VT0672
KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ
Hán Dịch: Đại Châu Vu-Điền, Tam Tạng Pháp Sư Thật-Xoa-Nan-Đà
Việt Dịch: Thích Nữ Trí Hải
Mục Lục
Lời Tựa
Quyển Một
Chương 1 Vua Lăng Già Thưa Hỏi
Chương 2 Thực hành tất cả Pháp
Quyển Hai
Tiết II. Thực Hành Tất Cả Pháp
Quyển Ba
Tiết III. Tu Tập Hết Thảy Pháp
Quyển Bốn
Chương 3.1 Vô Thường
Quyển Năm
Chương 3.2 Vô Thường
Chương 4 Hiện Chứng
Chương 5 Như Lai Thường Hay Vô Thường
Chương 6 Sát Na Phẩm
Quyển Sáu
Chương 7 Phẩm Biến Hóa
Chương 8 Cấm Ăn Thịt
Chương 9 Đà La Ni
Chương 10.1 Kệ Tụng
Quyển Bảy
Chương 10.2 Kệ Tụng.
*****
KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ
Hán Dịch: Đại Châu Vu-Điền, Tam Tạng Pháp Sư Thật-Xoa-Nan-Đà
Việt Dịch: Thích Nữ Trí Hải
Chùa Tịnh Luật xuất bản PL. 2546
LỜI TỰA
Kinh Lăng Già là bộ kinh có tầm quan trọng của Phật Giáo Đại Thừa, v́ chứa đựng những học thuyết về Duy Tâm, Như Lai Tạng, A Lại Da Thức, và cả văn học Phật Giáo Thiền. Nghĩa lư kinh văn rất thâm sâu vi diệu, khó hiểu. Khó ở chổ có nhiều cách để hiểu hoàn toàn về ư nghĩa, và cả hoàn cảnh lịch sử của nó.
Yếu chỉ kinh Lăng Già là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của các tôn giáo khác, và chỉ rơ cảnh giới chứng ngộ của người tu Phật.
Kinh Lăng Già có ba bản dịch từ phạn văn (Sanskrit) sang Hán văn: Tống dịch, Ngụy dịch, và Đường dịch. Bản đang phổ biến và thịnh hành nhất hiện nay là Tống dịch do ngài Tam Tạng Sa Môn Cầu Na Bạt Đà La (người Thiên Trúc) dịch.
Phần Việt dịch hiện có những bản :
Sư Bà Diệu Không dịch bản sớ giải của ngài Hàm Thị (1970).
H.T. Thích Thanh Từ dịch bản sớ giải của ngài Hàm Thị (1975).
Đ.Đ. Thích Chơn Thiện dịch từ nguyên tác Anh ngữ của ngài Daisetz Teitaro Suzuki (1992).
H.T. Thích Duy Lực dịch bản của ngài Tam Tạng Sa Môn Cầu Bạt Đà La (1994).
Nay chúng tôi có thiện duyên nhận được bản Kinh Lăng Già của Ni Sư Trí Hải phụng dịch theo bản Đường dịch của ngài Thật Xoa Nan Đà, cùng tham khảo các bản Ngụy, Tống dịch và bản Anh ngữ của ngài Suzuki (1969).
Dịch giả Ni Sư Trí Hải với nhiều kinh nghiệm dịch thuật, và nhiều năm nghiên cứu kinh tạng. Riêng tôi đọc những bản dịch, nhận thấy bản của Ni Sư Trí Hải dễ hiểu nhất trong những bản kể trên. Lời văn giản dị, trong sáng, ít dùng hán văn. Hy vọng đọc giả khai thông khi đọc dịch phẩm giá trị này.
Tôi xin nhất tâm và tha thiết giới thiệu cùng quí thiện tín. Mong rằng quí vị y kinh này ngộ được thật tướng của các pháp, và thẳng đến quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Cuối cùng xin hồi hướng công đức ấn tống kinh này đến tất cả quí phật tử đă phát tâm cúng dường. Nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ cho kẻ c̣n người mất, tất cả pháp giới chúng sanh sớm thành phật đạo.
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát.
Xuân Mậu Dần 1998.
Tỳ Kheo Thích Tịnh Trí.
[M] [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7]
KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ
Hán Dịch: Đại Châu Vu-Điền, Tam Tạng Pháp Sư Thật-Xoa-Nan-Đà
Việt Dịch: Thích Nữ Trí Hải
QUYỂN MỘT
CHƯƠNG 1 : VUA LĂNG GIÀ THƯA HỎI
Như vậy tôi nghe, vào thời gian Phật cùng chúng đại tỳ kheo và đại Bồ tát ở trong thành Lăng già trên đỉnh núi Ma la dà bên biển lớn. Các vị này đều đă thông đạt năm pháp, ba tự tính, tám thức, hai vô ngă, hiểu rơ nghĩa cảnh giới do tự tâm hiện, dạo chơi trong vô số tam muội, tự tại, mười lực và sáu thần thông. Tuy hiện đủ loại h́nh và phương tiện để điều phục chúng sinh, kỳ thực các Ngài xuất thân từ các cơi Phật, được chư Phật lấy nước cam lộ rưới đầu. Bồ tát Đại Huệ là bậc thượng thủ.
Bấy giờ đức Thế Tôn thuyết pháp trong cung vua Rồng biển đă quá bảy ngày. Ngài từ trong biển lớn đi ra, có vô lượng trời rồng, Phạm vương, Đế thích - những vị hộ tŕ thế gian- cung đón. Đức Như lai đưa mắt nh́n thành Lăng già trên đỉnh Ma la dà sơn, mỉm cười nói: "Các bậc Ứng chính đẳng giác ngày xưa cũng đều ở trong thành này diễn nói Pháp mà thánh trí đă chứng. Đó không phải cảnh giới ngoại đạo có thể suy lường, không phải cảnh giới của thanh văn duyên giác. Nay Như lai cũng khai thị pháp này cho La bà vương (Ràvana)." Khi ấy La bà na, vua loài Dạ xoa, nhờ thần lực Phật, nghe được âm thanh lời ngài, từ xa biết Như lai đă ra khỏi cung vua Rồng biển, có các vị hộ thế trời, rồng, Phạm vương, Đế thích vây quanh. Nh́n sóng biển, Như lai quán sát A lại gia thức của chúng sinh không khác ǵ biển lớn bị gió hoàn cảnh thổi động, làm cho sóng thức nổi dậy. La bà na ḷng vui mừng nói: "Ta hăy đến thỉnh đức Như lai vào thành Lăng già, để ta cùng các loài trời, người trong đêm tối dài được lợi ích lớn." Nói xong cùng quyến thuộc đi xe hoa đến chỗ Phật, đến nơi xuống xe nhiễu quanh Phật ba ṿng, trỗi các thứ âm nhạc để cúng dường Như lai. Các nhạc khí đều nạm ngọc nhân đà la màu xanh, ngọc lưu ly..., được bọc trong các thượng y vô giá. Âm thanh vi diệu mỹ lệ, tiết điệu ḥa nhịp theo lời kệ ca ngợi Phật:
Tâm Phật là kho tàng chân lư
Vô ngă, ĺa kiến chấp nhiễm ô
Nguyện Phật v́ chúng con diễn nói
Chỗ sở tri thánh trí đă tường
Báo thân do thiện pháp tích thành
Trí giác ngộ nên thường an lạc
Ngưỡng mong đấng Biến hóa tự tại
Vào thành Lăng già diễn pháp sâu
Chư Phật cùng Bồ tát xưa lâu
Cũng từng ở thành này nói pháp
Chúng con loài dạ xoa hết thảy
Nguyện một ḷng nghe Pháp cao sâu.
