PHẬT NÓI KINH PHỔ DIỆU
Hán dịch: Đời Tây Tấn, Pháp sư Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt chỉ
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
-o0o-
QUYỂN VIII
Phẩm 25: MƯỜI TÁM PHÉP QUYỀN BIẾN
|
Số 0186
PHẬT NÓI KINH PHỔ DIỆU 8 Quyển
MỤC LỤC
Quyển I
Phẩm 1: Bàn Về Giáng Thần
Phẩm 2: Thuyết Pháp Môn
Phẩm 3: Hiện H́nh Voi
Quyển II
Phẩm 4: Giáng Thần Ở Trong Thai
Phẩm 5: Khi Sắp Sinh Ứng Hiện Ba Mươi Hai Điềm Lành
Quyển III
Phẩm 6: Vào Miếu Trời
Phẩm 7: Thị Hiện Học Chữ
Phẩm 8: Ngồi Dưới Gốc Cây Xem Cày Ruộng
Phẩm 9: Vua Bạch Tịnh Chọn Vợ Cho Thái Tử
Phẩm 10: Thi Tài Nghệ
Phẩm 11: Bốn Lần Dạo Xem
Quyển IV
Phẩm 12: Xuất Gia
Phẩm 13: Bảo Xa Nặc Thắng Ngựa
Quyển V
Phẩm 14: Ba Môn Học Khác
Phẩm 15: Sáu Năm Siêng Tu Khổ Hạnh
Phẩm 16: Rồng Ca Lâm
Phẩm 17: Vời Ma
Quyển VI
Phẩm 18: Hàng Phục Ma Quân
Phẩm 19: Thiền Tư Hành Đạo
Phẩm 20: Chư Thiên Chúc Mừng Phật Thành Đạo
Quyển VII
Phẩm 21: Quán Sát Cây
Phẩm 22: Thương Nhân Dâng Bánh
Phẩm 23: Phạm Thiên Khuyến Thỉnh Thuyết Pháp
Phẩm 24: Câu Lân
Quyển VIII
Phẩm 25: Mười Tám Phép Quyền Biến
Phẩm 26: Phật Đến Nước Ma Kiệt Đà
Phẩm 27: Giáo Hóa Xá Lợi Phất Và Mục Kiền Liên
Phẩm 28: Ưu Đà Da
Phẩm 29: Khen Ngợi Phật
Phẩm 30: Chúc Lụy |
|
Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Như Lai khi ấy chuyển pháp luân giáo hóa nhóm năm người; Câu-lân kia xong, lại nghĩ: “Gần đây c̣n có nhóm ông Ưu-vi Ca-diếp rất có tiếng tăm, nhà vua, dân chúng rất tôn sùng, ông có năm trăm đệ tử. Ta nay trước hết muốn đến đó giáo hóa khiến cho thầy tṛ ông hiểu được đạo pháp, rồi sau đó lần lượt nhiếp phục”. ]
Nghĩ như vậy xong, Đức Thế Tôn liền đi đến chỗ của thầy tṛ Ca-diếp. Ca-diếp thấy Đức Phật đi đến, đứng dậy đón rước và chào hỏi:
-Thật quư hóa thay được Đại Đạo Nhân đến thăm, Ngài có được khỏe không?
Đức Phật trả lời:
Không bệnh rất lợi
Biết đủ rất giàu
Có ḷng rất thân
Vô vi rất an.
Ca-diếp thưa:
-Chẳng hay Đại Đạo Nhân có ǵ dạy bảo?
Phật đáp:
-Tôi muốn thưa một điều, xin Ngài đừng giận, cảm phiền cho tôi được nghỉ tạm qua đêm nơi đền thờ lửa của Ngài.
Ca-diếp thưa:
-Thưa Ngài, không thể được, v́ đền thờ lửa hiện đang có một con Độc long ở trong đó, sợ nó sẽ làm hại Ngài.
Phật bảo:
-Không lo. Độc long không hại Ta.
Và Phật lại hỏi mượn đến lần thứ ba, Ca-diếp mới bằng ḷng.
Phật liền tắm rửa rồi đi vào đền thờ lửa. Ngài lấy nệm trải trên đất, vừa ngồi được giây lát, rồng liền nổi giận, từ trong thân tuôn ra khói, Phật cũng tuôn ra khói. Rồng càng giận dữ, toàn thân tuôn ra lửa. Phật cũng hiện thần thông, toàn thân tuôn ra lửa sáng rực. Lửa của rồng và lửa của Phật khi ấy đều rất mạnh nên thạch thất bị cháy rụi. Khói lửa tuôn ra như hiện tượng hỏa hoạn.
Ca-diếp ban đêm dậy xem các tinh tú, thấy đền thờ lửa bị cháy rụi, than:
Đáng tiếc thay! Vị đại Sa-môn này đoan chánh, bởi không tin lời ta nên bị lửa làm hại!
Phật biết tâm ư Ca-diếp nhưng khi đó Ngài đang dùng đạo lực hàng phục rồng. Rồng hết khí lực, liền tự quy phục:
Phật bảo rồng:
-Ư ngươi muốn quy phục th́ phải tự chui vào trong b́nh bát của Ta.
Rồng liền chui vào trong b́nh bát của Phật, Phật để nguyên trong bát.
Ca-diếp thấy lửa cháy rất sợ hăi, bảo năm trăm đệ tử mỗi người đem một b́nh nước đến để diệt lửa nhưng mỗi người đem đến một b́nh đầy nước lại trở thành một b́nh đầy lửa. Thầy tṛ càng sợ hăi, đồng nói:
-Than ôi! Độc long đă giết hại vị Sa-môn này mất rồi!
Sáng hôm sau, Đức Phật đem b́nh bát có đựng con Độc long từ đền thờ lửa đi ra. Ca-diếp thấy Phật rất vui mừng thưa:
-Đại Đạo Nhân c̣n sống đó ư? Vật ǵ ở trong b́nh bát của Ngài vậy?
Phật đáp:
-Thạch thất bị đốt cháy, nhưng Ta được an ổn. Độc long ở trong b́nh bát này, có thể chứng minh Độc long bị hại. Nay Ta đă hàng phục Độc long và Độc long đă thọ giới.
Ca-diếp cho ḿnh đă đắc đạo, c̣n Phật chưa đắc đạo nên quay lại nói với các đệ tử:
-Vị Đại Sa-môn này tuy có thần thông nhưng không bằng ta. Ta đă đắc đạo quả A-la-hán.
Phật lại dời đến gần chỗ của Ca-diếp và ngồi dưới một gốc cây. Ban đêm, Tứ Thiên vương đến dưới gốc cây nghe kinh, ánh sáng của Tứ Thiên vương sáng như lửa lớn. Ca-diếp ban đêm dậy xem khí hậu, thấy lửa, sáng ngày đi đến chỗ Phật, hỏi:
-Ngài cũng thờ lửa ư?
Phật đáp:
-Không, đêm qua Tứ Thiên vương tự xuống nghe kinh, ánh sáng đó là của họ đấy.
Đức Phật ngồi dưới gốc cây. Khi ấy Thiên đế Thích lại đến nghe kinh, ánh sáng cửa Thiên đế Thích rực rỡ hơn ánh sáng trước. Ca-diếp xem khí hậu thấy ánh sáng rất lớn đó trong ḷng nghĩ: “Sa-môn tiếp tục công việc thờ lửa”. Sáng ngày hỏi Phật:
-Ngài có thể bảo là Ngài không thờ lửa được ư?
Đức Phật đáp:
-Không! Đêm qua Thiên đế Thích xuống nghe kinh, ánh sáng đó là của họ đấy.
Qua đêm sau, Phạm thiên lại xưống nghe kinh. Ánh sáng của Phạm thiên lại sáng gấp bội ánh sáng của Đế Thích. Ca-diếp ban đêm dậy xem khí hậu, thấy ánh sáng rực rỡ, sáng ngày đến hỏi Phật.
-Theo tôi nghĩ, Ngài cũng thờ lửa vậy.
Đức Phật đáp:
-Không. Đêm qua Phạm thiên xuống nghe kinh. Đó là ánh sáng của ông ta.
Năm trăm người đệ tử của Ca-diếp thờ ba thứ lửa, nhân lên thành một ngàn năm trăm ngọn lửa. Sáng ngày họ nhen lửa, lửa tuyệt nhiên không cháy, rất lấy làm lạ, đi đến hỏi thầy. Thầy nói: “Đây là do vị Sa-môn làm ra như vậy”. Họ liền cùng nhau đi đến hỏi Phật:
-Chúng tôi thờ lửa, nay đốt lửa sao không cháy?
Đức Phật dạy:
-Muốn cho lửa cháy ư?
Thưa:
-Xin cho lửa cháy.
Đức Phật dạy:
-Hăy đốt lên, lửa sẽ cháy ngay.
Sau khi đốt lửa cháy rồi, Ca-diếp muốn tắt lại, không thể tắtđược. Năm trăm người đệ tử cùng giúp thầy để tắt, nhưng lửa cũng không tắt. Họ nghĩ: “Đây lại là do vị Sa-môn”, liền cùng nhau đi đến hỏi Phật:
-Chúng tôi đốt lửa đă cháy rồi, nay muốn tắt lại không tắt được.
Đức Phật dạy:
-Muốn khiến cho tắt không?
Đồng thưa:
-Muốn tắt.
Đức Phật dạy:
-Hăy tắt đi! Lửa sẽ tắt ngay.
Ca-diếp bạch Phật:
-Xin thỉnh Ngài ở lại nơi đây, đừng đi xa. Chúng tôi sẽ dâng cúng thức ăn cho Ngài.
Thưa xong, Ca-diếp liền trở về bảo với người nhà sắm sửa một bữa cơm thịnh soạn và khi đến giờ, ông đến thỉnh Phật.
