Số 1095
Kinh Bất Không Quyến Sách Chú Tâm
Hán Dịch: Đường Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi Phụng Chiếu Dịch
Việt Dịch: Huyền Thanh
-o0o-
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm (Bhagavàn) ngự trong cung của Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát (Àryàvalokite’svara) ở núi Bố Đát Lạc Ca (Potalaka). Đất ấy có vô lượng cây Sa La báu (‘Sala), cây Đa Ma La (Tamàla), cây Chiêm Bác Ca (Campaka), cây A Du Ca (À’soka) , A Để Mục Đa Ca (Atimuktaka)…. Mọi loại cây báu vây vòng trang nghiêm cùng với Chúng Đại Bật Sô (Mahà-Bhiksu) gồm tám ngàn người đến dự. Chín mươi chín câu chi na dữu đa trăm ngàn vị Bồ Tát Ma Ha Tát (Bodhisatva mahàsatva) với vô lượng trăm ngàn vị Tịnh Cư Thiên Tử (‘Suddhavàsà-Devaputra), Tự Tại Thiên Tử (I’svara-Devaputra), Đại Tự Tại Thiên Tử (Mahe’svara-Devaputra), Đại Phạm Thiên Tử (Mahàbrahma-Devaputra) đều là bậc Thượng Thủ cùng với vô lương trăm ngàn người Trời khác trước sau vây quanh Đức Phật nghe nói Pháp. Bấy giờ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, hướng về Đức Phật, chắp tay , dung nhan thư thái mỉm cười rồi bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Con có Thần Chú Tâm tên là Bất Không Quyến Sách (Amogha-pà’sa). Nơi chín mươi mốt (91) kiếp ở thời xa xưa , lúc đó có Thế Giới tên là Thắng Quán (Vilokitàyàm), Đức Phật hiệu là Thế Chủ Vương Như Lai (Lokendraràja_Tathàgataya), con theo Đức Phật ấy thọ nhận Bất Không Quyến Sách Chú Tâm Bạch Đức Thế Tôn ! Do con thọ trì Thần Chú đó cho nên giáo hóa vô lượng trăm ngàn Tịnh Cư Thiên Tử, Tự Tại Thiên Tử, Đại Tự Tại Thiên Tử khiến hướng Đến A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttàra-samyaksambuddhi_ Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác). Dùng sức Công Đức đó cho nên liền được mười ức Tam Ma Địa (Samàdhi),Bất Không Diệu Trí (Asammohajnàna) mà làm bậc Thượng Thủ. Thế Tôn ! Nếu ở chỗ nào có Chú Tâm này thì đất ấy có hàng Đại Tự Tại, hai mươi ức chư Thiên đến ủng hộ như Chế Đa (Caitya:Tháp ) của Đức Phật. Thế Tôn ! Thần Chú Tâm này tùy theo nơi trú ngụ. thì nên biết Hữu Tình trong chỗ ấy đã gieo trồng các căn lành nơi vô lượng trăm ngàn câu chi na dữu đa trăm ngàn Phật Thế Tôn ! Nếu lại có người nghe Chú Tâm này thì trước kia người đó đã gây tạo nghiệp ác, hành điều Phi Pháp , hủy nhục bậc Hiền Thiện, phỉ báng Chính Pháp với đã phỉ báng tất cả chư Phật, Bồ Tát , Thanh Văn, Duyên Giác…quyết định bị đọa trong Đại Địa Ngục Vô Gián. Thế Tôn ! Nếu người ấy nghe Thần Chú Tâm này mà sinh lòng ăn năn xấu hổ , ở một ngày đêm thọ trì Trai Giới, đọc Thần Chú này, liền hay tiêu diệt tất cả nghiệp tội. Hoặc lại khiến cho hết thảy nghiệp tội của người ấy hiện thành quả báo nhẹ ngay trong đời hiện tại. Hoặc bị bệnh nóng sốt trong một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày. Hoặc nhóm mắt, tai, mũi, lưỡi, môi, răng, lợi, vòm miệng, tim, bụng, rốn, hông sườn, bàn tay, bàn chân, chi tiết…bị đau nhức. Hoặc bị bệnh Trĩ, Hạ lỵ, táo bón, Bạch Lại, Đại Lại (cùi hủi). Hoặc bị ghẻ lở, Hắc Lào, nhọt đen, nhọt đỏ, nhọt tuôn mủ, nhọt trứng cá. Hoặc bị điên, động kinh. Hoặc bị yếm đối, cổ độc, cột trói, đánh đập, phỉ báng, chửi mắng xỉ nhục với các ác khác bức não thân tâm kèm các mộng quái dị. Nay con nói đã hiện thọ báo đó cho nên nghiệp ác vô gián liền được tiêu diệt huống chi các chúng sinh thanh tịnh, tin tưởng thọ trì Chú này mà chẳng diệt được tất cả nghiệp tội ư ?!... Thế Tôn ! Nếu có chúng sinh dùng tâm xu nịnh, hư giả nghe con nói Bất Không Quyến Sách Chú Tâm, giả trá hiện thọ trì, hoặc tự viết hoặc khiến người viết, hoặc vì người khác khiến cho kẻ ấy nghe nhận cho đến hướng bên lỗ tai của loài bàng sinh tụng Chú Tâm này với suy nghĩ chương cú của Thần Chú. Do