La bà na, chúa tể thành Lăng già, sau khi đă ca bài tán Phật theo âm điệu Đô ta ka (Totaka), c̣n hát bài tụng như sau:
Thế Tôn trong bảy ngày
Ở trong biển Ma kiệt
Sau ra khỏi Long cung
Ung dung lên bờ này
Con và các thể nữ
Cùng quyến thuộc dạ xoa
Thân dà, Xa Thích na
Cùng các vị thông tuệ
Đều sẽ dùng thần lực
Mà đến chỗ Như lai
Lần lượt xuống xe báu
Lễ kính đức Thế tôn
Lại nhờ uy thần Phật
Trước Phật xưng tên ḿnh:
Con là vua La sát
La bà na mười đầu
Nay đi đến chỗ Phật
Xin Phật thâu nhận con
Và tất cả chúng sinh
Ở trong thành Lăng già
Vô lượng Phật quá khứ
Đều lên đỉnh núi báu
Trong thành Lăng già này
Mà nói pháp sở chứng
Thế tôn cũng nên vậy
Ở núi báu trang nghiêm
Chúng bồ tát vây quanh
Xin nói pháp thanh tịnh
Chúng con nhân ngày nay
Cùng chúng ở Lăng già
Một ḷng cung kính nghe
Pháp tự chứng ly ngôn
Con nhớ đời quá khứ
Vô lượng các đức Phật
Có Bồ tát nhiễu quanh
Cũng nói kinh Lăng già
Kinh nhập Lăng già này
Phật xưa đều khen ngợi
Nguyện Phật nay cũng thế
V́ chúng sinh khai diễn
Xin Phật v́ xót thương
Vô lượng chúng Dạ xoa
Hăy vào thành nghiêm báu
Nói pháp môn vi diệu
Thành Lăng già đẹp này
Trang hoàng bằng châu báu
Vách không bằng đất, đá
Lưới giăng bằng trân bảo
Các chúng Dạ xoa đây
Xưa từng cúng dường Phật
Tu hành ĺa các lỗi
Thường rơ chỗ chứng tri
Các dạ xoa nam nữ
Khao khát pháp đại thừa
Tự tin theo Pháp ấy
Và thích khiến người tin
Nguyện xin đấng vô thượng
V́ các chúng La sát
Và quyến thuộc Lung nhĩ
Mà đến nơi thành này
Con từ xưa đến nay
Siêng cúng dường chư Phật
Nguyện nghe pháp tự chứng
Đạo đại thừa cứu cánh
Xin Phật thương xót con
Và các chúng Dạ xoa
Cùng các hàng con Phật
Mà vào trong thành này
Đây cung điện thể nữ
Và các chuỗi anh lạc.
Vườn vô ưu khả ái
Xin Phật thương nạp thọ
Để phụng Phật, Bồ tát
Không ǵ con không xả
Ngay cả đến thân này
Xin Phật thương nạp thọ.
Đức Thế Tôn nghe lời trên, liền dạy: "Này Dạ xoa vương, các đấng đại đạo sư đời quá khứ đều thương xót ngươi, nhận lời thỉnh cầu của ngươi mà đến núi báu này, nói pháp tự chứng. Chư Phật đời vị lai cũng thế. Đây là chỗ ở của những bậc tu thiền quán sâu xa đă biến hiện ra pháp lạc. Ta và các bồ tát v́ thương xót sẽ nhận lời cầu thỉnh của ngươi." Nói xong, Phật ngồi im lặng. Vua La bà na liền đem xe kết hoa đẹp của ḿnh để cúng Phật. Phật ngồi lên xe, vua và các bồ tát tuần tự theo sau. Có vô lượng thể nữ ca hát tán thán để đón mừng Phật vào thành. Sau khi vào thành, vua La bà na cùng quyến thuộc lại dùng các thứ vi diệu để cúng dường. Đồng nam đồng nữ trong chúng Dạ xoa lấy lưới báu cúng dường Phật, vua La bà na cúng Phật và Bồ tát các chuỗi anh lạc đeo cổ. Sau khi nhận các phẩm vật cúng dường, chư vị Bồ tát lần lượt nói cảnh giới cao thâm mà các ngài đă thân chứng. La bà na vương và quyến thuộc lại cúng dường bồ tát Đại huệ và khuyến thỉnh như sau:
Tôi và các đại sĩ
Muốn hỏi đức Thế Tôn
Các cảnh giới tự chứng
Của tất cả Như lai
Tôi cùng chúng dạ xoa
Và các bồ tát này
Một ḷng nguyện xin nghe
Nên đồng thanh khuyến thỉnh
Ngài là bậc tối thắng
Trong các bậc tu hành
Và thuyết pháp lợi sinh
Tôi một ḷng cung kỉnh
Xin ngài v́ chúng tôi
Mà thỉnh vấn như lai
Pháp tự chứng thanh tịnh
Cứu cánh vào Phật địa
Ĺa tất cả lầm lỗi
Của ngoại đạo, nhị thừa.
Bấy giờ trong núi ấy, đức Thế Tôn dùng thần lực hóa ra muôn ngàn núi báu, lại dùng trăm ngàn vạn ức báu vật của chư thiên mà trang hoàng. Trên đỉnh mỗi ngọn núi đều có thân Phật hiện, trước mỗi thân Phật đều có vua La bà na và hội chúng. Tất cả cơi nước trong mười phương đều xuất hiện, trong mỗi cơi nước đều có đức Như lai, trước mỗi đức Phật đều có vua La bà na cùng quyến thuộc, vườn A du già, thành Lăng già trang nghiêm... Mỗi nơi đều có bồ tát Đại huệ thưa hỏi Phật. Phật khai thị cảnh giới tự chứng cho chúng hội. Sau khi dùng muôn ngàn âm thanh vi diệu để diễn nói kinh này, Phật cùng chúng Bồ tát tan biến vào hư không. Khi chỉ thấy c̣n lại một ḿnh ḿnh trong cung điện, vua La bà na nghĩ: "Vậy, người đang nh́n mọi sự đây là ai? Ai đă nghe thuyết pháp? Ai thấy? Thấy ǵ? Phật và rừng núi báu trong thành biến đi đâu? Đấy là mộng chăng? Hay là ảo giác? Hay cảnh biến hóa của loài càn thát bà? Hay v́ ta nhặm mắt? Hay là nắng quán đèn ḷa? Đây là ảo mộng, như con của thạch nữ? Như ảo giác ṿng lửa quay?" Lại nghĩ: "Bản tính của vạn pháp đều như vậy, chỉ là cảnh giới do tự tâm phân biệt. Kẻ phàm phu mê hoặc không thể hiểu thấu. Kỳ thực, không có thấy và bị thấy, không người năng thuyết cũng không pháp sở thuyết. Thấy Phật nghe Pháp đều là phân biệt. Những người thấy các pháp như trên không thể thấy được Phật, không sinh phân biệt mới gọi là thấy Phật." Khi ấy chúa tể thành Lăng già bỗng nhiên khai ngộ, ĺa ô nhiễm của tự tâm, chứng được vạn pháp chỉ do tâm biến hiện; an trú cảnh giới vô phân biệt. Nhờ những thiện căn đă trồng lâu xa về trước, ông được cái thấy "như thật" đối với hết thảy pháp. Ông không c̣n lệ thuộc người khác để giác ngộ, có thể dùng trí quán sát các pháp một cách sáng suốt, xa ĺa hết thảy ức đoán, tà giải, trở thành một bậc thầy trong các bậc đại tu hành. Có năng lực một thân hiện ra nhiều thân, thấy suốt các phương tiện, biết rơ đặc điểm từng giai đoạn tu hành (địa), thường ưa xa ĺa tâm, ư, ư thức, cắt đứt ba kiến "tương tục", ĺa chấp trước của ngoại đạo. Tự tâm ông biết ḿnh đă vào kho tàng Như lai, hướng đến Phật địa. La bà na bỗng nghe giữa hư không trong cung điện có tiếng nói: "Hay thay, đại vương ! Như chỗ ông đă học, các bậc tu hành cũng học như thế, thấy như thế. Tất cả các đức Như lai cũng thấy như thế. Nếu thấy (các pháp) khác thế, là đoạn kiến. Ông phải xa