,

Cách nhau mười ngàn yojanas

Nhô ra mười sáu ngàn,

Tám ngàn, bốn ngàn, hai ngàn yojanas.

Kiên thủ, Tŕ mạn,

Hằng kiêu, và đại vương chúng thiên

Lần lượt cư ngụ ở bốn cấp;

Và cũng có ở bảy núi kia]  

Luận: Núi Meru có bốn tầng. Tầng thứ nhất nằm cao hơn mặt nước mười ngàn yojanas; tầng thứ hai cao hơn tầng thứ nhất mười ngàn yojanas; và cứ như thế cho đến tầng thứ tư. Các tầng này cao tới lưng chừng núi Meru. Tầng thứ nhất nhô ra (xuất, nirgata, ḥphags) từ núi Meru mười sáu ngàn yojanas, các tầng c̣n lại theo thứ tự trên là tám ngàn, bốn ngàn và hai ngàn yojanas. Tầng thứ nhất là nơi cư ngụ của loài Dược xoa (yakṣas) có tên là Kiên thủ (ardham ākṣiptam = ardham avastabdham), loài ở tầng thứ hai có tên Tŕ mạn, tầng thứ ba có tên Hằng kiêu (Sadāmatta [tụng văn viết là sadāmada]); tất cả chúng thiên này đều là thuộc hạ của bốn đại vương. Ở tầng thiền thứ tư là bốn đại vương và quyến thuộc; tất cả đều được gọi là tứ đại vương chúng thiên.

Giống như thuộc hạ và quyến thuộc của tứ đại vương cư ngụ ở núi Meru, các thuộc hạ khác cư ngụ ở bảy ngọn Kim sơn cũng có các kinh thành, thị trấn và đây là loại chúng sinh thuộc cơi thiên có số lượng đông nhất.

(Hỏi) Tam thập tam thiên cư ngụ ở chỗ nào?

Tụng đáp:  

妙高頂八萬  三十三天居

四角有四峰  金剛手所住

中宮名善見  周萬踰繕那

高一半金城  雜飾地柔軟

中有殊勝殿  周千踰繕那

外四苑莊嚴  眾車麤雜喜

妙池居四方  相去各二十

東北圓生樹  西南善法堂.

[Đỉnh Meru rộng tám mươi ngàn yojanas

Là nơi cư ngụ của tam thập tam thiên;

Bốn góc có bốn chỏm núi

Là chỗ ở của Kim cang thủ.

Ở giữa là kinh thành Thiện kiến

Chu vi mười ngàn yojanas, 

Cao một phẩy năm yojanas làm bằng vàng,

Có nhiều màu sắc, mặt đất mềm mại

Bên trong là điện thù thắng

Chu vi một ngàn yojanas.

Bên ngoài thành có bốn khu vườn tô điểm

Là Chúng xa, Thô ác, Tạp lâm, và Hỷ lâm;

Bốn phía là các Diệu tŕ

Cách nhau hai mươi yojanas.

Phía đông bắc co Viêm sinh thọ

Phía tây nam có Thiện pháp đường.]  

Luận: Tam thập tam thiên (Trāyastriṃśas) cư ngụ trên đỉnh núi Meru. Các mặt của đỉnh núi này dài tám mươi ngàn yojanas. Có luận sư nói rằng mỗi mặt chỉ dài hơn mười ngàn và chu vi là tám mươi ngàn yojanas.

Ở bốn góc có bốn chỏm núi (kuṭa); cao và rộng năm trăm yojanas, là nơi ở của loài Dược xoa có tên là Kim cang thủ (Vajrapāṇīs). 

Ở giữa núi Meru là kinh thành bằng vàng của thiên Đế thích (Śakra) đứng đầu cơi thiên, có tên là Thiện kiến (sudarśana). Các cạnh của thành này dài hai ngàn năm trăm yojanas, chu vi là mười ngàn yojanas; cao một phẩy năm yojanas. Kinh thành cũng như mặt đất đều được trang sức bằng một trăm lẻ một loại màu sắc. Mặt đất mềm mại giống như lá của một loại cây bông và có thể co giản theo bước chân đi.

Ở giữa kinh thành là cung điện của Thiên đế thích. Cung điện này có tên là Thù thắng (Vaijayanta) bởi v́ sự lộng lẫy và các thứ châu báu ở đó tỏa sáng đến cả các chỗ ở khác của chúng thiên. Cung điện có các cạnh dài hai trăm năm mươi yojanas, tức chu vi là một ngàn yojanas. Trên đây là tất cả các vẻ khả ái của kinh thành.

Điểm tô bên ngoài kinh thành có bốn khu vườn làm nơi du hư của chúng thiên là Chúng xa (Caitraratha), Thô ác (Pāruṣyaka), Tạp lâm (Miśraka) và Hỷ lâm (Nandana). Ở bốn phía cách xa các khu vườn này hai mươi yojanas cũng là bốn nơi du hư (krīḍāsthānāni) khác của chu thiên. Đất đai ở nơi này mỹ diệu, làm say đắm chúng thiên và khiến cho họ tranh giành nhau.

Một loại cây mộc lan có tên là Viêm sinh thọ (Pārijātaka) là nơi thọ hưởng dục lạc của Tam thập tam thiên. Rễ loại cây này lan ra đến năm mươi yojanas, thân cao một trăm yojanas, cành, lá và cánh hoa (śakhāpattrapalāśa) bao phủ năm mươi yojanas. Cây có mùi hương tỏa theo chiều gió xa đến một trăm yojanas; nếu ngược chiều gió th́ xa đến năm mươi yojanas.

(Hỏi) Mùi hương có thể tỏa theo chiều gió một trăm yojanas, nhưng làm thế nào có thể tỏa ngược chiều gió?

(Đáp) Có luận sư cho rằng khi nó tỏa theo chiều gió năm mươi yojanas là hàm ư mùi hương này không vượt quá giới hạn của tàng cây (vốn rộng đến năm mươi yojanas). [Tuy nhiên giải thích trên không hợp lư bởi v́] kinh văn đă nói mùi hương tỏa ngược theo chiều gió. Do đó chúng ta có thể nói rằng mùi hương không “bay” ngược lại làn gió bởi v́ nó bị diệt ngay nơi nó bị sinh, mà chỉ v́ mùi hương này có đặc điểm là có thể sinh khởi một chuỗi tương tục các mùi hương giống nhau mặc dù bị làn gió nhẹ của cơi thiên cản trở. Tuy nhiên sau đó mùi hương dần dần trở nên yếu đi cho đến khi dứt hẳn mà không bay xa được như khi thuận theo chiều gió.

(Hỏi) Có phải chuỗi tương tục các mùi hương này có sở y là các đại chủng tạo thành mùi hương? Hay đó là gió chuyển thành mùi hương? [Tức gió đă sinh ra một mùi hương mới và mùi hương này không c̣n là mùi hương của hoa, cũng giống như những hạt mè thấm nhiễm mùi hương của hoa].

(Đáp) Điều này chưa thể xác định được. Tuy nhiên Thế tôn có nói: “Mùi hương của hoa không thể đi ngược lại chiều gió, mùi hương của cây chiên đàn, cây Tagara, cây lài cũng vậy; nhưng mùi hương của công đức có thể bay ngược lại chiều gió; (của) bậc thiện sĩ (satpuruṣa) bay khắp các phương.” (Saṃyukta, 28, 31; Ekottara, 13, 17; Udānavarga, vi. 14)

(Hỏi) Như vậy chủ trương mùi hương “bay ngược lại chiều gió” làm sao có thể phù hợp với lời dạy trên?

(Đáp) Thế tôn dạy như vậy là có ư chỉ cho mùi hương của thế gian bởi v́ ai cũng biết rằng mùi hương không thể bay ngược lại chiều gió.

Hóa địa bộ (Mahīśāsakas) nói rằng mùi hương [của hoa Viêm sinh thọ] nếu thuận theo chiều gió có thể tỏa xa được một trăm yojanas, và nếu không có gió th́ tỏa xa năm mươi yojanas.

Ở phía tây nam có Thiện pháp đường (Sudharmā) là nơi chúng thiên tụ hội (devasabhā) để xét xem các việc tốt cũng như xấu mà chúng sinh đă làm.

Trên đây là sự bài trí thế giới cư ngụ của Tam thập tam thiên; tiếp theo là phần nói về thế giới cư trú của chúng thiên hữu sắc khác.  

此上有色天  住依空宮殿.

[Ở phía trên là chúng thiên hữu sắc

Sống trong các cung điện ở không trung]  

Luận: Chúng thiên cao hơn Tam thập tam thiên cư trú ở các “cung điện giữa không trung” (vimānas). Chúng thiên này là Dạ ma thiên (Yāmas), Đổ sứ đă thiên (Tuṣitas), Lạc biến hóa thiên (Nirmāṇaratis), Tha hóa tự tại thiên (Paranirmitavaśavartins), cộng thêm chúng thiên thuộc Sắc giới; tức mười sáu bộ chúng thiên bắt đầu từ Phạm chúng thiên (Brahmakāyikas). Như vậy có tất cả hai mươi hai loại chúng thiên ở khí thế gian (bhājanaloka) và cư trú ở các nơi nhất định nói trên. [Ngoài ra c̣n nhiều chúng thiên khác như Krīḍāpramoṣakas, Prahāsakas, v.v., nhưng luận này đă lược qua không nói đến.]  

六受欲交抱  執手笑視婬.

[Sáu loại chúng thiên hưởng dục, giao hợp, ôm nhau

Nắm tay, cười, và nh́n nhau mà thành dâm]

Luận: Chúng thiên thuộc tứ đại vương, Tam thập tam thiên, Dạ ma thiên, Đỗ sứ đa thiên, Lạc biến hóa thiên và Tha hóa tự tại đều thuộc Dục giới. Chúng thiên cao hơn không thuộc về Dục giới.

Chúng thiên thuộc tứ đại vương và Tam thập tam thiên cư ngụ ở trên đất cứng v́ thế cũng có giao hợp giống như người thường; tuy nhiên họ chỉ làm dịu lửa dục bằng cách tiết ra phong khí chứ không phải tinh khí. Dạ ma thiên làm dịu lửa dục bằng cách ôm nhau, Đỗ sử đa thiên th́ nắm tay nhau, Lạc biến hóa thiên th́ cười với nhau và Tha hóa tự tại thiên th́ chỉ nh́n nhau. Trên đây là giải thích của Thế thi thiết luận (Lokaprajñāpti, chương VI).

Theo Tỳ-bà-sa (Vibhāṣā, 113, 9) những giải thích trên của Thi thiết luận về các trường hợp ôm nhau, nắm tay nhau, v.v., không phải để chỉ cho các cách thế giao hợp bởi v́ loại chúng thiên này vốn chỉ giao hợp giống như người thường, mà là để chỉ cho khoảng thời gian kéo dài của hành động. Dục lạc càng nhiều bao nhiêu v́ có các cảnh đáng ưa th́ thời gian giao hợp càng dài bấy nhiêu.

Nếu có đồng nam, đồng nữ nào ngồi trên đầu gối của một chúng sinh ở cơi thiên th́ đó chính là con cái của chúng sinh này: Tất cả chúng sinh đều thuộc loại hóa sinh.  

初如五至十  色圓滿有衣.

[Chúng thiên sơ sinh giống như trẻ em từ năm đến mười tuổi;

ở Sắc giới th́ đă phát triển đầy đủ và có quần áo.]

Luận: Chư thiên thuộc sáu cơi trời Dục giới khi mới sinh ra trông giống như một đứa bé lên năm, sáu, bảy, tám, chín hoặc mười tuổi tùy theo thứ tự của sáu cơi này, nhưng sau đó th́ phát triển rất nhanh.

Chư thiên thuộc Sắc giới khi mới sinh ra, thân h́nh đă phát triển đầy đủ và đă có sẵn áo quần. Tất cả chúng thiên đều sử dụng ngôn ngữ của thánh giả (thánh ngôn, ārya).

(Hỏi) Làm thế nào biết được sự khác nhau giữa dục sinh và lạc sinh?

Tụng đáp:  

欲生三人天  樂生三九處.

[Ba loại dục sinh gồm người và trời.

Ba loại lạc sinh gồm chín địa của ba tầng thiền.]

Luận: Ở Dục giới có những chúng sinh sử dụng tùy thích các cảnh dục lạc đang hiện khởi đối với họ. Đó là những chúng sinh thuộc về cơi người và chúng thiên thuộc bốn cơi đầu trong sáu cơi trời Dục giới.

Có những chúng sinh sử dụng tùy thích các cảnh dục lạc do chính bàn thân họ tạo ra. Đó là chúng sinh ở cơi Lạc biến hóa thiên.

Lại có những chúng sinh sử dụng tùy thích các cảnh dục lạc do người khác tạo ra. Đó là chúng sinh ở cơi Tha hóa tự tại thiên.

