Kinh Pháp Bảo Đàn Lược Giải
Lục Tổ Huệ Năng
Ḥa Thượng Tuyên Hóa Giảng Thuật
-o0o-
Phẩm Bát Nhă Đệ Nhị
Qua ngày kế, Vi Thứ sử lại xin Đại sư giảng nữa.
Đại sư lên ṭa giảng, bảo đại chúng rằng: "Các ngươi phải tịnh tâm mà niệm Ma ha Bát nhă Ba la mật đa."
Giảng:
Bát nhă là tiếng Phạn, dịch là trí huệ, có ba nghĩa: Văn tự Bát nhă, Quán chiếu Bát nhă, Thực tướng Bát nhă. V́ Bát nhă có đầy đủ ba loại ư nghĩa, cho nên tôn trọng mà để nguyên âm tiếng Phạn không dịch nghĩa. Đại sư giảng về nhân duyên của Bát nhă, là theo lời yêu cầu của đại chúng.
Hôm sau, Thứ sử Vi Cừ thỉnh cầu Lục Tổ giảng Phật pháp, v́ thế Lục Tổ Đại sư bèn lên ṭa giảng mà tuyên thị đại chúng:
–Quư vị nay phải thanh tịnh tâm niệm, không nên vọng tưởng, cần phải nhất tâm nghe pháp, đầu tiên hăy niệm Ma ha Bát nhă Ba la mật đa.
Ngài lại dạy rằng: "Nầy Chư Thiện tri thức! Cái trí Bồ đề Bát nhă, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được. Phải cầu bực đại Thiện tri thức chỉ dẫn cho mới thấy tánh. Phải biết rằng dầu kẻ ngu hay người trí cũng đồng có Phật tánh giống nhau không khác. Nhưng bởi tâm mê ngộ chẳng đồng mới có kẻ ngu người trí. V́ đó nên nay ta mới nói pháp Ma ha Bát nhă Ba la mật, khiến cho mọi người đều đặng trí huệ. Hăy chú ư mà nghe cho rơ, ta v́ đại chúng mà nói pháp đây.
Chư Thiện tri thức! Người thế gian suốt ngày miệng niệm Bát nhă, mà chẳng biết Bát nhă trong tánh ḿnh, cũng như nói ăn mà chẳng no. Miệng chỉ nói "không" th́ muôn kiếp cũng chẳng thấy tánh đặng, rốt cuộc không ích ǵ.
Chư Thiện tri thức! Ma ha Bát nhă Ba la mật là tiếng Phạn, có nghĩa là đại trí huệ đáo bỉ ngạn. Ấy là do nơi tâm làm, chớ chẳng phải do nơi miệng niệm. Miệng niệm và tâm làm theo, th́ tâm và miệng hiệp nhau. Bổn tánh là Phật, ĺa tánh th́ không có Phật nào khác.
Giảng:
Đại sư nói:
–Quư vị Thiện tri thức! Trí huệ của đạo giác ngộ, người đời vốn có đủ, ở Phật không nhiều một chút, ở chúng sanh cũng không thiếu một chút. Nhưng v́ chấp trước, "mê tức là không giác ngộ, không giác ngộ tức là chấp trước." V́ không thể tự ḿnh ngộ được, cho nên phải nương vào vị Minh nhăn Thiện tri thức, v́ vị này đă thâm nhập Thật tướng của các pháp, cho nên có thể chỉ dẫn, khiến cho các ông được minh tâm kiến tánh. Các ông cần nên biết, bất luận là người ngu hay người trí, Phật tánh đều không có sự sai khác. V́ có sự khác nhau giữa mê và ngộ cho nên mới có người ngu và người trí. Tôi nay v́ các ông thuyết Ma ha Bát nhă Ba la mật pháp, khiến cho các ông mỗi người đều đắc trí huệ vốn có của chính ḿnh. Nay các ông cần phải chuyên tâm một ḷng lắng nghe, tôi sẽ v́ các ông thuyết pháp.
Quư vị Thiện tri thức! Người đời mỗi ngày miệng niệm "Bát nhă Bát nhă," mà không nhận thức được bản tánh Bát nhă, trí huệ vốn có của ḿnh. Cũng như từ sáng đến tối niệm thực đơn, nhưng không thể no bụng. Miệng tụng "Bát nhă chính là không," mà tự ḿnh không thực hành, th́ dù có trải qua trăm ngàn đại kiếp cũng không có thể nh́n thấy bổn tánh Bát nhă, rốt ráo cũng không có lợi ích ǵ.
Quư vị Thiện tri thức! Ma ha Bát nhă Ba la mật là tiếng Phạn, Hoa văn dịch là đại trí huệ đáo bỉ ngạn. Ma ha có nghĩa là lớn, Bát nhă là trí huệ, Ba la mật là đáo bỉ ngạn. Pháp này yêu cầu tâm của các ông phải buông bỏ, không phải miệng niệm mà phải từ nội tâm nh́n thấu suốt vạn pháp, thấy cái ǵ cũng không, từ đó mới đạt được sự ích lợi. Nếu chỉ có miệng niệm Bát nhă, mà nội tâm không chiếu theo trí huệ Bát nhă mà tu hành; nếu vẫn c̣n vô minh, chính là tâm không chân thực tu hành, giống như hư vọng huyễn hóa, như sương, như ánh chớp, cuối cùng cũng không đạt được cảnh giới này.
Miệng niệm tâm hành Bát nhă, mới là ư nghĩ và việc làm tương ưng khế hợp, từ đó có thể nh́n thấy tự tánh, chính là Phật, v́ bổn tánh chính là Phật. Tự tánh là chân Phật, nếu tách rời tự tánh th́ không có Phật. Cho nên Phật giáo dạy rằng: "Mọi người đều có thể thành Phật." Chỉ cần các ông tu hành, tức tu hành tự tánh, hồi quang phản chiếu, quay trở về t́m nơi chính ḿnh, không nên giong ruổi t́m cầu bên ngoài th́ nhất định sẽ thành Phật.
Sao gọi là Ma ha? Ma ha nghĩa là lớn, tâm lượng rộng lớn cũng như hư không, không có bờ mé, cũng chẳng phải vuông tṛn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không trên dưới dài ngắn, cũng không giận không mừng, không phải không quấy, không lành không dữ, không có đầu đuôi. Các cơi Phật thảy đều như hư không. Cái diệu tánh của người thế gian vốn là trống không, chẳng có một pháp ǵ trong đó mà t́m đặng. Cái tự tánh Chơn không cũng giống như thế.
Chư Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói "không" mà liền chấp "không." Nếu để tâm trống không mà ngồi yên lặng, tức là chấp cái "vô kư không."
Giảng:
Ma ha có nghĩa là ǵ? Ma ha dịch là lớn (đại). Cái ǵ gọi là lớn? Tâm người lớn như hư không, giống như tâm muốn đến mặt trăng bèn phát minh hỏa tiễn. Cho nên nói Tâm vô biên tế, vô hạn lượng, tâm không có vuông tṛn, không có lớn nhỏ. Tâm vô h́nh, lớn th́ không có ǵ ở ngoài nó, nhỏ th́ không có ǵ ở trong nó. Tâm lượng cũng không có sự biểu hiện của màu sắc xanh vàng đen trắng, cũng không có trên dưới dài ngắn. Tự tánh vốn không sân không giận, cũng không mừng không vui, tự tánh là trung đạo; cũng không đúng cũng không sai, nếu có đúng có sai th́ không phải chân tâm của các ông. Không có thiện tâm sở hoặc ác tâm sở (cho nên Lục Tổ Đại sư khai thị Huệ Minh rằng: "Không nghĩ thiện không nghĩ ác"), tâm cũng không có đầu có đuôi. Cảnh giới của Chư Phật cũng giống như hư không. Diệu tánh của chúng ta vốn là không, không có một pháp khả đắc, cho nên nói Tự tánh như hư không, chân vọng đều ở trong, ngộ triệt bổn lai thể, một cái thông tất cả đều thông, tự tánh Chân không giống như đạo lư trên đây tôi vừa nói.
Quư vị Thiện tri thức! Không nên nghe tôi nói không, liền chấp vào không. Điều quan trọng nhất là không được chấp vào không. Nếu các ông nói tất cả là không, tâm không thân cũng không, thế giới cũng không, như thế ngồi thiền sẽ lạc vào vô kư không. Vô kư không th́ giống như người đă chết rồi, cái ǵ cũng không biết, tuy là người sống nhưng vừa ngồi thiền là giống như chết. Chúng ta tu đạo cần phải biết trong cái Chân không có cái Diệu hữu, không phải cái ǵ cũng không biết. Cái ǵ cần biết, cái ǵ không cần biết, phải sáng suốt nhận định rơ ràng; giống như đạo lư "tâm thanh nước hiện bóng trăng, định tâm định ư bóng mây không c̣n."
Chư Thiện tri thức! Thế giới tuy là trống không, mà có thể bao hàm muôn vật. Tất cả các sắc tượng: mặt nhật, mặt nguyệt, tinh, tú, núi, sông, đất bằng, nguồn, suối, khe, rănh, cỏ, cây, rừng, bụi, kẻ dữ, người lành, việc dữ, việc lành, thiên đàng, địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu-di, nhất thiết đều ở trong cái "không." Cái tánh trống không của người thế gian cũng giống như thế.
Chư Thiện tri thức! Tự tánh có thể bao hàm hết muôn pháp, ấy gọi là lớn. Muôn pháp đều ở trong tự tánh mỗi người. Nếu thấy cả thảy các điều dữ cùng các điều lành của người, mà chẳng chấp chẳng bỏ, cũng không nhiễm vương, không dính níu, ḷng như hư không, ấy gọi là lớn, cho nên gọi là Ma ha.
Giảng:
Thế giới hư không có thể bao hàm vạn hữu, muôn loài muôn sắc, tất cả h́nh tướng đều có thể bao gồm vào trong – Nhựt nguyệt tinh tú, sơn hà đại địa, suối khe sông ng̣i, thảo mộc tùng lâm, ác nhân thiện nhân, nhất loạt đều tiếp nhận mọi điều hay dở. Hư không sẽ không nói: "Ngươi là kẻ ác, ta đuổi đi không cho ở. C̣n ông là người hiền lương, rất hoan nghênh ông đến ở chỗ tôi." Hư không không có phân biệt như vậy. Hư không có thể bao hàm thiện pháp, ác pháp, thiên đường, địa ngục, tất cả biển to núi lớn, đều ở trong hư không. Tự tánh của người cũng giống như hư không, có thể bao hàm vạn hữu.
Quư vị Thiện tri thức! Bổn tánh của chính ḿnh có thể bao hàm cả vạn pháp, đây gọi là lớn. Vạn pháp đều ở trong tự tánh, v́ thế cho nên đối với tất cả mọi người, bất luận là người tốt hay xấu đều không nên có tâm niệm phân biệt hoan hỷ hay ghét bỏ. Tôi thường nói với các ông rằng: Người xấu cũng có một ngày nào đó trở thành người tốt. Hy vọng một ngày nào đó họ có thể giác ngộ mà sửa đổi. Tôi có rất nhiều đệ tử không biết nghe lời, dạy nó đi về hướng Nam th́ nó nhất quyết đi về hướng Bắc. Tuy nó không nghe lời, tôi vẫn nhẫn nại đợi chờ, v́ tôi biết có một ngày nó sẽ biết nghe lời.
Tất cả thiện ác đều ở trong tự tánh, v́ thế không chấp chặt cũng không xả bỏ, cũng không nhiễm trước cảnh giới thiện hay ác. Nhiễm trước cũng chính là có sự phân biệt mà chấp chặt hay xả bỏ. Tâm lượng giống như hư không, cho nên gọi là "lớn." Điều này chính là ư nghĩa của Ma ha.
Chư Thiện tri thức! Kẻ mê miệng nói, người trí ḷng làm. Lại có người mê để ḷng trống không, ngồi yên lặng chẳng nghĩ đến việc ǵ mà nói chính đây là "lớn." Với hạng người ấy, không thể nói ǵ được, v́ họ bị sa vào lưới tà kiến.
Chư Thiện tri thức! Cái tâm lượng thiệt là rộng lớn, châu biến cả thảy Pháp giới, dùng nó liền hiểu rơ ràng. Cái tâm lượng khi ứng dụng ra, th́ biết hết thảy cả sự vật. Cả thảy tức quy về một, một tức gồm hết cả thảy, tới lui thong thả, tâm thể suốt thông, không ngưng trệ, tức là Bát nhă vậy.
