THÍCH LUẬN PHẬT MẪU BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA VIÊN TẬP YẾU NGHĨA
Tác giả: Bồ tát Tam Bảo Tôn. Bồ tát Đại Vực Long tạo bản luận
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Đại sư Thi Hộ
Việt dịch: Nguyên Huệ
-o0o-
QUYỂN 3
+ Nói 4 thứ thanh tịnh, là:
1. Tự tánh thanh tịnh.
2. Ĺa cấu thanh tịnh.
3. Đối tượng duyên thanh tịnh.
4. B́nh đẳng thanh tịnh.
1. Tự tánh thanh tịnh: Tức là trí không hai không sai biệt. Hành tướng như thế nào? Tự tánh: Nghĩa là bản tánh không hư giả, tức tánh của chân ngă. Ở trong tự tánh có tướng như thế. Như ngọc báu ma ni, ánh hiện ḥa hợp. Như Đức Phật đă nói: Tất cả chúng sinh tức Như Lai tạng. Hết thảy pháp kia cùng với Thiện Thệ là như nhau, không có tự tánh. Nêu bày như thế tức là tự tánh thanh tịnh.
2. Ĺa cấu thanh tịnh. Ĺa cấu: Là ĺa các thứ cấu nhiễm. Nghĩa của thanh tịnh như trước đă giải thích. Hành tướng như thế nào? Nghĩa là chốn hành nhằm đối trị các hữu, sức quán xét theo đời, tương ưng với trí không hai. Ở đây, chỗ tạo tác xong là sự nơi ư lạc tăng thượng của Đức Thế Tôn hiện có, tức pháp giới, chân như, thật tế ấy. Nêu bày như vậy tức là ĺa cầu thanh tịnh.
3. Đối tượng duyên thanh tịnh. Đối tượng duyên: Tức là nghĩa v.v… của Bát-nhă Ba-la-mật-đa hiện có khắp hết thảy nơi tác dụng của tất cả cảnh giới được duyên. Lại, tánh đă đạt được hoặc tánh do tạo thành ấy, cũng là đối tượng duyên. Ở trong đối tượng duyên đó mà được thanh tịnh. Nghĩa của thanh tịnh như đă giải thích ở trước. Được nêu bày như thế, tức là đối tượng duyên thanh tịnh.
4. B́nh đẳng thanh tịnh. Nghĩa bằng nhau, không sai khác, tức là b́nh đẳng. Tánh b́nh đẳng của ánh sáng đại pháp thuộc pháp giới thanh tịnh vi diệu kia, nên gọi là b́nh đẳng. Ở trong chốn b́nh đẳng ấy mà đạt được thanh tịnh. Nghĩa của thanh tịnh như trước đă giải thích. Nói rơ như vậy tức là b́nh đẳng thanh tịnh.
Như thế là đă nói tổng quát về bốn thứ thanh tịnh, tức tự tánh viên thành. Vậy nên nói các hành tướng đă có của Bát-nhă Ba-la-mật-đa nầy, nên nghĩa như thế, về sự ḥa hợp tạo tác như thế v.v… rồi, ĺa pháp hư giả. Do đấy Tụng nói: Bát-nhă Ba-la-mật. Đây là thế nào? Nghĩa là, các thứ lời, nghĩa đă được thuyết giảng của Bát-nhă Ba-la-mật-đa hiện có. Tự tánh tức là Đức Phật, Thế Tôn, tất cả như thế nên biết đều dựa nơi ba thứ tướng để nói, không phải là ĺa tự tánh như y tha v.v… mà có riêng nghĩa được tạo thành. Ở đây, chỗ nêu bày, hành tướng như thế nào? Nghĩa là, như nói về huyễn dụ cùng thấy biên rồi, tức là nói về tánh của y tha khởi kia, nhưng không dị biệt. Nếu nói về tánh của y tha khởi, tức là huyễn dụ cùng thấy biên. V́ sao? V́ pháp không lại có. Như vậy nơi xứ khác cũng thế, nên biết.
Lại nữa, ở đây nếu nói về hành tướng hiện có của môn Chỉ, tức là nói về tánh của biến kế ấy, nhưng không dị biệt. Nếu nói về tánh của biến kế, tức là đă nói về môn Chỉ. V́ sao? V́ pháp ấy là không. Ở trong tánh của viên thành thật, làm sao có môn được nêu bày đó? Do trong pháp kia không có tánh. Như thế, tùy theo phần vị đă sinh, tức phần vị đă được nói như vậy, nhưng cũng không thật. Thế nên Tụng nêu:
Mười phân biệt tán loạn
Đối trị như tiếp, nói
Ba thứ ấy biết rồi
Nói hoặc tức hoặc ĺa.
+ Tụng nói: Mười phân biệt tán loạn, Đối trị như tiếp, nói: Nghĩa là, mười thứ phân biệt tán loạn hiện có, nay ở đây theo thứ lớp nói về việc đối trị chúng, tức đối trị về mâu thuẫn cùng chủ thể đối trị, đối tượng được đối trị.
+ Nói là ba thứ: Nghĩa là tánh của biến kế, y tha, viên thành thật. Ba thứ như vậy, theo như thứ lớp nhận biết rồi, nghĩa là nhận biết rơ về những thứ đă nói.
+ Nói hoặc tức hoặc ĺa: Nghĩa là trong giáo pháp của Bát-nhă Ba-la-mật-đa, có tức có ĺa. Ở đây, ư chung là nếu nhận biết rơ như thế rồi, th́ các sự tướng hiện có của biến kế, y tha kia, hoặc tức hoặc ĺa. Mỗi mỗi tướng ấy, như chỗ đă nói, được hiển bày, khai thị.
Hỏi: Ở đây v́ sao nói biến kế v.v… hoặc tức hoặc ĺa? Do vậy Tụng nêu:
Như trước nói viên thành
Y tha cùng biến kế
Phân biệt sắc, vô tướng
Dứt trừ tán loạn kia.
+ Nói: Như trước nói viên thành v.v… Như: Là chỉ cho pháp. Nghĩa là, trong giáo pháp của Bát Thiên Tụng Bát-nhă như thế, đầu tiên là ngôn ngữ. Như kinh ấy nói: Nầy Tu-bồ-đề! Tùy theo chỗ ưa thích của Tôn giả, nên thuyết giảng về Bát-nhă Ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát, phải nên phát khởi như các Bồ-tát Ma-ha-tát xuất sinh từ Bát-nhă Ba-la-mật-đa. Nói như thế tức là ngôn ngữ đầu tiên. Ngôn ngữ ấy là dựa nơi ba tánh viên thành, y tha, biến kế mà nói. Như đă nói về tướng, tức là tánh viên thành cùng tự sắc tướng chẳng phải không. Nếu ở trong tự sắc tướng như thế, khởi phân biệt tán loạn về vô tướng nơi sắc, Đức Thế Tôn đối với điều ấy thảy đều dứt trừ.
Hỏi: Lại như nghĩa ấy, làm thế nào để nhận biết rơ?