Loại thứ nhất thọ hưởng các cảnh dục lạc xuất hiện trước mắt họ; loại thứ hai thọ hưởng các cảnh dục lạc mà họ đă mong muốn tạo ra; loại thứ ba thọ hưởng các cảnh dục lạc do kẻ khác mong muốn tạo ra. Đây là ba loại “sinh khởi” hay “tồn tại của dục” (dục sinh, kāmopapattis) ở Dục giới. 

Ở Sắc giới có chín địa thuộc ba tầng thiền đầu tiên là ba loại “sinh khởi của lạc” (lạc sinh, sukkhopapattis). Chư thiên ở ba tầng này, trong những thời gian dài, đă trải qua thời gian của ḿnh trong hoan lạc nhờ vào sự an lạc phát sinh từ sự xả ly phiền năo (kleśa) (ly sinh lạc, vivekaja sukkha), nhờ sự an lạc có bao hàm niềm vui phát sinh từ thiền định (định sinh, samādhija) và nhờ sự an lạc đă xả bỏ niềm vui (ly hỷ lạc, niḥprītikasukkha). Các sự sinh khởi này nhờ không có khổ và nhờ sự kéo dài của chúng nên đă trở thành ba loại “lạc sinh”.

Ở tĩnh lự trung gian (dhyānāntara) không có hỷ lạc nhưng tại sao vẫn gọi là Lạc sinh thiên? Đây là điểm cần phải bàn đến.

(Hỏi) Hai mươi hai cơi trời nói đến ở trên, từ cơi trời của Tứ đại thiên vương cho đến cơi cao nhất của Sắc giới nằm ở những độ cao nào?

nTụng đáp:  

如彼去下量  去上數亦然.

[Từ một cơi khi đi xuống phải mất bao nhiêu

Th́ khi đi lên (một cơi ở trển) cũng như vậy.]  

Luận: Thật không dễ dàng tính được độ cao bằng yojanas của các cơi này. Tuy nhiên có thể đơn cử trường hợp phải trải qua một khoảng cách bao nhiêu khi từ một cơi trời nào đó đi xuống bên dưới để suy ra khoảng cảnh khi từ cơi đó đi lên một cơi khác ở trên. Nói cách khác, một cơi trời nằm ở bên trên châu Jambudvīpa chừng nào th́ nó nằm ở bên dưới cơi trên nó chừng đó. Chẳng hạn như tầng thứ tư của tứ đại vương, tức chỗ ở của bốn vị thiên vương này, nằm ở bên trên mặt biển bốn mươi ngàn yojanas; như vậy từ cơi trời này đi xuống đây bao xa th́ khi đi lên đến cơi Tam thập tam thiên cũng như vậy [bởi v́ đỉnh núi Meru cách xa mặt biển tám mươi ngàn yojanas]. Từ cơi tam thập tam thiên đi xuống mặt biển phải trải qua bao nhiêu yojanas th́ từ đó đi lên cơi Dạ ma thiên cũng như vậy. Và cứ tiếp tục như thế: Sắc cứu cánh thiên nằm ở phía bên trên Thiện kiến thiên bao nhiêu yojanas th́ Thiện kiến thiên nằm ở phía trên châu Jambudvīpa cũng bấy nhiêu yojanas.

Bên trên Sắc cứu cánh thiên (Akaniṣṭhas) không c̣n một nơi cư ngụ nào nữa. Chính v́ lư do chỗ này cao hơn tất cả các chỗ c̣n lại và không có chỗ nào khác cao hơn chỗ này nên mới có tên là Sắc cứu cánh thiên. Có luận sư cho rằng cơi này có tên là Ngại cứu cánh thiên (agha-niṣṭha) bởi v́ chữ agha có nghĩa là “sắc được tích tụ” (tích tập sắc) và cơi này là giới hạn cuối cùng của loại sắc này.

(Hỏi) Chúng sinh sinh ở một cơi thấp hơn có thể đi lên một cung điện cao hơn và nh́n thấy các chúng sinh ở đó không?

Tụng đáp:

離通力依他  下無昇見上.

[Nếu không có thần thông hoặc sự giúp đỡ của kẻ khác,

Chúng sinh cơi dưới không thể nh́n thấy cơi trên]

Luận: Khi có được thần thông hoặc khi được hỗ trợ bởi một chúng sinh có thần thông hoặc bởi một chúng sinh ở cơi Dạ ma thiên th́ chúng sinh cơi Tam thập tam thiên có thể đi đến cơi Dạ ma thiên.

Một chúng sinh sinh ra ở một chỗ ở thấp hơn có thể nh́n thấy chúng sinh ở một chỗ ở cao hơn và có thể đi đến chỗ ở cao hơn này; tuy nhiên trường hợp này không thể xảy ra nếu chúng sinh này thuộc về một giới (dhātu) hoặc một địa (bhūmi) cao hơn. Cũng giống như trường hợp không thể cảm nhận các xúc chạm (thuộc một giới hoặc một địa cao hơn) bởi v́ loại xúc chạm này không ở cùng cảnh giới (của một căn thấp hơn). Chính v́ lư do này mà các chúng sinh thuộc một giới hoặc một địa cao hơn không thể tự thân đi xuống các giới, các địa thấp hơn mà phải dùng đến loại hóa thân của các giới, các địa nơi chúng sinh này muốn đến. (Dīgha, ii. 210)

Có bộ phái khác (Mahāsaṃghikas) cho rằng chúng sinh ở một địa thấp hơn vẫn có thể nh́n thấy một chúng sinh ở địa cao hơn giống như nh́n thấy các chúng sinh khác cùng địa nếu như chúng sinh ở địa cao hơn có ư muốn để cho các chúng sinh này nh́n thấy.

(Hỏi) Cung điện của Dạ ma thiên và các cơi thiên khác có kích cỡ như thế nào?

(Đáp) Có luận sư cho rằng cung điện của bốn cơi trời phía trên trong số sáu cơi trời thuộc Dục giới có kích cỡ bằng đỉnh núi Meru. Có luận sư cho rằng các cung điện cao hơn th́ lớn gấp đôi các cung điện thấp hơn. Có luận sư lại cho rằng kích cỡ của tầng thiền thứ nhất bằng bốn đại châu; tầng thiền thứ hai bằng một tiểu thiên thế giới; tầng thiền thứ ba bằng một trung thiên thế giới và tầng thiền thứ tư bằng một đại thiên thế giới. Có luận sư lại nói rằng ba tầng thiền đầu tiên, theo thứ tự này, tương ưng với một tiểu thiên, một trung thiên và một đại thiên thế giới; trong khi tầng thiền thứ tư th́ không thể đo lường được.

(Hỏi) Tiểu thiên, trung thiên và đại thiên thế giới là ǵ?

Tụng đáp:  

四大洲日月  蘇迷盧欲天

梵世各一千  名一小千界

此小千千倍  說名一中千

此千倍大千  皆同一成壞.

[Bốn đại châu, mặt trời, mặt trăng,

Núi Meru, các cơi trời Dục giới,

Phạm thế; một ngàn lần của mỗi loại trên

Hợp thành một tiểu thiên thế giới.

Một ngàn lần tiểu thiên thế giới

Làm thành một trung thế giới

Một ngàn lần trung thiên là một đại thiên thế giới.

Thời gian hủy diệt và tạo thành đều bằng nhau.]  

Luận: Một tiểu thiên thế giới (sāhasra cūḍika lokadhātu) gồm một ngàn châu Jambudvīpa, một ngàn châu Pūrvavidehas, một ngàn châu Avaragodānīyas, một ngàn châu Uttarakuru, một ngàn mặt trăng, một ngàn mặt trời, một ngàn núi Meru, một ngàn mỗi cơi thiên Dục giới, và một ngàn mỗi thế giới của Phạm thiên. Một ngàn tiểu thiên thế giới tạo thành một trung thiên thế giới (dvisāhasro madhyamo lokadhātu). Một ngàn trung thiên thế giới tạo thành một đại thiên thế giới (trisāhasramahāsāhasro lokadhātu).

Thời gian bị hoại diệt và thời gian tạo thành đều bằng nhau. Ở đây tụng văn dùng từ saṃbhava (khởi) theo nghĩa vivarta (thành).

(Hỏi) Các thế giới này khác nhau nhưng chúng sinh ở thế giới này có khác nhau không?

Tụng đáp: 

贍部洲人量  三肘半四肘

東西北洲人  倍倍增如次

欲天俱盧舍  四分一一增

色天踰繕那  初四增半半

此上增倍倍  唯無雲減三

[Người ở châu Jambudvīpa

Cao bốn hoặc ba khuỷu tay rưỡi;

Người ở các châu đông, tây, bắc

Gấp đôi dần lên.

Chúng thiên Dục giới

Cao một phần tư cho đến một phẩy năm krośa.

Chúng thiên Sắc giới, bốn cơi đầu tăng dần một nửa,

Sau đó tăng gấp đôi.

Vô vân thiên giảm ba yojanas.]  

Luận: Người ở châu Jambudvīpa phần lớn đều cao khoảng ba khuỷu tay rưỡi (trửu: từ khuỷu tay đến đầu ngón tay giữa) có khi bốn khuỷu tay. Người châu Pūrvavidehas, Avaragodānīyas và Uttarakuru theo thứ tự này, cao khoảng tám, mười sáu, và ba mươi hai khuỷu tay. Chúng thiên tứ đại vương cao một phần tư krośa; chúng thiên ở các cơi khác của Dục giới lần lượt tăng thêm một phần tư, tức Tam thập tam thiên cao một nửa krośa, Dạ ma thiên cao ba phần tư krośa, Đỗ sứ đa thiên cao một krośa, Lạc biến hóa thiên cao một krośa và một phần tư, Tha hóa tự tại thiên cao một phẩy năm krośa.

Phạm chúng thiên, tức chúng thiên đầu tiên của Sắc giới, cao một nửa yojanas, Phạm phụ thiên cao một yojanas, Đại phạm thiên cao một phẩy năm yojanas, Thiểu quang thiên cao hai yojanas. Bên trên Thiểu quang thiên đều lần lượt tăng gấp đôi: Vô lượng quang thiên cao bốn yojanas, Cực quang tịnh thiên cao tám yojanas; và cứ như vậy cho đến Biến tịnh thiên cao sáu mươi bốn yojanas. Vô vân thiên cũng gấp đôi số này nhưng lại giảm bớt ba tức chỉ c̣n một trăm hai mươi lăm yojanas; và cứ tiếp tục nhân đôi như thế, từ Phước sinh thiên là hai trăm năm mươi yojanas, cho đến Sắc cứu cánh thiên là mười sáu ngàn yojanas.

Thọ lượng của các chúng sinh ở các cơi này cũng khác nhau.
 
 

北洲定千年  西東半半減

此洲壽不定  後十初叵量

人間五十年  下天一晝夜

乘斯壽五百  上五倍倍增

色無晝夜殊  劫數等身量

無色初二萬  後後二二增

少光上下天  大全半為劫.

[Bắc châu một ngàn năm

Tây, đông, giảm dần một nửa;

Châu này không nhất định,

Về cuối là mười năm, ở đầu khó biết được.

Năm mươi năm nhân gian

Bằng một ngày đêm ở cơi thiên thấp nhất của Dục giới;

Cơi này sống năm trăm năm

Năm cơi trên ngày và thọ lượng gấp đôi

Sắc giới không có ngày đêm,

Kiếp số bằng thân lượng.

Vô sắc giới cơi đầu là hai vạn

Sau đó cứ tăng dần với số này.

Trên dưới Thiểu quang thiên 

Là một, một nửa đại kiếp.]

Luận: Thọ lượng ở châu Uttarakuru là một ngàn năm; ở châu Godānīyas là năm trăm năm; ở châu Pūrvavidehas là hai trăm năm mươi năm.

Thọ lượng ở châu Jambudvīpa không nhất định, khi dài khi ngắn. Ở cuối kiếp (kalpa) thọ lượng ngắn nhất là mười năm; nhưng ở đầu kiếp (prāthamakalpika) th́ không tính được: Không thể đếm bằng các số trăm, ngàn, v.v..

Về chư thiên Dục giới, thọ lượng của họ được tính bằng cách dựa vào thời lượng của ngày.

Năm mươi năm ở nhân gian tạo thành một ngày ở cơi tứ đại vương; thọ lượng ở cơi này là năm trăm năm - một năm gồm mười hai tháng, một tháng có ba mươi ngày. Ở Tam thập tam thiên, một ngày bằng một trăm năm nhân gian; thọ lượng của họ là một ngàn năm. Ở Dạ ma thiên một ngày bằng hai trăm năm nhân gian; thọ lượng của họ là hai ngàn năm; và cứ tiếp tục như vậy.