Giảng:
Người mê chỉ biết miệng nói mà không biết thực hành, người có trí huệ chân chánh thân hành thực tiễn mà không tu khẩu đầu thiền. Lại nữa, người mê để tâm không ngồi thiền, cái ǵ cũng không nghĩ đến mà nói đây chính là "lớn." Những người này đă lạc vào ngoan không, không nên cùng với họ giao lưu tiếp chuyện, v́ họ là tà tri tà kiến, không phải là chánh tri chánh kiến, cho nên không cần để ư đến họ.
Đại sư lại nói:
–Quư vị đều là người có trí huệ. Tâm lượng quảng đại rộng khắp pháp giới, mà pháp giới th́ không có ǵ không bao hàm. Tâm dụng rơ ràng sáng suốt, như gương soi vạn vật, vật đến th́ chiếu, vật đi th́ không; ứng dụng của nó là biết tất cả, biết tất cả tức là một, một tức là tất cả. Nó biết tự tánh có thể sanh vạn pháp, vạn pháp quy về tự tánh, tự tánh đến đi tự do. Bổn thể của tâm thông suốt, không có ngưng trệ, không có cái ǵ không thông, chính là minh bạch tất cả, không phải ngu mê, đó chính là Bát nhă.
Chư Thiện tri thức! Cả thảy trí Bát nhă đều do trong tánh ḿnh mà sanh, chớ chẳng phải do nơi ngoài mà vào. Chớ dùng lầm cái ư thức. Ấy gọi là Chân tánh tự dụng.
Một chân th́ tất cả chân. Tâm lượng th́ rộng lớn, nó chẳng theo con đường nhỏ đâu. Miệng đừng trọn ngày nói "không" mà trong ḷng chẳng tu hạnh ấy. Cũng như người phàm tự xưng ḿnh là quốc vương, mà rốt cuộc chẳng đạt được ǵ. Hạng người ấy chẳng phải là đệ tử của ta.
Giảng:
Quư vị Thiện tri thức! Nhứt thiết Bát nhă đều từ tự tánh mà sanh, không phải từ bên ngoài sanh ra, không nên giong ruổi bên ngoài t́m cầu. Cho nên, chớ dùng lầm cái tâm ư, điều này gọi là chân chánh tự dụng. Một chân th́ tất cả đều chân. Tâm lượng quảng đại, nó không chịu đi theo con đường nhỏ đâu. Lục Tổ Đại sư sợ có người chấp trước vào "không" cho nên lại nói:
–Các ông không nên suốt ngày nói "Không! Không! Bát nhă! Bát nhă!" mà tâm không tu hạnh Bát nhă này. Điều này giống như người dân thường tự phong ḿnh làm Quốc vương. Loại người này cuối cùng không đạt đến tự tánh, cũng không phải là đồ đệ của ta, v́ không nghe lời ta dạy bảo. Dạy nó không nên chấp không, nó cứ chấp không; dạy nó không được chấp có, nó cứ chấp có; dạy nó không nên có ḷng dâm dục, nó không đoạn tâm dâm dục. Nó nói: "Không hề ǵ, từ từ mà sửa đổi." Loại người này không phải là đệ tử của ta.
Chư Thiện tri thức! Sao gọi là Bát nhă? Nhà Đường gọi Bát nhă là trí huệ. Cả thảy các chỗ các nơi, trong cả thảy thời gian, niệm niệm chẳng ngu muội, thường tu hạnh trí huệ, tức là hạnh Bát nhă. Một niệm ngu muội tức là Bát nhă tuyệt. Một niệm trí huệ tức là Bát nhă sanh. Người thế gian mê muội, chẳng thấy Bát nhă. Miệng nói Bát nhă, mà trong ḷng thường ngu muội. Thường tự nói ta tu hạnh Bát nhă, niệm niệm nói "không" mà chẳng biết Chân không. Bát nhă không h́nh tướng, ấy là trí huệ tâm. Thiệt có hiểu rơ như thế, mới chính là trí Bát nhă.
Giảng:
Cái ǵ gọi là Bát nhă? Bát nhă là Phạn ngữ, đời Đường Trung Quốc dịch là trí huệ. Tại mọi nơi, bất cứ lúc nào, niệm niệm sáng suốt, niệm niệm không mê, niệm niệm không vô minh, thường dùng trí huệ xử lư mọi việc, đó chính là tu hạnh trí huệ. Nếu một niệm ngu si, Bát nhă sẽ đoạn tuyệt. Đoạn tuyệt này là ví dụ, chớ trí huệ chân chánh hoàn toàn không đoạn tuyệt, v́ trí huệ chân chánh bất sanh bất diệt, làm sao có thể đoạn tuyệt được? Ư nói lúc mê muội, Bát nhă không hiện tiền. Nếu không mê muội, không ngu si, lúc đó Bát nhă sanh khởi. Ví dụ có người nói uống rượu hút thuốc là không tốt, dùng LSD, dùng ma túy là không nên, nhưng quư vị không tin, đó gọi là Bát nhă đoạn tuyệt. Người có trí huệ th́ phải làm sao? Nếu nghe nói rằng uống rượu, hút thuốc, hút á phiện là điều không tốt, người trí bèn nhanh chóng sửa đổi, đó gọi là Bát nhă sanh. Người ngu si biết rơ ràng đó là điều không đúng nhưng vẫn cứ muốn thử.
Người thế gian rất ngu, không chỉ một người mà là rất nhiều người đều ngu si, họ tự ḿnh không biết Bát nhă, miệng thường nói trí huệ, mà tâm thường làm những việc ngu muội. Điều không nên làm mà họ vẫn cứ làm. Họ thường nói tôi tu hành trí huệ, mỗi niệm đều nói: "không" chính là Bát nhă.
Bát nhă có hai mươi loại không môn, cần phải "không" tất cả. Nhưng họ không biết cái không chân chánh, tuy hiểu một chút Kinh điển, biết tŕ một vài câu chú, tụng vài câu Kinh, nhưng tật xấu của ḿnh lại không sửa đổi, đó chính là khẩu đầu thiền. Hằng ngày nói "không" mà không biết sửa đổi tật xấu của ḿnh. Chân không có nghĩa là phải làm cho vô minh, tập khí tật xấu của ḿnh hoàn toàn đều không không, cần phải không tất cả những hành vi ngu muội không sáng suốt.
Bát nhă không có h́nh tướng, không dài ngắn vuông tṛn, hoặc xanh vàng đỏ trắng. Tâm không có vô minh, thường sanh trí huệ, trí huệ là rơ ràng sáng suốt, có thể biết pháp đúng pháp sai. Quư vị nếu có kiến giải như thế, đó mới chính là Bát nhă trí.
Sao gọi là Ba la mật? Ấy là tiếng Tây Thiên Trúc, nhà Đường gọi là đáo bỉ ngạn, nghĩa là khỏi sự sanh diệt. Tâm dính cảnh, th́ sự sanh diệt dấy lên, như nước nổi sóng, tức là thử ngạn (bờ bên này). C̣n tâm ĺa cảnh, th́ không có sự sanh diệt, như nước thường lưu thông, tức gọi là bỉ ngạn (bờ bên kia). Cho nên gọi là Ba la mật.
Giảng:
Ba la mật là tiếng Ấn Độ, Trung Quốc dịch là Đáo bỉ ngạn (đến bờ kia). Nếu giải thích rơ ràng chính là tách rời sanh diệt, không c̣n sanh diệt nữa. Cái ǵ gọi là "bỉ ngạn? " Bỉ ngạn là đối với thử ngạn (bờ bên này). Thử ngạn chính là sanh tử, bỉ ngạn là Niết Bàn. Giữa sanh tử và Niết Bàn phải trải qua cái ǵ? Trải qua biển lớn phiền năo. Phiền năo như biển cả, v́ có phiền năo cho nên có sanh tử. Nếu đoạn trừ phiền năo, th́ sanh tử chính là Niết Bàn, Niết Bàn chính là sanh tử. Nếu không có phiền năo, có sanh tử cũng chính là không có sanh tử. Chúng ta tại sao phải chịu sanh tử? Chính v́ có phiền năo. Tại sao có phiền năo? Chính là vô minh. Nhưng cái ǵ gọi là vô minh? Chính là những ǵ quư vị không hiểu rơ; nếu hiểu rơ quư vị đă có sự sáng suốt, đây chính là Bát nhă.
Nếu chấp cảnh giới, th́ có sanh diệt. Niết Bàn giống như nước, vốn không có sóng, nhưng khi có gió liền có sóng. Gió tức vô minh, sóng tức phiền năo. Nếu không chấp cảnh giống như nước không sóng, nếu không sóng sẽ đoạn tuyệt sanh tưû; đây chính là chỗ chúng ta phải nên dụng công. Quư vị nói tâm có rất nhiều tạp niệm, tạp niệm chính là sóng. Nếu không có sóng, sanh diệt sẽ đoạn trừ. Sanh diệt không có, sanh tử cũng kết thúc. Có sanh diệt gọi là thử ngạn. Ly khai cảnh giới tức không sanh diệt, giống như nước thường trôi chảy không ngừng, tức trí huệ quang minh chiếu khắp, gọi là bỉ ngạn, cho nên gọi là Ba la mật. Đoạn kinh văn này rất thực dụng, nếu quư vị ra công nghiên cứu kỹ càng th́ có thể dùng suốt đời.
Chư Thiện tri thức! Người mê muội, th́ lúc miệng niệm Bát nhă mà tâm c̣n vọng động, tư tưởng điều quấy. Nếu niệm niệm tâm thường hành Bát nhă, th́ mới gọi là Chân tánh. Biết rơ pháp ấy, th́ hiểu pháp Bát nhă. Tu hạnh ấy là tu hạnh Bát nhă. Không tu hạnh ấy tức là phàm tục. Một niệm tu hành, th́ thân ḿnh đồng như Phật.
Giảng:
Người mê chỉ biết dùng miệng niệm th́ lúc niệm trong tâm lại có vọng niệm và sanh những niệm không chánh đáng. Nếu khi niệm đều y theo Bát nhă mà tu hành, tức không làm những việc ngu muội. Đó chính là y theo chân tánh của ḿnh mà tu hành. Nếu hiểu rơ pháp này, chính là Bát nhă pháp. Bát nhă chính là không ngu si, không làm những việc mê muội. Việc mê muội có rất nhiều rất nhiều. Đó chính là những việc vốn không nên làm mà quư vị vẫn làm, nghiêm trọng nhứt là tâm dâm dục, vốn không nên làm, nhưng v́ mê muội đến, không những quên mất Bát nhă, mà Ba la mật cũng quên luôn, cứ làm theo ư ḿnh, buông lung theo dục t́nh. Phàm phu chỉ thích làm những việc mê muội mà không chịu tu Bát nhă pháp. Không làm việc ngu si chính là Bát nhă hạnh. Quư vị không tu Bát nhă hạnh, chính là phàm phu; nếu tu Bát nhă hạnh – tức đoạn dục khử ái, th́ thân ḿnh và Phật giống nhau.
Chư Thiện tri thức! Phàm phu tức là Phật, phiền năo tức là Bồ đề. Niệm trước mê muội tức là phàm phu, niệm sau giác ngộ tức là Phật. Niệm trước vướng cảnh tức là phiền năo, niệm sau ĺa cảnh tức là Bồ đề.
Giảng:
Phàm phu chính là Phật, mà Phật chính là từ phàm phu tu thành. V́ Phật lúc trước tu Bát nhă pháp, cho nên thành Phật. C̣n chúng ta tại sao vẫn là phàm phu? V́ không tu Bát nhă pháp, không tu Bát nhă hạnh, cho nên tánh đổi thành t́nh, t́nh biến thành dục, cuối cùng không thể thoát ra khỏi ṿng ái dục vô minh. Nếu có thể đem ḷng dục quy trở về bổn tánh, không giao động, không bị vô minh chuyển, đó chính là Phật. Phiền năo là Bồ đề, nếu không có phiền năo th́ cũng không có Bồ đề.
Có người nói:
–Vậy th́ không cần phải diệt trừ phiền năo, cứ để cho nó ở đó!