chẳng hủy báng nên không có tướng, nên không có sinh, nên không có phân biệt, nên chậm rãi đến, nên không có tác làm, nên lìa nhiễm, nên bình đẳng, nên chẳng buông xả, nên lìa Uẩn. Như vậy tu tập tương ứng phương tiện đều có ngàn Đức Phật xuất hiện trước mặt người ấy. Hành Giả thấy xong thời hết thảy nghiệp tội thảy đều tiêu diệt. Thế Tôn !Nay con lược nói, cho đến có người sao chép Kinh này, để ở trong nhà, lễ bái cúng dường cũng được vô lượng vô biên Phước Đức huống chi là người thọ trì đọc tụng Thế Tôn ! Nếu có chúng sinh mỗi mỗi đều tự muốn thắng người khác. Hoặc sợ chủ, sợ oán thù, sợ thú ác, sợ nạn nguy hiểm. Hoặc tùy theo người khác, cầu sự tôn quý, cầu tài bảo… lắng nghe Thần Chú Tâm Kinh như vậy. Tuy có lắng nghe mà chẳng sinh cung kính, hoặc phỉ báng, khinh mạn, hủy hoại, chỉ trích. Do sức uy thần của Quán Tự Tại Bồ Tát cho nên khiến người như vậy cũng sinh Thắng Phước. Ví như có người lấy hương Chiên Đàn hoặc Trầm Xạ …. rồi mắng nhiếc, hủy hoại, chỉ trích, nghiền nát thành bột… dùng bôi trên thân nhưng nhóm hương ấy cuối cùng không có niệm này“Do người này hủy hoại, chỉ trích ta cho nên dấu mùi thơm ấy đi chẳng cho dùng”mà bản tính thơm phức của nhóm Chiên Đàn là tạo ra việc thơm tho ấy Bạch Đức Thế Tôn ! Thần Chú Tâm này cũng lại như vậy. Tuy có phỉ báng,hủy hoại, chỉ trích hoặc lại nịnh nọt giả trá viết chép thọ trì cúng dường nhưng đều cùng làm nhân duyên của căn lành, nên mọi nơi sinh ra thường chẳng buông lìa tư lương Phước Đức của Giới, Định, Trí Tuệ và ở đời sau này sẽ đầy đủ Giới Hương Thế Tôn! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện. Hoặc Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Tác Ca, Ổ Ba Tư Ca vào ngày mồng tám của tháng chuyên tâm Trai Giới, chẳng nói chuyện với người khác, tụng Bất Không Quyến Sách Chú Tâm này bảy biến thì đời này thân của người ấy được hai mươi loại lợi ích thù thắng. Thế nào là hai mươi ? 1_ Thân không có bệnh khác 2_ Do trước kia gây nghiệp có các bệnh tật sẽ mau được tiêu diệt. 3_ Thân ấy sáng loáng, da dẻ mềm mại khiến người nhìn thấy đều vui vẻ 4_ Mọi người yêu kính, ngầm hộ các căn 5_ Sẽ được tài bảo 6_ Được tài bảo xong, chẳng bị giặc trộm cướp đoạt 7_ Chẳng bị nước cuốn trôi, lửa thiêu đốt 8_ Chẳng bị vua chúa dùng sức xâm đoạt 9_ Sự nghiệp đã làm đều khéo hoàn thành 10_ Lúa mạ đã gieo trồng chẳng bị gió ác, mưa lớn, sương, mưa đá, sâu trùng gây tổn hoại 11_ Nếu tụng Chú Tâm này bảy biến chú vào tro với rước rồi rưới vảy tám phương, trên dưới, kết Giới thời tất cả tai nạn đều được tiêu diệt. 12_ Chẳng bị các hàng Quỷ ác đoạt lấy tinh khí 13_ Tất cả hữu tình yêu thích, vui vẻ nhìn 14_ Chẳng sợ hãi oán thù 15_ GIả sử có oán thù thì mau chóng được hòa giải 16_ Chẳng sợ người với Phi Nhân gây xâm hại, Yểm Cổ Tà Mỵ chẳng thể gây thương tích 17_ Không có Phiền Não với Tùy Phiễn Não mãnh lợi 18_ Lửa, đao, thuốc độc tạo thương tích gây hại thì chẳng bị chết. 19_ Các hàng Trời, Thiện Thần thường ủng hộ 20_ Ở trong chỗ sinh ra chẳng lìa Từ Bi Hỷ Xả. Cần phải mong cầu 20 loại lợi ích thù thắng như vậy. Lại có tám Pháp. Nhóm nào là tám ? 1_ Lúc lâm chung thời Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát hiển tướng Bật Sô (Tỳ Kheo) hiện ra trước mặt người ấy 2_ Lúc lâm chung thời an vui xả tuổi thọ, không có các thống khổ 3_ Lúc lâm chung thời Chính Niệm hiện tiền , Tâm chẳng thác loạn 4_ Lúc lâm chung thời tay chẳng bị bấn loạn, chân chẳng bị duỗi rút 5_ Lúc lâm chung thời chẳng bị rỉ thấm vì đại tiểu tiện 6_ Giả sử có bệnh cũng chẳng bị nằm liệt trên giường gối 7_ Lúc lâm chung thời chẳng úp mặt mà chết 8_ Lúc lâm chung thời được biện tài vô tận. Sau khi mệnh chung tùy theo nguyện vãng sinh về Tịnh Độ của chư Phật với chẳng buông lìa các Thiện Tri Thức.
