佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

KINH PHƯƠNG QUẢNG ĐẠI TRANG NGHIÊM

(Cũng có tên là Thần Thông Du Hư)

Hán dịch:Đời Đường, Đại sư Địa-bà-ha-la, người xứ Trung Thiên trúc

Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

-o0o-

QUYỂN 11

Phẩm 26: CHUYỂN PHÁP LUÂN

 

Số 0187

KINH PHƯƠNG QUẢNG ĐẠI TRANG NGHIÊM

(Cũng có tên là Thần Thông Du Hư)

MỤC LỤC

Quyển 1

Phẩm 1: Mở Đầu

Phẩm 2: Cung Trời Đâu Suất

Phẩm 3: Chủng Tộc Thù Thắng

Phẩm 4: Pháp Môn 

Quyển 2

Phẩm 5: Giáng Sinh

Phẩm 6: Ở Trong Thai Mẹ 

Quyển 3

Phẩm 7: Đản Sanh 

Quyển 4

Phẩm 8: Viếng Đền Thờ Chư Thiên

Phẩm 9: Các Vật Dụng Quư Báu Dùng Trang Sức

Phẩm 10: Chỉ Rơ Về Các Thứ Kinh Sách Chữ Nghĩa

Phẩm 11: Xem Công Việc Nhà Nông

Phẩm 12: Hiện Rơ Tài Nghệ 

Quyển 5

Phẩm 13: Âm Nhạc Phát Khởi Giác Ngộ

Phẩm 14: Cảm Mộng

Quyển 6

Phẩm 15: Xuất Gia

Quyển 7

Phẩm 16: Vua Tần Bà Sa La Khuyên Bồ Tát Nhận Lợi Dưỡng Thế Gian

Phẩm 17: Tu Khổ Hạnh

Phẩm 18: Đến Sông Ni Liên 

Quyển 8

Phẩm 19: Đến Bồ Đề Tràng

Phẩm 20: Trang Nghiêm Bồ Đề Tràng

Quyển 9

Phẩm 21: Hàng Phục Chúng Ma

Phẩm 22: Thành Bậc Chánh Giác

Quyển 10

Phẩm 23: Ca Ngợi

Phẩm 24: Thương nhân Được Phật Thọ Kư

Phẩm 25: Đại Phạm Thiện Vương Khuyến Thỉnh 

Quyển 11

Phẩm 26: Chuyển Pháp Luân

Quyển 12

Phẩm 26: Chuyển Pháp Luân (tiếp theo)

Phẩm 27: Giao Phó Dặn Ḍ

 

        Lúc bấy giờ, Đức Phật nói với chư vị Tỳ-kheo:

        -Như Lai đă hoàn tất được những sự việc: Ĺa bỏ sự chi phi của sinh tử, nhổ trọn gốc rễ của phiền năo, rửa sạch mọi cấu uế ô nhiễm, hàng phục ma quân, chế ngự các ngoại đạo, thể nhập diệu lư thậm thâm của chư Phật nên đă đạt được tri kiến chân thật, thành tựu mười lực, bốn vô úy, mười tám pháp bất cộng, đầy đủ tất cả pháp của Phật. Như Lai dùng ngũ nhăn thanh tịnh quan sát khắp thế gian và suy nghĩ: “Ai là người đầu tiên đủ khả năng thọ nhận giáo pháp của Ta. Người ấy căn tính phải nhiệt thành, ḥa nhă, nhu nhuyến dễ điều phục, ĺa mọi cấu nhiễm, tham, sân, si, lănh hội nhanh chóng những điều ta nói ra, không phải là người chóng quên, khiến cho việc truyền dạy được dễ dàng, các giáo pháp thu đạt được th́ luôn ghi nhớ lưu giữ”.

        Sau khi suy nghĩ như thế, Như Lai xét thấy ngoại đạo Ô-đặc-ca, con của ông La-ma từng tu pháp định Phi tưởng phi phi tưởng xứ và đem truyền dạy cho các đệ tử của minh. Ông ấy là người thông minh, đầy đủ trí tuệ, tuy chưa dứt sạch các thứ phiền năo cấu nhiễm nhưng nếu được nghe giáo pháp của Ta th́ chắc chắn sẽ mau chóng tỏ ngộ, không rơ ông ta hiện nay ở đâu. Như Lai liền dùng Phật nhăn xem xét th́ ông ấy đă mất được bảy ngày rồi.

        Lúc đó chư Thiên cũng hiện ra đến đảnh lễ ngang chân Phật và thưa:

        -Bạch Thế Tôn, vị ấy đă qua đời được bảy ngày. Khi Như Lai c̣n là Bồ-tát, ông ấy đă biết trước và từng nói Như Lai là Bậc Đại Trí Lực, nếu ông ấy c̣n sống thật xứng đáng để thọ nhận chánh pháp trước tiên.

        Này các vị Tỳ-kheo, người con ông La-ma ấy chưa được nghe giáo pháp cửa Ta mà đă qua đời. Nếu c̣n sống ông ấy là người đầu tiên được ta thuyết giảng chánh pháp và những điều ta nói ông ta sẽ tỏ ngộ ngay.

        Bấy giờ Thế Tôn lại suy nghĩ như trước: Ai là người có đầy đủ căn tính như trên để xứng đáng được nghe Phật pháp trước tiên. Như Lai nghĩ đến vị Tiên ngoại đạo A-la-la cũng là bậc thông minh trí tuệ, tuy chưa dứt sạch các phiền năo cấu nhiễm nhưng nếu được nghe giáo pháp của Ta th́ chắc chắn sẽ là người mau thông tỏ, không rơ ông ta hiện nay ở đâu. Thế Tôn dùng Phật nhăn xem xét th́ biết vị đă mất được ba ngày rồi.

        Lúc này chư Thiên cũng hiện ra hư không thưa:

        -Vị tiên ấy mất đă ba ngày rồi. Lúc Như Lai c̣n là Bồ-tát, ông ấy đă biết trước và từng nói Như Lai là Bậc Đại Trí Lực, nếu c̣n sống ông ấy thật xứng đáng được thọ nhận chánh pháp.

        Này các Tỳ-kheo, A-la-la cũng chưa được nghe giáo pháp của Ta mà đă qua đời. Nếu c̣n sống, ông ấy sẽ là người đầu tiên được Ta thuyết giảng chánh pháp và cũng lănh hội nhanh chóng những điều Ta nói.

        Rồi Như Lai suy nghĩ tiếp để t́m xem ai sẽ là người xứng đáng được nghe thuyết pháp trước tiên, liền nhớ đến năm vị Bạt-đà-la là những người đầy đủ các đức tính như đă nói trên. Lại nhớ lúc Ta c̣n tu khổ hạnh, các vị ấy đă hết ḷng tôn trọng Ta, lo liệu đủ mọi việc vậy Ta sẽ chọn năm vị ấy làm những người đầu tiên để chuyển cỗ xe chánh pháp đi vào cơi đời, giúp cho năm vị ấy tỏ ngộ, đạt được đầy đủ các pháp lành về bố thí, tŕ giới, ĺa mọi phiền năo chướng ngại, được giải thoát ngay ở hiện tại. Ta dùng Phật nhăn xem xét thấy năm vị ấy đang tu ở vườn Lộc dă, thành Ba-la-nại.

        Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

        -Bây giờ sau khi suy nghĩ xong, Như Lai từ nơi cây Bồ-đề đi đến thành Ba-la-nại thuộc nước Ca-thi khiến cho khắp cả Tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động.

        Lúc đó gần thành Già-da có một vị ngoại đạo tên A-tự-bà, từ xa trông thấy Phật liền đi tới thăm hỏi rồi đứng qua một bên thưa:

        -Thưa Trưởng lăo Cù-đàm, các căn của Ngài thật điềm tĩnh, oai nghi đáng kính, thân sắc ngời sáng như vàng Diêm-phù và hoa Chiêm-ba. Thưa Nhân giả, Ngài tư phạm hạnh ǵ, xuất gia theo vị thầy nào mà đạt được phong độ oai nghiêm đáng kính như vậy?         Ngài từ đâu đến đây và nay tính đi đến chốn nào?

        Đức Thế Tôn đọc bài kệ:

        Ta vốn không có thầy

        Thế gian ai sánh kịp

        Tự ḿnh ngộ chánh pháp

        Chứng quả Vô lậu tịnh.

        A-tự-bà thưa:

        -Thưa Cù-đàm, Ngài tự cho ḿnh là A-la-hán sao?

        Đức Phật lại đọc bài kệ:

        Ta là Vô Thượng

        Đạo Sư thế gian

        Hóa độ tất cả

        Chính Bậc La-hán.

        A-tự-bà thưa:

        -Thưa Cù-đàm, Ngài tự cho ḿnh là Bậc Giác Ngộ chăng?

