Số 0919
Mật Tạng Bộ 2_ No.919 ( Tr.01_ Tr.02 )
CHƯ PHẬT TÂM ẤN ĐÀ LA NI KINH
Hán dịch : Tây Thiên dịch Kinh Tam Tạng , Triều Tán Đại Phu Thí Hồng Lô Thiếu Khanh_ Truyền Giáo Đại Sư PHÁP THIÊN phụng chiếu dịch
Việt dịch : HUYỀN THANH
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật ngự tại Mạn Noa La ( Đạo Trường ) trong cung điện Chúng Bảo Trang Nghiêm Bồ Tát của cung Trời Đâu Suất Đà. Vô số Bồ Tát có tướng tốt trang nghiêm, là con của Như Lai, biết rõ Chân Tế ( bờ mé chân thật ) của Pháp đều từ mỗi mỗi cõi Phật đi đến lễ dưới chân Đức Phật rồi lui ra ngồi ở một bên.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Đại Chúng rằng :” Này các Thiện Nam Tử ! Có Đà La Ni tên là PHẬT TÂM ẤN mà hằng hà sa đẳng Như Lai diễn nói. Nay Ta vì lợi ích cho người ở Trời Đâu Suất khiến cho được tương ứng với điều khoái lạc.
Nếu Thiện Nam Tử thọ trì, đọc tụng, giải nói, lắng nghe Đà La Ni này thì nên biết người ấy sẽ được Túc Mệnh Trí, tiêu trừ nghiệp nặng, hằng thọ khoái lạc, chẳng bị đọa vào nẻo ác, được mọi người yêu thích hộ trì, sung mãn đầy đủ tiền của thuộc Thế Gian và Xuất Thế Gian, người và Phi Nhân chẳng dám lấn bức gây hại, trong một ngàn kiếp luân hồi chẳng bị sinh vào Ma Giới, mau chóng chứng được Vô Thượng Bồ Đề “
Thời Đức Thế Tôn liền nói Chú là :
“ Đát nễ dã-tha: Một đệ, một đệ, một đệ ma đế_ Tam mãn đa một đà nỗ nga-dã đế_ Một đà, một đà, một đà, một đà, một đà, một đà, một đà_ A nan đổ một đà vĩ sa dã_ A nan đá đạt-lị ma nhĩ xả nẵng, sa-phộc hạ “
* ) TADYATHÀ : BUDDHE BUDDHE BUDDHE MATI_ SAMANTA BUDDHA ANUGATE_ BUDDHA BUDDHA BUDDHA BUDDHA BUDDHA BUDDHA BUDDHA_ ANANTA BUDDHA VISÏÀYA_ ANANTA DHARMA NI’SANÏA_ SVÀHÀ
Đức Phật nói PHẬT TÂM ẤN Đà La Ni này có uy lực rất lớn, lợi ích cho chúng sinh. Nay Ta lại nói NHẤT THIẾT CHƯ PHẬT TÂM ẤN Đà La Ni là :
“Đát nễ dã-tha : Hạ la, hạ la_ Tả la, tả la_ Tán tả la, tán tả la_ Đa la, đa la_ Tam đa la, tam đa la_Tứ ni, lị ni, sa ma lị ni_ La noa bát đế, la noa bát đế_ Lộ ca đà lị, lộ ca đà lị_ Lộ ca đà lị ni, lộ ca đà lị ni_ Tát la, phộc la_ Phổ la, phổ la_ Phộc la, phộc la- Ma hạ vĩ nhạ dã, phộc tứ đế_ Hạ nẵng, hạ nẵng_ Tát-lị phộc một đà tất-lị sử đế_ Tát-lị phộc bát thể sa na, a ba la nhĩ đế, bát-la đế bà nẵng tam bạn nễ_ Tát đát phộc phộc lộ cát đế _ Tát lị phộc một đà , bát la đế mạn ni đế, bà nga phộc đế_ Sa la, sa la_ Bát-la sa la, bát-la sa la_ Vĩ sa la, vĩ sa la_ Tát lị-phộc nỗ sa ba nga đế, sa-phộc hạ “
* ) TADYATHÀ : HARA HARA_ CALA CALA_ SAMÏCALA SAMÏCALA_ TARA TARA_ SAMÏTARA SAMÏTARA_ HÌNI LINI _ SAMA LINI_ RANÏA PATI , RANÏA PATI_ LOKADHARA LOKADHARI_ LOKADHÀRANÏI LOKADHÀRANÏI_ SARA VARA_ BHURA BHURA_ VARA VARA_ MAHÀ VIJAYA VA SÏITE_ HANA HANA_ SARVA BUDDHA ‘SRÌ SÏITE_ SARVA PATHISANA APRARAJÌTE, PRATBHANÏA SAMPANNE_ SARVA VALOKITE_ SARVA BUDDHA PRATIMANÏDÏITE BHAGAVATE_ SARA SARA_ PRASARA PRASARA_ VÌSARA VÌSARA_ SARVA ANUSVAGATE_ SVÀHÀ
Khi Đức Thế Tôn nói Chú này thì cung điện chư Thiên, tất cả đại địa, núi sông, rừng rậm, núi Tu Di… đều chấn động theo sáu cách, biển lớn sôi trào, Ma Vương lo sợ chắp tay quy y:” Cầu xin chư Phật, tất c3 Bồ Tát ba đời. Con vì sự sợ hãi nên con và quyến thuộc thề hộ Phật Pháp”
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói Pháp ấy xong. Tất cả Bồ Tát và chư Thiên Nhân nghe lời Phật dạy đều tin nhận phụng hành.
CHƯ PHẬT TÂM ẤN ĐÀ LA NI KINH
( Hết )
|