ĺa tâm, ư, ư thức, nên siêng quán sát hết thảy các pháp, nên tu nội hạnh, chớ đắm trước ngoại cảnh, chớ sa vào những pháp tu, những lối giải thích, những cảnh giới, những phép định của nhị thừa ngoại đạo. Chớ ham thích bàn chơi, đàm tiếu, chớ khởi các kiến chấp của phái Vi đà (chấp tự ngă), chớ say đắm an nhàn của vương vị, chớ ở trong những định thuộc về lục định v.v.. Làm như thế là thực hành hạnh của bậc chân tu, có thể phá biện luận của người khác, có thể diệt trừ ác kiến, có thể xả bỏ hết thảy ngă kiến chấp trước, có thể dùng diệu tuệ để chuyển thức sở y, có thể tu đạo đại thừa của Bồ tát, có thể thâm nhập cảnh giới tự chứng của Như lai. Ông nên siêng tu học thêm như vậy, để các pháp sở đắc càng thêm thanh tịnh. Hăy khéo tu Tam muội và Tam ma bát để (samàpatti), chớ tham đắm cảnh giới mà nhị thừa, ngoại đạo cho là vui thù thắng, v́ phân biệt theo phàm phu. Ngoại đạo chấp ngă kiến, có ngă tướng, vướng mắc Thật (dravya), Đức, (Cầu na, guna). Nhị thừa thấy thật có "vô minh duyên hành" nên từ "Tính không" sinh loạn tưởng phân biệt. Lăng già vương, Pháp này là đạo đại thừa rất thù thắng, có thể khiến ông thành tựu "Thánh trí tự chứng", được thọ đời tốt đẹp trong ba cơi. Lăng già vương, các ngoại đạo chấp trước ngă, lập các dị luận, không thể diễn nói xa ĺa chấp trước, chỉ thấy nghĩa "hai" của thức tính. Hay thay, Lăng già vương, hăy tư duy nghĩa này như ông tư duy, tư duy như thế chính là thấy Phật."
Bấy giờ Lăng già vương lại nghĩ: "Xin cho con lại được chiêm ngưỡng Như lai. Như lai Thế tôn vốn tự tại trong các phép quán, ĺa pháp ngoại đạo, có thể diễn nói cảnh giới của Thánh trí tự chứng, vượt ngoài ứng thân hóa thân, an trú trong chính định của Như lai, chứng nhập được pháp lạc tam muội. Ngài là đấng "Đại quán hạnh sư", là đấng Đại ai mẫn, đă đốt hết lửa phiền năo và phân biệt, được các chúng Phật tử vây quanh, đấng hiểu thấu tâm chúng sinh, đấng Biến khắp các cơi, đấng Nhất thiết trí, xa ĺa hết thảy sự tướng phân biệt. Con nay xin được thấy lại năng lực đại thần thông của Như lai. Khi được thấy Như lai, nguyện cho con đạt được pháp chưa đạt, không thối chuyển pháp đă đạt, ĺa các phân biệt, an trú trong pháp lạc tam muội, tăng trưởng đầy đủ Như lai trí." Đức Phật biết Lăng già vương sẽ chứng Vô sinh pháp nhẫn, v́ thương xót nên lại thị hiện sắc thân, biến mọi vật trở lại như trước. Vua mười đầu thấy lại những ǵ đă từng thấy: rất nhiều sơn thành trang hoàng bằng đủ thứ châu báu, trong mỗi thành đều có đức Phật 32 tướng nghiêm thân, lại tự thấy thân ḿnh và Đại huệ ở trước mỗi đức Phật, có chúng Dạ xoa vây quanh, đang nói các pháp sở hành của bậc Tự chứng trí, lại thấy cơi nước của mười phương Phật. Tất cả các sự vật đều hiện như trước không sai khác.
Bấy giờ đức Thế tôn từ xa dùng tuệ nhăn quan sát khắp hội chúng rồi bỗng vui mừng cười lớn như sư tử vương. Từ giữa đôi lông mày, đùi vế, hông, lưng, cổ cho đến từ vai, cánh tay, dấu chữ vạn, từ mỗi lỗ chân lông trên thân ngài, đều phóng muôn vàn hào quang đẹp, như ráng cầu vồng, như tia mặt trời, lại như ngọn lửa mạnh nổi lên vào thời kiếp tận. Lúc ấy trong hư không, Phạm vương, Đế thích, Tứ thiên vương từ xa cũng thấy Như lai ngồi như núi Tu di trên đỉnh Lăng già sơn vui mừng cười lớn. Chư Bồ tát và các chúng loài trời đều nghĩ: "Như lai Thế Tôn vốn tự tại trước mọi pháp, nay bởi nhân duyên ǵ bỗng lại vui mừng cười lớn, thân tỏa hào quang, lặng im không động, an trú trong cảnh tự chứng, nhập pháp lạc tam muội, như sư tử vương nh́n quanh bốn hướng, nh́n La bà na, nghĩ đến các pháp như thật?" Khi ấy Bồ tát Đại huệ trước v́ lời thỉnh của La bà na, sau v́ biết rơ tâm các Bồ tát trong hội chúng, lại biết chúng sinh đời sau những kẻ bám vào ngữ ngôn văn tự, ôm giữ hạnh nhị thừa ngoại đạo sẽ mê lầm nghĩ: "Thế Tôn đă xa ĺa cảnh giới của thức phân biệt, thế th́ v́ cớ ǵ mà vui mừng cười lớn?" Chính v́ muốn trừ nghi hoặc cho hạng này, nên Bồ tát hỏi Phật. Phật đáp:
" Hay thay, Đại huệ! Hay thay, Đại huệ ! Ông quán sát thế gian, v́ thương xót chúng sinh bị trói buộc trong các quan niệm sai lầm về ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, muốn cho chúng sinh được khai ngộ mà hỏi ta. Những người trí thường đặt câu hỏi v́ lợi ḿnh lợi người như vậy. Này Đại huệ, Lăng già vương đây đă từng hỏi tất cả các đức Như lai trong quá khứ hai nghĩa Ứng cúng và Chính đẳng giác (A la hán và Phật), nay cũng muốn hỏi, và trong đời vị lai cũng thế. Các chỗ khác nhau giữa hai nghĩa ấy, hết thảy nhị thừa, ngoại đạo đều không thể suy lường." Đức Như lai biết Lăng già vương muốn hỏi nghĩa này nên dạy:
Này Lăng già vương, ông muốn hỏi ǵ cứ hỏi. Ta sẽ phân biệt giải thích cho ông, thỏa măn mong cầu của ông, khiến ông hoan hỷ, có thể dùng trí tuệ tư duy quán sát để ĺa phân biệt, biết rơ các giai đoạn tu hành. Ông sẽ tu tập đối trị các pháp, chứng nghĩa chân thật, nhập pháp lạc tam muội, được chư Phật nhiếp thọ, an trú trong pháp lạc xa ma địa (samapatthi), xa ĺa lỗi lầm của định nhị thừa, an trú các cấp bực Bồ tát: Bất động, Thiện huệ, Pháp vân. Ông sẽ như thật rơ biết các pháp vô ngă, sẽ được ngồi trong hoa sen báu, được chư Phật lấy nước tam muội rưới đầu, được vô số Bồ tát ở trong sen báu vây quanh, cùng chúng hội đều hướng nh́n ông. Các cảnh giới như thế không thể nghĩ bàn. Ông sẽ sinh khởi các hạnh Nhất hạnh và Nhất phương tiện. Ông quyết định sẽ đạt những điều bất tư ngh́ như thế trong quả vị Như lai, sẽ tùy cơ cảm chúng sinh mà ứng hiện thân tướng. Những ǵ ông sẽ đạt, hàng nhị thừa, ngoại đạo, Phạm vương, Đế thích, Tứ thiên vương đều chưa từng thấy.
