佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

VT0707

KINH PHẬT NÓI VỀ CÔNG ĐỨC XUẤT GIA

 

Mất tên người dịch sang Hán văn

Việt dịch: T́-kheo Thích Nguyên Lộc

---o0o---

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật cư ngụ tại nước T́-xá-li, đến giờ Ngài vào thành khất thực. Lúc bấy giờ, trong thành T́-xá-li có một người ḍng dơi Lê-xa, tên T́-la-tiễn-na (Trung Quốc dịch là Dũng Quân). Giống như chư thiên và các tiên nữ cùng nhau vui chơi, vương tử và các thể nữ cũng vui đùa với nhau trên lầu gác, ch́m đắm sắc dục như vậy.

Lúc bấy giờ, Đức Phật dùng Nhất thiết trí nghe tiếng nhạc kia rồi nói với thầy A-nan:

-  Ta biết người này tham đắm năm món dục, không bao lâu nữa sẽ mạng chung. Bảy ngày sau người này sẽ từ bỏ những niềm vui quyến thuộc này, nhất định qua đời. A-nan! Nếu người này không bỏ dục lạc, không chịu xuất gia, th́ khi mạng chung sẽ đọa vào địa ngục!

Lúc đó, thầy A-nan đỉnh lễ vâng theo lời dạy của Phật. V́ muốn làm lợi ích cho vị vương tử này, nên thầy đến nhà vương tử. Bấy giờ, nghe thầy A-nan đang ở ngoài cửa, vương tử liền ra gặp mặt và v́ ḷng cung kính, nên thỉnh thầy vào nhà ngồi. Ngồi chưa được bao lâu, vương tử khởi tâm cung kính bạch:

-  Quí thay! Bằng hữu tốt! Ngài đến đây rất đúng lúc! Hôm nay gặp ngài, tôi vô cùng vui mừng. Ngài tên Hoan Hỉ, hôm nay xin ngài hăy dạy giáo pháp của Đức Phật để tôi hoan hỉ.

Vương tử thỉnh ba lần như thế, thầy A-nan muốn làm lợi ích rộng lớn, nên im lặng không trả lời.

Vương tử lại thưa:

-  Đại tiên T́-đà-ha Mâu-ni làm lợi ích tất cả chúng sinh. Ngài có oán trách ǵ mà im lặng, không dạy cho một vài lời!

Thầy A-nan thụ tŕ pháp tạng của Phật, muốn làm lợi ích thế gian, nên thương cảm dạy bảo:

-  Ông hăy lắng nghe! Bảy ngày sau ông sẽ mạng chung. Nếu ông cứ ch́m đắm trong năm dục mà không tỉnh ngộ, không xuất gia, th́ sau khi mạng chung sẽ đọa vào địa ngục. Đức Phật là bậc Nhất thiết trí, nói lời đúng đắn, dự báo cho ông như vậy. Giống như lửa đốt vật, hoàn toàn không phát cháy suông, ông hăy suy nghĩ cho kĩ!

Vương tử kia nghe nói như vậy, trong ḷng vô cùng lo sợ, buồn bă không vui, bèn vâng theo lời dạy của A-nan và thưa:

-  Tôi sẽ xuất gia, nhất định như vậy! Nhưng hăy cho phép tôi hưởng thụ dục lạc thêm sáu ngày nữa, đến ngày thứ bảy tôi từ biệt gia đ́nh và quyến thuộc quyết chí xuất gia.

A-nan chấp nhận. Đến ngày thứ bảy, ông sợ trôi lăn trong đường sinh tử, nên cầu Phật xuất gia. Phật chấp nhận. Trải qua một ngày một đêm tu tập, giữ ǵn tịnh giới, th́ ông qua đời. Sau khi hỏa thiêu, thầy A-nan và quyến thuộc đến bạch Đức Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! T́-kheo T́-la-tiễn-na đă mạng chung, thần thức sinh về đâu?

