Số 0502
Phật Vi Niên Thiếu Tỳ Kheo Thuyết Chánh Sự Kinh[1]
(Kinh Phật V́ Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh)
- Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502
- Dịch Phạn sang Hán: Tây Tấn, Sa môn Pháp Cự dịch
- Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ kheo Thích Hạnh Tuệ - Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
- Hiệu đính: HT Thích Như Điển – Phương trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc
Tôi nghe như vầy.
Một thuở nọ, Đức Phật đang an cư mùa hạ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Lúc bấy giờ trong chúng có nhiều vị trưởng lăo Thanh văn ở hai bên Đức Thế Tôn trong hang động, dưới gốc cây để an cư.
Lúc ấy có chúng gồm nhiều vị Tỳ kheo trẻ tuổi đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi lui ngồi một phía. Đức Phật v́ các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ[2]. Khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ rồi, an trụ trong trầm lặng. Các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nghe Đức Phật thuyết pháp rồi, tuỳ hỷ vui mừng, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ mà lui về.
Các vị Tỳ kheo trẻ tuổi đi đến chỗ các vị trưởng lăo Tỳ kheo[3], đảnh lễ dưới chân các vị trưởng lăo rồi ngồi vào một phía. Bấy giờ các vị trưởng lăo Tỳ kheo khởi niệm như vầy: Chúng ta nên tiếp nhận các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nầy, hoặc một người nhận một người, hoặc một người nhận hai, ba hay nhiều người. Nghĩ như vậy rồi liền bèn tiếp nhận, hoặc một người nhận một người, hoặc nhận hai, ba hay nhiều người, hoặc có vị trưởng lăo nhận đến sáu mươi người.
Bấy giờ là ngày rằm, Đức Thế Tôn trong lúc bố tát, ở trước đại chúng trải toà mà ngồi. Lúc ấy, Đức Thế Tôn quán sát các vị Tỳ kheo rồi bảo các vị Tỳ kheo rằng: “Lành thay! Lành thay! Ta nay vui mừng cho các vị Tỳ kheo đă thực hành các việc chân chánh. Cho nên, Tỳ kheo! Phải siêng năng, tinh tấn.”
Ở nước Xá Vệ lúc nầy, tháng ca-đề[4] đă măn, các Tỳ kheo sống tại các thôn xóm[5] nghe rằng: Đức Thế Tôn an cư ở nước Xá Vệ, tháng ca-đề đă măn rồi, may y đă xong, đắp y ôm bát đang du hành trong nhân gian, nước Xá Vệ. (Các vị Tỳ kheo ấy) dần đi đến nước Xá Vệ, cất y bát, rửa chân xong, đến chỗ Đức Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân xong, rồi lui ngồi vào một phía.
Bấy giờ Đức Thế Tôn v́ các vị Tỳ kheo trong nhân gian thuyết pháp các loại, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ rồi; Ngài yên lặng.
Lúc ấy, các vị Tỳ kheo trong nhân gian đă nghe Đức Phật thuyết pháp, vui mừng, tuỳ hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ mà đi; đi đến chỗ các vị Tỳ kheo trưởng lăo, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi lui ngồi vào một phía. Bấy giờ, các vị trưởng lăo nghĩ như vầy: Chúng ta nên nhận các vị Tỳ kheo trong nhân gian nầy, hoặc một người nhận một người, hoặc hai, ba, cho đến nhiều người, tức liền tiếp nhận lấy.” Hoặc một người nhận một người, hoặc hai, ba, cho đến có vị nhận sáu mươi người. Các vị Tỳ kheo trưởng lăo ấy nhận các vị Tỳ kheo trong nhân gian chỉ dạy giới pháp, làm người mẫu mực, khéo hiểu biết thứ lớp, trước sau.