Thế Tôn ! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện… chẳng ăn uống rượu thịt, huân tân với tiếp chạm điều tàn ác, ngày ngày ba Thời, riêng tụng ba biến tụng Thần Chú Tâm Pháp Môn này thì ngày đêm tăng trưởng công đức thù thắng, biết rõ tất cả hữu tình có sức, không có sức tùy theo kẻ ấy lắng nghe Bồ Tát, chẳng ứng tâm sinh yêu tiếc bí mật, lìa hẳn các ác keo kiệt ganh ghét, thường vì lợi ích tất cả hữu tình cho nên mau hướng đến Bồ Đề nhập vào địa vị của Bồ Tát. Nói Bồ Đề là nói tên Bát Nhã . Nói Tát Đỏa tức là Phương Tiện. Hai loại Pháp này đối với các hữu tình sẽ được tất cả lợi ích an vui. Thế Tôn ! Nay muốn vì lợi ích an vui cho các Chúng của bốn Bộ với hữu tình khác, kẻ gây tạo nghiệp tội. Nguyện xin Đức Thế Tôn thương xót hứa cho con ở trước mặt Đức Như Lai nói Chú Tâm này” Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát rằng:”Này Hữu Tình Thanh Tịnh ! Nay chính là lúc ! Ta cũng tùy vui với Thần Chú Tâm này. Ở thời phận sau này vì người hành Bồ Tát Thừa mà làm cha mẹ khiến cho nơi làm sự nghiệp của các Bồ Tát mau được thành tựu” Khi ấy Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát chiêm ngưỡng chiêm ngưỡng Tôn Nhan, mắt chẳng tạm lìa rồi bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nguyện xin Đức Như Lai nghe con nói Thần Chú này, là nơi đáng kính lễ của tất cả Bồ Tát . Pháp Môn giải thoát này thương xót Thế Gian, lợi ích an vui cho vô lượng hữu tình,. Người muốn thọ trì, trước tiên nên kính lễ chư Phật với các Bồ Tát, Độc Giác, Thanh Văn ở ba đời. Kính lễ Chính Chí Chính Hạnh (Samyaggatànàm- Samyak-pratipannànàm) Lại nên kính lễ hàng Đại Tuệ Thanh Văn của nhóm Xá Lợi Tử (‘Sàriputra) Lại nên kính lể Chúng Thượng Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát của nhóm Từ Thị (Maitreya) Kính lễ Kim Sắc Quang Minh Hống Thanh Tự Tại Vương Như Lai (Suvarna varna-supratibhàsa-vinartite’svara-ràjàya Tathàgata) Kính lễ Sư Tử Du Hý Vương Như Lai (Simha-vikrìdita- ràjàya Tathàgata) Kính lễ Vô Lượng Quang Như Lai (Amitàbhàya-Tathàgata) Kính lễ Thiện Trụ Ma Ni Bảo Tích Vương Như Lai (Supratisthita-manikùta- ràjàya Tathàgata) Kính lễ Phổ Quang Minh Tán Thán Công Đức Tích Vương Như Lai (Samanta- ra’smyudgata-’srikùta ràjàya Tathàgata) Kính lễ Thắng Quán Như Lai (Vipa’syine Tathàgata) Kính lễ Bảo Kế Như Lai (‘Sikhine Tathàgata) 5 Kính lễ Hiện Thế Gian Như Lai (Vi’svabhuve Tathàgata) Kính lễ Xả Ly Tổn Hoại Uẩn Như Lai (Krakucchandàya Tathàgata) Kính lễ Kim Sắc Thân Tịch Như Lai (Kanakamunaye Tathàgata) Kính lễ Ẩm Quang Như Lai (Kà’syapàya Tathàgata) Kính lễ Năng Tịch Như Lai (‘Sàkyamunaye Tathàgata) Kính lễ Thiện Danh Xưng Như Lai (Suprakìrtita-nàmadheyàya Tathàgata) Kính lễ Phổ Quang Thắng Oán Địch Đức (Samantàvabhàsa-vijita- samgràma’srìye ràjàya Tathàgata) Kính lễ Đế Tràng Đức Như Lai (Indra-ketu-dhvaja-‘srìye Tathàgata) Kính lễ Bảo Quang Minh Tự Tại Vương Như Lai (Ratna-prabhàse’svara_ ràjàya Tathàgata) Kính lễ Vô Ngại Dược Vương Như Lai (Apratihata-bhaisajya-ràjàya Tathàgata) Kính lễ Dũng Mãnh Du Bộ Như Lai (Vikrànta-gàmine Tathàgata) Kính lễ Thiện Trụ Vô Úy Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác (Atìtànà-gata- pratyutpanna Tathàgatàya Arhate Samyaksambuddhàya) Kính lễ Tam Bảo (Ratna-trayàya) Kính lễ Bậc có đầy đủ Tâm Đại Bi là Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát (Àryàvalokite’svaràya bodhi-satvàya mahà-satvàya mahà-kàrunikàya) Kính lễ các Thánh Giả như vậy xong. Lại nên niệm lời Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát ở trước mặt Đức Như Lai nói Thần Chú Tâm:”Nay Ta cũng sẽ nói Thần Chú này. Nguyện cho nơi làm sự nghiệp của Ta mau được hoàn thành, khiến cho Ta đều trừ tất cả sự sợ hãi" Khi ấy Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát liền nói Chú là: 1_ Đá điệt tha 2_ Đồ giả la giả la 3_ Chỉ lý chỉ lý 4_ Chủ lỗ chủ lỗ 5_ Mẫu lỗ mẫu lỗ 6_ Ma khả ca lỗ nê ca dã 7_ Tỷ lý tỷ lý 8_ Chỉ lý chỉ lý 9_ Phí lý phí lý 10_ Ma khả bả đạt ma khả sa đá dã 11_ Ca la ca la 12_ Chỉ lý chỉ lý 13_ Củ lỗ củ lỗ 14_ Ma khả du đả sai đát phộc dã 15_ Bộ điệt bộ điệt 16_ Đả phộc đả phộc 17_ Ca nãi ca nãi 18_ Chỉ nê chỉ nê 19_ Củ nỗ củ nỗ 20_ Bả la ma du đả sai đát phộc dã 21_ Ca la ca la 22_ Chỉ lý chỉ lý 23_ Củ lỗ củ lỗ 24_ Ma khả sa tha ma bát la bát đá dã 25_ Giả la giả la 26_ Tán giả la, tán giả la 27_ Phí giả la, phí giả la 28_ Bát la giả la, bát la giả la 29_ Ế tra tra, ế tra tra 30_ Bà la bà la 31_ Tỳ lý tỳ lý 32_ Bộ lỗ bộ lỗ 33_ Đá la đá la 34_ Để lý để lý 35_ Đổ lỗ đổ lỗ 36_ Ế hý duệ hứ 37_ Ma khả ca lỗ nê ca 38_ Ma khả bả du bả để phệ sái đả la 39_ Đả la đả la 40_ Sái la sái la 41_ Giả la giả la 42_ Bả la bả la 43_ Phộc la phộc la 44_ Khả la khả la 45_ Khả khả, hứ hứ, hổ hổ 46_ Ám ca la bột la hát ma phệ sái đả la 47_ Đả la đả la 48_ Địa lý địa lý 49_ Đổ lỗ đổ lỗ 50_ Đá la đá la 51_ Sái la sái la 52_ Bả la bả la 53_ Phộc la phộc la 54_ Hạt la thất nhĩ xả đá sái khả sa la 55_ Bát la để mạn trĩđá xả lý la 56_ Thật phộc la, thật phộc la 57_ Đá bả đá bả 58_ Bà sái bà sái 59_ Bột la ma, bột la ma 60_ Bà già phạn, tố ma địa nhứ 61_ Dã ma, phộc lỗ nãi, củ phệ la 62_ Bột la hát miến đạt la 63_ Hạt lý sử đệ phộc già nãi bãi lật chỉ đá 64_ Giả la nãi 65_ Tô lỗ tô lỗ 66_ Chủ lỗ chủ lỗ 67_ Mẫu lỗ mẫu lỗ 68_ Bổ lỗ bổ lỗ 69_ Sái đả đát củ ma la, cốt lỗ đạt la phộc sái phộc 70_ Phí sắt nỗ 71_ Đả đả đả 72_ Phộc dật phộc khởi nễ 73_ Đệ phộc 74_ Hạt lý sử đả dã ca 75_ Bà hổ phí phí đả phệ sái đả la 76_ Đả la đả la 77_ Địa lý địa lý 