佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

VT0451

KINH DƯỢC SƯ THẤT PHẬT BẢN NGUYỆN CÔNG ĐỨC

Hán Dịch: Sa Môn Nghĩa Tịnh

Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Nguyên Chơn

---o0o---

GIỚI THIỆU

Kính lễ Đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni

Kính lễ thập phương Hiền thánh tăng

Đầu quyển kinh, con không dám bày tỏ lời ḿnh, nhưng để cho những người có duyên tụng đọc biết rơ xuất xứ của kinh, nên con run sợ, hổ thẹn, chí thành sám hối, giới thiệu vài ḍng về kinh này.

Hán dịch kinh Dược Sư gồm có năm bản:

1. Kinh Bạt trừ quá tội sanh tử đắc độ, 1 quyển, do Bạch-thi-lợi-mật-đa-la dịch vào khoảng năm 317-322 thời Đông Tấn, Trung Quốc, xếp vào quyển 12, kinh Quán đảnh.

2. Kinh Dược Sư Lưu Li Quang, 1 quyển, do Huệ Giản dịch vào năm 457 đời Lưu Tống, Trung Quốc.

3. Kinh Dược Sư Như Lai bản nguyện công đức, 1 quyển, do Đạt-ma-cấp-đa dịch vào năm 615 thời Tùy, Trung Quốc.

4. Kinh Dược Sư Lưu Li Như Lai bản nguyện công đức, 1 quyển, do Huyền Trang dịch vào năm 650 đời Đường, Trung Quốc.

5. Kinh Dược Sư Lưu Li Quang thất Phật bản nguyện công đức c̣n gọi là kinh Thất Phật bản nguyện công đức, 2 quyển do Nghĩa Tịnh dịch vào năm 707 đời Đường, Trung Quốc.

Tất cả được xếp vào tập 14, Đại Chánh tân tu đại tạng kinh.

Ngoài ra, c̣n hai bản dịch Tây Tạng, một bản tương đồng với bản dịch của ngài Huyền Trang, tên là Bcom-ldam ḥdas sman-gyi blavaidūryaḥi hod-kyi sṅon-gyi smon-lam-gyi khyad-par rgyas-pa, một bản giống với bản dịch của ngài Nghĩa Tịnh tên là De-bshin-gśegs-pa bdun-gyi sṅon-gyi smon-lam-gyi khya -par rgyas-pa.

Bản kinh Dược Sư lưu hành tại Việt Nam hiện nay gồm hai bản, một bản do ḥa thượng Huyền Dung dịch và một bản do ngài Tuệ Nhuận dịch. Cả hai đều được dịch từ bản Hán của ngài Huyền Trang.

Nói chung các bản Hán dịch kinh Dược Sư, 1 quyển đều có nội dung, văn từ đa phần giống nhau. Chỉ có bản do ngài Nghĩa Tịnh dịch là gồm hai quyển thượng và hạ. Trong đó ba phần tư quyển thượng, Đức Phật nói về công đức bản nguyện danh hiệu, cơi nước trang nghiêm của sáu Đức Phật phương đông, từ gần cho đến xa tính từ cơi Ta-bà. Phần cuối quyển thượng và ba phần tư quyển hạ nói về công đức bản nguyện danh hiệu, cơi nước trang nghiêm của Đức Dược Sư. Sau cùng là nói về việc hộ tŕ kinh và người tŕ kinh cùng phần phó chúc lưu thông.

Bản Việt kinh này, con dịch từ bản Hán của ngài Nghĩa Tịnh, cho nên cũng phân làm hai quyển. Nhưng để tiện cho việc tụng niệm, con xin chí thành đảnh lễ sám hối các Đức Phật trong mười phương ba đời, chia lại từ đầu quyển đến hết phần nói về sáu Đức Phật phương đông thuộc quyển thượng, từ phần kể về Đức Dược Sư Lưu Li đến hết bộ là quyển hạ. Đồng thời con cũng xin dịch thêm bản của ngài Huyền Trang, đặt vào phần Phụ Lục cuối sách, để cho những người có duyên rộng phần tham khảo, hoặc cũng có thể tụng đọc.

Xin đảnh lễ cáo tri đến tất cả thiện tri thức và những người có duyên.

Cuối mùa An cư PL. 2552 – DL. 2008

Tỳ Kheo Thích Nguyên Chơn

Bao nhiêu công đức dịch thuật bộ kinh này, xin hồi hướng nguyện cầu cho Bồ-tát tại gia Hoàng Mạnh Hùng pháp danh Thiện Chí được sanh về cơi an lành, cũng mong cho tất cả mọi loài cùng chung hưởng.


NGHI THỨC TỤNG NIỆM KINH DƯỢC SƯ LƯU LI QUANG THẤT PHẬT BẢN NGUYỆN CÔNG ĐỨC

 (Tắm gội và thay y phục sạch sẽ, đến trước đàn Dược Sư, đứng trang nghiêm chắp tay, lắng ḷng, mắt chiêm ngưỡng tôn dung Ngài và thầm niệm hai câu chơn ngôn)

Chơn ngôn thanh tịnh pháp giới: Án lam tóa ha (7 lần)

Chơn ngôn thanh tịnh ba nghiệp: Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám (3 lần)

(Chủ lễ qú xuống cầm ba nén nhang và niệm lớn)

Hương trầm xông thơm ngát

Kết thành áng mây lành

Đệ tử với ḷng thành

Cúng dường Phật, Pháp, Tăng

Tín nguyện ḷng kiên cố

Niệm Phật măi tinh cần

Chánh trợ nghiệp song hành

Bốn tu, ba phước trọn

Hiện đời không bệnh khổ

Lâm chung chánh niệm an

Tam Thánh thương đến rước

Tây phương cảnh hiện tiền

Nam-mô Hương Cúng Dường Bồ-tát (3 lần)

Đệ tử chúng con hôm nay quỳ trước các Đức Phật Thế Tôn, chí thành dâng hương kính bày tâm nguyện. Từ nhiều kiếp lâu xa, chúng con măi trôi lăn trong các đường dữ, bao lần đánh mất thân người. May thay kiếp này mới gặp lại, được nghe chánh pháp, được biết năng lực bản nguyện danh hiệu của bảy Đức Phật ở phương đông, chúng con nhóm họp nơi đây tụng kinh Dược Sư Lưu Li thất Phật bản nguyện công đức.

Chúng con một ḷng khẩn thỉnh Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chứng minh, bảy Đức Phật ở phương đông cùng các Đại Bồ-tát, các Hiền thánh tăng trong hải hội Dược Sư rủ ḷng xót thương phóng ánh sáng lành, hoặc trong mộng hiện điềm lành, hoặc âm thầm gia hộ, khiến cho Phật tử… pháp danh… sanh năm…,… tuổi bệnh tật toàn tiêu, tội chướng, báo chướng, oán chướng từ bao đời thảy dứt trừ, ḷng tin Tam bảo càng bền vững, sức hành tŕ càng tăng, ư nguyện càng thiết tha, ngơ hầu hiện tại b́nh an, mai sau được sanh về cơi An Dưỡng.

Nam-mô Chứng Minh Sư Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần)

(Đứng dậy cắm nhang vào lư rồi đọc bài tán Phật và xướng lễ)

 

TÁN DƯƠNG PHẬT

Sắc thân Như Lai đẹp

Trong đời không ai bằng

Không sánh, chẳng nghĩ bàn

Nên nay con đảnh lễ

Sắc thân Phật vô tận

Trí tuệ Ngài cũng thế

Tất cả pháp thường trú

Cho nên con về nương

Sức đại trí, đại nguyện

Độ tất cả quần sanh

Khiến bỏ thân nóng khổ

Sanh cơi Tịnh mát vui

Con nay sạch ba nghiệp

Quay về và đảnh lễ.

- Nhất tâm đảnh lễ: Chư Phật, Tôn pháp, Hiền thánh tăng thường trụ trong mười phương ba đời.

- Nhất tâm đảnh lễ: Đức Phật Bổn sư Thích-ca Mâu-ni, giáo chủ cơi Ta-bà

- Nhất tâm đảnh lễ: Đức Phật Thiện Danh Xưng Cát Tường Vương, giáo chủ cơi Thắng Quang ở phương đông.

- Nhất tâm đảnh lễ: Đức Phật Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương, giáo chủ cơi Diệu Bảo ở phương đông.

- Nhất tâm đảnh lễ: Đức Phật Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu, giáo chủ cơi Viên Măn Hương Tích ở phương đông.

- Nhất tâm đảnh lễ: Đức Phật Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường, giáo chủ cơi Vô Ưu ở phương đông.

- Nhất tâm đảnh lễ: Đức Phật Pháp Hải Lôi Âm, giáo chủ cơi Pháp Tràng ở phương đông.

- Nhất tâm đảnh lễ: Đức Phật Pháp Hải Thắng Huệ Du Hí Thần Thông, giáo chủ cơi Thiện Trụ Bảo Hải ở phương đông.

-Nhất tâm đảnh lễ: Đức Phật Dược Sư Lưu Li Quang Vương, giáo chủ cơi Tịnh Lưu Li ở phương đông.

(Đảnh lễ xong, đại chúng đồng ngồi, vào chuông mơ và bắt đầu tụng kinh)

 

TÁN HƯƠNG

Hương trầm quyện tỏa lư vàng

Xông cùng pháp giới đạo tràng gần xa

Kết thành mây báu sáng ḷa

Kính dâng hương nguyện thiết tha chí thành

Chư Phật thấu biết ḷng lành

Pháp thân ứng hiện rơ rành chứng minh

Nam-mô Hương Vân Cái bồ-tát ma-ha-tát (3 lần)

 

THẦN CHÚ ĐẠI BI

Nam-mô Đại bi hội thượng Phật, Bồ-tát (3 lần)

Thiên thủ thiên nhăn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.

Nam mô a rị da bà lô kiết đế thước bát ra da.

Bồ đề tát đỏa bà da.

Ma ha tát đỏa bà da.

Ma ha ca lô ni ca da.

Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.

Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a rị da bà lô kiết đế,

Thất Phật ra lăng đà bà.

Nam mô na ra cẩn tŕ, hê rị ma ha bàn đà sa mế.

Tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng,

Tát ba tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.

Án, a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê rị.

Ma ha bồ đề tát đỏa,

Tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng.

Câu lô câu lô kiết mông.

Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế.

Đà ra đà ra địa ri ni, thất phật ra da.

Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ.

Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm.

Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị.

Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô.

Bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ.

Di đế rị dạ. Na ra cẩn tŕ địa rị sắc ni na.

Ba dạ ma na, ta bà ha.

Tất đà dạ ta bà ha,

Ma ha tất đà dạ ta bà ha,

Tất đà du nghệ thất bàn ra da, ta bà ha.

Na ra cẩn tŕ, ta bà ha.

Ma ra na ra ta bà ha.

Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha,

Ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha.

Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha.

Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha.

Na ra cẩn tŕ bàn đà ra dạ, ta bà ha.

Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.

Nam mô a rị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha.

Án, tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

 

Kính lạy đấng Tam Giới Tôn

Nương tựa về mười phương Phật

Con nay phát nguyện lớn

Tụng tŕ kinh Dược Sư

Trên đền bốn ân nặng

Dưới cứu giúp ba đường

Nếu có ai thấy nghe

Liền phát tâm bồ-đề

Hết một báo thân này

Sanh về cơi An Lạc

Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (3 lần)

KỆ KHAI KINH

Pháp Phật cao vời, lại thẳm sâu

Trăm ngàn vạn kiếp khó t́m cầu

Nay con nghe thấy xin tŕ tụng

Nguyện thấu Như Lai nghĩa nhiệm mầu

Nam-mô Dược Sư hải hội Phật Bồ-tát (3 lần)

 


Quyền Thượng     Quyền Hạ

KINH DƯỢC SƯ LƯU LI QUANG

THẤT PHẬT BẢN NGUYỆN CÔNG ĐỨC

Hán Dịch: Đời Đường, Tam Tạng Sa-Môn Nghĩa Tịnh, Chùa Phật Quang

Việt Dịch: T́-Kheo Thích Nguyên Chơn

QUYỀN THƯỢNG

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật đi khắp các nước giáo hóa chúng sanh, dần dần đến thành Quảng Nghiêm an trú nơi cội Nhạc Âm. Bấy giờ vô lượng đại chúng vây quanh, cung kính lắng ḷng nghe Ngài thuyết pháp. Trong đó có tám ngàn đại t́-kheo, ba vạn sáu ngàn bậc đại bồ-tát, với các thượng thủ: Văn-thù-sư-lợi, bồ-tát Quán Âm, bồ-tát Từ Thị, bồ-tát Thiện Hiện, bồ-tát Đại Huệ, bồ-tát Minh Huệ, bồ-tát Sơn Phong, bồ-tát Biện Phong, Tŕ Diệu Cao Phong, Bất Không Siêu Việt, ngài Triệt Diệu Âm, ngài Thường Tư Duy, ngài Chấp Kim Cang; lại có rất nhiều quốc vương đại thần, các bà-la-môn, nam nữ cư sĩ và tám bộ chúng: trời, rồng... tham dự. Giáo pháp Thế Tôn giảng nói hôm nay, đoạn đầu đoạn giữa và đoạn sau cùng, đều rất cao siêu, văn nghĩa tuyệt diệu, thuần một đặc tánh, hoàn thiện trong sáng, Phạm hạnh thanh tịnh. Đức Phật nói pháp, khiến cho tất cả đồng được lợi ích, đầy đủ hạnh nguyện rộng lớn vi diệu, đạt đến bồ-đề.