        Như Lai đáp:

        -Ta là Bậc Tối Tôn thù thắng trong thế gian v́ đă dứt trừ hết mọi phiền năo và các pháp ác. Ta là Bậc Chánh Giác.

        A-tự-bà hỏi:

        -Thưa Trưởng lăo Cù-đàm, hiện nay Ngài tính đi đến đâu?

        Như Lai đáp:

        -Ta nay muốn đến vườn Lộc dă nước Ba-la-nại làm nguồn ánh sáng lớn chiếu soi cho chúng sinh mờ tối.

        Thế Tôn liền đọc bài kệ:

        Ta đến Ba-la-nại

        nơi vườn Lộc dă

        V́ chúng sinh mê mờ

        Giống trống pháp cam lộ

        Chuyển pháp chưa từng chuyển

        Là pháp luân tối thắng.

        Bấy giờ A-tự-bà từ biệt Phật đi về phương Nam, c̣n Như Lai th́đi về hướng Bắc, ngang qua thành Già-da. Hôm sau có một vị Rồng tên Thiện Kiến ở trong thành đă thiết trai cúng dường Như Lai. Thọ trai xong, Như Lai đến thôn Lô-ê-đa-Bà-tô-đô, rồi lần lượt đi qua các thôn xóm như Đa-la, Sa-la, tại các thôn ấy Như Lai đều được các vị cư sĩ trưởng lăo cúng dâng đầy đủ các món ăn cần thiết, dần dà th́ đến bờ sông Hằng. Lúc đó nước sông tràn bờ chảy xiết, Như Lai muốn qua sông liền gọi người lái đ̣, người ấy đáp:

        -Xin Ngài cho tôi tiền, tôi sẽ đưa Ngài qua sông.

        Như Lai bảo:

        -Ta không có tiền.

        Người lái đ̣ nói:

        -Nếu Ngài không có tiền th́ không thể qua sông được.

        Như Lai lúc ấy bay vụt lên hư không chỉ một thoáng là sang tới bờ bên kia. Người lái đó trông thấy Phật hiện thần thông như thế th́ tự trách ḿnh:

        -Ta quả là không có mắt để đưa vị Thánh qua sông.

        Ḷng ông ta bức rức, lo âu, buồn bực đến nỗi quỵ té trên đất hồi lâu mới tỉnh, liền tới chỗ vua Tần-bà-sa-la tâu lại mọi sự việc.         Nhà vua nghe tâu bèn ra lệnh từ nay trở đi, các vị Sa-môn có qua sông th́ không được lấy tiền đ̣.

        Này các Tỳ-kheo, Như Lai đến thành Ba-la-nại, vào sáng sớm đắp y mang bát vô thành khất thực, trở về chỗ cũ ăn uống xong th́ đi thẳng đến vườn Lộc dă. Lúc đó năm vị Bạt-đà-la từ xa trông thấy Thế Tôn liền bảo nhau:

        -Sa-môn Cù-đàm buông thả tham đắm, không chịu giữ giới, muôn đoạn trừ phiền năo lại chọn con đường đi thụt lùi làm mất hết công phu thiền định. Trước đây tu khổ hạnh c̣n chưa đạt được giác ngộ, huống ǵ ngày nay đă ăn uống tùy thích các món ngon vật lạ, thọ hưởng khoái lạc. Rơ ràng đó là một kẻ lười biếng, chẳng phải là Bậc Khí. Nay chúng ta gặp ông ấy chẳng cần phải cung kính, thăm hỏi, mọi công việc như sửa soạn chỗ ngồi, đem nước rửa chân hay lo chuyện ăn uống đều chẳng làm. Lúc ông ta đến gần th́ cũng đừng đứng dậy, nếu ông ta muốn ngồi th́ chỉ cái ṭa thấp nhất cho ông ta.

        Trong năm vị Bạt-đà-la chỉ có A-nhă Kiều-trần-như là không đồng ư với các vị kia. Bấy giờ Thế Tôn đến gần chỗ của năm vị Bạt-đà-la, với Phạm tướng uy nghi khiến họ tự cảm thấy bất an ví như chim bị nhốt trong lồng lại bị lửa bức bách. Các vị Tỳ-kheo nên biết, chúng sinh trong thế gian không ai trông thấy Phật mà có thể ngồi yên được.

        Lúc đó, năm vị Bạt-đà-la đều làm trái với những điều ḿnh vừa nói. Thấy Phật đến gần bất giác họ đều đứng dậy chào đón, rồi người th́ lo dọn trải đồ ngồi, người th́ lo đem nước cho Phật rửa chân, người th́ lo t́m đồ lau chân, người nâng giữ ca-sa của Phật, tất cả đều nói là rất mừng khi gặp lại Trưởng lăo Cù-đàm, mời Phật ngồi ở ṭa cao nhất.

        Khi Thế Tôn an tọa xong, năm vị kia ra phía trước lễ bái và vấn an rồi đứng qua một bên thưa:

        -Thưa Trưởng lăo Cù-đàm, Ngài dung mạo đoan nghiêm, phong thái tịch tĩnh, thân tướng tỏa hào quang như vàng Diêm-phù và hoa Chiêm-ba, phải chăng Trưởng lăo đă chứng được Thánh trí.

        Đức Thế Tôn bảo năm vị ấy:

        -Các vị chớ nên gọi Như Lai là Trưởng lăo, điều ấy không thích hợp mà cũng chẳng đem lại lợi ích ǵ cho các vị trong cơi sinh tử.

        Lại nói:

        -Ta đă chứng được pháp giải thoát. Ta đă thông tỏ con đường hướng tới giải thoát. Ta nay là Phật được Nhất thiết trí, tâm vô lậu tịch tĩnh luôn tự tại. Các vị hăy đến đây, Ta sẽ giảng dạy, trao cho các vị pháp ấy, các vị cần phải lắng nghe, lănh hội, theo đó mà tu tập. Đối với thân hiện tại sẽ dứt sạch được mọi thứ phiền năo, trí tuệ được sáng tỏ, an trụ trong cảnh giải thoát, các việc làm đưa đến thành tựu Phạm hạnh sẽ được hoàn tất, không c̣n phải thọ thân sau.

        Đức Phật bảo năm vị Bạt-đà-la:

        -Các vị lúc đầu nghi ngờ Ta nên đă nói rằng Trưởng lăo Cù-đàm tham đắm lạc thú thế gian, không hề bền tâm giữ giới, muốn dứt trừ phiền năo mà lại đi thụt lùi... nhưng khi Ta vừa đến gần th́ mỗi vị đều tỏ ra bối rối và làm trái với những điều ḿnh vừa bàn, như thế đủ thấy không nên gọi Như Lai là Trưởng lăo.

        Năm vị Bạt-đà-la đều cùng thưa:

        -Bạch Đức Thế Tôn, chúng con nay xin được đứng trong hàng ngũ Phật pháp, làm Sa-môn.

        Đức Phật nói:

        -Lành thay các vị Tỳ-kheo!

        Tức th́ râu tóc cả năm vị đều rụng hết, vận pháp phục, trở thành năm vị Sa-môn, râu tóc như mới được cạo quá bảy ngày, oai nghi nghiêm trang như vị Tỳ-kheo trải qua trăm hạ. Năm vị Sa-môn liền đảnh lễ ngang chân Phật, sám hối những lầm lỗi từ trước, xem Như Lai là Bậc Đại Sư, sinh tâm vui mừng chiêm ngưỡng tôn quư.

        Bấy giờ Đức Thế Tôn đến ao nước để tắm rửa, rồi trở về chọn một chỗ tĩnh tọa và suy nghĩ: “Chư Phật thời quá khứ đă ngồi trên ṭa thế nào để chuyển bánh xe chánh pháp?” Khi Đức Phật vừa khởi niệm đó, bỗng nhiên ở nơi ấy có đến ngàn ṭa báu từ dưới đất vụt hiện lên. Như Lai liền rời ṭa đang ngồi đứng dậy cung kính đi nhiễu quanh nhiều ṿng rồi chọn ṭa cao thứ tư ngồi kiết già, c̣n năm vị Bạt-đà-la đảnh lễ ngang chân Phật xong th́ ngồi thành ṿng phía trước Phật.

