KINH QUANG TÁN
Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ.
QUYỂN 4
Phẩm 9: HÀNH
Bấy giờ Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Giả sử Đại Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo mà hành Bát-nhã ba-la-mật th́ hoặc hành sắc là hành tưởng, hành thọ, tưởng, hành, thức là hành tưởng; hoặc hành sắc thường là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức thường là hành tưởng; hoặc hành sắc vô thường là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức vô thường là hành tưởng; hoặc hành sắc khổ là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức khổ là hành tưởng; hoặc hành sắc vui là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức vui là hành tưởng; hoặc hàznh sắc ngã sở là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức ngã sở là hành tưởng; hoặc hành sắc chẳng phải ngã sở là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải ngã sở là hành tưởng; hoặc hành sắc hư vô là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức hư vô là hành tưởng.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Hoặc giả sử Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà hành sắc tịch mịch là hành tưởng, hành thọ, tưởng, hành, thức tịch mịch là hành tưởng. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, giả sử Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà không có phương tiện thiện xảo th́ hành bốn Ý chỉ là hành tưởng, hành bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo là hành tưởng; hoặc mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật là hành tưởng. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Giả sử Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà tự nghĩ là ta hành Bát-nhã ba-la-mật th́ Đại Bồ-tát ấy trở lại hành tưởng. Giả sử Đại Bồ-tát tự nghĩ, hành như thế tức là hành Bát-nhã ba-la-mật th́ cũng là hành tưởng. Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không có phương tiện thiện xảo.
Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật như thế nào mới đắc Bát-nhã ba-la-mật?
Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất:
–Thưa Hiền giả! Giả sử Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà thiết lập sắc tưởng th́ không tin hiểu. Nếu lập sắc th́ không thoát tưởng là hành tưởng sinh tử. Nếu hành sắc tưởng th́ không thoát được vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh lão bệnh tử, sầu lo khổ não. Đại Bồ-tát ấy v́ không hành Bát-nhã ba-la-mật nên không có phương tiện thiện xảo mà thiết lập nhãn tưởng th́ chẳng tin giải thoát. Giả sử Đại Bồ-tát thiết lập các tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý th́ chẳng tin giải thoát. Thiết lập các tưởng, nhãn sắc thức, nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức th́ chẳng tin giải thoát. Hoặc đối với nhãn xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà lập các tưởng ấy th́ chẳng tin giải thoát. Giả sử lập tưởng bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo th́ chẳng tin giải thoát. Thiết lập tưởng mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật th́ chẳng tin giải thoát mà đối với Phật pháp, niệm hành trước tưởng. Mà niệm tưởng hành th́ chẳng tin thoát khỏi hoạn khổ não mười hai nhân duyên. Đại Bồ-tát ấy chẳng xứng đáng chứng Thanh văn, Bích-chi-phật, huống ǵ chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là chỗ chẳng thể đạt đến!
Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Như vậy là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà không có phương tiện thiện xảo.
Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề:
–Thế nào là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà có phương tiện thiện xảo?
Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất:
–Giả sử Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà chẳng hành sắc, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức; chẳng hành tưởng sắc, chẳng hành tưởng thọ, tưởng, hành, thức; chẳng hành sắc thường, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức thường; chẳng hành sắc vô thường, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức vô thường; chẳng hành sắc khổ, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức khổ; chẳng hành sắc vui, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức vui; chẳng hành sắc là ngã sở, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là ngã sở; chẳng hành sắc chẳng phải là ngã sở, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là ngã sở; chẳng hành sắc là hư vô, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là hư vô; chẳng hành sắc là Không, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là Không; chẳng hành sắc Vô tướng, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là Vô tướng; chẳng hành sắc là Vô nguyện, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là Vô nguyện; chẳng hành sắc là tịch mịch, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là tịch mịch; chẳng hành sắc là vô tưởng, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là vô tưởng. V́ sao? V́ sắc là không, sắc chẳng khác không, sắc tức là không, không tức là sắc, sắc tự nhiên không. Thọ, tưởng, hành, thức là không, thọ, tưởng, hành, thức chẳng khác không. Thọ, tưởng, hành, thức tức là không; không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Thọ, tưởng, hành, thức tự nhiên không. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo là không, không có khác không. Ba mươi bảy phẩm cũng là không, không khác biệt không. Ba mươi bảy phẩm là không, không đó là ba mươi bảy phẩm. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật là không, không có khác không. Phật pháp là không, không có cái khác không. Không đó là pháp. Pháp đó là không.
Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Như thế Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật là thành tựu phương tiện thiện xảo. Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật như thế th́ đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật rồi, không sở thọ, không sở hành, chẳng thọ chẳng hành, chẳng hành chẳng thọ, chẳng có sở hành, cũng chẳng phải chẳng hành. V́ vậy không sở thọ, cũng không có sở thọ.
Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề:
–V́ sao Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật rồi không sở thọ?
Hiền giả Tu-bồ-đề đáp:
–Bởi v́ Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật tự nhiên chẳng thể nắm bắt. Do vậy cho nên Bát-nhã ba-la-mật là không sở hữu, tức là tự nhiên. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! V́ vậy, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không sở thọ, không sở hành, chẳng thọ chẳng hành, chẳng hành chẳng thọ, chẳng có sở hành, cũng chẳng phải chẳng hành. V́ vậy, không sở thọ, cũng chẳng có sở thọ. V́ sao? V́ tất cả các pháp là không sở hữu tức là tự nhiên. V́ vậy không chỗ đến, không chỗ sai phạm. Đó gọi là định Tam-muội nhất thiết bất thọ, Đại Bồ-tát phổ biến rộng rãi sâu xa vô lượng, là điều mà Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể sánh kịp. Đại Bồ-tát dùng Tam-muội ấy mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát chẳng thể ĺa Tam-muội ấy mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại có Tam-muội nào khác chăng?
Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất:
–Lại có Tam-muội khác nữa mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề:
–Hành loại Tam-muội nào khác mà Đại Bồ-tát mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất:
–Đại Bồ-tát hành Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Hiền giả Tu-bồ-đề lại nói với Hiền giả Xá-lợi-phất:
–Lại có Tam-muội tên là Bảo ấn, lại có Tam-muội tên là Sư tử ngu lạc, lại có Tam-muội tên là Nguyệt diệu, lại có Tam-muội tên là Nguyệt tràng anh, lại có Tam-muội tên là Nhất thiết ấn, lại có Tam-muội tên là Vô năng kiến đảnh, lại có Tam-muội tên là Liễu pháp giới, lại có Tam-muội tên là Phân biệt tràng anh, lại có Tam-muội tên là Dụ kim cang, lại có Tam-muội tên là Nhập pháp ấn, lại có Tam-muội tên là Lập định ý vương, lại có Tam-muội tên là Ấn vương, lại có Tam-muội tên là Thế lực tinh tấn, lại có Tam-muội tên là Siêu đẳng, lại có Tam-muội tên là Nhập ứng thuận phân biệt, lại có Tam-muội tên là Nhập biện ư thập phương giới, lại có Tam-muội tên là Tổng tŕ ý, lại có Tam-muội tên là Độ vô vi, lại có Tam-muội tên là Đẳng ngự chư pháp hải ấn, lại có Tam-muội tên là Phổ châu hư không, lại có Tam-muội tên là Kim cang đạo tràng, lại có Tam-muội tên là Chấp anh tràng, lại có Tam-muội tên là Đế anh như môn khổn, lại có Tam-muội tên là Khởi bổn, lại có Tam-muội tên là Sư tử hống, lại có Tam-muội tên là Tinh tấn lập, lại có Tam-muội tên là Thắng bảo. Lại có Tam-muội tên là Chiếu minh, lại có Tam-muội tên là Bất huyễn, lại có Tam-muội tên là Bất trụ ư hạ, lại có Tam-muội tên là Quyết liễu, lại có Tam-muội tên là Đăng minh quảng khổ, lại có Tam-muội tên là Quang tạo, lại có Tam-muội tên là Hữu sở chiếu diệu, lại có Tam-muội tên là Trung nghiêm tịnh, lại có Tam-muội tên là Ly cấu quang, lại có Tam-muội tên là Hữu sở tạo lạc, lại có Tam-muội tên là Điển đăng minh, lại có Tam-muội tên là Tận sách, lại có Tam-muội tên là Oai thần tích, lại có Tam-muội tên là Ly tận sách, lại có Tam-muội tên là Vô năng thắng, lại có Tam-muội tên là Khai đạo, lại có Tam-muội tên là Đăng minh, lại có Tam-muội tên là Ly đăng cấu, lại có Tam-muội tên là Nghiêm tịnh biện tài, lại có Tam-muội tên là Hữu sở quang diệu, lại có Tam-muội tên là Tạo sự, lại có Tam-muội tên là Tuệ anh, lại có Tam-muội tên là Trụ duy, lại có Tam-muội tên là Phổ minh, lại có Tam-muội tên là Thiện lập, lại có Tam-muội tên là Bảo tích, lại có Tam-muội tên là Siêu chư pháp ấn, lại có Tam-muội tên là Phổ pháp, lại có Tam-muội tên là Thắng ngu lạc, lại có Tam-muội tên là Độ pháp đảnh, lại có Tam-muội tên là Hữu sở hủy hoại, lại có Tam-muội tên là Nhất thiết minh cú, lại có Tam-muội tên là Đẳng tự sở tác, lại có Tam-muội tên là Thú tự, lại có Tam-muội tên là Đoạn nhân duyên, lại có Tam-muội tên là Vô sự, lại có Tam-muội tên là Vô tường, lại có Tam-muội tên là Quyết liễu nhập hiệu, lại có Tam-muội tên là Vô ty hành, lại có Tam-muội tên là Tŕ minh, lại có Tam-muội tên là Tu hành tích, lại có Tam-muội tên là Vô động, lại có Tam-muội tên là Quảng giới, lại có Tam-muội tên là Quyết nhất thiết đức, lại có Tam-muội tên là Trụ vô tâm, lại có Tam-muội tên là Tịnh ư nghiêm chỉnh, lại có Tam-muội tên là Độ giác ý, lại có Tam-muội tên là Vô lượng đăng minh, lại có Tam-muội tên là Đẳng bất đẳng, lại có Tam-muội tên là Độ nhất thiết, lại có Tam-muội tên là Đoạn chư sự, lại có Tam-muội tên là Ly ý liễu trừ, lại có Tam-muội tên là Ly kiến lập, lại có Tam-muội tên là Nhất thắng, lại có Tam-muội tên là Hành chư sự, lại có Tam-muội tên là Nhất sự, lại có Tam-muội tên là Trừ oán sự, lại có Tam-muội tên là Diệt chư sở hữu bất đương, lại có Tam-muội tên là Nhập tùy nhân duyên âm, lại có Tam-muội tên là Thanh tích ngôn vô tập độ, lại có Tam-muội tên là Oai thần tích, lại có Tam-muội tên là Quang diệu xí thạnh, lại có Tam-muội tên là Thanh tịnh thọ, lại có Tam-muội tên là Thanh chứng nhi nhàn, lại có Tam-muội tên là Nhất thiết thắng, lại có Tam-muội tên là Bất nhạo nhất thiết chư khổ lạc, lại có Tam-muội tên là Vô tận sự, lại có Tam-muội tên là Tổng tŕ cú, lại có Tam-muội tên là Đẳng ư chánh tà sư tử tòa, lại có Tam-muội tên là Nhập hưởng ly hưởng, lại có Tam-muội tên là Vô hưởng đắc hưởng, lại có Tam-muội tên là Ly cấu minh, lại có Tam-muội tên là Ngự tích, lại có Tam-muội tên là Mãn nguyệt ly cấu quang, lại có Tam-muội tên là Điển đỉnh quang, lại có Tam-muội tên là Đại nghiêm tịnh, lại có Tam-muội tên là Phổ chiếu thế gian, lại có Tam-muội tên là Phổ định ý, lại có Tam-muội tên là Ưng vô nhiễm ly nhiễm, lại có Tam-muội tên là Ngự không nhất thiết đẳng ngự, lại có Tam-muội tên là Vô thanh bất thanh bảo, lại có Tam-muội tên là Lập vô bổn niệm, lại có Tam-muội tên là Thân thời đệ nhất, lại có Tam-muội tên là Ngôn thời trừ không niệm, lại có Tam-muội tên là Thoát hư không ngại diệt hộ.
Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành các môn Tam-muội đó mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Và vô số không thể kể xiết các môn Tam-muội, các môn tổng tŕ khác mà Đại Bồ-tát học th́ sẽ mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Khi ấy ngài Tu-bồ-đề vâng theo lời dạy của Phật nói:
–Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Nên biết, chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ đã thọ ký cho các Đại Bồ-tát này và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại ở mười phương thế giới đều đã thọ ký cho những Đại Bồ-tát này. Khi những vị Bồ-tát này hành Tam-muội ấy, chẳng thấy Tam-muội, cũng chẳng nghĩ Tam-muội, cũng không có đối tượng Tam-muội, cũng không tưởng ta được Tam-muội, cũng không nghĩ ta trụ Tam-muội không. Đó là Đại Bồ-tát không tưởng niệm.
Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát trụ Tam-muội ấy được chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ thọ ký chăng?
Đáp:
–Không, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất. V́ sao? Thưa Hiền giả Xálợi-phất, v́ Bát-nhã ba-la-mật và Tam-muội chẳng khác, Đại Bồ-tát cũng chẳng khác. Đại Bồ-tát tức là Tam-muội, Tam-muội tức là Đại Bồ-tát.
Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề:
–Như nhân giả đã nói, Đại Bồ-tát, Bát-nhã ba-la-mật và các môn Tam-muội chẳng khác nhau. Bồ-tát tức là Tam-muội, Tam-muội tức là Bồ-tát. Như vậy tất cả pháp đều b́nh đẳng th́ không biết Tam-muội. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất, v́ vậy nên đối với Tam-muội ấy, thiện nam tử cũng không biết, cũng chẳng rõ.
Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi:
–V́ sao chẳng biết, chẳng rõ?
Đáp:
–V́ dùng vô minh mà làm Tam-muội. V́ vậy Bồ-tát không biết, không rõ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn khen Hiền giả Tu-bồ-đề:
–Hay thay, hay thay! Tu-bồ-đề, đúng như ta đã khen ông là bậc tối tôn, hành không bậc nhất. Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật nên học Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật Như thế.
Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Phải chăng Đại Bồ-tát học như thế là học Bát-nhã ba-la-mật chăng?
Đức Phật dạy:
–Đúng vậy, Đại Bồ-tát học như thế là học Bát-nhã ba-la-mật. Cái học đó cũng không sở đắc. Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật cũng lại Như thế. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật tự nhiên đầy đủ, tuy có sở đắc cũng không sở đắc.
Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Đại Bồ-tát học như vậy, thực hiện cái học ấy là học Bát-nhã ba-la-mật, đắc Bát-nhã ba-la-mật chăng?
Đức Phật dạy:
–Học như thế là học Bát-nhã ba-la-mật, đắc cái không đắc.
Hiền giả Xá-lợi-phất lại bạch Phật:
–Thế nào là đắc cái không đắc?
Đức Thế Tôn đáp:
–Không đắc tôi ta, không đắc nhân, thọ mạng cũng không đắc cái thấy. Năm ấm rốt ráo gốc ngọn thảy đều thanh tịnh, cũng chẳng thấy đắc. Ấm, chủng, các nhập, rốt ráo gốc ngọn cũng đều thanh tịnh Như thế, cũng chẳng đắc. Cội gốc của vô minh gốc ngọn rốt ráo đều thanh tịnh. Hành thức, lục nhập, danh sắc, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh lão bệnh tử, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Nếu không sở đắc th́ gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Con đường tập tận, cũng chẳng thể nắm bắt, gốc ngọn rốt ráo đều thanh tịnh. Cõi Dục cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Sáu pháp Ba-la-mật cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Bồ-tát cũng vậy, cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Phật, cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh.
Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Thanh tịnh chỗ nào?
Thế Tôn đáp:
–Không chỗ khởi, không chỗ sinh, không chỗ đắc, không chỗ hành tức là thanh tịnh.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi:
–Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát học như thế là học pháp ǵ?
Đức Phật dạy:
–Đại Bồ-tát học như thế là học pháp vô sở học. V́ sao? Này Xá-lợi-phất! V́ các pháp ấy, nếu nêu ra cái sở hữu của nó th́ phàm phu ngu si sẽ nương dựa vào đó.
Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Ai đạt pháp ấy?
Đức Phật dạy:
–Đúng như không sở đắc, v́ vậy nên đắc cái đắc Như thế. Cho nên gọi là không sở đắc.
Lại hỏi:
–Bạch Thế Tôn! Cái ǵ không sở đắc mà có sở đắc?