Bấy giờ bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, y lộ vai phải, nương oai thần Phật, đứng dậy cung kính chắp tay bạch rằng:

Bạch Đức Thế Tôn! Từ lúc phát tâm bồ-đề vô thượng cho đến hôm nay, đă thành Chánh giác, Ngài đă trải qua vô lượng trần kiếp, hẳn đă thấy biết tất cả cơi Phật. Cúi xin Thế Tôn v́ chúng hội đây và các chúng sanh ở đời vị lai, rủ ḷng từ bi nói về công đức bản nguyện danh hiệu, cơi nước trang nghiêm, phương tiện khéo léo của mỗi Đức Phật, để ai nghe đến, nghiệp chướng tiêu trừ, cho đến không c̣n lui sụt đạo lớn Vô thượng bồ-đề.

Thế Tôn khen ngợi Văn-thù-sư-lợi: “Hay thay! Hay thay! Văn-thù-sư-lợi! V́ ḷng đại bi, ông đă thương xót, nghĩ nhớ đến các chúng sanh đầy dẫy nghiệp chướng bệnh tật, sầu bi khổ năo, muốn giúp tất cả măi được an vui, nên mới thỉnh Ta nói về công đức bản nguyện danh hiệu, cơi nước trang nghiêm của mỗi Đức Phật. Chính sức oai thần của các Như Lai, khiến ông thưa hỏi những việc như thế. Ông hăy lắng nghe và suy nghĩ kĩ, Ta sẽ nói rơ cho ông được biết.”

Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật rằng: “Cúi xin Thế Tôn từ bi chỉ dạy, chúng con nay đang tha thiết muốn nghe!”

Đức Phật dạy rằng: “Văn-thù-sư-lợi! Về phương đông xa, cách đây khoảng bốn hằng sa cơi Phật có một thế giới tên là Thắng Quang. Giáo chủ cơi ấy hiệu là Thiện Danh Xưng Cát Tường Vương Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Măn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ngài ngồi trên ṭa sư tử bảy báu vô cùng quí giá diễn nói diệu pháp, vô lượng bồ-tát Bất thoái chuyển địa đang vây quanh nghe. Văn-thù-sư-lợi! Cơi nước Thắng Quang hoàn toàn thanh tịnh, dài rộng bằng nhau, mỗi chiều đo khoảng trăm ngàn do-tuần, mặt đất bằng phẳng, bằng vàng Thiệm-bộ, hương trời thơm ngát; lại không có các nẻo đường xấu ác, không có người nữ và cả sỏi đá, cùng những gai gốc. Nơi này c̣n có các hàng cây báu, hoa trái sum suê; rất nhiều hồ tắm tạo bằng vàng bạc, trân châu và các loại vật báu khác.

Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát cơi này đều hóa sanh từ hoa sen bảy báu. Cho nên những người ḷng tin trong sáng th́ nên nguyện sanh về cơi nước ấy. Đức Phật Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác từ lúc phát tâm hành đạo bồ-tát đă từng phát tám thệ nguyện rộng lớn:

- Nguyện lớn thứ nhất: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh bị những căn bệnh sốt rét trùng độc, ma quỉ bức hại mà một ḷng niệm danh hiệu của Ta, nhờ sức niệm ấy, bệnh tật tiêu trừ, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh bị những chứng bệnh điếc đui câm ngọng, lác hủi si cuồng, mà một ḷng niệm danh hiệu của ta, nhờ sức niệm ấy, bệnh tật tiêu trừ, các căn đầy đủ, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ ba: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh bị tham sân si trói buộc bức ép, tạo tội Vô gián và các việc ác, phỉ báng chánh pháp, chẳng tu pháp thiện, lẽ ra phải rơi thẳng vào địa ngục, chịu nhiều thống khổ, một ḷng xưng niệm danh hiệu của Ta, nhờ sức niệm ấy mà tội Vô gián và các nghiệp chướng đều được tiêu trừ, không đọa cơi ác, sanh vào cơi người, và lên cơi trời, hưởng những niềm vui cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ tư: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh không có y phục đủ che thân thể, không có lương thực nuôi sống qua ngày, không có âm nhạc để cùng vui chơi, không có hương hoa, chuỗi ngọc trang sức, không có ngọa cụ, vật dụng của cải, niệm danh hiệu ta, nhờ sức niệm ấy, tất cả mọi thứ đều được đầy đủ, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ năm: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh bị những nạn lớn gông cùm xiềng xích, trói buộc thân thể, lại bị đánh đập đớn đau khổ sở, một ḷng xưng niệm danh hiệu của Ta, nhờ sức niệm ấy, thoát những nỗi khổ, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ sáu: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh vào nơi nguy hiểm, sắp bị thú dữ: sư tử cọp beo, gấu sói rắn độc, ḅ cạp rít sên, làm hại thân mạng, kêu gào khóc lóc, vô cùng khổ năo, một ḷng xưng niệm danh hiệu của ta, nhờ sức niệm ấy, không c̣n những nỗi sợ hăi kinh hoàng, lại khiến thú dữ đều khởi ḷng từ, luôn được an vui, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ bảy: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh, v́ việc tranh tụng khiến tâm sầu buồn, lo lắng khổ sở, một ḷng xưng niệm danh hiệu của Ta, nhờ sức niệm ấy, hai bên ḥa giải, cùng khởi ḷng từ, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ tám: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh, đang trên biển lớn, bị băo thổi dạt, lênh đênh đây đó, không bến neo đậu, lo lắng khốn khổ, một ḷng xưng niệm danh hiệu của ta, nhờ sức niệm ấy, tùy ư đến được những nơi an ổn, hưởng thụ niềm vui, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

Văn-thù-sư-lợi! Đó là tám nguyện rộng lớn cao cả của Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phát ra trong khi tu đạo bồ-tát. Từ lúc phát tâm, đến thành Chánh giác, Thế Tôn đă dùng sức định giáo hóa vô lượng chúng sanh, cúng dường chư Phật, trang nghiêm cơi Phật, bồ-tát quyến thuộc thảy đều viên măn. Phước đức như thế không thể nghĩ bàn, chỉ các Đức Phật, các vị bồ-tát Nhất sanh bổ xứ mới biết mà thôi; c̣n hàng Thanh văn và các Độc giác, dù trải nhiều kiếp vẫn không thể biết.

Văn-thù-sư-lợi! Nếu những nam nữ ḷng tin thanh tịnh, hoặc là quốc vương, đại thần trưởng giả, cư sĩ quan viên, muốn cầu phước đức, đoạn trừ phiền năo, mà niệm danh hiệu Thiện Danh Xưng Cát Tương Vương Như Lai, cung kính cúng dường, đọc tụng kinh này, th́ những tội ác, nghiệp chướng sâu dày và các bệnh khổ, thảy đều tiêu trừ, ước nguyện tùy tâm, được Bất thoái chuyển, cho đến chứng đắc Vô thượng bồ-đề.

Văn-thù-sư-lợi! Về phương đông xa, cách đây hơn năm hằng hà sa cơi Phật có một thế giới tên là Diệu Bảo. Giáo chủ cơi ấy hiệu là Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, hiện đang thuyết pháp Đại thừa sâu xa, vô lượng bồ-tát vây quanh kính nghe. Khi mới phát tâm hành đạo bồ-tát, Ngài đă lập tám hạnh nguyện rộng lớn.

- Nguyện lớn thứ nhất: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh, hoặc v́ thương nghiệp, trao đổi bán buôn, hoặc v́ nông trang, cày cấy gieo trồng mà ḷng lo lắng, khổ năo buồn phiền, bỏ việc tu tập bồ-đề thù thắng, không thể vượt qua ḍng sông sanh tử, phải chịu muôn ngàn đớn đau khổ sở, mà niệm hiệu ta, nhờ sức niệm ấy, đầy đủ y phục, những thức uống ăn, vật dụng sinh hoạt, tiền tài bảo vật; thêm lớn căn lành, không c̣n rời xa tâm đại bồ-đề, thoát khỏi đường ác, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu các thế giới trong khắp mười phương, có những chúng sanh nào bị lạnh nóng, đói khát bức ép, thân tâm phải chịu nhiều nỗi đớn đau, mà một ḷng niệm danh hiệu của ta, nhờ sức niệm ấy, tất cả tội nghiệp đời trước tiêu trừ, không c̣n khổ đau, thọ hưởng niềm vui cơi trời cơi người, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ ba: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu các thế giới trong khắp mười phương, những người nữ nào bị thói đa dâm che mờ tâm tánh, nhiều lần mang thai, vô cùng nhàm chán, đến lúc sinh nở lại chịu đớn đau, mà nghe tên Ta, rồi liền xưng niệm, nhờ sức niệm ấy, các khổ không c̣n, sau khi qua đời sanh làm thân nam, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ tư: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có những người, hoặc cùng cha mẹ, hoặc cùng anh em, chị em vợ con, bạn bè thân thuộc vào nơi nguy hiểm, sắp bị giặc cướp làm hại đến thân, chịu nhiều khốn khổ, hễ nghe tên Ta rồi liền xưng niệm, nhờ oai lực ấy, thoát khỏi hoạn nạn, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ năm: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh, v́ những công việc phải đi trong đêm, bị các quỉ thần xấu ác nhiễu loạn, trong ḷng lo sợ, hễ nghe danh Ta, rồi liền xưng niệm, nhờ oai lực ấy, mà đến được nơi an b́nh sáng sủa, quỉ thần xấu ác lại khởi ḷng từ, thoát khỏi hiểm nạn, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ sáu: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh tạo các nghiệp ác, không tin Tam bảo, trí tuệ tối tăm, không tu pháp thiện, không hành các pháp, căn-lực-giác đạo, niệm-định-tổng tŕ, hễ một ḷng niệm danh hiệu của Ta, nhờ sức niệm ấy, trí tuệ tăng trưởng, tu học trọn vẹn ba mươi bảy phẩm, tin sâu Tam bảo, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ bảy: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh, ưa pháp thấp kém, tu tập Tiểu thừa, phế bỏ Đại thừa vô thượng vi diệu, hễ một ḷng niệm danh hiệu của Ta, liền chuyển tâm ư, xả bỏ kiến chấp Tiểu thừa thấp kém, không c̣n lui sụt đạo Vô thượng giác, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ tám: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh, do sức nghiệp ác từ nhiều đời trước, thấy kiếp sắp tận, lửa lớn sắp nổi, buồn rầu lo sợ, khóc lóc kêu gào, chịu nhiều thống khổ, không nơi gá nương, hễ một ḷng niệm danh hiệu của ta, th́ những lo buồn, khổ đau tiêu trừ, thân tâm an vui, sau khi mạng chung, sanh vào hoa sen trong cơi của ta, luôn tu pháp thiện, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

Văn-thù-sư-lợi! Đó là tám nguyện rộng lớn cao cả của Đức Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác phát ra trong khi hành đạo bồ-tát. Cơi nước Diệu Bảo rộng lớn sạch sẽ và rất trang nghiêm, mặt đất bằng phẳng như ḷng bàn tay. Cây tỏa hương trời mọc thành từng hàng, hoa trời phủ đầy, nhạc trời reo vang, linh trời treo khắp, châu báu cơi trời đính ṭa sư tử và khảm vào các hồ tắm trang nghiêm. Cơi nước Diệu Bảo không có người nữ, cùng các phiền năo; mặt đất mềm mịn, không có sỏi đá, các vị bồ-tát đều từ hoa sen mà hóa sanh ra. Chúng sanh cơi này, chỉ cần nghĩ tưởng liền có đầy đủ thức ăn thức uống, y phục vật dụng, các món thường dùng. Tất cả tùy tâm hiện ra trước mặt. V́ thế gọi là thế giới Diệu Bảo.