        Này các Tỳ-kheo, bấy giờ Thế Tôn phóng luồng hào quang lớn chiếu sáng khắp Tam thiên đại thiên thế giới và từ trong màn lưới ánh sáng ấy phát ra bài tụng:

        Từ cung trời Đâu-suất

        Giáng sinh Lâm-tỳ-ni

        Phạm Thích đều cung kính

        Uy nghi Sư tử vương

        Mười phương đi bảy bước

        Tâm không hề nhiễm vướng

        Liền dùng tiếng Phạm âm

        Mà nói rơ lời này

        Ta đối với tất cả

        Là Tối tôn Tối thượng

        Bỏ ngôi Chuyển luân vương

        V́ lợi ích muôn loài

        Sáu năm tu khổ hạnh

        Đến ngự Bồ-đề ṭa

        Hàng phục các quân ma

        Chóng thành đạo vô thượng

        Phạm Thích cùng Thiên chúng

        Thỉnh cầu chuyển pháp luân

        Thương xót bao chúng sinh

        Nên nhận lời khuyến thỉnh

        Dùng nguyện lực kiên cố

        Vườn Lộc dă hướng về

        Nơi Tiên nhân bị đọa

        Diễn thuyết pháp vô thượng

        Pháp ấy qua bao kiếp

        Tu tập và chứng được

        Ai người ham thích nghe

        Mau đến để lănh hội

        Thân người trời khó được

        Phật ra đời khó hơn

        Nghe pháp khởi ḷng tín

        Người ấy cũng ít có

        Người tránh khỏi tám nạn

        Nay được thân trời người

        Gặp Phật nghe chánh pháp

        Tâm tịnh tín tăng trưởng

        Người trong trăm ngàn kiếp

        Chánh pháp chưa từng nghe

        May mắn nay được gặp

        Cần phải gắng tu tập.

        Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

        -Bài kệ được phát ra từ luồng hào quang ấy thức tỉnh tất cả chúng sinh ở các cơi trời người trong Tam thiên đại thiên thế giới hăy mau đến nghe. Đức Phật nay sắp chuyển bánh xe chánh pháp. Các trời, rồng... nghe được lời ấy đều từ nơi cung điện của ḿnh vân tập đến chỗ Phật.

        Bấy giờ Địa thần dùng thần thông khiến cho đạo tràng ấy trở nên rộng lớn đến bảy trăm do-tuần, khắp nơi đều vô cùng trang nghiêm thanh tịnh. Các vị trời thần ở giữa hư không đem vô sô" cờ phướn, dù lọng quư giá để trang trí tô điểm cho đạo tràng. Chư Thiên ở các cơi trời Dục giới và sắc giới cũng đem đến tám vạn bốn ngàn ṭa Sư tử đặt nơi đạo tràng và mỗi vị đều thưa với Phật.

        -Bạch Thế Tôn, hăy thương xót chúng con mà ngự nơi ṭa này để chuyển cỗ xe chánh pháp.

        Này các Tỳ-kheo, bấy giờ các phương Đông, Tây, Nam, Bắc bốn hướng và trên dưới mười phương quốc độ, vô lượng câu-chi Bồ-tát vốn đă gieo trồng phước đức từ trước, thảy đều tụ hội đến chỗ Phật, đi nhiễu quanh theo phía phải ba ṿng rồi chắp tay cung kính khuyến thỉnh Như Lai nên mau chuyển pháp luân. Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế tứ vương cùng với vô số chúng chư Thiên trong mười phương Tam thiên đại thiên thế giới, tất cả đều đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu quanh theo hướng phải ba ṿng rồi chắp tay hướng về Phật, khuyến thỉnh Như Lai mau chuyển bánh xe chánh pháp. Tất cả các vị trong chúng hội đồng thưa:

        -Cúi xin Thế Tôn v́ lợi ích an lạc cho chúng sinh, xin thương xót nhớ nghĩ đến tất cả chúng sinh mà tưới mưa đại pháp, dựng ngọn cờ chánh pháp, thổi loa đại pháp, cử lên tiếng trông chánh pháp.

        Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

        -Lúc đó, trong chúng hội có một vị Bồ-tát tên là Chuyển Pháp, nắm giữ các bánh xe báu có đủ ngàn nan hoa xinh đẹp trang nghiêm không ǵ có thể so sánh được, phóng ra hàng ngàn luồng ánh sáng, lại dùng các thứ tràng hoa, chuông quư, gấm lụa vi diệu cùng vô số các thứ châu báu tô điểm thêm. Do v́ nguyện lực từ trước của vị Bồ-tát ấy cảm ứng mà có được bánh xe báu đó để cúng dường chư Phật, Như Lai thời quá khứ. Chư Phật đều có bánh xe quư giá đó rồi sau mới chuyển chánh pháp.

        Khi ấy vị Bồ-tát ấy dâng bánh xe báu lên Như Lai và đọc bài kệ:

        Nhớ quá khứ Thê Tôn

        Được Nhiên Đăng thọ kư

        Sẽ thành Bậc Chánh Giác

        Hiệu Thích-ca Mâu-ni

        Con cũng vào thời ấy

        Đă phát nguyện lớn này

        Bậc Đạo Sư thành Phật

        Sẽ dâng bánh xe quư

        Tất cả cơi trời người

        Cùng tất cả Bồ-tát

        Số ấy đông vô lượng

        Đều v́ chuyển pháp luân

        Dừng hết thần lực ḿnh

        Đem mọi vật dâng cúng

        Đài báu, hoa, dù lọng

        Cùng kiếp chẳng nói hết

        Cơi Tam thiên đại thiên

        Trời, Người, A-tu-la

        Chư Long, Thần các loại

        Đều một ḷng khuyến thỉnh.

        Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

        -Vào lúc đầu hôm, Như Lai chỉ yên lặng nhập định cho đến khoảng nửa đêm Như Lai mới an ủi vỗ về đại chúng khiến họ sinh tâm hoan hỷ, sau đó gọi năm vị Bạt-đà-la mà nói:

        -Các vị cần phải biết, người xuất gia tu hành gồm có hai chướng ngại cần phải vượt qua. Hai điều ấy là ǵ? Một là tâm tham đắm cảnh dục mà không thể ĺa bỏ được, đó là hạng người thấp kém ngu si không hiểu biết, đó chẳng phải là hạnh của bậc Thánh trí, chẳng hợp với đạo lư, không phải là nhân giải thoát, nhân của ĺa dục, nhân thần thông cũng không phải là nhân thành Phật, nhân của Niết-bàn. Hai là không tư duy một cách chân chánh, tự làm khổ thân ḿnh để mong cầu xuất ly, trong quá khứ hiện tại và vị lai đều phải nhận lấy quả báo đau khổ. Này các Tỳ-kheo, các vị cần phải ĺa bỏ cả hai con đường lệch lạc ấy. Ta nay sẽ v́ các vị nói rơ về Trung đạo, các vị phải lắng nghe và nỗ lực tu tập.

        Thế nào gọi là Trung đạo? Đó là:

        -Nhận thức chân chánh (Chánh kiến).

        -Tư duy chân chánh (Chánh tư duy).

        -Ngôn ngữ chân chánh (Chánh ngữ).

        -Hành động tạo tác chân chánh (Chánh nghiệp).

        -Sinh hoạt chân chánh (Chánh mạng).

        -Siêng năng tinh tấn chân chánh (Chánh tinh tấn).

        -Nhớ nghĩ chân chánh (Chánh niệm).

        -Thiền định chân chánh (Chánh định).

        Tám pháp như thế chính là Trung đạo.

        Đức Phật giảng thêm cho năm vị Tỳ-kheo:

        -Có bốn chân lư tối thượng. Bốn chân lư đó là những ǵ? Đó là Chân lư về khổ (Khổ đế); Chân lư về nguyên nhân của khổ (Khổ tập đế); Chân lư về sự diệt khổ (Khổ diệt đế) và Chân lư về con đường tu chứng diệt sự khổ ấy (Chứng khổ diệt đạo đế).

        Này các Tỳ-kheo, thế nào là Chân lư về khổ?

        Đó là sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, yêu thương mà biệt ly là khổ, ghét bỏ mà gặp nhau là khổ, cầu mong mà chẳng được là khổ, năm uẩn dấy mạnh là khổ. Đó chính là Chân lư về khổ.

        Thế nào là Chân lư về nguyên nhân của khổ?

        Đó là ái, thủ, hữu, hỷ cùng kết hợp với tham, sự mong cầu khoái lạc tột bậc chính là nguyên nhân tạo nên khổ. Đó chính là Chân lư về nguyên nhân của khổ.

        Thế nào là Chân lư về sự diệt khổ?

        Đó là sự tận diệt hết thảy mọi nguyên nhân gây ra khổ tức là ái, thủ, hữu, hỷ cùng kết hợp với tham, sự mong cầu khoái lạc tột bậc. Đó chính là Chân lư về sự diệt khổ.

        Thế nào là Chân lư về con đường tu chứng diệt trừ khổ?

        Đó là tám con đường chân chánh giúp cho hành giả dứt khổ đạt quả vị Giải thoát, gồm từ Nhận thức hiểu biết chân chánh cho đến Thiền định chân chánh. Đó chính là Chân lư về con đường tu chứng diệt trừ khổ.