Phật dạy:
-Hăy về trước. Ta sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa đi, Phật liền dùng Thần túc thông bay lên trời Đao-lợi lấy quả Trú độ; dùng thần túc bay đến phương Đông tới thế giới Phất-vu-đăi cách xa vài ngàn vạn dặm lấy quả Diêm-bức; bay đến phương Nam tới cơi Diêm-phù-đề lấy quả Ha-lê-lặc; bay đến phương Tây tới cơi Câu-da-ni lấy quả A-ma-lặc; bay đến phương Bắc đến cơi uất-đơn-việt lấy gạo thơm tự nhiên, mỗi thứ đựng đầy b́nh bát rồi trở về ngồi nơi chỗ của ḿnh trước khi các Ca-diếp về đến.
Ca-diếp hỏi:
-Ngài từ con đường nào để đi đến đây?
Phật đáp:
-Sau khi ông trở về, Ta đến bốn cơi và lên trời Đao-lợi lấy trái cây và gạo thơm ngon này. Ông có thể dùng những thứ ấy.
Sáng ngày hôm sau Phật đến nhà Ca-diếp nhận thức ăn trở về, ở chỗ thanh vắng thọ trai xong, Ngài nghĩ muốn tắm giặt. Đế Thích biết được ư Phật, liền đi xuống chỉ tay xuống đất, nước liền tuôn ra thành ao để cho Phật dùng tắm giặt.
Ca-diếp chiều tối đi dạo quanh trong thôn thấy ao nước rất lấy làm lạ, không hiểu do duyên cớ ǵ có việc này, hỏi Phật. Phật dạy:
-Sáng nay sau khi ta thọ trai xong, ta muốn tắm giặt, Đế Thích biết ư đưa tay chỉ đất, khiến tuôn ra nước này. Ông nên gọi đây là “ao Chỉ địa”. ,
Phật trở lại dưới gốc cây, trên đường đi, thấy có một chiếc áo rách vứt bỏ, Ngài muốn lượm đem đi giặt, Đế Thích biết ư bèn lên trên núi Phả-na lấy đá đẹp vuông vức bằng phẳng, dâng lên để Phật giặt y, Phật muốn phơi y, Đế Thích lại đi lấy đá sáu cạnh đến dâng cho Phật dùng để phơi y.
Ca-diếp thấy bên bờ ao có hai loại đá đẹp, hỏi Phật:
-Do đâu Ngài có được đá này?
Phật dạy:
-Ta muốn giặt y, và phơi y, Đế Thích biết ư nên đem dâng lên cho Ta dùng. Nguyên do là như vậy.
Sau khi Phật vào ao Chỉ địa tắm giặt xong, muốn lên, nhưng không có chỗ để vịn, cây Ca ḥa trên bờ ao tự nhiên sà nhánh xuống đến chỗ Phật, Phật vịn cây bước lên.
Ca-diếp thấy cây sà nhánh xuống rất lấy làm lạ hỏi Phật, Phật dạy:
-Ta vào trong ao tắm giặt, khi lên không có chỗ để vịn lên, do đó Thần cây v́ Ta sà nhánh xuống.
Bấy giờ vua nước Ma-kiệt-đà cùng với quần thần và dân chúng nhân mùa tiết hội, đem lễ vật đến, ban tặng cho Ca-diếp và cùng nhau vui chơi bảy ngày, Ca-diếp nghĩ: “Phật là Bậc Thánh siêu việt hơn ta, mọi người gặp Ngài ắt sẽ bỏ ta, cùng nhau theo phụng thờ Ngài hết. Giá như hôm nay không có sự hiện diện của Ngài th́ sung sướng biết bao!”
Phật biết tâm niệm của Ca-diếp nên liền ẩn mất. Khi mọi người đă trở về hết, Ca-diếp lại nghĩ: “Ta gặp tiết hội, thức ăn dẫy đầy, giá có Đại Sa-môn cùng thọ hưởng th́ vui biết bao!”.
Phật biết, liền hiện ngay trước mặt Ca-diếp. Ca-diếp vừa kinh sợ vừa vui mừng, thưa:
-Ngài đến sao đúng lúc, thật sung sướng. Vừa rồi Ngài đi đâu vắng mặt?
Đức Phật đáp:
-Do ư nghĩ của ông.
-Sao lại bảo là do ư nghĩ của tôi? Ca-diếp hỏi.
Đức Phật dạy:
-Trước đó ông nghĩ là vị Đại Sa-môn này đạo đức cao vời, thân tướng tốt đẹp như sắc vàng ṛng, vạn dân nếu thấy Ngài ắt sẽ bỏ Ta mà cùng theo thờ phụng Ngài hết. Do đó nên ta ẩn đi; nay ông lại nghĩ đến Ta, cho nên Ta lại đến.
Khi ấy năm trăm người đệ tử của Ca-diếp cùng nhau bửa củi, mỗi người đều cầm búa đưa lên và không hạ xuống được, đi đến bạch với thầy, thầy dạy:
-Lại do vị Đại Sa-môn này làm ra như vậy.
Liền cùng nhau đi đến hỏi Phật:
-Các đệ tử của tôi đang cùng bửa củi, cùng đưa búa lên nhưng không hạ xuống được.
Đức Phật dạy:
-Hăy hạ xuống.
Ứng theo tiếng, búa liền hạ. Sau khi hạ xuống, búa lại dính vào củi không thể đưa lên được, lại đến hỏi Phật, Phật dạy:
-Có thể đi, tự nó sẽ đưa lên. Liền đưa lên được.
Bấy giờ nước sông Ni-liên-thiền dâng tràn đầy và chảy cuồn cuộn. Phật dùng thần thông cắt dứt ḍng nước khiến cho không chảy, làm cho nước dâng tràn lên cao khỏi đầu người và khiến cho đất dưới đáy sông bày ra và Phật đi kinh hành trong đó.
Ca-diếp thấy vậy, sợ Phật bị nước cuốn trôi liền cùng với các đệ tử chèo thuyền t́m kiếm Phật. Thấy nước cắt ngăn đôi, ở giữa bày đất và Phật đi kinh hành trong đó Ca-diếp kêu lớn:
-Đại Đạo Nhân c̣n sống đó ư?
Đức Phật đáp:
-C̣n sống.
Ca-diếp lại hỏi:
-Phật có muốn lên thuyền không ?
Đức Phật dạy:
-Rất tốt!
Phật nghĩ: “Hôm nay Ta phải hiển bày đạo lực, khiến cho tâm của ông này phải phục”. Ngài liền từ trong nước xuyên qua đáy thuyền, vào trong thuyền mà không làm cho thuyền có dấu vết lủng lỗ.
Như vậy, Ngài biến hóa tất cả mười tám cách. Ca-diếp lại nghĩ: “Vị Sa-môn này có Thần túc thông, nhưng không bằng ta, ta đă đắc A- la-hán”.
Phật bảo Ca-diếp:
-Ông không phải A-la-hán, không biết chứng đạo, mặt mày gượng gạo không biết xấu hổ. Tự cho ḿnh có đạo đức một cách luống dối.
Khi ấy Ca-diếp trong ḷng sợ hăi, sởn tóc gáy, xấu hổ mặt biến sắc, tự biết ḿnh không chứng đạo, liền cúi đầu lạy thưa:
-Nay Đại Đạo Nhân quả thật là Bậc Thánh nhiệm mầu mới biết được tâm ư của con. Con nguyện được xin theo Đại Đạo Nhân lănh thọ giới kinh làm vị Sa-môn.
Phật dạy:
-Ông hăy trở về bảo với các đệ tử để cùng đồng được lợi ích. Ông là bậc kỳ cựu trong nước, mọi người đều tôn kính. Nay muốn học đạo, há lại chỉ riêng một ḿnh ḿnh biết thôi ư?
Ca-diếp vâng lời Phật dạy, báo với tất cả các đệ tử:
-Các con biết không, thầy được tận mắt thấy, ḷng mới tin hiểu. Thầy sẽ cạo bỏ râu tóc, khoác pháp y, nhận lănh giới cấm của Phật để làm Sa-môn, ư của các con muốn thế nào?
Các đệ tử đồng bạch:
-Sự hiểu biết của chúng con phần lớn là nhờ ân thầy. Nay thầy có chỗ kính tin th́ chắc chắn là không hư dối. Chúng con xin cùng đi theo thầy để làm Sa-môn.
Khi ấy thầy tṛ đều cởi áo lông cừu, b́nh đựng nước cúng, giày da cùng với các dụng cụ thờ lửa đem vứt hết xuống ḍng sông, rồi tất cả cùng đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ, thưa:
-Kính bạch Đức Thế Tôn, nay con cùng năm trăm đệ tử của con đều có ḷng tin, nguyện ĺa bỏ gia đ́nh, cạo râu tóc làm Sa-môn.
Phật dạy:
-Lành thay, các Sa-môn hăy đến đây!
Ca-diếp cùng năm trăm người đệ tử râu tóc liền tự rụng và đều trở thành Sa-môn.
Ưu-vi Ca-diếp có hai người em: Người em kế tên là Na-đề, người em út tên là Kiệt-di. Hai người này mỗi người đều có hai trăm năm mươi người đệ tử. Thảo am của họ được dựng ở bên bờ sông. Khi trông thấy y phục cùng hằng trăm dụng cụ thờ lửa của các Phạm chí trôi trên ḍng sông, hai người em vô cùng kinh hăi, sợ anh ḿnh cùng năm trămđệ tử bị kẻ ác làm hại thả trôi sông nên liền cùng với năm trăm đệ tử đi ngược theo ḍng sông. Đến nơi thấy thầy tṛ anh ḿnh đều thành Sa-môn, họ rất lấy làm lạ, hỏi đại huynh:
-Đại huynh năm nay đă một trăm hai chục tuổi, trí tuệ cao xa, quốc vương quần thần dân chúng đều tôn kính thờ phụng, ư của chúng em nghĩ rằng đại huynh đă là bậc A-la-hán, nay đại huynh lại bỏ sự nghiệp Phạm chí theo học pháp Sa-môn. Phật đạo đâu phải lớn hơn đạo của đại huynh?