Được Phật cho phép, Lăng già vương rời chỗ ngồi trên đỉnh núi báu thanh tịnh trang nghiêm như hoa sen lớn đứng dậy, với chúng thể nữ vây quanh, hóa ra vô lượng hoa đủ màu, các loại hương như hương bột, hương thoa, tràng phan, dù lọng, quang bôi (?), anh lạc cùng các đồ trang sức thắng diệu khác thế gian chưa từng nghe. Lại biến hóa ra rất nhiều nhạc khí mà dục giới có, các nhạc khí vượt hơn nhạc khí cơi trời, rồng, nhạc thần, cùng hết thảy thế gian, các nhạc khí mà chư Phật mười phương đều thấy. Lại hóa các lưới báu che khắp chư Phật, Bồ tát. Lại hiện các thứ y phục mỹ lệ, dựng tràng phan để cúng dường Như lai. Xong La bà na liền bay lên hư không cách bảy cây đa la, rưới xuống các lễ vật cúng dường, trỗi nhạc, rồi từ trên không xuống, ngồi ở đỉnh núi sen báu tỏa ánh sáng như mặt trời, vui mừng cung kính bạch: "Con nay muốn hỏi Như lai hai nghĩa. Hai nghĩa này con đă từng hỏi các đức Như lai Ứng chính đẳng giác trong quá khứ. Chư Phật xưa cũng đă nhân lời cầu thỉnh của con mà tŕnh bày. Nay con muốn hỏi lại nghĩa ấy, xin đức Như lai nói rơ cho con. Bạch Thế tôn, hai nghĩa ấy được các đức Như lai biến hóa chứ không phải Phật căn bản (Phật Pháp thân) tuyên thuyết. Phật căn bản th́ chỉ nói cảnh giới của pháp lạc tam muội chứ không nói những cảnh giới do hư vọng phân biệt. Hay thay đức Thế Tôn tự tại đối với các pháp, xin ngài rũ ḷng thương xót nói hai nghĩa này, hết thảy hàng con Phật đều có ḷng muốn nghe." Khi ấy đức Thế Tôn bảo vua:
Ông cứ hỏi, ta sẽ nói cho.
Vua Dạ xoa liền mang thêm các thứ mũ báu và anh lạc, các đồ trang sức để trang nghiêm thân rồi nói:
Như lai thường dạy: "Pháp c̣n phải xả, huống hồ phi pháp." Bạch Thế Tôn, làm sao xả hai thứ pháp ấy? Pháp là ǵ, phi pháp là ǵ? Làm sao có hai pháp để xả? Có hai pháp tức đă sa vào tướng phân biệt giữa hữu thể và vô thể (svabhàvàbhàva) giữa thị và phi (abhautibhautika). Tất cả đấy đều là phân biệt, không thể biết được tướng vô sai biệt của A lại da thức. Như khi thấy ṿng lông (mao luân) trong hư không mà cho có thật, (sự phân biệt) đó không phải là cảnh giới của tịnh trí. Pháp tính vốn như vậy, làm sao có thể xả (pháp hay phi pháp)?
Phật dạy:
Lăng già vương, ông không thấy sự tán hoại vô thường của các vật như b́nh, v.v..hay sao ? Phàm phu thấy những pháp ấy liền sinh phân biệt. Ông không biết sự khác nhau giữa pháp và phi pháp sao ? Đấy là do phàm phu phân biệt, không phải là cái thấy của bậc chứng trí. Phàm phu sa vào sự phân biệt tướng, các bậc đă chứng th́ không thế. Này Lăng già vương, như khi thiêu đốt cung điện, vườn rừng, thấy các ngọn lửa, tính lửa vẫn là một, nhưng do sức cháy của các nơi phát ra ngọn lửa mà lửa có dài ngắn to nhỏ khác nhau. Sao ông không biết tướng sai biệt giữa pháp và phi pháp? Này Lăng già vương, như một hạt giống sinh mộng, thân nhỏ, cành, lá cho đến hoa quả, sai biệt vô cùng; ngoại pháp như thế, nội pháp cũng vậy. Do vô minh làm duyên sinh uẩn, giới, xứ cùng hết thảy pháp trong ba cơi, thọ sinh vào các đường, có khổ lạc, tốt, xấu, nói, im, đi, nghỉ đều khác nhau. Lại như tướng của các thứ chỉ là một, song theo cảnh giới mà có trên, giữa, dưới, uế, sạch, thiện, ác v.v.. không đồng. Này Lăng già vương, không những các pháp như trên có sai biệt, mà các bậc tu hành khi tu quán hạnh cũng thấy trong các hạnh nội chứng của ḿnh có các tướng sai biệt, huống chi pháp với phi pháp mà không phân biệt hay sao? Này Lăng già vương, pháp cùng phi pháp khác nhau, nên biết đấy là do phân biệt các tướng mà ra. Lăng già vương ! Pháp là ǵ? Ấy là những pháp mà nhị thừa ngoại đạo do hư vọng phân biệt cho là có, thật, làm nhân cho các pháp. Những pháp như vậy cần phải xa ĺa, chớ nắm giữ tướng để sinh phân biệt, thấy các pháp do tự tâm biến mà cho là thật. Thấy được pháp tính của tự tâm, ấy gọi là không chấp trước. Các vật như cái b́nh v.v.. mà phàm phu chấp vốn không tự tính, những người tu quán hạnh lấy tỳ bát xá na (vipassana-quán) như thật quán sát, gọi là xả các pháp. Này Lăng già vương, phi pháp là sao? Ấy là các pháp không có tự tính, không tướng, ĺa phân biệt; người thấy như thật th́ cảnh giới dù có dù không đều không khởi quan niệm, ấy gọi là xả phi pháp. Lại nữa, phi pháp ấy là như sừng thỏ, con của thạch nữ v.v.. đều không tính không tướng, không thể phân biệt, cần phải xa ĺa. Phi pháp này tuy không tính không tướng, mà thế gian vẫn có danh từ, không phải như cái b́nh v.v.. có thể cầm nắm. Các pháp có tướng phân biệt như b́nh, và không tướng như lông rùa, đều phải xả bỏ, ấy gọi là xả pháp cùng xả phi pháp. Lăng già vương, những chỗ ông hỏi trước ta đă nói xong. Này Lăng già vương, cái quá khứ ông nói đó chỉ là phân biệt, vị lai cũng là phân biệt, v́ ta (hiện tại) cũng như các đức Như lai kia. Lăng già vương, pháp của chư Phật nói đều xa ĺa phân biệt, đă ra khỏi hết thảy hí luận, không như sắc tướng có thể phân biệt, chỉ có trí mới chứng nhập được mà thôi. Chính v́ muốn cho chúng sinh an vui mà chư Như lai mới diễn nói pháp, dùng trí vô tướng mà nói, gọi là Như lai. Bởi đức Như lai lấy trí làm thể, lấy trí làm thân, nên Như lai không phân biệt cũng không thể bị phân biệt. Không thể lấy tướng ngă, nhân, chúng sinh... mà phân biệt Như lai . V́ sao? Bởi v́ ư thức do cảnh mà khởi rồi bám lấy sắc, h́nh, tướng. Cho nên (Như lai ) xa ĺa năng phân biệt cũng như sở phân biệt. Này Lăng già vương, thí như chúng sinh trong bức tranh màu trên vách không có giác tri, chúng sinh ở thế gian cũng vậy, không có nghiệp, báo. Pháp Phật cũng thế, không có nghe, không có nói. Này Lăng già vương, chúng sinh ở thế gian cũng như cảnh biến hóa, phàm phu ngoại đạo không thấu đạt nghĩa này. Lăng già vương, thấy được như thế gọi là chính kiến, thấy khác gọi là phân biệt kiến, v́ phân biệt nên bám giữ nhị nghĩa. Lăng già vương này, ví như có người tự thấy bóng ḿnh trong gương nước, dưới ánh trăng, nghe tiếng ḿnh âm hưởng trong hang núi, bèn sinh phân biệt mà khởi sự bám víu. Đây cũng vậy, pháp, phi pháp chỉ là phân biệt, v́ phân biệt nên không thể xa ĺa; chỉ tăng trưởng hư vọng, không được an tĩnh. An tĩnh ấy nghĩa là nhất duyên (ekàgra), nhất duyên ấy là tam muội tối thắng, từ đó có thể phát sinh Thánh trí tự chứng, lấy Như lai tạng làm cảnh giới.