Văn-thù-sư-lợi! Nếu có nam nữ ḷng tin thanh tịnh, hoặc là quốc vương, vương tử-đại thần, phụ tướng-cung nữ suốt ngày trọn đêm, một ḷng tha thiết, cung kính cúng dường và niệm danh hiệu của Đức Phật ấy, đồng thời tạo tượng Ngài để tôn thờ, dâng cúng hoa thơm, âm nhạc hát ca, hương đốt hương thoa, trong bảy ngày đêm giữ ḿnh sạch sẽ, thọ tám trai giới, khởi ḷng từ bi đối với chúng sanh, rồi nguyện sanh về cơi nước Diệu Bảo, th́ đức Quang Âm Tự Tại Vương Phật và các bồ-tát âm thầm bảo vệ, khiến cho tội nghiệp người ấy tiêu trừ, không c̣n lui sụt đạo lớn bồ-đề, tâm tham sân si dần dần nhẹ mỏng, không c̣n bệnh hoạn, tuổi thọ tăng thêm, những điều mong cầu đều được thành tựu, kẻ oán người thù, tùy thuận mừng vui. Hiện đời thành tựu niệm-định tổng tŕ, đời sau hóa sanh vào hoa sen báu, trong cơi tốt đẹp, của đức Quang Âm Tự Tại Vương Phật. Văn-thù-sư-lợi! Ông nên biết rằng, danh hiệu Phật ấy oai đức như thế, nếu ai nghe được, ước nguyện sẽ thành.

Văn-thù-sư-lợi! Về phương đông xa, cách đây hơn sáu hằng sa cơi Phật, có thế giới là Viên Măn Hương Tích. Giáo chủ cơi ấy hiệu là Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hiện đang thuyết pháp, vô lượng bồ-tát vây quanh lắng nghe. Khi Ngài phát tâm hành đạo bồ-tát, lập bốn nguyện lớn:

- Nguyện lớn thứ nhất: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh làm nghề giết mổ, sát hại sinh vật, do nghiệp ác này, sau khi qua đời, lẽ ra phải rơi vào trong địa ngục, hoặc được thân người th́ cũng chết yểu, bệnh tật đớn đau, hoặc bị nước cuốn, hoặc bị lửa thiêu, hoặc trúng thuốc độc, dẫn đến cái chết, mà nghe danh ta, một ḷng xưng niệm, nhờ sức niệm ấy, nghiệp ác tiêu trừ, không c̣n bệnh khổ, chết yểu chết oan, khoẻ mạnh sống lâu, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh gây nhiều nghiệp ác, trộm cắp tài vật, sau khi qua đời, lẽ ra rơi vào trong các đường dữ, hoặc được thân người th́ cũng sanh vào gia đ́nh hèn hạ, khổ sở khốn cùng, thiếu thốn y phục, thức uống thức ăn, chịu nhiều đau khổ, mà nghe tên ta, một ḷng xưng niệm, nhờ sức niệm ấy, nghiệp ác tiêu trừ, đầy đủ y phục, thức uống thức ăn, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ ba: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh, hiềm khích lăng nhục, tranh đấu lẫn nhau, mà nghe tên ta, một ḷng xưng niệm, nhờ sức niệm ấy, đều khởi ḷng từ, đối xử với nhau như là cha mẹ, cho đến mai sau chứng được đạo quả Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ tư: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh, bị tham sân si trói buộc che tâm, bảy chúng xuất gia và cả tại gia hủy phạm giới cấm do Phật chế định, sau khi chết đi, lẽ ra phải đọa vào trong địa ngục, nhận lănh quả báo vô lượng khổ đau, mà nghe tên ta, một ḷng xưng niệm, nhờ sức niệm ấy, nghiệp ác tiêu trừ, phiền năo đoạn diệt, kính giữ thi-la, pḥng hộ ba nghiệp, vĩnh viễn không mất, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

Văn-thù-sư-lợi! Đây là bốn nguyện rộng lớn cao cả mà Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phát ra trong khi tu đạo bồ-tát. Văn-thù-sư-lợi! Cơi nước Hương Tích rộng lớn vắng lặng, sạch sẽ trang nghiêm; mặt đất toàn do báu vật tạo thành, phẳng như bàn tay, luôn xông lên hương chiên-đàn thơm ngát. Lại có loại cây luôn tỏa hương thơm mọc thành từng hàng, chuỗi báu ma-ni cơi trời tuyệt đẹp, treo rủ khắp nơi; hồ tắm được khảm và trang trí nhiều báu vật cơi trời, trong đó chứa đầy nước thơm có đủ tám đặc tánh quí. Quanh hồ được treo rất nhiều tơ lụa màu sắc rực rỡ, có tám bậc thềm dùng để lên xuống thiết trí chung quanh. Chúng sanh cơi này không c̣n phiền năo, đau khổ lo buồn, không có người nữ, phần nhiều là hàng bồ-tát Thập địa. Âm nhạc tuyệt vời không đánh tự vang, phát ra âm thanh diễn pháp Đại thừa sâu xa vi diệu, những ai nghe được sẽ không lui sụt Vô thượng bồ-đề.

Văn-thù-sư-lợi! Bởi nhờ nguyện lực và phương tiện khéo đă hành khi xưa, mà Đức Như Lai tạo nên cơi Phật vô cùng hoàn hảo, thanh tịnh trang nghiêm. Ngài ngồi nơi ṭa Bồ-đề suy nghĩ: “Vào đời vị lai, hẳn nhiều chúng sanh bị tham sân si bức bách trói buộc, bệnh hoạn đớn đau, oan gia hăm hại mà bị chết oan, lại do tạo ác mà đọa địa ngục chịu nhiều thống khổ.” Đức Phật thấy những chúng sanh chịu những khổ năo như thế, liền thuyết thần chú, để họ thọ tŕ, hầu tiêu nghiệp chướng, hiện đời lợi ích, xa ĺa khổ đau, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.”

Đức Phật tuyên thuyết: Đát điệt tha, tất lệ, tất lệ, tô tất lệ, mô chiết nễ, mộc sát nễ, mục đế, t́ mục đế, am mạt lệ, t́ mạt lệ, mang yết lệ, hí lan nhă, yết t́ át lạt đát na, yết t́ tát bà át tha bà, đát nễ bát ra ma át tha bà, đát nễ mạt nại tế, mạt ha mạt nại tế, át bộ đế, át điệt bộ đế, t́ đa bà duệ, tô bạt nễ, bạt ra hám ma cù hiệp khư, bạt ra hám ma trụ hiệp đế, tát bà át thế, sổ nạp ma sa bà, đát tha yết đa nẫm, sa ha.

Khi Đức Thế Tôn thuyết thần chú này, các đại bồ-tát, bốn vị thiên vương, Đế Thích-Phạm thiên…đều ca ngợi rằng: “Hay thay, hay thay! Đại Bi Thế Tôn tuyên thuyết thần chú đại hùng đại lực của Phật quá khứ, là v́ muốn làm lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh, giúp họ tát cạn biển lớn phiền năo, lên bờ niết-bàn, trừ diệt tật bệnh, thành tựu ước mong.”

Đức Phật lại dạy: Nếu có nam nữ ḷng tin thanh tịnh, hoặc là quốc vương, vương tử đại thần, phụ tướng cung nữ, mong cầu phước đức, tuyệt đối tin tưởng bài thần chú này, rồi hoặc đọc tụng, hoặc giảng nói nghĩa cho người khác nghe, khởi ḷng đại bi với cả hàm thức, suốt ngày trọn đêm cung kính cúng dường hương hoa đèn nến, tắm rửa sạch sẽ, thọ bát quan trai, chí thành tụng niệm th́ vô biên nghiệp cực nặng tiêu trừ, hiện đời ĺa xa tất cả phiền năo, lâm chung lại được chư Phật hộ niệm, liền được hóa sanh vào hoa sen báu ở cơi nước kia.

Văn-thù-sư-lợi! Về phương đông xa, cách đây hơn bảy hằng sa cơi Phật, có một thế giới tên là Vô Ưu. Giáo chủ cơi ấy: Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, hiện đang thuyết pháp, vô lượng vạn ức bồ-tát vây quanh cung kính lắng nghe. Cơi nước Vô Ưu rộng lớn trang nghiêm; mặt đất mềm mịn, sạch sẽ bóng loáng, báu vật tạo thành, phẳng như bàn tay, luôn xông lên hương chiên-đàn thơm ngát. Chúng sanh cơi này xa ĺa phiền năo, không có các từ: “lo khổ” “đường ác”, và từ “người nữ”. Nơi nơi đều có hồ tắm bằng vàng, chứa đầy nước thơm; cây báu mọc thành từng hàng thẳng tắp, hoa quả sum suê. Âm nhạc hay tuyệt không đánh tự vang, giống như cảnh trí thanh tịnh trang nghiêm nơi cơi Cực Lạc, thế giới Tây phương. Văn-thù-sư-lợi! Khi Đức Phật ấy hành đạo bồ-tát, lập bốn nguyện lớn.

- Nguyện lớn thứ nhất: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh, ḷng thường lo buồn, khổ năo bức bách, hễ nghe tên ta, một ḷng xưng niệm, do sức niệm ấy lo buồn khổ năo liền tự tiêu trừ, an ổn sống lâu, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh tạo các nghiệp ác, sau khi qua đời rơi vào địa ngục Vô gián tối tăm, chịu các khổ năo, nhưng do đời trước, đă từng nghe đến danh hiệu của Ta, cho nên hôm nay, Ta phóng ánh sáng, chiếu đến người tội, người ấy thấy được ánh sáng này rồi, nghiệp chướng liền tiêu, thoát khỏi ngục khổ, sanh lên cơi trời, hoặc vào cơi người tùy tâm ư ḿnh thọ hưởng an vui, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ ba: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh tạo các nghiệp ác: sát sanh trộm cắp, dối trá tà dâm, khiến cho hiện tại bị người đánh đập, đời sau rơi vào các cơi xấu ác, dẫu được làm người th́ cũng sanh vào gia đ́nh bần tiện, không đủ cơm áo, luôn chịu đói khát, lạnh nóng bức bách, thân thể ốm gầy, sắc diện xanh xao, quyến thuộc toàn là những kẻ bất chính, bệnh hoạn chết yểu, hễ nghe tên ta, một ḷng xưng niệm, nhờ sức niệm ấy mà mọi mong cầu đều được thành tựu, đầy đủ y phục, thức uống thức ăn, thân sắc tươi nhuận như các vị trời, quyến thuộc hiền thiện, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ tư: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh bị thần Dược-xoa bạo ác năo loạn, đoạt lấy tinh khí, phải chịu thống khổ, mà nghe tên Ta, chí tâm xưng niệm, nhờ sức niệm ấy, các Dược-xoa kia đều khởi ḷng từ, tự tiện thoái lui, người ấy thoát khỏi những nỗi khổ đau, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

Văn-thù-sư-lợi! Đó là bốn nguyện, rộng lớn cao cả của Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phát ra trong khi tu đạo bồ-tát. Nếu có chúng sanh nghe được danh hiệu của Đức Phật này, rồi suốt ngày đêm một ḷng xưng niệm, lễ bái cúng dường, khởi ḷng từ bi đối với chúng sanh, th́ những nghiệp chướng thảy đều tiêu trừ, thoát mọi khổ đau, không bệnh sống lâu, đạt được túc mạng, sanh vào hoa sen, ở cơi Vô Ưu, thường được chư thiên giúp đỡ bảo vệ.

Văn-thù-sư-lợi! Xưng niệm danh hiệu của Đức Phật ấy, đạt được vô lượng phước đức như thế. Nhưng cơi trang nghiêm, công đức thù thắng từ sức bản nguyện của Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai th́ hàng Thanh văn, cho đến Độc giác không thể nào biết, chỉ có chư Phật mới rơ mà thôi!

Văn-thù-sư-lợi! Về phương đông xa, cách đây hơn tám hằng sa cơi Phật, có một thế giới tên là Pháp Tràng. Giáo chủ cơi ấy hiệu là Pháp Hải Lôi Âm Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hiện đang thuyết pháp. Cơi nước Pháp Tràng sạch sẽ trang nghiêm; mặt đất toàn do pha lê tạo thành, phẳng như bàn tay, luôn phát ánh sáng, tỏa hương thơm ngát. Thành quách xây bằng ngọc quí Đế thanh, tám con đường đi được lát vàng bạc; lầu gác-cung điện, nóc mái-cửa nẻo, cho đến lan can đều được trang trí bằng các châu báu. Cây tỏa hương trời, mọc thành từng hàng phân bố khắp nơi, trên cành giăng mắc nhiều dải lụa đẹp và linh cơi trời. Khi gió nhẹ thổi, linh báu lay động, phát ra âm thanh diễn nói các pháp: vô thường-khổ-không, và cả vô ngă. Những ai nghe được âm thanh pháp này, xa ĺa tham dục, dần trừ tập khí, được định sâu xa. Lại thêm vô số hoa trời thơm ngát tung rải khắp nơi, tại bốn mặt thành có bốn ao tắm, đáy ao trải toàn cát bằng vàng ṛng, chứa đầy nước thơm. Văn-thù-sư-lợi! Trong cơi Phật ấy, không có nẻo ác và cả người nữ; tất cả chúng sanh đều từ hoa sen mà hóa sanh ra, không c̣n phiền năo. Khi Đức Phật ấy hành đạo bồ-tát, lập bốn nguyện lớn.