Phật Thế Tôn là bậc Nhất thiết trí, thầy của trời người. Ngài có đại Phạm âm thù thắng hơn các âm thanh của tiếng sấm, tiếng trống, tiếng chim ca-lăng-tần-già. Ngài dùng Phạm âm  có đủ tám đặc tính này bảo A-nan:

-  T́-kheo T́-la-tiễn-na này sợ ch́m đắm trong sinh tử, chịu khổ địa ngục mà bỏ năm dục xuất gia, giữ ǵn tịnh giới một ngày một đêm, nên khi xả bỏ báo thân này, th́ được sinh lên trời Tứ Thiên Vương, làm con của thiên vương T́-sa-môn ở phương bắc, tha hồ hưởng thụ năm dục lạc. V́ tham đắm hưởng thụ năm dục và cùng vui chơi các thể nữ, nên chỉ thọ năm trăm tuổi. Thọ năm trăm tuổi xong, mạng chung được sinh lên tầng trời Ba Mươi Ba làm con của Đế Thích, tha hồ hưởng thụ niềm vui năm dục cùng tột của cơi trời, cũng vui đùa cùng các thiên nữ đẹp, hưởng thọ một ngh́n tuổi. Khi tuổi thọ hết th́ sinh đến cơi trời Diệm-ma làm con của Diệm-ma thiên vương, tha hồ hưởng thụ sắc, thanh, hương, vị, xúc của cơi trời, tâm vui nơi dục lạc, thọ được hai ngh́n tuổi. Sau hai ngh́n năm th́ khi mạng chung sinh vào làm con của vua cơi trời Đâu-suất, tha hồ hưởng thụ niềm vui năm dục, mắt nh́n nhau th́ thành việc dục, tâm tự thỏa măn, thường bàn luận Phật pháp, trí tuệ giải thoát, thọ bốn ngh́n tuổi. Măn bốn ngh́n năm th́ mạng chung sinh lên cơi trời Đại Tự Tại làm con của vua trời cơi này, hưởng thụ các niềm vui ngũ dục, ở trong các thể nữ tùy ư biến hóa, sống được tám ngh́n tuổi. Khi tuổi thọ đă hết, mạng chung sinh vào cơi trời Tha Hóa Tự Tại làm con của thiên vương cơi này. Dục lạc trong cơi trời thứ sáu này, từ tầng trời thứ năm trở xuống không thể biết được. Khi sinh vào cơi trời này, th́ sẽ hưởng thụ các niềm vui thù thắng vi diệu, nơi đây là kho tàng của các niềm vui. Khi hưởng thụ niềm vui này th́ tâm vô cùng say mê, hưởng thụ đầy đủ niềm vui thù thắng vi diệu, nên thọ một vạn sáu ngh́n tuổi. Bảy lần lên xuống hưởng thụ niềm vui như thế ở trong cơi trời Lục Dục.

T́-la-tiễn-na này do xuất gia một ngày một đêm mà suốt hai mươi kiếp không đọa địa ngục, ngạ quỉ và súc sinh, thường sinh làm trời người, hưởng phúc tự nhiên. Cuối cùng th́ sinh vào nhà giàu sang sung sướng, tiền của, châu báu đầy đủ. Khi đă trải qua tuổi tráng niên,  các căn chín muồi, ông ấy sợ những khổ nạn sinh, già, bệnh, chết, chán cuộc sống thế gian nên xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp phục, siêng năng tinh tiến tu tập, giữ bốn oai nghi, thường hành chính niệm, quán năm ấm là khổ, không, vô ngă, hiểu pháp nhân duyên, chứng Bích-chi-phật, hiệu là T́-lưu-đế. Bấy giờ, vị bích-chi-phật này phóng ánh sáng chiếu soi, khiến nhiều trời người sinh căn lành, các loài chúng sinh đều gieo nhân duyên Tam thừa giải thoát.

Bấy giờ, A-nan chắp tay bạch Đức Phật:

-  Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người cho phép kẻ khác xuất gia, hoặc cung cấp những thứ cần dùng cho người xuất gia th́ được bao nhiêu phúc đức? Nếu có người phá hoại nhân duyên xuất gia của người khác, th́ chịu tội báo thế nào? Cúi xin đức Thế Tôn chỉ dạy.

