佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 0492a

KINH A-NAN VẤN SỰ PHẬT CÁT HUNG

Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An-tức.

Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành.

---o0o---

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe:

Một hôm A-nan thưa hỏi Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Có người thờ Phật th́ được giàu sang, gia đ́nh ḥa thuận. Lại có người thờ Phật th́ tài sản suy hao, gia đ́nh bất ḥa. V́ sao cả hai cùng thờ Phật mà kết quả lại không giống nhau? Xin Phật, đấng Thiên Trung Thiên hăy v́ chúng con mà giảng giải rộng ư nghĩa này!

Phật bảo A-nan:

- Có người thờ Phật, theo minh sư thụ giới, thường tinh tấn hành tŕ theo giới pháp đă thụ, sớm tối lễ bái, cung kính thắp đèn, luôn ăn chay giữ giới, tâm luôn vui vẻ, được những vị thiện thần ủng hộ, gia đ́nh ḥa hợp, mọi việc đều tiến triển thuận lợi; được trời, rồng, quỉ, thần và mọi người cung kính, mai sau chắc chắn sẽ đắc đạo. Những thiện nam tử, thiện nữ nhân này đúng là đệ tử của Phật!

Lại cũng có người thờ Phật mà không gặp được vị thầy sáng suốt, không hiểu lời kinh dạy, ḷng tin không kiên cố, cũng có thụ giới và nhận pháp danh, nhưng thường vi phạm giới luật. Đă không có h́nh tượng Phật để tôn thờ mà người này cũng không đốt hương, thắp đèn sáng để lễ bái, lại thường ôm ḷng sân hận, nói lời ác, mắng chửi người, không giữ sáu ngày trai, tự tay giết hại sinh vật. Người này không kính trọng kinh Phật, xem như sách thế tục, xếp chung trong thùng đựng các vật tầm thường khác, hoặc để nơi dơ uế trên giường của vợ con, hoặc treo trên vách, chứ không đặt ngay ngắn trên bàn hay giá đựng sách. Nếu bị bệnh th́ không niệm Phật mà thường mời những người đồng bóng đến xem bói, cúng tế, cầu xin thần tà. Từ đó thiên thần lánh xa không che chở; yêu ma quỉ mị ngày càng đến gần họ, ác quỉ tụ tập trước cửa nhà, khiến cho tài sản suy hao, gia đ́nh bất ḥa. Hiện đời người tạo tội này chẳng phải là đệ tử Phật, sau khi chết sẽ rơi vào địa ngục, bị đánh đập tra khảo tàn bạo, hồn phách cảm thụ đau đớn khôn tả. Kẻ ngu si này lại không tự suy xét, cho việc làm trước đây là luống công, nên trở lại oán giận trời đất, trách thánh, kể tội trời. Mê lầm như thế thật là quá ngu si, kết quả bị trói buộc trong ba đường ác[1].

Người được đạo đều từ nghiệp thiện, nhờ giữ giới tự điều phục thân, miệng, ư; khéo trang bị áo giáp chắc chắn để không sợ đao binh; khéo làm chiếc thuyền lớn để vượt qua sông cả. Có người tin vào pháp Phật, gia đ́nh ḥa thuận an vui, hiện đời luôn gặp may mắn, phúc đức. V́ có tu tập mới có phúc báo, chứ chẳng phải nhờ vị thần nào ban cho ḿnh. Người không tin pháp Phật, không tụng kinh giữ giới, đời sau sẽ càng khốn đốn. Thiện ác theo người như bóng theo h́nh, chớ có hoài nghi mà rơi vào đường ác, cầu thoát ra rất khó! Tin sâu pháp Phật, giữ giới không phạm th́ ở nơi đâu cũng thường an vui. Lời Phật dạy chí thành, hoàn toàn không dối gạt người. Gặp Phật tại thế rất khó, thân người cũng khó được. Nay các ông được gần gũi Phật là nhờ phúc đức lớn của đời trước; nên nhớ báo ân, ban bố giáo pháp, gieo trồng nhiều ruộng phúc, tu tập sẽ được giải thoát, đến nơi đâu cũng không lo buồn.  