Bấy giờ là ngày rằm, Đức Thế Tôn trong lúc bố tát, ở trước đại chúng trải ṭa mà ngồi, quán sát các Tỳ kheo, bảo các Tỳ kheo: “Lành thay! Lành thay! Các Tỳ kheo, ta vui mừng khi các ông đă làm các việc chân chánh. Các Tỳ kheo! Chư Phật trong quá khứ cũng có chúng Tỳ kheo làm các việc chân chánh như chúng đây ngày nay. Chư Phật ở vị lai có các đại chúng cũng sẽ như hôm nay đang có, làm các việc chân chánh giống như đại chúng ngày hôm nay. V́ sao vậy? V́ hôm nay, trong chúng đây các vị Tỳ kheo trưởng lăo có vị đắc Sơ thiền, đệ nhị thiền, đệ tam thiền, đệ tứ thiền, từ bi hỷ xả, không nhập xứ, thức nhập xứ, vô sở hữu nhập xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ được đầy đủ. Có vị Tỳ kheo đă hết sạch ba kết[6] đắc Tu đà hoàn không đọa vào cơi ác, pháp quyết định hướng đến tam bồ đề[7], c̣n sanh vào trong cơi trời người bảy lần[8], rốt ráo cơi khổ. Có Tỳ kheo ba kết đă sạch hết, tham sân si giảm bớt, đắc Tư đà hàm. Có Tỳ kheo năm hạ phần kết[9] đă hết sạch, đắc A na hàm, sanh Bát niết bàn[10], không c̣n trở lại cơi đời nầy nữa. Có Tỳ kheo đắc cảnh giới vô lượng thần thông: thiên nhĩ, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận trí. Có Tỳ kheo tu quán bất tịnh để đoạn trừ tham dục, tu tâm từ bi để đoạn trừ sân hận, tu quán vô thường để đoạn trừ ngă mạn, tu An-na-bàn-na niệm[11] để đoạn trừ các giác[12] tưởng. Thế nào là Tỳ kheo tu An-na-bàn-na niệm để đoạn trừ giác tưởng? Đó là vị Tỳ kheo nương nơi làng xóm mà ở, cho đến quán diệt nơi hơi thở ra, như thật rơ biết quán diệt nơi hơi thở ra. Đó gọi là tu An-na-bàn-na niệm để đoạn trừ các giác tưởng.”
Đức Phật nói kinh nầy xong, các Tỳ kheo đă nghe Đức Phật nói rồi hoan hỷ phụng hành.
Kinh Phật V́ Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh
Dịch xong ngày 12/01/2014
[1] Tương đương “Kinh Bố Tát” số 815 trong Tạp A Hàm (Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0099, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La đời Lưu Tống), bản dịch Việt của HT Thích Đức Thắng và HT Thích Tuệ Sỹ hiệu chú.
[2] Hán dịch: 示教照喜 thị, giáo, chiếu, hỷ: khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ. Sđd.
[3] Hán dịch:上座比丘 Thượng tọa Tỳ kheo: chỉ cho các vị Tỳ kheo trưởng lăo.
[4]迦提月“ca-đề nguyệt”, kaṭṭika (P), thường chỉ tháng sau ngày giải chế an cư. Sđd.
[5] 人間毗丘 “nhân gian Tỳ kheo”, gāmantavihārin (P), Tỳ kheo sống tại các thôn xóm/ Tỳ kheo ở giữa người đời. Sđd.
[6] 三結 “Tam kết” (kiết) gọi đủ là Tam kết (kiết) sử Samyojanani (p): Thân kiến kiết sử: Sakkaya-ditthi (p), Nghi kiết sử: Vici-kiccha (p), Giới cấm thủ: Silabhata-paramaso (p)
[7]三菩提“Tam bồ đề”, nói cho đủ là “A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề” tức là đắc Niết bàn. Đắc Niết bàn tức là Như Lai pháp thân.
[8]七有 “Thất hữu” hay “Thất chủng sanh”, Sattakkhattuparama (P): là bậc Dự lưu mà phải sanh lại cơi dục (Trời – Người) cho đến bảy lần, mới đắc A-la-hán.