Nếu để nó ở đó th́ phiền năo vẫn là phiền năo. Quư vị cần phải dùng phương pháp khoa học thực nghiệm. Thực nghiệm như thế nào? Chính là phản bổn hoàn nguyên. Ví dụ ḷng bàn tay và lưng bàn tay, ḷng bàn tay là phiền năo, lưng bàn tay là Bồ đề, chỉ cần lật ngược lại tức là phiền năo hay Bồ đề, không có nhiều cũng không có ít, chỉ khác một chút như vậy – vừa lật qua lại, th́ phiền năo biến thành Bồ đề. Tôi thường nói:
Phiền năo Bồ-đề băng là nước,
Sanh tử Niết-bàn pháp tức không.
Nếu quư vị hiểu rơ th́ nhân pháp đều không, nếu không hiểu th́ vẫn c̣n pháp chấp.
Niệm trước ngu si chính là phàm phu, niệm sau khai ngộ trí huệ chính là Phật. Niệm trước chấp vào cảnh chính là phiền năo. Nếu quư vị nói chỗ này là thành phố Cựu Kim Sơn, nó không giống thành phố Nữu Ước, kỳ thực nó đều là những thành phố lớn. Nếu quư vị nói thành phố Cựu Kim Sơn không có tuyết, Nữu Ước có tuyết, đó chỉ là tâm phân biệt gây ra sai lầm! Nếu quư vị không có tâm phân biệt như thế th́ cũng không có nhiều phiền năo như vậy. Cho nên nói: "Niệm trước dính mắc cảnh giới chính là phiền năo, niệm sau ly khai cảnh giới chính là Bồ đề." Nếu phân biệt thành phố Cựu Kim Sơn và Nữu Ước không giống nhau liền có phiền năo. Nếu biết thành phố Cựu Kim Sơn và Nữu Ước đều là không, phân biệt nó làm ǵ? Không phân biệt tức là Bồ đề.
Nói th́ rất dễ, nhưng thực tế không sanh tâm phân biệt là một việc rất khó. Nếu thấu rơ được cảnh giới này th́ không có nhà, cũng không có quốc gia, cái ǵ cũng không có, đây chính là Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm màø cũng gọi là "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ thân." Quư vị có thể hiện thân đến bất cứ địa phương nào mà không có bất cứ sự chướng ngại nào, quư vị xem điều này tuyệt diệu không? Chỗ này chính là Bồ đề, quư vị hà tất phải than thở? Nếu quư vị có thể được như vậy th́ là như vậy (như thị); c̣n nếu chưa thể đạt đến cảnh giới đó, th́ từ từ luyện tập. Cho nên nói: "Tánh định ma phục triêu triêu lạc, vọng niệm bất khởi xứ xứ an." Nếu tâm tánh đă định, không c̣n nhiều vọng tưởng, th́ ngày ngày giờ giờ đều an lạc. Vọng niệm không khởi th́ nơi nơi chốn chốn đều an vui. Tại sao quư vị cảm thấy không an lạc? Tại v́ có vọng niệm, nếu không vọng niệm th́ khắp nơi mọi lúc đều là Thế giới Cực Lạc.
Chư Thiện tri thức! Pháp Ma ha Bát nhă Ba la mật là rất tôn quư, rất cao thượng, cao hơn hết các pháp, không trụ vào chỗ nào, không qua cũng không lại, tất cả chư Phật ba đời đều do trong Pháp ấy mà ra.
Các vị phải dùng đại trí huệ mà phá tan năm uẩn và các sự phiền năo trần lao. Tu hành như thế ấy, chắc là thành Phật đạo. Phải đổi ba độc thành Giới, Định, Huệ.
Giảng:
Đại sư lại nói:
–Chư Thiện tri thức! Tự tánh của các ông đều có vô lượng trí huệ, tự tánh của các ông vốn đầy đủ Ma ha Bát nhă Ba la mật, không cần phải giong ruổi bên ngoài để t́m cầu, pháp này là tối tôn cao thượng đệ nhất. Tự tánh Bát nhă không chấp vào chỗ trụ, cũng không đến, cũng không đi. Chư Phật đời vị lai, đời quá khứ, đời hiện tại đều sanh ra từ pháp tối tôn tối cao đệ nhất này. Các ông cần phải dùng đại trí huệ của ḿnh đập tan trần lao ngũ uẩn, nếu dùng tiểu trí huệ th́ đập không vỡ sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nếu không thể xem ngũ uẩn phiền năo là không, th́ không thể đoạn trần lao, cho nên muốn có Bát nhă chân chánh, cần phải chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Cho nên Tâm Kinh nói: "Quán tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhă mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không." Quư vị xem Quán tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhă Ba la mật, cần phải đa thời! Thời gian ít sẽ chiếu không nổi ngũ uẩn đều không mà trừ phiền năo trần lao. Nếu quư vị có thể tu hành như vậy nhất định có thể thành Phật đạo. Nay xem quư vị có muốn biến tham sân si thành giới định huệ hay không. Biến tức là Bát nhă, không biến tức là ngu si.
Chư Thiện tri thức! Pháp môn của ta đây do một pháp Bát nhă mà sanh ra tám muôn bốn ngàn trí huệ. Bởi cớ sao? V́ người thế gian có tám muôn bốn ngàn trần lao. Nếu không có trần lao, th́ trí huệ thường hiện ra, nhưng nó chẳng ĺa tự tánh. Hiểu rơ pháp này, th́ không có vọng niệm, không hồi ức, không dính cảnh, không sanh điều giả dối. Dùng tánh Chơn như của ḿnh, lấy trí huệ mà chiếu soi, đối với tất cả các pháp không giữ không bỏ, tức là thấy tánh, là thành Phật đạo vậy.
Chư Thiện tri thức! Muốn vào Pháp giới cao thâm cùng trí Bát nhă tam-muội, th́ phải tu hạnh Bát nhă. Phải tŕ tụng Kinh Kim Cang Bát Nhă, tức đặng kiến tánh.
Giảng:
Quư vị Thiện tri thức! Pháp môn này của tôi, từ một loại Bát nhă mà sanh vô lượng Bát nhă, từ một loại Bát nhă mà sanh tám vạn bốn ngàn trí huệ. Tại sao cần phải có tám vạn bốn ngàn trí huệ? V́ người đời có tám vạn bốn ngàn trần lao. Nếu đem trần lao biến đổi qua tức chính là Bát nhă. Nếu đem trần lao biến đi, th́ trí huệ hiện tiền, nhưng trí huệ Bát nhă không rời tự tánh. Quư vị hiểu rơ pháp này, chính là vô sở niệm, vô sở hồi ức (không hoài nhớ chuyện cũ), cũng không chấp trước, cho nên không có một chút cuống vọng, lừa dối. Dùng chân như tự tánh của chính ḿnh, dùng trí huệ quán chiếu tất cả vạn pháp, không dùng thức tâm, phân biệt tâm mà quan sát, không chấp không xả, đó chính là kiến tánh thành Phật đạo.
Nếu quư vị muốn thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải, được thấm nhuần diệu pháp và diệu định Bát nhă, cần phải tu hạnh Bát nhă, tụng niệm Kinh Kim Cang. Lục Tổ Đại sư từ Kinh Kim Cang mà khai ngộ, cho nên Ngài chủ trương mọi người cần phải niệm Kinh Kim Cang. Cần phải thọ tŕ tụng niệm không được quên. Nếu siêng năng tụng Kinh Kim Cang, th́ có thể kiến tánh.
Tụng kinh, điều quan trọng là không được vọng tưởng, không được sanh các loại tạp niệm. Trước kia có một người mỗi ngày đều tụng Kinh Kim Cang, ngày nọ nằm mộng, mơ thấy một con quỷ thỉnh ông ta tụng kinh siêu độ cho nó, giống như chúng ta mỗi năm vào ngày rằm tháng bảy siêu độ cho Cha Mẹ trong quá khứ vậy. Người đó bèn hỏi quỷ cần phải tụng bao nhiêu kinh? Quỷ nói: "Chỉ tụng một quyển kinh là được rồi." Người này hôm sau bèn bắt đầu tụng, lúc tụng đến một nửa, người hầu của ông ta đưa đến một tách trà, ông ta khoát tay trong tâm nói "không cần" rồi tiếp tục niệm kinh. Tối đó quỷ lại đến nói: "Ông đă hứa tụng kinh cho tôi, nhưng sao chỉ tụng có một nửa, c̣n một nửa chưa tụng?"
Người này trả lời:
–Rơ ràng tôi đă tụng cho ngươi một quyển kinh rồi.
Quỷ nói:
–Đúng là ông tụng một quyển kinh, nhưng giữa chừng có hai chữ "không cần," là không cần công đức tụng kinh nửa phần sau, v́ thế tụng kinh nửa phần sau không có công đức.
Người này nghĩ rằng: "Tôi không cần trà, không phải không cần kinh. Nhưng lúc tụng kinh nghĩ đến hai chữ không cần, quỷ thần cho rằng ḿnh không cần công đức. Đại khái công đức tụng kinh bị quỷ thần tự lấy đi hết rồi. Sau đó người này nói: "Được rồi, tôi sẽ tụng cho ngươi một quyển kinh nữa." Ngay đêm hôm đó, quỷ này hoan hỷ khấu đầu đảnh lễ ông ta, cám ơn ông ta đă giúp đỡ tụng kinh siêu độ ḿnh.
Cho nên quư vị tụng Kinh Kim Cang không nên có tạp niệm thêm vào hai chữ "không cần", thí dụ như: "Tu Bồ Đề, không cần," th́ Ngài Tu Bồ Đề liền chạy mất. Tụng Kinh Kim Cang có cảm ứng rất lớn, có thể kiến tánh.
Phải biết công đức của kinh ấy thiệt là vô lượng vô biên. Những lời khen ngợi trong kinh rất rơ ràng, không thể nói ra hết được. Pháp môn ấy là pháp tối thượng thừa, v́ người đại trí, v́ người thượng căn mà nói. Các người tiểu căn tiểu trí nghe pháp môn ấy, ḷng nghi ngờ chẳng tin là bởi cớ sao? Tỷ như các vị Thiên Thần và Long Thần làm mưa xuống cơi Diêm-phù-đề, th́ tất cả thành, ấp, làng, xóm, đều nổi trôi như lá táo. C̣n nếu mưa xuống biển cả, th́ thấy chẳng thêm chẳng bớt. Cũng như người Đại thừa người tối thượng thừa nghe Kinh Kim Cang, th́ tâm liền khai ngộ. Thế nên biết rằng Bổn tánh tự nó có trí Bát nhă. Bởi Bổn tánh ḿnh lấy trí huệ sáng soi, cho nên chẳng cần dùng văn tự. Tỷ như nước mưa chẳng phải do trời làm mà có, nguyên bởi sức rồng dấy động mà sanh ra, khiến cho cả thảy loài hữu t́nh, các loài vô t́nh, tất cả đều được thấm nhuần. Cả thảy sông ng̣i đều chảy vào biển cả, hiệp làm một thể. Cái trí Bát nhă của Bổn tánh chúng sanh cũng giống như thế.
Giảng:
Quư vị cần phải biết công đức của Kinh Kim Cang vô lượng vô biên. Trong kinh tán thán công đức thù thắng của Kinh Kim Cang rất rơ ràng, tôi nay không cần nói nhiều. Kinh Kim Cang này là pháp môn tối thượng thừa, thuyết cho người đại trí huệ, thuyết cho người có đầy đủ thiện căn. Người kém thiện căn, kẻ ít trí huệ nghe đến Kinh này, tâm không tin mà nói rằng: "Tụng Kinh có chỗ nào hay. Các ông không ăn cơm xem có thể sống được không?" Tại sao họ không tin? Giống như rồng trên trời giáng mưa xuống cơi Diêm phù đề, v́ mưa to, thành quách thôn ấp đều bị ch́m trong ḍng nước lớn, ngọn cỏ lá cây bị cuốn trôi đi. Nếu như mưa rơi ngoài biển lớn th́ không tăng không giảm. Người kém căn ít trí cũng giống như ngọn cỏ lá cây, có mưa lớn th́ sẽ bị úng chết, v́ họ không tin tưởng pháp đại thừa.