Đức Phật dạy:
–Sắc không sở đắc, bên trong cũng không, bên ngoài cũng không, trong ngoài cũng không, cái gọi là sở hữu tự nhiên, không, có đều là không. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không bên trong, không bên ngoài, trong ngoài cũng không, sở hữu tự nhiên, không, có đều không. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng không trong, cũng không ngoài, cũng không trong ngoài, sở hữu tự nhiên, không, có đều không. Phàm phu ngu si kia theo vô minh sai khiếnnương tựa đắm tham vướng nơi ái mà có tưởng niệm. V́ nương vào vô minh, bị mù cả hai mắt nên chẳng biết và không thấy ǵ. Đã không biết không thấy th́ họ có nghĩ tưởng cũng chẳng thể nắm bắt được. Danh sắc lại gắn liền Phật pháp. Đã có chỗ nương tựa mà muốn hiểu rõ pháp không sở hữu nên chẳng biết chẳng thấy. Chẳng biết chẳng thấy cái ǵ? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng biết, chẳng thấy. Mười hai nhập, mười tám chủng, ba mươi bảy phẩm, mười hai nhân duyên, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng lại chẳng biết, chẳng thấy. Do đó nên gọi là ngu. Họ chẳng xả bỏ. Chẳng xả bỏ cái ǵ? Chẳng xả bỏ cõi Dục, chẳng xả bỏ cõi Sắc, chẳng xả bỏ cõi Vô sắc, chẳng xả bỏ địa Thanh văn, Bích-chi-phật. Họ chẳng dốc lòng tin. Chẳng tin ǵ? Chẳng tin sắc là không, chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức là không; chẳng tin mười hai nhập, mười tám chủng, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật là không. Họ chẳng có thể kiến lập, kiến lập Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, chẳng trụ địa vị không thoái chuyển. Lại chẳng kiến lập pháp của chư Phật. V́ vậy nên gọi là ngu. Họ nương tựa vào nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Nương tựa vào các chủng, các ấm, nhập. Nương tựa, t́m cầu dâm, nộ, si. Nương tựa, mến mộ các nghi, tà kiến. Nương tựa, mến mộ Phật đạo.
Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Đại Bồ-tát học như thế là chẳng học Bát-nhã ba-la-mật chăng? Không sinh trí Nhất thiết chăng?
Đức Phật dạy:
–Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật như thế th́ chẳng đắc trí Nhất thiết.
Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát học như thế v́ sao chẳng đắc trí Nhất thiết?
Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật như thế là không có phương tiện thiện xảo v́ có tưởng nghĩ, có nương tựa vào Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật. Đã tưởng nghĩ mong cầu, nương tựa vào sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, lại tưởng nghĩ mong cầu trí Nhất thiết, đã tưởng nghĩ mong cầu trí Nhất thiết mà lại nương bám vào th́, này Xá-lợi-phất! V́ vậy Đại Bồ-tát chẳng học Bát-nhã ba-la-mật, chẳng đắc trí Nhất thiết.
Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật như thế là chẳng học Bát-nhã ba-la-mật, là chẳng hành trí Nhất thiết chăng?
Đức Thế Tôn dạy:
–Đúng vậy, Xá-lợi-phất! Học Bát-nhã ba-la-mật như thế là chẳng đắc trí nhất thiết.
Hiền giả Xá-lợi-phất lại hỏi:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đại Bồ-tát nên học Bát-nhã ba-la-mật như thế nào để thuận tiện với việc học đắc trí Nhất thiết?
Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
–Giả sử Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà chẳng thấy Bát-nhã ba-la-mật th́ như thế là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, là học Bát-nhã ba-la-mật, đắc trí Nhất thiết, đắc vô sở đắc của vô sở đắc, cũng lại chẳng đắc Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, cũng chẳng đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát, Phật, lại cũng chẳng đắc trí Nhất thiết.
Như thế, này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành như thế là hành Bát-nhã ba-la-mật, là học Bát-nhã ba-la-mật, đắc trí Nhất thiết, đắc vô sở đắc.
Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Sao gọi là vô sở đắc?
Đức Thế Tôn đáp:
–Ở trong cũng không, ở ngoài cũng không, trong ngoài cũng không, tất cả pháp đều không.
Phẩm 10: HUYỄN
Khi ấy Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Giả sử có người hỏi: “Người huyễn học Bát-nhã ba-la-mật muốn đắc trí Nhất thiết được chăng?”, với câu hỏi Như thế, con sẽ trả lời như thế nào? “Huyễn sĩ ấy lại học Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật để muốn đắc trí Nhất thiết, học bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo để muốn đắc trí nhất thiết được chăng?” Giả sử có người đến hỏi như thế con sẽ trả lời thế nào?
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Nay ta hỏi ông. Theo sự hiểu biết của ông mà trả lời.
Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, sắc khác, huyễn khác chăng? Thọ, tưởng, hành, thức khác, huyễn khác chăng?
Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không.
–Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, huyễn khác, nhãn khác chăng? Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý khác, huyễn khác chăng? Nhãn sắc thức, nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức khác, huyễn khác chăng? Nhân duyên tạo thành lạc thọ khác, huyễn khác chăng?
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không.
–Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, bốn Ý chỉ khác, huyễn khác chăng? Bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo khác, huyễn khác chăng? Không, Vô tướng, Vô nguyện khác, huyễn khác chăng?
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không.
–Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, huyễn khác, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật khác chăng?
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không.
–Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, huyễn khác, đạo khác chăng?