Đáp: Như trong ngôn ngữ hiện có ấy, nay ở đây sẽ lược nêu bày về nghĩa. Như kinh ấy nói: Như các Đại Bồ-tát xuất sinh từ Bát-nhă Ba-la-mật-đa v.v… Xuất: Tức nghĩa xuất ly, lại là nghĩa xuất sinh, hoặc là nghĩa đạt được đạo vô thượng. Nói tóm lại, hoặc là cảnh giới của vô số nghĩa. Ở đây, nói như thế, là do từ đấy xuất sinh tất cả nghĩa. Trong đó lại có thể sinh ra các sự như xưng tán v.v… Nghĩa là các thứ xưng tán hiện có của Phật, Bồ-tát. Tướng xưng tán đó, như trước đă nói.
Lại, như kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Tôn giả theo chỗ ưa thích thuyết giảng về Bát-nhă Ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát, phải nên phát khởi sự việc của các cảnh giới.
+ Gọi là ưa thích thuyết giảng: Nghĩa là tuệ vui thích nêu giảng cùng đạt được ánh sáng của sự vui thích giảng nói ấy nên gọi là ưa thích giảng nêu. Ở đây, một đoạn văn kinh như thế v.v…, tức đă nói về sự tướng nơi tánh của y tha khởi. Hoặc như kinh ấy, toàn đoạn văn kinh, từ Tu-bồ-đề, cho đến: Xuất sinh v.v…, trong đó, nếu có nói về nghĩa thật kia, tức là dựa nơi tánh của biến kế mà nói. Lại, như kinh viết: Như các Đại Bồ-tát xuất sinh từ Bát-nhă Ba-la-mật-đa v.v…: Một đoạn văn kinh nầy tức đă nói về sự tướng nơi tánh của viên thành thật. Ư chung ở đây là do nhân ấy, nên dựa vào ba thứ nghĩa để tuyên thuyết về Bát-nhă Ba-la-mật-đa. Thế nên, điều giảng nói có tức có ĺa. Lại như Tụng nêu:
Kia Phật cũng Bồ-đề
Không thấy người thuyết giảng
Đến sau cùng, đây biết
Dứt trừ tánh biến kế.
+ Nói: Kia, tức là nhân kia. Đây là thế nào? Nghĩa là các kẻ ngu tối, ở trong giáo pháp của Bát-nhă Ba-la-mật-đa, chấp trước về câu nghĩa cho là thật, chủ thể nhận biết, đối tượng được nhận biết dấy khởi các biến kế, nên ở đây cần dứt trừ.
Hỏi: Pháp nào có thể dứt trừ?
Đáp: Pháp Chỉ, nên biết.
Hỏi: Người nào là người thuyết giảng? Tụng tự đáp, nói:
Kia Phật cũng Bồ-đề
Không thấy người thuyết giảng.
Ở đây là thế nào? Tức như chỗ nên an lập câu nghĩa, người có thể nhận biết rơ, tức là Đức Phật.
+ Bồ-đề: Là trí ĺa hai chướng phiền năo và sở tri. Vân vân là tức cùng gồm thâu cả Bồ-tát, Thanh-văn.
+ Gọi là người thuyết giảng: Tức là Đức Phật v.v… Nghĩa là, nếu có người ở trong tự tánh của uẩn v.v… “biến kế” điên đảo, Đức Phật v́ họ nêu giảng để dứt trừ pháp đó. Ở đây, như vậy tức có người thuyết giảng, Tụng nói: Không thấy, như lư nên biết.
+ Hỏi: Về những ǵ đă được nói ấy, đâu là phần hạn?
Tụng tự đáp, nói: Đến sau cùng. Nghĩa là, trong giáo pháp của Bát-nhă Ba-la-mật-đa nầy, từ đầu đến cuối, đều trọn vẹn, đó là phần hạn.
+ Tụng nói: Dứt trừ tánh biến kế. Nghĩa là ở đây đă nói về nghĩa không thấy Phật cùng Bồ-đề, đều là nhằm dứt trừ sự phân biệt về hữu tướng nơi tánh của biến kế.
Hỏi: V́ sao trong ấy chỉ dứt trừ tánh của biến kế? Không dứt trừ viên thành? Tụng tự nêu chung:
Tự tánh không sắc kia
Cùng tướng, sao có được
Trong lời dị biệt ấy
Biết rơ rồi, kia dứt.
+ Nói tự tánh v.v…: Tự tánh là nghĩa bản tánh. Không sắc kia: Tức tự tánh của sắc là không. Nếu trí ấy cùng thấy có sắc, tức có chỗ chấp giữ. Như vậy, tất cả suy xét về sắc có thật, chúng đều là đối ngại, ở trong cùng tướng mà có tướng tăng thêm, trở lại thành phân biệt. Chỗ phân biệt, tướng ấy như thế nào? Do đấy Tụng nói: Cùng tướng, sao có được.
+ Cùng tướng: Tức là hai cùng tướng. Nghĩa là tự tánh của sắc, ở trong thắng nghĩa đế, không có phần vị của đối tượng được giữ lấy. Ví như người cứu xét, đối chiếu, nghĩa ấy nên biết. Thế nên chỉ dứt trừ biến kế, không dứt trừ viên thành. V́ sao? V́ trong thắng nghĩa đế, tánh không có. Tụng nói:
Trong lời dị biệt ấy
Biết rơ rồi, kia dứt.
+ Ấy: Là nghĩa nhân.
+ Nhận biết rơ: Là nghĩa hiểu rơ. Nghĩa là do ở trong lời dị biệt kia, khéo nhận biết rơ rồi, liền có thể xa ĺa.
+ Nói: Kia dứt: Dứt nghĩa là dứt trừ, tức dứt trừ các biến kế hiện có kia. Ở đây, như thế v.v… nên biết, đều là nhằm dứt trừ sự phân biệt tán loạn về “Cùng tướng”, sau sẽ dứt trừ sự phân biệt tán loạn về hủy báng.
Như Tụng nêu:
Đây chẳng không, nên không
Lời như thế, đă nói
Các phân biệt hủy báng
Hết thảy nói, đều dứt.
+ Nói: Đây chẳng không, nên không v.v…: Nghĩa là Đức Phật Thế Tôn, ở trong Bản mẫu của Bát-nhă Ba-la-mật-đa, đă tuyên thuyết: Chẳng không nên không.
+ Gọi là: Lời như thế, đă nói: Nghĩa là đă nêu bày lời như vậy, đó là chẳng không nên không, là tánh không ĺa.
+ Nói: Các phân biệt hủy báng: Là nếu có người, ở trong chẳng không nên không ấy, chấp giữ tự tánh không, tức là phân biệt, hủy báng, nay đều dứt trừ.
+ Hết thảy nói, đều dứt. Hết thảy: Là tất cả xứ, tất cả chủng loại. Nói: Tức là ngôn thuyết. Nghĩa là Đức Phật, Thế Tôn, không chỉ ở đây dứt trừ phân biệt của biến kế, mà ở nơi tất cả xứ có ngôn thuyết chấp không, thảy đều dứt bỏ hết.
Lại nữa, Tụng nêu:
Như huyễn cũng vậy, Phật
Kia như mộng cũng thế
Như vậy như tiếp, biết
Trí, ngữ biên quyết định.