        Lại nói với các Tỳ-kheo:

        -Chân lư về sự khổ ấy, trước kia Ta chưa từng nghe người khác nói, chỉ do khéo tư duy thuận theo đúng sự thật nên phát sinh sự hiểu biết, nhận thức thông tỏ rộng khắp và trí tuệ sáng suốt. Này các Tỳ-kheo, các Chân lư về nguyên nhân gây nên khổ; Chân lư về sự diệt khổ và Chân lư về con đường tu chứng diệt sự khổ ấy cũng vậy. Ta cũng chưa từng được nghe người khác nói, chỉ do khéo tư duy thuận theo đúng sự thật nên phát sinh sự hiểu biết, nhận thức thông tỏ rộng khắp và trí tuệ sáng suốt.

        Lại nói với các Tỳ-kheo:

        -Ta đă biết rơ khổ, đă dứt sạch nguyên nhân gây nên khổ, đă chứng đắc sự diệt khổ và tu tập theo con đường diệt khổ. Bốn pháp ấy, trước kia Ta cũng chưa từng được nghe người khác nói, chỉ do khéo tư duy thuận theo đúng sự thật nên phát sinh sự hiểu biết, nhận thức thông tỏ rộng khắp và trí tuệ sáng suốt.

        Lại nói với các Tỳ-kheo:

        -Trước kia, khi Ta chưa t́m ra bốn chân lư tối thượng, chưa đạt được trí tuệ vô thượng, trí tuệ chân chánh chưa phát sinh. Từ khi Ta chứng đắc bốn chân lư tối thượng chánh pháp luân này rồi, tâm Ta đạt giải thoát, tuệ được giải thoát, không hề bị thoái chuyển hay mất đi và Ta đă dùng chánh trí đó để đạt được quả vị Vô thượng Bồ-đề. Ta đă hoàn toàn dứt khỏi sự chi phôi sinh tử, phạm hạnh đă được khẳng định, mọi việc làm đă hoàn tất, không c̣n bị luân hồi nữa.

        Bấy giờ Đức Thế Tôn phát ra tiếng Phạm âm, Phạm âm ấy do thành tựu vô lượng công đức mà có được, do trải qua vô lượng kiếp tu tập chân thật không nhờ vào thầy chỉ dạy, tự ḿnh giác ngộ mà có được. Đức Phật phát ra âm thanh vi diệu ấy nói với Kiều-trần-như và các vị kia:

        -Các h́nh tướng mà mắt ta nhận thấy đều là vô thường, khổ, không, vô ngă, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ mạng. Giống như dùng cỏ mục, đất tạp mà làm thành tường cao th́ rất nguy hiểm, không chắc chắn, dễ bị sụp đổ. Các lănh vực nhận thức của tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân tiếp xúc, ư phân biệt cũng đều như vậy. Này Kiều-trần-như, tất cả các phấp do nhân duyên sinh, không có thể tánh, ĺa mọi thường đoạn, ví như hư không. Cho dù không người tạo ra hay kẻ thọ nhận, các pháp thiện ác cũng không v́ thế mà bị hoại diệt, mất đi.

        Này Kiều-trần-như, sắc là vô thường, khổ, không, vô ngă. Thọ tưởng, hành, thức cũng đều như thế. Chính do ái là nhân duyên như nước nhuần ngấm mà các thứ khổ tăng trưởng. Nếu đạt được Thánh đạo thấy rơ các pháp đều là không th́ có thể dứt trừ hẳn mọi thứ khổ năo kia.

        Này Kiều-trần-như, do vọng phân biệt, không tư duy một cách chân chánh mà sinh ra vô minh, không có pháp nào khác làm nhân cho vô minh, nhưng sự phân biệt ấy cũng không bao quát hết vô minh. Lại do vô minh mà sinh các hành, nhưng vô minh ấy cũng không bao quát hết các hành. Cho đến hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lăo tử ưu sầu khổ năo. Tất cá những thứ ấy làm nguyên nhân sinh khởi thế gian này, không có pháp nào khác có thể làm nguyên nhân sinh khởi các pháp thế gian, tuy sinh ra các pháp nhưng nhân đó lại không bao quát hết các pháp.

        Này Kiều-trần-như, hoàn toàn không có tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng sinh, hay tướng thọ mạng, ĺa bỏ thân này lại nhận thấy thân khác. Dựa vào sự thật đó mà tư duy, vượt lên mọi phân biệt th́ vô minh diệt. Do vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục xứ diệt, lục xứ diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sinh diệt, sinh diệt nên lăo tử diệt, lăo tử diệt nên ưu sầu khổ năo cũng diệt. Như vậy mới có thể liễu ngộ tính chất nhân duyên sinh của uẩn, giới, xứ. Ngay khi đó sẽ đắc thành quả vị Đa-đà-a-già-độ A-la- ha Tam-miệu-tam Phật-đà (Như Lai, A-la-hán, Phật Chánh Giác). Đó là pháp thậm thâm vi diêu, các hàng ngoại đạo không thể liễu ngộ được.

        Sau khi Thế Tôn v́ Tôn giả Kiều-trần-như chuyển bánh xe pháp lần thứ ba giảng dạy về mười hai hành tướng của các pháp, Tôn giả Kiều-trần-như và các vị kia đều tỏ ngộ các pháp nhân duyên, dứt sạch các lậu, tâm ư giải thoát, chứng quả vị A-la-hán. Ngay lúc ấy, Tam bảo đă xuất hiện ở thế gian Đức Thế Tôn là Phật bảo; Mười hai hành tướng của các pháp được Thế Tôn vừa giảng dạy là Pháp bảo; năm vị Bạt-đà-la vừa chứng quả A-la-hán là Tăng bảo. Lúc Phật chuyển bánh xe chánh pháp có sáu mươi câu-chi chư Thiên ở các cơi trời thuộc Dục giới, tám mươi câu-chi chư Thiên thuộc các cơi trời Sắc giới cùng tám vạn bốn ngàn người đều ĺa bỏ mọi thứ cấu nhiễm đạt pháp nhăn thanh tịnh.

        Đức Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

        -Như Lai dùng Phạm âm vi diệu để chuyển bánh xe chánh pháp, âm thanh ấy vang đến khắp mười phương cơi Phật. Chư Như Lai ở các cơi ấy đều nghe được Phạm âm của Phật lần chuyển bánh xe pháp giảng về mười hai hành tướng của các pháp, cũng thấy Đức Thế Tôn chuyển pháp luân trong tại vườn Lộc dă thành Ba-la-nại.

        Lúc này mười phương chư Phật đều im lặng không thuyết pháp, các vị Bồ-tát nơi các cơi Phật đều rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy thưa: -Bạch Thế Tôn, nay v́ sao Như Lai im lặng không nói pháp?

        Chư Phật các cơi ấy đều nói với các vị Bồ-tát:

        -Các vị nên biết, Thích-ca Như Lai trải qua vô lượng kiếp siêng năng khổ cực tích chứa công đức, tinh tấn dũng mănh tu tập đạo Bồ-tát, vượt qua vô lượng các hạnh Bồ-tát nên hiện ở thế giới Ta-bà đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật ấy v́ lợi ích tất cả chúng sinh nên khởi tâm đại Bi mà chuyển pháp luân, phạm âm chuyển pháp luân ấy vang khắp mười phương vô biên các cơi. Ta nay đang lắng nghe âm thanh thuyết pháp ấy, v́ thế mà im lặng.

        Chư Bồ-tát ở các cơi nghe Phật nói rơ nguyên nhân như vậy đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, cùng phát đại nguyện:

        -Nguyện con ở đời vị lai mau chứng quả Phật-đà, đem pháp nhăn vô lậu khai ngộ cho chúng sinh cùng đạt đến giác ngộ như chư Phật.

        Lúc bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc đến trước Phật thưa:

        -Bạch Thế Tôn, vô lượng chư Đại Bồ-tát muốn được nghe Như Lai nói về công đức của sự chuyển bánh xe chánh pháp. Cúi mong Thế Tôn nói rơ về tính chất của sự chuyển pháp luân ấy.

        Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc cùng chư Bồ-tát:

        -Thiện nam tử, pháp luân thậm thâm v́ không thể nắm giữ được, pháp luân khó có thể nhận thấy v́ cần phải ĺa bỏ nhị kiến, pháp luân khó có thể tỏ ngộ v́ nó ĺa tác ư cùng bất tác ư, pháp luân khó có thể lănh hội v́ không thể dùng thức để phân biệt cũng như không thể dùng trí để hiểu rơ, pháp luân rất thuần tịnh v́ phải dứt trừ hai chướng ngại th́ mới có thể chứng được, pháp luân rất vi diệu v́ khó dùng thí dụ để so sánh, pháp luân hết sức bền chắc v́ chỉ có trí tuệ kim cang mới có thể đi vào được, pháp luân không thể ngăn cản được v́ nó không có bờ bến hay giới mốc, pháp luân không có mọi thứ hư luận v́ ĺa xa mọi thứ bám víu, đắm trước ngoại cảnh, pháp luân là không cùng tận v́ nó là thường trụ Bất thoái chuyển, pháp luân vang xa khắp nơi v́ nó như hư không.