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. Huyễn chẳng khác, sắc cũng chẳng khác. Sắc tức là huyễn, huyễn tức là sắc. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, huyễn chẳng khác, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng khác. Thọ, tưởng, hành, thức tức là huyễn, huyễn tức là thọ, tưởng, hành, thức.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Huyễn chẳng khác, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng chẳng khác. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tức là huyễn, huyễn tức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Nhãn sắc thức, nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức tức là huyễn, huyễn tức là nhãn sắc thức, nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức. Nhân duyên tạo thành lạc thọ chẳng khác, huyễn cũng chẳng khác. Lạc thọ tức là huyễn, huyễn tức là lạc thọ.
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Huyễn chẳng khác, bốn Ý chỉ cũng chẳng khác. Bốn Ý chỉ tức là huyễn, huyễn tức là bốn Ý chỉ. Bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo tức là huyễn, huyễn tức là bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, huyễn chẳng khác, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng chẳng khác. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật tức là huyễn, huyễn tức là mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật.
–Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, cái gọi là huyễn đó là có trần cấu và sân hận chăng?
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không.
–Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, cái gọi là huyễn đó có chỗ khởi, có chỗ diệt không?
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không.
–Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, đối với cái chẳng khởi chẳng diệt ấy, Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật rồi, chứng đắc trí Nhất thiết, có đạt đến tất cả đại Từ, đại Bi chăng?
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không.
–Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, từ đó phát khởi tư tưởng hiểu biết, theo tập tục giáo hóa, nhân nơi năm thạnh ấm làm Bồ-tát chăng?
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, đúng vậy.
–Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, có tư tưởng biết, tùy theo tập tục mà phát ra lời dạy bảo, do năm thạnh ấm mà có chỗ khởi có chỗ diệt, có thể lại bị trần lao sân hận chăng?
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không.
–Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, cái không có tư tưởng, không có tập tục, không có ngôn giáo, không có khởi lập, không có danh hiệu, không có thân, không có việc của thân, không có nói không có việc của lời nói, không có ý và không có việc của ý, chẳng khởi chẳng diệt, không có trần lao, không có sân hận, lại dùng sự việc này để học Bát-nhã ba-la-mật, thành tựu trí Nhất thiết chăng?
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không.
Đức Phật dạy:
–Đúng vậy, Tu-bồ-đề, Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật như thế để thành tựu trí Nhất thiết th́ không có việc đó.
Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Đại Bồ-tát nếu muốn học Bát-nhã ba-la-mật và học Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác th́ nên biết như huyễn. V́ sao?
Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, nên quán năm ấm như người huyễn.
–Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, năm ấm này học Bát-nhã ba-la-mật thành tựu trí Nhất thiết chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, không. V́ sao? V́ năm ấm ấy tự nhiên không sở hữu. Cái có tự nhiên không sở hữu ấy cũng chẳng thể nắm bắt được.
–Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, giả dụ tự nhiên năm ấm như mộng th́ học Bát-nhã ba-la-mật thành tựu trí Nhất thiết chăng?
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. V́ sao? V́ xét về mộng th́ tự nhiên không có. Mà đã tự nhiên không có th́ chẳng thể nắm bắt được.
–Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông th́ sao, âm vang của tiếng kêu dụ cho năm ấm, lại ví như ảnh trong nước. Ảo ảnh, sự biến hóa dụ như năm ấm, học Bát-nhã ba-la-mật có thành tựu trí Nhất thiết chăng?
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. V́ sao? V́ âm vang của tiếng kêu, ảnh trong nước, ảo ảnh, sự biến hóa tự nhiên không có. Mà đã là tự nhiên không có th́ chẳng thể nắm bắt được. V́ sao? Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, v́ phân biệt rõ sắc giống như huyễn, thọ, tưởng, hành, thức, mười tám chủng, sáu căn, năm ấm và năm thạnh ấm tự nhiên như mộng. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, sắc thọ, tưởng, hành, thức, mười tám chủng, sáu căn, năm thạnh ấm giống như mộng th́ bên trong là rỗng không, chẳng thể nắm bắt được. Mà đã tự nhiên không tức là rỗng không, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được.
Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Nay thuyết Bát-nhã ba-la-mật này, pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát tân học nghe thuyết như thế th́ không còn sợ sệt, kinh hãi lo lắng.
Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Giả sử pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát mới học đối với Bát-nhã ba-la-mật, không biết phương tiện thiện xảo, không gần gũi thầy lành th́ sẽ hoặc sợ, hoặc kinh, hoặc lo lắng.
Hiền giả Tu-bồ-đề hỏi Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát gần gũi thầy lành hành Bát-nhã ba-la-mật có phương tiện thiện xảo, th́ Đại Bồ-tát ấy chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng lo lắng?
Đức Phật dạy:
–Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm ý tinh chuyên về trí Nhất thiết chẳng quán sắc vô thường, sắc cũng chẳng thể nắm bắt được, chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức vô thường; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được, tâm chí quán trí Nhất thiết, chẳng thể quán sát vô thường, cũng chẳng thể nắm bắt được. Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật có phương tiện thiện xảo.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát ý chí chuyên chú trí Nhất thiết, chẳng quán sắc là khổ, cũng chẳng thủ đắc sắc. Chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức là khổ, cũng chẳng thủ đắc thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng quán sắc là ngã sở, cũng chẳng thủ đắc ngã sở. Chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức là ngã sở, cũng chẳng thủ đắc ngã sở. Chẳng quán sắc chẳng phải ngã sở, cũng chẳng thủ đắc cái chẳng phải ngã sở. Chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải ngã sở, cũng chẳng thủ đắc cái chẳng phải ngã sở.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát chú tâm học trí Nhất thiết, quán sắc là không, cũng chẳng thủ đắc không. Quán thọ, tưởng, hành, thức là không, cũng chẳng thủ đắc không. Chẳng quán sắc là thường, cũng chẳng thủ đắc thường. Chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức là thường, cũng chẳng thủ đắc thường. Chẳng quán sắc chẳng phải thường, cũng chẳng thủ đắc vô thường. Chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, cũng chẳng thủ đắc vô thường. Quán sắc là tịch mịch, cũng chẳng thủ đắc cái tịch mịch của sắc. Quán thọ, tưởng, hành, thức là tịch mịch, cũng chẳng thủ đắc cái tịch mịch của thọ, tưởng, hành, thức. Quán sắc là hư vô, cũng chẳng thủ đắc cái hư vô của sắc. Quán thọ, tưởng, hành, thức là hư vô, cũng chẳng thủ đắc cái hư vô của thọ, tưởng, hành, thức.
Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật có phương tiện thiện xảo.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát chẳng quán vô thường, cũng không sở đắc. Khổ, không, vô ngã, phi thân, cũng không sở đắc. Chẳng quán vô thường, cũng không sở đắc. Không, Vô tướng, Vô nguyện, tịch mịch, hư vô, cũng không sở đắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng quán vô thường, cũng không sở đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chẳng quán vô thường, cũng không sở đắc. Phi thường, khổ, không, vô ngã, phi thân, Không, Vô tướng, Vô nguyện, tĩnh lặng, hư vô. Quán những pháp ấy rồi nhưng không có sở đắc. Bồ-tát ấy v́ chúng sinh khởi ý thế này: “Ta v́ tất cả loài chúng sinh thuyết pháp vô thường, v́ người điên đảo khiếnchẳng mê hoặc. Lại phân biệt pháp, là khổ, vô ngã, Không, Vô tướng, Vô nguyện là tịch mịch, hư vô, v́ người điên đảo khiếnchẳng mê hoặc.” Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật có phương tiện thiện xảo.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật học hạnh trí Nhất thiết, tư duy ý nghĩa đó, chẳng quán sắc vô thường, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Chẳng quán vô thường, khổ, vô ngã là không; Không, Vô tướng, Vô nguyện là tịch mịch, hư vô, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức ĺa bốn pháp: Vô thường, Không, Vô tướng, Vô nguyện là tịch mịch, hư vô. Quán các pháp này, chẳng khiếnđiên đảo, cũng không sở đắc. Giả sử, đối với trí Nhất thiết tưởng niệm không xả th́ đây gọi là Đại Bồ-tát Tinh tấn ba-la-mật. Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm chí chẳng nghĩ đến việc của Thanh văn, Bích-chi-phật, cũng chẳng nghe tâm chí khuyên theo việc làm ấy. Đó là Đại Bồ-tát hành Thiền ba-la-mật chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo lắng.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, nên khởi quán này. Không v́ sắc không mà cho là không, sắc tức là không, không tức là sắc. Sắc ấy tức là không. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng chỉ là không; thọ, tưởng, hành, thức tự nhiên không, thọ, tưởng, hành, thức tức là không, không tức là thọ, tưởng, hành, thức.
Nhãn chẳng chỉ là không; nhãn tự nhiên không; nhãn tức là không, không tức là nhãn, nhãn chẳng chỉ là không. Nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức chẳng chỉ là không; nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức tự nhiên không, nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức tức là không, không tức là nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức. Các lạc thọ do nhân duyên tạo ra tức là không, các lạc thọ do nhân duyên tạo ra tự nhiên là không, các lạc thọ do nhân duyên tạo ra, quán chúng là không, tâm ấy tự không, các lạc thọ do nhân duyên tạo ra cũng là không. Bốn Ý chỉ chẳng chỉ là không, nên bốn Ý chỉ là không, do vậy nên không, bốn Ý chỉ ấy tự nhiên là không. Bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo chẳng chỉ là không. Ba mươi bảy phẩm tự nhiên là không, không tức là ba mươi bảy phẩm, ba mươi bảy phẩm là không. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật chẳng chỉ là không, các pháp ấy là tự nhiên không. Không tức là Phật. Pháp tức là không, không tức là pháp. Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo lắng.
Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Thầy lành của Đại Bồ-tát ở đâu mà thuyết Bát-nhã ba-la-mật có sự ủng hộ để khi nghe chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo lắng?
–Này Tu-bồ-đề! Thầy lành của Đại Bồ-tát là người khi thuyết pháp chẳng bàn luận sắc là vô thường, sắc cũng chẳng thể nắm được, cũng không chấp trước. Với gốc đức ấy chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ tạo lập địa Thanh văn, Bích-chi-phật mà thường tạo lập trí Nhất thiết.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Thầy lành của Đại Bồ-tát là người khi thuyết kinh pháp chẳng bàn sắc là khổ, sắc chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được, cũng chẳng chấp trước. Sắc là ngã sở, chẳng phải ngã sở. Thọ, tưởng, hành, thức là ngã sở, chẳng phải ngã sở, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Trái lại nữa, thuyết pháp bàn sắc là Không, Vô tướng, Vô nguyện, chẳng thể nắm bắt được, cũng chẳng chấp trước. Thọ, tưởng, hành, thức là Không, Vô tướng, Vô nguyện, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp và mười tám chủng, ngã sở, chẳng phải ngã sở, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước.
Lại nữa, Tu-bồ-đề! Thầy lành của Đại Bồ-tát là người khi thuyết pháp, bàn sắc là tịch mịch, hư vô, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Thọ, tưởng, hành, thức là tịch mịch, hư vô, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Với gốc đức ấy, chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ địa Thanh văn, Bích-chi-phật mà thường dùng khuyến khích hỗ trợ trí Nhất thiết.
Này Tu-bồ-đề! Đó gọi là thầy lành của Đại Bồ-tát.