CHƯƠNG 2.1 : THỰC HÀNH TẤT CẢ PHÁP
Đại Huệ Bồ tát cùng Ma đế Bồ tát những vị đă viếng các cơi Phật, bấy giờ nương uy thần Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo bên phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay hướng Phật cung kính nói bài tụng:
Thế gian ĺa sinh diệt
Như hoa đốm hư không
Trí không chấp có, không
Hưng khởi tâm đại bi
Vạn pháp đều như huyễn
Xa ĺa tâm và thức
Trí không chấp có không
Hưng khởi tâm đại bi
Thế gian thường như mộng
Xa ĺa cả đoạn, thường
Trí không chấp hữu, vô
Hưng khởi tâm đại bi
Không có Phật niết bàn
Không Niết bàn cho Phật
Ĺa biết và bị biết
Ĺa hữu cùng phi hữu
Pháp thân như huyễn mộng
Có ǵ để ngợi khen
Biết vô tính vô sinh
Ấy mới là khen Phật
Phật không căn, cảnh, tướng
Không thấy là thấy Phật
Làm sao trước Mâu ni
Mà khởi sự khen chê
Ai ở trước Mâu ni
Sinh thanh tịnh, xa ĺa
Kẻ ấy đời này, sau
Ĺa chấp, không chỗ thấy.
Nói kệ tán Phật xong, Đại Huệ Bồ tát tự xưng tên:
Con tên là Đại huệ
Thông đạt pháp đại thừa
Xin đem trăm tám nghĩa
Kính hỏi đấng Vô thượng.
Nghe lời ấy, đấng Thế gian giải nh́n khắp hội chúng rồi dạy rằng:
Các ngươi hàng con Phật
Nay cứ tự do hỏi
Ta sẽ nói cho ngươi
Cảnh giới đă tự chứng.
Được Phật chấp thuận, Đại huệ Bồ tát đảnh lễ dưới chân ngài xong, thưa hỏi bằng kệ tụng như sau:
Do đâu suy lường sinh?
Làm sao sạch suy lường?
Do đâu mê hoặc sinh?
Làm sao hết mê hoặc?
Sao gọi là Phật tử
Cùng thứ lớp vô ảnh (niràbhàsa)?
Do đâu hóa cơi nước
Các tướng và ngoại đạo?
Giải thoát đến nơi nào?
Ai bị trói, ai mở?
Cảnh giới thiền ra sao?
Tại sao có ba thừa?
Nhân duyên ǵ sinh pháp?
Cái ǵ nhân ǵ quả?
Ai nói ĺa bốn nghĩa?
Do đâu các cơi sinh?
Sao gọi định vô sắc?
Sao gọi Diệt tận định?
Thế nào là tưởng diệt?
Làm sao từ định giác?
V́ sao sinh hoạt động?
Thân đi, đứng nắm giữ?
Làm sao thấy sự vật?
Làm sao vào các "địa"?
Làm sao có Phật tử?
Ai phá được ba cơi?
Ở đâu, thân ra sao?
Sinh và trú nơi nào?
Làm sao đặng thần thông
Tự tại và chính định?
Tâm tam muội ra sao?
Nguyện Phật v́ con nói
Sao gọi là tàng thức?
Sao gọi là ư thức?
Làm sao các kiến khởi?
Làm sao các kiến diệt?
Tính, phi tính là ǵ?
V́ sao nói duy tâm?
V́ sao kiến lập tướng?
Sao gọi là Vô ngă?
Sao là không chúng sinh?
Sao là tùy tục nói?
Làm sao để khỏi khởi
Thường kiến và đoạn kiến?
Sao Phật cùng ngoại đạo
Tướng vốn không khác nhau?
Làm sao đời vị lai
Có các bộ phái sinh?
Sao gọi là Tính không?
Sao gọi sát na diệt?
Thai tạng từ đâu sinh?
Sao thế gian bất động?
V́ sao bảo cuộc đời
Như huyễn, lại như mộng
Như thành Càn thát bà
Như ánh nước sa mạc
Như vừng trăng đáy nước?
"Bồ đề phần" là sao?
"Giác phần" từ đâu khởi?
V́ sao cơi nước loạn?
V́ sao hữu kiến sinh?
Làm sao biết thế pháp?
Làm sao ĺa văn tự?
Sao là "như không hoa"?
Không sinh cũng không diệt?
Chân như có mấy loại?
"Độ tâm" có mấy loại?
Sao là như hư không?
Sao là ĺa phân biệt?
Và thứ tự các "địa"?
Sao là được vô ảnh?
Sao là hai vô ngă?
Sao là hết sở tri?
Thánh trí có mấy loại?
Có mấy loại giới pháp
Phật chế cho chúng sinh?
Ngọc báu ḍng tôn quư
Từ đâu mà xuất hiện?
Ai sinh ra ngôn ngữ
Chúng sinh và các vật?
Năm minh và kỹ thuật
Ai làm cho sáng tỏ?
Kệ tụng (gàthà) có mấy loại?
Trường hàng có mấy thứ?
Đạo lư mấy bất đồng?
Giải thích bao sai biệt?
Ăn uống ấy ai làm?
Ái dục v́ sao khởi?
Sao gọi Chuyển luân vương
Cho đến các tiểu vương?
Làm sao vua giữ nước?
Chúng trời có mấy loại?
Đất, mặt trời, trăng, sao
Các thứ ấy thế nào?
Giải thoát có mấy loại?
Mấy loại thầy tu hành?
Sao gọi A xà lê?
Đệ tử bao nhiêu hạng?
Như lai có mấy loại?