        Này Bồ-tát Di-lặc, pháp luân nêu rơ bản tính của tất cả các pháp là tịch tịnh, không sinh, không diệt, không có nơi chốn, chẳng thể phân biệt cũng chẳng thể không phân biệt, chỉ rơ thật tướng, đưa thẳng đến bờ giác ngộ tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện, Vô tác. Thể tánh ấy thanh tịnh ĺa mọi tham dục, đồng nghĩa với Chân như, Pháp tánh, thật tế không hoại không đoạn, chẳng chấp trước không vướng mắc; khéo đi vào lư duyên khởi vượt qua nhị biên cũng chẳng ở nơi khoảng giữa, không thể làm cho nghiêng ngửa, khế hợp với Vô công dụng hạnh của chư Phật, chẳng tiến chẳng thoái, không ra không vào, cũng không có sở đắc, không thể dùng ngôn từ để diễn đạt. Tánh đó tuy nhất nhưng thể nhập vào các pháp lại là Bất nhị, không thể đứng yên cứng nhắc một chỗ; quy về chân lư đệ nhất, đi vào thật tướng các pháp, pháp giới b́nh đẳng vượt quá mọi số lượng, vượt quá mọi khái niệm diễn tả ngôn ngữ, không thể dùng trí phân biệt để lănh hội, không thể dùng thí dụ để so sánh, b́nh đẳng như hư không, không ĺa đoạn thường, chẳng hoại duyên khởi, cứu cánh tịch diệt không hề biến đổi, hàng phục các thứ ma, dẹp trừ hàng ngoại đạo, vượt qua cơi sinh tử đi vào cảnh giới chư Phật. Đó là con đường tu tập của bậc Thánh trí, là chỗ chứng ngộ quả vị Bích-chi, là chôn hướng tới của các bậc Bồ-tát. Chư Phật tán thán, tất cả Như Lai đều chứng đắc vô sai biệt như thế.

