BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT NHẤT TỰ
ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH
Chùa Đại Hưng Thiện, Tam tạng Sa-môn Bất Không
Đại Quảng Trí phụng chiếu dịch.
QUYỂN THỨ HAI
Phẩm thứ Ba: Thơ Tượng Nghi Quĩ
Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni dùng Phật nhăn xem khắp tất cả chúng sanh, bảo Bí Mật Chủ Kim Cang Thủ rằng: “ V́ lợi ích tất cả các hữu t́nh, ta nay nói nghi quĩ Đại-minh vương, tất cả chư Phật đă nói, tất cả thế gian, xuất thế gian chơn ngôn hoạ tượng. Phật đảnh Luân vương bổn thân h́nh trạng, hay trừ tất cả tội, khiến tất cả hữu t́nh được đại Niết bàn, dùng tam ma địa thù thắng biến hoá, hiện các thân sắc của Phật. Nay ta nói pháp vẽ tượng Phật đảnh Luân vương.
Người tu hành trước cần vào mạn đà la, theo thầy thọ học ấn khế nghi quĩ, vào Phật đảnh Luân vương đàn, hoặc Vô Năng Thằng Phẫn nộ đàn, hoặc Thắng Phật đảnh đàn, thấy tam muội da, thọ pháp quán đảnh được A Xà Lê ấn khả tu hành đạo vô thượng Niết bàn. Nên y theo nghi quĩ làm pháp tiên hành, pháp tiên hành làm xong, sau đó mới hoạ tượng. Khiến một đồng nữ Ba la môn, con nhà quyền quí thọ trai giới, xe dệt các sợi chỉ, y theo nghi quĩ như trong kinh đă nói, dệt thành tấm vải dài 6 khuỷu, ngang 4 khuỷu, nếu không đủ th́ 5 khuỷu cũng được. Dệt xong đem ngâm nước thơm, loại bỏ các lông tóc, dùng các tháng thần thông ngày bạch nguyệt. T́m một hoạ sĩ kính tin Tam Bảo, các căn đầy đủ, trước phải tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới, thọ bát quan trai sau đó mới được vẽ, phải xem ngày tháng tốt lành, hoặc nơi núi non, hang động, Phật đường, tịnh thất hoặc chỗ Thánh hiền đắc đạo, xa lánh những nơi dơ uế, nước có côn trùng, mới có thể hoạ vẽ. Trước nơi giữa hoạ Phật, Thế tôn ngồi toà sư tử, toà dùng các thứ báu trang nghiêm tướng đang thuyết pháp, hào quang xoay tṛn nơi thân, từ nơi đảnh phóng ra các ánh sáng, đầy đủ các tướng Đại trượng phu, hoạ cây Bồ đề có các lá đầy đủ, như thân cây đa ma ni, nơi các nhánh treo các dăi lụa, hoặc các thứ báu như phệ lưu lỵ, hoặc treo trái, hoặc chuông khánh hoặc các thứ nơi cơi trời, hoặc mưa tuôn xuống, các thứ hoa quả, san hô lưu ly, đều vẽ ở phía trên. Trên cây Bồ đề có các loại chim cát tường đậu, hoặc các lá, mây, mưa, sấm chớp xen nhau, gọi là Bồ đề kiếp thọ. Hoạ ở phía sau hai bên Thế tôn, bên phải là Chuyển Luân Đại vương h́nh như Luân Vương ngồi toà sen trắng, thế đang nh́n Phật, thân màu vàng rồng, chung quanh có hào quang đầy đủ bảy báu, chỉ có Luân bảo ( bánh xe báu của Luân vương) xung quanh có hào quang để nơi hoa sen. Sau Phật Thích Ca, tưởng đảnh Luân vương, bên trái Phật không xa vẽ Bạch tán cái Đảnh vương, h́nh như Đại vương thân màu vàng, ngồi trên hoa sen, tay cầm hoa sen, mắt nh́n Luân vương. Cách Bạch tán cái Phật đảnh không xa vẽ Cao Phật Đảnh Vương, h́nh như Đại vương ngồi trên hoa sen trắng, tay cầm Câu duyên quả, mắt ngó Luân vương. Cách Đảnh Luân vương không xa vẽ Quang Tụ Phật đảnh vương, ngồi trên hoa sen trắng, xung quanh có các hào quang, thân màu vàng, tay cầm Chơn đa na mi. Nơi dưới Quang tụ Phật đảnh vương vẽ các người tŕ tụng chắp tay hồ qú chiêm ngưỡng Đảnh Luân Vương. Luân vương duỗi tay làm ấn thí nguyện, nh́n người tŕ tụng. Gần Quang tụ đảnh vương vẽ thắng Phật đảnh, thân màu vàng, tay trái cầm bảo, tay phải thí nguyện, mắt nh́n Luân vương. Như vậy các Phật đảnh vương h́nh trạng đều là Đại vương, đều có hào quang quanh thân, đều ngồi toà sen trắng, thân đều màu vàng. Bên phải Phật vẽ Bồ tát Phổ Hiền tay cầm phất trắng; bên trái Phật vẽ Bồ tát Từ Thị tay cầm phất trắng, hai vị đều nhỏ hơn Phật một chút. Phía trước Phật vẽ Bồ tát Quán tự tại, Bồ tát Kim Cang Thủ đều ngồi toà sen báu, chắp tay thế đang lễ Phật, gần Bồ tát Phổ Hiền vẽ Bồ tát Văn Thù Sư lợi, Bồ tát Vô Cấu Huệ, Bồ tát Ninh Tịnh Huệ, Bồ tát Vô Tận Huệ, Bồ tát Hư Không Tạng, Bồ tát Hư không Vô Cấu, Bồ tát Đại Huệ, trước sau như trên mà vẽ các ngài đều ngồi toà sen, chắp tay thế đang lễ Phật, thân h́nh yên tịnh các báu trang nghiêm, thân đều màu vàng, áo quần đều bằng các thứ lụa tốt. Cách Bồ tát Từ Thị không xa vẽ Phật Nhăn Minh phi h́nh như Thiên nữ, ngồi toà sen báu, thân màu vàng, các món trang nghiêm tốt đẹp, mắt nh́n xuống chúng hội, mặc áo tơ nhẹ góc áo ḷi da ra ngoài, tay phải cầm Như Ư bảo, tay trái Thí Nguyện Ấn, hào quang rực rỡ quanh thân, cách