Chuyện tiền thân ra sao?
Chúng ma và dị giáo?
Mỗi thứ có bao nhiêu?
Tự tính bao sai biệt?
Tâm có bao nhiêu loại?
Giả lập nghĩa là ǵ?
Xin Phật giải thích cho
Từ đâu sinh mây gió?
Niệm, trí v́ sao có?
Bụi, bờ, cây hàng lớp
Các thứ ấy ai làm?
Những thú vật voi ngựa
Nhân ǵ bị bắt giữ?
Sao có người hèn xấu?
Xin Phật giải cho con
Sao gọi là sáu thời?
Nhất xiển đề do đâu?
Gái, trai và bất nam?
Do đâu mà sinh khởi?
Sao là tu tiến bộ?
Sao là tu thụt lùi?
Thầy du già mấy hạng
Dạy người tu pháp ấy?
Chúng sinh sinh các đường
H́nh sắc, tướng ra sao?
Giàu có, rất an ổn
Ấy là do nhân ǵ?
Sao có ḍng Thích ca?
Sao có ḍng Cam giá?
Tiên nhân khổ hạnh lâu
Ấy do ai chỉ giáo?
Làm sao Phật Thế Tôn
Hiện thân khắp các cơi
Chúng Phật tử vây quanh
Đủ các loài sai biệt?
V́ sao không ăn thịt?
Nhân ǵ dạy bỏ thịt?
Các chúng sinh ăn thịt
Do nhân ǵ mà ăn?
Sao có các cơi nước
Trông như h́nh trời trăng
Tu di và hoa sen
Chữ vạn, tượng sư tử?
Sao có các cơi nước
Như lưới trời Đế thích
Lật úp hoặc nằm nghiêng
Mà thành các món báu?
Sao có các cơi nước
Như nhật nguyệt không dơ
Hoặc như h́nh hoa quả,
Ống sáo, trống eo nhỏ?
Phật Biến hóa là ǵ (Nirmànikabuddha)?
Và phật Dị thục sinh? (Vipàkajabuddha)
Cùng phật Chân như trí (Tathàtàjnànabuddha)?
Xin giải thích cho con.
V́ sao ở Dục giới
Không thành Đẳng chính giác?
Sao ở Sắc cứu cánh (Akanistha)?
Ĺa nhiễm được trí tuệ?
Ai sẽ giữ chính pháp?
Phật trụ thế bao lâu?
Chính pháp trụ dài, ngắn?
Tất đàn có mấy loại?
Kiến chấp có bao nhiêu?
V́ sao lập luận tạng?
Cho đến các Tỳ kheo
Hết thảy các Phật tử
Độc giác và Thanh văn
Làm sao chuyển các thức?
Làm sao được vô tướng?
Làm sao được Thế thông?
Làm sao được xuất thế?
Lại v́ nhân duyên ǵ
Tâm ở trong bảy địa?
Tăng già có mấy loại?
Sao gọi là phá tăng?
Làm sao v́ chúng sinh
Rộng nói phương cứu liệu?
Cớ ǵ Đại mâu ni
Nói lên lời như vầy:
"Ca diếp, Câu lưu tôn
Câu na hàm là ta?"
Cớ ǵ nói đoạn thường?
Và nói ngă, vô ngă?
Sao không thường nói thật:
"Hết thảy do tâm tạo"?
Sao có rừng nam nữ
Ha lê (Haŕtaki), am ma la (àmaĺvana)?
Kê la bà (Kailàsa), Luân viên (Cakravàda)?
Cho đến núi kim cương (vajrà)
Trong các chỗ ấy có
Vô lượng báu trang nghiêm
Tiên nhân, càn thát bà
Tất cả đều sung măn
Đấy do nhân duyên ǵ?
Xin Phật v́ con nói.
Nghe những lời hỏi về pháp môn tối thượng, pháp môn đại thừa "tâm Phật" vi diệu ấy, đức Thế Tôn liền bảo: "Hay thay, Đại huệ! Hăy lắng nghe, lắng nghe. Như chỗ ông hỏi, ta sẽ lần lượt nói." Và ngài nói kệ tụng:
Sinh cùng với không sinh
Niết bàn và vô tướng
Lưu chuyển, vô tự tính
Ba la mật, phật tử
Thanh văn, Bích chi Phật
Ngoại đạo, hạnh vô sắc
Tu di cùng biển núi
Cù lao, các cơi đất
Tinh tú và nhật nguyệt
Chúng trời, a tu la
Giải thoát và thần thông
Thiền định và tam muội
Diệt và các thần túc
Bồ đề phần, Bát chính
Thiền cùng vô lượng tâm
Các uẩn cùng đến, đi
Cho đến diệt tận định
Tâm sinh khởi nói năng
Tâm, ư, thức, vô ngă
Năm pháp, ba tự tính
Phân biệt, bị phân biệt
Hai loại kiến năng sở
Cội nguồn của các thừa
Vàng, ma ni, trân châu
Ḍng họ lớn, xiển đề
Nước hỗn loạn, một Phật
Trí, trí chướng, đắc hướng
Chúng sinh, có cùng không
Voi, ngựa, thú, nhân ǵ
V́ sao bị bắt giữ
V́ sao nhân, thí dụ
Tương ưng thành tất đàn?
Sở tác và năng tác
Núi rừng và mê hoặc?
Lư chân thật "như thị"
Duy tâm, không cảnh giới?
Các địa không thứ lớp
Không tướng, chuyển sở y?
Y phương, các nghệ thuật
Kỹ thuật, cùng năm minh?
Tu di và núi, đất
Biển, trời trăng bao lớn?
Chúng sinh thượng, trung, hạ
Mỗi thân bao vi trần?
Mỗi cung có mấy trữu?
Câu lô xá mấy cung?
Nửa do tuần? Do tuần?
Lông, thỏ và bụi cửa?
Mỗi thân bao vi trần?
Rận, lông dê, bột mạch?
Nửa đấu và một đấu
Gồm bao nhiêu hạt lúa?
Một hộc và mười hộc
Mười vạn và thiên ức
Cho đến tầm bà la (Vimvara: 10 triệu)
Mỗi món số bao nhiêu?
Mấy trần (anu) thành giới tử (sarsapa)?
Mấy giới tử thành thảo tử?
Lại có mấy thảo tử
Mới thành một hạt đậu (màsa)?
Mấy hạt đậu thành thù (Dharana)?
Mấy thù là một lượng (Karsa)?
Mấy lượng thành một cân (pala)?
Mấy cân thành tu di (meru)?
Đấy những điều nên hỏi
V́ sao hỏi chuyện khác?
Thanh văn, Bích chi Phật
Các Phật và Bồ tát
Số lượng thân bao nhiêu?
Mỗi thân mấy vi trần?
Lửa, gió có mấy trần?
Mỗi căn có mấy trần?
Lông mày, lỗ chân lông
Mấy trần thành mỗi thứ?
Các sự việc như thế
Sao không đem hỏi ta.
V́ sao được giàu có?
Sao là chuyển luân vương?
Làm sao vua giữ nước?
Làm sao được giải thoát?
Thế nào là Trường hàng?
Dâm dục và ăn uống?
Thế nào rừng nam nữ?
Các núi, kim cương sơn?
Như huyễn, mộng, ảo ảnh?
Mây do từ đâu sinh?
Thời tiết làm sao có?
Nhân ǵ có mùi vị?
Nam, nữ và bất nam
Phật, bồ tát trang nghiêm?
Sao có các núi đẹp
Tiên càn thát trang hoàng?
Giải thoát đến chỗ nào?