(Hỏi) Từ núi Yugandhara trở lên không có mặt trời mặt trăng th́ làm thế nào định được ngày đêm của các cơi này và làm thế nào chư thiên có được ánh sáng?

(Đáp) Dựa vào hoa nở và khép để định ngày đêm, cũng giống như chúng ta dựa vào hoa sen trắng (kumuda, câu-vật-đà) và hoa sen đỏ (padma, bát-đặc-ma); hoặc có nơi lại dựa vào chim hót hay lặng thinh, hoặc khi ngủ hay thức. Về ánh sáng th́ tự thân chư thiên có thể phát ra ánh sáng.

Ở Sắc giới chư thiên nào có thân cao một nửa yojana - như Phạm chúng thiên - th́ thọ lượng là một nửa kiếp (kalpa); và cứ tiếp tục như vậy cho đến chúng thiên ở Vô vân thiên, có thân cao mười sáu ngàn yojana cho nên cũng có thọ lượng mười sáu ngàn kiếp.

Ở Không vô biên xứ thọ lượng là hai mươi ngàn kiếp; ở Thức vô biên xứ là bốn mươi ngàn kiếp; ở Vô sở hữu xứ là sáu mươi ngàn kiếp; và ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ hoặc Hữu đảnh là tám mươi ngàn kiếp.

(Hỏi) Ở đây “kiếp” có nghĩa là ǵ? Đó là nội kiếp (antarakalpas), hoại kiếp (saṃvartakalpas), thành kiếp (vivartakalpas) hay đại kiếp (mahākalpas)?

(Đáp) Từ Thiểu quang thiên (tức chúng thiên cơi dưới của tầng thiền thứ hai) trở lên là đại kiếp, trở xuống (tức Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên và Đại phạm thiên) là nửa đại kiếp. Bởi v́ phải mất hai mươi trung kiếp để lập thành thế giới [trong đó Đại phạm thiên xuất hiện ngay từ đầu], hai mươi trung kiếp để thế giới tồn tại và hai mươi trung kiếp để thế giới hủy hoại [trong đó Đại phạm thiên cũng là cơi bị hoại cuối cùng]. Như vậy thọ lượng của Đại phạm thiên là sáu mươi trung kiếp ở giữa; sáu mươi trung kiếp tạo thành một kiếp rưỡi bởi v́ một nửa đại kiếp (tức bốn mươi kiếp ở giữa) được xem như là một kiếp).

(Hỏi) Thọ lượng ở các thú ác như thế nào?

Tụng đáp:

等活等上六  如次以欲天

壽為一晝夜  壽量亦同彼

極熱半中劫  無間中劫全

傍生極一中  鬼月日五百

頞部陀壽量  如一婆訶麻

百年除一盡  後後倍二十.

[Sáu địa ngục đẳng hoạt, v.v. ở trên,

Lần lượt lấy thọ lượng của Lục dục thiên

Làm một ngày đêm

Về thọ lượng cũng như vậy.

Ở Cực nhiên là một nửa trung kiếp

Ở vô gián là một trung kiếp

Bàng sinh nhiều nhất là một trung kiếp

Quỷ là năm trăm năm

Có ngày dài bằng một tháng.

Thọ lượng ở Ách-bộ-đà

Như mè ở trong thúng,

Cứ một trăm năm lại lấy đi một hạt cho đến khi hết;

Các địa ngục c̣n lại gấp hai mươi lần.]    

Luận: Một ngày ở sáu địa ngục Đẳng hoạt (Saṃjīva), Hắc thằng (Kālasūtra), Chúng hợp (Saṃghāta), Hào khiếu (Raurava), Đại khiếu (Mahāraurava), Viêm nhiệt (Tapana), theo thứ tự này tương ưng với thọ lượng của chúng thiên ở sáu cơi trời Dục giới là tứ đại vương, v.v..

Chúng sinh bị đọa vào địa ngục Đẳng hoạt có thọ lượng giống như chúng thiên tứ đại vương là năm trăm năm - một năm có mười hai tháng, một tháng có ba mươi ngày; tuy nhiên mỗi ngày ở đây đều dài bằng thọ lượng của chúng thiên tứ đại vương. Sự so sánh giữa địa ngục Hắc thằng với Tam thập tam thiên, giữa địa ngục Viêm nhiệt và Tha hóa tự tại thiên cũng theo cách như vậy.

Ở địa ngục Đại nhiệt (Pratāpana) thọ lượng là một nửa trung kiếp; ở Vô gián là một trung kiếp. Bàng sinh sống lâu nhất là một trung kiếp; đây là trường hợp của các Đại long vương như Nanda (Nan-đà), Upnanda (Bạt-nan-đà), Aśvatara (Sa-già-la), v.v.. Thế tôn nói: “Này các bí-sô, có tám đại long vương sống lâu đến một kiếp và tŕ giữ đại địa…”. (Mahāvyutpatti, 167, 14, 51, 66, 58, 44)

Một ngày của quỷ bằng một tháng nhân gian và chúng sống được năm trăm năm, với mỗi ngày trong năm đều dài bằng một tháng nhân gian.

Về thọ lượng ở các địa ngục cực lạnh, Thế tôn chỉ đưa ra tỷ dụ để so sánh: “Này các bí-sô, nếu một cái thúng (vāha, bà-ha) của nước Ma-yết-đà (Magadha) dùng để đựng mè có dung lượng tám mươi hộc (khāris, khu-lê) có đổ đầy mè trong đó và cứ một trăm năm lại lấy ra bớt một hạt th́ đến khi lấy hết số mè này ra khỏi chúng mà thọ lượng của chúng sinh bị đọa vào địa ngục Arbuda (Ách-bộ-đà) vẫn chưa tận; đây là điều chính ta nói ra. Và này các bí-sô, thọ lượng ở địa ngục  Nirarbuda (Ni-ách-bộ-đà) lại tăng gấp hai mươi lần thọ lượng ở địa ngục Arbuda;…”. (Saṃyutta, i. 152; Mahāvyutpatti, 215, 1-8)

(Hỏi) Tất cả các có số thọ lượng vừa được nói đến ở trên có sống hết thọ lượng này không?

Tụng đáp:
 
 
         諸處有中夭  除北俱盧洲

[Các xứ đều có trung yểu

Ngoại trừ bắc câu lư châu.]
 
 
         Luận: thọ lượng của loài người ở châu Uttarakuru rất ổn định; họ sống đến một ngàn tuổi và đều sống hết thọ lượng của ḿnh. Trong khi đó ở những nơi khác vẫn có trường hợp bị chết nửa chừng (antarāmṛtyu, trung yểu). Tuy nhiên vẫn có hữu t́nh không bị trung yểu, đó là trường hợp của Bồ-tát ở Đỗ sử đa thiên, chỉ c̣n trải qua một lần sinh; những người ở vào lần sinh cuối cùng, (tức họ sẽ không chết trước khi đắc được quả vị a-la-hán); những người được phật thọ kư; những người được phật cử làm sứ giả; tùy tín hành giả (Śraddhānusārin); tùy pháp hành giả (Dharmānusārin); người mẹ đang mang thai một vị Bồ-tát hoặc Luân vương, v.v.. Đó là các trường hợp không thể chết yểu được.
 
 
Phần 11

Phần trước đă căn cứ vào yojana để tŕnh bày về khí thế gian và thân lượng, đồng thời cũng căn cứ vào năm, tháng, v.v., để tŕnh bày thọ lượng; tuy nhiên vẫn chưa giải thích về yojana và năm. Hai vấn đề này chỉ có thể dựa vào danh (nāman) để giải thích; v́ thế trước tiên hăy nói về các đơn vị nhỏ nhất (paryanta, cực thiểu) của yojana, danh, năm, v.v.

極微字剎那  色名時極少

[Cực vi, chữ, và sát-na

Là các đơn vị nhỏ nhất của sắc, danh và thời gian]

Luận: Cực vi (paramāṇu) là đơn vị nhỏ nhất của sắc (rūpa); cũng giống như chữ là đơn vị nhỏ nhất của danh, tỷ dụ chữ go (cù), và sát-na là đơn vị nhỏ nhất của thời gian (adhvan).

Sát-na có hạn lượng như thế nào?

(Kinh bộ) Thời gian mà một pháp (dharma) sinh khởi nhờ có các duyên ḥa hợp được gọi là một sát-na; hoặc sát-na là thời gian chuyển dịch của một pháp từ cực vi này sang cực vi khác.

Theo các luận sư Vaibhāṣikas,, có sáu mươi lăm sát-na trôi qua trong cái búng tay của một tráng sĩ (Madhyamakavṛtti, 547).  

極微微金水  兔羊牛隙塵

蟻虱麥指節  後後增七倍

二十四指肘  四肘為弓量

五百俱盧舍  此八踰繕那.

[Cực vi, vi, kim trần, thủy trần,

Thố mao trần, dương mao trần, ngưu mao trần, kích trần

Chấy, rận, lúa, đốt tay,

Lần lượt tăng gấp bảy lần.

Hai mươi bốn chỉ là một trửu

Bốn trửu là một cung;

Năm trăm cung là một krośa

Tám krośa là một yojana.]

Luận: Bắt đầu từ cực vi cứ lần lượt tăng gấp bảy lần cho đến đốt tay (chỉ tiết) là cuối cùng. Như vậy, ta có bảy cực vi bằng một vi (aṇu), bảy vi bằng một kim trần (loharajas), bảy kim trần bằng một thủy trần (abrajas), bảy thủy trần bằng một thố mao trần (śaśarajas ḍakarajas), bảy thố mao trần bằng một dương mao trần (avirajas), bảy dương mao trần bằng một ngưu mao trần (gorajas), bảy ngưu mao trần bằng một khích du trần (chidrarajas), bảy khích du trần bằng một cái trứng rận (likṣā), bảy cái trứng rận bằng một con chấy (yūka), bảy con chấy bằng một hạt lúa (yava), bảy hạt lúa bằng một đốt tay (anguliparvans). Ở đây không nói ba đốt tay bằng một ngón tay (anguli) bởi v́ điều này ai cũng biết. Hai mươi bốn ngón tay là một trửu (hasta), bốn trửu là một cung (dhanus); năm trăm cung là một câu-lư-xá (krośa), một krośa là một khoảng cách từ làng đến thảo am (aranya, a-lan-nhă) của ẩn sĩ; tám krośa là một  yojana.

百二十剎那  為怛剎那量

臘縛此六十  此三十須臾

此三十晝夜  三十晝夜月

十二月為年  於中半減夜.

[Một trăm hai mươi sát-na

Là một đát-sát-na;

Sáu mươi đát-sát-na là một lạp phược;

Ba mươi lạp phược là một tu-du;

Ba mươi tu-du là một ngày đêm;

Ba mươi ngày đêm là một tháng;

Mười hai tháng là một năm;

Một nửa năm giảm sáu ngày.]

Luận: Một trăm hai mươi sát-na (kṣaṇas) là một đát-sát-na (tatkṣaṇa); sáu mươi đát-sát-na là một lạp phược (lava); ba mươi lạp phược là một tu-du (muhūrta, mâu-hô-lật-đa); ba mươi tu-du là một ngày một đêm; ban đêm có khi dài hơn, ngắn hơn hoặc bằng ban ngày; ba mươi ngày đêm là một tháng; mười hai tháng là một năm. Trong một năm có ba mùa là mùa lạnh, mùa nóng và mùa mưa; mỗi mùa có bốn tháng. Trong sáu tháng của một năm, mỗi tháng đều bị bỏ bớt một ngày, ngày này được gọi là ngày “bị trừ” (ūnaratra); như vậy cứ một năm th́ lại bỏ đi sáu ngày; v́ thế có bài tụng viết: “Khi một tháng rưỡi của mùa lạnh, mùa nóng và mùa mưa trôi qua th́ nửa tháng c̣n lại bậc trí giả lại bỏ bớt một ngày ūnaratras.”

Trên đây đă giải thích về hạn lượng từ sát-na cho đến một năm; tiếp theo là phần nói về các hạn lượng khác nhau của kiếp.

應知有四劫  謂壞成中大

壞從獄不生  至外器都盡

成劫從風起  至地獄初生

中劫從無量  減至壽唯十

次增減十八  後增至八萬

如是成已住  名中二十劫

成壞壞已空  時皆等住劫

八十中大劫  大劫三無數

[Có bốn loại kiếp 

Là hoại, thành, trung và đại.

Hoại kiếp bắt đầu từ khi địa ngục ngừng sinh

Cho đến khi khí thế gian diệt tận.

Thành kiếp bắt đầu từ khi có gió khởi

Cho đến địa ngục mới sinh.

Trung kiếp bắt đầu từ khi thọ lượng c̣n vô tận

Sau đó giảm xuống c̣n mười năm,

Rồi trải qua mười tám lần tăng giảm,

Sau lại tăng đến tám vạn.