        Này Bồ-tát Di-lặc, thể tánh của sự việc chuyển pháp luân là như vậy. Cho nên nếu có người chuyển pháp luân như thế th́ đó là Phật, là Bậc Chánh tri kiến, là Bậc Tự Nhiên Giác Ngộ, là Bậc Pháp Vương, là Bậc Đạo Sư hay Đại Đạo Sư, là Vị Thương Chủ, là Bậc Hoàn toàn tự tại, là Bậc Pháp tự tại, là Bậc Chuyển pháp, là Vị Pháp thí chủ, là Vị Đại thí chủ, là Bậc Thiện hạnh, là Bậc Viên măn, là Bậc Ư lạc sung măn, là Bậc Thuyết giảng chánh pháp, là Bậc t́m ra Chánh pháp, là Vị an ủi vỗ về mọi chúng sinh đau khổ, là Bậc ung dung an trụ, là Bậc dũng mănh chiến thắng mọi chướng ngại, là Bậc tạo ra ánh sáng phá trừ mọi tăm tối mê mờ, là Vị đưa cao ngọn đèn chân lư, là Bậc đại Y vương, là Vị Lương y chữa lành bệnh cho thế gian, là Vị đă nhổ sạch mọi thứ độc nhiễm, là Bậc đạt trí tuệ dứt mọi chướng ngại, là Bậc quan sát nhận biết toàn diện thấu suốt mọi căn tính của chứng sinh, là Bậc Phổ nhăn, là Bậc Phổ hiền, là Bậc tỏa ánh sáng cùng khắp, là Bậc đoan nghiêm không đắm trước. V́ như là đại địa nên gọi là b́nh đẳng, như núi chúa Tu-di nên gọi là bất động, thành tựu các công đức hơn hết so với thế gian nên gọi là Bậc Tối tôn, đạt được tất cả pháp nên gọi là Bậc Vô kiến đảnh, vượt khỏi mọi thứ phiền năo của thế gian nên gọi là ngọn đèn tỏa sáng, đạt được sự thâm diệu tận cùng tối thượng nên gọi là biển rộng, đầy đủ tất cả các pháp bảo Bồ-đề phần nên gọi là nơi quy tụ các vật báu không bị buộc vướng, tâm giải thoát nên gọi là vô nhiễm, thông tỏ mọi pháp nên gọi Bậc Bất thoái chuyển, v́ lợi ích muôn loài chẳng hề lựa chọn nơi chốn nên gọi là như gió, thiêu đốt sạch tất cả các thứ phiền năo nên gọi là như lửa, rửa sạch hết thảy các phiền năo phân biệt nên gọi là như nước, nhập vào pháp giới b́nh đẳng, không ở giữa cũng không ở mé bờ, trí tuệ thần thông vô ngại tự tại nên gọi là như hư không; trừ hết thảy mọi chướng ngại nên gọi là an trụ trong trí vô chướng ngại, diệu dụng của nhăn giới vượt mọi giới hạn ở thế gian nên gọi là Bậc Biến nhất thiết pháp giới, thân không nhiễm ở mọi cảnh giới thế gian nên gọi là Bậc Tối thắng, là Bậc Vô lượng trí, là Bậc pháp sư ở thế gian, là Bậc chế ngự hàng phục tất cả, là Bậc Xuất thế gian, là Bậc không nhiễm thế pháp, là Bậc Tối thắng ở thế gian, là Bậc Tự tại ở thế gian, là Bậc Đại nhân ở thế gian, là Bậc nương nhờ trông cậy ở thế gian, là Bậc đạt đến bờ bên kia ở thế gian, là ngọn đèn sáng của thế gian, là Bậc Tối thượng tối tôn ở thế gian, là Bậc đem lại lợi ích cho thế gian, là Bậc tùy thuận thế gian, là Bậc thông tỏ hết mọi sự việc thế gian, là Bậc Giáo chủ ở thế gian, là Bậc úng cúng của thế gian, là Bậc Đại phước điền, là Bậc Tố́ thượng, là Bậc không ǵ có thể so sánh được, là Bậc hơn hẳn muôn loài, là Bậc luôn chân thật, là Bậc an trụ tâm b́nh đẳng với tất cả pháp, là Bậc đắc đạo, là Bậc nêu rơ chánh đạo, là Bậc giảng giải chánh đạo, là Bậc đă vượt qua mọi cảnh giới ma, là Bậc có năng lực chế ngự các loài ma, là Bậc đă vượt khỏi sinh tử đạt được thanh tịnh an lạc, là Bậc đă ĺa bỏ vô minh tố́ tăm, là Bậc đă dứt sạch mọi nghi ngờ lầm lạc, là Bậc đă ĺa mọi phiền năo, là Bậc đă ĺa mọi mong cầu, là Bậc đă trừ hết mọi kiến hoặc, là Bậc giải thoát, là Bậc thanh tịnh, là Bậc đă ĺa bỏ tham, sân, si, là Bậc đă diệt hết mọi hữụ lậu, là Bậc đă đạt tâm trí thanh tịnh giải thoát, là Bậc Túc mạng trí, là Bậc đại Long, là Bậc mà mọi việc làm đều đă xong, là Bậc ĺa bỏ mọi gánh nặng, là Bậc không màng tư lợi, là Bậc xa ĺa mọi trói buộc sinh tử, là Bậc đạt chánh trí tâm thiện giải thoát, là Bậc khéo đạt được tất cả tâm tự tại giải thoát, là Bậc hoàn tất tu Thí ba-la-mật, là Bậc hoàn tất tu Giới ba-la-mật, là Bậc hoàn tất tu Nhẫn ba-la-mật, là Bậc hoàn tất tu Tinh tấn ba-la-mật, là Bậc hoàn tất tu Thiền định ba-la-mật, là Bậc hoàn tất tu Trí tuệ ba- la-mật, là Bậc thành tựu mọi đại nguyện, là Bậc an trụ tâm đại Từ, là Bậc an trụ tâm đại Bi, là Bậc an trụ tâm đại Hỷ, là Bậc an trụ tâm đại Xả, là Bộc tinh cần nhiếp hóa muôn loài, là Bậc đạt được biện tài vô ngại, là Bậc tạo được chốn nương tựa lớn lao cho thế gian, là Bậc đại Trí, là Bậc thành tựu mọi niệm, tuệ, hạnh, giác; là Bậc đạt được chánh niệm, chánh đoạn, chánh thần túc thông, ngũ căn, ngũ lực, các pháp Bồ-đề phần Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na; là Bậc vượt qua biển lớn sinh tử, là Bậc an trụ nơi bến bờ giải thoát, là Bậc an trụ cơi tịch tĩnh, là Bậc đă đến nơi an ổn, là Bậc đă đến nơi vô úy, là Bậc đă hàng phục tiêu diệt các thứ ma phiền năo, là Bậc Trượng phu Sư tử, là Bậc đă dứt mọi sự sợ hăi nơi thân ḿnh, là Bậc không c̣n cấu nhiễm, là Bậc thông tỏ tất cả, là Bậc đạt đủ Tam minh, là Bậc đă vượt qua bốn con sông lớn trong cơi sinh tử, nắm vững chế ngự mọi việc nên gọi là Sát-đế-lợi; xa ĺa mọi tội lỗi cầu nhiễm nên gọi là Bà-la-môn; phá trừ mọi thứ vô minh nên gọi là Tỳ-kheo; vượt khỏi cám dỗ đắm trước nên gọi là Sa-môn; dứt sạch hết thảy các lậu hoặc nên gọi là thanh tịnh; có đủ mười lực nên gọi là Bậc đại lực; thân khẩu ư đều tu tập hoàn tất nên gọi là Bậc Thế Tôn; là Vị Pháp vương nên được gọi là vị vua trong các vị vua, là Bậc Chuyển thắng pháp luân, là Bậc đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, là Bậc thuyết giảng các pháp thường hằng bất biến, là Bậc nắm giữ tất cả ngôi vị trí tuệ, là Bậc thành tựu bảy pháp báu Bồ-đề, là Bậc đă đạt được tất cả mọi cảnh giới pháp bảo, là Bậc được mọi người chiêm ngưỡng tôn quư, là Bậc có năng lực điều phục những ǵ khó điều phục nhất, là Bậc khéo có thể thọ kư cho các vị Bồ-tát, là Bậc đă đạt đủ bảy món tịnh tài, là Bậc đă thành tựu mọi thứ an lạc, là Bậc tâm ư luôn luôn buông xả, là bậc đem lại an lạc cho tất cả chúng sinh, là Bậc đă được trí tuệ kim cang thù thắng, là Bậc có tầm nh́n rộng lớn trùm khắp, là Bậc nhận thức tất cả pháp không bị chướng ngại, là Bậc trí tuệ bao la được thần thông diệu dụng ỉớn lao, là Bậc hoằng dương đại pháp, là Bậc luôn được mọi loài trong thế gian quy ngưỡng tổn kính không hề biết chán, là Bậc luôn tỏa ra hào quang vô cùng thanh tịnh, là Bậc luôn gần gũi với muôn loài ở thế gian, là Bậc thấu rơ mọi căn cơ của chúng sinh, là Bậc đại Oai nghiêm, là Bậc luôn được các hàng tu học và đă tu học hoàn tất cung kính vây quanh, là Bậc ánh sáng tỏa chiếu khắp nơi, là Bậc đại Tràng vương, là Bậc Biến Quang Minh, là Bậc Đại Quang Phổ Chiếu, là Bậc thông tuệ trước mọi vấn nạn, là Bậc dứt sạch mọi phân biệt, là Bậc Quang Minh Biến Chiếu, là Bậc đă đạt đến cơi ánh sáng Trí tuệ ba-la-mật thâm diệu khó biết khó thấy khó giải, là Bậc đại phạm, là Bậc uy nghi tịch tĩnh, là bậc thành tựu tất cả hạnh thù thắng, là Bậc giữ đủ sắc tướng vi diệu* là Bậc được muôn người chiêm ngưỡng không nhàm chán, là Bậc các căn đều tịch tĩnh, là Bậc tư lương luôn viên măn, là Bậc đạt được sự điều ḥa dịu dàng ḥa ái, là Bậc đạt được sự thù thắng tịch tĩnh, là Bậc đă điều phục trọn vẹn các căn của ḿnh, là Bậc được xem như voi chúa đă thuần phục, là Bậc như ao nước trong lành, gồm đủ ba mươi hai tướng tốt nên gọi là Bậc dứt hẳn mọi thứ tập khí chướng ngại, gồm đủ tám mươi vẻ đẹp làm cho thân sắc thêm trang nghiêm nên gọi là sắc tướng vi diệu tối thượng, là Bậc Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ nên được tôn xưng là Bậc đạt Tứ vô úy, trọn đủ mười tám pháp bất cộng của chư Phật nên được tôn xưng là Bậc Thầy của cơi trời người. Thành tựu tất cả mọi việc nên được gọi là Bậc đă đạt được Tam nghiệp thanh tịnh, chân chánh. Thành tựu tất cả mọi hành tướng của trí tuệ thanh tịnh nên gọi là Bậc an trụ vào cồi hư không. Liễu ngộ trọn vẹn tính chất duyên khởi b́nh đẳng của vạn pháp nên gọi là Bậc an trụ vô tướng. Ở nơi tất cả mọi nguyện cầu đều không tham đắm nên gọi là Bậc an trụ vô nguyện. Ĺa bỏ mọi ràng buộc của các cơi nên gọi là Bậc Vô công dụng hạnh. Đạt đến cảnh giới trí tuệ vô tướng, hư không tướng, pháp giới chân như nên gọi là Bậc đạt ngôn ngữ chân thật, dứt sạch mọi ngôn ngữ hư vọng dối trá. Quan sát tính chất hư huyễn của sự vật như ảo ảnh trong sa mạc, như chiêm bao, như trăng trong nước, như tiếng vang trong hang sâu, như bóng trong gương nên gọi là Bậc Xả A-lan-nhă. Đi đứng uy nghi nhằm điều phục chúng sinh nên gọi là Bậc ung dung không vướng mác lầm lỗi. Đoạn trừ mọi vô minh phiền năo ái dục nên gọi là thành tŕ của chánh pháp. Tạo nhân Niết-bàn nên gọi là Bậc có kiến văn đều lợi ích. Vượt qua cơi Dục giới nên gọi là Bậc đă ĺa khỏi cảnh bùn lầy sinh tử. Vượt qua cơi sắc giới nên gọi là Bậc đă trừ phá hết mọi bóng dáng ma quân. Vượt qua cơi Vô sắc giới nên gọi là Bậc tạo dựng cờ phướn trí tuệ. Có pháp thân, trí thân nên được gọi Bậc xuất hiện từ vô biên công đức quư giá ở thế gian. Trí tuệ như hoa tươi nở thành quả giải thoát nên được ví như đại thọ. Là Bậc không dễ ǵ gặp được nên gọi là hoa Ưu-đàm. Theo tâm nguyện cầu đều được viên măn nên gọi là Bậc quư giá như ngọc Ma- ni. Mọi hành nghiệp đều thành tựu nên gọi là Bậc nơi tay chân đủ tướng tốt. Ở nơi cơi sinh tử mà phạm hạnh kiên cố giữ ǵn đầy đủ không hề bị chao đảo nên gọi là Bậc nơi dưới bàn chân gồm đủ tướng quư trang nghiêm. Ở trong cơi sinh tử mà theo chánh pháp cúng dường phụng dưỡng cha mẹ, các bậc Tôn trưởng cùng các bậc úng cúng, những người không nơi nương tựa làm chỗ nương tựa cho họ, không hề giết hại sinh mạng nên gọi là Bậc có chân tay dài đầy đủ tướng quư. Ở trong cơi sinh tử nguyện không giết hại sinh mạng, diễn thuyết về công đức không giết hại sinh mạng, khuyến bảo chúng sinh không giết hại cùng cứu giúp bảo vệ mạng sống nên gọi là Bậc có tay chân mềm mại dịu dàng. Ở cơi sinh tử luôn luôn cúng dường cha mẹ, phụng thờ các bậc Tôn thượng, úng cúng, đem các thứ dầu sữa ngon quư dâng hiến, tự tay chăm sóc vui vẻ không hề biếng trễ nên được gọi là Bậc tay chân gồm đủ tướng tốt. Ở nơi cơi sinh tử luôn tu tập các hạnh bố thí, ái ngữ, lợi ích, đồng sự để nhiếp thọ chúng sinh nên gọi là Bậc có tướng tốt là dưới bàn chân bằng phẳng. Ở nơi cơi sinh tử luôn luôn tăng trưởng các pháp thù thắng nên gọi là Bậc có tướng tốt: các lông trên thân đều xoay về phía bên phải và hướng lên cao. Ở trong cơi sinh tử luôn tự tay ḿnh quét dọn tu bổ sửa chữa cúng dường các tháp của Phật, Như Lai, được nghe nói đến pháp thân của Như Lai ḷng bồi hồi xúc động cho là điều hy hữu, lại v́ chúng sinh diễn thuyết chánh pháp khiến cho mọi người nghe pháp đều sinh tâm hy hữu nên gọi là Bậc có tướng tốt đầu gối thon tṛn như đầu gối nai chúa. Ở trong cơi sinh tử luôn thấu đạt chánh pháp, thọ tŕ đọc tụng theo đó mà tu tập, tỏ ngộ tính chất thâm diệu của kinh văn là phương tiện để đưa ḿnh và người đạt đến giải thoát, đối với lăo bệnh tử khổ, bức bách chúng sinh thường diễn thuyết pháp vi diệu, làm nơi nương tựa cho họ không hề dấy tâm khinh mạn nên gọi là Bậc có tướng tốt là nam căn ẩn giấu.