Tôn giả A-nan lại thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Nếu người không tự tay giết hại mà bảo người giết th́ tội ấy thế nào? Không có tội chăng?

Phật dạy:

- Này A-nan! Nếu bảo người giết th́ tội ấy nặng hơn chính tay ḿnh giết. V́ sao? V́ tôi tớ hay người hạ tiện giết mà họ không có ư giết; hoặc người bị vua quan ép giết, chứ họ không tự ư giết. Kẻ bảo người giết th́ đă biết mà cố ư phạm, ngấm ngầm sát hại lại đổ tội cho người, lừa gạt Tam bảo lại nói là tự nhiên, tội ấy rất nặng! Thù oán báo nhau măi, đời đời gặp tai ương không dứt; hiện tại đă không an ổn, đến khi chết lại bị đọa địa ngục chịu khổ sở đau đớn. Đến lúc được ra khỏi địa ngục th́ làm súc sinh bị đồ tể lột da, lóc xương lấy thịt đền trả cho người. Kẻ chịu tất cả những đau khổ ấy là đều do đời trước tàn sát bạo ngược, giết hại chúng sinh, âm thầm ôm ḷng hại vật, không có tâm từ, thấy người giết th́ thay họ vui mừng. V́ tâm vui mừng như thế nên tội nặng hơn tự giết!

A-nan lại thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Người thế gian và đệ tử Phật xem thường thầy ḿnh, có ư ác với thầy và người đạo đức th́ tội ấy thế nào?

Phật dạy:

- Này A-nan! Phàm làm người th́ nên yêu mến đức của người khác, vui mừng với điều thiện của người khác, không nên ganh tị với họ. Nếu có ư ác với thầy ḿnh và người đạo đức th́ không khác ǵ có tâm ác với Phật. Lẽ nào lại cầm cây nỏ vạn thạch mà tự bắn vào ḿnh, như vậy có đau đớn không?    

 A-nan thưa:

- Rất đau đớn, thưa Thế Tôn!

Phật dạy:

- Người có tâm ác với người đạo đức và thầy của ḿnh th́ đau đớn hơn bị nỏ bắn vào thân. Làm đệ tử th́ không nên xem thường thầy và có ác ư với người đạo đức. Nên xem người đạo đức như Phật, không nên ganh tị và phỉ báng. Người có giới đức th́ cảm động đến trời, rồng và quỉ, thần; được những vị này cung kính, tôn trọng. Lẽ nào lại đem thân nhảy vào lửa, dùng dao bén mà cắt thịt ḿnh. Chớ có ganh tị, phỉ báng người thiện! Tội ấy không nhỏ, hăy cẩn thận, hăy cẩn thận!

A-nan lại thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Làm thầy th́ được quát mắng đệ tử và cho lỗi nhỏ thành lỗi lớn mà không phạm tội chứ?

Phật dạy:

- Này A-nan! Không phải thế! Không phải thế! Nghĩa thầy tṛ, theo lẽ ắt có sự cảm thông nhau một cách tự nhiên, nên chân thành tin tưởng nhau, xem đệ tử cũng như ḿnh, những ǵ ḿnh không làm th́ chớ trao cho người. Tôn trọng lễ nghĩa, giới luật và dùng đạo đức để dạy người; sống ḥa thuận, trung trinh, tiết tháo, không oán giận hay tranh căi nhau. Thầy và đệ tử, cả hai nên chân thành, thầy phải giữ đúng phận làm thầy, đệ tử phải theo đúng phận đệ tử. Không nên phỉ báng nhau, chớ ôm ḷng hiểm độc! Nếu để oán hận nhỏ trở thành lớn, th́ nó sẽ đốt cháy lại ḿnh. Ta xem xét những kẻ ác và bọn t́-kheo xấu xa ở thế gian, th́ thầy chẳng giữ đúng phận thầy, đệ tử chẳng theo đúng phận đệ tử; chỉ cùng nhau làm điều xấu ác, không nhớ đến việc tu tập, hủy hoại việc thiện, ham thích sự nghiệp thế tục, không nghĩ đến luật vô thường, cất chứa tiền của, tự đánh mất ḿnh, chết đọa vào đường ác, ngạ quỉ, súc sinh; chưa từng biết điều phải, nh́n nhau như súc vật. Các ông mong cầu ǵ ở thế gian? Nên nghĩ đến việc báo ân Phật, nên tŕ kinh, giữ giới, siêng năng tu đạo. Đạo th́ không thể không học, kinh th́ không thể không tụng, điều thiện th́ không thể không làm. Hành thiện, ban đức cứu tâm thoát khổ, xa ĺa sinh tử. Gặp người hiền đừng khinh thường, gặp người tốt chớ phỉ báng. Không nên đem lỗi nhỏ mà làm chứng thành tội lớn, ấy là trái với chính pháp, mất đạo lí, tội này rất lớn. Tội phúc luôn có chứng nghiệm. Thật đáng sợ! Thật đáng sợ!

A-nan lại thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Đệ tử Phật sinh vào đời mạt pháp là cơi ma, có nhiều nhân duyên chướng ngại như cầu nhà cửa để ở, những nỗi lo cung dưỡng cho thân miệng th́ làm sao tu tập pháp Phật?

Phật dạy:

- Là đệ tử Phật, tuy có nhân duyên như thế, nhưng cần tŕ giới không được vi phạm, có tâm chân thành, dè dặt cẩn thận, tôn kính qui y Tam bảo, hiếu thuận phụng dưỡng cha mẹ, nội ngoại đều đối xử tốt đẹp; không lừa dối, nịnh bợ; lời nói và ư nghĩ tương ứng; khéo dùng phương tiện thích hợp, tiến thoái đúng lúc; có thể làm những việc thế gian mà không có tâm thế gian.

A-nan thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là việc thế gian và tâm thế gian?

Phật dạy:

- Đệ tử Phật có thể kinh doanh buôn bán sinh lợi, nhưng cân, đong, đo, đếm đều theo đúng đạo lí, không được gian xảo, lấn ép, xâm phạm vật của người. Các việc như mai táng, dời chỗ ở, kết hôn, cưới gả … đều là việc thế gian.

Tâm thế gian: Là đệ tử Phật th́ không được xem bói, xin bùa chú, trù yểm ma quỉ,  cúng tế thần linh, tấu văn cầu thần minh giải nạn, sợ điềm không tốt. Đă thụ tŕ năm giới của Phật th́ là người có phúc đức, không kiêng sợ việc ǵ. Muốn hành pháp cúng dường th́ nên thưa với Phật, pháp, tăng. Không nơi nào đến mà không tốt. Người có giới đức th́ lấy việc hộ đạo làm sức mạnh; trời, rồng, quỉ thần đều kính phục. Quí trọng giới th́ được người kính trọng, đi đâu cũng thường được an ổn. Người chưa đạt đạo th́ tự tạo chướng ngại. Thiện ác do tâm, phúc họa do người, như bóng theo h́nh, như vang theo tiếng; trời không chỗ nào mà không che, đất không có ǵ mà không chở; giới hạnh và phúc đức tương ứng tự nhiên; thiên thần ủng hộ, cảm động mười phương; đức độ ngang trời, công huân ṿi vọi, chư thánh ngợi ca, không thể nói hết. Bậc trí biết vận mệnh, dù mất thân cũng không khởi tâm tà vạy. Thế mới biết lời Phật dạy đúng là đạo cứu đời.   