Phật bảo A-nan:

-  Nếu tṛn một trăm năm ông hỏi việc này, Ta dùng vô lượng trí tuệ, trừ lúc ăn uống mà nói rộng công đức của người này cho ông nghe th́ cũng không hết được. Người này luôn được sinh lên cơi trời hay trong loài người và đều làm quốc vương, hưởng sự vui sướng của trời người. Nếu có người ở trong pháp sa-môn này mà bảo người xuất gia, hoặc lại giúp đỡ nhân duyên xuất gia, th́ ở trong sinh tử thường hưởng thụ niềm vui. Ta nói phúc đức của người đó suốt một trăm năm cũng không thể cùng tận. Thế nên, A-nan! Ông sống thọ hết một trăm năm mà hỏi Ta việc này, c̣n Ta cho đến lúc nhập niết-bàn, cũng không nói hết công đức của người đó.

Phật bảo A-nan:

-  Nếu có người phá hoại nhân duyên xuất gia của người khác, tức là cướp đoạt vô lượng kho báu phúc đức căn lành, phá hoại ba mươi bảy pháp trợ bồ-đề và nhân Niết-bàn. Giả như có người muốn phá hoại nhân duyên xuất gia, th́ nên quán xét việc này. V́ sao? Do tội nghiệp này mà đọa vào địa ngục, thường bị mù mắt, chịu đau khổ tột cùng. Nếu làm súc sinh cũng bị mù mắt; sinh làm ngạ quỉ cũng thường mù mắt, chịu khổ trong ba đường ác nhiều kiếp mới được giải thoát. Nếu được sinh làm người th́ bị mù mắt lúc c̣n trong thai. A-nan! Dù một trăm năm ông luôn hỏi điều này, trọn một trăm năm Ta dùng trí tuệ nói tội báo này cũng không thể hết. Ở trong bốn đường, người này sinh ra thường bị mù mắt, Ta hoàn toàn không thụ kí cho những người này thời gian giải thoát. V́ sao? Bởi v́ họ phá hoại nhân duyên xuất gia vậy.

Như người này thành tựu vô biên công đức, nhưng v́ phá hoại nhân duyên tốt như vậy, nên cũng phải chịu vô lượng tội. Lẽ ra trong gương trí tuệ thanh tịnh này, được các pháp lành giải thoát, nhưng khi gặp người xuất gia tu hành, giữ giới thanh tịnh, hướng đến con đường giải thoát th́ lại phá hoại, gây trở ngại cho người ấy, nên khi sinh ra thường bị mù, không thấy niết-bàn. Thường quán chiếu mười hai nhân duyên: Vô minh… , lẽ ra người này phải được giải thoát, nhưng v́ hủy hoại con mắt trí tuệ của người khác, phá nhân duyên xuất gia, che mắt trí tuệ, nên người này khi sinh ra hai mắt đă bị mù, không thấy ba cơi.

Người xuất gia lẽ ra thấy được năm ấm, hai mươi ngă kiến, hướng đến chính đạo. Nhưng v́ phá nhân xuất gia, hủy hoại chính đạo, nên khi sinh ra bị mù, không thấy chính đạo. Người xuất gia lẽ ra thấy được tất cả pháp tụ, chỗ trụ của thiện pháp, thấy pháp thân chư Phật thanh tịnh. Nhưng v́ phá nhân duyên xuất gia, nên khi sinh ra thường bị mù, không thể nh́n thấy pháp thân Phật. V́ xuất gia lẽ ra đầy đủ h́nh tướng sa-môn, giữ ǵn cấm giới, làm ruộng phúc thanh tịnh, gieo nhân Phật đạo. Nhưng do phá nhân xuất gia nên đoạn tất cả mong cầu đối với các pháp lành. Do tội duyên này mà đời đời thường bị mù.

Người xuất gia lẽ ra quán sát kĩ thân tâm đều là khổ, vô thường, vô ngă, bất tịnh; nhưng lại ngăn cản người khác xuất gia, gây trở ngại cho họ, nên bị quả báo mù mắt. V́ mắt mù nên không thấy bốn đường, bốn niệm xứ, bốn chính cần, bốn như ư túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chính đạo, đến thành Niết-bàn. Do tội duyên này mà sinh ra thường bị mù, cho đến không thấy được thiện pháp thanh tịnh, không, vô tướng, vô tác mà hướng tới thành Niết-bàn.