+ Nói: Như huyễn cũng vậy, Phật, Kia như mộng cũng thế. Nên biết, nêu bày như thế cũng là nhằm dứt trừ sự phân biệt hủy báng.
+ Như huyễn: Là dùng huyễn dụ cho pháp, nên gọi là như huyễn. Thế nào là như huyễn? Nghĩa là tức Đức Phật. Cũng vậy: Là nghĩa nối tiếp nói.
+ Như mộng cũng thế: Tức Đức Phật kia cũng lại như mộng. Ở đây, nếu có nói về ngôn thuyết của Phật, nên biết đều là nói về trí không hai. Nhưng tự tánh của nó, so với hàng phàm phu là như nhau, tương tục có, chỉ v́ vô minh huyễn che phủ, nên nơi tự tướng của các kẻ ngu tối đă bị ẩn mất, không hiện.
+ Tụng nói:
Như vậy như tiếp, biết
Trí, ngữ biên quyết định.
Nghĩa là, những điều đă nói như vậy, theo như thứ lớp, như lưmà nhận biết. Biết nghĩa là nhận biết rơ.
Hỏi: Người nào có thể nhận biết? Tụng đáp: Trí. Trí tức là bậc trí.
Hỏi: Những ǵ là ngữ biên quyết định?
Đáp: Đó là tất cả pháp như huyễn.
Hỏi: Ở đây, dứt trừ phân biệt hủy báng, nhận biết như thế rồi, về sau v́ sao lại có chỗ mở bày, chỉ rơ? Thế nên, Tụng nêu:
Các đồng cùng chỗ tạo
Đây nói Phật như huyễn
Huyễn dụ cùng, ngôn cùng
Đây nói tánh y tha.
+ Nói: Các đồng cùng chỗ tạo, Đây nói Phật như huyễn. Đồng chỗ tạo: Là đồng với huyễn kia. Ư ở đây là nếu trong trí không hai của tất cả xứ không sinh, th́ các đồng kia cùng với chỗ tạo tác nêu bày không tương ưng. V́ sao? V́ do các huyễn cùng đều có tánh. Ở đây, Phật cũng có tánh như thế. Do vậy, Tụng nói: Nói Phật như huyễn.
+ Tụng nêu:
Huyễn dụ cùng, ngôn cùng
Đây nói tánh y tha.
Trên nói cùng (Huyễn dụ cùng): Là cùng gồm thâu mộng v.v… Lại nói cùng (Ngôn cùng): Tức là nghĩa nhân đấy. Nói: Là ngôn thuyết. Nếu nói huyễn dụ cùng ngôn thuyết, tức là nói về tánh y tha khởi kia. Tánh y tha nầy Đức Phật đă nêu bày. Y tha là nương dựa hệ thuộc vào cái khác (tha), nên gọi là y tha. Y tha nầy tức là tự thể của vô minh, ở đây cùng với phần vị có chỗ nương dựa. Tức nói về như huyễn ấy, Phật cũng vậy. Do đó, nên biết, chẳng phải hết thảy chủng loại, tất cả đều vô tánh, mà do tự tánh thanh tịnh, nên cùng huyễn dụ kia, Phật v.v… đă nói, tất cả đều như thế. Những nêu bày như vậy, nếu có người phân biệt hủy báng, th́ kẻ ấy không phải là tất cả chúng sinh của Như Lai tạng, chẳng phải là trí không hai. V́ sao? V́ ở trong tất cả Hữu đă phân biệt hủy báng. Do như thế, nên đối với nghĩa được tạo thành đều không thành, cũng không ḥa hợp.
Hỏi: Nếu trong thắng nghĩa đế, trí không hai tức là Như Lai. V́ sao ở đây nói là trí của phàm phu?
Nhằm phá trừ nghi ấy, nên Tụng nêu:
Nếu trí các phàm phu
Tự tánh ấy thanh tịnh
Nên nói Phật kia nói
Bồ-tát cũng như Phật.
+ Nói: Nếu trí các phàm phu, Tự tánh ấy thanh tịnh: Tức các phàm phu, bản tánh là thanh tịnh. Thể tức là trí của tự tánh thanh tịnh.
+ Nên nói Phật kia nói: Nghĩa là trí không hai như thật của Phật kia nói. Đây nêu bày về trí của phàm phu cũng lại như nhau.
Hỏi: Nếu do trong chỗ hành tướng nên nói như thế, th́ điều ấy lại như thế nào? Tụng tự đáp, nói: Bồ-tát cũng như Phật.
Do trí không hai đă sinh khởi nghĩa như thế. Do đó, Bồ-tát cũng tức như Phật. Do nhân nầy, nên Phật cùng Bồ-tát nói không có dị biệt.
Hỏi: Hoặc phàm phu hoặc chư Phật, ở trong trí như thật có sự sinh khởi, v́ sao trước nói là không sở đắc? Tụng tự làm thông tỏ, nói:
Tự tánh, tự sắc phủ
Nhân vô minh kia tạo
Như huyễn hiện dị biệt
Quả như mộng, trừ bỏ.
+ Nói: Tự tánh, tự sắc phủ, Nhân vô minh kia tạo: Nghĩa là tự thức của các phàm phu ḥa hợp, v́ tự tánh không hai. Do vô minh kia làm nhân, đă tạo khởi ngă, ngă sở. Ngă nghĩa là tự tánh, ngă sở là tự sắc. Do tự sắc che phủ, khiến chỗ hiển bày có dị biệt, nên khởi hai tướng, tướng ấy không hai, cũng không có thật. Đây lại là thế nào? Tụng nói: Như huyễn. Ở trong không tự tánh như huyễn ấy, giữ lấy tánh vật thật. Nhưng đối tượng được giữ lấy kia, cùng với trí không hai là có đối ngại.
Hỏi: Nếu tự tánh của trí không hai nầy cùng với tự tánh nơi trí của phàm phu nói là b́nh đẳng, th́ do đâu trong thức của phàm phu không xuất hiện?
Đáp: Do tánh điên đảo của chủ thể giữ lấy, đối tượng được giữ lấy đă che giấu. Nhưng trong thức của Như Lai, nơi tất cả thời, do tánh thanh tịnh nên luôn xuất hiện.
Hỏi: Nếu trong tánh thanh tịnh của các phàm phu mà không có quả chân thật xuất hiện, tức tất cả thời đều bị vô minh phủ kín. Sự việc ấy lại là thế nào? Do đó, văn tụng đă phá bỏ nghi vấn ấy, nói: Quả như mộng, trừ bỏ. Trừ bỏ: Tức là nghĩa không chấp giữ. Trong đây, ư nói: Trong trí của tự tánh thanh tịnh hiện có, không phải là không có tánh của quả. Chỉ v́ bị vô minh che phủ nên ẩn mất. Như các tuệ văn, tư, tu ḥa hợp tạo tác, quả đạt được ấy nhưng nghĩa không thật. Ở đây cũng thế. Như trong mộng, nghĩa của quả nhận biết không thật. Vô tướng có thể biểu hiện, tuy ḥa hợp tạo tác, tợ như có sở đắc, đắc rồi từ bỏ. Đây nói quyết định đó là lư đúng.