- Nguyện lớn thứ nhất: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có những kẻ, sinh vào gia đ́nh, ḍng họ tà kiến, không tin Tam bảo, xa ĺa bồ-đề, mà nghe tên Ta, một ḷng xưng niệm, nhờ sức niệm ấy, vô minh tà huệ liền được tiêu trừ, kính tin Tam bảo, không lui sụt đạo Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có những kẻ sinh nơi biên địa, gần gũi bạn xấu, tạo các nghiệp ác, không tu pháp lành, chưa từng nghe đến danh từ “Tam bảo”, sau khi mạng chung ắt vào đường dữ, nhưng do đă nghe danh hiệu của Ta, nhờ uy lực ấy, nghiệp chướng tiêu trừ, gặp được bạn lành, không rơi đường dữ, cho đến đạt được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ ba: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh, bởi do thiếu thốn những vật cần dùng: áo quần giường chiếu, mền mùng y phục, thức ăn thức uống, thuốc men trị bệnh, khổ năo lo buồn, lại bởi kiếm t́m các vật dụng ấy mà tạo nghiệp ác, hễ vừa nghe được danh hiệu của Ta, một ḷng xưng niệm, nhờ sức niệm ấy, tất cả đầy đủ đúng như ư muốn, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ tư: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh do nghiệp đời trước mà khởi tranh đấu, làm việc vô ích, như dùng cung tên, đao kiếm gậy gộc, gây thương tổn nhau, hễ vừa nghe được danh hiệu của Ta, một ḷng xưng niệm, nhờ sức niệm ấy, th́ cả hai bên đều khởi ḷng từ, không hại lẫn nhau, chẳng khởi niệm ác, huống ǵ giết hại; tâm luôn hỉ xả, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

Văn-thù-sư-lợi! Đó là bốn nguyện rộng lớn cao cả của Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phát ra trong khi hành đạo bồ-tát. Nếu những nam nữ ḷng tin thanh tịnh, nghe được danh hiệu của Đức Phật này, chí thành lễ lạy, cung kính cúng dường, nhớ ghi niệm tụng, th́ những nghiệp chướng thảy đều tiêu trừ, không lui sụt đạo Vô thượng bồ-đề, được trí túc mạng; sanh ra nơi nào cũng đều gặp Phật, không bệnh sống lâu. Sau khi mạng chung, sanh vào thành thị, đầy đủ vật dụng, thức ăn thức uống, áo quần thuốc men… Đức Phật Thế Tôn ấy có vô lượng công đức như thế, tất cả chúng sanh một ḷng nhớ nghĩ, chớ để quên sót.

Văn-thù-sư-lợi! Về phương đông xa, cách đây hơn chín hằng sa cơi Phật, có thế giới là Thiện Trụ Bảo Hải. Giáo chủ cơi ấy là đức Pháp Hải Thắng Huệ Du Hí Thần Thông Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hiện đang thuyết pháp. Văn-thù-sư-lợi! Khi Đức Phật ấy hành đạo bồ-tát, phát bốn nguyện lớn.

- Nguyện lớn thứ nhất: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh tạo các nghiệp ác: cày bừa đào xới, tổn hại sinh mạng các loài côn trùng, hoặc dối gạt người, hoặc ra chiến trận, chém giết đối phương, mà nghe tên Ta, một ḷng xưng niệm, nhờ sức niệm ấy, th́ những vật dụng sinh hoạt hằng ngày không cần t́m cầu cũng tự đầy đủ, luôn làm việc lành, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh tạo mười nghiệp ác: sát sanh trộm cắp, dối trá tà dâm… sau khi chết đi, lẽ ra rơi vào địa ngục chịu khổ, mà nghe tên Ta, một ḷng xưng niệm, th́ liền thành tựu mười nghiệp đạo thiện, không vào đường ác, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ ba: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh làm tớ cho người, không được tự do, hoặc bị trói buộc, hoặc bị gông cùm, xiềng xích đánh đập, khổ sở đau đớn, cho đến mất thân, mà nghe tên Ta, một ḷng xưng niệm, nhờ sức niệm ấy, thoát khỏi hiểm nạn, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ tư: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu những chúng sanh tạo các nghiệp ác, không tin Tam bảo, khởi chấp hư vọng, trái bỏ chánh lí, ưa thích bạn tà, chê bai kinh điển, cho là không phải của Phật tuyên thuyết, kính tin lănh thọ sách vở ngoại đạo, rồi dạy cho người, khiến cho tất cả rơi vào lối mê, sau khi chết đi, lẽ ra rơi vào địa ngục chịu khổ, không có ngày ra, may được làm người th́ cũng rơi vào nơi có tám nạn, cách xa thánh đạo, người này mà nghe được danh hiệu Ta, một ḷng xưng niệm, nhờ sức niệm ấy, lúc sắp qua đời trụ trong chánh niệm, thoát khỏi các khổ, sanh vào thành thị, thọ hưởng niềm vui, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

Văn-thù-sư-lợi! Đó là bốn nguyện rộng lớn cao cả của đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phát ra trong khi hành đạo bồ-tát. Lại nữa cảnh trí, các thứ trang nghiêm ở cơi Phật này, cũng lại giống như thế giới Diệu Bảo của đức Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương vậy.

Kinh Dược Sư Lưu Li Quang Thất Phật Bản Nguyện Công Đức

Hết Quyển Thượng


Quyền Thượng     Quyền Hạ

KINH DƯỢC SƯ LƯU LI QUANG

THẤT PHẬT BẢN NGUYỆN CÔNG ĐỨC

Hán Dịch: Đời Đường, Tam Tạng Sa-Môn Nghĩa Tịnh, Chùa Phật Quang

Việt Dịch: T́-Kheo Thích Nguyên Chơn

QUYỀN HẠ

Văn-thù-sư-lợi! Về phương đông xa, cách đây hơn mười hằng sa cơi Phật, có một thế giới tên Tịnh Lưu Li. Giáo chủ cơi ấy, Dược Sư Lưu Li Quang Vương Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác. Văn-thù-sư-lợi! Khi Đức Phật ấy tu đạo bồ-tát đă phát mười hai lời nguyện rộng lớn.

- Nguyện lớn thứ nhất: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, khiến cho tất cả chúng sanh đầy đủ ba mươi hai tướng bậc đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp tùy h́nh trang nghiêm, ánh sáng từ thân chiếu đến vô lượng vô biên thế giới, giống như thân Ta, không mảy sai khác.

- Nguyện lớn thứ hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, thân ta trong suốt như ngọc lưu li, ánh sáng chiếu rọi đến khắp muôn nơi, rực rỡ hơn cả hai vầng nhật nguyệt, làm cho chúng sanh ở nơi tăm tối trong núi Thiết Vi nhận biết lẫn nhau. Hoặc là giúp cho chúng sanh cơi này, đang đi trong đêm, thấy được ánh sáng từ thân của ta, nhận biết rơ ràng, làm trọn các việc.

- Nguyện lớn thứ ba: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, sẽ dùng vô lượng trí tuệ phương tiện, giúp cho chúng sanh đầy đủ tất cả những vật cần dùng, không bao giờ hết.

- Nguyện lớn thứ tư: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh tu theo tà đạo, th́ giúp quay về chánh đạo bồ-đề; nếu có những người, học theo các pháp Thanh văn-Duyên giác, Ta cũng dẫn vào diệu pháp Đại thừa .

- Nguyện lớn thứ năm: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh tu tập Phạm hạnh trong pháp của Ta, th́ Ta sẽ giúp trọn vẹn giới pháp, giữ kĩ ba nghiệp, không phạm lỗi lầm, không đọa đường ác. Dẫu lỡ hủy phạm, nghe danh hiệu Ta, một ḷng nghĩ nhớ, tỏ bày sám hối, th́ được thanh tịnh, cho đến chứng đắc Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ sáu: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh thiếu khuyết các căn, ngờ nghệch xấu xí, điếc đui câm ngọng, lác hủi điên cuồng, tật bệnh bức bách, chịu vô lượng khổ, nghe danh hiệu Ta, chí tâm xưng niệm, tức thời thân h́nh toàn vẹn đẹp xinh, an vui khỏe mạnh.

- Nguyện lớn thứ bảy: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh nghèo cùng khốn khổ, không người giúp đỡ, không chốn gá nương, thân mang bệnh tật, không thầy chữa trị, không có thuốc men, mà nghe tên Ta, một ḷng xưng niệm, bệnh tật liền tiêu, quyến thuộc đoàn tụ, của tiền không thiếu, thân tâm an ổn, cho đến chứng đắc Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ tám: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh phải mang thân nữ, chịu những nỗi khổ do thân bức ép, nhàm chán muốn ĺa, nghe danh hiệu Ta, một ḷng xưng niệm, tức thời hiện tại chuyển thành thân nam, đầy đủ h́nh tướng của bậc trượng phu, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ chín: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, sẽ giúp chúng sanh ra khỏi lưới ma, đưa người tà kiến trở về chánh kiến, dần dần tu tập muôn hạnh bồ-tát, cho đến chứng đắc Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ mười: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh pháp luật kết tội, giam vào ngục tối, gông cùm xiềng xích, đánh đập khảo tra, thân tâm đớn đau, nhục nhă ưu sầu mà nghe tên Ta, một ḷng xưng niệm th́ nhờ oai thần, phước đức Như Lai, liền thoát tất cả, cho đến chứng đắc Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện thứ mười một: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh v́ t́m thức ăn phải tạo nghiệp ác, mà nghe tên Ta, một ḷng xưng niệm, th́ trước ta ban thức ăn thức uống thơm ngon tuyệt hảo, thọ dụng no đủ, sau đó lại ban pháp vị Đại thừa, giúp họ măi trú trong niềm an lạc tuyệt diệu vô cùng, cho đến chứng đắc Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện thứ mười hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có chúng sanh, không mảnh vải che, thân bị muỗi ṃng tha hồ cắn đốt, mưa gió nóng lạnh bức bách đớn đau, mà nghe tên Ta, một ḷng xưng niệm th́ tùy ư thích, áo quần tốt đẹp, vật dụng quí giá, hoa thơm âm nhạc hiện tiền đầy đủ, không c̣n khổ đau, cho đến chứng đắc Vô thượng bồ-đề.

Văn-thù-sư-lợi! Đó là mười hai lời nguyện rộng lớn và thật cao cả của Đức Dược Sư Như Lai phát ra, khi c̣n tu hành đạo hạnh bồ-tát. Nhưng các nguyện lớn của Phật Dược Sư và cảnh trang nghiêm cơi Tịnh Lưu Li th́ trong một kiếp hoặc hơn một kiếp, Ta không thể nào giảng nói cho hết. Bởi cơi Phật ấy hoàn toàn thanh tịnh, không c̣n dục nhiễm, không có người nữ, không có tiếng khổ của ba đường ác; đất do lưu li trong suốt tạo thành, c̣n những thành quách, cung điện mái hiên, cửa nẻo màng lưới đều bằng bảy báu, giống như cảnh trí trang nghiêm ở cơi Cực Lạc phương tây. Hai vị bồ-tát thượng thủ cơi ấy: Nhật Quang Biến Chiếu, Nguyệt Quang Biến Chiếu, chăm lo giữ ǵn kho báu chánh pháp của Đức Dược Sư. V́ thế các vị thiện nam tín nữ nên nguyện sanh về thế giới của Ngài.

Văn-thù-sư-lợi! Có những chúng sanh, không biết thiện ác, tham lam bỏn xẻn, không biết bố thí và những quả báo của việc bố thí, ngu si vô trí, không có ḷng tin. Suốt đời chỉ biết chất chứa của cải, cất giữ nhọc nhằn, thấy người đến xin ḷng đă không muốn, dẫu bất đắc dĩ phải cho chút ít th́ lại đau đớn, luyến tiếc khôn cùng, đứt ruột đứt gan. Lại có chúng sanh, tham lam bỏn xẻn, chỉ lo cất chứa của cải đầy nhiều, đối với bản thân c̣n không chi dụng, nói chi đến việc cấp cho cha mẹ, vợ con anh em, những người giúp việc và kẻ đến xin. Những chúng sanh này, sau khi chết đi, sanh vào ngạ quỉ hay loài súc sanh. Nhưng do ngày trước, khi ở nhân gian họ đă từng nghe danh hiệu Dược Sư, nên nay dù sanh trong các đường ác, vẫn nhớ lại được danh hiệu Như Lai. Khi vừa nhớ lại, liền bỏ thân khổ, sanh vào cơi người, biết được đời trước, sợ hăi đường ác vô lượng khổ đau. Do đó không ưa những cảnh dục lạc, thích hành bố thí, khen ngợi người thí, không c̣n tham tiếc tất cả tài sản, cho đến đầu mắt, tay chân máu thịt, tất cả thân phần, dần dần ban phát cho người đến xin.