A-nan nghe những lời Phật dạy, liền chỉnh sửa ca-sa, cúi đầu sát đất đảnh lễ Phật rồi thưa:

- Thật đúng thế, thưa Thế Tôn! Chúng con có phúc, được gần gũi Như Lai, thụ nhận pháp vị. Ân đức và tâm từ bi của Phật rộng lớn, thương xót hết thảy chúng sinh, làm ruộng phúc cho chúng sinh, khiến chúng sinh được thoát khổ. Lời Phật chân thành mà ít người tin. Thế gian nhiều xấu ác, chúng sinh nguyền rủa lẫn nhau, phần nhiều tin vào quỉ thần, bỏ chính pháp theo tà pháp; nên thiên đường trống vắng mà địa ngục th́ đầy chật chúng sinh. Thật đáng thương thay! Như có tin, cũng chỉ một hoặc hai người, th́ đâu thể làm ǵ với thế gian suy bại, nên mới thành như thế. Sau khi Phật diệt độ, tuy c̣n lại kinh pháp, nhưng ít có người chịu tu tập, con người dần dần dối trá, nên pháp Phật dần dần cũng bị diệt vong.

Than ôi! Đau đớn thay! Thế th́ chúng sinh biết nương tựa vào đâu? Cúi xin đức Thế Tôn v́ những người học Phật đời sau mà ở lại thế gian giáo hóa, chưa nên nhập niết-bàn!

Tôn giả A-nan nhân đó tŕnh kệ:      

         Phật v́ ba cơi mà cứu giúp,

         Ân rộng, ḷng từ thật lớn lao;

         Cúi xin thương tưởng hàng hậu thế,

         Thế Tôn chớ vội nhập niết-bàn!

         Đau đớn thay! Người chưa đạt đạo,

         Ngu si tối tăm chẳng biết chân;

         Gióng hồi trống pháp, tam thiên động,

         Mà sao tất cả chẳng hề nghe?

       Đời ô trược lắm người xấu ác

         Tự si mê rơi chốn đảo điên,

         Không tin nhận thế gian có Phật,

         Tự gây ra gốc tội năo phiền;

         Sau khi chết rơi vào địa ngục,

         Bị gươm đao phân tán thân h́nh,

         Giết súc vật cúng tế thần linh,

         Th́ chịu khổ trong nồi nước nóng;       

       Tội dâm dục ôm cột đồng đỏ,

         Sức nóng ấy đốt thiêu thân h́nh;

         Phỉ báng bậc giới đức thanh cao,

         Th́ móc sắt kéo rút căn lưỡi;

         Rượu gây cuồng không c̣n lễ tiết,

         Nước đồng sôi rót đổ vào mồm;

         Nếu được sinh trở lại làm người,

         Th́ ngu si, không theo đạo lí.

       Không sát sinh được thân trường thọ,

         Chẳng bệnh tật, sức khỏe dồi dào.

         Không trộm cắp, sau được giàu sang,

         Tiền của luôn tự nhiên sung túc.

         Không dâm dục được hương tịnh khiết,

         Thân thể thường tươi sáng, thơm tho.

         Thật thà không dối gian lừa đảo,

         Được mọi người thương mến tin theo.

         Không uống rượu sẽ được thông minh,

         Người đời luôn kính yêu, tôn trọng.  

       Năm phúc ấy vượt hơn pháp khác,

         Người và trời đồng đến kết thân

         Khi phúc kia tăng thêm vạn bội,

         Đạt được chân đế thật rơ ràng.

         Kẻ ngu si không phân rơ đạo,

         Ngăn che thánh đạo, hủy chính giác[2];

         Sau khi chết rơi vào địa ngục,

         Đội bánh xe sắt nóng trên đầu;

       Bấy giờ muốn chết cũng không được,

         Chỉ trong chốc lát đổi thay h́nh,

         Bị giáo kích đâm thủng thân ḿnh,

         Cơ thể bị cắt thành từng mảnh.