        Ở trong cơi sinh tử luôn cung kính các bậc Sa-môn, Bà-la-môn, bcí thí y phục, làm sáng tỏ đức hạnh thanh tịnh cùng tu mười điều thiện, luôn biết hổ thẹn cũng như khuyên dạy kẻ khác bền chí tu hành nên gọi là Bậc có tướng tốt là cánh tay thon dài.

        Ở trong cơi sinh tử chẳng hề đau khổ hoặc sát hại chúng sinh, ba nghiệp thân khẩu ư luôn ḥa hợp với tâm từ bi nên gọi là Bậc có tướng tốt thân h́nh như cây Ni-câu-đà.

        Ở trong cơi sinh tử công việc ăn uống luôn điều độ chừng mực, gặp người bệnh thường cho thuốc men, đối với hạng chúng sinh thấp kém luôn sinh tâm thương xót, lại thường tu bổ các đền tháp hư nát hoặc xây dựng đền tháp mới, đối với hạng chúng sinh mang nặng sợ hăi thường đem pháp vô úy bố thí nên gọi là Bậc có tướng tốt là thân thể mềm mại tươi thắm. Ở trong cơi sinh tử luôn cúng dường Cha mẹ, Sư trưởng, các bậc ứng cúng, đem sữa dầu các thứ ngon quư dâng hiến, dùng nước trong ấp áp tắm rửa, xoa các thứ hương thơm, bố thí các thứ thượng diệu như là nhà cửa, quần áo, đồ ăn uống, thuốc men khiến họ được an ổn, lại dùng nước thơm rưới khắp các tháp miếu Như Lai, dùng hương hoa cờ phướn dù lọng quư để trang hoàng các tháp Phật nên gọi là Bậc có tướng tốt thân ánh lên sắc màu vàng ṛng.

        Ở trong cơi sinh tử thường tu hạnh từ bi nhẫn nhục, không hề gây đau khổ hay bức hại chúng sinh, khuyên dạy chúng sinh tu theo mười thiện hạnh, dùng vàng để tạo h́nh tượng Như Lai cùng tạo tháp miếu, hoặc dùng chất vàng để tô vẽ h́nh tượng Như Lai cùng tháp miếu hoặc dùng vàng tán nhỏ sơn thếp h́nh tượng Phật cùng tháp miếu, hoặc đem cờ phướn dù lọng quư giá trang hoàng h́nh tượng Phật cùng tháp Phật thêm phần trang nghiêm, hoặc dùng y phục, đồ ăn uống bố thí ba ân cho chúng sinh nên gọi là Bậc có tướng tốt nơi mỗi lỗ chân lông trên thân h́nh đều sinh ra một lông mềm phát ra ánh sáng phân minh rơ rệt.

        Ở trong cơi sinh tử luôn gần gũi các bậc thiện tri thức, thường hỏi về các pháp chánh tà, các pháp nên tu, các pháp nào hạng cao, hạng vừa, hạng thấp, lựa chọn bậc thiện, pháp thiện mà gắng sức tu tập và luôn quét dọn tháp miếu Phật nên gọi là Bậc trụ trong bảy nơi cao quư.

        Ở trong cơi sinh tử luôn đối với cha mẹ cùng các bậc ứng cúng như Sa-môn, Bà-la-môn, những vị đáng được tôn quư kính trọng đều hết ḷng cúng dường, đối với hạng chúng sinh nghèo hèn thấp kém có những ước muốn mong cầu tùy sở nguyện của họ mà cung cấp y phục, đồ ăn uống, đồ dùng nằm ngồi, thuốc thang; lại chăm lo tu bổ vườn, rừng, ao, giếng, cung câp phương tiện cho người đứng ra sửa sang... nên gọi là Bậc có tướng tốt phần trên thân h́nh oai nghiêm như Sư tử.

        Ở trong cơi sinh tử thường luôn cúng dường cha mẹ, sư trưởng, các bậc ứng cúng, đối với hạng người thấp kém không tỏ ư khinh mạn mà lại thương xót cứu giúp, nguyện lực trong hoàn cảnh như thế luôn được giữ vững, không khi nào thoái thất nên gọi là Bậc có tướng tốt là xương mắc cá chân không lồi lên.

        Ở trong cơi sinh tử thường luôn tự suy xét về các lỗi lầm của ḿnh, không tranh chuyện hơn thua, xa ĺa hẳn mọi tranh căi gay gắt giành giật, ba nghiệp thân khẩu ư luôn được thanh tịnh nên gọi là Bậc có tướng tốt hai vai bằng phẳng đầy đặn.

        Ở trong cơi sinh tử đối với bậc Sa-môn Bà-la-môn luôn sinh tâm cung kính, ngưỡng mộ, đưa đón phải phép, khéo ghi nhận những lời dạy của các vị ấy để đạt được tâm vô úy; đối với kẻ hay tranh căi kiện cáo thường khuyên dạy họ ĺa bỏ, lại khuyên dạy các ma quân cùng tất cả chúng sinh tu đạo trung hiếu, tu hạnh thiện nghiệp phát huy Phật pháp nên gọi là Bậc có tướng tốt, cằm giống cằm của Sư tử.

        Ở trong cơi sinh tử thuận theo những ham muốn an lạc của chúng sinh đều đem đến đầy đủ, lại khéo dùng lời nói an ủi vỗ về khiến họ luôn được vui vẻ, nguyện lực trong hoàn cảnh ấy luôn được giữ vững, bền chắc nên gọi là Bậc có tướng tốt gồm đủ bốn mươi cái răng.

        Ở trong cơi sinh tử không hề nói năng thêu dệt, xúi người tranh căi; nếu có xảy ra những trường hợp kiện căi gay gắt th́ luôn ḥa giải hai phía, đều khiến họ vui vẻ nên gọi là Bậc có tướng tốt hai hàm răng đều khít nhau.

        Ở trong cơi sinh tử thường xa ĺa các việc ác, tu tập những hạnh lành, thường bố thí cho chúng sinh các món như sữa bơ quần áo sạch sẽ; dùng đất sạch tốt để tô trát, sửa sang, dọn dẹp tháp Phật, lại đem các thứ hoa tươi cúng dường nơi tháp Phật. Các công đức ấy luôn được hoàn tất nên gọi là Bậc có tướng tốt hai hàm răng trắng và đều đặn đẹp đẽ.

        Ở trong cơi sinh tử mọi lời nói đều khiến cho chúng sinh sinh tâm an vui hoan hỷ, luôn đem tâm b́nh đẳng đối xử với mọi người, không hề xoi mói lỗi lầm của người khác, thường diễn nói chánh pháp để khuyên dạy muôn loài nên được tôn xưng là Bậc đạt được tối thượng vị trong sô các vị ngon của thế gian.

        Ở trong cơi sinh tử không hề gây khổ năo cho chúng sinh; đối với những kẻ bị khổ bức bách th́ tùy theo trường hợp mà dốc sức chữa trị, trừ diệt, lại tùy theo ư muốn của họ mà cấp cho các món ăn vật lạ, tâm không tiếc rẽ nhỏ mọn nên gọi là Bậc có tướng tốt tiếng nói thanh nhă, vang xa như âm thanh của bậc Phạm thiên.

        Ở trong cơi sinh tử không hề nói dối, nói lời thô bạo hung tợn, nói lời ác khẩu, thường an trú Tứ trụ xứ là Từ, Bi, Hỷ, Xả; dùng âm thanh dịu dàng ḥa nhă v́ chúng sinh mà thuyết pháp khiến họ đều sinh tâm hoan hỷ tín thọ nên gọi là Bậc có tướng tốt đôi mắt màu xanh biếc.

        Ở trong cơi sinh tử đối với cha mẹ, sư trưởng luôn tỏ ḷng tôn kính, xem tất cả chúng sinh như con ḿnh, nếu có kẻ t́m đến mong cầu th́ lấy tâm từ bi cứu giúp, khuyên dạy chúng sinh thường quán tưởng tượng Phật cùng tháp miếu Phật nên gọi là Bậc có tướng tốt lông mi mắt như lông mi trâu chúa.

        Ở trong cơi sinh tử tâm không hèn kém, ư luôn quảng đại, thường khuyên dạy chúng sinh tu theo pháp vô thượng, xa ĺa mọi buồn phiền, tâm ư ung dung tự tại hiện ra nơi nụ cười, gần gũi bạn lành, luôn đem lời an ủi khuyên nhủ nên gọi là Bậc có tướng tốt lưỡi lớn và dài.