Nếu người có căn tánh đại thừa, nghe thuyết Kinh Kim Cang, tâm tức khai ngộ, hiểu rơ Bát nhă vốn tự tánh đầy đủ. Những người này thường dùng trí huệ của chính ḿnh quán chiếu, cho nên không nhất định cần phải học cho thật cao mới có thể nhận thức trí huệ Bát nhă. Giống như nước mưa, không phải từ trên trời sẵn có, mà là rồng làm mây giáng mưa, khiến cho mọi loài chúng sanh, thảo mộc, hữu t́nh vô t́nh, đều được nước mưa thấm ướt mà sanh sôi nảy nở. Tất cả suối khe sông ng̣i đều chảy về biển lớn, hợp thành nhất thể. Trí huệ Bát nhă của chúng sanh cũng giống như mưa rơi ngoài biển lớn. Biển chính là bổn tánh trí huệ của mỗi người chúng ta, bất luận mưa bao nhiêu, nó cũng không tăng không giảm. Cho nên nói: "Phật pháp như biển lớn, chỉ có ḷng tin mới có thể vào, chỉ có trí huệ mới có thể độ," nếu không có trí huệ th́ không dễ dàng vào được biển cả mênh mông bao la.
Chư Thiện tri thức! Người tiểu căn nghe pháp Đốn giáo nầy ắt là điên đảo. Cũng như loài cỏ cây gốc rễ nhỏ yếu, nếu bị một trận mưa to, chắc đều ngă rạp, không thể lớn lên được. Nguyên người tiểu căn có trí Bát nhă cũng như người đại trí, không có chỗ ǵ khác. Nhưng bởi cớ sao họ nghe pháp, mà tâm chẳng mở mang tỏ sáng? V́ bởi nghiệp chướng của tà kiến c̣n nặng, cái gốc rễ của sự phiền năo c̣n thâm sâu. Cũng như một đám mây lớn che ám mặt trời, nếu chẳng được luồng gió thổi, th́ ánh sáng mặt trời không hiện ra được.
Cái trí Bát nhă vốn không lớn nhỏ, chỉ v́ cái tự tâm của chúng sanh mê ngộ chẳng đồng mà thôi. Ḷng mê chỉ thấy bề ngoài, tu hành t́m Phật mà chưa tỏ sáng Bổn tánh của ḿnh, tức là người tiểu căn. Hiểu rơ pháp Đốn giáo tu hành mà không chấp bề ngoài, trong tâm ḿnh thường khởi chánh kiến, những sự phiền năo trần lao thường chẳng nhiễm Bổn tâm ḿnh tức là thấy tánh.
Giảng:
Người kém thiện căn, nghe đến pháp môn đốn giáo dùng tâm ấn tâm, trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật, giống như cây cỏ có căn tánh nhỏ, nếu gặp phải mưa lớn liền tróc gốc, nghiêng ngă trên mặt đất, không thể sanh trưởng. Mưa vốn giúp cây cối sanh trưởng, tiếc v́ gốc rễ không cắm sâu vào ḷng đất cho nên không thọ dụng được. Người có thiện căn kém cũng giống như vậy. Trí huệ Bát nhă của người trí và người ngu vốn không có ǵ sai khác, chỉ khác một người biết dùng, một người không biết dùng mà thôi. Tại sao người kém căn kém trí nghe đến Phật pháp mà không khai ngộ? V́ tà kiến vô minh sâu dầy, không sanh ḷng tin, chướng ngại thánh đạo. Giống như thái dương bị mây đen che khuyất, gió thổi không tan, cho nên ánh dương quang không xuất hiện. Ánh dương quang tức là tự tánh Bát nhă của quư vị, mây đen chính là phiền năo và tà kiến của quư vị.
Trí huệ Bát nhă cũng không có sự phân biệt lớn nhỏ. V́ chúng sanh tập khí sâu dầy, tạo nghiệp nặng, cho nên mê mờ. Nếu tập khí không sâu dầy, nghiệp tạo tác không nặng th́ sẽ khai ngộ. Người mê cầu pháp hướng bên ngoài giong ruổi t́m cầu, mà không biết tự tánh Bát nhă vốn đầy đủ tự tánh Phật, bên ngoài t́m Phật càng t́m kiếm càng xa rời. Không hiểu rơ bổn tánh của chính ḿnh, đây chính là người tiểu căn.
Nếu có thể nghe pháp môn đốn giáo mà lập tức khai ngộ, không chấp trước, không giong ruổi t́m cầu bên ngoài, tự tánh tự ngộ, tự ḿnh hiểu rơ tự tánh Bát nhă, trong tâm của ḿnh thường khởi lên chánh tri chánh kiến, có trí huệ chân chánh, th́ không khởi lên phiền năo; nếu không có phiền năo, tự nhiên không có trần lao, đó chính là kiến tánh, v́ nó không bị phiền năo trần lao xoay chuyển.
Chư Thiện tri thức! Tâm ḿnh trong ngoài chẳng trụ, lui tới tự do, bỏ đặng ḷng chấp trước, suốt thông không trở ngại, tu trọn các hạnh ấy, th́ đối với kinh Bát nhă vốn không có chỗ nào sai khác.
Giảng:
Tu Bát nhă hạnh, cần phải không trụ bên trong, không trụ bên ngoài, bên trong không thân tâm, ngoài không thế giới. Nhưng cũng không phải là ngoan không, mà là bên trong không chấp thân tâm, bên ngoài không chấp thế giới. Nếu quư vị không chấp trong ngoài th́ có thể đến đi tự do, biết từ đâu đến và đi về đâu. Lai có thể nói là trở về, trở về thân tâm của quư vị; Khứ là đi đến pháp giới. Tuy có đến có đi, nhưng quư vị không nên chấp trước vào cái đến cái đi này, v́ thế gọi là tự do. Nếu quư vị chấp trước lai khưù, th́ không c̣n tự do, có sự chướng ngại. Đến đi tự do, cũng có thể nói tâm của quư vị đến đi tự do, tánh của quư vị đến đi tự do, cũng có thể nói là sanh tử tự do. Tôi muốn sống th́ sống, tôi muốn chết mới chết, đó mới là tự do. Nếu tôi không muốn sống th́ chết, nhưng đó không phải là tự sát, v́ ḿnh đă biết ḿnh chết như thế nào, ngồi ở đó cũng như nhập vào thiền định, như thế mà ra đi, đó không phải tự do là ǵ? Nếu không tự do th́ ra đi không được. Tại sao Tam Tổ tay nắm cành cây mà viên tịch nhập Niết Bàn? Chính v́ Ngài sanh tử tự do, đó cũng chính là đến đi tự do. Nếu tôi muốn sống th́ vĩnh viễn bất tử không chết, muốn chết th́ lập tức ra đi. Đến đi trong lúc nói cười, liền có thể văng sanh.
Giống như Pháp sư Đạo Sanh, phần đông mọi người đều phản đối khi Ngài giảng Kinh Niết Bàn, v́ Ngài chủ trương xiển-đề (icchantikas) cũng có Phật tánh. Lúc đó mọi người đều cho rằng tư tưởng của Ngài là sai lầm, mọi người đều "mặc tẩn" (1) Ngài. Cho nên Ngài phát nguyện nói: "Nếu tôi giảng kinh khế hợp Phật pháp, Phật tâm, th́ sau này tôi ngồi trên pháp ṭa thuyết pháp mà văng sanh. Nếu giảng không hợp Phật tâm, th́ lời nguyện này không được cảm ứng." Ngài ở núi Hổ Khâu giảng kinh cho đá nghe mà đá cũng phải gật đầu, tiếp nhận đạo lư của Ngài giảng là chính xác. Cho nên nói: "Sanh công thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu (Pháp sư Đạo Sanh thuyết pháp, đá cứng cũng phải gật đầu)." Sau này lúc Ngài giảng kinh, đang giảng đến chỗ sâu sắc mầu nhiệm bèn trên pháp ṭa văng sanh. Quư vị thấy có tuyệt diệu không?
Có người nói:
–Bạch Pháp sư, nay Ngài giảng kinh rất hạp ư con, con không muốn chấp trước, không muốn giữ ǵn quy cũ. Ngài nếu muốn mọi người giữ ǵn quy luật chính là chấp trước.
Nghĩ như vậy là sai rồi, nói trừ chấp trước, là muốn quư vị trừ đi tâm chấp trước, bỏ đi những việc không đúng. Những việc đúng chẳng thể không chấp trước. Giống như giữ ǵn quy luật th́ mới có thể thành Phật, cho nên nói: Thị đạo tất tiến, phi đạo tất thối, không phù hợp đạo th́ không nên chấp trước, hợp với đạo th́ cần nên tŕ tụng không quên. Tŕ tụng có thể là chấp trước, nhưng tŕ tụng Kinh Kim Cang lại là tu hành.
Nếu tôi có tật xấu mà không muốn sửa đổi, cũng không muốn người biết, đó mới chính là chấp trước. Nếu tôi có tật xấu, người bên cạnh biết tôi cũng không màng, người khác khuyên cũng không đếm xỉa đến, đây không phải là không chấp trước mà là tà tri tà kiến. Nếu có loại tà tri tà kiến như thế, càng tu càng rời Phật pháp càng xa.
Nếu quư vị có thể rời bỏ chấp trước, th́ có thể thông đạt vô ngại, không c̣n chướng ngại, nếu tu hành như thế, th́ khế hợp với đạo lư Kinh Kim Cang, Bát nhă trí huệ hiện tiền, bằng không th́ không phù hợp diệu lư Bát nhă.
Chư Thiện tri thức! Cả thảy các Tu-đa-la, và các thứ văn tự đại thừa, Tiểu thừa, mười hai phần kinh đều bởi cơ duyên của nhơn loại mà bày ra, cùng do tánh trí huệ mới kiến lập được. Nếu không có người thế gian, th́ cả thảy muôn pháp vốn tự nhiên không có. Cho nên biết rằng muôn pháp vốn bởi nhơn loại mà khởi ra, cả thảy kinh sách đều bởi nhơn loại mà nói ra, nên mới có. Trong loài người có kẻ ngu người trí: Ngu làm tiểu nhơn. Trí làm đại nhơn. Người ngu học hỏi nơi người trí. Người trí nói pháp cho người ngu nghe, người ngu bỗng nhiên tỏ hiểu, tâm địa mở mang, tức nhiên giống như người trí không khác.
Giảng:
Tu-đa-la (Sutra) là tiếng Phạn, Trung Quốc dịch là Kinh, kinh là "trên th́ khế lư Chư Phật, dưới th́ khế hợp căn cơ chúng sanh." V́ khế lư khế cơ, cho nên gọi là khế kinh. Toàn bộ kinh điển cùng với văn tự Đại thừa Tiểu thừa, mười hai phần kinh (tức trường hàng, trùng tụng, thọ kư, cô khởi, vô vấn tự thuyết, nhân duyên, tỷ dụ, bổn sự, bổn sanh, phương quảng, vị tằng hữu và luận nghị) đều v́ người mới có những kinh điển này, nếu không có nhân loại th́ sẽ không dùng đến kinh điển. V́ tánh trí huệ mới có thể kiến lập tất cả các pháp. Tất cả những việc phiền năo trên thế gian, đều do người mà sanh. Nếu không có người, việc phiền năo ǵ cũng không có. V́ có những việc phiền năo phát sanh, cho nên mới sanh ra những pháp dạy quư vị cách diệt trừ phiền năo. Người có tám vạn bốn ngàn trần lao, v́ thế Phật thuyết tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị, cho nên nói: "Phật thuyết nhất thiết pháp, vị độ nhất thiết nhân. Nhược vô nhất thiết nhân, hà dụng nhất thiết pháp?" Tất cả các kinh sách đều v́ người mà nói. Nếu không có người, tất cả kinh sách cũng không dùng đến. V́ trong loài người, có người ngu có người trí. Người ngu si giống như trẻ con; người có trí huệ giống như người lớn, trẻ con có những việc không hiểu cần phải hỏi người lớn, người lớn bèn giải thích cho nghe. Lúc trẻ con ngộ giải tâm khai, hiểu rơ mọi việc này, th́ cũng giống như người có trí huệ.
Chư Thiện tri thức! Tâm không giác ngộ, Phật là chúng sanh. Một niệm giác ngộ, chúng sanh tức là Phật. Cho nên biết rằng muôn pháp đều ở nơi Bổn tâm của ḿnh. Vậy sao chẳng do trong bổn tâm của ḿnh mà thấy liền cái Chân như Bổn tánh?