Sự tồn tại sau khi được tạo thành này

Gọi là hai mươi trung kiếp.

Thời gian tạo thành, hủy hoại và biến mất

Đều bằng trụ kiếp.

Tám mươi trung kiếp là đại kiếp.

Đại kiếp (nhân thành) ba vô số kiếp.]    

Luận: Có bốn loại kiếp khác nhau là tiểu kiếp (antarakalpa trung kiếp), hoại kiếp (saṃvartakalpa), thành kiếp (vivartakalpa) và đại kiếp (mahākalpa).

Hoại kiếp là thời gian bắt đầu từ khi chúng sinh ngừng tái sinh vào địa ngục cho đến khi khí thế gian hoàn toàn hủy diệt.

Hoại có hai loại: Sự hủy hoại của các thú (thú hoại, gatisaṃvartanī) và sự hủy hoại của các giới (giới hoại, dhātusaṃvartanī). Lại có hai loại là sự hủy hoại của chúng sinh (hữu t́nh hoại, sattvasaṃvartanī) và sự hủy hoại của thế giới hội tập (ngoại khí hoại, bhājanasaṃvartanī).

Vào thời điểm không c̣n chúng sinh nào sinh vào địa ngục - nhưng ở đó vẫn đang c̣n chúng sinh tiếp tục chết - th́ khoảng thời gian tồn tại (vivṛtta) của thế giới trong hai mươi tiểu kiếp chấm dứt (niṣṭhita) và thời kỳ hoại diệt bắt đầu.

Khi không c̣n một chúng sinh nào nữa ở địa ngục, tức sự hủy diệt của địa ngục (nārakasaṃvartanī) được xem như hoàn tất, th́ đó cũng là lúc thế giới này bị hoại diệt. Nếu một chúng sinh ở thế giới này đă tạo nghiệp phải đọa vào địa ngục th́ nghiệp lực sẽ dẫn dắt chúng sinh này tái sinh vào địa ngục của một thế giới khác chưa ở vào thời kỳ hoại diệt (sa lokadhātvantaranarakeṣu kṣipyte).

Sự hủy diệt của bàng sinh và qủy (tiryaksaṃvartanī, pretasaṃvartanī) cũng như vậy. Loại bàng sinh cư trú ở đại dương bị hủy diệt trước, loài ở chung với người th́ cùng hủy diệt với người.

Đối với loài người ở châu Jambudvīpa, nếu có người nào mặc dù không có thầy hướng dẫn nhưng nhờ vào pháp tánh (dharmatā) mà tự thân nhập được vào tầng thiền thứ nhất; và khi xuất thiền, người này đă la lên: “Thật sung sướng khi có được hỷ lạc từ sự xả ly! Thật tịch tĩnh khi có được sự hỷ lạc từ sự xả ly!” Và khi những người khác nghe được câu nói này th́ họ cũng có thể nhập định và sau khi chết sẽ chuyển sinh vào Phạm thế. Tiến tŕnh này cứ tiếp diễn như thế cho đến khi không c̣n một người nào nữa ở châu Jambudvīpa th́ sự hủy diệt của châu này được xem như hoàn tất.

Đối với chúng sinh cư trú ở các châu Pūrvavideha và Avaragodānīya cũng như vậy. Tuy nhiên ở châu Uttarakuru, bởi v́ chúng sinh ở đây không có khả năng xả ly Dục giới và do đó không thể nhập định th́ họ sẽ tái sinh vào các cơi trời Dục giới chứ không thể nhập vào Phạm thế.

Đến khi không c̣n một con người nào tồn tại nữa th́ sự hủy diệt của loài người được xem như hoàn tất và đó cũng là lúc thế giới này hoại diệt.

Đối với các cơi trời Dục giới cũng vậy. Từ các cơi trời của tứ đại vương cho đên Tha hóa tự tại thiên, chúng thiên nhập định, tái sinh vào Phạm thế, và lần lượt bị hủy diệt; cho đến khi không c̣n một chúng sinh nào nữa ở cơi trời Dục giới th́ sự hủy diệt của Dục giới được xem như hoàn tất.

Đối với Phạm thế cũng như vậy. Một chúng sinh nhờ vào pháp tánh mà nhập vào tầng thiền thứ hai; đến khi xuất thiền th́ la lên: “Thật sung sướng khi có được sự hỷ lạc từ sự xả ly! Thật tịch tĩnh khi có được hỷ lạc từ sự xả ly!” Và chúng thiên khác ở Phạm thế khi nghe được lời nói này cũng nhập được vào tầng thiền thứ hai và sau khi chết đă chuyển sinh vào Cực quang tịnh thiên. Cho đến khi không c̣n một chúng sinh nào tồn tại ở Phạm thế th́ sự hủy diệt chúng sinh (sattvasaṃvartanī) được xem như đă hoàn tất; và đó cũng là lúc thế giới hoại diệt. Lúc đó, v́ sự kiệt tận của loài cộng nghiệp tạo thành khí thế gian và v́ sự trống không của thế giới mà bảy mặt trời lần lượt xuất hiện và thế giới hoàn toàn bị thiêu hủy từ các đại châu cho đến núi Meru. Từ thế giới bị thiêu hủy này, ngọn lửa được gió dẫn dắt sẽ đốt cháy toàn bộ cung điện ở Phạm thế. Ở đây cần phải hiểu rằng ngọn lửa đốt cháy các cung điện này là một ngọn lửa của Sắc giới bởi v́ các tai hoạn (apakṣāla) của Dục giới không thể tác hại đến Sắc giới; tuy nhiên vẫn có thể nói rằng lửa từ thế giới này đă đốt cháy Phạm thế bởi v́ ngọn lửa này cũng xuất phát từ chuỗi tương tục của ngọn lửa đầu tiên.

Sự hủy diệt do hai loại c̣n lại là thủy tai và phong tai (apsaṃvartanī, vāyusaṃvartanī) gây ra cũng tương tợ như sự hủy diệt của hỏa tai (tejaḥsaṃvartanī); tuy nhiên chúng lan tỏa cao hơn. Như vậy, thời gian kể từ chúng sinh ngưng tái sinh vào địa ngục cho đến khi thế giới hội tập bị hủy diệt được gọi là hoại kiếp (saṃvartakalpa), tức là kiếp của sự hoại diệt.

Thành kiếp là khoảng thời gian kể từ khi bắt đầu có gió (phong khởi, prāgvāyu) cho đến khi có các chúng sinh sinh vào địa ngục.

Thế giới, sau khi bị hoại diệt như đă mô tả ở trên, vẫn nằm ở t́nh trạng này trong một thời gian dài suốt hai mươi tiểu kiếp; và trong thời gian này thế giới vẫn chỉ là hư không (hoại dĩ không) cho đến khi nhờ vào cộng nghiệp của chúng sinh mà những dấu hiệu đầu tiên của một thế giới hội tập vị lai bắt đầu xuất hiện và trong không gian (ākāśa) bắt đầu có những cơn gió rất nhẹ (mandamanda) nổi lên; đó cũng chính là lúc kết thúc thời gian hai mươi tiểu kiếp mà thế giới đă ở trong t́nh trạng hoại diệt (saṃvṛtto’sthāt), và cũng là lúc khởi đầu một thời gian hai mươi tiểu kiếp khác mà trong đó thế giới sắp được tạo thành (vivartamānāvasthā). (Vibhāṣā, 133, 12)

Những làn gió nhẹ ban đầu mạnh dần lên và cuối cùng tạo thành phong luân; sau đó lần lượt sinh khởi toàn bộ khí thế gian như đă mô tả trước đây, tức là sự hiện khởi của thủy luân, kim luân, núi Meru. Tuy nhiên cung điện của Phạm thiên th́ h́nh thành trước tiên, và lần lượt là các cung điện của các cơi trời khác cho đến cơi Dạ ma thiên; tức các nơi này xuất hiện ngay sau phong luân.

Thế giới hội tập được tạo thành như thế nào th́ thế giới hữu t́nh cũng được h́nh thành như vậy.

Lúc đó một chúng sinh chết ở Cực quang tịnh thiên sẽ sinh vào một cung điện đang c̣n trống rỗng của Phạm thiên (brāhma vimāna); và sau đó các chúng sinh lần lượt bị chết ở Cực quang tịnh thiên sẽ sinh vào các cơi Phạm phụ thiên, Phạm chúng thiên, Tha hóa tự tại thiên, và các cơi trời Dục giới khác; vào các châu Uttarakuru, Godānīya, Videha, Jambudvīpa; vào các thú của quỷ và bàng sinh; vào các địa ngục. Sự tái sinh này xảy ra theo thứ tự chúng sinh nào bị diệt cuối cùng th́ sẽ là chúng sinh tái sinh đầu tiên.

Khi có một chúng sinh sinh vào địa ngục th́ thời gian tạo thành kéo dài hai mươi tiểu kiếp đă chấm dứt và lúc đó bắt đầu thời kỳ của trụ kiếp (vivṛttāvasthā).

[Tiểu kiếp đầu tiên của thành kiếp là thời gian tạo thành khí thế gian, cung điện của Phạm thiên, v.v.] Trong suốt thời gian mười chín tiểu kiếp c̣n lại của thời kỳ này cho đến khi xuất hiện các chúng sinh ở địa ngục th́ thọ lượng của con người là vô tận.

Con người có thọ lượng vô tận cho đến cuối thời kỳ thành kiếp. Khi  thành kiếp đă hết th́ thọ lượng bắt đầu giảm dần cho đến khi chỉ c̣n lại mười năm. Khoảng thời gian bắt đầu xảy ra sự suy giảm dần dần về thọ lượng của con người tạo thành tiểu kiếp đầu tiên của thời kỳ trụ kiếp. 

Đến khi thọ lượng của con người chỉ c̣n mười năm th́ sẽ tăng trở lại cho đến khi có thọ lượng tám mươi ngàn năm; sau đó lại giảm dần cho đến khi chỉ c̣n lại mười năm. Khoảng thời gian xảy ra sự tăng lên và giảm xuống này tạo thành tiểu kiếp thứ hai; và theo sau tiểu kiếp này là mười bảy tiểu kiếp khác cũng với sự tăng và giảm giống như vậy.

Tiểu kiếp thứ hai mươi chỉ có tăng chứ không giảm; tức thọ lượng của con người lúc đó sẽ từ mười năm tăng lên đến tám mươi ngàn năm.

(Hỏi) Các trường hợp tăng thêm thọ lượng có thể lên đến mức nào?
(Đáp) Chỉ đến tám mươi ngàn năm chứ không thể nhiều hơn. Thời gian để tăng và giảm trong mười tám tiểu kiếp này tương đương với thời gian kéo dài của sự giảm sút về thọ lượng ở tiểu kiếp đầu tiên và sự tăng thêm về thọ lượng ở tiểu kiếp cuối cùng.

Thế giới tồn tại (thành dĩ trụ) trong hai mươi tiểu kiếp được tính toán như trên. Và thời gian tồn tại này cũng kéo dài chừng đó.

Thời kỳ tạo thành, thời kỳ hủy diệt và thời kỳ biến mất (hoại dĩ không) cũng có số lượng hai mươi tiểu kiếp. Trong ba thời kỳ này, không có các giai đoạn tăng thêm và giảm bớt về thọ lượng, nhưng các thời kỳ này đều kéo dài tương đương với thời kỳ mà thế giới tồn tại (trụ kiếp).

Khí thế gian được tạo thành trong một tiểu kiếp; và trong mười chín kiếp sau đó lần lượt có các loại chúng sinh đến cư trú. Khí thế gian dần dần trở nên trống không cũng trong mười chín tiểu kiếp; và bị hủy diệt hoàn toàn trong một tiểu kiếp.

Bốn lần hai mươi các tiểu kiếp này tạo thành tám mươi tiểu kiếp; và tám mươi tiểu kiếp này được gọi là một đại kiếp.

(Hỏi) Thể tánh của kiếp là ǵ?

(Đáp) Thể tánh của kiếp chính là ngũ uẩn.

(Hỏi) Kinh nói phải tinh tấn tu tập trong ba lần vô số kiếp (asaṃkhyeyas kalpa, kiếp a-tăng-xí) mới có thể thành phật. Như vậy kiếp được nói đến ở đây thuộc về loại nào trong bốn loại trên?

(Đáp) Nói “thành phật phải trải qua ba lần vô số kiếp” là chỉ cho các đại kiếp ở trên.

(Hỏi) Khi nói “vô số” tức hàm ư “không thể đếm được”, tại sao c̣n nói là ba lần “vô số”?

(Đáp) Không phải hàm ư như vậy. Trong một bản kinh riêng lẻ (giải thoát, muktaka) có nói rằng số (saṃkhyā) gồm sáu mươi điểm hoặc sáu mươi chỗ (sthānāntara).