Do đó, người có trí tuệ biết người xuất gia cần phải thành tựu pháp lành như vậy, không nên phá hoại nhân duyên tốt mà bị mang tội. Ai phá hoại nhân duyên chính kiến xuất gia làm sa-môn của người khác, th́ suốt đời không thể thấy được thành Niết-bàn, sinh ra thường bị mù.

Có người suốt một trăm kiếp xuất gia ở cơi khác, tu tập giữ giới thanh tịnh. Lại có người ở cơi Diêm-phù-đề này xuất gia giữ giới một ngày một đêm, cho đến thanh tịnh xuất gia trong chốc lát, th́ công đức của người xuất gia giữ giới suốt trăm kiếp kia không bằng một phần mười sáu công đức của người xuất gia ở cơi Diêm-phù-đề này.

Lại có người điên cuồng làm việc dâm loạn với chị em gái, rồi sinh tâm ganh ghét, bỏn xẻn th́ chịu tội báo không thể tính kể. Lại có một người hay suy nghĩ đúng đắn, phát tâm xuất gia, muốn bỏ các việc ác. Lại có người phá hoại nhân duyên xuất gia của người ấy, không cho toại nguyện, th́ tội này vượt hơn trước, lại chịu khổ nhiều hơn trăm kiếp”.

A-nan lại bạch Phật:

-  Bạch đức Thế Tôn! Vị T́-la-tiễn-na này gieo trồng căn lành, được sinh vào nhà tôn quí, được hạnh phúc an vui, là do đời quá khứ ông ta làm việc thiện hay chỉ với công đức xuất gia một ngày một đêm nay mà hưởng phúc như vậy?

Phật bảo A-nan:

-  Ông không nên xét đến nhân duyên quá khứ! Bởi chỉ do căn lành thanh tịnh xuất gia một ngày một đêm mà vị t́-kheo ấy được sinh lên cơi Lục Dục, trải qua bảy lần lên xuống hưởng phúc, trong hai mươi kiếp hưởng thụ niềm vui sinh tử thế gian. Kiếp sau cùng làm người, sinh vào nhà có phúc lạc. Trải qua tuổi trung niên, lúc các căn chín muồi, lo sợ khổ sinh, già, bệnh và chết, nên xuất gia giữ giới, chứng Bích-chi-phật.

Này A-nan! Nay Ta nói thí dụ, ông khéo lắng nghe! Giống như bốn châu thiên hạ, phương đông là cơi Phất-bà-đề, phương nam là cơi Diêm-phù-đề, phương tây là cơi Cù-da-ni, phương bắc là cơi Uất-đơn-việt. Nếu các bậc a-la-hán ở khắp trong đó nhiều như lúa mè, có một người suốt một trăm năm hết ḷng cúng dường thức ăn uống, y phục, thuốc men trị bệnh, pḥng xá, ngọa cụ cho các vị a-la-hán này; cho đến sau khi các vị này nhập niết-bàn, người này lại xây tháp tôn thờ, lại trang hoàng các thứ châu báu, hoa hương, chuỗi ngọc, tràng phan, bảo cái, kĩ nhạc, linh báu, rồi quét dọn, rưới nước thơm, đồng thời dùng các bài kệ khen ngợi cúng dường th́ công đức đạt được cũng không bằng một phần mười sáu công đức của người v́ đạo Niết-bàn mà xuất gia thụ giới, dù chỉ một ngày một đêm. V́ nhân duyên nầy, nên thiện nam tử phải nên xuất gia tu tập, giữ giới thanh tịnh. Các thiện nam tử! Những người tạo công đức, cầu pháp lành, tự lănh thụ giáo pháp, không nên làm cản trở nhân duyên xuất gia mà phải hết ḷng t́m cách giúp đỡ khích lệ họ tu cho thành tựu.

Đại chúng nghe Đức Phật dạy, đều nhàm chán thế gian, xin xuất gia giữ giới, rồi có người chứng quả Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán, có người gieo căn lành Bích-chi-phật, có người phát tâm Vô thượng bồ-đề, tất cả đều hoan hỉ, đỉnh lễ vâng theo.



KINH PHẬT NÓI VỀ CÔNG ĐỨC XUẤT GIA

 

back_to_top.png

 

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Updated 2021-07-18

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0