78_ Đỗ lỗ đỗ lỗ 79_ Tha la tha la 80_ Già la già la 81_ Dã la dã la 82_ La la la la 83_ Khả la khả la 84_ Bả la bả la 85_ Ma la ma la 86_ Phộc la phộc la 87_ Phộc la đả dã ca 88_ Sái mạn đá phộc lộ chỉ đá 89_ Phí lộ chỉ đá 90_ Lộ kế thất phộc la 91_ Ma hề thất phộc la 92_ Mẫu hổ mẫu hổ 93_ Mẫu lỗ mẫu lỗ 94_ Mẫu dã mẫu dã 95_ Muộn giả muộn giả 96_ Lạc xoa, lạc xoa (Trong đây, người tụng Chú nên tự xưng tên họ của mình....) 97_ Tát phộc sái đát phòng thất giả 98_ Tát phộc bà duệ bãi 99_ Tát bộ bả la bả bãi 100_ Tát bộ bả tát kỳ bãi 101_ Tát phộc khất la hề la 102_ Phộc đả bạn đả đả 103_ Đá đồ đá 104_ Đá lật xả đá 105_ Hạt la đỗ đá sa ca la 106_ Đá khải khất nỗ đả ca 107_ Phí sái xả sa đát la 108_ Bá lý mộ giả ca 109_ Ca nãi ca nãi 110_ Chỉ nê chỉ nê 111_ Củ nỗ củ nỗ 112_ Giả la giả la 113_ Chỉ lý chỉ lý 114_ Chủ lỗ chủ lỗ 115_ Ấn đạt lý dã 116_ Bà la bộ đặng già 117_ Giả đổ la lật dã sai nhứ 118_ Tam bát la ca xả ca 119_ Đá ma đá ma 120_ Sái ma sái ma 121_ Ma sái ma sái 122_ Ma khả đá muộn đả ca la 123_ Phí đả ma đả 124_ Sái trá bả la nhĩđá 125_ Bả lý bổ la ca 126_ Nhĩ lý nhĩ lý 127_ Tra tra tra tra 128_ Sá sá sá sá 129_ Trưng trưng trưng trưng 130_ Trụ trụ trụ trụ 131 _ Ế nại dã chiết ma 132_ Cật lý đá bả lý ca la 133_ Ế hý duệ hứ 134_ Y thất phộc la bộ đá già nãi bạn xã ca 135_ Củ lỗ củ lỗ 136_ Bả la bả la 137_ Giả la giả la 138_ Sái la sái la 139_ Ca la ca la 140_ Ca tra ca tra 141_ Bả tra bả tra 142_ Ma tra ma tra 143_ Phí luân đả phí sái dã nễ phộc tín 144_ Ma khả ca lỗ nê ca 145_ Thất phệ đá dã, bảo nhũ bả phí đá 146_ Hạt la đát đả ma củ tra 147_ Ma la đả la 148_ Tát phộc thật phộc thủy la tỷ cật lý đá 149_ Xã tra ma củ tra 150_ Ma khả đạt bộ đá ca ma la 151_ Cật lý đá ca la đá la 152_ Điệt đả sái ma địa phí mộc xoa 153_ Bát la kiếm phách 154_ Bà hổ sái đát phộc tán đá để 155_ Bả lý bả giả ca 156_ Ma khả ca lỗ nê ca 157_ Tát phộc yết ma phộc la 158_ Phí thú đả ca 159_ Tát phộc phiệt địa 160_ Bát la mộ giả ca 10 161_ Tát phộc sái đát phộc, a xả dã 162_ Bả lý bổ la ca 163_ Tát phộc phộc sái đát phộc 164_ Sái ma thất phộc sái ca la 165_ Đả mộ sa đổ đế, sa phộc khả 166_ Đả mộ già dã, sa phộc khả 167_ Đả thị đá dã , sa phộc khả 168_ Đả bả la thị đá dã, sa phộc khả 169_ Phí la dã, sa phộc khả 170_ Phộc la đả dã, sa phộc khả 171_ Phộc la bát la đả dã, sa phộc khả 172_ Y đản giả mê, tát phộc yết ma củ lỗ 173_ Đả mộ sa đô, sa-phộc khả 174_ Đồ xã giã liễm , sa-phộc khả 175_ Ám hát la thị, sa phộc khả 176_ Ám hý lý đát lại lộ gia phí xã dã 177_ Đả mộ già bả xả 178_ Đả bát la để khả đá 179_ Hứ lý 180_ Khả 181_ Hứ 182_ Liễm 183_ Phả trất phả trất 184_ Sa phộc khả. TADYATHÀ: OM CARA CARA _ CIRI CIRI _ CURU CURU _ MURU MURU MAHÀ-KÀRUNIKÀYA SIRI SIRI _ CIRI CIRI _ VIRI VIRI MAHÀ-PADMA-HASTÀYA _KALA KALA _ KILI KILI _ KULU KULU MAHÀ-‘SUDDHA-SATVÀYA BUDHYA BUDHYA _ BODHA BODHA _ KANA KANA _ KINI KINI _ KUNU KUNU PARAMA’SUDDHA-SATVÀYA _KARA KARA _ KIRI KIRI _ KURU KURU MAHÀ-STHÀMAPRÀPTÀYA CALA CALA _ SAMCALA SAMCALA _ VICALA VICALA _ PRACALA PRACALA _ ETATA ETATA _ BHARA BHARA _BHIRI BHIRI _ BHURU BHURU _ TARA TARA _ TIRI TIRI _ TURU TURU EHYEHI MAHÀ-KÀRUNIKA _ MAHÀ-PA’SUPATI-VE’SADHARA _ DHARA DHARA _SARA SARA _CARA CARA _ PARA PARA _ VARA VARA _ HARA HARA _ HÀHÀ HÌHÌ HÙHÙ OM KARA BRAHMA VA’SADHARA _ DHARA DHARA _ DHIRI DHIRI _ DHURU DHURU _ TARA TARA _SARA SARA _ CARA CARA _ VARA VARA RA’SMI-‘SATA- SAHASRA-PRATIMANDITA’SARÌRA _ JVALA JVALA _ TAPA TAPA _ BHÀSA BHÀSA _ BHRAMA BHRAMA BHAGAVAM SOMA-ÀDIYA- YAMA-VARUNA_KUBERA- BRAHMENDRA-RSI-DEVA-GANA-ABHYÀRCITA-CARANA _ SURU SURU _ CURU CURU _ MURU MURU –GHURU GHURU SANAKUT-KUMÀRA-KRODHA-DHÀRA-VÀSAVA-VISNU-DHANA- DAVÀYVAGNI-DEVA-RSINÀYAKA- BAHU-VIVIDHA-VE’SADHARA _ DHARA DHARA _ DHIRI DHIRI _ DHURU DHURU _ THARA THARA _ GHARA GHARA _ YARA YARA _ LARA LARA _ HARA HARA _ PARA PARA _ MARA MARA _ VARA VARA VARADÀYAKA-SAMANTA-AVALOKITA-VILOKITA-LOKE’SVARA- MAHE’SVARA _ MUHU MUHU _ MURU MURU _ MUYA MUYA _ MUNCA MUNCA _ RAKSA RAKSA (Xưng tên họ.......)_ SARVA-SATVÀNÀMCA _ SARVA BHAYEBHYAH SARVA-UPADRAVEBHYAH SARVA- UPASAGREBHYAH _ SARVA-GRAHEBHYAH _ BANDHA BANDHA TÀDANA-TARJANA-RÀJA-TASKARA-AGNYUDAKA-VISA’SASTRA- PARIMOCAKA- KANA KANA _ KINI KINI _ KUNU KUNU _ CARA CARA _ CIRI CIRI _ CURU CURU INDRIYA-BALABODHYAMGA-CATUR-ÀRYASATYA-AMPRAKÀ’SAKA _ TAMA TAMA _ ‘SAMA ‘SAMA _MASA MASA MAHÀ-TAMONDHAKÀRA-VIDHAMANA-SATPÀRAMITÀ- PARIPÙRAKA _ MILI MILI _ TATA TATA _ THATHA THATHA _ TITI TITI _ TUTU TUTU ENEYACARMAKRT-PARIKARA _ EHYEHI_ I’SVARA-BHÙTAGANA- SAMBHANJAKA _ KURU KURU _ PARA PARA _ CARA CARA _ SARA SARA _ KARA KARA _ KATA KATA _PATA PATA _ MATA MATA VI’SUDDHA-VISAYA-NIVÀSINA-MAHÀ-KÀRUNIKA _ ‘SVETAYA- JNOPAVÌTA- RATNA-NUKUTA-MÀLÀ-DHARA _ JATA-MUKUTA-MAHÀ- UDBHUTA-KAMALA _ KRTA-KARA-TALA-DHYÀNA-SAMÀDHI-VIMOKSÀ- PRAKAMPYA _ BAHUSATVA-SAMTATI- PARIPÀLAKA-MAHÀ-KÀRUNIKA SARVA-KARMA-VARANA VI’SODHAKA _ SARVA-VYÀDHI PRAMOCAKA_ SARVA-SATVA-A’SÀYA PARIPÀRAKA _ SARVA-SATVA- SAMA-A’SVA-KARA NAMOSTUTE SVÀHÀ AMOGHÀYA SVÀHÀ AJITÀYA SVÀHÀ APARÀJITÀYA SVÀHÀ VÌRÀYA SVÀHÀ VARADÀYA SVÀHÀ VARAPRADÀYA SVÀHÀ IDAM CA ME SARVA-KARMA KURU NAMOSTUTE SVÀHÀ JAYÀYA HÙM SVÀHÀ OM JRA JIM SVÀHÀ OM HRÌH TRAILOKYA-VIJAYA AMOGHAPÀ’SA APRATIHATA HRÌH HAH HÙM PHAT PHAT HRÌH Thần Chú Tâm này tùy tụng có hiệu nghiệm, chỗ làm đều thành, ngày ngày ba Thời, trong mỗi một Thời đều tụng ba biến thì năm tội Vô Gián đều được tiêu diệt, tất cả nghiệp chướng đều được thanh tịnh. Đốt Trầm Thủy Hương hoặc rải tro, rải nước, hoặc