[9]五下分結 “Ngũ hạ phần kết”, Pañca āvarabhāgiya-saṃyojanāni (P): Năm loại phiền năo trói buộc chúng sanh hữu t́nh ở Dục giới. Sở dĩ gọi là hạ phần là bởi v́ nó ở hạ giới, tức Dục giới, khác với thượng giới, tức là Sắc giới và Vô sắc giới. Năm loại là: 1. Dục kết: những phiền năo tham dục; 2. Sân kết: những phiền năo giận hờn; 3. Thân kiến kết: phiền năo ngă kiến, chấp ngă; 4. Giới thủ kết: phiền năo giữ ǵn những giới luật phi lư, vô đạo; 5. Nghi kết: phiền năo nghi ngờ chân lư.
[10] 般涅槃 “Bát niết bàn”, parinirvāṇa (S), parinibbāna (P) là tịch diệt hoàn toàn, đồng nghĩa với “Niết bàn” nirvāṇa (S).
[11] 安那般那念 “An-na-ban-na niệm”, Anāpānassati (P): niệm hơi thở ra vào.
[12] Giác, đây chỉ cho giác tưởng phân biệt, hay vọng tưởng phân biệt, saṅkappa (P).
====== Nguyên tác Hán ngữ =====
No. 502
佛為年少比丘說正事經
西晉沙門法炬譯
如是我聞:
一時佛住舍衛國祇樹給孤獨園夏安居。爾時眾多上座聲聞,於世尊左右樹下窟中安居。時有眾多年少比丘詣佛所,稽首佛足,退坐一面,佛為諸年少比丘,種種說法,示教照喜。示教照喜已,默然住。諸年少比丘聞佛所說,歡喜隨喜,從座起,作禮而去。
諸年少比丘往詣上座比丘所,禮諸上座足已,於一面坐。時諸上座比丘作是念:「我等當攝受此諸年少比丘,或一人受一人,或一人受二、三多人。」作是念已,即便攝受,或一人受一人,或受二、三多人,或有上座乃至受六十人。
爾時世尊十五日布薩時,於大眾前敷座而坐。爾時世尊觀察諸比丘已,告比丘:「善哉,善哉!我今喜諸比丘行諸正事,是故比丘!當勤精進。」
於此舍衛國滿迦提月諸處人間比丘,聞世尊於舍衛國安居滿迦提月已,作衣竟,持衣鉢,於舍衛國人間遊行。漸至舍衛國,舉衣鉢,洗足已,詣世尊所,稽首禮足已,退坐一面。爾時世尊為人間比丘種種說法。示教照喜已,默然。
爾時人間比丘聞佛說法,歡喜隨喜,從座起,作禮而去。往詣上座比丘所,稽首禮足,退坐一面。時諸上座,作是念:「我等當受此人間比丘,或一人受一人,或二、三乃至多人,即便受之。」或一人受一人,或二、三乃至有受六十人者。彼上座比丘受諸人間比丘,教戒教授,善知先後次第。
爾時世尊月十五日布薩時,於大眾前敷座而坐。觀察諸比丘,告諸比丘:「善哉,善哉!諸比丘,我欣汝等所行正事,樂法等所行正事。諸比丘!過去諸佛亦有比丘眾,所行正事,如今此眾;未來諸佛所有諸眾,亦當如是,所行正事,如今此眾。所以者何?今此眾中,諸長老比丘,有得初禪、第二禪、第三禪、第四禪、慈悲喜捨、空入處、識入處、無所有入處、非想非非想處,具足住;有比丘三結盡得須陀洹,不墮惡趣,法決定向三菩提,七有天人往生,究竟苦邊;有比丘三結盡,貪恚癡薄,得斯陀含;有比丘五下分結盡,得阿那含,生般涅槃,不復還生此世;有比丘得無量神通境界,天耳、他心智、宿命智、生死智、漏盡智;有比丘修不淨觀斷貪欲,修慈心斷瞋恚,修無常想斷我慢,修安那般那念斷覺想。云何比丘修安那般那念斷覺想?是比丘依止聚落,乃至觀滅出息,如觀滅出息覺,是名修安那般那念斷覺想。」
佛說此經已,諸比丘聞佛所說,歡喜奉行。
佛為年少比丘說正事經
|