Lại nữa, Tụng nêu:
Nói không hai, dị biệt
Quả cùng định hủy báng
Hủy báng các phân biệt
Kia hủy báng, đây nói.
+ Nói không hai, dị biệt v.v…: Nghĩa là các kẻ ngu tối, ở trong trí không hai, đă hiện khởi kiến chấp điên đảo dị biệt, chấp trước nơi tướng của hai thứ cảnh giới.
+ Tụng nói: Quả cùng định hủy báng. Quả cùng: Nghĩa là ở trong quả cùng cảnh giới nơi tướng chân như, quyết định hủy báng, nay ở đây là dứt trừ.
+ Hủy báng các phân biệt: Nghĩa là hủy báng, nên khởi các phân biệt. Nhưng các thứ phân biệt hủy báng ấy, nay đều dứt trừ. Tụng nêu: Đây nói: Là dứt trừ. Nay ở đây nói: Chẳng không nên không, là nhằm khiến trừ bỏ lời nói hư giả kia. Nên nhận biết ở đây sắc tức là không.
Lại nữa, trong ấy, một tánh phân biệt có chỗ khởi hiện. Điều ấy lại là thế nào? Nghĩa là trong Bản mẫu của Bát-nhă Ba-la-mật-đa đă nói: Nếu sắc không tức chẳng phải sắc, tức đă nói về sự ḥa hợp được tạo như thế. Nhằm khiến trừ bỏ sự phân biệt về một tánh, nên nói nghĩa quyết định. Do đó, Tụng nêu:
Sắc, không chẳng ḥa hợp
Kia hỗ tương trái, ngại
Vô sắc, vô không, gọi
Sắc tướng tự ḥa hợp.
+ Nói: Sắc, không chẳng ḥa hợp: Nghĩa là sắc và không chẳng ḥa hợp. Không ḥa hợp: Là nghĩa không tương ưng.
+ Hỏi: Do đâu không ḥa hợp? Tụng tự đáp, nói: Kia hỗ tương trái, ngại. Nghĩa là hai thứ sắc, không cùng hại nhau nên mâu thuẫn. Hành tướng ở đây như thế nào? Tụng nói: Vô sắc, vô không, gọi. Nghĩa là nếu không sắc tức không không, do không tự tánh. Ví như hoa sen của hư không, nghĩa ấy nên biết.
+ Tụng nói: Gọi, tức là nghĩa chứng nhận. Chứng nhận ở đây nói không tự tánh.
+ Sắc tướng tự ḥa hợp: Nghĩa là tướng của các sắc xanh vàng đỏ trắng, chúng tự ḥa hợp. Ư chung ở đây là chúng có tự tánh cùng không tự tánh, nên biết hai thứ quyết định là trái nhau.
Lại nữa, Tụng nêu:
Đây phân biệt một tánh
Đối trị vô số tánh
Không chẳng khác sắc kia
Không kia sao có được.
+ Nói: Đây phân biệt một tánh v.v…: Đây là nghĩa nhân đấy. Do nhân ấy, tức biểu thị sự đối trị là dứt trừ sự phân biệt một tánh. Do đó, trong giáo pháp của Bát-nhă Ba-la-mật nầy đă nói: Nếu sắc không tức phi sắc. Ở đây, như thế là nhằm dứt trừ phân biệt về một tánh. Thế nên, Tụng nói:
Không chẳng khác sắc kia
Không kia sao có được.
Như ở trên tụng nêu: Đối trị vô số tánh: Nghĩa là, trong việc dứt trừ vô số tánh, tức có chỗ phân biệt. V́ vậy, trong Bản mẫu của Bát-nhă Ba-la-mật-đa ấy đă nói như vậy. Đó là không chẳng khác sắc. Ở đây, v́ sao đă nói như vậy? Là do không ngăn ngại sắc.
Hỏi: Dứt trừ pháp ǵ?
Đáp: Dứt trừ sự phân biệt về vô số tánh.
Đây lại nhân nơi ǵ? Đó là không kia chẳng khác với tướng của sắc uẩn, sắc sao có được. Thế nên đây nói sắc tức là không. Ĺa không, chẳng có một chút sắc nào có thể đạt được, do không chỗ có. Như vậy, những thứ đă nói đều là nhằm dứt trừ sự phân biệt tán loạn về vô số tánh.
Hỏi: Đây lại nhân nơi ǵ để ĺa không không sắc? Do đấy, Tụng nêu:
Đây chỗ hiện không thật
Kia vô minh đă khởi
Đây năng biểu không thật
Kia nói là vô minh.
+ Nói: Đây chỗ hiện không thật v.v…: Không thật: Nghĩa là không có thật. Ở đây đă xuất hiện nhưng bị đối ngại.
+ Tụng nói: Kia vô minh đă khởi: Nghĩa là sắc hiện có, tự tánh của sắc ấy đă có chấp trước, nên vô minh dấy khởi.
Chấp trước: Là nghĩa ngăn che.
Nếu ở trong chỗ chẳng thật đă hiện như thế, chấp trước có tánh, đó là ngăn che. Thế nên ở đây, ư tăng thượng, nói: Không chẳng khác sắc.
Hỏi: Các phàm phu hiện có trí của tự tánh thanh tịnh, v́ sao trong kia nói vô minh dấy khởi? Do vậy, văn của tụng đă phá bỏ nghi vấn ấy, nói:
Đây năng biểu không thật
Kia nói là vô minh.
+ Không thật: Tức là câu nghĩa không thật. Biểu: Là biểu hiện rơ. Năng: Là năng lực. V́ không thật nên không phải là chỗ có thể biểu thị. Ư chung ở đây là nói về vô minh, nên không phải là thắng nghĩa đế.
Lại nữa, Tụng nêu:
Đây nói sắc như vậy
Bát-nhă Ba-la-mật
Không hai, hai như thế
Hai phân biệt, đối trị.
+ Nói: Đây nói sắc như vậy, Bát-nhă Ba-la-mật: Nghĩa là Bát-nhă Ba-la-mật-đa nầy đă nói về nghĩa của sắc, tức trí của tự tánh thanh tịnh có thể diệt trừ tánh che phủ của chủ thể giữ lấy cùng đối tượng được giữ lấy. Nên trong Bát-nhă đă nói, tức là tuệ lực.
Hỏi: Nếu vô minh cùng phân biệt khởi hiện, th́ dùng ǵ để đối trị? Tụng tự đáp, nói:
Không hai, hai như thế
Hai phân biệt, đối trị.
Ư ở đây là nếu hai thứ kia như thế, có chỗ hiện bày, tức do trong tướng của thắng nghĩa, trí của tự tánh thanh tịnh không hai, có thể làm đối trị. Tức đối trị hai tướng phân biệt về hữu tánh, vô tánh. Lại do ba tuệ văn, tư, tu ḥa hợp đối trị.