Giảng:
Nếu không khai ngộ, Phật cũng là chúng sanh. Nếu trong một niệm thời gian ngắn ngủi hoát nhiên khai ngộ, chúng sanh tức là Phật. Đây cũng chính là "Giác giả Phật dă, mê giả chúng sanh (Giác là Phật, mê là chúng sanh)." Một niệm giác một niệm Phật, niệm niệm giác niệm niệm Phật. Một niệm mê một niệm là chúng sanh, niệm niệm mê niệm niệm là chúng sanh. Cái ǵ gọi là giác ngộ? Tức giác ngộ t́nh dục là những thứ nguy hại, làm tổn thương đến thân thể và khiến cho quư vị ngu si. Một niệm dục chính là một niệm ngu, niệm niệm dục chính là niệm niệm ngu si, cho nên nói: "Nghiệp hết t́nh không là chân Phật, nghiệp nặng t́nh mê là chúng sanh." Phải buông bỏ những tâm niệm ô nhiễm, ngoài cách này ra không c̣n cách nào hết. Tâm niệm ô nhiễm chính là dục niệm, nói rơ hơn, chính là niệm dâm dục. Nếu thân làm những niệm dâm dục này, chính là thân nghiệp không thanh tịnh. Nếu miệng nói việc ỷ ngữ, th́ khẩu nghiệp không thanh tịnh. Nếu tâm thường nghĩ đến việc dâm dục, th́ ư nghiệp không thanh tịnh. Nếu thân khẩu ư đều không phạm, th́ ngày thành Phật không xa. Người đời thường đi ngược với sự giác ngộ, hiệp với trần lao. Hiệp với trần ǵ? Chính là hiệp với những thứ trần ô nhiễm không thanh tịnh. Nếu một khi quư vị rơi vào lưới dục t́nh th́ sẽ bị ô nhiễm. Nếu ly khai t́nh dục, mới có thể rời xa ô nhiễm. Cho nên nói: quay lưng với trần lao chính là hiệp với sự giác ngộ, quay lưng với giác ngộ chính là lăn lộn trong trần lao. Nếu quư vị ô nhiễm th́ không được thanh tịnh, không được thanh tịnh th́ không thể thành Phật. Nếu muốn thanh tịnh th́ không nên ô nhiễm. Ô nhiễm tức là chúng sanh, đó là đạo lư rất rơ ràng. Nhưng cần phải có một vài trợ duyên giúp quư vị thanh tịnh, điều quan trọng là không nên có tâm ích kỷ. Có tâm ích kỷ th́ không thể thanh tịnh. Nếu tất cả đều không v́ cá nhân, th́ sẽ thanh tịnh, v́ quư vị không c̣n ḷng tham, ḷng sân, ḷng nghi, ngă kiến, đó chính là ngộ. Cho nên nói: một niệm ngộ, chúng sanh thành Phật.
Có người hỏi:
–Có phải mọi người đều là Phật?
Đúng vậy, nhưng cần phải khai ngộ mới được, nếu không khai ngộ th́ giống như đoạn trước nói một người dân b́nh thường, tự xưng là Quốc vương, nếu bị nhà vua thật biết sẽ bắt nó đem nhốt vào ngục, v́ người này phao tin nhảm làm mê hoặc dân chúng, muốn tạo phản, cho nên nói: "Trời không có hai mặt nhựt, một nước không có hai vua."
Cho nên mới biết tất cả vạn pháp vốn từ trong tâm sanh ra, như vậy tại sao không từ trong tâm tu hành? Tự tâm chỉ cần bỏ đi những tâm niệm ô nhiễm, bụi bặm, th́ có thể lập tức nh́n thấy Chân như tự tánh.
Kinh Bồ Tát Giới có nói rằng: "Cái Bổn nguyên tự tánh của ta vốn trong sạch. Nếu biết tâm ḿnh và thấy tánh ḿnh, th́ thành Phật đạo." Kinh Tịnh Danh nói: "Tức thời tâm trí thông suốt, th́ phục hồi đặng Bổn tâm."
Giảng:
Kinh Bồ Tát Giới nói: "Bổn lai tự tánh thanh tịnh không có ô nhiễm, nếu nhận thức được bổn tâm của ḿnh mà nh́n thấy tự tánh, th́ ai cũng có thể thành Phật."
Quư vị nh́n thấy tự tánh quư vị thành Phật, tôi nh́n thấy tự tánh tôi thành Phật, nó nh́n thấy tự tánh nó thành Phật, điều này thật là b́nh đẳng.
Kinh Tịnh Danh tức là Kinh Duy Ma, nói: "Lập tức hoát nhiên khai ngộ, nhận thức được bản tâm của chính ḿnh, bèn nhận thức được bổn lai diện mục."
Chư Thiện tri thức! Lúc ta ở với Ḥa Thượng Hoằng Nhẫn, một khi nghe pháp rồi, liền tỏ sáng, liền thấy Chơn như Bổn tánh. Bởi vậy, ta mới đem pháp Đốn giáo nầy mà lưu hành, khiến cho các người học đạo liền tỏ sáng Bồ đề, mỗi người tự xem Bổn tâm ḿnh và tự thấy Bổn tánh ḿnh.
Giảng:
Lục Tổ Đại sư nói:
–Quư vị Thiện tri thức! Nghe pháp của tôi các ông có thể khai ngộ được không? Tôi ở với Ḥa Thượng Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, vừa nghe pháp môn đốn ngộ liền lập tức khai ngộ. Tôi là một người quê mùa không có tri thức, sanh nơi biên địa, được gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại sư.
V́ Lục Tổ là đồ đệ của Ngũ Tổ, cho nên không thể trực tiếp xưng tên của sư phụ, cho nên nói Nhẫn Ḥa thượng. Ngũ Tổ rất là bực tức v́ muốn truyền pháp mà bị những người dưới của Ngài áp bức, họ muốn Ngài truyền pháp cho Thần Tú. Quư vị xem một vị Ḥa Thượng ngay việc truyền pháp cũng không có tự do, bị người khống chế, đó có đáng giận hay không? Cho nên Nhẫn Ḥa Thượng nhẫn đă rất lâu, sau đó có một người "cạt lăo" đến chỗ Ḥa Thượng cầu pháp, Ngài nghĩ thầm: "Ta muốn truyền pháp cho người quê mùa này, người này một chữ cũng không biết, nhưng ta không buồn để ư tới các ông làm ǵ!" V́ thế đêm khuya canh vắng Ngũ Tổ truyền pháp cho Lục Tổ.
Mà Lục Tổ thật là một người tri âm, Ngài vừa nghe pháp liền lập tức khai ngộ. Ngũ Tổ truyền pháp cho Lục Tổ, hoàn toàn không phải v́ tức giận mà truyền cho người quê mùa không biết chữ này, mà là v́ người không biết chữ này là người thông minh nhất. Người này vừa nghe liền lập tức khai ngộ mà bạch rằng: "Tự tánh vốn thanh tịnh, tự tánh là quang minh, tự tánh là không dao động, tự tánh vốn diệu huyền như thế!" Ngũ Tổ nghe xong bèn chấp nhận truyền pháp cho Lục Tổ.
Lục Tổ nói với đại chúng:
–Tôi nay đem pháp môn đốn giáo lưu truyền khắp mọi nơi, khiến cho người học đạo đốn ngộ Bồ đề, lập tức giác ngộ bổn tâm, kiến tự bổn tánh.
Nếu tự ḿnh chẳng tỏ sáng, th́ phải t́m bực đại Thiện tri thức rơ pháp tối thượng thừa chỉ ngay con đường Chánh giác cho ḿnh. Bực Thiện tri thức ấy có nhơn duyên lớn là lo về việc giáo hóa và tiếp dẫn cho người đặng thấy tánh. Cả thảy các thiện pháp đều do Thiện tri thức mà được phát khởi. Cả thảy chư Phật trong ba đời, mười hai phần kinh, ở trong tánh con người tự nhiên có đủ. Nhưng tự ḿnh không thể hiểu rơ được, nên phải cầu bực Thiện tri thức chỉ bày cho mới thấy.
Giảng:
Nếu quư vị không thể tự ḿnh khai ngộ, cần phải đi t́m một vị Minh nhăn Thiện tri thức, v́ vị Thiện tri thức này đă từng trải qua sự giác ngộ, cho nên nói: Dục tri sơn tiền lộ, tu vấn qua lai nhân, qua lai nhân là người đă trải qua, đă từng đi qua rồi. Nếu không hỏi đường nơi người đă từng đi qua rồi, mà hỏi nơi người mù, như thế càng đi càng lạc đường, càng ngày càng xa đạo.
Tham vấn vị đại Thiện tri thức, giải thích pháp môn tối thượng thừa, chỉ thị con đường chánh. Quư vị và vị Thiện tri thức mắt sáng ấy nhất định có nhân duyên lớn mới có thể gặp nhau. Gọi là Thiện tri thức, có nghĩa là hóa đạo nhất thiết chúng sanh, khiến cho chúng sanh hiểu rơ bổn tánh của chính ḿnh, nh́n thấy bản tâm của ḿnh. Tất cả thiện pháp, đều do có Thiện tri thức mới có thể sanh ra. Nhứt thiết thiện căn cũng là do vị Thiện tri thức hằng ngày chăm bón, vun tưới, thành tựu cho, giống như quư vị gặp được Thiện tri thức ngày ngày thuyết pháp giáo hóa cho, đều là tăng trưởng thiện căn của quư vị. Hết thảy Chư Phật ở thời quá khứ, thời hiện tại, thời vị lai, và mười hai phần kinh, trong tự tánh mỗi người vốn đều có đầy đủ, không phải t́m cầu bên ngoài. Nhưng nếu quư vị không hiểu rơ th́ cần phải hỏi Thiện tri thức chỉ thị diệu thể tự tánh thanh tịnh bổn lai của ḿnh, như thế quư vị mới có thể nh́n thấy bổn tánh của chính ḿnh.
Nếu tự ḿnh hiểu rơ, th́ chẳng cần cầu nơi ngoài. Nếu một mực cố chấp rằng phải cầu bực Thiện tri thức, mới mong đặng giải thoát, th́ không có lư như vậy. Bởi cớ sao? Bởi trong tâm ḿnh đă sẵn có cái cơ tri thức tự ngộ. Nếu tâm ḿnh khởi tà mê, vọng niệm, điên đảo, th́ dầu ngoài có Thiện tri thức truyền dạy, cũng không thể cứu được. Bằng tâm ḿnh khởi chơn chánh, trí Bát nhă thường chiếu soi, th́ trong một sát-na, các điều vọng niệm đều dứt hết. Nếu biết Bổn tánh ḿnh, vừa một niệm giác ngộ th́ liền đến cơi Phật.
Giảng:
Tự ḿnh nếu có thể hiểu rơ, th́ không cần nương tựa vào ai hoặc bất cứ cái ǵ, hoặc giong ruổi t́m cầu ở bên ngoài. Nếu lúc trước thường hay chấp trước, dựa dẫm vào sự chỉ dạy của Thiện tri thức mới có thể giải thoát, th́ điều này th́ không đúng. Chúng ta cần phải tự tánh tự ngộ, khai thác sử dụng trí tuệ Bát nhă vốn đầy đủ của chính ḿnh. Tại sao? Bởi v́ tự tánh ḿnh vốn có sẵn đại Thiện tri thức chân chánh. Đây cũng là trí huệ chân chánh của quư vị, có thể tự ḿnh hiểu rơ. Nếu tự ḿnh sanh ra tà kiến mê lầm, tà chính là không chân chánh, mê chính là không hiểu rơ. Ví dụ, không hiểu rơ là tà mê, sai lầm, ví như một vài sở thích không tốt: đánh bạc th́ có sự tà mê của đánh bạc, hút thuốc th́ có sự tà mê của hút thuốc, háo sắc th́ có sự tà mê của háo sắc, người thích uống rượu th́ có sự tà mê của uống rượu. Những loại tà mê này không nên cho rằng không có ǵ nghiêm trọng, v́ nghĩ rằng nó không quan trọng cho nên càng mê càng đắm, từ mê ít trở thành mê nhiều, do mê nhiều mà vẫn cho rằng không sao hết, bèn biến thành cái lăo mê, cái lăo mê lại cho rằng không sao hết nên biến thành cái tử mê, đến chết vẫn c̣n chưa hiểu rơ. Thật là tội nghiệp! Chính v́ do một niệm tà mê ban đầu gây ra.