(Hỏi) Sáu mươi điểm là ǵ?

(Đáp) Chỉ một chứ không phải hai là điểm thứ nhất; mười lần một (một chục) là điểm thứ hai; mười lần mười (một trăm) là điểm thứ ba; mười lần một trăm (một ngàn) là điểm thứ tư; …; và cứ tiếp tục như vậy; mỗi điểm về sau lại gấp mười lần điểm ở trước: prabheda (10.000), lakṣa (100.000), atilakṣa (1.000.000), koṭi (10. 000. 000), madhya (100.000.000), ayuta (1.000.000.000), mahāyuta (10.000.000.000), nayuta (100.000.000.000), mahānayuta (1.000.000.000.000), prayuta (10.000.000.000.000), mahāprayuta (100.000.000.000.000), kaṃkara, mahākaṃkara, bimkara, mahābimkara, akṣobhya, mahākṣobhya, vivāha, mahāvivāha, utsanga, mahotsanga, vāhana, mahāvāhana, ṭitibha, mahāṭitibha, hetu, mahāhetu, karabha, mahākarabha, indra, mahāindra,samāpta (=samāptam) mahāsamāpta (mahāsamāptam), gati, mahāgati, nimbarajas, mahānimbarajas, mūdrā, mahāmūdrā, bala, mahābala, saṃjñā, mahāsaṃjñā, vibhūta, mahāvibhūta, balākṣa, mahābalākṣa, asaṃkhya

Trong danh sách kể trên bị thiếu tám số.

Đại kiếp được lần lượt nhân lên cho đến điểm thứ sáu mươi th́ được tính là một lần vô số (asaṃkhya). Nếu bắt đầu lại th́ sẽ có lần vô số thứ hai, lần vô số thứ ba; v́ thế “vô số” ở đây không phải là không đếm được.

(Hỏi) Tại sao Bồ-tát khi phát nguyện chứng đắc phật quả lại đặt ra một thời hạn lâu dài như vậy cho sự tu tập của ḿnh?

(Đáp) Bởi v́ phật quả vô thượng rất khó chứng đắc. Cần phải tích tập nhiều phước đức, nhiều trí tuệ, và vô số công hạnh trong số ba lần vô số kiếp.

(Hỏi) Nếu phật quả mà Bồ-tát nổ lực chứng đắc lại khó đạt đến như vậy, trong khi phật quả lại không phải là phương tiện độc nhất để đạt được giải thoát, th́ tại sao Bồ-tát lại phải chọn lựa con đường có quá nhiều khổ hạnh và quá lâu như vậy?

(Đáp) V́ lợi lạc của chúng sinh, v́ Bồ-tát muốn có đủ năng lực để cứu độ chúng sinh ra khỏi sông lớn của khổ đau.

(Hỏi) Cứu độ chúng sinh th́ có ích lợi ǵ cho bản thân của Bồ-tát?

(Đáp) Lợi lạc của chúng sinh cũng chính là lợi lạc của Bồ-tát bởi v́ các ngài phát nguyện như thế.

(Hỏi) Làm sao có thể tin được điều này?

(Đáp) Đối với những chúng sinh không có tâm từ bi và chỉ biết đến bản thân ḿnh th́ thật khó tin được trên đời lại có các bậc Bồ-tát như thế; tuy nhiên đối với những chúng sinh có tâm từ bi th́ không có ǵ ngạc nhiên trước những hạnh nguyện trên đây của một Bồ-tát. Trên đời không thiếu ǵ kẻ v́ không có từ bi mà đi t́m thú vui trong đau khổ của người khác mặc dù có khi chẳng đem lại lợi lạc ǵ cho bản thân họ; trong khi Bồ-tát nhờ được huân tập tâm từ bi vẫn t́m thấy niềm vui khi đem lại lợi lạc cho chúng sinh mà không hề nghĩ đến bản thân ḿnh. Lại có chúng sinh v́ bị lực của huân tập sai sử mà trở nên u mê đối với thực tánh của các pháp hữu vi, tưởng rằng đó là thực ngă cho nên cứ măi chấp trước các pháp này v́ thế mới phải chịu nhiều khổ đau; trong khi Bồ-tát nhờ có năng lực tu tập mà xả ly các pháp tưởng chừng như là thực ngă, không c̣n xem các pháp này là “ngă”, là “ngă sở”, từ đó tăng trưởng được tâm bi luyến (apekṣā) đối với người khác mà sẵn sàng chịu đựng vô số khổ đau cho chúng sinh.

Nói tóm lại, có những hạng người không hề để tâm đến bản thân ḿnh mà chỉ cảm thấy sung sướng trước những an lạc của người khác và cảm thấy thương tâm trước những khổ đau của người khác. Đối với họ, lợi lạc của người khác cũng chính là lợi lạc đối với ḿnh. Có bài tụng viết rằng: “Kẻ hèn t́m mọi cách để được lợi cho ḿnh; người thường mong diệt khổ mà không cầu lạc v́ lạc là nhân của khổ; bậc thượng nhân chịu khổ mà không cầu cho người khác an lạc, cầu cho người khác diệt được khổ bởi v́ khổ đau của người khác chính là khổ đau của ḿnh.”

Chư phật xuất hiện ở thế gian vào những thời kỳ nào?

Tụng đáp:    

減八萬至百  諸佛現世間

獨覺增減時  麟角喻百劫.

[Khi thọ lượng giảm c̣n một trăm năm,

Chư phật xuất hiện ở thế gian

Phật Độc giác vào thời kỳ tăng và giảm,

Lân giác dụ trải qua một trăm đại kiếp.]  

Luận: Chư phật xuất hiện vào thời kỳ suy giảm của thọ lượng khi mà thọ lượng từ tám mươi ngàn năm giảm xuống chỉ c̣n một trăm năm.

(Hỏi) Tại sao chư phật không xuất hiện vào thời kỳ thọ lượng tăng?

(Đáp) Bởi v́ vào thời kỳ đó con người rất khó có thể làm cho rui sợ, rất khó có thể bị làm cho chán ghét sự tồn tại này.

(Hỏi) Tại sao chư phật không xuất hiện ở thời kỳ thọ lượng giảm từ một trăm năm xuống c̣n mười năm?

(Đáp) Bởi v́ lúc đó năm loại hủ bại (thọ trược āyuḥkaṣāya; kiếp trược kalpakaṣāya, phiền năo trược, kleśakaṣāya); kiến trược, dṛṣṭikaṣāya; hữu t́nh trược sattvakaṣāya) trở nên quá mạnh (abhyutasada = abhyadhika).

Vào thời kỳ suy giảm cuối cùng của thọ lượng (apakarṣasya adhastāt) th́ thọ mạng (āyus) cũng trở nên xấu đi (kīdṛgbhūta) và hạ thấp (pratyavara); v́ bị hư tổn như vậy cho nên gọi là hủ bại (trược); đối với các loại trược khác cũng như vậy. Hai loại trược đầu làm tổn hại thọ mạng (jīvitavipatti) và các phương tiện tư trợ cho thọ mạng (upakaraṇa). Hai loại trược tiếp theo làm tổn hại thiện tánh (kuśalapakṣa); phiền năo trược th́ làm tổn hại v́ sự đam trước dục lạc (kāmasukhallikā); kiến trược th́ làm tổn hại v́ sự đam trước khổ hạnh (ātamaklamatha); hoặc phiền năo trược làm tổn hại thiện tánh của người tại gia và kiến trược làm tổn hại thiện tánh của bậc xuất gia. Hữu t́nh trược làm cho chúng sinh bị tổn hại về tinh thần, thân thể, sắc đẹp, sức khỏe, năng lực, trí tuệ, trí nhớ, khả năng, sự cường tráng.

(Hỏi) Các vị Độc giác xuất hiện vào thời kỳ nào?

(Đáp) Các vị phật Độc giác xuất hiện vào thời kỳ thọ lượng tăng rồi giảm. Tuy nhiên có hai trường hợp: Các vị Độc giác sống thành đoàn (bộ hành, vargacārin) [và cùng xuất hiện trong thời kỳ thọ lượng tăng]; các vị phật Độc giác “tương tợ như loài tê ngưu” (lân giác dụ) (khaḍgaviṣāṇakalpa).

Trường hợp đầu vốn thuộc hàng Thanh văn (śrāvakapūrvin) [đă đắc được quả thứ nhất hoặc thứ hai của hàng Thanh văn trong thời gian phật tại thế]. Có luận sư cho rằng các vị này vốn thuộc dị sinh nhưng đă từng tu tập thuận quyết trạch phần (nirvedhabhāgīyas) của Thanh văn thừa; đến đời này th́ tự ḿnh chứng đắc được thánh đạo. Tập Pūrvakatha (bổn sự) viết: “Có năm trăm vị tiên cùng tu khổ hạnh trên một ngọn núi. Lúc đó có một con khỉ đă từng sống gần một vị phật Độc giác đi đến chỗ của họ và làm các điệu bộ đă bắt chước được của vị phật Độc giác trước mặt họ. Năm trăm tiên nhân thấy vậy cũng bắt chước theo các cử chỉ này và người ta nói rằng nhờ vậy mà họ chứng đắc Bồ-đề của phật Độc giác. Theo các luận sư trên th́ rơ ràng năm trăm vị tiên nhân này không phải là thánh giả, tức không phải là Thanh văn, bởi v́ nếu trước đây đă đắc quả Thanh văn tức phải xả ly giới cấm thủ th́ về sau không thể nào lại xả bỏ để tu tập khổ hạnh trở lại.”

Trường hợp sau là các vị phật Độc giác sinh sống một ḿnh. Các vị này phải trải qua một trăm đại kiếp để tu tập các pháp cần thiết cho sự chứng đắc Bồ-đề (Bồ-đề tư lương) [tức giới, định, tuệ]. Họ tự ḿnh chứng đắc Bồ-đề mà không nhờ vào thánh giáo và v́ chỉ có thể điều phục được ḿnh mà không thể chuyển hóa chúng sinh cho nên gọi là Độc giác.

(Hỏi) Tại sao nói rằng họ không thể chuyển hóa chúng sinh? Chắc chắn họ vẫn có khả năng diễn thuyết chánh pháp bởi v́ họ cũng đắc được vô ngại giải (pratisaṃvids); [nếu không đắc được vô ngại giải] th́ họ vẫn có thể nhớ lại chánh pháp mà chư phật đời trước đă từng tuyên thuyết. Họ cũng không thể không có từ bi bởi v́ đă từng hóa hiện thần thông làm lợi lạc cho hữu t́nh. Không thể nói rằng vào thời mà các vị Độc giác này xuất thế th́ chúng sinh ở thời đó đều không được chuyển hóa; bởi v́ vào thời kỳ này - tức thời kỳ mà thọ lượng đang suy giảm - chúng sinh đă có thể xả ly Dục giới nhờ vào thế gian đạo. Như vậy tại sao họ không thể tuyên thuyết chánh pháp?

(Đáp) Bởi v́ họ đă quen với đời sống cô tịch trước đây. Họ thích t́m sự an lạc và tránh mọi phiền lụy (alpotsukatā); họ không có can đảm (na utsahate) để giúp chúng sinh liễu ngộ giáo pháp thâm sâu. Lẽ ra họ phải thâu nhiếp đồ chúng, phải dẫn dắt đồ chúng đi ngược lại ḍng chảy mà phần lớn chúng sinh đang xuôi theo; tuy nhiên điều này th́ quá khó khăn đối với họ, khi mà họ sợ sẽ bị tán loạn (vyākṣepa) tâm thiền định và phải tiếp xúc (saṃsarga) với chúng sinh.  

輪王八萬上  金銀銅鐵輪

一二三四洲  逆次獨如佛

他迎自往伏  諍陣勝無害

相不正圓明  故與佛非等.

[Luân vương (xuất hiện khi thọ lượng c̣n) trên tám vạn,

Gồm kim luân, ngân luân, đồng luân và thiết luân.

Họ trị v́ một, hai, ba, bốn châu,

Theo thứ tự ngược lại;

Và cũng chỉ một ḿnh chư phật.

Được đón tiếp hoặc khi đến th́ điều phục.

Có chống lại, có bày trận nhưng đều thắng; không bị hại;

Tướng không thẳng, không đầy đủ, không chiếu sáng

V́ thế không giống phật.]    

Luận: Luân vương xuất hiện trong thời kỳ thọ lượng của con người đang c̣n vô hạn cho đến khi giảm xuống tám mươi ngàn năm. Sở dĩ không xuất hiện khi thọ lượng con người đă trở nên ngắn hơn là v́ lúc đó khí thế gian không c̣n là nơi thích hợp với sự hưng thịnh rực rỡ của họ nữa. Họ được gọi là Luân vương (Cakravartins) bởi v́ bản chất của họ là dẫn dắt và điều phục.