Như vậy, đối trị hai tướng ấy rồi, ở đây, nghĩa như thế tức là đối trị như lư chân thật. Như trong chốn đồng vắng mênh mông, trông thấy dợn nắng, vọng sinh tưởng về nước uống. Nghĩa ấy nên biết. Nơi đây, Đức Như Lai, như thế là đă nhận biết rơ về chân thật tối thượng, nên ở trong Bản mẫu của Bát-nhă Ba-la-mật-đa, nêu giảng như thật.
Lại nữa, nên biết, trong Bát-nhă Ba-la-mật-đa nầy, đă nói về mười thứ phân biệt tán loạn, đều dùng trí không phân biệt để đối trị.
Hỏi: Nếu như thế, th́ v́ sao nơi phần thâu giữ chung, chỉ nói đối trị hai thứ, há không phải là lỗi?
Đáp: Đây cũng không lỗi. Tức là, ở trong hai thứ như thế mà có thể gồm thâu ẩn giấu, cũng có thể dứt trừ các thứ phân biệt khác. Thế nên ở đây, ư là gồm thâu chung hai thứ.
Hỏi: Nếu hai thứ ấy đă có thể gồm thâu ẩn giấu phân biệt khác, th́ do đâu Đức Thế Tôn lại nói về nhiều thứ phân biệt tán loạn?
Đáp: Ư ở đây là nói, chỉ v́ tâm ư của chúng sinh có sai biệt. Nên nghĩa tự ḥa hợp, lại dứt trừ luận ấy.
HẾT - QUYỂN 3
THÍCH LUẬN PHẬT MẪU BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA VIÊN TẬP YẾU NGHĨA
Tác giả: Bồ tát Tam Bảo Tôn. Bồ tát Đại Vực Long tạo bản luận
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Đại sư Thi Hộ
Việt dịch: Nguyên Huệ
-o0o-
QUYỂN 4
Lại nữa, ở đây là hiển thị Đức Thế Tôn đă thuyết giảng về lư chân chánh. Như Tụng nêu:
Như lư nói tánh tịnh
Cũng vậy, không thể đắc
Tánh, vô tánh cùng trái
Vô số tánh định thấy.
+ Ở đây nói: Như lư nói tánh tịnh v.v…: Nghĩa là phân biệt theo nhiễm, do trí đối trị các thứ có tán loạn, thế nên nói như lư, tức Đức Thế Tôn ở trong Bát-nhă Ba-la-mật-đa đă thuyết giảng đúng đắn.
+ Tụng nói: Tánh tịnh: Tức là ánh sáng của tự tánh thanh tịnh như lư, có thể đối trị các thứ tán loạn, không thanh tịnh kia. Tụng nói: Cũng vậy: Là nghĩa tụ tập. Tức lượng tụ tập hiện có của tánh như một tánh v.v…, là không thể đạt được. Nói như lư, tức nghĩa như lượng, thể tức là trí không hai. Trí ấy có thể đối trị, đấy là quyết định.
Hỏi: Đây lại là những thứ lượng ǵ không thể đạt được?
Đáp: Đây là nói về tỷ lượng không thể đạt được.
Tự thọ hiện có không phải là tướng khác đă tăng trưởng, như lạc v.v… nơi tự thọ nhận. Nếu nói luận an lập, tức tự tánh của trí như thật đă đạt được là mâu thuẫn. Tướng khác có tăng, th́ tự thọ không thành lượng đối trị. Ở đây, không phải các tướng như xanh, vàng v.v… của đối tượng được nhận biết, tánh một – nhiều khác với có phân biệt. Do đó, quyết định quán xét. Tự thọ thành tựu về nẻo hành từ bi, tức không phải tánh được chiếu hiện của ngoại môn, không bị tướng khác có tăng trưởng làm động loạn. V́ sao? V́ các tướng như xanh, vàng v.v… hiện có, ở trong thắng nghĩa đế, đều không có thật tánh. Đây chỉ có trí là nhận biết rơ như thật, nên đấy không có lỗi lầm. Nếu đối với sự bên ngoài, như tự thọ, do nghĩa như thế có chỗ an lập, tức nghĩa chẳng như, v́ đấy có lỗi lầm, nhưng không phải quyết định thấy biên thành tựu. V́ sao? V́ do các thọ như lạc v.v… đối với các xứ bên ngoài không có tánh. Cũng không phải ở xứ khác có chỗ xét t́m. Trong đây, các thọ như lạc v.v… tức thọ của tự tánh như lạc v.v…, không phải thọ của tướng như lạc v.v… Những điều đă được nêu bày ấy, tức ĺa trí của hai tướng chủ thể giữ lấy cùng đối tượng được giữ lấy. Đấy không phải là chỗ hiện có dị biệt.
Hỏi: Nếu nay không có thức của chủ thể giữ lấy, đối tượng được giữ lấy kia, th́ v́ sao về sau lại có tánh của thức ấy?
Đáp: Ở đây chỉ ĺa tướng của chủ thể giữ lấy và đối tượng được giữ lấy. Tướng của thức sau đó tuy có, nhưng không phải là ngôn ngữ biểu thị. Tánh của pháp có kia đă biểu thị chân thật, ḥa hợp như lư, do đấy, ở đây nói tất cả thức đó. Như trí của tỷ lượng không phải do ở đây ḥa hợp tạo thành. V́ sao? V́ do tướng của trí không hai không phải có hai tướng lănh nhận đă hành tác. Nếu có hai tướng mà lượng kia không thành, th́ chính là do hai tướng đă bị đối ngại. Như chấp nơi “sừng thỏ” há không phải là lỗi lầm? V́ sao, không phải trong chủ thể giữ lấy âm thanh nói có tướng trí? Do pháp đó quyết định không có tánh. Nhưng do thức ấy, đối với các tướng bên ngoài như xanh, vàng v.v… đều có đối ngại, nên sự xét t́m một, khác kia có tánh gắng sức nhận giữ, không phải là ư chân thật, cũng chẳng phải là thức ĺa thắng nghĩa đế mà có đối tượng được giữ lấy. Các thứ lạc như vô tánh v.v… ấy đă giữ lấy để quyết định về thể tánh của tướng trí hiện có, đấy là chủ thể giữ lấy, đấy là đối tượng được giữ lấy. Nhưng ở đây là nói không có tướng của chủ thể giữ lấy kia. Do thể cùng nghiệp hỗ tương vui thích giữ lấy tánh quyết định, nên không phải là tướng của trí. Trong tự thọ nói về chủ thể giữ lấy âm thanh, cũng không có tướng của trí, hỗ tương vui thích giữ lấy quyết định về tự lư, theo như tánh đă được sinh như thế. Như vậy là ở trong tự thọ của tướng trí đă an lập đúng đắn. Những thứ đă nêu bày ấy là nhằm ĺa tánh của chủ thể giữ lấy, cùng đối tượng được giữ lấy. Ở đây nói về không hai tức tướng của trí. Tự thọ hiện lượng thành tựu, không phải là tất cả chân thật được hiển thị, ḥa hợp. Nếu lại chấp nơi chỗ quyết định kia tánh không phần vị, tức trong tướng của trí không hai có chỗ động loạn, chủng tử tùy sinh không theo tướng của trí, không có hai đối hiện được sinh. Nếu chấp nơi chỗ quyết định về tướng không hai, th́ ở đây trở lại thành chấp trước phân biệt, không phải tướng của trí ấy, ở trong pháp đồng mà được thành tựu. Do đó, nơi tất cả nghĩa hiện có mà thành hủy báng. Nên biết, tánh thế tục cùng thắng nghĩa đă quyết định về nghĩa không có thật như vậy.