Ai bị trói? Ai mở?
Sao là cảnh giới thiền?
Biến hóa và ngoại đạo?
Sao là vô nhân tác?
Sao là hữu nhân tác?
Sao là chuyển các kiến?
Sao là khởi suy lường?
Làm sao sạch suy lường?
Hoạt động từ đâu sinh?
Sao gọi là chuyển khứ?
Sao là dứt các tưởng?
Sao là sinh tam muội?
Phá ba cơi là ai?
Chỗ nào, thân ra sao?
Sao gọi là không ngă?
Sao là theo tục nói?
Ông hỏi tướng ra sao?
Sao gọi là phi ngă?
Sao gọi là thai tạng
Cùng các chi phần khác?
Sao là thấy đoạn thường?
Sao là tâm một cảnh?
Sao là trí ngôn thuyết?
Giới, ḍng họ, Phật tử?
Lư luận và giải thích?
Sao là thầy, đệ tử?
Tính chúng sinh sai khác?
Ăn uống và hư không?
Thông minh, ma, giả lập?
V́ sao hàng cây bày?
Các câu hỏi như thế
Nhân ǵ hết thảy nước
Các loại tướng không đồng?
Có cơi h́nh ống tiêu
Trống eo cùng hoa quả
Có chỗ không ánh sáng
Tiên nhân khổ hạnh lâu
Hoặc có gịng họ quư
Khiến chúng sinh tôn trọng
Hoặc có kẻ hạ tiện
Bị người khác khinh khi?
V́ sao trong cơi dục
Tu hành khó thành Phật?
Ở cơi sắc cứu cánh
Mới thành đẳng chính giác?
V́ sao người thế gian
Lại có được thần thông?
Sao gọi là tỳ kheo?
Sao gọi là Tăng già?
Sao là Hóa, Báo Phật?
Phật trí tuệ chân như?
Làm sao khiến tâm ḿnh
An trú trong bảy "địa"?
Nghĩa này và các nghĩa
Ông nay đều hỏi ta
Như Phật trước đă nói
Đủ một trăm tám câu
Mỗi mỗi tướng tương ưng
Xa ĺa các lỗi chấp
Lại ĺa pháp thế tục
Do ngôn ngữ mà thành
Ta nay v́ ông nói
Phật tử khá lắng nghe.
Khi ấy Bồ tát Đại huệ bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Sao là 108 câu?
Phật dạy:
Này Đại huệ! Cái gọi là sinh cú (mệnh đề về sinh) phi sinh, thường phi thường, tướng phi tướng, trú dị phi trú dị, sát na phi sát na, tự tính phi tự tính, không phi không, đoạn phi đoạn, tâm phi tâm, trung phi trung, duyên phi duyên, nhân phi nhân, phiền năo phi phiền năo, ái phi ái, phương tiện phi phương tiện, thiện xảo phi thiện xảo, thanh tịnh phi thanh tịnh, tương ưng phi tương ưng, thí dụ phi thí dụ, đệ tử phi đệ tử, sư phi sư, chủng tính phi chủng tính, tam thừa phi tam thừa, vô ảnh tượng phi vô ảnh tượng, nguyện phi nguyện, tam luận phi tam luận, tiêu tướng phi tiêu tướng, hữu phi hữu, vô phi vô, câu phi câu, tự chứng thánh trí phi tự chứng thánh trí, hiện pháp lạc phi hiện pháp lạc, sát phi sát, trần phi trần, nước phi nước, cung phi cung, ḍng giống lớn phi ḍng giống lớn, xú lậu phi xú lậu, thần thông phi thần thông, hư không phi hư không, mây phi mây, mỹ thuật phi mỹ thuật, kỹ thuật phi kỹ thuật, gió phi gió, đất phi đất, tâm phi tâm, giả lập phi giả lập, thể tính phi thể tính, uẩn phi uẩn, chúng sinh phi chúng sinh, giác phi giác, Niết bàn phi Niết bàn, hiểu biết phi hiểu biết, ngoại đạo phi ngoại đạo, hỗn loạn phi hỗn loạn, huyễn phi huyễn, mộng phi mộng, lửa phi lửa, ảnh tượng phi ảnh tượng, ṿng lửa phi ṿng lửa, Càn thành phi Càn thành, trời phi trời, ăn uống phi ăn uống, dâm dục phi dâm dục, thấy phi thấy, đáo bỉ ngạn phi đáo bỉ ngạn, thành phi thành, nhật nguyệt tinh tú phi nhật nguyệt tinh tú, đế phi đế, quả phi quả, diệt phi diệt, diệt khởi phi diệt khởi, y phương phi y phương, tướng phi tướng, chi phần phi chi phần, thiền phi thiền, mê phi mê, hiện phi hiện, hộ phi hộ, ḍng họ phi ḍng họ, tiên phi tiên, vua phi vua, nhiếp thọ phi nhiếp thọ, quư phi quư, kư ức phi kư ức, nhất xiển đề phi nhất xiển đề, nữ nam bất nam phi nữ nam bất nam, mùi vị phi mùi vị, tác phi tác, thân phi thân, suy lường phi suy lường, động phi động, căn phi căn, hữu vi phi hữu vi, nhân quả phi nhân quả, sắc cứu cánh phi sắc cứu cánh, thời tiết phi thời tiết, cây dây phi cây dây, sự vật phi sự vật, diễn thuyết phi diễn thuyết, quyết định phi quyết định, luật tạng phi luật tạng, tỳ kheo phi tỳ kheo, trụ tŕ phi trụ tŕ, văn tự phi văn tự. Này Đại huệ! 108 nghĩa này đều là những ǵ Phật quá khứ đă nói.
Đại huệ Bồ tát bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Các thức có mấy thứ sinh trú diệt?