Phật Nhăn tôn không xa vẽ Hào tướng tôn h́nh như Thiên nữ, tay phải cầm hoa sen, tay trái thí nguyện ấn, mắt nh́n Luân vương. Gần Phật Nhăn tôn nơi phía dưới vẽ Tôn Na Lị minh phi h́nh như Thiên nữ, trang nghiêm các món an lạc, thân màu xanh tay cầm hoa sen, ngồi trên núi báu, mắt nh́n Thế tôn. Gần Kim Cang Thủ nơi chân vẽ Quân Trà Lợi; gần Quân Trà Lợi vẽ Kim Cang Quân, Tô Ma Hô ba vị đều h́nh đồng tử, các món an lạc trang nghiêm nơi thân, mắt nh́n Luân vương, tư thế mạnh mẽ đáng sợ. Bên phải Bồ tát Quán Tự Tại vẽ Ha na Hật rị phạ Đại minh phi, thân như màu lửa, h́nh tướng Phẫn nộ, mũi cong, dùng rắn trang nghiêm làm ṿng đeo nơi tay, nơi cổ, nơi đầu, tóc như hoa sen đang nh́n Luân vương. Gần đó vẽ Liên hoa Tôn na lị 4 tay, bên phải tay thứ nhất cầm quyển sách, tay thứ nhất trái cầm búa, bên trái tay thứ nh́ cầm quả, tay thứ nh́ bên phải thí nguyện, ngồi hoa sen. Lại gần Luân vương Phật đảnh vẽ Vô Năng Thắng Phẫn nộ vương thân màu trắng 4 mặt, 4 tay, mặt mày nhăn nhó giận dữ, dùng da cọp làm quần, măng xà làm mâu đeo tai, Đức Xoa Ca Long Vương dây lưng, Hoa tô Chỉ Long vương làm thần tuyến, ḷi áo nơi các khủyu, dùng rắn độc trang nghiêm nơi măo, tḥng hai bên lửa cháy quanh thân. Tay thứ nhất bên phải cầm Kim Cang chuỳ, tay thứ hai cầm thí kỳ khắc ấn, tay thứ nhất bên trái cầm tam xoa, tay thứ nh́ cầm búa, mặt chính dáng cười phát ra tiếng ha tra tra ha sa, từ nơi miệng phát ra đủ thứ lửa, mặt bên phải ngó Luân vương, mặt trái nh́n người tŕ tụng, mặt trên nh́n chúng hội, đứng trên toà sen báu. Vô Năng Thắng Phẫn Nộ vương y trên mà vẽ, ở dưới vị này vẽ Địa Thiên thân màu trắng, hai tay bưng bát đầy hoa, hai gối qú nơi đất. Gần Địa Thiên vẽ Ni Liên Thiền thần sông màu đen h́nh như Long Nữ, có bảy đầu, chắp tay lễ Phật. Gần Ni Liên thiền vẽ Phạ lị ca Đại Long vương, Mẫu Chỉ Lân Đà Long vương, hai Long Vuơng nầy từng thấy vô lượng chư Phật, có 7 đầu, chấp tay qú dưới đất. Gần Địa Thiên vẽ Bạt Nan Đà Long Vương, Vô Nhiệt Năo Long vương, Sa Kiệt La Long vương cầm tràng hoa sen, cúi đầu chắp tay. Bên phải Bồ tát Đại Huệ vẽ Bạch y Quán tư Tại dùng các ṿng hoa sen trang nghiêm nơi thân, dùng lụa báu quấn quanh nơi thân, tay phải cầm chân đa ma ni, tay trái thí nguyện, vị Bồ tát này là mẹ của Liên Hoa tộc, ngồi nơi toà sen. Gần Phật hào tướng vẽ Bồ tát Ma mộ Chỉ màu lửa xanh đỏ, dùng các anh lạc trang nghiêm, thân tướng minh tịnh, ngồi nơi toà sen, trụ nơi tự tánh bát nhă ba la mật đa, tay phải cầm phạm khiếp, tay trái cầm chân đa ma ni, thế ban cho. Đây là mẹ của tất cả các Phật, Bồ tát. Đại thánh Bát nhă ba la mật đa trụ ma mộ chỉ h́nh, vị nầy là mẹ của Kim Cang tộc làm h́nh đồng nữ, thân không cao quá, rất là vui vẻ. Lại vẽ các Kim Cang quyến thuộc thuộc Kim Cang Câu, Kim Cang quyền, Kim Cang bào, các vị nầy là Đại minh phi làm quyến thuộc. Ở gần phía dưới Bạch y Quán Tự Tại, vẽ Bồ tát Đa la các món trang nghiêm, mặc áo mỏng h́nh trung b́nh, tay phải cầm hoa sen xanh, tay trái thí nguyện, ngồi toà liên hoa, thân màu lục đậm. Gần Đa la tôn vẽ Tỳ Cu chi thân màu trắng có ba mắt bốn tay, bên phải tay thứ nhất cầm gậy, tay thứ nh́ cầm xâu chuỗi, bên trái tay thứ nhất cầm b́nh, tay thứ nh́ cầm hoa sen, thân đẹp đẽ, hai bên góc tượng vẽ các Thiên tử tấu âm nhạc. Ơ phía trên Phật vẽ Tịnh cư Thiên Tử nơi trong mây tung hoa cúng dường, lại y các phương vẽ Tứ Thiên vương. Đông phương vẽ Tŕ Quốc Thiên Vương, Nam phương Dạ ma Thiên, Tây Phương Thuỷ Thiên, Bắc phương Cu vĩ la Thiên. Bốn góc phụ: Đông bắc vẽ P xá la, Đông nam Hoả Thiên, Tây nam La sát Thiên, Tây bắc phong Thiên, y theo bổn h́nh mà vẽ. Gần Phẫn Nộ Vô Năng thắng ở phía dưới vẽ người tŕ tụng y bổn h́nh, quỳ gối tay bưng lư hương, nh́n ngắm Luân vương. Kim Cang Thủ! Luân vương Phật đảnh nghi quỷ vẽ tượng nầy, vô lượng chư Phật đă nói, nếu được thấy tất cả tội chướng đều tiêu trừ, nếu vẽ được đầy đủ đúng pháp, chúng sanh có duyên thấy được năm tội vô gián đều tiêu trừ, huống là các tội khác. Nếu thấy được tượng vi diệu nấy, chư Phật đă nói người nấy hiện đời chưa quả báo, tất cả các tội trong nhiều đời nhiều kiếp do thấy được tượng thẩy đều tiêu trừ. Do thấy tượng tối thắng nầy, tất cả Tất Địa đều được hiện tiền, tất cả Như Lai Đại minh chơn ngôn đều thành tựu, tuỳ ư niệm tụng mọi vieêc đều thành. Nơi các bộ chơn ngôn khó thành tựu, đối trước tượng nấy tŕ tụng quyết được thành tựu”.
Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo Bí mật chủ Kim Cang Thủ rằng: “ Bí mật Chủ! Ông hăy lắng nghe. Phép hoạ tượng Bạch tán cái Phật đảnh, hay thành biện tất cả sự nghiệp, lợi ích tất cả nơi luân hồi chúng sanh. Hằng hà sa cu chi Phật cũng đă nói ở trên, có thể ba khuỷu, không được dùng các keo da hoà màu sắc, hoạ sĩ phải thọ bát quan trai giới, nơi trung ương vẽ h́nh Phật màu vàng trắng, ngồi toà sư tử, đầy đủ hướng tốt; bên trái Phật vẽ Bồ tát Kim Cang Thủ, tay phải cầm phất trắng, tay trái cầm chuỳ Kim Cang; bên trái Kim Cang Thủ vẽ các Trời Tịnh cư mặc quấn áo trời, nơi trước Phật vẽ Phật Đảnh vương thân màu vàng, đầy đủ tướng tốt, tay cầm hoa sen. Phía dưới Phật vẽ người tŕ tụng tay bưng lư hương, nơi bốn bên vẽ các thứ hoa. Kim Cang Thủ! Đây là pháp hoạ tượng Bạch tán cái Phật đảnh”.
Bấy giờ Thế Tôn lại bảo Kim Cang Thủ rằng: “ Kim Cang Thủ phải lắng nghe! Cần phải chú ư, ta nay v́ ông mà nói phép vẽ tượng Quang tụ Phật đảnh vương là trên hết trong các giáo pháp thế gian, xuất thế gian. Trước lấy nước hương ngâm vải, ba khuỷu hoặc một khuỷu, không được dùng keo da. Hoạ sĩ phải thọ bát quan trai giới, vẽ Phật ngồi toà sen trắng, tướng đang thuyết pháp, đủ các tướng tốt. Nơi phía trên Phật vẽ ngọn núi, phía dưới tượng vẽ ao sen, từ nơi đảnh Phật phóng ra các hào quang. Phía dưới Phật bên phải vẽ người tŕ tụng, hồ qú tay bưng lư hương như bổn h́nh. Bí mật chủ! Đây là Quang tụng Phật đảnh vương nghi quĩ, tất cả chư Phật đă nói, để điều phục tất cả hữu t́nh. Đây là Quang Tụ Phật đảnh vương thành tựu tất cả sự nghiệp pháp hoạ thượng tối thắng”.
Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo Bí Mật Chủ rằng: “Nay ta sẽ nói pháp hoạ tượng của Cao Phật đảnh y như Luân vương nghi quĩ, trên vải ba hoặc một khuỷu, trừ bỏ lông tóc; hoạ sĩ thọ bát giới, sau đó mới hoạ vẽ Phật Thế tôn ngồi trên toà sen bảy báu, kết già phu đầy đủ các tướng tốt, tay phải thí nguyện, tay trái ngữa để dưới rún. Từ nơi đảnh Phật phóng ra các hào quang, hai bên góc tượng vẽ Tịnh Cư Thiên tử, bên phải vẽ người tŕ tụng nh́n ngắm Như Lai. Bí Mật Chủ! Đây là pháp hoạ tượng cao Phật Đảnh vương, tất cả Phật đă nói, tất cả Phật đă ngợi khen v́ thương tưởng tất cả hữu t́nh mà nói”.
Bấy giờ Phật Thích Ca mâu Ni lại bảo Bí Mật Kim Cang Thủ rằng: “ Bí Mật chủ! Ta nay lại nói nghi quĩ hoạ tượng Thắng Phật đảnh vương, chư Phật đă ngợi khen, y Luân vương Phật đảnh nghi quĩ, dùng lụa ba hoặc một khuỷu bỏ lông tóc, hoạ sĩ vẽ thọ bát quan trai giới mà vẽ. Trước vẽ h́nh Phật màu vàng, ngồi toà sư tử, kết ấn thuyết pháp, đủ tướng tốt. Từ nơi đảnh Phật phóng ra các màu hào quang, dưới tượng vẽ người tŕ tụng y như bổn h́nh, hồ qú tay bưng lư hương đang nh́n ngắm Như Lai. Kim Cang Thủ! Đây là pháp vẽ tượng Thắng Phật Đảnh vương, tất cả Như Lai đă nói. Kim Cang Thủ! Như Lai và các Đại Bồ tát oai đức, các thân h́nh tuỳ ư mà vẽ, hoặc trên vải, trên lụa, trên giấy, trên da, trên tường cũng không có lỗi, hoặc tự vẽ, hoặc bảo người vẽ, theo bổn h́nh mà vẽ, hoặc vẽ h́nh Bồ tát hoặc vẽ chơn ngôn thánh thiện, cho đến vẽ trên trắp đựng kinh, trên vỏ cây hoa hoặc vẽ tượng Tối thắng lớn nhơ tuỳ ư, đều được không lỗi ǵ “. Bấy giờ Thế tôn lại nói kệ rằng:
Tuỳ ư mà hoạ vẽ
Lợi ích các hữu t́nh
Không có sợ tội lỗi
Cho nên phải ân cần
Luôn làm việc xả thí
Nhẫn nhục và tinh tấn
Theo vậy mà tu tập
Nếu như không vẽ tượng
Giữ ǵn các đại ấn
Kẻ trí khởi ḷng từ
Thành tựu cần suy nghĩ
V́ nhiếp thọ hữu t́nh
Thường có ḷng từ bi
Cùng giữ ǵn tịnh giới
Thiền định với bát nhă
Được tất địa không khó
Cần trụ tâm Bồ đề
Được tối thượng thành tựu..
Phẩm thứ tư: Hành.
Bấy giờ Bí Mật chủ Kim Cang Thủ bạch Phật rằng: “ Bạch Thế tôn, cúi mong Thế tôn v́ người tu hành cầu thành tựu, nói sơ pháp tu tập Phật đảnh Luân vương chơn ngôn, oai đức công hạnh xí thạnh phương tiện, ở nơi Thế tôn cầu Tất địa, do trụ Như Lai Phật Đảnh vương chơn ngôn, tất cả các chơn ngôn đều mau chóng thành tựu.