Trong đây, nghĩa được hiển minh, như Đức Phật đă nói trí tức là minh, thế tục tức vô minh. Trí hoặc minh hoặc vô minh đều nhận biết như thật về chủng loại dị biệt, cũng không có sinh. Thế nên pháp kia, cùng tướng như thật không điên đảo, tức tướng của trí minh thực hiện đối trị, nên biết là quyết định. Nếu trong thắng nghĩa đế nầy, quyết định không có tự tánh, th́ như mây nơi hư không, chúng không phải là đối trị. Do đối trị như lư hiện có ấy đă hành tác chân thật, đạt được tương ưng, như tự tánh nóng đối trị vật lạnh. Nghĩa không thật nầy biểu thị cho vô minh cũng thế. Do nói về nghĩa như thật, nên trong nhân nơi tự tánh của trí không hai đó, có nhiều chủng loại. Hoặc trong ấy quyết định về tướng của thế tục chấp là có tánh, th́ điều đó không thể nêu bày. Ở trong đối tượng hành tác có hai tướng, c̣n trong trí thật th́ không hai.
Hỏi: Nếu như trước nói trí tức là minh, thế tục tức vô minh, th́ nói như vậy há chẳng phải là trong ấy tự nêu bày có mâu thuẫn, do tự tánh của ḿnh khác với hữu tánh của thế tục?
Đáp: Tướng không hai của ḿnh tức là tánh của thắng nghĩa đế. Đây nói như thế là lư chánh thành tựu. Nếu thế tục mong muốn lănh nhận, các bậc Sư xưa, Tiên nhân, đối với lời ấy cũng có nghĩa dị biệt, như nơi xứ khác đă nói, ở đây không nêu dẫn lại. Như phần chánh lư ở sau, trong đó Tụng nêu: Tánh, vô tánh cùng trái.
+ Nói cùng: Là nghĩa gồm tập, không phải chỉ như trước đă nói. Chánh lư nơi trí ĺa phân biệt, hành đối trị tán loạn. Ở đây, hữu tánh, vô tánh trái nhau. Nên biết pháp đó cũng quyết định đối trị. Nghĩa là như vô số tánh hiện có, tự tánh của vô tánh nơi trí ĺa phân biệt, tức là đối trị. Nên biết ở đây, hoặc tánh hoặc tướng, do lực của trí nên có thể hiển bày nghĩa đúng đắn. Điều ấy lại là thế nào? Tức trong thắng nghĩa đế không có các sắc, một tánh cùng sinh. Nếu lại không có thật tức vô số tánh định thấy. Nói định là nghĩa quyết định. Tức một tánh quyết định, do lực của minh nên nêu bày như thế. V́ sao ở đây đă nói như vậy? Tụng nêu:
Nói sắc ấy chỉ danh
Chân thật không tự tánh
Phân biệt tự tánh ấy
Nạp nhận tức nên biết.
+ Đây nói chỉ danh v.v…: Tức trong Bát-nhă Ba-la-mật-đa nầy, Đức Thế Tôn đă nói sắc ấy chỉ là danh. Chỉ là danh: Đây tức chỉ là tưởng. Do đó, trong thắng nghĩa đế chân thật có chỗ an lập. Nhưng tướng của sắc uẩn, là vô tự tánh không. Nghĩa là do nhân như thế, tức có phân biệt về tự tánh đối với chỗ nạp nhận ấy. Phân biệt, nghĩa là tự tánh của cảnh giới, như tánh kiên cường, vậy nên có tướng phân biệt đó tăng trưởng, mới dấy khởi phân biệt về tự tánh như thế. Như vậy, phân biệt về tự tánh hiện có đă nạp nhận nhiều loại. Đấy đều là dứt dừng, tức là dứt trừ hẳn. Những nêu bày như vậy đều là để dứt trừ phân biệt tán loạn về tự tánh. Trong Bản mẫu của Bát-nhă Ba-la-mật-đa nầy, lại v́ nghĩa trước nên trừ bỏ lỗi lầm.
Tụng nêu:
Sắc cùng tự tánh sắc
Không như trước đă nêu
Tự tánh kia cùng tướng
Phân biệt, đây dứt trừ.
+ Đây nói: Như trước nói v.v…: Nói nghĩa là ngôn thuyết. Tức các thứ hiện có như ở trước đă nêu bày. V́ vậy câu tụng thứ nhất nói: Sắc cùng tự tánh sắc.
Ở đây là không, nên nói như thế là để trừ bỏ sự phân biệt về cùng tướng của tự tánh kia.
+ Trên nói sắc: Tức là hai tướng tự, cộng của sắc. Tự tướng, cộng tướng cùng tự tánh của sắc ấy đều là không. Ở trong cùng tướng như đại chủng v.v… khởi tướng phân biệt tăng trưởng, th́ cùng tướng của tự tánh kia sẽ đối trị sự phân biệt.
Hỏi: Ở đây, so với lần dứt trừ thứ ba ở trước về phân biệt cùng tướng, hành tướng như thế nào?
Đáp: Như trước đă nói phân biệt tán loạn về cùng tướng: Trong đó, sắc cùng tự tánh của sắc, cả hai là cùng có.
C̣n ở đây là dứt trừ cùng tướng: Tức chỉ là dứt trừ tự tướng, cộng tướng ấy. Hành tướng như thế nào? Đó là ở đây, các tướng như tánh kiên cường v.v…, do sai biệt mà có. Đấy tức là ở đây, cùng tướng nên được dứt trừ. Cũng không phải chỉ dứt trừ phân biệt như vậy, mà các phân biệt tán loạn khác cũng lại dứt trừ.
Lại nữa, Tụng nêu:
Chẳng sinh cùng chẳng diệt
Quán các pháp hiện có
Phật nói hoặc tan, biến
Phân biệt sai biệt kia.
+ Nói chẳng sinh: Tức Đức Thế Tôn, ở trong Bát-nhă Ba-la-mật-đa như thế, đă nói: Quán nơi các pháp không sinh, không diệt. Do đấy nên nêu bày như vậy. Nếu có xứ an tan biến, th́ đấy tức phân biệt sai biệt. Hoặc thấy tướng sinh diệt sai biệt của sắc v.v…, tức đấy là phân biệt về tự tánh sai biệt của sắc như thế, trong đó nên ĺa, nghĩa là dứt trừ phân biệt tán loạn về sai biệt. Ở đây, nói như vậy cũng lại là để dứt trừ các tán loạn sau. Thế nên Tụng nêu:
Danh ngôn đều hư giả
Pháp kia nếu phân biệt
Tiếng, nghĩa, hai không hợp
Không tự tánh ư kia.