Văn-thù-sư-lợi! Có những chúng sanh, thọ giới của Phật mà lại phá giới; hoặc có những kẻ không phá giới pháp mà phá phép tắc; hoặc có những kẻ không phá giới pháp và cả phép tắc mà hủy chánh kiến; hoặc có những kẻ không hủy chánh kiến mà bỏ đa văn, nên không hiểu được nghĩa lí sâu xa trong kinh Phật dạy; hoặc có những kẻ tuy cầu đa văn mà ḷng kiêu mạn, do ḷng kiêu mạn, nên khen ngợi ḿnh, chê bai người khác, phỉ báng chánh pháp, kết đảng với ma. Những kẻ ngu ấy, tự theo tà kiến, lại khiến vô lượng trăm ngàn chúng sanh rơi vào hố sâu đầy dẫy hiểm nạn. Những kẻ như thế, sau khi mạng chung, sanh vào địa ngục, ngạ quỉ súc sanh. Nhưng nếu đời trước, đă từng nghe qua danh hiệu Dược Sư Lưu Li Quang Phật, do sức bản nguyện của Đức Như Lai, ở nơi địa ngục nhớ danh hiệu Ngài, tức thời khi ấy, xả bỏ thân mạng, sanh về trời người, tinh tấn tu hành, tâm ư thuần thiện, ĺa tục xuất gia, lănh thọ giới pháp, không c̣n hủy phạm. Lại thêm chánh kiến, đạt được đa văn, thông hiểu nghĩa lí Đại thừa sâu xa, bỏ tâm kiêu mạn, tôn kính chánh pháp, xa ĺa ác ma, dần dần tu hành, muôn hạnh bồ-tát, cho đến chứng đắc Vô thượng bồ-đề.

Văn-thù-sư-lợi! Nếu những chúng sanh tham lam tật đố, tạo các ác nghiệp, khen ḿnh chê người, sau khi qua đời rơi vào cơi ác, trải trăm vạn năm chịu vô lượng khổ. Xong nghiệp cơi ác, sanh vào nhân gian, hoặc làm các loài trâu ngựa lạc đà, luôn bị hành hạ, đánh đập trói buộc, đói khát khổ năo bức bách thân tâm. Lại thường đi xa mang nhiều chở nặng, khốn khổ vô cùng. Nếu được làm người, chịu thân hèn hạ, địa vị thấp kém, bị người sai khiến, không được tự do. Nhưng nếu khi xưa, lúc c̣n làm người đă từng nghe qua danh hiệu Đức Phật Dược Sư Như Lai, bởi sức căn lành, hôm nay nhớ lại, một ḷng quay về nương tựa nơi Ngài, nhờ thần lực Ngài mà thoát khổ đau, thân h́nh đoan chánh, thông minh trí huệ, học rộng nghe nhiều, luôn cầu diệu pháp, luôn gặp bạn lành, vĩnh thoát lưới ma, phá vỏ vô minh, cạn sông phiền năo, xa ĺa tất cả sanh lăo bệnh tử, sầu bi khổ năo cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

Văn-thù-sư-lợi! Có những chúng sanh, ưa thích công kích, tranh đấu kiện cáo gây ra phiền phức cho ḿnh lẫn người, thân miệng và ư tạo các nghiệp xấu, nối tiếp thực hiện các việc vô ích, mưu hại lẫn nhau, hoặc thỉnh thần núi, thần cây thần mộ, hoặc giết chúng sanh để lấy máu thịt, cúng tế các quỉ dạ-xoa la-sát; hoặc lại viết tên, hoặc làm h́nh tượng của kẻ oán thù rồi dùng tà thuật, ếm chú vào đó; hoặc sai trùng độc, hoặc chú khởi thi[1] đi lấy mạng người. Các chúng sanh ấy nếu đă từng nghe danh hiệu Dược Sư Như Lai, những ác duyên kia không thể hại được, tất cả dần dần khởi ḷng từ bi, thực hiện các việc lợi ích an lạc, không niệm sát hại và ḷng oán hận, tất cả mong cầu đều được đầy đủ.

Văn-thù-sư-lợi! Bốn chúng tăng ni, nam nữ cư sĩ, và những người có ḷng tin thanh tịnh thọ tám trai giới, hoặc trong một năm hoặc trong ba tháng thọ tŕ học xứ, đem căn lành này hồi hướng nguyện sanh Tây phương Cực lạc của Đức Từ Phụ A-di-đà Phật, nếu đă nghe được danh hiệu Dược Sư Lưu Li Như Lai, th́ khi mạng chung sẽ có tám vị bồ-tát thượng thủ, nương sức thần đến, chỉ nơi sanh về, tức th́ người kia tự nhiên hóa sanh trong hoa sen báu, màu sắc rực rỡ nơi cơi nước ấy. Hoặc sanh cơi trời, nhưng nhờ nhân lành khi xưa chưa hết, nên khi mạng chung, không sanh cơi ác, mà sanh nhân gian, làm Chuyển luân vương, thống lănh bốn châu, đầy đủ uy đức, tự tại giáo hóa vô lượng chúng sanh, tu tập thập thiện. Hoặc sanh vào ḍng vua chúa quyền uy, hoặc ḍng Phạm chí, cư sĩ quí tộc tài sản vô lượng, kho lẫm tràn đầy, h́nh tướng đoan nghiêm, quyến thuộc đông vui, trí huệ thông minh, dơng mănh oai hùng như đại lực sĩ. Nếu có người nữ nghe được danh hiệu Đức Phật Dược Sư, một ḷng thọ tŕ, th́ trong đời sau, sẽ không c̣n mang thân người nữ nữa.

Văn-thù-sư-lợi! Khi Đức Dược Sư chứng đạo bồ-đề, nhờ sức bản nguyện thấy các chúng sanh bị các bệnh khổ, thân thể ốm gầy, môi miệng khô rát, hoặc sốt xuất huyết… hoặc trúng trùng độc, bùa ngăi chú thuật; hoặc bị chết yểu, hoặc bị chết oan. V́ muốn chúng sanh dứt trừ bệnh khổ, thỏa măn mong cầu, Đức Phật Thế Tôn liền vào tam-muội. Vào tam-muội rồi, từ nơi nhục kế phóng luồng ánh sáng rực rỡ chiếu khắp, từ ánh sáng ấy tuyên thuyết thần chú:

Nam mô bạc già phạt đế, bệ sát xă lũ lỗ thích lưu li, bát lạt bà, át ra xà dă, đát tha yết đa dă, a ra hát đế tam miệu tam bột đà dă, đát điệt tha, án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xă, tam một yết đế tóa ha.

Thần chú vi diệu vừa được thuyết xong, quả đất chấn động, phóng ánh sáng rực, chiếu khắp muôn nơi, tất cả chúng sanh bị những bệnh khổ đều được tiêu trừ, thân tâm an ổn, hưởng mọi niềm vui. Văn-thù-sư-lợi! Nếu gặp những người tật bệnh khổ năo, trước tiên chúng ta tắm rửa sạch sẽ, súc miệng đánh răng, tụng trăm lẻ tám biến thần chú này vào trong thức ăn, thuốc uống hay nước không có vi trùng, rồi cho họ uống th́ những bệnh tật đều được tiêu trừ. Nếu cầu điều ǵ, một ḷng tụng niệm, sẽ được như ư, thân thể không bệnh, lại thêm sống lâu, sau khi mạng chung, sanh về thế giới Tịnh Lưu Li kia, được vị Bất thoái, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề. V́ thế nam nữ ḷng tin vững chắc, cung kính cúng dường Đức Phật Dược Sư, phải thường tŕ tụng bài thần chú này, chứ đừng lăng quên.

Văn-thù-sư-lợi! Nếu các người nam cùng những người nữ ḷng tin vững chắc, nghe đến danh hiệu bảy Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà Ta đă nói, nghe rồi tŕ niệm, sáng sớm thức dậy, đánh răng súc miệng, dâng các thứ hương, nào là hương thoa, hương bột hương đốt, hoa quả tốt tươi, các loại âm nhạc cúng dường tôn tượng bảy Đức Phật kia, rồi tự biên chép, bảo người biên chép, một ḷng cung kính thọ tŕ kinh này, lắng nghe pháp sư giảng giải nghĩa lí, cúng dường pháp sư những vật cần dùng, không để thiếu thốn, th́ những người này được các Đức Phật quan tâm nhớ nghĩ, đồng thời giúp cho đạt được ước mong.

Bấy giờ bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật rằng:

Bạch Đức Thế Tôn! Vào thời mạt pháp, con nguyện sử dụng mọi cách khéo léo, giúp cho người nam, cùng với người nữ đức tin thanh tịnh, được nghe danh hiệu bảy Đức Như Lai, cho đến lúc ngủ cũng dùng danh hiệu các Đức Phật này giúp họ tỉnh thức. Bạch Đức Thế Tôn! Nếu ai thọ tŕ, đọc tụng kinh này, sau đó giảng thuyết, chỉ dạy cho người, tự ḿnh sao chép, bảo người sao chép, cung kính tôn trọng dâng cúng hoa tươi, các loại hương thơm, nào là hương bột, hương thoa hương đốt, ṿng hoa chuỗi báu, cờ phướn lọng tàn, âm nhạc ca múa, dùng vải năm màu may túi đựng kinh, rồi chọn nơi tốt, quét dọn sạch sẽ, đặt một ṭa cao, an trí kinh này, bấy giờ sẽ có bốn vị Thiên vương cùng cả quyến thuộc, vô lượng vị trời cùng đến nơi ấy cúng dường bảo vệ. Bạch Đức Thế Tôn! Bởi nhờ uy lực công đức bản nguyện của bảy Đức Phật, và sức uy thần được nghe danh hiệu mà ở những nơi kinh này lưu hành, những người thọ tŕ không bị chết oan, cũng không bao giờ bị các loài quỉ đoạt lấy tinh khí. Dẫu bị đoạt lấy cũng được hoàn lại, thân tâm an ổn, khoẻ mạnh như xưa.

Bấy giờ Đức Phật bảo Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi:

Đúng thế, đúng thế! Thật như ông nói. Nếu có người nam cùng những người nữ niềm tin vững chắc, ḷng muốn cúng dường bảy Đức Như Lai, trước nên tạo lập bảy h́nh tượng Phật, đặt trên ṭa cao trang nghiêm đẹp đẽ, treo cờ kết hoa, trang hoàng rực rỡ. Sau đó cần phải bảy ngày bảy đêm giữ tám trai giới, dùng các món ăn thanh tịnh đúng pháp, tắm rửa sạch sẽ, thay y phục mới, tâm ư trong lặng, không niệm sân hận. Đối với chúng sanh, khởi tâm b́nh đẳng từ bi hỉ xả, nguyện làm lợi ích an lạc cho họ. Đồng thời trỗi nhạc, đàn ca trống phách, nhiễu quanh tôn tượng, khen ngợi nghĩ nhớ công đức bản nguyện các Đức Như Lai, đọc tụng kinh này, cứu xét nghĩa lí, diễn nói khai thị cho mọi người biết. Hành đúng như thế, th́ những ước nguyện đều được trọn vẹn, như cầu sống lâu th́ được sống lâu; mong cầu giàu sang, nhất định giàu sang; mong cầu quan tước, hẳn có quan tước; cầu sanh con trai, ắt được con trai; cầu sanh con gái, th́ được con gái. Lại có những người, bỗng gặp ác mộng, thấy các điềm xấu, như loài chim lạ bay đến tụ tập, hoặc tại nơi ở, nhiều lần hiện ra những điềm ḱ lạ. Những người như thế, nếu dùng vật dụng quí giá của ḿnh, cung kính cúng dường các Đức Như Lai, th́ những ác mộng và những điềm xấu thảy đều ẩn hết, không c̣n lo sợ. Nếu gặp nạn lớn, gây nên những nỗi sợ hăi kinh hoàng, như nước dâng tràn, lửa cháy chiến tranh, vực thẳm đường hiểm, sư tử voi cuồng, cọp sói gấu beo, rắn rít ḅ cạp, mà lại một ḷng thiết tha nhớ nghĩ, cung kính cúng dường các Đức Phật ấy, tất cả những nỗi sợ hăi kinh hoàng thảy đều không c̣n. Lại nữa nếu bị nước khác xâm lăng, giặc cướp quấy nhiễu, mà ḷng cung kính nhớ nghĩ đến các Đức Như Lai kia, th́ những kẻ địch thảy đều lui tan.