Phật bảo: “ Lành thay! Lành thay Bí mật chủ! Ông hay hỏi nghĩa như vậy, ông hăy lắng nghe, ta sẽ v́ ông mà nói chư Phật làm các phương tiện, pháp cú, dà dà, đây là pháp nhăn rất vi diệu, vô lượng Phật đă tu tập, v́ thành tựu các lợi ích”. Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni xem khắp đại chúng dùng tiếng Phạm âm mà nói pháp lư thú dà dà ở trong các pháp nhăn là tối thắng, kệ rằng:
Tự hành vô lượng Bồ đề
Bị trăm ngàn khổ làm bức năo
V́ các hữu t́nh bị bức năo
Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra
Nếu người chí tâm tu pháp nầy
Thành Phật được thọ trời, người cúng
Do tu một pháp thành Đại giác
Chơn ngôn oai đức mọi người khen
Người nầy không lâu chứng Bồ đề
Rộng độ vô lượng các quần sanh.
Nơi tháp lớn vắng lặng
Suối rừng và hồ ao
Đại thọ hoặc trong hang
Nơi núi nhiều hoa lá
Một ḿnh tâm kiên cố
Tâm Bồ đề nhớ luôn
Pháp giải thoát Đại thừa
Trong sạch gắn tu hành
Giữ ǵn thân, khẩu, ư
Ăn uống trong 4 cách
Hành giả cần phải biết
Chơn ngôn nầy tối tôn
Được tam ma địa minh
Sanh ra các Tất địa
Dùng chơn ngôn và minh
Tuỳ ư mà tu hành
Cần mặc hai loại áo
giữ ǵn không sai xót
Tất địa được không khó
Người nấy quyết định được
Trước phải lễ chư Phật
Kẻ trí phải vững bền
Người tu hành không bạn
V́ lợi ích hữu t́nh
Được thành tựu không khó
Hiện sắc không nghĩ bàn
Đời này được thành tựu
Người quyết cầu Tất địa
Cần nên tạo các tháp
Cần hộ ma niệm tụng
Tức ngay nơi đời nầy
Mau chóng được thành tựu
Chín chắn suy nghĩ kỹ
Mạnh mẽ bền ḷng chắc
Lợi ích tâm chơn thật
Người nầy thật đáng khen
Các căn được đầy đủ
Trí tuệ luôn sáng tỏ
Hay nhẫn nơi đói khát
Người nấy đáng nên khen
Kẻ muốn cầu thành tựu
Nếu được pháp yếu nầy
Sẽ không c̣n bao lâu
Được tối thượng Tất địa.
Kim Cang Thủ! Sau khi ta diệt độ, trong đời mạt pháp các hạng Ưu bà tắc, Ưu bà di ngu si bị các người xuất gia mê mờ nói làm các việc vô ích, tham đắm mùi đời không có nhàm chán, ần gũi tiểu nhân, không hiểu Như Lai tam ma địa nơi lư thú đại thừa sâu rộng, không dơng mănh tinh tấn, các thiện xảo, luật nghi Bồ tát hạnh, không được quán đảnh, không tin Phật, Bồ tát có tam muội rộng lớn, không được thành tựu, tức sanh phỉ báng ta và các Bồ tát mà nói rằng: “ Đây la ma nói không phải Phật nói, làm nhục các Bồ tát. Nếu trụ đại thừa, Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn, người muốn cầu thành tựu chơn ngôn, làm các việc tổn hại không có ích, do nhân duyên nầy chứa nhóm vô lượng tội chướng. Do đó Kim Cang Thủ! Nếu có Thiện nam tử Thiện nữ nhơn muốn tu hạnh Bồ tát, cần sanh ḷng tin trong sạch kiên cố, quyết định nơi các Bồ tát, dùng nguyện rộng lớn ngày đêm viết chép kinh điển đại thừa, thọ tŕ đọc tụng v́ người mà giải nói”.
Lại nói kệ rằng:
Y nơi kinh quí báu
Tu hành ta khen ngợi
Do bởi công hạnh nầy
Bổn tôn mau hiện tiền
Để được thành chơn ngôn
Tự thân phải siêng năng
Dùng thí, giới, nhẫn nhục
Và Định, trí huệ vậy
Chuyên chú quyết một ḷng
Mau được thành Bổn tôn.
Phẩm thứ Năm: Nghi Quĩ.
Bấy giờ Kim Cang Thủ lại bạch Phật rằng: “Bạch Thế tôn! Người tu hành Phật đảnh chơn ngôn trụ nơi nghi quĩ thanh tịnh quán tưởng Bổn tôn như thế nào? Cúi xin Thế tôn nói cho, để mau được thành tựu các Tất địa của Phật đảnh”.
Phật bảo: “Đúng vậy Kim Cang! Ông hăy lắng nghe v́ lợi ích các hữu t́nh mà nói, trong các pháp chơn ngôn dạy ba thời cần phải thanh tịnh như nghi quĩ, không có sai, thường quán Phật tam ma địa không có tán loạn, không tham đắm, phiền năo, luôn luôn tưởng Phật, dùng tam ma địa duyên khắp các hữu t́nh ba thời tắm rửa sạch sẽ, y pháp sái răi. Người trí tuệ mạnh mẽ không nên làm hại sanh mạng, mặc áo trong xong, dùng chơn ngôn mà hộ thân:
-Úm ma ma hồng nặc.
Nếu dùng đất th́ không được dùng đất có trùng, dùng đất sạch sẽ có mùi thơm, không quá đen, quá vàng, quá đỏ, đây là pháp dùng đất thành tựu. Nếu làm pháp quá điều phục dùng đất đen, hoặc đỏ; nếu làm pháp tăng ích dùng đất vàng; tiêu trừ tai hoạ và các tội chứng dùng đất màu trắng, nếu cầu ra nhạ dùng đất không trắng không đen; nếu cầu pháp kính ái dùng đất vàng đỏ; như vậy kẻ trí y trên mà dung, trước dùng, chơn ngôn gia tŕ nơi đất.
-Úm na ra hồng.
Dùng thổ chơn ngôn nầy
Khiến các pháp thành tựu
Lại dùng hà chơn ngôn
Gia tŕ nơi nước sông.
-Úm nhập phạ la hồng.