Có bốn loại là kim luân vương (Suvarṇacakravartin) Ngân luân vương (Rūpyacakravartin), đồng luân vương (Tāmracakravartin), Thiết luân vương (Ayaścakravartin). Sở dĩ gọi tên như vậy là v́ dựa theo bánh xe của họ được làm bằng vàng, bạc, đồng hay sắt. Kim luân thuộc hàng tối hảo, tiếp đến là ngân luân, đồng luân thuộc hàng trung b́nh và thiết luân là thấp nhất. Luân vương có bánh xe bằng sắt cai quản một đại châu, luân vương có bánh xe bằng đồng cai quản hai đại châu, luân vương có bánh xe bằng bạc cai quản ba đại châu và luân vương c̣n lại cai quản bốn đại châu.

Trên đây là giải thích của Thi thiết luận. Thật ra kinh chỉ nói đến Kim luân vương bởi v́ tính chất rất quan trọng của vị luân vương này: “Khi một vi vua thuộc ḍng dơi sát đế lợi nhân gặp ngày rằm nên đă tắm rửa, thọ tŕ trai giới, rồi cùng các quan trong triều bước lên đài cao của cung điện; và lúc đó ở phương đông bất ngờ xuất hiện một bánh xe báu với một ngàn tia sáng có đủ vành, đủ nan hoa, đủ mọi vẻ, đẹp, không phải được làm bởi thợ thủ công mà toàn bằng vàng, th́ vị vua này chính là một luân vương.” (Dīgha, 18, 19; Saṃyukta, 27, 11) 

Cũng giống như Phật, hai luân vương không bao giờ xuất hiện ở thế gian trong cùng một lần. Kinh nói: “Ở hiện tại, ở vị lai, không thể có hai bậc Như lai, ứng cúng chánh đẳng chánh giác cùng xuất hiện trên thế gian mà không phải là sự xuất hiện trước và sau. Điều này không thể xảy ra. Bao giờ cũng chỉ có một bậc xuất thế. Đối với luân vương cũng giống như vậy.” (Madhyama, 18, 16, 17, 19; Dharmaskandhas, 9, 14).

Ở đây có một vấn đề cần phải suy nghĩ. Khi nói “trên thế gian” là nhằm chỉ cho cái ǵ? Có phải đó là “ở một đại thế giới gồm có ba ngàn thế giới” (tam thiên, tri sāhasra) hay là “ở tất cả các thế giới”?

Có ư kiến cho rằng chư phật không xuất hiện ở các nơi khác [có nghĩa là ở hai đại thế giới trong cùng một lúc] với lư do sự xuất hiện cùng lúc của hai vị phật sẽ làm chướng ngại cho công năng (prabhāva) của thế tôn. Chỉ cần một đấng Thế tôn cũng đă đủ giáo hóa khắp mười phương. Nếu có một nơi nào đó mà Thế tôn không thể giáo hóa được th́ các đức Thế tôn khác cũng không thể làm ǵ khác hơn. Hơn nữa, kinh c̣n nói: “này Xá-lợi-tử, nếu có người đến hỏi ông rằng ‘hiện nay có thể có một bí-sô hay một Phạm chí nào đó ngang hàng với Cồ-đàm (Gautama, Kiều-đáp-ma thị) về chánh đẳng chánh giác không? Th́ ông sẽ trả lời như thế nào? - Bạch Thế tôn, nếu có người hỏi như thế, con sẽ trả lời rằng hiện nay không có bí-sô hoặc phạm chí nào ngang hàng với Thế tôn. Và v́ sao con lại trả lời như vậy? Bởi v́ qua lời dạy của Thế tôn, con đă từng được nghe và hiểu rằng ở hiện tại và vị lai không bao giờ có thể có hai bậc Như lai ứng cúng chánh đẳng chánh giác cùng xuất hiện trên thế gian mà không phải là sự xuất hiện trước và sau.” (Dīrgha, 12, 22; Digha, iii. 113)

(Vấn nạn) Nếu vậy tại sao trong kinh Phạm vương (Brahmasūtra), Thế tôn nói: “Ta có thể tác động đến ba ngàn thế giới (Trisāhasra)?”

(Giải thích) Không nên hiểu đoạn kinh trên theo nghĩa đen. Thật ra ở đây hàm ư khi không dùng đến gia hành (anabhisaṃskāreṇa) th́ Thế tôn chỉ nh́n thấy trong giới hạn này, nhưng khi ngài muốn th́ ngài có thể nh́n thấy vô lượng thế giới. (Vibhāṣā, 150, 11).

Theo các bộ phái khác (Mahāsaṃghikas), chư phật xuất hiện cùng thời nhưng ở các thế giới khác nhau. Họ cho rằng bởi v́ hiện có rất nhiều Bồ-tát đang tu tập các pháp tư trợ cho Bồ-đề (Bồ-đề tư lương) cho nên chắc chắn sẽ không thuận tiện nếu nhiều vị phật cùng xuất hiện một lúc ở cùng một chỗ; tuy nhiên cũng không có ǵ ngăn ngại chư phật xuất hiện cùng thời; v́ thế vẫn có chư phật xuất hiện ở những thế giới khác nhau. Thế giới th́ vô hạn, cho dù Thế tôn sống hết cả một kiếp (kalpa) th́ ngài vẫn không thể giáo hóa vô lượng thế giới giống như ngài đă giáo hóa ở thế giới này, huống hồ là ngài đă thị hiện chỉ trong thời gian bằng thọ lượng của con người (puruṣāyuṣaṃ vihar). Chúng sinh cư ngụ trong vố số thế giới khác nhau v́ thế thời gian, nơi chốn và căn tính của họ cũng khác nhau. Nếu phải giáo hóa cho họ đừng làm những điều ác chưa làm, từ bỏ những điều ác đă làm, làm những điều thiện chưa làm, hoàn tất những điều thiện đă làm th́ làm thế nào chỉ có một ḿnh đức phật mà có thể nhanh chóng hoàn thành tất cả các việc này; v́ thế nhất định phải có nhiều vị phật xuất hiện cùng thời.

(Vấn nạn) Những đoạn kinh trích dẫn trước đây đă rơ ràng: “Không thể có hai bậc Như lai ứng cúng chánh đẳng chánh giác xuất hiện trên thế gian mà không phải là ở hai thời điểm và hai vị trí khác nhau.”

(Giải thích) Cần phải xét xem có phải đoạn kinh này chỉ nhằm nói đến một thế giới - tức thế giới của bốn đại châu, thế giới rộng lớn của ba ngàn thế giới - hay nhằm chỉ cho tất cả thế giới. Nếu nhằm chỉ cho tất cả thế giới th́ chuyển luân vương lẽ ra cũng không thể có ở các thế giới khác bởi v́ ở trên đă nói chuyển luân vương không thể cùng lúc xuất hiện, cũng giống như chư phật. Nếu thừa nhận chuyển luân vương vẫn có ở các thế giới khác th́ tại sao đối với chư phật, vốn là nền tảng của mọi công đức khi thị hiện ở thế gian, lại không thừa nhận như vậy? Nếu ở vô lượng thế giới đều có xuất hiện vô lượng chư phật th́ có ǵ sai mà phải phủ nhận? Khi có nhiều vị phật xuất hiện th́ vô lượng chúng sinh sẽ đắc được lợi lạc tăng thượng và thánh đạo thù thắng.

(Vấn nạn) Nếu nói như vậy tại sao trong một thế giới không có hai đức Như lai cùng thời xuất hiện?

(Giải thích) Bởi v́ (1) sự xuất hiện cùng thời sẽ trở thành vô dụng, (2) hạnh nguyện của Bồ-tát là “thành phật để cứu độ chúng sinh không được cứu độ, trong một thế giới mù mịt và không nơi nương tựa”, (3) sự kính trọng đối với một vị phật độc nhất sẽ lớn hơn, (4) sự gấp rút tu tập chánh pháp cũng lớn hơn bởi v́ chúng sinh biết rằng rất khó gặp được phật xuất thế và sẽ không c̣n nơi nương tựa khi phật nhập Niết-bàn hoặc đi đến một nơi khác.

Đối với các vị luân vương th́ sự điều phục của họ ở các nơi cũng khác nhau tùy theo tính chất của từng loại chuyên luân.

Trong trường hợp của Kim luân vương th́ các tiểu quốc vương đều tự t́m đến để nghênh đón vị luân vương này và nói rằng đất nước của họ rất giàu có, thịnh vượng, an lạc, có rất nhiều người và hiền tài, v́ thế muốn thỉnh vị luân vương này đến cai quản đất nước của họ và tất cả đều nguyện làm thuộc hạ cho vị thiên tôn (devādhideva) này.

Trường hợp của Ngân luân vương th́ nhà vua tự thân đi đến (svayaṃyāna) các tiểu quốc; và khi đến nơi th́ tất cả thần dân đều quy phục.

Đồng luân vương cũng tự t́m đến các tiểu quốc; tuy nhiên lúc đầu họ có dự định chống lại, rồi sau đó mới chịu thần phục.

Thiết luân vương cũng tự t́m đến các tiểu quốc và lúc đầu họ cũng vung gươm múa kiếm (śastrāṇy āvahanti = utkṣipanti), rồi sau đó mới chịu hàng phục.

Không có trường hợp các luân vương bị giết chết. Họ đều khuyến giáo chúng sinh tu mười thiện nghiệp đạo (karmapatha) và v́ thế họ đều tái sinh ở cơi thiên.

(Hỏi) Kinh (Madhyama, 11, 1; Ekottara, 33, 11; Saṃyukta, 27, 12) nói: “Khi luân vương xuất hiện ở thế gian th́ cũng có bảy thứ quư giá (ratna) cùng xuất hiện; đó là bánh xe, voi, ngựa, châu báu, nữ nhân, quan trông coi quốc khố (chủ tạng thần), và thống soái (chủ b́nh thần).” Như vậy có phải năm thứ quư giá thuộc loại hữu t́nh như voi, ngựa, v.v., trong bảy thứ ở trên được sinh khởi là nhờ vào nghiệp của người khác?

(Đáp) Không phải như vậy. Chỉ v́ những chúng sinh trên vốn đă tích tập các nghiệp chiêu cảm các loại dị thục phải sinh khởi cùng với luân vương và làm các thứ voi quư, ngựa quư, v.v., cho nên khi luân vương xuất hiện th́ các nghiệp này tự chiêu cảm các chúng sinh này sinh khởi.

Ngoài bảy thứ quư giá trên, vẫn c̣n có nhiều điều khác nhau giữa luân vương và những người khác; đặc biệt là các luân vương này cũng có ba mươi hai đặc điểm của bậc đại sĩ (mahāpuruṣas) giống như đức phật; tuy nhiên những đặc điểm của đức phật th́ chiếu sáng hơn, đầy đủ hơn và nằm ở nhữn vị trí chính đáng hơn.

(Hỏi) Con người ở vào thời kỳ đầu tiên của một kiếp có vua không?

Tụng đáp:    

劫初如色天  後漸增貪味

由墮貯賊起  為防雇守田.

[Lúc đầu giống như chư thiên Sắc giới;

Về sau dần dần tham muốn mùi vị.

V́ sa đọa mới sinh tích trữ, giặc cướp;

Để pḥng vệ nên cử người giữ ruộng.]    

Luận: Loài người ở thời kỳ đầu kiếp đều giống như chúng sinh ở Sắc giới. Kinh nói: “Có những chúng sinh hữu t́nh (hữu sắc, rūpin) sinh ra từ ư (ư thành), có đủ chân tay, có đủ các căn, dung mạo trang nghiêm, màu sắc rực rỡ, tự thân chiếu sáng, đi giữa hư không, thích ăn thích uống, thọ mạng lâu dài.” (Dīrgha, 23, 4).

Về sau dần dần xuất hiện một loại “nước chảy ra từ đất” (pṛathivīrasa) có vị ngon ngọt như mật (madhusvādurasa). Lúc đó có người bẩm tính ưa thích mùi vị khi ngửi được mùi thơm của loại nước này liền nếm thử rồi thấy ngon nên ăn vào; những loại khác thấy vậy cũng làm theo. Đó là thời kỳ con người bắt đầu dùng đến đoạn thực. Loại thức ăn này làm cho thân thể trở nên thô nặng, không c̣n phát ra ánh sáng như trước, và từ đó bóng tối mới phát sinh. Nhưng rồi sau đó mặt trời và mặt trăng đă xuất hiện.