Văn-thù-sư-lợi! Có những người nam cùng những người nữ, niềm tin vững chắc, suốt cả cuộc đời không thờ tất cả những vị trời nào, chỉ trọn một ḷng nương Phật pháp tăng, giữ ǵn các giới, hoặc là năm giới, hoặc là mười giới, hoặc bốn trăm giới bồ-tát Đại thừa, hoặc hai trăm năm mươi giới t́-kheo, hoặc năm trăm giới của t́-kheo-ni. Nếu lỡ hủy phạm, sợ đọa cơi ác, mà trọn một ḷng nhớ nghĩ danh hiệu các Đức Phật kia, cung kính cúng dường, người ấy nhất định sẽ không rơi vào ba cơi xấu ác. Nếu có người nữ, đang lúc sanh sản, đớn đau khổ sở, mà trọn một ḷng xưng niệm danh hiệu, cung kính cúng dường bảy Đức Phật kia, th́ sẽ không c̣n tất cả khổ đau, đứa bé sanh ra dung mạo đoan chánh, ai thấy cũng vui, lại thêm thông minh, không mang bệnh tật, thân tâm an ổn, tất cả phi nhân không thể đoạt lấy tinh khí của trẻ.

Bấy giờ Thế Tôn bảo A-nan rằng:

Như Ta khen ngợi, công đức danh hiệu của bảy Đức Phật, đó cũng chính là cảnh giới sâu xa của các Như Lai, ông chớ nghi ngờ!

A-nan bạch Phật:

Bạch Đức Thế Tôn! Con không bao giờ khởi tâm nghi ngờ ư nghĩa sâu xa trong các khế kinh mà Phật đă dạy. V́ tất cả nghiệp thân miệng và ư của các Như Lai đều không hư dối. Bạch Đức Thế Tôn! Mặt trời mặt trăng có thể rơi xuống, ṭa núi Diệu Cao có thể khuynh động, nhưng lời của các Đức Phật nói ra, trọn không sai biệt. Nhưng có những người, không đủ ḷng tin, nghe nói cảnh giới sâu xa của Phật, liền suy nghĩ rằng: “Làm sao chỉ niệm danh hiệu của bảy Đức Phật Thế Tôn mà được công đức lớn lao dường ấy!”. Do ḷng không tin, người ấy khởi tâm hủy báng chánh pháp. V́ thế không những họ mất lợi lớn, mà c̣n măi măi rơi vào nẻo ác.

Phật bảo A-nan! Những chúng sanh ấy, nghe được danh hiệu các Đức Như Lai, mà c̣n rơi vào những nẻo xấu ác th́ thật vô lí, chỉ trừ định nghiệp, không thể chuyển đổi.

Này nữa A-nan! Đây là cảnh giới ḱ diệu sâu xa, không thể nghĩ bàn của các Như Lai, mà ông có thể tin nhận như thế, là do uy lực của chư Phật vậy. Này nữa A-nan! Tất cả Thanh văn và hàng Duyên giác không thể nào biết, chỉ trừ các bậc Nhất sanh bổ xứ mới hiểu mà thôi. Khó được thân người, cũng khó tin kính tôn trọng Tam bảo, càng khó được nghe danh hiệu của bảy Đức Phật Thế Tôn. Khi các Như Lai ở nơi nhân vị, đă tu vô lượng công hạnh bồ-tát, sử dụng vô lượng phương tiện khéo léo, phát khởi vô lượng diệu nguyện rộng lớn. Nếu Ta nói ra, th́ trong một kiếp hoặc hơn một kiếp cũng không thể nào tŕnh bày hết được.

Bấy giờ trong hội, Bồ-tát Cứu Thoát từ ṭa đứng dậy, trịch áo vai phải, chân phải qú gối, cung kính chắp tay bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Vào thời tượng pháp, có những chúng sanh bị các bệnh khổ, bức bách đớn đau, thân h́nh gầy ốm, ăn uống không được, môi cổ khô rát, mắt thấy màn đen, tướng chết hiện ra, cha mẹ anh em, bạn bè quyến thuộc vây quanh khóc lóc; người bệnh nằm đó mà đă nh́n thấy sứ giả U minh dẫn dắt thần thức đến trước Diêm vương. Bấy giờ vị thần Câu Sanh đem sổ ghi những tội phước người ấy đă làm, dâng lên Diêm vương. Diêm vương y pháp, tra xét hành vi, rồi theo tội phước mà hành xử đoán. Nếu lúc bấy giờ, thân thuộc bạn bè, v́ người bệnh ấy qui y chư Phật, như pháp cúng dường đầy đủ phẩm vật, th́ hoặc trải qua thời gian bảy ngày, hoặc mười bốn ngày, hoặc hăm mốt ngày, thần thức người ấy liền trở về thân, như vừa tỉnh mộng, nhớ biết tất cả quả báo lành dữ do nghiệp thiện ác đă tạo từ xưa. Bởi đă tận mắt thấy được nghiệp báo chân thật không sai, nên dù gặp lúc nguy hiểm đến thân, vẫn không tạo ác. Do đó tất cả nam nữ tịnh tín, nên niệm danh hiệu bảy Đức Như Lai, rồi tùy khả năng cung kính cúng dường”.

A-nan thưa hỏi bồ-tát Cứu Thoát: “Phương pháp cúng dường bảy Đức Như Lai phải như thế nào?” Bồ-tát Cứu Thoát đáp lời A-nan: “Đại đức A-nan! Muốn người lành bệnh và trừ tai ách, th́ phải lănh thọ tám phần trai giới bảy ngày bảy đêm, chí thành dâng cúng thức ăn thức uống, các món cần dùng lên Phật và tăng, ngày đêm sáu thời cung kính lễ bái bảy Đức Như Lai, đọc tụng kinh này bốn mươi chín biến, chuẩn bị đầy đủ bốn chín ngọn đèn. Lại cần tôn trí bảy tượng Như Lai, trước mỗi tôn tượng đặt bảy ngọn đèn, trên một ṿng tṛn, và phải thắp sáng, bốn chín ngày đêm, không được để tắt. Lại tạo bốn chín lá phan nhiều màu và một lá phan dài bốn chín thước, đồng thời phóng sanh bốn chín con vật. Nếu được như thế, tai ách liền tiêu, ác thần ác quỉ không thể làm hại. Đại đức A-nan! Đó là phương pháp cúng dường Như Lai. Nếu có người nào xưng danh cúng dường một trong bảy vị, cũng được vô lượng công đức như thế, huống ǵ cúng dường cả bảy Đức Phật!

Đại đức A-nan! Nếu lúc đất nước gặp các tai họa: dịch bệnh hoành hành, quân địch xâm lăng, tặc thần phản loạn, sao xấu xuất hiện, nhật thực nguyệt thực, thời tiết bất ḥa th́ Quán Đảnh vương ḍng Sát-đế-lợi, nên khởi ḷng từ, thương xót phóng thích tất cả tội nhân, giúp họ thoát cảnh tù tội đọa đày, rồi cũng như trước cúng dường chư Phật. Do việc thiện này và sức bản nguyện của các Như Lai, mà toàn cơi nước an ổn thái b́nh, mưa ḥa gió thuận, mùa màng bội thu, nhân dân sung sướng, không c̣n tật bệnh, không có các thần Dược-xoa… hung ác phá hại mọi người, những hiện tượng xấu cũng đều ẩn hết; các Quán Đảnh vương ḍng Sát-đế-lợi tăng thêm tuổi thọ, khí lực dồi dào, không bệnh an vui.

Đại đức A-nan! Nếu các hoàng hậu, hoàng phi công chúa, thái tử vương tử, đại thần phụ tướng, thể nữ trong cung, bá quan văn vơ, nhân dân khắp chốn bị bệnh bức bách, tai nạn hiểm nguy, cũng nên chí thành tạo bảy h́nh tượng Đông phương Như Lai, đặt trên ṭa cao, đọc tụng kinh này, thắp đèn treo phan, phóng sanh loài vật, cung kính cúng dường, đốt hương rải hoa th́ liền dứt hết các căn bệnh khổ, tai nạn không c̣n.

A-nan thưa hỏi bồ-tát Cứu Thoát: Tôn giả Cứu Thoát! V́ sao thọ mạng một người đă hết mà c̣n có thể kéo dài thêm được?

Cứu Thoát đáp rằng: Đại đức A-nan! Ngài hẳn không nghe khi xưa Như Lai nói chín trường hợp chết oan hay sao? Cũng từ việc này, Ngài nói thần chú, tùy từng trường hợp, cứu giúp chữa trị. Ngài cũng chỉ dạy đốt đèn làm phan, tu các phước đức. Do tu các phước, mạng sống kéo dài.

A-nan lại thưa: Tôn giả Cứu Thoát! Xin ngài nói chín trường hợp chết oan cho chúng hội biết!

Cứu Thoát nói rằng: Đại đức lắng nghe, tôi xin nói rơ! Một là chúng sanh bị bệnh tuy nhẹ, mà không gặp thầy, lại chẳng có thuốc, không người chăm sóc; hoặc có gặp thầy, nhưng không trao thuốc, đáng lẽ không chết mà phải chết oan. Hai là chúng sanh, tin theo những thuyết họa phước sai lầm, của kẻ tà ma, của bọn ngoại đạo yêu nghiệt trong đời, rồi ḷng sợ hăi không thể tự chủ, bèn đi bói quẻ, hoặc lại xin xăm, thưa hỏi những việc, cát hung tốt xấu, dẫn đến giết hại sinh mạng các loài cúng tế thần linh, khẩn cầu giải nạn; hoặc là kêu gọi các loài yêu mị ban phước xin ân, mong được an ổn, kéo dài tuổi thọ. Nhưng lại hoàn toàn không thể nào được. Bởi do ngu si, tà kiến điên đảo, nên bị chết oan. Ba là chúng sanh chỉ lo chơi bời, vui đùa săn bắn, đam mê tửu sắc, buông lung vô độ, bị loài phi nhân đoạt lấy tinh khí mà bị chết oan. Bốn là chết cháy; năm là chết trôi; sáu là chết v́ thú dữ ăn thịt; bảy là chết v́ rơi từ núi cao; tám là chết v́ thuốc độc bùa ngăi, ếm chú trù dập, quỉ khởi thi giết; chín là chết v́ đói khát bức bách.

Chín loại chết oan Như Lai đă dạy tóm lược như thế, lại c̣n vô số các trường hợp khác không thể kể hết.

Này nữa A-nan! Vua Diêm-ma kia, tra xét tất cả danh sách tên tuổi của người thế gian. Nếu chúng sanh nào bất hiếu cha mẹ, phạm năm tội nghịch, khinh chê Tam bảo, hoại pháp vua tôi, phá hủy giới cấm th́ vua Diêm-ma, tùy tội nặng nhẹ mà định h́nh phạt. Cho nên hôm nay, Ta khuyên mọi người đốt đèn làm phan, phóng sanh tu phước, để vượt khổ đau, thoát khỏi tai nạn.

Bây giờ trong chúng có mười hai vị đại tướng Dược-xoa: Một, Cung-t́-la; hai, Bạt-chiếc-la; ba, Mê-xí-la; bốn, Át-nễ-la; năm, Mạt-nễ-la; sáu, Ta-nễ-la; bảy, Nhân-đà-la; tám, Ba-di-la; chín, Ba-hỗ-la; mười, Chân-đạt-la; mười một, Châu-đổ[2]; mười hai, T́-yết[3]. Mỗi vị đều có bảy ngàn dược-xoa theo làm thuộc hạ. Tất cả đồng thưa Đức Như Lai rằng:

Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con hôm nay nhờ uy lực Ngài, nghe được danh hiệu bảy Đức Như Lai, cho nên không c̣n những nỗi sợ hăi trong các nẻo ác. Chúng con đồng ḷng suốt đời nương tựa ba ngôi quí báu là Phật pháp tăng. Nguyện sẽ giúp đỡ bảo vệ chúng sanh, v́ họ mà làm những việc lợi ích. Bất cứ nơi nào, hoặc là thành thị hay ở xóm làng, dù chốn núi non hay vùng đồng vắng, nếu có kinh này lưu truyền đọc tụng, hoặc là có người thọ tŕ danh hiệu bảy Phật phương đông, cung kính cúng dường h́nh tượng các Ngài, nhất định chúng con và các thuộc hạ luôn luôn bảo vệ, giúp cho người ấy tránh khỏi các nạn; thành tựu tất cả những điều mong cầu. Nếu có người nào, bệnh hoạn khổ năo mà muốn xa ĺa, th́ nên chí tâm đọc tụng kinh này, dùng chỉ năm màu, gút tên chúng con, khi đă măn nguyện, mới mở gút ra.

Nghe vậy Thế Tôn khen ngợi các vị Dược-xoa đại tướng: Hay lắm, hay lắm! Dược-xoa các ông nếu biết nhớ nghĩ, báo đáp ân đức của bảy Như Lai, th́ thường phải nên giúp cho chúng sanh có được lợi ích, an lạc như thế.