Vọng niệm chính là những niệm không chân, không thật, không thực tại, chỉ là hư vọng, vọng tưởng. Điên đảo chính là hiểu rơ việc này không đúng mà cứ làm, lại căi chày căi cối cho nó là đúng. Những điều quư vị ưa thích tuy không hợp với Phật pháp nhưng vẫn làm theo ư ḿnh, đó là điên đảo. Không những chính quư vị làm như vậy mà c̣n ảnh hưởng đến người khác học theo tánh xấu của quư vị, đây là điên đảo. Người muốn học Phật pháp nhất định cần phải không điên đảo, không tà mê mới có chỗ thành tựu. Tuy có thầy sáng, bạn hiền giáo hóa, nếu quư vị không nghe, họ cũng không có cách nào giúp được. Thiện tri thức không giống cảnh sát thấy quư vị không tôn trọng pháp luật, liền bắt đem bỏ vào tù. Thiện tri thức không có nhà tù. Nếu quư vị không nghe lời dạy bảo, vị Thiện tri thức vẫn hy vọng quư vị từ từ sửa đổi những lỗi lầm quay về con đường thiện lành. Đối với những chúng sanh biết nghe lời, Thiện tri thức cũng không sanh ḷng hoan hỷ; đối với những chúng sanh không nghe lời giáo hóa, Thiện tri thức cũng không v́ đó mà phiền năo tức giận, trong tâm chỉ có chút buồn bă, không vui lắm mà thôi.
Nếu quư vị từ trong tự tánh sanh ra trí huệ Bát nhă chơn chánh (chánh là không tà, chơn là không vọng), dùng lưỡi kiếm trí huệ Bát nhă chặt đứt tất cả tà mê vọng niệm, điên đảo, th́ trong thời gian rất ngắn, tất cả các vọng niệm đều tiêu sạch giống như tuyết gặp phải ánh mặt trời soi vào tan biến đi. Nếu quư vị nhận thức bổn tánh chân thực của chính ḿnh, vừa khai ngộ th́ lập tức đến đất Phật. Nếu không nhận thức, vừa khởi lên niệm tà mê liền lập tức đến chỗ quỷ ma ở. Khai ngộ chính là dùng kiếm trí huệ chặt đứt tà kiến mê lầm, thấu suốt hiểu rơ vạn pháp, cho nên nói: Giác giả Phật dă, mê giả chúng sanh.
Chư Thiện tri thức! Cái trí huệ thường chiếu soi, trong ngoài đều sáng tỏ, th́ biết rơ Bổn tâm của ḿnh. Biết rơ Bổn tâm tức là giải thoát, tức là Bát nhă tam muội. Bát nhă tam muội tức là vô niệm. Sao gọi là vô niệm? Biết thấy tất cả các pháp mà ḷng không nhiễm vương, dính mắc, ấy là vô niệm. Cái tâm khi ứng dụng liền biến khắp tất cả các nơi mà chẳng dính vương vào các nơi ấy. Giữ Bổn tâm ḿnh trong sạch, khiến sáu thức ra ngoài sáu cửa, đối với sáu trần, mà ḷng không nhiễm vương, dính mắc, không lộn xộn, lui tới tự do, thông dụng không ngăn trở, tức là Bát nhă Tam muội, cũng là Tự tại Giải thoát, cũng là hạnh vô niệm.
Giảng:
Quư vị dùng trí huệ vốn có của ḿnh quán chiếu, th́ thế giới trong tâm ngoài thân giống như lưu ly, bên trong có thể nh́n thấy bên ngoài, bên ngoài có thể nh́n thấy bên trong, đó chính là cảnh giới "trong không thân tâm, ngoài không thế giới." Tuy không có thân tâm, không có thế giới; nhưng thế giới và thân tâm lại rất rơ ràng đích xác, tuy rơ ràng đích xác mà không chấp trước, đó gọi là thức tự bổn tâm, biết rơ bổn tâm của ḿnh. Bổn lai tự tánh thân tâm th́ trong ngoài đều thấu triệt, nếu biết rơ được bổn tâm liền được giải thoát, tức không chấp trước trần lao vọng tưởng. Nếu được giải thoát, đó chính là định của tự tánh Bát nhă. Định chính là vô niệm. Vô ư thức là giới, vô niệm chính là định, không c̣n vọng tưởng vọng niệm, đó chính là hueä. Vô ư, vô niệm, vô vọng chính là giới, định, huệ. Giới, định, huệ hiện tiền th́ tham, sân, si không c̣n nữa.
Vô niệm là ǵ? Chính là tâm không nhiễm trước vạn pháp, tức là pháp không. Pháp đă không rồi, sao quư vị vẫn chấp trước những tập khí tật xấu? Tập khí không trừ bỏ, chỉ nói không nhiễm trước vạn pháp, vậy th́ quư vị nói ra một cái không nhiễm trước xem? Pháp c̣n không có, huống chi những tập khí tật xấu? Kinh Kim Cang nói: "Pháp c̣n phải bỏ huống hồ là phi pháp." Những tập khí tật xấu không buông bỏ vậy th́ từ trong Phật pháp quư vị học được những ǵ? Đây là dối ḿnh lừa người. Người học Phật pháp, chính là cần phải trừ bỏ những tật xấu, nếu chỉ biết nói vài câu, một chút sở dụng cũng không có, chính là hành vi của kẻ ngu si.
Vô niệm là không nhiễm trước, là chánh niệm, cũng chính là Bát nhă tam muội.
Bát nhă tam muội này – hay Định, có thể vận dụng để biến chiếu khắp nơi, giống như hư không, nhưng không chấp trước một chỗ nào. Trong tâm không có chỗ chấp trước, khiến cho lục thức (nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư) đi ra khỏi cửa lục căn (nhăn môn, nhĩ môn, tỷ môn, thiệt môn, thân môn, ư môn) trong lục trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), không nhiễm trước cũng không tạp niệm. Khiến cho lục thức không tùy theo cảnh giới lục trần xoay chuyển, cho nên nói: "Mắt thấy h́nh sắc tâm không động, tai nghe việc đời tâm không vọng." Nếu quư vị không rơ, cần phải siêng năng tu học Phật pháp. Đến đi tự do, thông dụng vô trệ, lúc này thiên biến vạn hóa, vạn hóa thiên biến, ứng dụng vô cùng mà không có chỗ tŕ trệ chướng ngại, đó là định của Bát nhă, cũng gọi là tự tại giải thoát, cũng là vô niệm hạnh.
Bằng đối với mọi vật, ḷng không nghĩ đến, khiến cho niệm tưởng dứt đi, tức là bị pháp ràng buộc. Ấy gọi là biên kiến.
Giảng:
Nếu như quư vị nói: "Tôi ngồi ở đây không nghĩ đến việc ǵ, khiến cho niệm đoạn tuyệt." Nhưng quư vị vẫn c̣n một niệm "khiến cho niệm đoạn tuyệt," tức lại bị pháp phược. Không những không thể giải thoát mà c̣n bị pháp trói buộc. Đó gọi là biên kiến, rơi vào hai bên, không phải là trung đạo.
Chư Thiện tri thức! Hiểu rơ pháp vô niệm th́ suốt thông muôn pháp. Hiểu rơ pháp vô niệm th́ thấy cảnh giới của chư Phật. Hiểu rơ pháp vô niệm th́ đạt đến địa vị của Phật.
Giảng:
Hiểu rơ pháp vô niệm, hoàn toàn không phải làm giống như tro tàn, cây khô. Vô niệm chính là muốn quư vị có định lực, không có tà niệm, mà phải thường sanh chánh niệm. Người ngộ th́ tất cả vạn pháp đều hiểu rơ. Hiểu rơ pháp vô niệm th́ có thể hiểu rơ cảnh giới Chư Phật. Nếu chưa hiểu rơ, th́ không thể nói đă ngộ pháp vô niệm. Không giống như bọn người kia, ngay cả ngũ trùng huyền nghĩa hay thất chủng lập đề đều không hiểu rơ, bất chấp sự sai sót của ḿnh, đi khắp nơi giảng kinh, lường gạt những người không hiểu Phật pháp. Nếu chỉ y theo những bổn dịch Anh văn mà đọc, th́ ai cũng biết đọc. Nhưng, giảng kinh là cần phải phân tích nghĩa lư của kinh, quán triệt thông đạt nghĩa lư và tông chỉ của mỗi chữ mỗi câu mỗi chương mỗi bài, để có thể giải thích một cách viên dung vô ngại.
Nếu có thể hiểu rơ pháp vô niệm, th́ có thể đạt đến địa vị của Phật. Đến Kim Sơn Thánh Tự nghe kinh thuyết pháp, đều là người đến, không phải là kiến. Người đến nghe pháp tuy không nhiều, nhưng đều cần phải học Phật pháp, đừng giống như con kiến đi t́m đồ ngon ngọt mà ăn. Đến đây học Phật pháp là nếm mùi khổ cực, cay đắng, không phải nơi để t́m mật ngọt mà ăn.
Chư Thiện tri thức! Đời sau người nào đắc pháp của ta, cùng với những người đồng kiến đồng hành, đem pháp môn Đốn giáo nầy, phát nguyện thọ tŕ như là thờ Phật, trọn đời không thối chuyển, th́ chắc vào ngôi Thánh. Nhưng cách truyền thọ, phải do theo ư chỉ của các vị Tổ Sư từ đời trước tới nay, mà mặc truyền phú chúc cho rơ ràng, chẳng đặng ém dấu chánh pháp của các Ngài. C̣n các người không đồng kiến đồng hành hoặc ở trong pháp môn khác, th́ chẳng nên truyền thọ, v́ tổn hại đến các vị Tổ Sư đời trước, mà rốt cuộc không có ích ǵ (cho người sau), bởi sợ e có người ngu muội chẳng hiểu, rồi đem ḷng chê bai pháp môn nầy mà phải đoạn tuyệt hột giống Phật tánh của họ trong muôn đời ngàn kiếp.
Giảng:
Lục Tổ Đại sư làm sao có thể thành Tổ Sư? V́ Ngài không khinh thường người ít học. Lúc Ngài ở nơi Ngũ Tổ Đại sư, những người ở đây phần đông đều khinh thường Ngài là người quê mùa lại không biết chữ, chỗ nào cũng bị người khinh mạn, v́ thế Ngài thông cảm nỗi khổ của người bị khinh mạn. Cho nên Ngài đối với những người Thiện tri thức hoặc không phải là Thiện tri thức đều xưng tụng họ là Thiện tri thức.
Ngài nói:
–Sau này những người đắc pháp của tôi, nếu có thể đem pháp môn đốn giáo này cùng với những người có kiến giải giống nhau, cùng nhau t́m cầu chân lư, cùng nhau phát nguyện thọ tŕ pháp môn này, như ḷng thành cúng dường mười phương Chư Phật, suốt đời mà không thối chuyển, th́ nhất định sẽ thành Thánh quả. Lưu truyền pháp môn này, giống như Đức Thích Ca Mâu Ni Phật truyền cho Ngài Ca Diếp, sau đó truyền cho A Nan, cho đến Bồ Đề Đạt Ma Tổ thứ hai mươi tám Thiên Trúc (Sơ Tổ Trung Quốc), Nhị Tổ, Tam Tổ, cho đến Lục Tổ, cần phải đời đời mặc mặc tương truyền, phân phú pháp môn tâm ấn, không nên đem chánh pháp giấu đi không truyền mà lại truyền tà pháp.
Đối với những người kiến giải bất đồng, tu hành không giống nhau hoặc là những người ngoại đạo th́ không nên truyền pháp môn tâm ấn này, v́ sẽ làm tổn hại đến các vị Tổ Sư đời trước, và tương lai cũng không có ích dụng ǵ, v́ sợ rằng những người ngu không hiểu rơ chơn đạo vô thượng vi diệu mà hủy báng pháp môn đốn giáo này, th́ trăm ngàn kiếp đoạn chủng tánh Phật.
Thính ngô tụng viết:
Thuyết thông cập tâm thông,
Như nhật xử hư không.
Duy truyền kiến tánh pháp,
Xuất thế phá tà tông.
Pháp tức vô đốn tiệm,
Mê ngộ hữu tŕ tật.
Chỉ thử kiến tánh môn,
Ngu nhân bất khả tất.
Thuyết tức tuy vạn ban,
Hợp lư hoàn quy nhất.
Phiền năo ám trạch trung,
Thường tu sinh tuệ nhật.