Lại nữa, giảng thuyết nhãn là tịch mịch, hư vô, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tịch mịch, hư vô, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là tịch mịch, hư vô, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Nhân duyên cảm thọ do nhãn tạo thành, nói là pháp vô thường. Nhân duyên lạc thọ do nhãn sắc thức, nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức tạo thành, nói là pháp vô thường, tịch mịch, hư vô, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Với gốc đức này, chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ địa Thanh văn, Bích-chi-phật mà thường dùng để tạo lập trí Nhất thiết. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Thầy lành của Đại Bồ-tát là người thuyết pháp chẳng bàn về vô thường, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo. Điều mà vị ấy nói là vô thường, khổ, vô ngã là không. Không, Vô tướng, Vô nguyện là tịch mịch, hư vô. Tuy nói pháp này, nhưng chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Với gốc đức này, chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ địa Thanh văn, Bích-chi-phật mà thường dùng để kiến lập trí Nhất thiết. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát.
Lại nữa, Tu-bồ-đề! Thầy lành của Đại Bồ-tát là người thuyết pháp mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, chẳng bàn về vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã), Không, Vô tướng, Vô nguyện là tịch mịch, hư vô, nhưng chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát. Với gốc đức này, chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ việc của Thanh văn, địa Bích-chi-phật mà thường dùng để tạo lập trí Nhất thiết. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Thầy lành của Đại Bồ-tát là người giảng pháp, thị hiện nói sắc là vô thường, khổ, không, vô ngã. Thị hiện nói nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là vô thường, khổ, không, vô ngã. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là vô thường, khổ, không, vô ngã. Nhãn sắc thức, nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, pháp ý thức là vô thường, khổ, không, vô ngã. Thị hiện nói vô minh là vô thường, khổ, không, vô ngã. Hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, bệnh, tử là vô thường, khổ, không, vô ngã. Sắc, ngã sở, chẳng phải ngã sở là tịch mịch, hư vô. Thọ, tưởng, hành, thức, ngã sở, chẳng phải ngã sở là tịch mịch, hư vô. Tuy nói pháp này để khai hóa cho người, nhưng không thủ đắc, cũng không chấp trước. Với gốc đức này chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ việc của Thanh văn, Bích-chi-phật mà thường dùng để tạo lập trí Nhất thiết. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát v́ người nói kinh pháp, thị hiện luận bàn bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo là vô thường, khổ, không, vô ngã. Không, Vô tướng, Vô nguyện, ngã sở, chẳng phải ngã sở là tịch mịch, hư vô. Với gốc đức này, chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ việc của Thanh văn, địa Bích-chi-phật mà thường dùng để tạo lập trí Nhất thiết. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát v́ người thuyết pháp, thị hiện luận bàn mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, sắc là vô thường, khổ, không, vô ngã, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ, không, vô ngã. Ngã sở, chẳng phải ngã sở, Không, Vô tướng, Vô nguyện là tịch mịch, hư vô. Với gốc công đức này, chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ địa Thanh văn, Bích-chi-phật mà thường dùng để tạo lập trí Nhất thiết. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát.
Khi ấy ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Sao gọi là Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật không có phương tiện thiện xảo, gần gũi thầy ác nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật này th́ hoặc kinh, hoặc sợ, hoặc lo lắng?
Đức Thế Tôn bảo Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát ấy ĺa hạnh trí Nhất thiết, không tiếp cận Bát-nhã ba-la-mật. Giả sử gặp Bát-nhã ba-la-mật này th́ tâm chấp trước Thiền ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Thí ba-la-mật. Nếu làm được việc bố thí nào đó th́ tâm niệm cứ chấp trước vào việc bố thí ấy. Đó là thầy ác của Đại Bồ-tát.
Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát ĺa trí Nhất thiết, cũng chẳng chịu an trú các thông tuệ mà trái lại đối với bên trong nghĩ sắc là không, sắc không có sở hữu, chấp trước tư duy sắc tự nhiên không. Đối với thọ, tưởng, hành, thức, nghĩ bên trong là không, tâm chí trụ ở thọ, tưởng, hành, thức, nhưng không sở hữu, nghĩ tự nhiên không. Và đối với pháp nội không thủ đắc pháp nội ngoại không, đạt đến pháp không tự nhiên, không sở hữu thấy có cái đạt được, tưởng nghĩ cái sở đắc. Nghĩ cái không bên trong của nhãn, đạt đến không sở hữu, tự nhiên là không, nghĩ cái “không” đạt được, tưởng là có sở đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như vậy, nghĩ cái nội không tư duy chấp tưởng, đối vô sở hữu, tự nhiên đắc không. Đó là thầy ác của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, nghĩ bốn Ý chỉ, rồi thủ đắc bốn Ý chỉ, tức là tự chấp trước rồi nắm bắt cái đó. Nghĩ bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, rồi thủ đắc ba mươi bảy phẩm, tức là tự chấp trước rồi nắm bắt cái đó. Đó là thầy ác của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, tự cho là đã đạt được pháp của chư Phật, đã có vọng tưởng, ĺa trí Nhất thiết, tâm bị dính mắc vào sự suy nghĩ. Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật th́ hoặc kinh, hoặc sợ, hoặc lo lắng.
Lúc đó ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đại Bồ-tát bị thầy ác câu thúc như thế nào mà làm theo lời dạy của vị ấy, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật th́ hoặc kinh, hoặc sợ, rồi sinh ra lo lắng?
Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Này Tu-bồ-đề! Khi ấy thầy ác của Đại Bồ-tát là người ngăn cản hành giả, làm cho không được học Bát-nhã ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Thí ba-la-mật, mà trái lại bảo họ không nên dạy sáu pháp Ba-la-mật này, nói là chẳng phải lời dạy của Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà do con người tập hợp tai họa ngang trái tạo ra kinh này, chẳng nên nghe, chẳng nên thọ tŕ, đọc tụng, cũng chẳng nên tư duy và nói cho người khác. Đó thầy ác của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Thầy ác của Đại Bồ-tát là người chẳng chịu phân biệt sự giác ngộ, chẳng làm cho thấy rõ tội lỗi xấu xa của ma. Do đó ma Ba-tuần tệ ác hóa làm h́nh Phật đi đến chỗ Đại Bồ-tát khống chễ Bồ-tát, làm cho chẳng tu học sáu pháp Ba-la-mật, nói: “Này thiện nam, học Bát-nhã ba-la-mật này làm ǵ? Học Thiền ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Thí ba-la-mật này làm ǵ? Phụng hành để làm ǵ?” Nên biết, đó là thầy ác của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Khi ấy, tệ ma hóa làm h́nh dáng của Phật, nói kinh Thanh văn, Bích-chi-phật cho Đại Bồ-tát, giảng rằng nên vứt bỏ bố thí, phân biệt giảng giải ý nghĩa mục đích, phô diến bằng danh từ hoa mỹ làm cho xa ĺa pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát, rơi vào địa Thanh văn, Bích-chi-phật. Nên biết, đó là thầy ác của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Khi ấy, tệ ma hóa làm h́nh dáng của Phật, đi đến chỗ Đại Bồ-tát, nói: “Này thiện nam, chỗ học hiện nay của ông chẳng phải là đạo tâm, chẳng phải là không thoái chuyển. Cái sở học của ông không bao giờ đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” H́nh dạng và tội duyên của ma Như thế, chẳng thể quán sát, cũng chẳng thể hiểu biết được. Đó là thầy ác của Đại Bồ-tát.
Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát thực hành hạnh tinh tấn. Khi ấy tệ ma hóa làm h́nh dạng của chư Phật đi đến chỗ Đại Bồ-tát, nói: “Này thiện nam, biết nhãn tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta, v́ ông mà nói pháp. Sắc tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Cảm thọ do nhãn xúc làm duyên tạo ra tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Lạc thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý làm duyên tạo ra, mười tám chủng tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý. tám Thánh đạo tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta.” Dùng những lời này để mong cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Vị Bồ-tát ấy chẳng phân biệt sự phát khởi của h́nh dạng ma Như thế, dù có phân biệt nói ra, cũng chẳng hiểu rõ. Đó là thầy ác của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Tệ ma lại biến hóa làm h́nh dạng của chư Phật đi đến chỗ của Đại Bồ-tát, nói: “Này thiện nam, chư Phật Thế Tôn và các Bồ-tát, Thanh văn, Bích-chi-phật ở phương Đông và chư Phật, Thanh văn, Bích-chi-phật ở mười phương thế giới không có.” Ai đối việc phát khởi ma sự Như thế, chẳng thể phân biệt, cũng chẳng biết rõ th́ nên biết đó là thầy ác của Đại Bồ-tát.
Tệ ma Ba-tuần lại hóa làm h́nh dạng của Thanh văn, đi đến chỗ Đại Bồ-tát, nói: “Chúng tôi đây đời trước đều tinh tấn học trí Nhất thiết, tư duy pháp không, lại cũng tu học việc của Thanh văn, Bích-chi-phật, tư duy phân biệt mà thấy được sự dạy bảo trao truyền.” Chẳng phân biệt được việc ma như thế nào th́ nên biết, đó là thầy ác của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Tệ ma Ba-tuần hóa làm h́nh dạng Hòa thượng, đi đến chỗ của Đại Bồ-tát, cho là hành Bồ-tát là không tịch, chí chuyên tinh tấn tu trí Nhất thiết, tư duy rỗng không, tịch mịch. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là rỗng không, tịch mịch. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng rỗng không, tịch mịch. Mười tám chủng, mười hai nhân duyên, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo cũng rỗng không, tịch mịch. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng tịch mịch, Không, Vô tướng, Vô nguyện. Rồi dạy bảo trao truyền cho Bồ-tát: “Này thiện nam, hiểu rõ pháp ấy là ở địa Thanh văn chứ t́m cầu chỗ nào nữa? Chẳng bằng ngay nơi đó mà cầu diệt độ. Cần ǵ đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Nên biết, đó là thầy ác của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Thầy ác của Đại Bồ-tát là tệ ma Ba-tuần hóa làm h́nh dạng cha mẹ, đi đến chỗ Đại Bồ-tát, nói: “Thiện nam này đã chứng được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán mà còn tinh tấn hành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm ǵ. Vào những đời quá khứ vô số kiếp không thể kể xiết xoay vòng trong sinh tử bố thí tay chân, tu hạnh tinh tấn không phân biệt, làm những h́nh thức như thế nào có ích ǵ!” Nên biết, đó là thầy ác của Đại Bồ-tát.
Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát do đó, dựa vào những h́nh dáng đó để quán xét thầy ác. Đã thấy rồi, dùng cái thấy ấy để mà xa ĺa, rồi phân biệt nói khổ, không, vô thường, vô ngã, vô tướng, vô nguyện là tịch mịch, đó là việc phân biệt điên đảo, có tư duy. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo cũng không có sở đắc. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật là không giải thoát. Pháp như thế là pháp do ma hưng khởi, phụng sự, chẳng rõ ràng. Nên biết, đó là thầy ác của Đại Bồ-tát. Cho nên, Đại Bồ-tát có mười hai duyên thầy ác Như thế, thường phải từ bỏ, huống ǵ các duyên khác!
KINH QUANG TÁN
|