V́ sự đam trước mùi vị của chúng sinh cho nên loại nước chảy ra từ đất dần dần cũng cạn kiệt. Sau đó lại xuất hiện một loại thức ăn khác gọi là “bánh da đất” (pṛthivīparpaṭaka, địa b́ bính) và chúng sinh lại đam trước loại này v́ thế chẳng bao lâu nó cũng biến mất. Sau đó lại xuất hiện một loại cây leo rừng nhưng chẳng được bao lâu bởi v́ chúng sinh cũng tranh nhau ăn loại cây này. Cuối cùng từ đất mọc lên một giống lúa không cần phải mất công gieo trồng. Loại thức ăn thô nặng này khi ăn vào đă để lại các chất uế tạp trong thân thể và v́ chúng sinh muốn đào thải chúng cho nên sau đó mới sinh hiện các cơ quan bài tiết và sinh dục khác nhau; kể từ đó bắt đầu có các h́nh dạng nam nữ khác nhau. Chúng sinh thuộc các giới tính khác nhau này do lực huân tập từ trước đă bị một loài “cá sấu”, tức là sự phán đoán sai lạc (phi lư tác ư), sai sử (ayoniśomanasikāragrāhagrāsagata) cho nên đă tự t́m đến với nhau để thụ hưởng dục lạc. Từ đó chúng sinh Dục giới bắt đầu bị loài “quỷ” tham dục (kāma) khống chế.

Vào thời kỳ đó chúng sinh cắt lúa vào buổi sáng để chuẫn bị cho bữa ăn sáng và cắt lúa vào buổi chiều để chuẫn bị cho bữa ăn chiều mà chưa hề nghĩ đến việc tích trữ. Sau đó có người v́ quá lười biếng đă bắt đầu tích trữ cho các bữa ăn về sau; những người khác thấy vậy cũng bắt chước theo. Từ sự tích trữ lúa gạo này đă phát sinh ư niệm về “cái của ta”, “của cải riêng của ta” cho nên mặc sức tranh nhau cắt hái cho đến khi lúa không đủ thời gian để mọc lại th́ lúc đó mới bắt đầu phân chia ruộng đất. Khi đă có ruộng đất riêng tức phải nghĩ đến việc canh giữ đất đai của ḿnh đồng thời manh tâm xâm đoạt đất đai của người khác. Đây là thời kỳ con người bắt đầu biết đến việc trộm cắp.

Để ngăn ngừa trộm cắp, chúng sinh họp nhau lại và đồng ư chia một phần sáu số lúa thâu được cho một người có tài đức (manuṣyaviśeṣa) đứng ra bảo vệ mùa màng. Họ gọi người này là “người giữ ruộng” (kṣetrapa, điền chủ) và kể từ đó mới có danh xưng sát-đế-lợi (kṣatriya). Khi người này có thể làm cho những người chủ của ḿnh vừa ḷng (rañj) và được mọi người (mahājana) ưa thích kính phục (saṃmata) th́ được tôn làm Rāja Mahāsaṃmata (Đại tam-mạt-đa vương). Từ đó bắt đầu phát sinh các triều đại.

Những người nào từ bỏ cuộc sống gia đ́nh được gọi là Bà-la-môn (brāhmanes).

Về sau có vị vua v́ tham lẫn tài vật, không thể bảo bọc đời sống của dân chúng cho nên có người nghèo đói phải đi trộm cắp. Để ngăn cấm hành động này, nhà vua đă đặt ra các h́nh phạt để xử tội; và từ đó bắt đầu có sát nghiệp. Lúc đó có tội nhân v́ sợ h́nh phạt nên t́m cách che dấu tội lỗi, nói rằng ḿnh không phạm tội, và từ đó bắt đầu có vọng ngữ.

(Hỏi) Ở thời kỳ thọ lượng bị giảm có xuất hiện ba loại tai hoạn nhỏ (tiểu tam tai); vậy ba loại này là ǵ?

Tụng đáp:  

業道增壽減  至十三災現

刀疾飢如次  七日月年止.

[Nghiệp đạo tăng th́ thọ lượng giảm.

Cho đến mười tuổi th́ tam tai xuất hiện;

Đó là đao binh, bệnh tật, đói khát,

Kéo dài trong bảy ngày, bảy tháng, bảy năm th́ dứt.]  

Luận: Kể từ khi chúng sinh bắt đầu biết nói dối th́ các nghiệp đạo bất thiện cũng tăng dần và thọ lượng của con người trở nên ngắn ngủi; cuối cùng chỉ c̣n lại mười năm. Như vậy, có hai pháp làm gốc cho sự suy thối này là sự đam trước mỹ vị (rasarāga) và sự lười biếng. 

(Hỏi) Tiểu kiếp sẽ chấm dứt khi thọ lượng chỉ c̣n mười năm, như vậy lúc đó điều ǵ sẽ xảy ra?

(Đáp) Sự chấm dứt của tiểu kiếp được đánh dấu bởi ba loại tai hoạn.

(1)                                  Ở vào giai đoạn cuối cùng của kiếp này, tức khi thọ lượng suy giảm chỉ c̣n mười năm, con người chứa đầy tham dục phi pháp, làm nô lệ cho các thứ ái dục bất b́nh đẳng, chỉ rao giảng các thứ tà pháp. V́ tâm chỉ khởi các ư niệm ác độc nên khi thấy nhau th́ giống như thợ săn thấy được con mồi (maggasañña); v́ tâm chỉ chất chứa các niệm sân hận cho nên tất cả những ǵ rơi vào tay họ dù là một mảnh gỗ hay một cành cây phụ tử cũng đều trở thành một con dao nhọn để họ tàn sát lẫn nhau.

(2)                                  Cũng vào giai đoạn nói trên khi mà thọ lượng con người chỉ c̣n mười năm, trong ḷng chứa đầy tham dục phi pháp, cam tâm làm nô lệ cho đủ loại ái dục bất chánh, cho nên chỉ biết rao giảng các loại tà pháp; th́ lúc đó có những chúng sinh không phải là người (phi nhân, amanuṣya) [như Piśācas, v.v.] sẽ phát ra các tác dụng gây bệnh (yams kyi nad) khiến cho nhiều loại dịch bệnh lan tràn và người nào mắc phải th́ không thể nào cứu chữa.

(3)                                  Cũng vào giai đoạn nói trên khi mà thọ lượng con người chỉ c̣n lại mười năm và trong tâm sinh khởi đủ loại tham sân, tin theo tà pháp, th́ lúc đó trời sẽ ngừng mưa và ba loại đói khát xuất hiện; đó là ba loại tụ tập (cañcu), xương trắng (śvetāsthi), và dùng que (śalākāvṛtti, vận trù).

Loại thứ nhất được gọi là tụ tập bởi v́ lúc đó con người thiếu ăn, thân thể gầy yếu cho nên lúc đó phải tụ tập với nhau để chết; và v́ họ đă bớt lại một ít hạt giống đem bỏ vào trong một cái tráp nhỏ để người đời sau có thể dùng làm giống.

Loại thứ hai được gọi là xương trắng bởi v́ thời đó con người thân thể khô khan cho nên sau khi chết chưa được bao lâu th́ xương đă chuyển sang màu trắng; và v́ người khác đă gom số xương này lại để đun sôi dùng làm nước uống.

Loại thứ ba gọi là “dùng que” bởi v́ lúc đó không đủ thức ăn nên mọi người trong nhà phải ăn theo phiên được làm dấu bởi những chiếc que. “Hôm nay là phiên ông chủ nhà ăn; ngày mai là phiên bà chủ nhà ăn, v.v.”; và v́ thường dùng que khêu các hạt c̣n sót lại trong đất, sau đó đem đun sôi để lấy nước uống.

Kinh nói rằng nếu có người thọ tŕ sát giới trong một ngày một đêm hoặc cúng dường một quả duốt núi hay một miếng thức ăn cho tăng chúng (saṃgha) th́ sẽ không tái sinh vào các thời kỳ đao binh, bệnh tật và đói kém này.

(Hỏi) Ba loại tai họa này kéo dài trong bao lâu?

(Đáp) Tai hoạn đao binh chỉ kéo dài trong bảy ngày; tai hoạn dịch bệnh kéo dài trong bảy tháng bảy ngày; tai hoạn đói khát kéo dài trong bảy năm, bảy tháng bảy ngày. Liên từ ka trong tụng văn cho thấy phải thêm vào các khoảng thời gian khác nhau.

Các châu Videha và Godānīya không biết đến ba tại hoạn này; tuy nhiên sự ác độc, màu sắc xấu xa và sự suy yếu, cái đói và cái khát vẫn có ở đó khi châu Jambudvīpa bị hoành hành bởi nạn đao binh, dịch bệnh và đói khát.

(hỏi) Trước đây khi mô tả hỏa tai thiêu đốt thế giới có nói rằng các tai hoạn khác cũng gây ra những thảm họa như thế; vậy các tai hoạn khác là ǵ?

Tụng đáp:  

三災火水風  上三定為頂

如次內災等  四無不動故

然彼器非常  情俱生滅故

要七火一水  七水火後風.

[Ba tai hoạn là lửa, nước và gió

Có giới hạn cao nhất là đỉnh của ba tầng thiền ở trên;

Các tai hoạn bên trong, v.v., cũng theo thứ tự này.

Tầng thiền thứ tư không hủy hoại v́ bất động;

Nhưng cũng không phải thường hằng

Bởi v́ cùng diệt với chúng sinh.

Sau bảy lần hỏa tai là một lần thủy tai;

Sau bảy lần thủy tai và hỏa tai là phong tai.]  

Luận: Khi chúng sinh từ bỏ khí thế gian ở bên dưới (hạ địa) để tụ hội (saṃvart) ở cơi trời của thiền định (dhyāna) th́ có sự hủy diệt xảy ra: Sự hủy diệt có thể do lửa gây ra bởi v́ có đến bảy mặt trời, do nước v́ có mưa lớn và do gió v́ có sự kích động lẫn nhau của phong đại. Hậu quả của các sự hủy diệt này là không c̣n một vật ǵ tồn tại; ngay cả một cực vi của khí thế gian cũng bị hủy hoại.

[Ở đây nảy sinh vấn đề là toàn phần (avayavin) bị hủy diệt hay chỉ là thành phần (avayava), và đó là sự hủy diệt của thực chất (guṇin) hay là của các thuộc tính (guṇa)].

Có luận sư ngoại đạo cho rằng cực vi vốn thường hằng v́ thế chúng vẫn tồn tại khi khí thế gian đă biến mất. Theo họ nếu không phải như vậy th́ các vật thô hiển (sthūla) sẽ sinh khởi mà không có nhân (ahetuka).

(Luận chủ) Trước đây đă giải thích rằng chủng tử (bīja) của một thế giới mới chính là gió; đó là loại gió có đủ năng lực đặc biệt được tạo ra từ nghiệp lực của chúng sinh; và nhân (nimitta) của loại gió này chính là gió không bị hủy diệt từ Sắc giới. Hơn nữa kinh điển thuộc Hóa địa bộ (Mahīśāsakas) có nói rằng gió đến từ một thế giới khác có mang theo chủng tử.

(Thắng luận) Mặc dù có mang theo chủng tử nhưng vẫn không thừa nhận các vât thô hiển như mầm mộng, thân cây, v.v., trực tiếp sinh ra từ chủng tử, từ mầm mộng, v.v. [bởi v́ chủng tử, mầm mộng, v.v., chỉ là loại năng tác nhân (nimittakāraṇa) chứ không phải là loại (samavāyikaraṇa)]. Chúng tôi nói rằng mầm mộng, v.v., sinh khởi từ các thành phần (avayava) của nó, và các thành phần này lại sinh khởi từ những thành phần của chúng, và cứ tiếp tục như vậy cho đến những thành phần nhỏ nhất th́ lại được sinh ra từ các cực vi.

(Luận chủ) Nếu vậy, chủng tử có tác dụng ǵ đối với mầm mộng?

(Thắng luận) Ngoài khả năng dẫn tập các cực vi của mầm mộng ra, chủng tử không có tác dụng ǵ cả đối với việc sinh ra (janana) mầm mộng; bởi v́ thật phi lư khi cho rằng một vật được sinh ra từ một vật hoàn toàn khác nhau về thể loại (vijātīka). Nếu thật quả có thể xảy ra những trường hợp như vậy th́ sẽ không có bất cứ định luật nào về sự sinh sản. [Người ta sẽ có thể dệt chiếu (kaṭa) bằng sợi bông (tantu)].

(luận chủ) Không phải như vậy. Vẫn có thể sinh từ dị loại nhưng theo những nguyên tắc khác; cũng giống như sự sinh khởi của thanh, của những thứ từ sự nấu chín, v.v., [thanh sinh từ sự va chạm và sự va chạm vốn không phải là thanh nhưng không phải hoàn toàn khác với thanh.] V́ thế tác dụng của tất cả các sự vật không phải không có tính chất nhất định.