hạt cải trắng dùng làm kết Giới. Hoặc lấy cây Khư Đà La (Khadira) làm cây cọc, chú vào 21 biến xong rồi đóng ở bốn phương. Nếu bị tất cả bệnh nóng, lạnh, sốt rét. Chú vào sợi chỉ kết làm sợi dây rồi đeo thì bệnh được trừ khỏi. Các người có bệnh.Hoặc chú vào dầu bơ, hoặc lại chú vào nước rồi khiến người bệnh ấy hoặc uống hoặc xoa bôi liền được trừ khỏi. Nếu bị Yểm Cổ, nên dùng miến, bùn, sáp… làm hình tượng người, dùng dao chặt đứt. Lại dùng Chú Sách (Sợi dây Chú) khiến người bị ếm thường đeo trên thân Nếu bị đau bụng, nên chú vào nước muối rồi đưa cho,khiến uống Nếu bị các chất độc, chú vào đất hoặc nước , hoặc xoa bôi hoặc uống liền được tiêu diệt. Nếu bị bệnh về mắt, chú vào chỉ trắng làm sợi dây rồi dùng đeo ở lỗ tai người ấy Nếu răng nanh, răng bị đau buốt, chú vào cây Ca La Phí La (Karavìra) rồi nhai nhấm Nếu muốn Kết Giới. Dùng cây Khư Đà La (Khadira) làm cái cọc rồi đóng ở bốn góc, chú vào sợi dây ngũ sắc 21 biến rồi quấn quanh bên trong các cây cọc. Nếu muốn Tự Hộ với Hộ Tha , nên đeo sợi dây Chú hoặc chú vào nước, chú vào tro rồi rưới vảy thân ấy. Nếu bị tất cả bệnh Quỷ, chú vào chỉ ngũ sắc làm sợi dây đeo Nếu bị tất cả bệnh nóng sốt, chú vào chỉ trắng làm sợi dây đeo Nếu bị tất cả các nhọt ác, thịt sưng vù lên, hoặc cổ họng bị bế tắc; dùng Mật hòa với Tất Bạt rồi chú vào cho uống Nếu bị bệnh mắt, nên chú vào nước Hương hoặc nước Ba La Xa (Palà’sa), hoặc nước cam thảo rồi dùng tẩy rửa. Nếu bị đau tai, chú vào dầu mè rồi nhỏ trong lỗ tai. Nếu gặp chuyện chiến đấu, tranh tụng, hủy báng; nên lấy Chú chú vào nước rồi lau rửa mặt. Nếu muốn ủng hộ Kinh đô của vua, làng xóm. Nên lấy bốn cái bình, bên trong chứa đầy nước với đem thức ăn uống làm cúng dường lớn. Người tụng Chú ấy mặc áo mới sạch, đọc tụng Chú này liền được cát tường. Lại dùng nước ấy rưới vảy đốt đó ủng hộ tất cả các hàng hữu tình thời hết thảy tai ách đều được tiêu diệt. Nếu bị bệnh Tà, dùng nước mài Chiên Đàn (Candana), chú vào 21 biến rồi xoa bôi trên trái tim người ấy. Nếu phạm bốn tội nặng, năm tội Nghịch, các tội Vô Gián. Nên thường tụng Chú này thì tội ấy được tiêu diệt. Nếu hộ giữ nhà cửa. Nên lấy hoa sen gồm 108 cái, đều chú một biến rồi thiêu đốt ở trong lửa. Nếu muốn khiến cho tất cả hữu tình tùy thuận. Nên lấy Chiên Đàn (Candana) dài hai thốn (2 tấc Tàu) gồm 108 cái, đều chú một biến, thiêu đốt ở trong lửa. Nếu vị vướng Quỷ Mỵ với có sự sợ hãi. Nên lấy thuốc Xã Gia (Jaya), thuốc Phí Xã Gia (Vijaya), thuốc Na Củ Lê (Nàkulì), thuốc Kiện Đà Na Củ Lê (Gandha-nàkulì), thuốc Bà Thứ Ni (Dhàranì), thuốc A Bà Dã Ba Nê (Abhayapani), thuốc Nhật Đạt La Ba Nê (Indrapani), thuốc Kiền Đà Bát Lý Dạng Cồ (Gandha-priyamgu), thuốc Đa Già La (Tagara), thuốc Chước Cật La (Cakrà), thuốc Ma Ha Chước