Ca-diếp bảo:
-Phật đạo tối tôn, pháp đó vô lượng. Anh tuy được người đời tôn kính nhưng thực sự chưa đắc đạo và chưa được thần thông trí tuệ như Phật. Pháp của Ngài rất thanh tịnh. Anh thấy Ngài có từ tâm, cứu độ người nhiều vô cùng Ngài đem ba việc này để dạy bảo:
1. Đạo định thần túc biến hóa tự nhiên.
2.Trí tuệ hiểu biết bổn ư của người.
3. Đúng theo bệnh cho thuốc.
Hai người em nghe xong, quay lui nói với các đệ tử:
-Các con muốn thế nào?
Năm trăm người cùng đồng thanh thưa:
-Chúng con nguyện được như đại sư.
Liền cùng cúi đầu đảnh lễ Phật, cầu xin được làm Sa-môn. Phật dạy:
-Đến đây Tỳ-kheo!
Hai anh em và năm trăm người đệ tử râu tóc tự rụng, thân khoác ca-sa, liền thành Sa-môn đi theo sau Phật. Khi ấy Phật có một ngàn Sa-môn cùng đi đến nước Ba-la-nại, ngồi dưới rừng cây Di huyền.
Các đệ tử của Phật đều vốn là Phạm chí, Phật v́ các đệ tử hiển bày thần thông biến hóa.
1. Bay đi.
2. Giảng kinh.
3. Giáo giới.
Các đệ tử thấy oai thần biến hóa của Phật, không ai là không hoan hỷ, đều chứng quả A-la-hán.
Phẩm 26: PHẬT ĐẾN NƯỚC MA-KIỆT-ĐÀ
Bấy giờ Đức Thế Tôn ở tại Ba-la-nại, sau khi thuyết pháp xong, cùng với ba anh em ưu-vi Ca-diếp và một ngàn vị La-hán, là các vị xưa kia đều thuộc đạo bện tóc, đă đạt được thần thông, sinh tử đă dứt, ra khỏi ba cơi, muốn đi đến nước Ma-kiệt-đà truyền dạy đạo pháp, mở bày dắt dẫn cho những người ngu tối.
Khi ấy, vua B́nh-sa của nước Ma-kiệt-đà được nghe Thái tử con vua ḍng họ Thích, thân có tướng đặc biệt, với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thân cao một trượng sáu, màu vàng ṛng, bỏ nước, bỏ ngôi vua, làm Sa-môn, đạt được quả Phật, hiệu là: Như Lai, Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, giảng dạy đạo nghĩa, đầu, giữa, cuối đều thiện. Pháp giảng dạy đầy đủ, đạt đến nghĩa lư nhiệm mầu, tịnh tu phạm hạnh, giữ ǵn giới cấm đầy đủ, thành tựu thiền định, trí tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Thành tựu ngũ nhăn: Nhục nhăn, Thiên nhăn, Tuệ nhăn, Pháp nhăn, Phật nhăn, sáu thông, ba đạt. Chư Thiên, Thích, Phạm đều phụng sự. Tất cả đều được nhờ ân cứu độ.
Vua B́nh-sa được nghe như thế, vui mừng hớn hở, nghĩ: “Vốn ta cũng có ḷng cầu xin được Phật cứu độ”, liền sắc các đại thần, trưởng giả, Phạm chí, cùng dân chúng trong nước sửa sang đường sá, rải hoa, đốt hương, cầm các cờ lọng; vua cỡi xe quư, đại thần bách quan trước sau theo hộ vệ, bằng ngàn xe, vạn mă. Các trưởng giả, Phạm chí có tất cả là một vạn hai ngàn người, muốn ra cửa thành để nghinh đón Phật. Bỗng một luồng gió mạnh thổi ập đến, đóng bít cửa thành. Vua rất lấy làm lạ, không hiểu v́ sao: “Nay đi nghinh đón Phật, đáng lẽ ứng hiện điềm tốt lành an vui mới phải”.
Vị thần giữ cửa thành liền tâu vua:
-Thật vui mừng, mọi việc đều tốt đẹp. Trong đời trước, vua cùng với tám vạn bốn ngàn vua, cùng sửa chùa, dựng tháp và thệ nguyện trong đời sau đồng thời được gặp Phật, thưa hỏi và nhận lănh giáo pháp. Nay có một tù nhân bị h́nh phạt nhốt trong ngục, trái với lời xưa của vua, cho nên cửa thành đóng bít. Ngài nên đại xá, phóng thích cho người đang bị nhốt trong ngục kia ra để đồng cùng một lúc được gặp Phật, thưa hỏi và nhận lănh lời giáo hóa th́ cửa thành mới mở.
Vua nghe rồi, liền ra lệnh cho các nơi thả tù nhân trong nước ra dể cùng đi nghênh đón Phật.
Bấy giờ Phật vào nước Ma-kiệt-đà, ở đó có một cây đại thọ tên là Giá-việt. Đức Phật cùng các thầy Tỳ-kheo đồng ngồi dưới cây. Vua từ xa thấy Phật cùng với chúng Tỳ-kheo như mặt trăng giữa các v́ sao, giống như vầng thái dương vừa mới xuất hiện, khắp thiên hạ đều bừng sáng, không một nơi nào là không được chiếu soi. Cũng như Đế Thích, Phạm vương, Thánh đế đang ngự nơi cung điện của ḿnh. Như cây hoa tươi tốt, như ngọn núi vàng, oai thần đặc biệt, sáng chói rực rỡ, siêu tuyệt vô song, trong ḷng vua vô cùng phấn khởi. Vua xuống xe, cởi bỏ tất cả những vật trang nghiêm: lọng, giày, quạt, mũ, khăn cùng đao trượng và đi bộ đến trước Phật, cúi đầu lạy sát chân Phật và tự giới thiệu ḿnh:
-Con là vua B́nh-sa, từ lâu luôn nghĩ nhớ đến Thánh Tôn, khát khao mộng có ngày được gặp lại.
Vua lặp lại ba lần như vậy. Phật bảo vua:
Đúng vậy, ông là vua B́nh-sa. Chư Phật và Thiên thần đều ủng hộ vua.
Vua thưa:
-Con kính mong nhờ ân Phật cứu giúp.
Thưa xong, vua lui ngồi một bên. Quần thần bách quan cúi đầu làm lễ rồi cũng lui ngồi một bên. Người đến trước th́ sụp lạy, người đứng giữa th́ cúi đầu, người đứng sau th́ chỉ chắp tay. Và tất cả sau khi đă an tọa, vua cùng đại thần trông thấy Ưu-vi Ca-diếp là một bậc kỳ cựu lâu nay từng tu học theo đạo Tiên ở trên núi, nay sao lại ngồi một bên Phật, nên rất lấy làm lạ, trong tâm tự nghĩ: “Phật là thầy của ưu-vi Ca-diếp hay ưu-vi Ca-diếp là thầy của Phật?”
Phật đọc được tâm niệm đó, Ngài liền dùng kệ hỏi Ưu-vi Ca-Diếp.
Thế nào, thầy ưu-vi?
Việc thờ thần xưa kia
Theo cúng tế lửa nước
Nhật, nguyệt, các Phạm thiên
Đến nay như thế nào
Ngày đêm siêng năng học
Trong tâm không biếng nhác
Đâu chẳng đến Thần tiên?
Ca-diếp dùng kệ bạch Phật:
Con nhớ xưa cúng tế
Trải qua tám mươi năm
Thờ thần gió, lửa, nước
Nhật, nguyệt, các núi sông
Ngày đêm không luống bỏ
Trong tâm không xao lăng
Cuối cùng chẳng được ǵ
Gặp Phật mới an ổn.
Vua, quần thần và vạn dân trong nước nhờ vậy mới phân biệt, biết rơ ưu-vi Ca-diếp là đệ tử của Phật. Phật bảo ưu-vi Ca-diếp:
-Ông hăy đứng dậy.
Ưu-vi Ca-diếp liền đứng dậy, quỳ thẳng chắp tay trước Phật. Phật dạy:
-Hiện nay nếu ông là A-la-hán, hăy biểu hiện có thần thông.
Ca-điếp liền vâng lời Phật dạy bay lên hư không, trên thân tuôn ra lửa, dưới thân tuôn ra nước, mưa trở lại nơi thân nhưng thân không thấm ướt. Dưới thân tuôn ra lửa, lửa không làm hại thân. Bay đi trên hư không giống như chim bay, bảy lần hiện, bảy lần ẩn mất. Đi trên nước như đi trên đất, không bị ngăn ngại bởi vách tường, núi Tu-di và đất, tất cả đều thông suốt như đi vào trong nước. Từ phương Đông đến ở trước Phật lại ẩn mất, bỗng hiện ra ở phương Tây. Từ phương Tây đến ở trước Phật, lại ẩn mất, bỗng hiện ra ở phương Nam. Từ phương Nam ẩn mất, rồi hiện ra ở phương Bắc. Từ phương Bắc lại ẩn mất và hiện trở lại ở phương Nam. Biến hóa như vậy xong, lại trở về ở trước Phật, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật:
-Con là đệ tử của Phật. Phật là Thầy của con.