         Trí u tối, không thông mọi việc,

         Ác rồi ác kéo dắt lẫn nhau,

         Nên sinh tử xoay vần các nẻo,

         Thụ thân chim thú và sáu loài[3]

         Bị người giết hại, đem mổ xẻ

         Lấy thịt để đền oán hận xưa.

         Không đạo đức, đọa vào đường ác;

         Mong thoát thân cũng khó lắm thay!

       Được thân người đă là rất khó,

         Được nghe Phật pháp lại khó hơn!

         Thế Tôn chính là bậc Chúng Hựu

         An trụ nơi địa vị Đặc Tôn[4].

         Ban chúng sinh vị pháp cam lộ[5],

         Người học sau xin nguyện hành tŕ!

         Thương chúng con, Phật hiện tuệ sâu,

         Xót cho phàm ngu không trí tuệ.

       Khai ngộ chúng sinh, Phật dạy đạo,

         Hành giả tu tŕ thoát tử sinh;

         Người có phúc, hiện đời theo Phật,

         Đạt Kiến đế, thích đạo Vô sinh.

         Xin qui y bậc Thánh nhân từ

         Gieo hạt giống vào nơi bất tử;

         Ân từ bi không ai hơn Phật,

         Lại thần diệu hiện tỏa uy quang.     

Con xin nguyện tất cả chúng sinh

Được nếm trọn cam lộ pháp vị;

Chèo thuyền tuệ đến bờ giác ngộ,

Tiếng khánh pháp vang cả tam thiên;

Con và người không c̣n ngă tưởng[6],

Được Chúng Hựu chuyển đại pháp luân,

Nên chúng con được niềm an lạc,

         Ĺa ṿng trói buộc mười hai duyên[7].  

Cúi đầu vui mừng xin đảnh lễ,

         Và qui y đấng Tối Thượng Tôn!

         Tôn giả A-nan cúi đầu tŕnh kệ rồi, đại chúng trong pháp hội đều chứng quả vị Bất thoái chuyển, tâm ư thông suốt, mặc áo giáp đại thệ nguyện, quyết chí cầu đạo Vô thượng, xông hương pháp cam lộ khắp mười phương, hiển bày chính đạo, làm chiếc cầu[8] cho chúng sinh.

Bấy giờ, quốc vương, quan, dân, trời, rồng, quỉ, thần … nghe Phật thuyết pháp và A-nan tŕnh kệ xong, thảy đều vừa buồn tủi, vừa thương xót, vừa cảm thán, vừa vui mừng cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật và tôn giả A-nan, nhận lĩnh giáo pháp rồi lui.  

-------------------------------------------------------------------------------------------


[1] Ba đường ác 三塗: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

[2] Chính giác正覺Phạm: Samyaksaôbodhi Pàli: Sammà-sambodhi. Chỉ sự giác ngộ chân chính. C̣n gọi Chính giải, Đẳng giác, Đẳng chính giác, Chính đẳng chính giác, Chính đẳng giác, Chính tận giác. Đẳng, là nói về lư được chứng - tận, là nói về hoặc bị đoạn. Tức là tiếng nói tắt của Vô thượng đẳng chính giác, Tam-miệu tam bồ-đề. Tiếng Phạm: Sambodhi, dịch ư là Chính giác, dịch âm là Tam bồ-đề. Có nghĩa là trí biết chân chính chứng ngộ hết thảy các pháp, là thực trí của Như lai, v́ thế, thành Phật c̣n gọi là thành Chính Giác.

[3] Sáu loài: Ḅ, ngựa, dê, chó, lợn và gà.

[4] Đặc Tôn特尊: Bậc đầy đủ trí và đức, là bậc tôn quí nhất trong ba cơi.