Chơn ngôn gia trị nầy
Tất cả chỗ đều dùng
Chia đất thành ba đống
Để nơi chỗ thanh tịnh
Đất phải xa các chỗ
Hôi hám và nhơ bẩn
Chỗ người nữ tụ tập
Chỗ con nít giỡn chơi
Chỗ trâu ḅ lui tới
Chỗ mọi loài đông đảo
Nơi các chỗ như thế
Hành giả chớ tắm rửa
Nơi nước đọng, ngăn trở
Và có mùi dơ uế
Người trí cần phải xa
Nên t́m sông sạch sẽ
Nước trong trẻo mát mẽ
Không có các bùn đất
Lại ở bên bờ sông
Có các loại cây cối
Nơi đó nên tắm gội
Nước nầy đáng nên dùng
Lại các chỗ như trên
Không có các trùng loại
Có các hoa trang nghiêm
Hành giả nên tắm rửa
Sau lại dùng chơn ngôn
Gia tŕ nơi đất sạch.
-Úm bát lao nhập phạ la hồng.
Lại nên phải hoàn giáp
Ngón cái để nơi tâm
Chơn ngôn tụng bảy biến
* Bị giáp chơn ngôn:
-Úm nhập phạ la đế nhạ hồng.
Do dùng bị giáp minh
Người tu hành ứng dụng
Tức ở khắp cả thân
Được thành đại gia hộ.
*Bị thân giáp chơn ngôn:
- Úm nhập phạ la, bạt ra hắc ra na hồng
Gọi là thân giáp bị
Kẻ trí cần nên làm
Tưởng ấn vào trong nước
Từ trên cho đến dưới
Chướng Tỳ na dạ ca
Các ác trùng trong nước
Do sức gia tŕ nấy
Đều không thể làm hại.
-Úm tra hê măn đà sa phạ ha.
Biện sự chơn ngôn nầy
Là tâm của Phật đảnh
Do nhớ niệm chơn ngôn
Các chướng ở trong nước
Nếu muốn lại phá hoại
Miệng đều bị cấm bế
Dùng để hộ nơi đất
Chia đất thành ba phần
Dùng để làm sạch sẽ
Từ chân cho đến eo
Dùng đất chà cho sạch
Hết mùi hôi bụi bặm
Chư Phật dạy sạch sẽ
Lại dùng phần thứ hai
Từ eo cho đến cổ
Thứ ba chà trên đầu
Dùng đất chà cho sạch
Đất phải không có trùng
Trước cần phải chia ba
Sau đó mới cọ rửa
Dùng biện sự chơn ngôn
Đem gia tŕ nơi nước
Tụng ba biến răi đảnh
Khiến cho được sạch sẽ
Tắm gội sạch sẽ xong
Không được ngồi nói chuyện
Lại dùng Phật hào tướng
Tồi hoại Phật đảnh minh
Để gia hộ khắp cả
Dùng Phật nhăn chơn ngôn
Phổ thông cho Phật bộ
Trợ giúp các Phật đảnh
Thành tựu mạn đà la
Lại kết giới các phương
Ủng hộ nơi đồng bạn
Có thể dùng Phật đảnh
Và thành biện tất cả
Nước không trùng vẫy khắp
Tụng một biến chơn ngôn.
*Thanh tịnh chơn ngôn:
-Nam mô tát phạ một đà mạo địa tát đát phạ nẫm. Um thú điện nổ thủ đà nẵng da sa phạ ha.
Đây là chú tẩy sái
Dùng cho Như Lai bộ
Đến khi tụng niệm thời
Chuyên chú không tán loạn
Nên nh́n nơi trước mặt
Cách mắt khoảng ba thước
Tâm thương xót tương ưng
Và có huệ đầu đủ
Lúc khi đang niệm tụng
Nên mặc áo quần sạch
Nô cu la sô ma
Và dùng dà ma y
Kẻ trí khi niệm tụng
Đều y theo nghi quĩ
Cần tụng tịnh chơn ngôn
Và đọc biện sự minh
Gia tŕ nơi toà cỏ
Rồi để nơi trước Phật
Lại tụng niệm Bổn tôn
Khai thỉnh các Hiền Thánh
Chơn ngôn ấn tương ưng
Quán tưởng h́nh Bổn tôn
Kiết Liên hoa bộ ấn
Dùng toà mà hiến dâng
Chư Phật hộ an lành
Chân Phật sạch sẽ đẹp
Toà hoa sen Bồ tát
Là toà đáng ngợi khen
Người tu chơn ngôn nầy
Không nên ngồi sàng cao
Quán tưởng thân Bổn tôn
Cầm chuỗi mà niệm tụng
*Xuyên châu chơn ngôn:
-Úm a nạp bộ đế vi nhạ duệ Tất địa tất đà ra để sa phạ ha.
Xâu chuỗi hạt Bồ đề
Nhất định được thành tựu
Thượng, trung, hạ Tất địa
Dùng cho các chơn ngôn
Vàng bạc làm hạt châu
Dùng cho việc tăng ích
Thạnh tịnh bạt để ca
Thành tựu tất cả nghĩa
Dùng đồng tử xỏ hạt
Thảy đều y nghi quĩ
Rồi dùng tự mật ngôn
Như vậy mà gia tŕ
*Gia tŕ châu chơn ngôn:
-Nẵng mồ bà nga pha để Tất địa sa đà dă sa đà dă tất đà ra để sa phạ ha.
Nên dùng chơn ngôn nầy
Gia tŕ nơi xâu chuỗi
Cần tụng đủ bảy biến
Cầm nơi ḷng bàn tay
Ngồi nơi toà cỏ tranh
Cầu thành mọi sự việc
Cây mật phạ cát tường
Bạch đàn với Thiên mộc
Các thứ cây như vậy
Niệm châu được tăng ích
Khi niệm tụng hộ ma
Nên dùng loại châu nầy
Lấy cây khư đà la
Và mạt độ cu na
Dùng cây nầy làm châu
Để làm pháp điều phục
Lại dùng thứ cây nầy
Làm giường nằm toà ngồi
Như không có cây nầy
Lấy lá không có trùng
Dùng trải ngồi nằm được
Lại nơi ngồi quán đảnh
Lấy tro cù ma di
Trộn nước dùng sái tịnh
Y pháp tŕ chơn ngôn
Nếu mà không thành tựu
Cộng thêm đảnh Luân vương
Tŕ tụng tức thành tựu
Đọc thêm Tâm, Tuỳ tâm
Cùng nhau mà đọc tụng
Như vậy mà không thành
Đọc thêm chú Phật nhăn
Hợp lại mà tụng đó
Thế tôn Phật nhăn minh
Tất cả Phật đă nói
Chư Phật đời trước khen
Nay ta cũng như thế
Người cầu thành Phật đảnh
Nên như vậy tụng tŕ
Chung nhau mà đọc tụng
Không lâu tức thành tựu
Dầu phạm tội vô gián
Không lâu cũng thành tựu
Nếu như không hoạ tượng
Vận tâm mà quán tưởng
Chư Phật đều ngợi khen
Lại kết lẽ Phật ấn.