(Thắng luận) Dẫn chứng trên không hợp lư. Chúng tôi thừa nhận rằng cái mà chúng tôi gọi là đức pháp (guṇadharma) hay “thuộc tính” (như thanh, v.v.,) có thể sinh ra từ một vật tương tợ hoặc khác biệt (saṃyoga); nhưng đối với thực pháp (dravyadharma) hay “thực chất” th́ không thể như vậy bởi v́ nó luôn luôn sinh ra từ một vật tương tợ. Chính v́ thế mà chỉ có sợi cây  - chứ không phải các loại sợi cây khác - mới có thể sinh ra chiếu (kaṭa), và chỉ có loại sợi bông (tantu) mới có thể sinh tấm vải bông (paṭa).

(Luận chủ) Tỷ dụ trên đây không chứng minh được điều ǵ cả bởi v́ không thể đứng vững. Các ông nói rằng mọi vật chỉ sinh ra từ một vật tương tợ, giống như trường hợp chiếc chiếu chỉ sinh ra từ sợi cây vīraṇa; tuy nhiên chiếc chiếu chính là những sợi cây vīraṇa đă được sắp xếp theo một cách nào đó và được gọi tên là “chiếu” và tấm vải cũng chỉ là một tên gọi khác của những sợi bông được sắp xếp theo một cách nào đó; giống như trường hợp một đàn kiến cũng chỉ là những con kiến.

(Thắng luận) Làm thế nào xác định được tấm vải không phải là một vật khác với sợi vải?

(Luận chủ) Khi căn (của sự nh́n thấy hay sự xúc chạm) tiếp xúc với một sợi vải th́ cả tấm vải không được tri nhận; nếu tấm vải hiện hữu, tức được tạo thành bởi mỗi sợi văi, th́ tại sao lại không được tri nhận? Nếu các ông trả lời rằng toàn bộ tấm vải không hiện hữu trong một sợi vải (akṛtsnavṛtti) th́ phải nh́n nhận rằng tấm vải chỉ một tập hợp các thành phần của nó và mỗi thành phần này đều được tạo thành bởi một sợi vải; bởi v́ làm thế nào các ông có thể lập luận được các thành phần của tấm vải khác với những sợi vải? Nếu các ông trả lời toàn bộ tấm thực sự hiện hữu trong từng sợi vải nhưng sở dĩ người ta không thể tri nhận chúng trong từng sợi vải là v́ sự tri nhận này cần phải có sự tiếp cận giữa căn và tấm vải theo một cách nào đó để có thể tri nhận vô số phần tử tạo thành tấm vải, th́ như vậy chỉ có thể nh́n thấy tua vải chứ không phải tấm vải. Nếu các ông trả lời sở dĩ không nh́n thấy tấm vải khi nh́n vào tua vải là v́ lúc đó các thành phần ở giữa, v.v., không tiếp xúc với căn; th́ điều này có nghĩa là các ông đă thừa nhận người ta sẽ không bao giờ nh́n thấy tấm vải bởi v́ các thành phần ở giữa và hai đầu - vốn được xem như các thành phần tạo nên tấm vải - đă không được tri nhận cùng lúc. Nếu các ông nói rằng các thành phần này (chư phần) được lần lượt tri nhận tức các ông đă tự nhận rằng không thể tri nhận toàn bộ tấm vải (hữu phần y) và ư tưởng về tấm vải hoặc chiếc chiếu chỉ là những ư tưởng về các thành phần của tấm vải hoặc chiếc chiếu. Trường hợp này cũng giống như ư tưởng có một ṿng lửa thật sự hiện hữu khi nh́n thấy chuyển động quay tṛn của một que củi đang cháy dở. Hơn nữa, tấm vải không thể là một vật nào khác với những sợi vải bởi v́ nếu tấm vải khác với sợi vải th́ trong trường hợp có những sợi vải khác màu, khác chất, khác cách dệt, người ta sẽ không thể nào nói rằng tấm vải có màu này, có loại chất này, được dệt theo kiểu như thế này, v.v.. Trong trường hợp này, nếu các ông nói rằng tấm vải vẫn có khác màu tức các ông đă tự thừa nhận một vật có thể sinh ra một vật khác loại; vă lại, giả sử như tấm vải chỉ được nhuộm màu một mặt th́ khi nh́n vào mặt này người ta sẽ không thấy được tấm vải, hoặc nh́n thấy được tấm vải nhưng là tấm vải nhuộm màu. Tuy nhiên các ông cũng có thể bạo gan nói rằng tấm vải, v́ được làm thành bởi những sợi vải, được diệt theo các đường khác nhau, cho nên tấm vải vẫn có cách dệt khác nhau th́ như vậy tấm vải sẽ không c̣n là một thực thể bởi v́ tự thân nó quá khác nhau. Hăy quán sát thêm trường hợp của một thực thể khác (avayavin) là tia sáng của một ngọn lửa (agniprabhā): Khả năng phát nhiệt và ánh sáng của nó biến đổi liên tục từ đầu đến cuối và người ta sẽ không thể nhận ra màu sắc cũng như các tính chất có thể xúc chạm của nó.

[(Thắng luận) Tuy nhiên nếu toàn bộ tấm vải không khác với các thành phần của nó, và nếu các cực vi - vốn không được các căn tri nhận - không thể tạo ra (ārambh) một thô quả để cho các căn có thể tri nhận (aindriyaka), tức một thô quả khác với cực vi, th́ thế giới này không thể nh́n thấy được; nhưng trong khi đó người ta vẫn nh́n thấy con ḅ.]

(Luận chủ) Theo chúng tôi, các cực vi chu dù không thể tri nhận được nhưng khi hội tụ với nhau th́ lại có thể tri nhận được. Trường hợp này cũng giống như thắng luận từng cho rằng các cực vi nếu hội tụ lại th́ có khả năng tạo thành các thô quả; cũng giống như các yếu tố của nhăn thức có thể tập hợp lại để tạo ra thức; và cũng giống như người đau mắt chỉ có thể nh́n thấy các lọn tóc chứ không thể nh́n thấy từng sợi tóc.

[Trên đây luận chủ đă bác bỏ xong quan niệm toàn phần khác với thành phần và thực chất khác với thuộc tánh].

(Luận chủ) Cực vi (paramāṇu) chính là màu sắc (rūpa), v.v.; v́ thế khi thế giới hoại diệt th́ cực vi chắc chắn cũng hoại diệt.

(Thắng luận) Cực vi là một thực pháp (dravya); mà đă là thực pháp th́ khác với màu sắc, v.v., (đức pháp); v́ thế màu sắc có thể diệt nhưng cực vi không diệt.

(Luận chủ) Sự khác biệt giữa sự vật và các thuộc tính th́ không thể nào chấp nhận được bởi v́ người ta không phân chia “đây là đất, nước, lửa; và đây là thuộc tính của đất, tức màu sắc của đất, mùi vị của đất, v.v.” Trong khi đó các ông lại khẳng định rằng một thực pháp như đất, v.v., có thể được mắt, v.v., tri nhận. [Như vậy các ông không thể nói rằng người ta không tri nhận được đất bởi v́ nó là loại không thể tri nhận.] Hơn nữa khi đốt cháy len, bông, cao thuốc phiện, hương trầm, người ta không c̣n ư tưởng về len, bông, v.v., khi nh́n vào tro tàn của chúng; v́ thế ư tưởng này không duyên một thực pháp có các thuộc tính là màu sắc, v.v., mà chỉ duyên các thuộc tính là màu sắc, mùi vị, v.v.. Nếu các ông cho rằng đó là sự khác nhau giữa một chiếc b́nh đất chưa nung trước đó và sau khi đă nung th́ chúng tôi nói rằng lúc nào nó cũng chỉ là chiếc b́nh như trước; cho dù chiếc b́nh khác với màu sắc th́ nó vẫn là chiếc b́nh trước đây mặc dù màu sắc đă thay đổi. Thế nhưng trong thực tế nếu chúng ta có thể nhận ra chiếc b́nh chưa nung ở trong chiếc b́nh đă nung th́ đó chính v́ h́nh dạng của nó vẫn c̣n tương tợ, cũng giống như khi nhận ra một đàn kiến. Thật vậy, ai có thể nhận ra chiếc b́nh nếu không nh́n thấy những tính chất đă được quan sát trước đó.

Chúng ta hăy chấm dứt ở đây sự bàn căi về những chủ trương ấu trĩ này.

(Hỏi) Giới hạn cao nhất của sự hủy diệt này (saṃvartanī) là ǵ?

(Đáp) Tầng thiền thứ hai là giới hạn cao nhất (sīmā) của sự hủy diệt do hỏa tai gây ra; và tất cả những ǵ ở bên dưới đều bị đốt cháy. Tầng thiền thứ ba là giới hạn cuối cùng của sự hủy diệt do thủy tai; và tất cả những ǵ ở bên dưới đều bị tan ră và phân hủy. Tầng thiền thứ tư là giới hạn cao nhất của sự hủy diệt do phong tai; và tất cả những ǵ ở bên dưới đều bị phân hủy hoặc phân tán. Những ǵ c̣n lại sau các sự hủy diệt này được gọi là “cái đầu của sự hủy diệt” (tai đỉnh). 

Như vậy tầng thiền thứ nhất hủy diệt là v́ lửa; thật vậy các lậu hoặc (apakṣāla) của tầng thiền thứ nhất chính là tầm tứ (vitarkavicāra); chúng đốt cháy tâm cũng tương tợ như lửa. Tầng thiền thứ hai hủy diệt là v́ nước; thật vậy, ở đây hỷ thọ chính là lậu hoặc; lậu hoặc này khi tương ưng với khinh an (praśrabdhi) th́ làm cho thân thể mềm nhảo, cũng tương tợ như nước. V́ thế Kinh (Madhyama, 58) dạy rằng khổ thọ (duḥkhendriya, khổ căn) bị diệt là do đoạn trừ được tính chất thô trọng của thân. Tầng thiền thứ ba hủy diệt là v́ gió bởi v́ các lậu hoặc thuộc về sự chuyển động của hơi thở (động tức) (āśvāsa, praśavāsa) đều là gió. 

Các lậu hoặc thuộc về bên ngoài (bāhya) của một tầng thiền (tức là các loại tai hoạn hủy diệt một cơi trời của thiền định) có cùng thứ tự với những lậu hoặc thuộc về bên trong (ādhyātmika) đă tác động đến những người nhập vào tầng thiền này.

(Hỏi) Tại sao không có sự hủy diệt do địa đại gây ra giống như hỏa đại, v.v.?

(Đáp) Cái được gọi là khí thế gian chính là đất v́ thế khí thế gian có thể tương vi với lửa, nước và gió nhưng không tương vi với đất.

Tầng thiền thứ tư không chịu sự hủy diệt bởi v́ nó vốn bất động (aniñjana). Phật đă từng nói rằng tầng thiền này v́ không có các lậu hoặc bên trong (ādhyātmikāpakṣātarahita) nên không bị lay động (ānejya). Các lậu hoặc bên ngoài v́ thế cũng không tác động đến tầng thiền này và kết quả là nó không chịu sự hủy hoại.

Có luận sư cho rằng sự không hủy hoại của tầng thiền thứ tư là nhờ năng lực của chúng sinh Tịnh cư thiên cư trú ở tầng thiền này. Chúng thiên này không có khả năng nhập Vô sắc giới và cũng không thể đi đến những nơi khác [ở một địa thấp hơn].

Tuy nhiên, khí thế gian thuộc tầng thiền thứ tư không thường hằng v́ thế không tạo thành một “địa”; cũng giống như các ngôi sao; tầng thiền này được chia thành nhiều nơi cư trú khác nhau; các cung điện khác nhau làm chỗ ở cho chúng thiên đều sinh khởi và hủy diệt cùng với chúng thiên này.

(Hỏi) Ba sự hủy hoại này xảy ra theo thứ tự nào?

(Đáp) Mỗi loạt hỏa tai xảy ra đều bao gồm bảy lần hủy hoại nối tiếp nhau. Cứ sau một loạt hỏa tai lại xảy ra một lần thủy tai. Sau loạt thứ tám (tức loạt cuối cùng) của hỏa tai là lần hủy hoại độc nhất của phong tai. Những phần nào của khí thế gian c̣n tồn tại được là nhờ có sự tồn tại của chư thiên tái sinh ở đó nhờ lực của thiền định. Như vậy có tất cả năm mươi sáu lần hủy hoại do hỏa tai gây ra, bảy lần do thủy tai, một lần do phong tai; điều này chứng minh Thi thiết túc luận đă chính xác khi nói rằng chư thiên ở cơi Biến tịnh cư (Śubhakṛtsṇas) sống đến sáu mươi tư kiếp.

 

previous.png      Hết Chương 3b      next.png

ĐẦU TRANG | C1 | C2a | C2b | C3a | C3b | C4a | C4b | C5 | C6 | C7 | C8 | C9

 

 

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0