Tà lai phiền năo chí,
Chánh lai phiền năo trừ.
Tà chánh câu bất dụng,
Thanh tịnh chí vô dư.
Bồ đề bổn tự tánh,
Khởi tâm tức thị vọng.
Tịnh tâm tại vọng trung,
Đản chánh vô tam chướng.
Thế nhân nhược tu đạo,
Nhất thiết tận bất pḥng.
Thường tự kiến kỷ quá,
Dữ đạo tức tương đương.
Sắc loại tự hữu đạo,
Các bất tương pḥng năo.
Ly đạo biệt mích đạo,
Chung thân bất kiến đạo.
Ba ba độ nhất sinh,
Đáo đầu hoàn tự áo.
Dục đắc kiến chân đạo,
Hạnh chánh tức thị đạo.
Tự nhược vô đạo tâm,
Ám hành bất kiến đạo.
Nhược chân tu đạo nhân,
Bất kiến thế gian quá.
Nhược kiến tha nhân phi,
Tự phi khước thị tả.
Tha phi ngă bất phi,
Ngă phi tự hữu quá.
Đản tự khước phi tâm,
Đả trừ phiền năo phá.
Tắng ái bất quan tâm,
Trường thân lưỡng cước ngọa.
Dục nghĩ hóa tha nhân,
Tự tu hữu phương tiện.
Vật linh bỉ hữu nghi,
Tức thị tự tánh hiện.
Phật pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian giác.
Ly thế mích Bồ đề,
Kháp như cầu thố giác.
Chánh kiến danh xuất thế,
Tà kiến thị thế gian.
Tà chánh tận đả khước,
Bồ đề tánh uyển nhiên.
Thử tụng thị đốn giáo,
Diệc danh đại pháp thuyền.
Mê văn kinh lụy kiếp,
Ngộ tắc sát na gian.
Chư Thiện tri thức! Ta có một bài tụng "Vô Tướng," các ông nên tụng đọc. Người tại gia hay xuất gia cũng phải y theo bài tụng nầy mà tu hành. Nếu tự ḿnh chẳng tu, mà chỉ nhớ lời ta nói, th́ cũng không có ích ǵ. Hăy nghe ta tụng...
Giảng:
Quư vị Thiện tri thức! Tôi có một bài kệ Vô Tướng, các ông cần nên tụng niệm, bất luận là người tại gia, hay người xuất gia đều có thể y theo bài kệ tụng này tu hành. Nếu không tự ḿnh thực hành, tự ḿnh tu hành, chỉ ghi nhớ bài kệ mà tôi nói th́ không có ích lợi ǵ.
Thuyết thông cập tâm thông,
Như nhật xử hư không.
Duy truyền kiến tánh pháp,
Xuất thế phá tà tông.
Thuyết thông tâm cũng thông,
Như mặt nhựt trên không.
Chuyên truyền pháp thấy tánh,
Xuất thế phá tà tông.
Thuyết thông, tức là hiểu rơ giảng kinh thuyết pháp. Tâm thông tức là tông thông, tông môn Thiền tông, thông đạt pháp môn tâm địa. Quư vị hiểu rơ giảng kinh thuyết pháp, cũng hiểu rơ tham thiền tu đạo. Cảnh giới này, cũng giống như thái dương trên hư không, không chỗ chấp trước mà ánh sáng chiếu khắp mọi nơi. Pháp môn mà tôi truyền chính là muốn quư vị có thể minh tâm kiến tánh. Quư vị minh tâm th́ không có việc ǵ khó, kiến tánh rồi th́ không c̣n lo âu. Hiểu rơ bổn lai diện mục, mới là hiểu rơ Phật pháp. Pháp môn này chuyên giảng những đạo lư xuất thế, là tôn chỉ phá trừ bàng môn tả đạo, ngoại đạo.
Pháp tức vô đốn tiệm,
Mê ngộ hữu tŕ tật.
Chỉ thử kiến tánh môn,
Ngu nhân bất khả tất.
Pháp vốn không đốn tiệm,
Mê ngộ có chậm mau.
Chỉ môn thấy tánh ấy,
Kẻ muội chẳng kham vào.
Pháp vốn không có sự sai khác của đốn và tiệm, nhưng đối với người mê cần phải dạy cho họ pháp môn tiệm tu, đối với người trí th́ có thể dạy họ pháp môn đốn ngộ, cho nên người mê chậm một chút, người có căn tánh lanh lợi th́ có thể khai ngộ nhanh một chút.
Sao gọi là đốn giáo? Tôi hôm nay nói cho quư vị những lời chân thật. Lời nói thật th́ không thể nói nhiều, mà nói ít th́ sợ rằng quư vị không tin, huống chi là nói nhiều quư vị càng không tin nữa. V́ không ai thích nghe những đạo lư thật, cũng không ai thích tu hành một cách chân thật nên tôi không có cách nào nói chơn pháp cho quư vị. Tôi đành phải đợi cơ hội, hôm nay cơ hội đă đến, v́ giảng đến bài kệ này th́ đạo lư chân thật (mà tôi muốn nói) liền được công bố tỏ rơ ra.
Đốn pháp là ǵ? Đốn chính là bảo quư vị phải đoạn. Đoạn cái ǵ? Đoạn ḷng dâm dục. Quư vị có thể làm được không? Quư vị không tin à! Điểm này chính là mấu chốt quan trọng. Cần phải mau chóng đoạn trừ vô minh, vô minh cũng chính là ḷng dâm dục. Vậy, có đoạn được không? Nếu đoạn không được, quư vị đừng nghĩ đến việc nghe chân pháp. Nếu quư vị có thể đoạn, th́ có thể đắc được pháp môn đốn giáo. Tiệm có nghĩa là chậm, nếu đoạn không được, không thể buông bỏ th́ biến thành tiệm. Người thông minh, chỉ thị một chút họ liền có thể đoạn. Người ngu si, bỏ không được, buông không xong, dù có thuyết pháp cho họ nghe, họ cũng không tin tưởng pháp môn đốn giáo này. Cho nên b́nh thường tôi không nói. Nếu quư vị có ḷng tin tưởng th́ sớm đă thành Phật rồi!
V́ quư vị không tin tưởng, cho nên đến hôm nay vẫn c̣n xoay chuyển măi trong ṿng luân hồi lục đạo. Quư vị muốn luân chuyển th́ cứ việc luân chuyển, không có ai có thể ép buộc được.
Mê và ngộ chỉ là vấn đề nhanh chậm mà thôi, quư vị nay không đoạn, sau này thành Phật nhứt định phải đoạn. Quư vị nay không muốn làm Phật cho nên không muốn đoạn. Đốn pháp này là cửa kiến tánh. Nếu quư vị có thể đoạn trừ ḷng dâm dục th́ có thể minh tâm kiến tánh. Không nên giảng pháp này cho người ngu si nghe, họ không thể hiểu được, dù quư vị giảng cho họ nghe, họ cũng không tin tưởng đâu.
Thuyết tức tuy vạn ban,
Hợp lư hoàn quy nhất.
Phiền năo ám trạch trung,
Thường tu sinh tuệ nhật.
Nói tuy có muôn thứ,
Lư hợp một không hai.
Phiền năo trong nhà tối,
Thường phải sanh huệ nhật.
Giảng nói đạo lư có rất nhiều cách, nhiều phương pháp. Và đạo lư nói ra nhiều đến muôn ngàn. Nhưng bao nhiêu pháp môn cũng đều để đối trị phiền năo, vô minh. Nếu hiệp về cội nguồn, th́ chỉ có một đạo lư căn bản, tức là đốn pháp này, chính là pháp dạy quư vị đốn đoạn vô minh mà hiển hiện pháp tánh. Phiền năo giống như ở trong pḥng đen tối. Nếu quư vị có trí huệ, th́ giống như ánh sáng mặt trời chiếu sáng huy hoàng.
Tà lai phiền năo chí,
Chánh lai phiền năo trừ.
Tà chánh câu bất dụng,
Thanh tịnh chí vô dư.
Tà sanh phiền năo dấy,
Chánh đến năo phiền tan.
Chánh tà đều chẳng dụng,
Thanh tịnh chứng Niết Bàn.
Tà lai, chính là ḷng dâm dục phát sanh, phiền năo tự nhiên theo đó phát sanh. Không nên cho rằng nó là niềm vui hay happiness. Nó chính là căn bổn của phiền năo. Chánh có nghĩa là trí huệ Bát nhă, vô minh đă bị phá vỡ, phiền năo sẽ bị diệt trừ. Lúc tà chánh đều không có, đó chính là Vô dư Niết Bàn. Tà chánh mà ở đây nói đến đều không dùng. Có người nói: "Tà cứ để cho nó tà, chánh cứ để cho nó chánh, không màng đến nó!" Không màng đến, th́ quư vị vẫn ở trong pḥng tối đen. Tà chánh đều không dùng — nghĩa là đă vượt qua rồi, đă là người từng trải, cho nên tà cũng không có, chánh cũng không tồn tại. Tại sao có chánh? V́ có tà nên mới hiển chánh. Tại sao có tà? V́ có chánh nên mới hiển tà. Lúc tà chánh đều không có, đó chính là Vô dư Niết Bàn thanh tịnh.
Bồ đề bổn tự tánh,
Khởi tâm tức thị vọng.
Tịnh tâm tại vọng trung,
Đản chánh vô tam chướng.
Bồ đề là tự tánh,
Tâm động tức vọng mông.
Tịnh tâm trong chỗ vọng,
Thường chánh ba chướng vong.
Bồ đề tự tánh không nên t́m cầu bên ngoài, v́ trí huệ Bát nhă tự tánh vốn đầy đủ. Quư vị vừa khởi tâm động niệm th́ chính là vọng niệm. Bổn lai thanh tịnh vô dư Niết Bàn th́ không có tất cả niệm, nó là vô ư, vô niệm, vô vọng. Vô ư chính là giới cụ túc, vô niệm là định cụ túc, vô vọng là huệ cụ túc. Cho nên tâm tịnh ở trong vọng, giống như trong băng có nước, trong nước cũng có thành phần của băng đá. Nếu thường tu hành chánh pháp sẽ rời được tam chướng – nghiệp chướng, báo chướng, phiền năo chướng. Nghiệp chướng tức là những nghiệp chướng đă tạo làm chướng ngại. Báo chướng tức là thân thọ quả báo mà gây chướng ngại. Phiền năo chướng tức là tất cả phiền năo làm chướng ngại ḿnh.
Thế nhân nhược tu Đạo,
Nhất thiết tận bất pḥng.
Thường tự kiến kỷ quá,
Dữ Đạo tức tương đương.
Người đời nếu tu đạo,
Pháp nào cũng vô ngại.
Thường tự thấy lỗi ḿnh,
Cùng đạo tức tương ưng.
Người thế gian nếu muốn tu đạo, pháp môn nào cũng có thể thành tựu đạo nghiệp, nếu quư vị chân chánh hiểu rơ chánh pháp, th́ đi đứng nằm ngồi đều có thể tu hành. Đầu tiên quư vị phải nh́n thấy những lỗi lầm của chính ḿnh, không nên chỉ nh́n thấy những cái sai của người khác, giống như gương soi chỉ soi bên ngoài, mà không thể tự ḿnh hồi quang phản chiếu. Không nên nh́n thấy những lỗi lầm của người khác, mà không tự hỏi ḿnh có thể giữ ǵn trong sạch ngũ giới hoặc có khởi lên các vọng tâm tà niệm hay không. Nếu có thể thường thấy lỗi của ḿnh, th́ tương ưng với đạo, mà không đi ngược với đạo.
Bài kệ này nếu ghi nhớ vào ḷng th́ trọn đời thọ dụng không cùng. Lục Tổ Đại sư nói hay quá, vừa đơn giản vừa rơ ràng, mọi người đều dễ dàng hiểu được. Nếu có thể hiểu được ư này th́ đối với việc tu đạo có rất nhiều lợi ích.
Sắc loại tự hữu đạo,
Các bất tương pḥng năo.
Ly đạo biệt mích đạo,
Chung thân bất kiến đạo.
Sắc loài tự có đạo,
Hỗ tương nào năo ngại,
Ĺa đạo mà t́m đạo,
Chung thân đạo khó vào.