Vua và đại thần nhân đó biết rơ hơn ưu-vi Ca-diếp là đệ tử của Phật. Phật bảo với quốc vương:
Thiên hạ đều có mắt nhưng chưa chắc đă thấy được sắc. Quán sắc vô thường, thọ tưởng, hành, thức cũng đều vô thường. Nghĩa vô thường là khổ, không, vô ngă, là chẳng phải ngă, chẳng phải khác ngă (bỉ). Chưa thấy có người nào ưa đạo như háo sắc. Người sáng suốt hiểu rơ điều này. Sắc giống như đống bọt, thọ như bọt nước, tưởng như cây chuối, hành cũng như mộng, thức giống như huyễn. Tam giới như là ảo hóa, tất cả đều vô thường, không thể giữ lâu.
Phật hỏi nhà vua:
-Từ khi thành lập vương triều đến nay đă bao nhiêu năm?
Vua đáp:
-Hơn bảy trăm năm.
-Đă có bao nhiêu triều vua?
-Đă có trên hai mươi triều vua.
Phật lại hỏi:
-Ngài có biết tất cả các triều vua đă qua không?
-Con không biết. Con chỉ biết có triều đại của phụ vương con thôi.
Phật dạy:
-Hiện tại, đất là vật trường tồn. Người và vật tất cả đều trở về vô thường. Trời đất tuy nói là thường nhưng cũng không có thể lâu dài. Ba cơi không có chỗ cậy nhờ, chỉ có đạo mới là nơi nương tựa, cắt đứt cái họa ngay trong lúc chưa xảy ra, vun trồng cái phước ngay từ khi chưa nhen nhúm. Diệt sạch cái hoạn nạn của năm ấm, như dập ngọn đuốc. Chứa đức cho ngày một tăng thêm như trăng đầu tháng.
Phật dạy:
-Vua cũng như người mẹ mang con trong thai, tướng mạo và phước lộc của mỗi đứa con đều khác nhau, hoặc giàu sang phú quư, hay bần cùng hạ tiện; hoặc thông minh trí tuệ, hay ngu tối, câm ngọng, điếc đui, Cha mẹ nào có thể biết được. Sinh con sau khi lớn lên mới phân biệt được họa phước. Đó không phải là lỗi của cha mẹ, mà đó là do vạ của người kia đời trước đă tạo ra lành hay dữ! Thân làm việc ác, miệng nói lời hung dữ, tâm nghĩ điều ác độc, chê bai Hiền thánh th́ khi thân hoại mạng chung đọa làm quỷ thần trong địa ngục ác. Thân, miệng, tâm lành, không phạm mười điều ác, tu hành mười thiện đức, sau khi mạng chung sẽ được sinh lên cơi trời, được ở trước chư Phật trong mười phương. Nếu sinh ở chốn nhân gian th́ được giàu sang, sung sướng, tuổi thọ dài lâu.
Đức Phật dạy:
-Tuy có lời nói về họa phước như thế, nhưng chưa hẳn đă hoàn toàn. V́ sao? V́ tất cả đều từ nơi duyên mà khởi. Duyên hiệp th́ sinh, duyên tan th́ diệt. Từ vô minh duyên th́ có hành, từ hành duyên th́ có thức, từ thức duyên th́ có danh sắc, từ danh sắc duyên th́ có lục nhập, từ lục nhập duyên th́ có xúc, từ xúc duyên th́ có thọ, từ thọ duyên th́ có ái, từ ái duyên th́ có thủ, từ thủ duyên th́ có hữu, từ hữu duyên th́ có sinh, từ sinh duyên th́ có ưu bi, khổ năo một tập hợp khổ lớn. Trừ các độc hoạn lớn: Vô minh, hành thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lăo, bệnh, tử, sầu ưu khổ năo, th́ được các tội, và diệt độc hoạn tự tiêu diệt, th́ mới đạt đến sự nghiệp vô vi vô cùng.
Ba cơi không có thần. Cội gốc là mười hai duyên khởi, thản nhiên không dấu vết, giống như hư không, không tâm ư thức, không chỗ dựng lập, cùng với đạo lớn đồng nhau, vốn không có sự phân biệt nên mau đạt được pháp nhẫn. Một ḿnh cất bước, độ thoát khắp mười phương, tất cả chúng sinh đều nhờ ân.
Khi Phật thuyết kinh này, trong tám vạn bốn ngàn chư Thiên, người đời, có một vạn hai ngàn người xa trần ĺa cấu, sinh các pháp nhăn tịnh, vô số người phát ư đạo Vô thượng Chánh chân.
Lúc này vua B́nh-sa được pháp nhăn tịnh, trong ḷng rất vui mừng, đến trước xin Phật được lănh thọ năm giới. Các đại thần bách quan, quốc dân đều đến trước xin quy y, cũng lănh thọ năm giới. Khi thọ năm giới xong, người, ngựa, xe cộ, thảy đều yên lặng, không phát ra một tiếng động. Vua đến trước bạch Phật:
-Con bận nhiều việc nước, con xin trở về. Con sẽ trở lại hầu thăm Đức Thế Tôn.
Đức Phật dạy:
-Lành thay! Nhọc ḷng đại vương cùng quần thần nhân dân.
Vua cúi đầu đảnh lễ Phật, nhiễu quanh ba ṿng, lạy trở lại lần nữa rồi lui. Quần thần bách quan, nhân dân cũng tiếp nối nhau đảnh lễ Phật rồi lui. Đại thần đến trước vua chúc tụng:
-Ngay giờ này các vua đều không thấy Phật, chỉ riêng một ḿnh đức vua được thấy. Đó là do nhờ phước lộc sâu dày ở đời trước nên mới được như vậy.
Vua càng phấn khởi, cũng chúc tụng lại chư thần:
-Các khanh đă sẵn có phước đức nên mới gặp Thế Tôn. Vua trở về cung, sắc cho tất cả mọi người trong cung từ phu nhân đến các thể nữ lớn nhỏ và nhân dân trong nước: Trong một năm phải có ba tháng trường trai, một tháng phải có sáu ngày trai, giữ ǵn giới cấm, tu hạnh bố thí, tŕ giới, học rộng nghe nhiều.
Vua trở về cung, khi ấy Thiên đế Thích đem tám vạn Thiên nhân dâng hoa lên Phật, quy y, làm lễ rồi lui. Họ đồng niệm: “Nam-mô Phật”, liền được độ thoát, đắc pháp nhăn tịnh.
Bấy giờ trong nước Ma-kiệt-đà có một trưởng giả tên là Ca-lăng, thấy Phật đến nước Ma-kiệt-đà, trời người đều thờ kính, nhưng chưa có tinh xá, ông nghĩ: “Ta có khu vườn trúc rất đẹp, muốn dâng cúng Phật”. Ông liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu lạy sát chân Phật, rồi tới trước bạch: -Phật thương xót khắp tất cả, xem như ái tử, bỏ ngôi vị Chuyển luân thánh vương, không ưa thích sự giàu sang phú quư ở đời, nay không có tinh xá. Con có một khu vườn trúc, cách thành không xa. Con xin dâng cúng Phật, có thể để làm tinh xá.
Phật nhận và chú nguyện.
Phật và Thánh chúng đến ở trong khu vườn đó nên gọi là vườn Trúc Ca-lăng.
Phẩm 27: GIÁO HÓA XÁ-LỢI-PHẤT và MỤC-KIỀN-LIÊN
Khi Phật chưa vào nước Ma-kiệt, dân chúng nơi đó giàu có sung túc, ăn uống đầy đủ với thức ngon bổ, đêm ngày trổi nhạc hát xướng, thường vui chơi không hề ngừng nghỉ. Đến lúc Phật vào nước Ma-kiệt, trong thành La-duyệt-kỳ ngày đêm yên tịnh, mọi người khen ngợi sự cứu độ, đọc kinh, giữ ǵn trai giới, bỏ những thú vui thế tục như bỏ phân nhơ. Chỉ có Phật là tôn quư. Tất cả đều nghe kinh, thực hành theo chánh pháp, không bỏ Tam bảo.
Phật có một đệ tử Sa-môn tên là An Bệ, được gởi đi truyền bá giáo pháp, mở bày chỉ dạy cho những người chưa được nghe. Tâm con người ở trong đời ác năm trược mê mờ, không đạt được chỗ chí chân.
Sa-môn An Bệ vào thành khất thực, y phục trang nghiêm tề chỉnh, oai nghi đỉnh đạc, không mất thường pháp, bước đi đoan lạc, nhân đó khiến người trông thấy đều vui thích.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất vốn tên thật là Ưu-ba-thế, nhân được gặp An Bệ, trong ḷng rất vui mừng, tự nghĩ: “Ta học đạo đến nay đă lâu, nhưng chưa thấy có Sa-môn như thế. Y phục tề chỉnh, oai nghi an tường đỉnh đạc, không mất lễ tiết. Ta thử đến hỏi xem vị ấy đang phụng thờ đạo nào. Ta thường có ư nghi ngờ những điều được nghe khác nhau. Đạo giáo đặc thù mầu nhiệm chưa chắc đă bằng đây. Ta nên đến hỏi Tỳ-kheo xem hiện đang tu học theo giáo pháp nào và vị thầy truyền dạy là ai? Xin được nghe tôn chỉ của Tôn giả”. Tỳ-kheo biết ư liền thuyết kệ:
Thầy tôi, ba hai tướng
Ba cơi đều tôn quư
Không vướng mắc hữu, vô
Độ chúng mười hai môn
Tuổi tôi c̣n thơ bé
Sở học rất cạn cợt
Đâu có thể nói đúng
Thắng nghiệp của Như Lai
Gốc của tất cả pháp
Từ duyên nên vốn không
Nếu trở về cội nguồn
Mới gọi là Sa-môn.