[5] Pháp cam-lộ甘露法: Giáo pháp của đức Như lai. Tức pháp vị thanh tịnh, nuôi dưỡng thân tâm chúng sinh, ví như tính chất của cam lộ.

[6] Ngă tưởng: ư niệm chấp ngă, cho ngă là thật có.

[7] Mười hai duyên 十二因緣: Phạm: dvādaśāgapratītya-samutpāda. Chỉ cho 12 điều kiện (tức 12 Hữu chi) cấu thành sự sinh tồn của loài hữu t́nh. Theo giáo nghĩa cơ bản nói trong kinh A-hàm th́ 12 nhân duyên là: Vô minh (Phạm: Avidỳa), Hành (Phạm: Saôskàra), Thức (Phạm: Vijĩàna), Danh sắc (Phạm:Nàma-rùpa), Lục xứ (Phạm: Wađ-àyatana), Xúc (Phạm: Sparza), Thụ (Phạm: Vedanà), Ái (Phạm:Tfwịà), Thủ (Phạm: Upàdàna), Hữu (Phạm: Bhava), Sinh (Phạm:Jàti) và Lăo tử (Phạm:Jaràmuraịa). Cứ theo kinh Đại duyên phương tiện trong Trường A-hàm quyển 10 th́ nhân nơi si mà có hành, nhân hành có thức, nhân thức có danh sắc, nhân danh sắc có lục nhập (lục xứ), nhân lục nhập có xúc, nhân xúc có thụ, nhân thụ có ái, nhân ái có thủ, nhân thủ có hữu, nhân hữu có sinh, nhân sinh mà có các đại hoạn: Lăo, tử, ưu, bi, khổ năo nhóm họp, đó chính là ấm duyên đại khổ này. Trong 12 chi này, mỗi chi trước là nhân sinh khởi của chi sau, nếu chi trước diệt th́ chi sau cũng diệt. Nếu đứng về phương diện giá trị và ư nghĩa sự sống c̣n của loài hữu t́nh mà quán xét ư nghĩa của 12 duyên khởi th́ 12 duyên khởi cho thấy những khổ năo của đời sống con người h́nh thành như thế nào (Lưu chuyển môn) và làm thế nào để diệt trừ khổ năo mà đạt đến khai ngộ (Hoàn diệt môn). Tức sự sinh tồn (Hữu) của loài người bắt đầu từ sự hoạt động của Thức, các hoạt động của Thức trở thành kinh nghiệm sinh hoạt (Hành), rồi lại do sự tích lũy các hoạt động mà h́nh thành nội dung của Thức; nhưng sự hoạt động của Thức là thông qua các khí quan cảm giác(tức Lục nhập: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư) mà tiếp xúc (Xúc) với các đối tượng của sự nhận thức (tức tất cả tâm, vật– Danh sắc), đây là việc cảm nhận (Thụ) về mặt chủ quan. Thức của phàm phu lấy Vô minh làm nội tướng, lấy khát ái (Ái, tham yêu không chán) làm ngoại tướng, khát ái là tướng căn bản của Thức, rồi từ đó phát triển mà nắm giữ lấy tất cả làm ngă để trở thành ngă chấp (Thủ), Thức được huân tập bởi các hoạt động nhiễm ô này mà phải trải qua các nỗi thống khổ của cảnh sống, già, chết... vô thường ở thế gian. Trái lại, bậc Thánh nhờ diệt được vô minh và khát ái mà các nỗi thống khổ sinh, già, chết của thế gian cũng diệt.

[8] Chiếc cầu橋梁: Cầu thường bị người ta giẫm đạp lên để đi qua, được dùng để ví dụ người có đức khiêm cung nhẫn chịu sự khinh nhờn của người khác đối với ḿnh. Chú Duy-ma-cật kinh quyển 7 (Đại 38, 391 thượng), ghi: Nói lời khiêm nhường, bị người lăng nhục, dày đạp, nhẫn chịu không sân, giống như cái cầu.

 

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0