Bấy giờ trong chúng có nhiều vị trời, trí huệ thấp kém, tâm suy nghĩ rằng: V́ sao vừa nghe danh hiệu của các Như Lai hiện tại ở những thế giới cách đây hằng sa cơi nước chư Phật, mà được vô lượng vô biên công đức ḱ diệu như thế?

Đức Phật Thích-ca biết rơ tâm niệm các vị trời này, liền nhập diệu định sâu xa Cảnh Triệu Nhất Thiết Như Lai. Ngài vừa nhập định, tam thiên thế giới chấn động sáu cách, trời tuôn hoa đẹp, rải các hương thơm. Bảy Đức Như Lai, thấy hiện tượng này, liền từ trụ xứ đến cơi Ta-bà, thăm viếng han hỏi Đức Phật Thích-ca. Do sức bản nguyện, nên các Như Lai ngồi ṭa sư tử có báu cơi trời trang nghiêm thanh tịnh, thuyết pháp cho các chúng đại bồ-tát, tám bộ trời rồng…, nhân cùng phi nhân, quốc vương vương tử, hoàng hậu thứ phi, các vị đại thần, các bà-la-môn, trưởng giả cư sĩ đang đứng vây quanh. Các trời trí kém thấy các Như Lai nhóm họp đầy đủ, cho là điềm lành xưa nay chưa có, tâm nghi liền trừ. Đại chúng cũng khởi ư niệm hi hữu, đồng thanh khen ngợi: Quí thay, quí thay! Thích-ca Như Lai v́ giúp chúng con dứt trừ nghi hoặc, mà Ngài phụng thỉnh bảy Đức Như Lai cơi nước phương đông nhóm họp nơi này.

Bấy giờ chúng hội, tùy theo khả năng, mỗi mỗi đều dâng hương thơm hoa đẹp, các xâu chuỗi báu, trỗi nhạc cơi trời cúng dường chư Phật, nhiễu quanh bảy ṿng, chắp tay kính lễ, đồng khen ngợi rằng: Thật là hiếm có, thật là hiếm có! Cảnh giới sâu xa của các Như Lai không thể nghĩ bàn. Nhờ sức bản nguyện, phương tiện khéo léo, mà nay các Ngài cùng hiện các tướng ḱ lạ như thế! Khen ngợi vừa xong, đại chúng đồng nguyện: Nguyện các chúng sanh, đều được Như Lai diệu định như thế.

Bấy giờ bồ-tát Văn-thù-sư-lợi từ ṭa đứng dậy, chắp tay cung kính nhiễu Phật bảy ṿng, đảnh lễ chân Phật, rồi bạch Ngài rằng: Hay thay, hay thay! Định lực Như Lai không thể nghĩ bàn; do sức bản nguyện và phương tiện khéo mà Như Lai giúp chúng sanh thành tựu. Cúi xin Như Lai tuyên thuyết thần chú, để trong đời sau, làm nơi nương tựa, mang lại an ổn cho các chúng sanh kém hèn thiếu phước, khổ năo trói buộc, bị các ách nạn nhật nguyệt tinh tú, dịch bệnh oán thù, lạc vào đường hiểm gặp nỗi sợ hăi. Chúng sanh đời sau, nếu được chú này, tự ḿnh sao chép, bảo người sao chép, thọ tŕ đọc tụng, nói cho người nghe, nhất định sẽ được các Đức Thế Tôn che chở bảo vệ, lại thường hiện thân, giúp cho người ấy thành tựu ước nguyện, không bị chết oan, sau khi mạng chung không đọa cơi ác.

Văn-thù thưa xong, các Đức Như Lai, đồng khen ngợi rằng: Hay thay, hay thay! Nhờ sức uy thần của các Như Lai, v́ ḷng thương xót chúng sanh đời sau khiến ông cầu thỉnh bảy Đức Như Lai tuyên thuyết thần chú. Ông hăy lắng nghe, và ghi nhớ kĩ, chúng ta sẽ nói. Văn-thù-sư-lợi! Có đại thần chú là Như Lai Định Lực Lưu Li Quang. Nếu có người nào biên chép đọc tụng, cung kính cúng dường, khởi tâm đại bi đối với chúng sanh, người ấy sẽ được thỏa măn mong cầu, chư Phật hiện thân giúp đỡ bảo vệ, ĺa các chướng nạn, sau khi mạng chung, sanh về cơi Phật.

Bảy Đức Như Lai đồng thanh nói chú: Đát điệt tha, cụ mê cụ mê, khánh ni mê nị hí, mạt để mạt để, tát đa đát tha, yết đa tam ma địa, át đề sắt sĩ đế, át đế mạt đế, ba lệ ba phả, pha thâu đản nễ, tát bà ba phả na thế dă, bột thế bột đồ, xướng đáp mễ ổ mễ củ mễ, phật đạt khí đát la, bát lí thâu đản nễ đàm mê, nê đàm mê, mê lỗ mê lỗ, mê lô thi khế, lệ tát bà ca la, mật lật đổ, ni bà sấu nễ, bột đề tô bột thế, phật đà át đề sắt sá nê na hạt lạt xoa đổ mê, tát bà đề bà, tam mê át tam mê, tam mạn noa, hán lan đổ mê, tát bà phật đà bồ đề tát đỏa, thiêm mê thiêm mê, bát lạt thiêm mê, mạn đổ mê, tát bà y để ổ ba, đạt bà tát bà t́ hà đại dă, tát bà tát đỏa, nan giả, bô lan nê, bô lan nê, bô lan dă mê, tát bà a xá, bệ lưu li dă bát lạt để bà tê, tát bà ba phả, trước dương yết lệ sa ha.

Lúc bảy Đức Phật thuyết thần chú này, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp muôn nơi, quả đất chấn động, các tướng thần biến đồng thời xuất hiện. Đại chúng thấy vậy, liền tùy sức ḿnh, dâng hoa cơi trời, và các loại hương, hương bột hương thoa cúng dường chư Phật, đồng thời xướng rằng: “Quí thay, quí thay” rồi nhiễu ṿng quanh các Ngài bảy ṿng. Các Đức Thế Tôn đồng cất tiếng rằng: Tất cả đại chúng trời người các ông hăy nên biết rằng: Tất cả nam nữ ḷng tin thuần thiện, hoặc là quốc vương, hoặc là vương tử, hoàng hậu thứ phi, đại thần quan thuộc… nếu ai thọ tŕ, đọc tụng lắng nghe, v́ người mà thuyết bài thần chú này, lại dùng hoa đẹp hương thơm chí thành cúng dường quyển kinh, tắm rửa thân thể, thay y phục sạch, đến nơi thanh tịnh, thọ tám trai giới, khởi ḷng từ bi, thương xót chúng sanh, th́ sẽ đạt được vô lượng phước đức. Nếu có những ai mong cầu điều ǵ, cũng nên tạo lập tượng bảy Đức Phật, thờ nơi thanh vắng, đốt hương kết hoa, dựng cờ treo lọng, trang hoàng rực rỡ; lại dâng các món uống ăn thanh tịnh, hương vị thơm ngon, trỗi nhạc hát múa thành kính cúng dường; lại cũng cúng dường các vị bồ-tát và cả chư thiên. Trong khoảng thời gian bảy ngày bảy đêm, giữ tám trai giới, trang nghiêm ngồi trước tôn tượng chư Phật, tụng thần chú này ngàn tám trăm biến. Trọn vẹn như thế, người ấy sẽ được các Đức Như Lai và các bồ-tát quan tâm nhớ nghĩ; lại có bồ-tát tên Chấp Kim Cang, cùng với các vị Đế Thích-Phạm vương, trời Tứ Thiên vương cũng luôn bảo vệ, đồng thời tiêu trừ năm tội Vô gián và các nghiệp chướng, khỏe mạnh sống lâu, không bị chết yểu và gặp dịch bệnh, tất cả mong cầu đều được thành tựu. Không c̣n các nạn quân thù giặc cướp, xâm lấn biên cương, chiến tranh loạn lạc, kiện tụng hiềm khích, đất nước đói kém, hạn hán lụt lội, mà khắp tất cả đều khởi ḷng từ, xem như cha mẹ.

Bấy giờ bồ-tát tên Chấp Kim Cang, Đế Thích-Phạm vương, trời Tứ Thiên vương đứng dậy chắp tay, cung kính đảnh lễ Thích-ca Mâu-ni và bạch Ngài rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả chúng con, đều đă được nghe, công đức thù thắng về những bản nguyện và cũng đă thấy tâm đại từ bi rộng sâu vô tận của các Như Lai. V́ thế hôm nay chúng con phụng sự, cung kính cúng dường. Bạch Đức Thế Tôn! Bất cứ nơi nào có kinh điển này và pháp Thất Phật Danh Đà-la-ni lưu thông cúng dường, cho đến biên chép, chúng con nhất định nương uy lực Phật, cùng đến bảo vệ quốc vương đại thần, xóm thôn thành thị, tất cả nam nữ, không để các khổ, bệnh tật bức bách, mà luôn an ổn, lương thực đầy đủ, tiền của dư thừa. Chúng con báo đáp ân Phật như vậy. Bạch Đức Thế Tôn! Hôm nay trước các Đức Phật Thế Tôn, chúng con lập thệ: Nếu những người nào nhớ đến chúng con th́ nên đọc tụng bài thần chú này:

Đát điệt tha, a lũ ma, lũ đát la lũ, ma ma lũ lũ lị, ha hỗ hê, ma ra ma ra ma ra, thô thô lị, thô lị, sa phạ ha.

Tất cả nam nữ ḷng tin thanh tịnh, hoặc là quốc vương, vương tử đại thần, phụ tướng thể nữ thọ tŕ đọc tụng, cung kính cúng dường bài thần chú này, hiện đời sẽ được sống lâu không bệnh, xa ĺa các khổ, sau khi mạng chung không đọa cơi ác, không c̣n lui sụt đạo lớn bồ-đề, tùy ư sanh vào các cơi Phật kia, gặp được chư Phật, chứng đắc túc mạng, đầy đủ định huệ. Như có người nào, bị các chứng bệnh sốt rét yêu tà…, th́ nên biên chép bài thần chú này, mang theo bên ḿnh, sau khi lành bệnh, đặt nơi thanh tịnh

Bấy giờ bồ-tát tên Chấp Kim Cang, đến trước bảy Phật nhiễu quanh ba ṿng, đảnh lễ từng vị, rồi thưa thỉnh rằng: Kính bạch chư Phật! Hôm nay v́ muốn làm việc lợi ích cho những chúng sanh trong đời vị lai tŕ tụng kinh này, nên con tuyên thuyết thần chú như sau. Cúi xin các Ngài rủ ḷng từ bi hộ niệm cho con!

Bảy Đức Như Lai khen bồ-tát rằng: Hay thay, hay thay! Chúng ta gia hộ để ông tuyên thuyết chú đà-la-ni, hầu giúp những người ở đời vị lai thọ tŕ kinh này không gặp các khổ, thỏa măn mong cầu.

Thế là bồ-tát Chấp Kim Cang thuyết: Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam phật đà nẫm, nam ma tát bà bạt chiếc ra, đát ra nẫm, đát điệt tha, án bạt chiếc lệ bạt chiếc lệ, ma ha bạt chiếc lệ, bạt chiếc lệ ba xă đà lạt nễ, tam ma tam ma, tam mạn đa, a bát lạt để yết đa, bạt chiết lệ, thiêm ma thiêm ma, bát ra thiêm mạn đổ mê, tát bà t́ a đại dă, lũ lô lũ lô, tát bà yết ma, a phạt lạt noa nễ xoa dă, tam ma dă mạt noa, tam mạt ra bạt già phạm, bạt chiếc ra, ba nễ tát bà xá mê, bát lí bộ lạt dă, sa ha.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu ai cung kính thọ tŕ danh hiệu của bảy Đức Phật, nhớ nghĩ công đức bản nguyện các Ngài, đồng thời đọc tụng diễn nói chú này, con sẽ giúp họ măn nguyện mong cầu, không để thiếu thốn. Ai muốn gặp con, hỏi về thiện ác, th́ nên chí thành biên chép kinh này, tạo lập h́nh tượng bảy Đức Như Lai và tượng bồ-tát tên Chấp Kim Cang, nơi mỗi tượng thân đặt xá-lợi Phật, chí thành dâng cúng phẩm vật thanh tịnh như đă nói trên. Kế đó cung kính lễ bái nhiễu quanh, khởi ḷng từ bi đối với chúng sanh, thọ tám trai giới, mỗi ngày ba lần tắm rửa sạch sẽ, thay y phục mới; từ ngày mồng tám cho đến mười lăm, mỗi ngày tŕ tụng trăm lẻ tám biến đại thần chú này, tâm không tán loạn, th́ con sẽ hiện đến trong giấc mộng, cùng nhau nói chuyện, giúp họ măn nguyện mọi sự mong cầu.