Sa-môn An Bệ tiếp:
-Vị Thầy mà tôi thờ, từ vô số kiếp phụng hành pháp mơn lục độ vô cực, tứ đẳng, tứ ân, hành từ bi vô lượng, muốn cứu độ tất cả, chưa công, nhóm đức không thể kể xiết, là vị Nhất sinh bổ xứ tại cung trời Đâu-suất giáng thần thị hiện, thác thai phu nhân nước Ca-duy-la-vệ như mặt trời hiện trong nước. Vừa sinh ra Ngài bước đi bảy bước, trời đất chấn động mạnh, có ba mươi hai tướng tốt, xưng ḿnh là Thánh.
Ngài nói: “Ba cơi đều khổ, Ta sẽ cứu độ”. Thích, Phạm, Tứ Thiên vương đều đến thưa hỏi và nhận lời dạy bảo. Chín rồng phun nước tắm rửa thân thể Ngài. Đức của Ngài vô lượng. Nêu sơ lược những điểm chính yếu về Ngài, không phải dựa vào chỗ khen ngợi như chút ánh sáng nơi con đom đóm của tôi mà có thể hiểu được tất cả về Ngài. Cũng không phải đây là lời nói và ư nghĩ của cá nhân, mà đó là lời tôn kính ca ngợi của Thiên nhân về Bậc Đại Đạo Sư của tôi.
Liền đọc kệ:
Thầy tôi trời trong trời
Tối tôn trong ba cơi
Tướng tốt, thân trượng sáu
Thần thông đi trên không
Giáo hóa trừ ngũ ấm
Nhổ phăng mười hai căn
Không tham ngôi trời người
Mở pháp môn thanh tịnh.
Khi ấy Tôn giả Xá-lợi-phát hết sức vui mừng sung sướng, như người tôi gặp ánh sáng, liền thưa:
-Lành thay! Từ xưa đến nay con ôm ấp những điều nghi vấn, lại ham học. Theo thầy học đạo từ khi tám tuổi, đến nay đă mười sáu năm, gồm thâu tất cả, trải qua mười sáu nước lớn trong thiên hạ, tự cho ḿnh đă thông đạt, nay mới được nghe những điều chân chánh khác thường, đúng với bản nguyện của con. Hiện nay Đức Phật đang ở đâu, xin cho con được biết.
Tôn giả An Bệ đáp:
-Đức Thế Tôn hiện đang ngự tại vườn Trúc Ca-lăng.
Xá-lợi-phất đem các đệ tử đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, bạch:
-Kính bạch Đức Thế Tôn, bản thân con bị rơi vào chốn ngu tối, mê lầm triền miên, không được thưa thỉnh và lănh thọ, nay muốn được theo đạo lớn vô cực của bậc Thánh. Xin Thế Tôn cho con được xuất gia làm Tỳ-kheo thọ giới cụ túc.
Đức Phật vừa nói: “Lành thay! Đến đây Tỳ-kheo!” th́ tóc Xá-lợi- phất liền tự rụng, ca-sa khoác thân. Đức Phật v́ ông thuyết kinh, phân biệt rơ các pháp, mười hai căn bản khiến ḷng thanh thản thấu suốt, lậu tận ư giải, chứng được quả Vô trước.
Xá-lợi-phất bạch Phật:
-Con có một người bạn đồng học tên đời là Câu-luật, nay gọi là Mục-liên. Từ thuở nhỏ đồng hẹn với nhau: Nếu người nào t́m được chân đạo th́ sẽ chỉ cho nhau biết. Nay con đă được nhờ ân Thế Tôn tế độ, nhưng bạn con c̣n đang ch́m trong trần cấu, chưa được cứu vớt, con xin nương nhờ Thánh chỉ của Thế Tôn, đi đến đó để khai thị cho bạn con.
Phật dạy:
-Lành thay! Thầy nên biết đúng thời, chớ nên trể năi.
Bấy giờ Xá-lợi-phất cúi đầu lạy sát chân Phật và từ giă ra đi, vào thành t́m Mục-liên. Từ xa trông thấy Mục-kiền-liên cùng với các đệ tử đang đi trong thành, nơi ngă tư đường. Xá-lợi-phất đi đến chỗ bạn. Mục-liên trông thấy bạn ḿnh từ đầu đến chân đều khác hẳn không giống như mọi ngày, liền hỏi bạn:
-Do đâu lại thay đổi y phục? Có được kiến giải ǵ khác lạ chăng? Xá-lợi-phất đáp:
-Người học vô thường chỉ theo ánh sáng lớn. Ta học đă nhiều năm nhưng không gặp được Bậc Đại Thánh, nay mới gặp được đạo lớn vô thượng, vui mừng vô lượng, cho nên đến t́m bạn để cùng được thưởng thức đạo vị nhiều kiếp không cùng.
Mục-liên đáp:
-Đây là việc lớn, hăy khéo cùng nhau suy nghĩ kỹ.
Xá-lợi-phất đáp:
-Không cần nói nữa. Tôi chán việc đă từng làm lâu nay, không muốn nghe nữa. Tôi ví dụ: Người có trân bảo đẹp đem cho, có người nhận được ngọc báu như ư minh châu và anh lạc báu, lại muốn trở lại cầu xin lụa là, châu ngọc giả, không phải chỗ bản thân ḿnh ưa muốn.
Mục-liên đáp:
-Trí tuệ của huynh hơn tôi. Những ǵ huynh tôn thờ ngưỡng mộ chắc không lầm lẫn. Tôi sẽ cùng đồng một chí hướng. Hăy đưa tôi đến xin đảnh lễ Đấng Chí Tôn và nhận lời giáo huấn của Ngài.
Khi ấy Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đồng đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi lui ngồi một bên, chắp tay bạch Phật:
-Chúng con tự xét ḿnh lầm lỗi, thiếu sót, bị ch́m đắm trong trần cấu, nay mới được gần gũi phụng thờ Ngài. Chúng con xin được làm Sa-môn để học hỏi, thọ tŕ pháp luật của Thế Tôn.
Phật dạy:
-Lành thay!
Hai vị Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đều bỏ b́nh rửa, áo da nai, gậy, cùng các dụng cụ.
Phật gọi: “Đến đây, Tỳ-kheo!”, th́ râu tóc liền rụng, ca-sa khoác thân.
Phật thuyết chánh đế, hai vị ấy được lậu tận, ư giải, việc làm đă xong, thành quả Vô trước (A-la-hán).
Phật dạy:
-Hai người này nhiều đời trong những kiếp quá khứ cùng nguyện cúng dường Ta, Đợi khi Ta thành Phật sẽ hộ vệ hai bên. Nay mới gặp nhau.
Đức Phật đă có một ngàn đệ tử, nay độ Xá-lợi-phất và Mục- kiền-liên có hai trăm năm mươi người đệ tử, cộng thành một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo được độ cùng một lúc.
Bấy giờ vua Tịnh Phạn nghe tin Thái tử đắc đạo quả Phật đến nay đă được sáu năm. Vua nhớ Phật, trong ḷng buồn vui lẫn lộn, khát khao muốn được gặp.
Có một vị Phạm chí tên là Ưu-đà-da thông minh trí tuệ, xưa kia vốn từng hầu hạ Bồ-tát nên thường hiểu được ư của Ngài. Vua sai Ưu-đà-da đi đến thỉnh Phật, thăm hỏi: “Từ ngày cách biệt đến nay đă mười hai năm, phụ vương ngày đêm trong ḷng buồn thương sầu nhớ không nguôi. Nghĩ đến lúc được gặp nhau tưởng như chết được sống trở lại”.
Ưu-đà-da nhận lănh sắc chỉ của vua, đi đến chỗ Phật, cúi đầu lạy sát chân Phật, đem ư của vua bạch đầy đủ với Phật, ưu-đà-da thấy Phật được chư Thiên, Thích, Phạm cùng về đảnh lễ, tất cả đồng thọ nhận lời dạy, ông bèn đến trước bạch Phật, xin được xuất gia làm Sa-môn, Phật dạy: “Đến đây, Tỳ-kheo!” th́ tóc ông tự rụng, liền thành Sa-môn, được đạo quả A-la-hán. Khi ấy, số người mà Phật đă độ trước và sau đắc đạo không thể kể xiết. Phật tự nghĩ: “Ta vốn ước mong cho phụ vương được Phật đạo. Bây giờ ta sẽ trở về nước độ phụ mẫu. Nay chính là lúc nên trở về. Giả như Ta trở về nước mà không gây được sự cảm động th́ đối với việc ấy không nên v́ sự hóa độ ít quá. Nên trước hết cho đệ tử có thần túc là Tỳ-kheo Ưu-đà-da về hiển bày thần túc cho mọi người biết Phật muốn về, họ mới hiểu được đạo tôn quư, mới cùng khát ngưỡng phát khởi đạo tâm th́ việc hóa độ mới được nhiều”.
Phẩm 28: ƯU ĐÀ DA
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ưu-đà-da:
-Phật trước đây xuất gia vốn có lời hứa với cha mẹ, là nếu đắc Phật đạo th́ trở về độ cha mẹ. Nay đă được Phật đạo, công đức đă thành tựu, tất nhiến phải trở về nước để không trái với lời hứa xưa. Ngươi dùng thần túc đi trên hư không, hiện các thần biến in như thân ta; đă thành đạo lớn. Họ sẽ nghĩ đệ tử c̣n như vậy huống là Phật, oai đức rực rỡ vô lượng. Có như vậy mọi người mới tin thọ.