*Quán tưởng tụng chơn ngôn:
-Nẵng mồ ra đát nẵng đát ra dạ a tả ra vĩ lệ sa phạ ha.
Lại kết Đại ấn, tưởng trên ấn có vô lượng các báu, các báu thành ra núi, trên núi tưởng bảy báu thành hoa sen hoa có trăm ngàn cánh, gương sen to lớn trên gương có lầu các, trong lầu các có Phật ngồi như chơn ngôn h́nh trong pháp hoạ tượng có nói. Thế tôn ngồi kiết già phu kết Ấn thuyết pháp, đầy đủ các tướng Trượng phu trang nghiêm nơi thân: xung quanh có hào quang, tất cả đều như trong pháp hoạ tượng. Lại tưởng nơi trên gác của lầu các có bánh xe có vô lượng các báu che trên, tuỳ ư tưởng lớn ra 1 do tuần, trăm do tuần hoặc ngàn do tuần, chuyên chú quán tưởng, không được tán loạn, tâm để nơi Bổn tôn cầu giá tŕ, thành tựu.
Dùng Vô Cấu Hải chơn ngôn gia tŕ, Đại hải chơn ngôn rằng:
-Úm vĩ ma lô nại địa hồng.
Dùng Sơn chơn ngôn gia tŕ nơi núi, Sơn chơn ngôn:
-Úm a tả la hồng.
Dùng Liên hoa chơn ngôn gia tŕ hoa sen, Liên hoa chơn ngôn:
-Úm hồng ca ma la sa phạ ha.
Dùng Nhất thiết Bảo lầu Các chơn ngôn, Lầu các chơn ngôn :
-Nẵng mồ tát phạ dát tha nghiệt đa mẫm tát phạ tha khiếm ôn nhạ nghiệt đế
tát phả ra nhất hàm nga nga năng kiếm sa phạ ha.
Lại thỉnh Phật Thế tôn, tụng chơn ngôn tưởng Thế tôn từ Trời Đao lợi giáng lâm đến đạo tràng, tức dâng ứ già.
Đă dùng thần thông đến,
Xin thọ con cúng dường.
Sau đó dùng Lục tự Phật đảnh kết giới phương trên, tưởng tắm rửa Như Lai, Bổn tôn và ba bộ chủ, lại hiến hương xoa, hương, hoa, y phục, ẩm thực. Nếu như không có đầy đủ các món cúng dường, trong tâm quán tưởng mà dâng hiến, như vậy nghi quĩ cúng dường đă xong. Lại sám hối, tuỳ hỷ, khuyến thỉnh, hồi hướng, phát nguyện đều nên làm, sau đó để tâm nơi chót mũi một ḷng tụng niệm cho đến hết chỗ niệm tụng biến số xong, lại hiến hương hoa, hương đốt, đèn sáng, đồ ăn uống cúng dường, lại dâng ứ già lương tiển đưa Bổn tôn ra cửa phía Đông, lễ tất cả chư Phật, Bồ tát rồi đứng dậy. Ngày tu ba thời, v́ người không hoạ tượng mà nói nghi quĩ nầy.
Phẩm thứ Sáu: Phân Biệt Tướng Bí Mật
Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo Bí mật chủ Kim Cang Thủ rằng: “Kim Cang Thủ! Ông hăy nghe. Đây là Phật đảnh Luân vương tu hành chơn ngôn thành tựu tất cả Như Lai đă nói, muốn thành tựu Phật đảnh dùng bất hoại dà đà câu (kệ). Kim Cang Thủ! Ta nay nói lược các việc thành tựu trước sau, tức nói kệ:
Nơi thánh chúng tụ tập
Chỗ đó là linh địa,
Tịnh thất và Phật đường
Nhà trống và hang hóc
Cây lớn hoặc thi lâm
Núi rừng và sơn cốc
Niệm tụng đựơc thành tựu
Tâm luôn nghĩ Bổn tôn
Không thanh tịnh khiến tịnh
Biến mọi thứ thanh tịnh
Nơi thanh tịnh thành tựu
Dùng hai loại, hai thứ
Được gọi là thành tựu
Tu tất cả Tất địa
Uống ăn có chừng mực
Không quá no quá đói
Uống ăn vừa đủ thôi
Ngon ngọt và nồng béo
Nên bỏ chớ nên tham
Các hữu t́nh tham lam
V́ đắm say mùi vị
Do tham niệm hộ ma
Không được sanh nhất tám
Đầu hôm cho đến khuya
Trong đêm cần yên tịnh
Ngồi nơi toà cỏ tranh
Tất cả như nghi quĩ
Chơn ngôn ấn tương ứng
Nằm ngủ như sư tử
Tư thế thật mạnh mẽ
Hướng Đông và hướng Nam
Xuôi tay mà nằm ngủ
Tức, Tăng phép hộ ma
Theo hướng Đông và Nam
Đùi trái để trên phải
Tay chân đều y vậy
Xếp chân sau đó an
Ít phần dùng trang nghiêm
Đầu hướng về phía Tây
Mặt ngó qua hướng Nam
Lại cũng cần hộ thân
Và hàng phục như nhau
Dùng củi cây bạch đàn
Kiết tường ni câu đà
Và cây Ưu đàm bát
Các thứ loại cây trên
Đây là tướng thành tựu
Chim ca lăng tần già
Uyên ương và bạch hạc
Khổng tước, các chim lành
Trong mộng nếu được thấy
Các tướng trạng như vậy
Không lâu được Tất địa
Nếu trong mộng thấy máu
Đây là tướng thành tựu
Lại như thấy trong mộng
Tràng phan xen lẫn nhau
Đèn sáng nơi lầu cao
Che chở và đi chơi
Đây là tướng thành tựu
Hoặc thấy cởi thuyển bè
Tay cầm các nhạc khí
Hay thấy tháp nhiều tầng
Đều là các mộng tốt
Là tướng sắp thành tựu
Nếu như ở trong mộng
Thấy chó, chiên đà la
Và đĩa bu quanh ḿnh
Đều là tướng không tốt
Lừa ngựa và xe cộ
Nếu thấy và chạm xúc
Th́ không được thành tựu
Như vậy các mộng tướng
Tốt và có không tốt
Đây là hai loại mộng
Cầu thành tựu nên biết
Phải làm pháp hộ ma
Đốt cánh mễ, dầu mè
Sẽ thoát các ma chướng
Tức thấy được Bổn tôn
Lại thường được kỉnh giá
Thánh giả sẽ hiện thân
Đầu đủ nơi trước mặt
Lại thiêu đốt tô, mật
Tức thấy mọi sự thật
Bỏ ăn là sự thật
Nơi đạo là chơn thật
Nếu nghi nơi Bổn tôn
Th́ nơi đêm nằm ngủ
Nguyện cầu xin hiện thân
Nếu hiện tướng trượng phu
Hoặc thấy người đàn bà
Hay sanh tâm tham đắm
Cũng đừng cho tán loạn