+ Đây nói hư giả v.v…: Tức trong giáo pháp nơi Bản mẫu của Bát-nhă Ba-la-mật-đa, đă biểu thị sự ḥa hợp. Nghĩa là danh hư giả, tức nói về tưởng phân biệt. Như trong giáo pháp nơi Bản mẫu của Bát-nhă Ba-la-mật-đa sau, đă ḥa hợp riêng biệt. Như vậy, âm thanh của pháp phân biệt ấy, là câu nghĩa của pháp ngôn ngữ hiện có, và phân biệt về cùng tướng, do đó hai thứ tiếng, nghĩa không phải là tự tánh ḥa hợp. Không phải là ư lạc tối thượng của Đức Thế Tôn, cũng không phải là ư lạc của kẻ khác. Nếu ở nơi phân biệt về tạo tác công xảo, lại chấp giữ nghĩa bên ngoài, tức các kẻ ngu tối đă an lập động loạn. Đối tượng hành như vậy, nhưng không phải ở đây có một ít nghĩa có thể đạt được, do nghĩa bên ngoài bị chấp trước, không phải là ngôn ngữ an lập, để mở bày môn động loạn của các kẻ ngu tối. Trong đấy, dứt trừ là tướng tùy chuyển của đối tượng hành tác, tức ở nơi tiếng, nghĩa, không có chút ǵ để có thể thủ đắc, do phân biệt về như danh, như thế là không thật có. Hoặc ở nơi sự tướng đă nêu bày, phân biệt như danh, tức chẳng phải là ư lạc. Do nhân ấy, nên ở đây, tất cả phân biệt về như danh, như tưởng đều ḥa hợp không thật. Có sự tướng đă nói đó, không phải là ư lạc tối thắng của Đức Thế Tôn. V́ sao? V́ nếu phân biệt như danh nơi nghĩa, tức ở nơi danh, nghĩa, có chỗ tăng rộng, ở trong sự bên ngoài, tánh của chủ thể nêu giảng, đối tượng được nêu giảng đều không thật, như thế là dứt trừ phân biệt tán loạn về như Danh nơi nghĩa.
Hỏi: Phân biệt về những ǵ?
Đáp: Là phân biệt về danh. Danh ấy lại cũng không có nêu bày. Thế nên Tụng nêu:
Bát-nhă Ba-la-mật
Phật, Bồ-tát cũng vậy
Đây, đă nói chỉ danh
Ĺa phân biệt nghĩa thật.
+ Nói: Bát-nhă Ba-la-mật-đa: Tức danh ĺa nơi nghĩa, như thế nghĩa thật của danh, là tự tánh phân biệt. Đức Thế Tôn đă nói nên ở đây dứt trừ, là nói về điều ǵ? Tụng nêu: Bát-nhă Ba-la-mật, Phật, Bồ-tát cũng vậy.
Ở đây, đă chỉ gọi là Bát-nhă Ba-la-mật-đa, trong ấy, nơi nào thừa nhận nói tự tánh có thật? Nghĩa là do Đức Như Lai đă nói như thế, nên nói âm thanh của danh cũng không tự tánh. Trong ấy, các thứ hiện có đều biểu thị riêng cho danh hiệu của Phật, Bồ-tát. Nên biết, ở trong trí không hai, không phải là dứt trừ điều ấy. Đây lại từ nơi nhân nào? Tụng nêu:
Tiếng, nghĩa hiện có, dứt
Dứt trừ không sự ấy
Như vậy, khác cũng biết
Trong lời, nghĩa quyết định.
+ Nói: Tiếng nghĩa hiện có v.v…: Tức là hai thứ tiếng, nghĩa hiện có, đây nói là dứt trừ.
+ Tụng nêu: Dứt trừ không sự ấy: Tức là trí không hai không dứt trừ tác dụng của sự tướng ở đấy, nhưng tánh vô ngôn đó là không thể nêu bày.
Hỏi: nay nói về nghĩa, đó là lư đúng, nhưng nơi xứ khác th́ thế nào? Tụng tự đáp, nói: Như vậy, khác cũng biết.
+ Như vậy: Tức ngay từ đầu đă nói là nghĩa quyết định như vậy.
+ Khác: Là các chủng loại c̣n lại, đă nêu bày thích hợp cũng thế. Nhận biết rơ tức là nhận biết rơ nghĩa quyết định ấy. Ư ở đây, nghĩa là ở trong Bát-nhă Ba-la-mật-đa, đă tuyên thuyết đúng như thật về nghĩa không điên đảo được thành tựu. Nhận biết rơ chân thật về tất cả danh, tánh, chính là không thể thủ đắc, do lời, nghĩa đó đă thiết lập, biểu thị.
Lại nữa, Tụng nêu:
Không sở đắc ấy, đúng
Hết thảy danh, thật biết
Như nghĩa, tánh như thế
Không dứt trừ tiếng kia.
+ Nói: Không sở đắc ấy v.v…: Tức là như tánh của nghĩa, pháp không thật có kia là không thể thủ đắc. Ở đây nói là đúng. Là đă nói về những ǵ? Tụng tự chỉ rơ, nói: Hết thảy danh.
Hỏi: Người nào có thể nhận biết đúng thật?
Đáp: Tức Nhất thiết trí. Thật là nghĩa không điên đảo. Biết là nhận biết rơ, tức nhận biết chân thật.
+ Tụng nói: Không dứt trừ tiếng kia. Nghĩa là nếu hai thứ tiếng, nghĩa, nơi tánh của nghĩa thật ấy nói không thể thủ đắc. Do nhân đó nên không dứt trừ âm thanh kia. Nghĩa là do âm thanh của đối tượng được giữ lấy thuộc văn trí đó là không thể dứt trừ. Như vậy, nên biết, ư lạc tối thắng quyết định là từ bi, nên đối tượng hành đều không chướng ngại. Như thế là dứt trừ phân biệt tán loạn về như nghĩa nơi danh. Các nghĩa như vậy là ư lạc chân thật đă được nêu bày thuận hợp. Có luận Tụng nói:
Hiện có tất cả danh hiện có
Các thứ pháp kia có chỗ nói
Nhưng chỗ nói ấy không thật có
Tức tất cả pháp đồng pháp tánh.
Danh kia hiện có, gọi tánh không
Danh của năng danh, không chỗ có
Mà tất cả pháp vốn không danh
Lập, do danh mạnh mà biểu thị.
Tất cả chỉ danh, đây nên biết
Trong hết thảy tưởng, giả an lập
Danh kia được tụ, tánh sai biệt
Nên biết danh ấy không thật có.
Như Tôn giả Tu-bồ-đề đă hỏi về Bát-nhă Ba-la-mật-đa, trong đó đă quyết định dứt trừ hai thứ tiếng, nghĩa. Nên Tụng giải thích, nói:
Tu-bồ-đề, hai ĺa
Nghĩa Thanh-văn như vậy
Bồ-tát không có danh
Ngă kiến, đây có nói.