Ưu-đà-da thọ giáo, dùng thần túc bay đi trên hư không và về đến bổn quốc Ca-duy-la-vệ. Ngay trên thành, ở giữa hư không hiện vô số các sự biến hóa: Trên thân ra nước, dưới thân ra lửa. Nước không thấm ướt thân, lửa không tổn hại thân. Bảy lần hiện, bảy lần ẩn mất. Từ phương Đông ẩn vào đất rồi hiện ra ở phương Tây; từ phương Tây ẩn, hiện ra ở phương Đông, từ phương Nam ẩn, hiện ra ở phương Bắc; từ phương Bắc ẩn, hiện ra ở phương Nam. Đi trên hư không như chim bay, ẩn vào đất như ẩn vào nước. Đi trên nước như đi trên đất. Vua và thần dân không ai là không vui mừng, nhân đó mới biết được đạo tôn quư.
Khi ấy đọc kệ:
Hạnh nguyện của chư Phật
Nhiều kiếp số sinh tử
Thương xót loài nhỏ nhiệm
Cần khổ vô lượng kiếp
Lúc ngồi cội Bồ-đề
Trở lại bản nguyện xưa
Vui mừng sẽ nghe giảng
Khó được thường thấy nghe
Khi mới thành Phật đạo
Liền dẹp ma quyến thuộc
Phá ngay gốc sinh tử
Diệt sạch hết ái dục
Phật nhớ đến cố hương
Muốn gặp lại thân tộc
Nay nghe vua Đầu-đàn
Nói lời rất thương xót
Tỳ-kheo tên Ưu-đà
Tánh đẹp vui ḷng người
Phật dạy bảo Ngài đi
Báo tin Đức Phật sẽ
Trở về nước phụ vương
Để tuyên bày Phật ư
Nay vua trông Thái tử
Muốn Ngài trở về cung
Ưu-đà nghe Phật dạy
Liền nhận lănh phụng hành
Nhân đó ngay trước Phật
Biến hóa đi vào đất
Thân Ngài bỗng biến mất
Thần túc đi vào thành
Đi đến điện đại vương
Ngồi ở trước nhà vua
Tỳ-kheo Ưu-đà-da
Hiện trước Duyệt-đầu-đàn
Biến hóa rất nhiều cách
Bay lên điện phụ vương
Sạch giống như hoa sen
Đất bùn bụi không dính
Phụ vương thấy sợ hăi
Liền hỏi thần việc chi
Mà thần kỳ như vậy
Do đâu được như thế?
Xin cho trẫm được biết
Để giải tâm nghi kết
Từ lúc sinh đến nay
Chưa thấy việc lạ này.
Thái tử xưa bỏ nước
Cầu đạo độ chúng sinh
Siêng tu vô số kiếp
Đến nay mới được thành
Vua nay chớ sợ hăi
Thong thả ḷng vui vẻ
Tôi v́ phá các ác
V́ vua, Thái tử sai
Vua nghe nhắc Thái tử
Nước mắt tuôn như mưa
Mười hai năm đến nay
Mới nghe tiếng Tất-đạt
Nay đem tin lành đến
Như tỉnh mơ, sống lại
Thái tử bỏ ngôi vua
Thành đạo hiệu là ǵ?
Rời nước ngồi sáu năm
Tinh tấn nay thành Phật
Hiệu là Thiên Trung Thiên
Bậc quư nhất ba cơi
Khi xưa tại nước ta
V́ Ngài xây cung báu
Chạm trỗ trang trí đẹp
Nay nhà cửa thế nào
Ưu-đà-da thưa vua:
Phật mầu nhiệm chân chánh
Thường ngồi dưới gốc cây
Chư Thiên đến nương về.
Con ta lúc tại cung
Nệm thảm trải cùng khắp
Đều dệt bằng gấm vóc
Mềm mại sáng lấp lánh
Vợ rồng dâng giường báu
Thiên đế cúng ca-sa
Không ưa dùng ư đẹp
Tâm Ngài không tăng giảm
Tại nước thức ăn ngon
Cao lương hợp khẩu vị
Nay đây việc ăn uống
An thân những món ǵ ?
Ôm bát đi khất thực
Gieo phước không ngon dở
Chú nguyện nhà bố thí
Khiến đời đời an ổn
Tất-đạt xưa ngủ nghĩ
Không dám đánh thức càn
Khảy đàn phát âm thanh
Như thế khiến thức dậy
Như Lai Tam-muội định
Hằng đêm không ngủ thức
Thích, Phạm đến khuyến trợ .
Đều cúi đầu lănh thọ
Ở nhà tắm tạp hương
Cùng vô số chất thơm
Hương thơm lan khắp nhà N
ay dùng những hương ǵ?
Tám giải, ba thoát môn
Tắm rửa trừ tâm nhơ
Tâm sạch như hư không
An vui không phiền nhiễu.
Tất-đạt lúc ở nhà
Giă vô số tạp hương
Xông thơm y phục Ngài
Thanh tịnh không dính bẩn
Giới, Định, Tuệ, Giải thoát
Dùng đạo đức làm hương
Xông đến tám nạn xứ
Đời đời độ mười phương
Bốn phẩm sàng ṭa đẹp
Do nhiều báu làm thành
Trải nhiều lớp đồ nằm
Để nằm ngồi trên đó
Tứ thiền làm sàng ṭa
Định ư không tán loạn
Thanh tịnh như hoa sen
Không dính nước bùn bẩn
Tại cung vô số binh
Các thần luôn hầu hạ
Tả hữu thường ủng hộ
Mắt không thấy đồ nhơ
Các chúng đệ tử đủ
Ngàn hai trăm năm mươi
Vô số các Bồ-tát
Đều đến cúi đầu theo
Khi xưa chưa xuất gia
Có bốn loại xe đẹp
Voi ngựa và trâu dê
Dạo đi xem bốn phương
Ngũ thông làm xa giá
Thấy, nghe suốt, bay đi
Chứng biết tâm người khác
Tự tại vượt sinh tử
Khi con ta đi về
Có cờ xí thêu vẽ
Và cầm các binh trượng
Trước sau theo hộ tống
Dùng Từ, Bi, Hỷ, Xả
Ngài thi ân cứu giúp
Chở che bao ách nạn
Để nghiêm sức chúng sinh
Khi ra đủ kỹ nhạc
Nên chuông và đánh trống
Người xem chật cả đường
Sau trước chẳng thấy nhau
Dưới cây Ba-la-nại
Đánh vang trống bất tử
Các Câu-lân đắc đạo
Tám vạn bốn ngàn trời
Chín sáu đạo hàng phục
Âm vang thấu ba ngàn
Chúng sinh đều mừng vui
Đón nhận, tâm tỏ ngộ
Giáo hóa đất nước nào?
Nhân dân nhiều hay ít?
Hóa độ được bao người?
Có quy phục hết không?
Lănh đạo ba ngàn cơi
Giáo hóa các chúng sinh
Mười phương không kể xiết
Thảy đều được cứu độ
Tại nước, nghĩ chánh pháp
Giúp trẫm trị muôn dân
Làm đúng các nghi lễ
Ai cũng theo học tập
Phật hiểu không, vốn không
Bỏ hết bốn điên đảo
Không ai không quy phục
Rơ suốt đạo vô vi
Phật thế gian không chống
Hiểu biết rộng đầy đủ
Ngươi nói phải xét lại
Tất cả đều quy y
Mọi người trong thiên hạ
Một người vô số đầu
Một đầu vô số lưỡi
Lưỡi giải vô số nghĩa
Nhóm họp hằng sa người
Khen ngợi công Đức Phật
Hằng sa kiếp không xong
Huống tôi, trí đom đóm.
Vua nghe càng thêm buồn vui lẫn lộn, khen:
-Lành thay! Lành thay! A-di không nói dối, Phật sẽ về phải không? Ngày nào sẽ về đến? ưu-đà-da thưa:
-Sau bảy ngày sẽ đến.
Vua rất vui mừng, liền sắc quần thần cùng vạn dân trong nước: -Ta đi nghênh đón Phật. Sẽ đón rước theo nghi pháp của Chuyển luân vương. Sửa sang đường sá cho bằng phẳng, quét dọn sạch sẽ, nước thơm rưới đất, treo các tràng phan, dựng các cờ lọng cùng khắp trong nước. Chỗ sửa sang xong nên trang trí cho sáng sủa, đẹp đẽ. Ngàn vạn xe, ngựa ra cách thành khoảng bốn chục dặm để nghênh đón Phật, cúi đầu quy mạng.
Ưu-đà-da đi đến trước thưa vua:
-Tôi vâng lời Phật dạy, về yết kiến vua thưa lên ư của Ngài. Nay trở về tuyên bạch lại ư của vua khát khao vô lượng, muốn được gặp Chí Tôn, cúi đầu đảnh lễ, thọ lănh giáo pháp và mong Ngài giáo hóa vạn dân đều được nhờ phước lành.
Vua thưa:
-Bấy giờ là phải thời, chớ nên chậm trễ.
Khi ấy Ưu-đà-da trở về gặp Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật để tŕnh bày lại ư của vua, là khi được biết Thế Tôn và các đệ tử hẹn bảy ngày nữa sẽ về đến bổn quốc th́ vua và quần thần không ai là không vui mừng. Vua cho biết, từ ngày cách biệt đến nay đă nhiều năm, ngày đêm tưởng nhớ, ăn không ngon, ngủ không yên, khát khao tính đếm từng ngày trôi qua, đợi Thế Tôn về.
Bảy ngày đă qua, bây giờ Đại Thánh bảo các đệ tử:
-Ngày mai sẽ bắt đầu đi đến Ca-duy-la-vệ để yết kiến phụ vương. Tất cả đều lo chuẩn bị y phục, b́nh bát.
Thích, Phạm, Tứ vương nghe tin Phật trở về nước đều đến hộ tống. Trời mưa nước thơm, rải hoa, đốt hương, dựng các cờ lọng. Tứ vương, chư Thiên đều ở trước dẫn đường. Phạm thiên hầu bên hữu, Đế Thích hầu bên tả. Các chúng Tỳ-kheo đều đi theo sau Phật. Chư Thiên, Long thần, mang hoa hương, kỹ nhạc theo hầu trên hư không.