Khi ngủ phải gia tŕ
Niệm tung không suy nghĩ
Các tiền bạc của báu
Hiện tại và vị lai
Thận trọng chớ nghĩ đến
Không thành pháp niệm tụng
Nếu như tâm loạn động
Quán nghĩa lư chơn ngôn
Nơi định làm niệm tụng
Tâm nếu khởi tham nhiễm
Nên quán pháp bất tịnh
Nếu tâm khởi giận dữ
Nên dùng quán từ bi
Nếu ngu si phát sanh
Các loại trong tâm khởi
Cần phải chuyên chú tâm
Một ḷng mà niệm tụng
Quán tưởng rơ Bổn tôn
Nếu chưa nhập luân đàn
Dâng các loại hương hoa
Bị các ma ăn mất
Do không đúng nghi quĩ
Và không hiểu rơ ràng
Không gần A Xà Lê
Các ma nương theo đó
Như bóng đeo theo h́nh
Sức niệm tụng bị mất
Các ma ăn hương hoa
Niệm tụng và hộ ma
Bổn tôn không thọ được
Đây chơn ngôn chủ tể
Thành tựu Đảnh Luân vương
Nên dùng mà giá trị
Hộ ma làm các việc
Không có các chướng ngại
Thành tựu được Luân vương
Do đây được gia hộ
Thành tựu khắp mọi nơi
Lại tụng Vô Năng Thắng
Dùng gia tŕ tư thân
Chơn ngôn của Bồ tát
Là quyến thuộc Luân vương
Cần dùng để gia hộ
Chơn ngôn thành tựu thời
Niệm tụng hộ ma đủ
Trước phải nên hộ thân
Nếu không làm như vậy
Tất địa tức không thành
Hư không các Dạ xoa
Quỉ thần, các la sát
Cùng nhau đến phá hoại
Khiến sanh tâm nghi ngờ
Các hoa vĩ nổ phạ
Át ca độ độ ma
Thẩy đều không nên dùng
Tất cả Phật đảnh bộ
Khen tán hoa xà đề
Sen xanh Câu vật đầu
Liên hoa duệ thể hoa
và các loại hoa khác
hương thơm và sạch sẽ
Nếu biết Phật đảnh minh
Thường nên dùng cúng dường
Nếu tu không thành tựu
Hai ba lần tác pháp
Cho đến được bảy lần
Như vậy tức được thành
Lại vào sông biển lớn
Mà làm ấn tháp pháp
Hoặc một,hai, ba, bốn,
Tuỳ sức mà làm đó
Niệm tụng và ấn pháp
Cung kính và khen ngợi
Xưng tụng các diệu điển
Số số phải đầy đủ
Tháp măn ba lạc xoa
Các tội đời trước diệt
Dùng các hoa thật thơm
Hương đốt và hương xoa
Cúng dường Xuất đổ ba (tháp)
Trước mỗi tháp như vậy
Dùng chơn ngôn gia tŕ
Mỗi mỗi xuất đổ ba
Tụng ngàn tám chục biến
Nếu chơn ngôn không thành
Do tội c̣n chưa tiêu
Nên làm đàn một khuỷu
Một ngàn xuất đổ ba
Dầu tạo ngũ vô gián
Cũng nhất định thành tựu
Do niệm tụng tiêu tội
Huống chi nữa làm tháp
Nơi trong sông biển lớn
Hiến mười vạn liên hoa
Sau khi đầy đủ số
Mau chóng được thành tựu
Nơi sông biển lớn kia
Đâu cần phải hạn lượng
Thành tựu chậm hay mau
Đều là do nơi thân
Thành tựu được chân ngôn
Do phước hoặc vô phước
Nếu như nhiều phước đức
Không bao lâu th́ sẽ
Mau chóng được Tất địa
Nên tạo xuất đổ ba
Tất địa là căn bản
Cần phải nên tinh tấn
Được thành tựu bền chắc
Chơn ngôn nơi trong kinh
Không trừ các loại độc
Nghĩa lư thấy như vậy
Cần gắng công niệm tụng
Nên v́ cha, mẹ, thầy
Thọ khổ các chúng sanh
Một phần đức niệm tụng
V́ kia mà hồi hướng
V́ tiêu trừ tội chướng
Cần phải thường lạy Phật
Do lạy Phật niệm tụng
Mau chóng được thành tựu
Lễ Phật được quả báo
Phước đức thật không lường
Biết vậy nên qui mạng
Cố gắng cung kính lễ
Sau mau thành Tất địa
ở trong đời mạt pháp
Chơn ngôn không thành tựu
Do đó Thích Ca ta
Nói đệ tử oai đức
Đời sau được giải thoát
Cần xa tâm nghi ngờ
Luôn luôn phải tinh tấn
Tu tŕ các Tất địa
Không lâu được thành tựu
Người đầy đủ phước đức
Mau chóng được Tất địa
Phần nhiều là ít phước
Nên thành tựu chậm trễ
Nếu bi trí tương ưng
Mau được thắng Tất địa
Nếu không có lưu ly
Nên dùng pha lê đỏ
Tŕ Phật đảnh chơn ngôn
Được bất khả tư nghi
Nên dùng dầu thanh tịnh
Dâng hiến cho Bổn tôn
Chia ra làm ba phần
V́ thương xót hữu t́nh
Trước tiên lấy một phần
Để cúng dường Bổn tôn
C̣n lại một phần nữa
Đem cho người qua lại
Phần cuối tự ḿnh ăn
Phần cúng Bổn tôn xong
Nên đem ra bố thí
Nếu không có khách đến
Đem thí cho chim chóc
Các phần chia đă xong
Đem thí cho hết đă
V́ để nuôi thân mạng
Ban phát đầy đủ xong
Xây hướng Nam mà ăn
Đây là pháp điều phục
Không nên xây về Tây
Thường làm việc điều phục
Đông Bắc là Tức, Tăng
Thành tựu các Phật đảnh
Mặt nên xây về Đông
Nên khởi ḷng thương xót
Ba thời nên suy nghĩ
Ở nơi biển sanh tử
Ta nay cần cứu độ
Tâm đại bi tương ưng
Xuất gia và tại gia
Cho đến các Phạm Chí
Đều phải khởi ḷng từ
Niệm tụng và du hành
Cần phải luôn cẩn thận
Và phải luôn kính lễ
Các tháp miếu thờ Phật
Các chơn ngôn khó thành
Nên đọc tụng mọi lúc
Siêng tu tam ma địa
Người nầy được tự tại
Điều phục được tất cả
Thị hiện tất cả sắc
Do đó cần nên làm
Niệm tụng và hộ ma
Tắm gội và sái tịnh
Như ở trên đă nói
Sau đó lại hộ thân
Hạt cải tro kiết giới
Dùng Biện sự chơn ngôn
Hoặc dùng Tồi hoại đảnh
Gia tŕ dây và then
Cột đóng nơi bốn góc
Xong rồi lại cúng dường
Và ân cần mời thỉnh
Tất cả các Thánh chúng.