+ Nói: Tu-bồ-đề v.v…: Nghĩa là Tôn giả Tu-bồ-đề đă nhận biết rơ về hai thứ tiếng, nghĩa, ĺa để an lập. Ư ở đây là, tiếng tức là tiếng của người thuyết giảng. Nghĩa của tiếng là nghĩa đă được thuyết giảng. Thế nào là Bồ-tát không có danh? Là do danh của Bồ-tát không thật có, không thể thấy. Tôn giả Tu-bồ-đề, ở trong Bát-nhă Ba-la-mật-đa, đă có nêu giảng. Ư ở đây là quyết định hai thứ tánh phân biệt trong ư lạc tối thắng, xa ĺa tánh dị biệt của âm thanh hư giả. Ngôn ngữ quyết định ở đây là nghĩa đă có được biểu thị. Thế nên Tụng nêu:
Bát-nhă Ba-la-mật
Nói không quyết định sinh
T́m xét chỉ bậc trí
Nghĩa nầy, tuệ vi diệu.
+ Đây nói: Bát-nhă Ba-la-mật: Không nghĩa là không thật có. Tức trong Bát-nhă Ba-la-mật-đa, lời nói ḥa hợp kia quyết định là không thật có, không có chỗ nêu bày, không có hư luận, nên biết như thế. Trong tất cả ngôn ngữ được nói quyết định là nghĩa đă có. Thế nào là nghĩa đă có? Tức như nghĩa đă nói ở trước. Giải thích môn kia, Tụng nói: T́m xét chỉ bậc trí.
Nghĩa nầy là tuệ vi diệu. T́m xét: Là xem xét kỹ lưỡng. Nghĩa nầy: Tức các thanh có trong ba mươi hai phẩm, nói chung về quyết định. Bậc trí: Tức là bậc có trí tuệ, có thể nhận biết về lời, nghĩa. Tuệ vi diệu: Là trí thanh tịnh vi diệu, rốt ráo.
Hành tướng như thế nào? Tức trí ấy, ở trong tất cả cảnh giới, không vướng mắc, không hủy hoại. Nhưng Bát-nhă Ba-la-mật-đa ở trong âm vang có chỗ nghe được, là biểu thị về nghĩa đó. V́ vậy, Tụng nêu:
Nếu phân biệt nghĩa riêng
Nghĩa tương tục trừ bỏ
Bát-nhă Ba-la-mật
Ngôn thuyết như tiếng vang.
+ Đây nói nghĩa tương tục: Là nghĩa hoặc đi đến, hoặc hiện bày, tạo tác tương tục. Dứt trừ: Là nghĩa trừ bỏ. Tức là nơi nghĩa như thế đă trừ bỏ chấp trước. V́ sao? V́ do Bát-nhă Ba-la-mật-đa, hoặc thấy hoặc nghe, có chỗ nêu bày đều như tiếng vang, lại như ánh sáng của vàng ṛng đối hiện sắc tướng. Do nghĩa ấy, nên hoặc đi đến, hoặc hiện bày đều tạo tác nối tiếp, có chỗ phân biệt, có chỗ chấp trước, đều nên trừ bỏ. Do trong Bát-nhă Ba-la-mật-đa ấy, hết thảy mọi giảng nói đều như tiếng vang là nghĩa chung, lược.
Lại nữa, v́ muốn hiển bày rơ về nghĩa ấy, như có Tụng nói:
Các giáo hiện có, chớ chán bỏ
Cũng lại không nên sinh hủy báng
Thấy như thật rồi, trụ chân thật
Do chân thật ấy mà biểu hiện.
Nay, trong nghĩa nầy, chung lược tạo thành biểu thị. Tụng nêu:
Chung, lược nghĩa như thế
Bát-nhă cùng nương dựa
Như vậy, nghĩa tuần hoàn
Lại nghĩa riêng nương dựa.
+ Nói: Chung, lược nghĩa như thế v.v…: Tức Thập Vạn Tụng Bát Nhă Ba La Mật Đa hiện có, đă gồm, lược tất cả nghĩa như thế, đều nương dựa nơi Bát-nhă Ba-la-mật-đa nầy, nối tiếp nơi ba mươi hai phẩm, chung, lược gồm thâu, nên biết như thế, sau không có tăng rộng. Tụng nói: Như vậy, nghĩa tuần hoàn: Tức đối với nghĩa như vậy, hoàn toàn lặp lại, thứ lớp, xét kỹ.
Hỏi: Xét kỹ về những nghĩa ǵ? Tụng tự đáp, nói: Lại nghĩa riêng nương dựa.
Ở đây, đă nói về câu “nghĩa riêng”, tức vấn nạn về nghĩa riêng. Hỏi là phân biệt về chỗ sai biệt, c̣n vấn nạn là có chỗ y cứ. Nghĩa là các pháp phần Bồ-đề, uẩn công đức của Phật, ở trong pháp ấy, lần lượt nhắc lại, xét kỹ, như thế. Hoặc gồm chung, tóm lược về nghĩa riêng được tạo thành đă nêu bày như vậy, đều có chỗ dựa. Tức ba mươi hai phẩm đều có tự tánh riêng, lần lượt gồm thâu. Nay, ở đây, Bát Thiên Tụng Bát Nhă Ba La Mật Đa, tất cả văn nghĩa đă được giải thích khắp hết, nhóm phước đă sinh là rộng lớn, rốt ráo, đều dùng để hồi hướng. Tụng nêu:
Bát-nhă Ba-la-mật
Chánh gồm tám ngàn tụng
Nhóm phước đă đạt được
Đều từ Bát-nhă sinh.
+ Nói: Bát-nhă Ba-la-mật, Chánh gồm tám ngàn tụng: Nghĩa là trong Bát Thiên Tụng Bát Nhă Ba La Mật Đa nầy, đă nói về tự tánh. Bát Thiên (tám ngàn): Là số lượng ấy gồm thâu khắp. Trong số lượng như thế, nghĩa tích tụ chung đă được giải thích. Tụng nói Chánh: Là nghĩa không điên đảo. Tức trong chánh giáo ấy đă sinh khởi những ǵ? Tụng tự đáp, nói: Nhóm phước đă đạt được.
+ Được: Là nghĩa thu đạt được. Nhóm phước thanh tịnh được tạo thành như vậy, đều từ Bát-nhă Ba-la-mật-đa xuất sinh. Do xuất sinh từ Bát-nhă Ba-la-mật-đa, nên số lượng phước có được là rộng lớn sâu xa. Đem số lượng phước sâu rộng đă có được ấy, dùng hồi hướng về khắp hết thảy thế gian, đều khiến đạt được trí thanh tịnh thắng diệu rốt ráo của Bát-nhă Ba-la-mật-đa. Ở trong các câu đúng đắn của đệ nhất nghĩa thù thắng, không hư vọng ấy, xét t́m đúng như lư, tôi ở đây đă tạo văn giải thích, nhóm phước đă sinh, nay ư nói, khiến khắp tất cả thế gian đều được thanh tịnh. Tụng viết:
Các Bí-sô Thích-ca Sư Tử
Hiện có phước cao, hơn như thế
Đây đă nói, ư lợi thế gian
Do phước thắng nên trụ chân thật.
HẾT - QUYỂN 4
|