Khi Phật vừa lên đường, trước tiên ứng hiện các điềm lành: Ba ngàn quốc độ chấn động sáu cách, cây khô đă trăm năm nay đều trổ hoa trái. Các khe suối khô cạn, nay tự nhiên tuôn nước. Vua thấy điềm lành này, biết Phật đă đến liền ra lệnh các Thích chủng, đại thần bá quan đều đi đến chỗ Phật rải hoa, đốt hương, dựng các tràng phan, đánh các kỹ nhạc, cùng ra nghênh đón Phật.
Từ xa vua thấy Phật ở giữa đại chúng như mặt trăng giữa các ngôi sao, như vầng thái dương vừa mới xuất hiện tỏa ánh sáng rực rỡ, như bông hoa tươi tốt tỏa hương thơm lừng. Thân cao lớn một trượng sáu, tướng tốt trang nghiêm, rực rỡ như núi vàng ṛng. Vua gặp Phật, trong ḷng buồn vui lẫn lộn, v́ ly biệt lâu ngày, nay mới gặp lại. Vua đến trước Phật cúi đầu làm lễ, đại thần bách quan tuần tự cuối đầu làm lễ. Vua liền trở vào thành, chân đạp cái then cửa, đất chấn động mạnh. Trời mưa các thứ hoa, các nhạc khí tự kêu, người mù thấy được, người điếc nghe được, người bị què cả hai chân đi được, người bệnh được lành, người ngọng nói được, người cuồng tỉnh trí, người gù được thẳng, người bị độc không bị hại. Trăm loại chim thú cùng kêu những âm ^ thanh ḥa nhă. Phụ nữ trang sức các loại ṿng ngọc chạm vào nhau phát ra âm thanh. Ngay trong lúc thấy những biến hóa như vậy, không ai là không hoan hỷ. Kho báu tự nhiên xuất hiện, trong chứa đầy ngọc quư, người nào tâm ư khác biệt, đều cùng ḥa đồng, cùng nhau chắp tay tự quy mạng Phật. Các loài súc sinh nhờ ánh sáng của Ngài nhuần thấm, đều được sinh lên trời. Người mẹ mang thai nhờ ánh sáng này giảm bớt sự đau đớn, sinh con đẹp đẽ, đoan chánh, tiêu sạch dâm, nộ, si, không c̣n trần lao, xem nhau như cha mẹ, anh em, con cái và như chính bản thân ḿnh. Địa ngục ngừng nghỉ, ngạ quỷ no đủ, theo ánh % sáng đến quy mạng Đức Thế Tôn, đều phát đạo ư.
Vua thấy Phật cao lớn một trượng sáu, tướng tốt sáng chói, thân, sắc vàng ṛng, các căn vắng lặng, như mặt trăng giữa các v́ sao, rực rỡ như nũi vàng. Thiên đế, Phạm vương, Tứ vương tôn kính; thấy các Phạm chí từ lâu ở trong núi phơi trần thân h́nh, nắng thiêu, gió táp, thân thể đen thui, gầy ốm đứng hầu một bên Phật như con voi đen bên ngọn núi vàng, không thể nổi bật. Đức lớn của Phật hiển lộ khiến cho tất cả đều vui mừng.
Vua lại sắc các gia đ́nh danh giá thuộc ḍng họ Thích ở trong nước, chọn năm trăm người đoan chánh có nhan mạo đẹp đẽ, đặc biệt, chọn năm trăm người xuất gia làm Sa-môn để hầu hạ bên Phật, giống như chim phượng hoàng ở trên núi Tu-di, cũng như ngọc ma-ni để trong hộp thủy tinh.
Bấy giờ Nan-đà, em của Phật cũng muôn làm Sa-môn, chưa cạo râu tóc. Nan-đà có một người nô bộc làm thợ hớt tóc, đến trước bạch Phật:
-Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, cơ hội tốt khó có. Nay con là trượng phu, cũng như các Tôn giả đă biết đạo rất cao xa không thể suy lường, không ham muốn sự giàu sang vinh hiển ở đời, xả bỏ địa vị tôn quư đi làm Sa-môn. Nay con ở địa vị nhỏ bé, thấp hèn, hoàn toàn không có thể sánh kịp các Tôn giả th́ có ǵ xuất gia hành đạo! Cúi xin Phật thương xót cứu giúp ba đường, ch́m đắm trần ai, cứu độ con làm Sa-môn.
Phật dạy: “Lành thay!” và gọi: “Đến đây, Tỳ-kheo!” th́ tóc ông tự rụng, ca-sa khoác thân, liền thành Sa-môn, đảnh lễ các Sa-môn và theo thứ lớp ngồi vào vị trí.
Nan-đà đến sau, theo thứ lớp đảnh lễ các Tôn giả. Khi đến chỗ Sa-môn này th́ đứng chớ không lạy. Trong ḷng tự nghĩ: “Đây là kẻ nô bộc trong nhà, không thể làm lễ”. Phật biết tâm niệm đó nên bảo Nan-đà:
-Phật pháp bao dung tất cả, căn cứ chỗ tu học trước hay sau chứ không nhắm vào sự cao quư hay thấp hèn. Cũng như biển lớn dung nạp tất cả muôn sông, bốn ḍng không tách nước bùn; giữ tâm như đất, bốn đại đều b́nh đẳng. Đất nước lửa gió, trong ngoài không khác, tinh thần rỗng không, thanh tịnh. Chỗ đắm trước là danh, nên bỏ tự đại, dùng pháp để tự thăng tiến mới đúng với lời giáo huấn của đạo Tiên thánh vô cực.
Bấy giờ Nan-đà nghe Phật dạy những lời thiết tha, chí lư, trước việc chẳng đặng đừng, hiểu rơ tất cả vốn không, vứt bỏ tự đại, hạ ư làm lễ. Trời đất chân đống mạnh, cả chúng hội đều khen:
-Lành thay! V́ đạo tâm b́nh đẳng, tự dẹp bỏ cống cao, hạ thấp tâm xuống, cảm đến trời đất, làm cho chấn động mạnh.
Bắt đầu từ đó Phật chế pháp: Ai tu học trước là lớn, ai tu học sau là nhỏ. Đó là lễ thường t́nh của chánh pháp, điều không gây hiềm khích th́ không có sự tranh căi.
Bấy giờ Phật vào cung, ngồi ở trên điện. Vua và thần dân ngày ngày cúng dường trăm món thức ăn ngon. Phật giảng kinh pháp, người được độ nhiều vô lượng.
Cù-di dắt La-vân đến cúi đầu lễ sát chân Phật, ngước nh́n thăm hỏi:
-Ly biệt đă lâu, thiếu vắng sự cúng dường hầu hạ.
Bấy giờ quần thần trong triều đều ôm ḷng nghi ngờ trầm trọng. Họ cho rằng Thái tử bỏ nước ra đi đă mười hai năm, do đâu mang thai sinh La-vân?
Phật thưa phụ vương nên nói cho quần thần rơ:
-Cù-di thủ tiết, trinh khiết thanh tịnh, không hề có tỳ vết. Giả sử vương tộc không tin, nay sẽ hiện rơ để chứng minh.
Khi ấy Đức Thế Tôn biến hóa khiến tất cả chúng tăng đều giống in như Phật, tướng tốt sáng chói giống in nhau không khác.
Bấy giờ La-vân vừa đúng bảy tuổi, Cù-đi liền đem chiếc ṿng ngọc làm của tin trao cho La-vân và nói:
-Đó là vật của cha con, hăy đem đến trao lại.
La-vân khi ấy liền đi thẳng đến trước Phật, đem ṿng ngọc trao cho Đức Thế Tôn. Vua và quần thần đều rất vui mừng, đồng thốt lên:
-Lành thay! Đă rơ ràng, rất là chân thật. La-vân là con Phật.
Phật nói với phụ vương cùng các quần thần:
-Từ nay về sau không c̣n hoài nghi ǵ nữa. Đây chính là con ta. Duyên ta hóa sinh. Chớ nghĩ xâu cho Cù-di.
Vua được chứng đạo, Cù-di thọ giới, tịnh tu phạm hạnh. Cung nhân lớn nhỏ đều thọ giới pháp, một tháng sáu ngày trai, một năm ba tháng trai giữ ǵn không lười trễ. Trong nước thanh b́nh, an ninh, mưa gió thuận ḥa không trái thời tiết, ngũ cốc dẫy đầy, dân chúng an cư , lạc nghiệp. Muôn dân vạn nước đều đến chúc mừng, đạo đức ngày thêm vun bồi như trăng đầu tháng.
Phẩm 29: KHEN NGỢI PHẬT
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo với nhóm tám vị trời Thần Diệu, Đại Thần Diệu, Hoan Dự, Gia Hoan, Chiên-đàn, Đại Duyệt, Tịch Nhiên, Tịch Luật, Thiên tử cơi trời Tịnh cư:
-Phật lập đại hội chuyển pháp luân. Phật v́ tất cả cho nên cứu giúp mười phương, không khiến cho bị dứt bỏ. Khai mở tâm ư chúng sinh, trải khắp thiên hạ mới đền đáp được ân Phật.