Phật dạy:
Đại huệ, các thức có hai thứ sinh trú diệt, không phải dùng suy lường đo tính mà biết được. Ấy là tương tục sinh và tướng sinh, tương tục trú và tướng trú, tương tục diệt và tướng diệt. Các thức có ba tướng: chuyển tướng, nghiệp tướng, chân tướng. Đại huệ! Thức nói rộng có 8 thức, lược nói th́ có hai: hiện thức và phân biệt sự thức. Đại huệ! Như trong gương sáng các h́nh sắc đều hiện rơ, hiện thức cũng thế. Đại huệ! Hiện thức và phân biệt sự thức, hai thức này không khác nhau, chúng làm nhân cho nhau. Hiện thức lấy sự biến hóa "bất tư ngh́ huân" làm nhân, phân biệt sự thức lấy sự phân biệt cảnh giới và tập khí hư luận từ vô thỉ làm nhân. Đại huệ! Những tập khí hư vọng phân biệt của thức a lại da diệt th́ hết thảy căn thức diệt, ấy gọi là tướng diệt. Đại huệ! Tương tục diệt ấy là nhân sở y diệt cùng sở duyên diệt th́ tương tục cũng diệt. Nhân sở y là tập khí hư luận hư vọng, sở duyên là cảnh giới do tự tâm thấy và phân biệt thành. Đại huệ! Thí như nắm bùn và vi trần không khác nhau, cũng không phải là một. Vàng và đồ trang sức cũng thế. Đại Huệ, nếu bùn và vi trần khác nhau th́ đáng lẽ bùn không do vi trần hợp thành, nên nói không khác. Nếu nắm bùn và vi trần không khác, th́ đáng ra không thể phân biệt nắm bùn với vi trần. Đại huệ! Chuyển thức và tạng thức nếu khác nhau, th́ tạng thức không thể làm nhân cho các chuyển thức. Nếu không khác th́ khi chuyển thức diệt, lẽ ra tạng thức cũng diệt luôn, song kỳ thật chân tướng của tạng thức không diệt. Đại huệ! Chân tướng của tạng thức không diệt, chỉ có nghiệp tướng của nó diệt. Nếu chân tướng diệt th́ tạng thức cũng diệt hay sao? Nếu tạng thức diệt, th́ không khác ǵ thuyết đoạn diệt của ngoại đạo. Đại huệ! Ngoại đạo lập thuyết thế này: cái thức tương tục nắm giữ cảnh giới diệt th́ thức tương tục từ vô thỉ cũng diệt. Đại huệ! Những người ngoại đạo bảo thức tương tục do một tác giả tạo ra chứ không nói nhăn thức do sắc, h́nh, ánh sáng ḥa hợp mà sinh; chỉ nói tác giả làm nhân sinh ra. Tác giả ấy là ǵ? Họ kể ra Thắng tính (Pradhàna), trượng phu (purusa), Tự tại (̀s'vara), Thời (kàla) và vi trần (anu) là những pháp năng tác. Lại nữa, này Đại huệ! có bảy món tự tính, ấy là Tập (Samudaya), Tính (Bhàva), Tướng (Laksana), Đại chủng (Mahàbhàta), nhân (hetu), duyên (pratyaya), Thành (nispatti). Và nữa, này Đại huệ, có bảy thứ đệ nhất nghĩa, là: Tâm sở hành (cittagocara), Trí sở hành (Jnànagocara), nhị kiến sở hành (Drstidvayagocara), siêu nhị kiến sở hành (Drstidvayàtikràntagocara), siêu tử địa sở hành, Như lai sở hành, Như lai tự chứng thánh trí sở hành (Tathàgatasyapratyàtma- gatigiocarah). Này Đại huệ, ấy là pháp tự tại, tâm đệ nhất nghĩa của tất cả Như lai Ứng Chính đẳng giác trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, dùng tâm này mà thành tựu các pháp tối thượng của Như lai ở thế gian và xuất thế gian, dùng tuệ nhăn của bậc thánh mà thể nhập các tự tướng và cọng tướng, thảy đều an lập. Những ǵ các bậc ấy an lập không đồng với chỗ lập thuyết của ngoại đạo ác kiến. Đại huệ ! Sao gọi là ác kiến ngoại đạo? Ấy là không biết rằng cảnh giới vốn do tự tâm phân biệt mà hiện, đối tự tính đệ nhất nghĩa mà chấp có, không, khởi ra ngôn thuyết. Đại huệ! Ta nay sẽ nói, nếu biết rơ cảnh giới là như huyễn, do tự tâm hiện, th́ sẽ diệt khổ v́ vọng tưởng ba cơi, diệt các vô tri, ái, nghiệp, duyên. Đại huệ, có những bà la môn và sa môn vọng chấp cái vốn không và cho rằng những pháp hiện ở ngoài y theo nhân quả, thời gian mà trú, hoặc cho rằng uẩn giới xứ theo duyên mà sinh, trú, sau khi hiện hữu th́ hoại diệt. Đại huệ! Quan niệm của những người kia đối với các pháp như tương tục, tác dụng, sinh diệt, hiện hữu, Niết bàn, đạo, nghiệp, quả, đế ... đều là lư luận phá hoại, đoạn diệt. V́ sao? Bởi v́ họ không đạt được hiện pháp (pratyaksa), không thấy căn bản. Đại huệ! Thí như chiếc b́nh vỡ không thể làm được việc của nó, lại như hạt giống cháy không thể sinh mầm, đây cũng thế. Nếu các pháp uẩn giới xứ đă hiện sẽ diệt, nên biết đấy tất không phải tương tục sinh, v́ chúng không có nhân, chỉ có tự tâm hư vọng thấy thành. Lại nữa, Đại huệ! Nếu thức vốn không, do ba duyên hợp mà sinh, th́ đáng lẽ rùa cũng sinh lông, cát sẽ sinh dầu; như vậy Tôn (pratijnà) của ngươi hỏng, v́ trái với nghĩa quyết định (niyama); những ǵ lập ra tất sẽ thành vô dụng. Đại huệ! Ba pháp hợp làm duyên là do tính nhân quả mà nói, và như vậy có (những pháp như) hiện tại quá khứ vị lai, hữu và vô. Nếu họ cứ ở trên lập trường lư giáo (yuktyàgama) ấy, th́ những ǵ họ chứng minh sẽ là do luận lư, lư giáo của họ, v́ kư ức những quan niệm sai lầm sẽ măi măi huân tập họ (theo bản Suzuki). Đại huệ! Kẻ phàm phu ngu dốt bị ác kiến cắn rỉa, tà kiến mê hoặc, vô trí mà vọng nói là Nhất thiết trí. Đại huệ! Lại có các sa môn, bà la môn, quán hết thảy pháp không tự tính, như mây giữa hư không, như ṿng lửa quay, như thành biến hóa của loài Càn thát bà, như huyễn hóa, như ảo ảnh, như trăng dưới nước, như cảnh chiêm bao, tất cả đều không ngoài tâm, chỉ v́ cái thấy hư vọng từ vô thỉ mà chấp thật có cảnh giới bên ngoài. Quán như thế rồi, họ bặt dứt các duyên phân biệt, xa ĺa danh nghĩa mà vọng tâm ôm giữ, biết rằng thân, tài sản và nhà cửa, tất cả đều là cảnh giới tạng thức, không có năng sở, không có sinh, trụ, diệt, họ thường tư duy như thế không rời. Đại huệ! Những đại Bồ tát ấy không lâu sẽ xem b́nh đẳng giữa sinh tử và Niết bàn (samsàranirvàna), được hạnh đại bi phương tiện không cần dụng công, quán sát chúng sinh như huyễn như hóa, như h́nh ảnh theo duyên mà sinh, biết ngoài tâm không có các cảnh giới. Các vị ấy sẽ thực hành đạo vô tướng, dần tiến lên các "địa", an trú trong chính định, hiểu rơ ba cơi do tâm, chứng được định Như huyễn (Màyopamasamàdhi), tuyệt dứt các ảnh tượng, thành tựu trí tuệ, chứng pháp vô sinh, nhập định kim cương dụ (vajravimbopama), sẽ được Phật thân (Tathàgatakàya). Nhưng vị ấy sẽ thường trú trong Như như (Tathàta) mà khởi các thần thông biến hóa, trang sức bằng tự tại, trí tuệ, phương tiện để dạo chơi các cơi Phật, xa ĺa các ngoại đạo. Tâm, ư, thức, lần lượt chuyển y mà thành tựu thân Như lai. Đại huệ! Các vị đại Bồ tát muốn được thân Phật, phải xa ĺa uẩn giới xứ, v́ đấy là các pháp do nhân duyên sinh, xa ĺa các pháp sinh, trú, diệt, phân biệt, hí luận. Chỉ nên chú tâm quán sát ba cơi là do tập khí hư vọng từ vô thỉ khởi lên, tư duy Phật địa vốn vô tướng, vô sinh, là thánh pháp tự chứng. Như thế sẽ được tâm tự tại, hạnh không cần dụng công, như ngọc ma ni hiện đủ thứ h́nh sắc, đạt lư duy tâm, tuần tự nhập vào các địa. Bởi thế, này Đại huệ, các bậc đại Bồ tát nên siêng tu học chân lư tự chứng này.
KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ
MỤC-LỤC-- -->>
[M] [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7]
|