Cật La (Mahà-cakrà), thuốc Tỳ Sắt Nộ Cật Lạn Đa (Visnu-kràntà), thuốc Tô Ma La Thời (Somaràjì), Tô Nan Đà (Sunanda)…… đem các thuốc như vậy đâm, giã, sàng lọc rồi hòa với nước làm thành viên. Hoặc để trên đầu, hoặc cột ở hai cánh tay, hoặc đeo trên cổ đứa bé thì Quỷ Mỵ sợ hãi đều được tiêu diệt Nếu có người đàn bà do phước mỏng nên bị người chán ghét khinh rẻ, muốn cầu con trai. Mặc áo mới sạch, chú vào nước thuốc ấy đủ 21 biến rồi tấm gội thân của mình sẽ được Thắng Phước, tướng ác tiêu diệt, cầu nam được nam, tất cả được lợi ích. Chất độc, lửa chẳng thể xâm phạm, chẳng vướng tai hoạnh Nếu gặp gió ác, mưa to lớn với cháy nhà, mưa đá… chú vào nước 21 biến dùng vảy bốn phương. Hoặc chú vào cây gậy bằng gỗ Ca La Phí La (Karavìra) mãn 21 biến rồi khua múa chỉ trên hư không thì nhóm gió liền ngưng dứt. Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Đại Thần Chú Tâm thành tựu sự nghiệp thù thắng như vậy. Người chưa thành biện nên dùng lụa trắng vẽ làm tượng Phật. Dùng keo bằng hương thơm hòa màu sắc, đừng dùng loại keo khác. Ở bên tượng Phật, vẽ tượng QuánTự Tại Bồ Tát với thân màu trắng vàng, tóc xanh biếc rũ xuống, đầu đội mão hoa, khoác tấm da Nhĩ nê dã (Jinàya: Da hươu đen) như hình trạng của Ma Hê Thủ La (Mahe’svara), vòng xuyền đều dùng trân bảo để nghiêm sức. Lúc Họa Sư muốn vẽ thời trước tiên nên thọ tám Pháp Trai Giới. Vẽ tượng xong rồi. Ở trước Tượng dùng Cồ Ma Di (phân bò) làm Mạn Trà La (Mandala: Đàn Trường) rộng khoảng một trượng sáu thước , đem rải hoa trắng . Thám phương của các Đàn ấy để tám cái bình chứa nước thơm, đặt tám phần thức ăn hoặc 64 phần. Như vậy cúng dường, trừ nhóm huân tân. Đốt Trầm Thủy Hương, nên ba ngày ba đêm chẳng ăn. Hoặc một ngày mộtđêm chẳng ăn. Nếu lúc ăn thời chỉ ăn ba loại thức ăn màu trắng (Tam Bạch Thực) Ở trong mỗi một ngày, ba thời tắm gội, mặc áo mới sạch, tụng Chú 1008 biến.Tụng Chú xong rồi, Hành Giả liền ở trước Tượng tự thấy thân ấy tỏa ánh sáng rực rỡ giống như lửa mạnh. Thấy như vậy xong , tâm sinh vui vẻ. Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát liền hiện trước mặt người ấy, hết thảy điều nguyện cầu đều khiến cho đầy đủ. Nếu muốn ẩn hình, nên lấy Thư Hoàng hoặc thuốc An Thiện Na chú vào 1008 biến liền được ẩn hình, nương theo hư không mà đi, được Bất Không Trí Thượng Thủ Trang Nghiêm Thắng Tam Ma Địa (Asammoha-jnàna-vyuha-nàma Samàdhi), hết thảy ý ưa thích đều được hoàn thành”. Nói như vậy xong thời Đức Bạc Già Phạm vui vẻ khen ngợi. Bấy giờ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát với Tĩnh Cư Thiên Chủ, Tác Ha Thế Giới Chủ, Tự Tại, Đại Tự Tại Thiên Vương với các Bồ Tát, Đại Thanh Văn… nương theo điều Đức Phật đã nói, vui vẻ phụng hành.
Kinh Bất Không Quyến Sách Chú Tâm
|