Đức Thế Tôn lại bảo Thiên tử Thần Diệu:
-Nay kinh này đặt tên là “Phổ Diệu Đại Phương Đẳng”, là điều đáng vui mừng của các Bồ-tát, khiến khắp các cơi Phật đều được nghe. Kinh này được truyền đến nơi nào, th́ nơi ấy chói sáng. Đây chính là từ kim khẩu Phật nói ra nên phải mau thọ tŕ đọc tụng, là con mắt của Phật pháp khiến cho lưu bố cùng khắp. Nếu Bồ-tát khi học, nghe kinh pháp này, tâm người đó vững mạnh, tinh tấn phụng hành đạo Vô thượng Chánh chân, th́ đó là cái học rất chân chánh. Nếu có chúng sinh ưa thích sự vi diệu, trụ pháp Đại thừa, không có tâm niệm nghi ngờ, hàng phục lưới ma, th́ đọc tụng xong, chắc chắn đều đạt được quả vị Đại Thánh. Các phái ngoại đạo dị học không hoành hành được. Khuyên giúp người học kinh điển mầu nhiệm này, thành tựu được đức lớn, đến với Đại thừa. Nếu có người hiền, nghe nói kinh Phổ Diệu này, chắp tay tự quy y, th́ liền bỏ được nguồn gốc của tám việc biếng nhác, thành tựu được tám công: huân. Những ǵ là tám?
1. Được dung mạo đoan nghiêm.
2. Được thế lực mạnh mẽ.
3. Được quyến thuộc đông nhiều.
4. Mau đạt được biện tài vô lượng.
5. Học nhanh được xuất gia.
6. Việc làm được thanh tịnh.
7. Được định Tam-muội.
8. Được trí tuệ sáng suốt, không điều nào là không rơ.
Đó là tám công đức.
Nếu có người nào v́ Pháp sư, trải ṭa, đọc tụng kinh này sẽ đượctám chỗ ngồi. Những ǵ là tám?
1. Được chỗ ngồi của trưởng giả.
2. Được chỗ ngồi của Chuyển luân vương.
3. Được chỗ ngồi của Thiên đế Thích.
4. Được chỗ ngồi của Tự tại thiên.
5. Được chỗ ngồi của Đại phạm thiên.
6. Được chỗ ngồi của Bồ-tát.
7. Được chỗ ngồi của Như Lai.
8. Được chỗ ngồi của Chuyển pháp luân, độ thoát tất cả.
Đó là tám chỗ ngồi.
Nếu có Pháp sư giảng dạy pháp này, giả sử có người khen ngợi: “Lành thay!”, người đó sẽ được tám hạnh thanh tịnh. Những ǵ là tám?
1. Lời nói và việc làm phù hợp, không mâu thuẫn.
2. Lời nói chí thành không luông dối.
3. Ở trong chúng hội chân thật, không dối lừa.
4. Nói ra điều ǵ mọi người tin theo không xa bỏ.
5. Lời nói dịu dàng không cộc cằn.
6. Tiếng nói êm ái giống như chim loan.
7. Thân tâm theo thời, âm thanh như Phạm thiên. Người trong hội nghe, không ai là không lănh thọ.
8. Âm vang như Phật, có thể làm vui ḷng chúng sinh.
Đó là tám hạnh thanh tịnh.
Nếu có người ghi chép kinh Phổ Diệu này trên thẻ trúc, lụa, không keo kiệt lẫn tiếc kinh, không ôm ḷng đố kỵ, mọi người khen ngợi, được ba mươi bốn hạnh, danh đức truyền khắp.
Nếu lại có người học kinh điển này sẽ được tám đại tàng. Những ǵ là tám?
1. Được ư tàng, chưa từng quên bỏ.
2. Được tâm tàng, phân biệt kinh pháp, không chỗ nào là không hiểu.
3. Được văng lai tàng, hiểu khắp tất cả các kinh pháp của Phật.
4. Được tổng tŕ tàng, đối với tất cả những điều đă nghe đều có thể phân biệt nhớ hết.
5. Được biện tài tàng, v́ các chúng sinh tuyên dương kinh điển, tất cả đều vui mừng lănh thọ.
6. Được pháp tàng, hộ tŕ chánh pháp.
7. Được tùy ư pháp tàng, chưa từng đoạn tuyệt giáo pháp tam bảo.
8. Được phụng hành pháp tàng, mau được pháp nhẫn vô sở tùng sinh.
Đó là tám đại pháp tàng.
Nếu có người nào thọ tŕ đọc tụng kinh Phổ Diệu này th́ được đầy đủ tám nghiệp. Những ǵ là tám?
1. Thí nghiệp: Không có tâm keo kiệt, ganh ghét.
2. Giới nghiệp: Đầy đủ các nguyện.
3. Văn nghiệp: Tập hợp các trí tuệ đạt đến vị quán đảnh.
4. Tịch nghiệp: Siêng năng đốivới tất cả định ư chánh thọ.
5. Kiến nghiệp: Có thể thấy đầy đủ được trí tam đạt.
6. Phước nghiệp: Tướng tốt đầy đủ, dạy bảo nước Phật
7. Tuệ nghiệp: V́ mọi người thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc.
8. Đại ai nghiệp: V́ mười phương trồng các gốc đức, không biếng nhác trong việc thọ tŕ pháp Phổ Diệu này.
Tâm tự nghĩ khiến cho tất cả chúng sinh đều mau đạt được pháp này. Do đức bổn ấy, lại được tám phước lớn. Những ǵ là tám?
1. Thành phước đức lớn của Chuyển luân thánh vương, thấy cảnh Niết-bàn kiến lập ḷng tin thuần nhất.
2. Được làm Tứ Thiên vương.
3. Được làm Đế Thích.
4. Được làm Viêm thiên.
5. Được làm Thiên tử Đâu-suất.
6. Được làm Vô kiêu lạc thiên.
7. Được làm Hóa tự tại thiên.
8. Được làm Như Lai, dứt các pháp bất thiện, đầy đủ các gốc thiện.
Đó là tám phước lớn.
Nếu có người thọ tŕ kinh Phổ Diệu này, hoặc chí tâm nghe rơ suốt, ghi nhớ, th́ được tám tâm thanh tịnh. Những ǵ là tám?
1. Thường thực hành Từ tâm, tiêu trừ sân giận.
2. Thường thực hành Bi tâm, trừ các hoạn hại.
3. Thường thực hành Hỷ tâm, tiêu trừ các sự không vui.
4. Thường thực hành Xả tâm, trừ các sự kết trói dính mắc.
5. Tu hạnh Tứ thiền, ở ngay nơi cơi Dục mà được tự tại.
6. Hành Tứ vô sắc định do ḿnh mà được.
7. Được năm phép thần thông dạo chơi nơi các cơi Phật, trừ các quái ngại, các nạn ngăn che.
8. Đạt được định ư mạnh mẽ, một ḿnh dạo đi trong ba cơi.
Đó là tám tâm thanh tịnh.
Phẩm 30: CHÚC LỤY
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo hiền giả Ca-diếp, hiền giả A-nan và Bồ-tát Di-lặc:
-Ta từ vô số kiếp tu theo pháp này mới thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân. Nay phó chúc cho các thầy, các thầy hăy trao tay nhau thọ tŕ đọc tụng, rộng v́ người giảng nói.
Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn cho kinh pháp này được truyền bá khắp mười phương, Ngài thuyết kệ:
Phật xem thấy các loài chúng sinh
Đều được La-hán như con ta.
Nếu người ngàn ức kiếp cúng dường
Và tiếp cúng dường hằng sa nữa
Lại thêm cúng dường Bích-chi-phật
Có người một ngày thờ kinh này
Tính công đức này vượt hơn kia
La-hán số đông nhiều vô kể
Tất cả chúng sinh thành Duyên giác
Nếu có người ức kiếp cúng dường
Ẩm thực, y phục, sàng, ngọa cụ
Hương bột, hương tạp và danh hoa
Nếu có người nhất tâm chắp tay
Chí tâm tự quy một Như Lai
Miệng tự xưng lên Nam-mô Phật
Phước công đức này thật tối thượng
Tất cả chúng sinh đều thành Phật
Nếu có người ức kiếp cúng dường
Y bị, ẩm thực, sàng, tọa cụ
Hương bột, hương tạp và danh hoa
Nếu chánh pháp sắp bị lâm nguy
Vứt bỏ thân mạng để hộ tŕ
Nếu người nào trong một ngày đêm
Giữ các pháp này tất hơn kia.
Nếu người phụng sự mười phương Phật
Cùng với Duyên giác các Thanh văn
Nếu người giữ vững đạo tâm này
Nhận lănh yếu điểm các pháp vương
Tất cả kinh là đạo chắc thật
Nếu Như Lai nhiều như hằng sa
Cúng dường thờ phụng các vị ấy
Nếu có người tay nhận kinh này
Đạt được biện tài không ai sánh
Phân biệt một câu đến ức kiếp
Trí tuệ chánh nghĩa không hao tổn
Nếu đem kinh đây giảng cho người
Trí tuệ đạo sư không bờ đáy
Xét không có ai cùng sánh bằng
Giống như sông biển không cùng tận
Người nghe pháp này cũng như vậy.
Phật bảo các Hiền giả Ca-diếp, A-nan, Di-lặc cùng dặn ḍ nhau, lănh thọ, hành tŕ, đọc tụng, học tập, khiến cho lưu bố cùng khắp. Chỉ dạy cho những người cùng học và những người trong mười phương, đều khiến cho tất cả được nhờ ân tế độ để cho không bị dứt mất. Lần lượt dạy bảo cho nhau, lần lượt thành tựu cho nhau, khiến cho không bị đ́nh trệ, ngôi Tam bảo không diệt, mới báo được ân Phật.
Phật dạy như vậy, Thiên tử Đại Thần Diệu và Thiên tử Tịnh cư, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Hiền Kiếp và Đại Ca-diếp cùng các đại đệ tử, Thiên, Long, Quỷ thần, Kiền-thát-ḥa, A-tu-luân nghe Phật giảng thuyết đều hoan hỷ phụng hành.
HẾT QUYỂN 8
|