Sắc tức là hữu h́nh hữu tướng. Nếu trong cái sắc hữu h́nh hữu tướng này, quư vị có thể hiểu rơ, khai ngộ, đoạn trừ ái dục, mà không chấp vào sắc tướng, tự nhiên sẽ có đạo, không cần phải rời đạo mà đi t́m đạo bên ngoài. Nếu quư vị nhận biết, mà không bị nó làm cho mê mờ, đó chính là "đôi bên không bị phiền năo chướng ngại." Nếu quư vị rời đạo mà t́m đạo ở bên ngoài, đây là việc vô ích, cho nên nói "Kiến sự tỉnh sự xuất thế gian, kiến sự mê sự đọa trầm luân." Nh́n sự việc mà tỉnh ngộ sự việc gọi là xuất thế, nếu gặp sự việc mà sanh tà kiến, kiến hoặc th́ gọi là đọa lạc.
Đến với đạo, nhưng quư vị đang tu đạo ǵ? Tức là từ sáng đến tối những việc ḿnh làm đều như pháp, không làm những việc bất chánh, sai lầm, đó chính là ḿnh tu đạo. C̣n nếu ly khai những việc thường ngày mà t́m cầu đạo bên ngoài th́ không bao giờ quư vị t́m được đạo.
Ba ba độ nhất sinh,
Đáo đầu hoàn tự áo.
Dục đắc kiến chân đạo,
Hạnh chánh tức thị đạo.
Bôn ba qua một kiếp,
Rốt cuộc năo phiền c̣n.
Muốn thấy nền chơn đạo,
Hạnh chánh ấy đạo chơn.
Ba ba có nghĩa là khổ cực, quư vị khổ cực suốt một đời, đến già bèn hối hận. Lúc đó tự than tự trách: "Ôi, tôi đă để thời gian trôi qua một cách vô ích, để hôm nay trong ḷng tràn ngập hối hận ăn năn. Nếu tôi không uống nhiều rượu như thế, th́ làm sao ngu muội đến chừng này? Nếu tôi một đời không đánh bạc th́ làm sao nghèo đến nước này. Cuộc đời của tôi, nếu có người đến khuyên nhắc tôi, tôi cũng có thể tu hành mà, không đến nỗi gặp phải cảnh như hôm nay! Nhưng v́ không gặp được Thiện tri thức, dù có gặp Thiện tri thức cũng không nhận biết."
Dù Thiện tri thức có dạy bảo, quư vị cũng xem như gió thoảng bên tai, cũng không có sửa đổi những tập khí tật xấu của ḿnh. Cho nên cuối cùng vẫn là tự ḿnh hối hận mà thôi.
Quư vị muốn gặp được đạo chân chánh, cần phải nỗ lực tinh tấn tu hành, không nên chứa chấp tà niệm, không nên chỉ nh́n thấy lỗi lầm của người, tát nước lạnh vào sự nhiệt t́nh của kẻ khác, tật đố chướng ngại, chỉ v́ sợ người khác giỏi hơn ḿnh.
Tự nhược vô đạo tâm,
Ám hành bất kiến đạo.
Nhược chân tu đạo nhân,
Bất kiến thế gian quá.
Đạo tâm ḿnh chẳng có,
Làm quấy đạo ĺa xa,
Người thật ḷng hành đạo,
Lỗi đời khá bỏ qua.
Nếu tự ḿnh không có đạo tâm, không tu đạo, chỉ biết làm những việc tội lỗi, không dám cho người khác biết, th́ đó không phải là đạo. Người chân chánh tu đạo không nh́n thấy những lỗi lầm của người thế gian. Có người nói:
–Nay thời mạt pháp quá xấu xa, đă không c̣n Phật pháp. Dù có tu hành cũng không chứng quả.
Tại sao quư vị không chứng quả? Pháp vốn không mạt, không có tà không có chánh. Nếu quư vị tu tŕ chánh pháp, th́ đó là thời đại chánh pháp. Nếu không nh́n thấy lỗi lầm của thế gian, nh́n thấy mọi người đều là Phật, th́ ḿnh chính là Phật. Nếu nh́n thấy tất cả chúng sanh đều là ma, th́ ḿnh cũng là ma. Cho nên nói: "Nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá (nếu là người chân chánh tu hành học đạo th́ không nh́n thấy lỗi lầm của kẻ khác)."
Nhược kiến tha nhân phi,
Tự phi khước thị tả.
Tha phi ngă bất phi,
Ngă phi tự hữu quá.
Nếu thấy người lầm lỗi,
Ấy ḿnh lỗi chẳng sai.
Người lỗi, ta không lỗi,
Ta lỗi bởi chê bai.
Nhược kiến tha nhân phi, chính là nh́n thấy người khác không đúng. Tự phi khước thị taû, nếu biết người khác có lỗi lầm, th́ bản thân ḿnh cũng lầm lỗi. Hăy nh́n Đức Phật: Ngài có thấy lỗi lầm của ai không? Phật nh́n tất cả chúng sanh đều là Phật. Quư vị không nên cùng người khác làm việc sai lầm. Nếu nh́n thấy cái sai của người khác th́ chính ḿnh cũng tự có phần tham gia vào đó, chính ḿnh cũng đă sai lầm. Người khác sai lầm, nhưng ḿnh không nên sai lầm, không nên nh́n thấy cái sai lầm của người khác mà cần phải phát huy tâm đại từ đại bi. Đối với bất cứ người nào, ta cũng nên có tâm từ bi, thương xót chúng sanh mà phát nguyện độ họ thành Phật.
Đản tự khước phi tâm,
Đả trừ phiền năo phá.
Tắng ái bất quan tâm,
Trường thân lưỡng cước ngọa.
Hăy trừ ḷng tưởng quấy,
Phiền năo phá tiêu tan.
Ghét yêu đừng để dạ,
Duỗi cẳng nghỉ thanh nhàn.
Nếu trừ đi những tâm niệm sai lầm của ḿnh, th́ phiền năo không c̣n nữa.
Tắng ái bất quan tâm: Tắng có nghĩa là ghét bỏ, ái tắng đều là một loại t́nh cảm. Người tu đạo cần phải chân chánh dụng tâm từ bi thương xót tất cả chúng sanh, phát nguyện độ tất cả chúng sanh thành Phật. Nếu chúng sanh không thành Phật tôi nguyện cũng không thành Phật. Hôm nay có người quy y. Sau khi quy y rồi cần phải giữ ǵn giới luật. Người tin Phật không nên có những hành vi sai lầm trước kia, nếu không như vậy người ta sẽ nói: "Người đó tin Phật mà vẫn làm những điều sai lầm như lúc trước." Điều đó khiến cho người chung quanh không tin Phật. Cho nên tôi phát nguyện, phàm những người quy y tôi, nếu không thành Phật, tôi sẽ đợi họ, khi nào họ thành Phật tôi mới thành Phật. V́ tôi không c̣n cách nào khác, chỉ có phát nguyện đợi quư vị thành Phật. Người nào sau khi quy y rồi, cần phải mau mau tu hành, không nên để tôi phải đợi chờ. Tôi chờ đợi các vị lâu quá tôi cũng chán ngán, lúc đó tôi sẽ không muốn đợi nữa.
Trường thân lưỡng cước ngọa: Duỗi thẳng đôi chân nằm ngủ, đây thật hợp với những người làm biếng. Nhưng câu này không phải dạy chúng ta nằm ngủ, mà là biểu thị sự tự do, không bị ràng buộc, không bị chướng ngại, đó mới có thể rời xa điên đảo đạt cứu cánh Niết Bàn. Không nên nghe Lục Tổ dạy rằng "Trường thân lưỡng cước ngọa" bèn suốt ngày nằm ngủ là không đúng.
Dục nghĩ hóa tha nhân,
Tự tu hữu phương tiện.
Vật linh bỉ hữu nghi,
Tức thị tự tánh hiện.
Muốn toan lo độ thế,
Phương tiện phải sẵn sàng.
Chớ để người nghi hoặc,
Tự tánh mới quang minh.
Nếu muốn giáo hóa chúng sanh, th́ tự ḿnh phải có pháp môn phương tiện quyền xảo, đối với chúng sanh nào th́ phải biết thuyết những pháp môn nào, không nên chấp trước, không nên khiến chúng sanh sau khi nghe pháp khởi ḷng nghi hoặc, đó chính là tự ḿnh phải biết vận dụng tự tánh của chính ḿnh, từ đó tự tánh trí huệ quang minh của ḿnh sẽ hiển hiện.
Phật pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian giác.
Ly thế mích Bồ đề,
Kháp như cầu thố giác.
Phật pháp ở trần thế,
Không ĺa thế gian giác.
Bỏ đời t́m đạo chánh,
Sừng thỏ kiếm sao ra.
Phật pháp là ǵ? Phật pháp cũng chính là pháp thế gian, pháp xuất thế cũng chính là Phật pháp. Thế gian pháp là những pháp thế tục thông thường, mà Phật pháp là pháp tại thế gian mà lại xuất thế gian, thế nên nói Phật pháp tại thế gian không rời khỏi trí huệ Bát nhă của thế gian. Nếu rời khỏi thế gian đi t́m Bồ đề, điều này cũng giống như muốn thỏ mọc sừng, th́ không bao giờ có được, đi bất cứ nơi nào cũng không thể t́m kiếm ra.
Chánh kiến danh xuất thế,
Tà kiến thị thế gian.
Tà chánh tận đả khước,
Bồ đề tánh uyển nhiên.
Chánh kiến là xuất thế,
Tà kiến ấy thế gian,
Chánh tà đều phá hết,
Giác tánh hiện rơ ràng.
Có chánh kiến, đó gọi là pháp xuất thế. Chánh kiến chính là giác ngộ: ḷng dâm dục của ḿnh cần phải đoạn trừ. Tà kiến chính là cho rằng có thể tùy thuận theo dục vọng mà khiến cho nó phát triển: loại tà tri tà kiến, cái dục tâm này gọi là pháp thế gian. Tà chánh đều bị quét sạch, lúc đó tánh Bồ đề sẽ hiện tiền, mà không phải giong ruổi bên ngoài t́m tánh Bồ đề.
Thử tụng thị đốn giáo,
Diệc danh đại pháp thuyền.
Mê văn kinh lụy kiếp,
Ngộ tắc sát na gian.
Tụng này là Đốn giáo,
Cũng kêu đại Pháp thuyền.
Mê, nghe kinh lũy kiếp,
Ngộ, thấy Phật tâm liền.
Tôi nay thuyết bài kệ là pháp môn đốn giáo, là pháp môn thành Phật. Đoạn kệ này cũng có thể gọi là con thuyền pháp lớn, có thể chuyên chở tất cả chúng sanh từ bờ sanh tử bên này, vượt qua ḍng phiền năo mà đến bờ Niết Bàn bên kia. Nếu quư vị mê hoặc không hiểu rơ, th́ cần phải trải qua một thời gian rất dài mới có thể khai ngộ; c̣n nếu quư vị không thể đốn ngộ, th́ hăy buông bỏ tất cả dục niệm. Như thế trong một sát-na ngắn ngủi, quư vị liền có thể khai ngộ mà nhận thức một cách chân chánh.
Đại sư lại nói: "Nay tại chùa Đại Phạm, ta nói pháp Đốn giáo nầy, phổ nguyện chúng sanh trong Pháp giới, vừa nghe pháp rồi, đều liền thấy tánh thành Phật."
Lúc ấy Vi Thứ sử và các viên quan, chức sắc, cùng với các người đạo, tục, nghe Đại sư nói pháp, cả thảy đều giác ngộ, đồng làm lễ một lượt mà khen rằng: "Hay thay! Nào dè ở xứ Lănh Nam có Phật ra đời!"
Giảng:
Lục Tổ Đại sư lại nói:
–Tôi nay giải thuyết pháp môn đốn ngộ tại Chùa Đại Phạm, tôi cũng phát nguyện, nguyện pháp giới chúng sanh, lúc giảng bài kệ tụng này, tất cả đều kiến tánh thành Phật.
Lúc đó Thứ sử Vi Cừ cùng với quan viên, đạo sĩ, cư sĩ nghe Lục Tổ Đại sư nói bài tụng Vô Tướng xong, mọi người đều phản tỉnh khai ngộ, và đồng thời hướng về Lục Tổ Đại sư đảnh lễ tạ pháp, hoan hỷ tán thán:
–Hay thay! Hay thay! Thật không ngờ xứ Lĩnh Nam quê mùa lại có Phật ra đời.
o0o
|