Lư hộ ma tụng niệm
Đem đặt ở nơi toà
Đây là nhơn thành tựu
Dùng phân trâu trộn đất
Để tô đắp Đàn tràng
Sắp đặt các cúng dường
Trước là các Như Lai
Y nghi quỉ dâng hiến
Lại bên Luân Vương Đảnh
Tuần tự mà cúng dường
Lại đến Quán Tự Tại
Cùng với các quyến thuộc
Lại đến Kim Cang Thủ
Dâng cúng như cúng Phật
Tất cả các hương hoa
Đều y theo các bộ
Hết thảy đủ ba bộ
Đều phải nên cúng dường
Do đây làm kỉnh giác
Tất cả trời hộ đời
Người ngu dầu cố nói
Mọi người tu chơn ngôn
Tất cả đều là vọng
Nếu không nói nghi quỉ
Bị đoạ v́ phỉ báng
Dầu mè, hạt cải trắng
Nên dung để hộ ma
Hay thành việc kính ái
Đốt dầu mè, cánh mễ
Hay thành việc tăng ích
Độc dược, cây có độc
Trộn chung mà hộ ma
Kẻ làm hại Phật Pháp
Thảy đều bị tiêu trừ
Lấy cây Vĩ nổ phạ
Vô ưu các lá trắng
Và dung bạch sâm mộc
Hộ ma thành tăng ích
Dùng các cây như vậy
Ni câu đà, Ưu đàm
Cây a thuyết có nhựa
Các cây hoạt nhi tử
Nếu làm pháp tức tai
Th́ dùng các cây nầy
Lại lấy khư đà la
Ca la ca mộc đốt
Cây ca la vỉ la
Như vậy các loại nầy
Dùng điều phục, tăng ích
Mặt xây về phương nam
Kêu tên mà thiêu đó
Ư tưởng, miệng đọc tên
Để làm pháp điều phục
Mặt xây về hướng Bắc
Ở trong câu chơn ngôn
Thêm chữ sa phạ ha
Là làm pháp tức tai
Nên tu các Phật đảnh
Ngồi xây mặt hướng Đông
Hộ ma làm tăng ích
Ngồi kiết già Tức tai
Ngồi kiết tuờng Tăng ích
Ngồi tôn cư Điều phục
Trừ hại làm Hộ ma
Gọi là pháp Điều phục
Ngăn dứt các chướng nạn
Gọi là pháp Tức tai
Cầu mọi việc tùy ư
Gọi là pháp Tăng ích
Như vậy tất cả chỗ
Suy nghĩ mà tu hành
Kẻ ganh ghét Phật Pháp
Khiến phải bị xa ĺa
Đây là pháp tương tắng
Người tu hành thanh tịnh
Không để tóc, móng dài
Các chỗ ở như vậy
Không thể thành Tất điạ
Không ở nơi người nữ
Chỗ có nhiều gió độc
Các chỗ ở như vậy
Không thể cầu thành tựu
Chỗ ở nếu tốt đẹp
Niệm tụng làm hộ ma
Thánh chúng đêu vui vẽ
Do làm việc hộ ma
Thành tựu các sự nghiệp
Như vua không đủ tướng
Không thể làm vua được
Tùy theo sức mà làm
Niệm tụng và hộ ma
Kẻ hạ liệt tu hành
Quả báo cũng hạ liệt
Nếu cầu độc, đao, tượng
Không thể nào ban cho
Chỉ trừ pháp Kính Ái
V́ để hộ thân mạng
V́ để trừ phiền năo
Như vậy các nhân duyên
Đều không thể cho được
Người tu hành thanh tịnh
Bị chạm xúc dơ dáy
Cần phải nên tắm rữa
Tâm tụng, kết Ấn khế
Tất cả các tham đắm
Đều dung chơn ngôn tịnh
Kẻ tại gia tu hành
Để tóc không có lỗi
Khi niệm tụng hộ ma
Nếu có chỗ nghi ngờ
Bị các việc lôi cuốn
Giờ giấc không nhất định
Khi cúng dường Thánh chúng
Trong than nhiều cáu bẩn
Trên đầu rận chí sanh
Sanh ra các tội lỗi
Không nh́n mặt trời lên
Khi nhật thực không nh́n
Không được nh́n nguyệt thực
Không kính trọng tôn sư
Lúc cúng dường Thánh chúng
Không tưởng việc an lạc
Không được sạch sẽ than
Do đó, kẻ tu hành
Phải thường ở trong định
Khi trong nước đói kém
Hoặc khi có chiến tranh
Quốc chủ không hoà thuận
Không thể cầu Tất địa
Chư Thánh đă bỏ đi
Chơ quỉ thần, Dạ xoa
Nơi Long thần năo loạn
Nơi nghĩa địa xấu dơ
Nơi xe cộ đông đúc
Nơi nhiều rắn rít ở
Hoặc là chỗ hạn hán
Tụng chú và kết Ấn
Thảy đều được thanh tịnh
Các loại quĩ thần dơ
Dạ xoa, quĩ khởi thi
Và La sát thành tựu
Trên giữa nơi làm Pháp
Kẻ trí không nên nghi
Nơi suối song sạch sẽ
Tắm rữa nước Chánh pháp
Dùng huệ mà syư nghĩ
Niệm tụng đều nên làm
Đều nên ngồi kiết già
Các việc giúp lẫn nhau
Nếu khi muốn đứng dậy
Đều cần phải tắm rữa
Hoặc dung tâm trong sạch
Mọi việc thành tốt đẹp.
QUYỂN THỨ HAI
HẾT
|