        Ở trong cơi sinh tử luôn xa ĺa mọi thứ ngôn ngữ lầm lỗi, thường tôn kính ca ngợi các bậc Thanh văn, Bích-chi, Bồ-tát, Như Lai cùng các vị Pháp sư, thọ tŕ đọc tụng sao chép kinh điển, v́ mọi người mà giảng giải chỉ dạy theo pháp tu tập nên được tôn xưng là Bậc có tướng tốt có Nhục kế nơi đảnh đầu và tướng Vô kiến đảnh.

        Ở trong cơi sinh tử thường cung kính lễ bái cha mẹ, các bậc Tôn túc, Sa-môn, Bà-la-môn dùng các thứ dầu thơm xoa rắc lên chân hoặc làm cho tóc thơm sạch, tất cả mọi người đến chỗ ḿnh đều dùng tràng hoa tươi cung kính quàng lên cổ nên được tôn xưng là Bậc có tướng tốt nơi khoảng giữa hàng lông mày có cḥm lông trắng mịn mọc xoay theo phía phải, luôn phát ra hào quang trong lành.

        Ở trong cơi sinh tử thường hay tổ chức những hội bố thí lớn, tùy theo sở nguyện của chúng sinh mà cung cấp đầy đủ, đồng thời khuyến khích chúng sinh cũng nên tu hạnh bố thí như vậy, lại thường gần gũi với bạn lành không hề rời bỏ, lại mong cầu đạo pháp, tôn quư sư trưởng, không nề khó nhọc, tâm không biếng nhác, đối với các bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như Lai, cha mẹ, sư trưởng... thường đem cúng dường các thứ dầu thơm, hương đèn... cùng tạo ra các h́nh tượng Như Lai oai nghiêm đẹp đẽ, dùng các món bảo vật để trang hoàng tôn nghiêm, lại dùng các chất quư giá màu trắng để tạo nên tướng tốt bạch hào nơi khoảng giữa hai hàng lông mày của h́nh tượng Như Lai, lại khuyên dạy chúng sinh phát tâm vô thượng Bồ-đề khiến họ tu tập theo vô lượng hạnh lành v́ vậy nên được tôn xưng là Bậc có tướng tốt đạt được uy lực chí nguyện lớn lao, là Bậc đă thành tựu sức mạnh như Na-la-diên, là Bậc đă đạt đủ nguyện lực vô úy của Như Lai, là Bậc đă thuyết pháp chân chánh không sai lạc, là Bậc đă giác ngộ vô ngôn, là Bậc đă đầy đủ nguyện lực khiến cho chúng sinh tùy theo căn tánh mỗi loài mà hiểu biết chánh pháp, là Bậc không hề mất chánh niệm, là Bậc không hề tưởng niệm sai lạc, là Bậc thông tỏ thật tâm của tất cả chúng sinh, là Bậc đạt được tâm Phi trạch diệt xả, là Bậc luôn tu tập các pháp Tam-muội, là Bậc tinh tấn không thoái chuyển, là Bậc trí tuệ không thoái chuyển, là Bậc giải thoát không thoái chuyển, là Bậc giải thoát tri kiến không thoái chuyển, là Bậc từ trí tuệ thể hiện các hành động của thân khẩu ư luôn thích hợp với trí tuệ, là Bậc đă đạt được trí tuệ quán chiếu cả quá khứ, hiện tại và vị lai không hề bị chướng ngại, là Bậc đạt được sự giải thoát vô ngại, là Bậc khéo nhập vào mọi hành động của chúng sinh, là Bậc thuyết pháp luôn thích ứng, là Bậc có đủ năng lực vượt qua tất cả mọi âm thanh h́nh tướng, đạt đến bờ giải thoát, là Bậc đủ khả năng đối đáp bằng tất cả các loại âm thanh khác nhau, là Bậc có âm thanh như chim Ca-lăng-tần-già, là Bậc có âm thanh như tiếng trống trời vang rền, là Bậc có âm thanh như tiếng nhạc trời, là Bậc có âm thanh như tiếng đại địa chấn động, là Bậc có âm thanh như tiếng gào thét của biển lớn, là Bậc có âm thanh như tiếng kêu của Long vương, là Bậc có âm thanh như tiếng mây vần vũ chuyển động, là Bậc đạt được từng loại âm thanh của muôn loài, là

Bậc không đắm trước, không chướng ngại khiến cho mọi người đến chiêm ngưỡng đều sinh tâm hoan hỷ, là Bậc luôn được các vị Phạm thiên, Đế Thích, Tứ Thiên vương lui tới cúng dường, là Bậc luôn được các hàng A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già chiêm ngưỡng sinh tâm hoan hỷ không hề biết chán, là Bậc luôn được chúng Thanh văn vâng theo thực hiện các lời chỉ dạy, là Bậc được các hàng Bồ-tát cung kính ca ngợi, là bậc thuyết pháp không có mong cầu, là Bậc thuyết pháp mỗi câu mỗi chữ đều đem lại lợi ích cho muôn loài, là Bậc thuyết pháp luôn khế lư khế cơ.

        Này Bồ-tát Di-lặc, Ta đă nói qua về các công đức của Như Lai, nếu nói đầy đủ th́ cùng kiếp cũng không thể nói hết được.

        Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn muốn nêu lại nghĩa trên, đọc bài kệ:

        Không chốn, không hư luận

        Không sinh cũng không diệt

        Thể tánh là không tịch

        Xe pháp chuyển như thế

        Chẳng ra cũng chẳng vào

        Không nhân cũng không tướng

        Tất cả pháp b́nh đẳng

        Xe pháp chuyển như vậy

        Như mộng huyễn ảo ảnh

        Trăng trong nước, tiếng vang

        Đều không có tự tánh

        Xe pháp chuyển như vậy

        Pháp theo nhân duyên sinh

        Chẳng đoạn cũng chẳng thường

        Ĺa xa mọi ác kiến

        Xe pháp chuyển như vậy

        Xa ĺa vượt Hữu, Vô

        Chẳng pháp chẳng phi pháp

        Vốn chẳng hề sinh diệt

        Xe pháp chuyển như thế

        Thật tế phi thật tế

        Chân như chẳng chân như

        Rơ thể tánh các pháp

        Xe pháp chuyển như vậy

        Mắt tai mũi lưỡi thân

        Cùng ư đều chẳng thật

        Thể tánh bặt suy lường

        Xe pháp chuyển như thế

        Đem xe chánh pháp ấy

        Giác ngộ bao kẻ mê

        Thể tánh tất cả pháp

        Ta đều đă thông tỏ

        Chẳng nhờ người khác trao

        Nên gọi Bậc Tự Giác

        Đạt được pháp tự tại

        Nên gọi Bậc Pháp Vương

        Thông tỏ lư, phi lư

        Nên gọi Bậc Đạo Sư

        Diễn thuyết pháp thích ứng

        Giáo hóa khắp muôn loài

        Đưa đến thẳng Niết-bàn

        Nên tôn xưng Giáo Chủ

        V́ bao kẻ mê lầm

        Diễn nói pháp chân thật

        Đưa về bến giải thoát

        Nên gọi Vô Thượng Sư

        Dùng trí cùng bốn nhiếp

        Nhiếp phục khắp thế gian

        Vượt rừng rậm sinh tử

          Nên gọi là Thương Chủ

        Đối pháp không ngăn ngại

        Nên xưng Pháp Tự Tại

        Chuyển cỗ xe chánh pháp

        Nên tôn là Pháp Vương

        Bậc Thầy nắm giữ pháp

        Bậc Pháp Chủ tối thượng

        Cũng gọi Đại Đức Chủ

        Cũng gọi Giới nguyện đủ

        Cũng gọi Thí vô úy

        Bậc chỉ rơ Niết-bàn

        Là Bậc luôn hàng phục

        Cũng là Bậc Tự Giải

        Là Bậc tâm năng ngộ

        Trí tuệ luôn ngời sáng

        Chiếu tỏa khắp muôn nơi

        Xua vô minh tăm tối

        Bậc Y Vương cho đời

        Diệt mọi bệnh phiền năo

        Nhổ sạch bao tên độc

        Bậc Vô Thượng Đạo Sư

        Đủ ba mươi hai tướng

        Cùng tám mươi vẻ đẹp

        Thân sắc đều vi diệu

        Tùy thuận theọ chúng sinh

        Mười lực, bốn vô úy

        Mười tám pháp bất cộng

        Mâu-ni Đại thừa thắng

        Gồm đủ mọi công đức

        Xe chánh pháp vô thượng

        Công Đức Như Lai nêu

        Nếu muôn nói đầy đủ

        Trọn kiếp không thể hết

        Trí tuệ Phật vô biên

        Như hư không rộng lớn.

HẾT QUYỂN 11

 

previous.png     back_to_top.png     next.png

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0