Nghe nói như thế, các vị bồ-tát đồng khen ngợi rằng: “Hay thay, hay thay! Này Chấp Kim Cang, ông thật khéo nói chú đà-la-ni không thể nghĩ bàn”. Bảy Đức Như Lai cũng tán thán rằng: “Chúng ta bảo vệ thần chú mà ông đă tuyên nói ra, v́ muốn giúp cho chúng sanh an lạc, măn mọi mong cầu, nên không để cho bài thần chú này biến mất ở đời”. Do đó bảy Phật bảo các Bồ-tát, Đế Thích-Phạm vương, Tứ Thiên vương rằng: “ Hôm nay chúng Ta phó thác bản kinh và thần chú này hết cho các ông. Vào thời vị lai, năm trăm năm sau, chánh pháp sắp diệt, các ông cần phải bảo vệ giữ ǵn. Uy lực kinh này thật là vô cùng, đem lại lợi ích cũng rất to lớn, diệt trừ tội lỗi, giúp trọn nguyện lành. Các ông nhớ kĩ, chớ trao kinh này cho các chúng sanh tội nhiều phước mỏng, chê bai chánh pháp, xem thường hiền thánh, dẫn đến giáo pháp mau chóng hoại diệt.”

Bảy Phật phương đông phó chúc đă xong, thấy đại chúng đây thành tựu tu tập, cơ duyên đầy đủ, tâm không nghi ngờ, nên liền trở về cơi nước của ḿnh, không c̣n xuất hiện nơi ṭa báu nữa.

Bấy giờ A-nan từ ṭa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính, bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Kinh này tên ǵ, chúng con cung kính gọi như thế nào?” Phật bảo A-nan: “ Kinh này được gọi bằng nhiều tên là: Thất Phật Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác bản nguyện công đức, Văn-thù-sư-lợi sở vấn, Dược Sư Lưu Li Quang Như Lai bản nguyện công đức, Chấp Kim Cang bồ-tát nguyện yếu ḱ, Tịnh trừ nhất thiết nghiệp chướng, Sở hữu nguyện cầu giai đắc viên măn, Thập nhị đại tướng phát nguyện hộ tŕ. Ông nên kính gọi các tên như thế.

Nghe Phật Thế Tôn nói kinh này xong, các đại bồ-tát, các hàng thanh văn, trời rồng dược-xoa, thần càn-thát-bà, thần a-tu-la, thần yết-lộ-trà, thần khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhân và phi nhân vui mừng tin nhận, cung kính thực hành.

Kinh Dược Sư Lưu Li Quang Thất Phật Bản Nguyện Công Đức

Hết Quyển Hạ

Nam-mô Dược Sư hải hội Phật bồ-tát (3 lần)

Như Lai Định Lực Lưu Li Quang thần chú:

Đát điệt tha, cụ mê cụ mê, khánh ni mê nị hí, mạt để mạt để, tát đa đát tha, yết đa tam ma địa, át đề sắt sĩ đế, át đế mạt đế, ba lệ ba phả, pha thâu đản nễ, tát bà ba phả na thế dă, bột thế bột đồ, xướng đáp mễ ổ mễ củ mễ, phật đạt khí đát la, bát lí thâu đản nễ đàm mê, nê đàm mê, mê lỗ mê lỗ, mê lô thi khế, lệ tát bà ca la, mật lật đổ, ni bà sấu nễ, bột đề tô bột thế, phật đà át đề sắt sá nê na hạt lạt xoa đổ mê, tát bà đề bà, tam mê át tam mê, tam mạn noa, hán lan đổ mê, tát bà phật đà bồ đề tát đỏa, thiêm mê thiêm mê, bát lạt thiêm mê, mạn đổ mê, tát bà y để ổ ba, đạt bà tát bà t́ hà đại dă, tát bà tát đỏa, nan giả, bô lan nê, bô lan nê, bô lan dă mê, tát bà a xá, bệ lưu li dă bát lạt để bà tê, tát bà ba phả, trước dương yết lệ sa ha (3 lần).

Dược Sư quán đảnh thần chú:

Nam mô bạc già phạt đế, bệ sát xă lũ lỗ thích lưu li, bát lạt bà, át ra xà dă, đát tha yết đa dă, a ra hát đế tam miệu tam bột đà dă, đát điệt tha, án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xă, tam một yết đế toá ha (7 lần).

Mở kết, mở kết mở cả oan kết

Nghiệp chướng bao đời đều mở hết,

Rửa sạch ḷng trần, phát tâm thành kính

Đối trước Phật đài cầu xin mở kết

Đông phương Phật, Đông phương Phật

Tiêu tai sống thọ, Đông phương Phật

Tùy tâm măn nguyện Đông phương Phật

***

Mười hai đại tướng Dược-xoa

Giúp Phật tuyên dương, chỉ ngũ sắc gút tên

Tuỳ nguyện đều được viên thành

Oan nghiệp dứt sạch, phước thọ măi khương ninh.

Tâm kinh Ma-ha Bát-nhă ba-la-mật-đa

Khi bồ-tát Quán Tự Tại thể nhập trí huệ giác ngộ sâu xa liền thấu suốt năm uẩn đều không, vượt qua tất cả khổ nạn.

Này Xá-lợi-tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Xá-lợi-tử! Tướng không của các pháp, không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt. V́ thế trong chân không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có sáu giác quan là mắt tai mũi lưỡi thân ư, không có sáu đối tượng của giác quan là màu sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, cảnh xúc chạm và pháp; không có mười tám chủng loại của các pháp, từ những chủng loại thuộc về mắt, cho đến những chủng loại thuộc về ư thức; không có vô minh, cũng không có sự chấm dứt vô minh; cho đến không có già chết, cũng không có sự chấm dứt già chết; không có bốn chân lí khổ tập diệt đạo; không có trí, cũng không có chứng đắc, v́ không có chỗ chứng đắc vậy. Bồ-tát nương vào trí huệ giác ngộ mà tâm không ngăn ngại. V́ tâm không ngăn ngại, nên không sợ hăi, xa ĺa những vọng tưởng sai lầm, đạt đến Niết-bàn tuyệt đối. Các Đức Phật trong ba đời đều nương theo trí tuệ giác ngộ mà đạt đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Cho nên phải biết, trí huệ giác ngộ là chú có thần lực lớn, là chú phóng ánh sáng lớn, là chú vô thượng, là chú siêu việt, thật có năng lực diệt trừ tất cả khổ nạn. Cho nên ta nói thần chú Trí tuệ giác ngộ rằng: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

Thần chú tiêu trừ tai nạn, gặp được điềm lành:

Nam mô tam măn đa một đà nẫm, án bát ra để hạ xa giá, ta nẵng nẫm đát điệt tha, án khư khư, khư hê, khư hê, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sát sá, để sát sá, sát trí rị, sát trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để cá, thất rị duệ ta bà ha (3 lần)

Niệm danh hiệu Phật

Nguyện ngày an lành đêm an lành,

Đêm ngày sáu thời đều an lành

Tất cả các thời đều an lành

Xin nguyện từ bi luôn gia hộ

Nam-mô Dược Sư Lưu Li Quang Vương Phật (21 lần)

Nam-mô Thiện Danh Xưng Cát Tường Vương Phật (7 lần)

Nam-mô Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Phật (7 lần)

Nam-mô Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Phật (7 lần)

Nam-mô Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Phật (7 lần)

Nam-mô Pháp Hải Lôi Âm Phật (7 lần)

Nam-mô Pháp Hải Thắng Huệ Du Hí Thần Thông Phật (7 lần)

Nam-mô Nhật Quang Biến Chiếu bồ-tát (3 lần)

Nam-mô Nguyệt Quang Biến Chiếu bồ-tát (3 lần)

Nam-mô Chấp Kim Cang bồ-tát (3 lần)

Nam-mô Dược Sư hải hội Phật Bồ-tát ((3 lần)

SÁM KHỂ THỦ

Cúi đầu đảnh lễ Đại Đạo Sư,

Dẫn dắt chúng sanh về cơi Tịnh

Con nay phát nguyện, nguyện văng sanh

Xin Đức Từ Bi thương tiếp nhận.

Đệ tử chúng con, v́ cả bốn ân, khắp cùng ba cơi, hết thảy chúng sanh trong toàn pháp giới, cầu đạo Bồ-đề, Nhất thừa vô thượng, chuyên tâm tŕ niệm A-di-đà Phật, danh thâu muôn đức, mong sanh Tịnh độ.

Nhưng v́ chúng con phước mỏng nghiệp dày, chướng sâu huệ cạn, tâm nhiễm dễ tăng, đức Tịnh khó thành. Nay đối trước Phật, năm vóc thiết tha, một ḷng bày tỏ, chí thành sám hối. Con và chúng sanh, từ đời vô thỉ cho đến hôm nay, chẳng biết tâm này vốn thường thanh tịnh, vọng khởi tham dục, sân hận si mê, nhiễm ô ba nghiệp, tạo vô lượng tội, kết vô biên oán. Những tội như thế, nguyện đều tiêu diệt. Từ nay về sau, chúng con lập nguyện, xa ĺa pháp ác, lại không tạo thêm, siêng tu Thánh đạo, thệ không lui sụt, thệ thành Chánh giác, thệ độ chúng sanh.

Đức A-di-đà dùng sức từ bi và sức đại nguyện, chứng biết ḷng con, thương tưởng đến con, gia hộ cho con. Để lúc Thiền quán, hoặc trong giấc mộng, được đấng cha lành, rưới nhuận cam lồ trên đảnh của con, phóng ánh sáng lành chiếu đến thân con, duỗi cánh tay vàng xoa đầu chúng con, hoặc dùng y báu đắp thân thể con, khiến cho tội chướng từ đời vô thỉ chóng tự dứt trừ, căn lành tăng trưởng, phiền năo chóng không, vô minh chóng phá, diệu tâm viên giác bỗng nhiên khai ngộ, cơi Thường Tịch Quang luôn được hiện tiền. Đến lúc lâm chung, tự biết giờ khắc, thân không bệnh khổ ách nạn, tâm không tham luyến mê lầm, toàn thân thư thái, chánh niệm hiện tiền, ung dung bỏ thân, như vào Thiền định.

Ngay lúc bấy giờ Từ phụ Như Lai cùng Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, tất cả Thánh chúng phóng quang tiếp đón, đưa tay dắt d́u, lại thêm vào đó lầu gác tràng phan, nhạc trời hương lạ cùng hiện đón nghinh, cảnh đẹp Tây phương, hiện bày trước mắt, khiến cho chúng sanh, kẻ thấy người nghe, vui mừng cảm thán, phát tâm Bồ-đề. Bấy giờ thân con ngồi đài kim cang, bay theo sau Phật, trong khoảng nháy mắt, sanh vào hoa sen nơi ao bảy báu ở cơi Cực Lạc. Hoa nở thấy Phật và các Bồ-tát, được nghe pháp âm, chứng Vô sanh nhẫn, trong khoảng sát-na hầu cận chư Phật, được Phật thọ kí. Được thọ kí rồi, trong con thành tựu ba thân bốn trí, năm nhăn sáu thông, vô lượng trăm ngàn môn đà-la-ni. Sau đó không ĺa cơi nước An Dưỡng, hiện trụ Ta-bà, phân thân vô số đến khắp mười phương, dùng sức thần thông, tự tại vô ngại không thể nghĩ bàn, lập các phương tiện độ thoát chúng sanh xa ĺa phiền năo, tâm được an tĩnh, đồng sanh Tây phương, trụ ngôi Bất thoái.

Thế gian vô tận, thế giới vô tận, nghiệp và phiền năo tất cả vô tận, nguyện lớn của con cũng thật vô tận. Nguyện dùng tất cả công đức lễ Phật, phát nguyện tu tŕ, hồi hướng đến khắp các loài hữu t́nh, báo đáp thảy bốn ân, giúp nhuần cả ba cơi, pháp giới chúng sanh đồng thành Phật đạo.

HỒI HƯỚNG

Tụng kinh, lễ Phật, niệm hồng danh

Được bao công đức, hướng chúng sanh

Xin cho tất cả cùng chung hưởng

Mai sau An Dưỡng nguyện viên thành

Ba chướng dứt trừ phiền năo hết

Tuệ tâm sáng tỏ được tịnh thanh

Nguyện ư sanh về miền Cực Lạc

Đài vàng chín phẩm mẹ cha lành

***

Hoa sen vừa nở thấy Như Lai

Chứng đắc Vô sanh thật chẳng sai

Bồ-tát bất thoái cùng tụ hội

Kết thành bạn tốt ngự liên đài.

TỰ QUI

Con về nương tựa Phật

Cầu nguyện cho chúng sanh

Thể nhận được đạo lớn

Sớm phát tâm vô thượng (1 lạy )

***

Con về nương tựa pháp

Cầu nguyện cho chúng sanh

Thấu hiểu được giáo pháp

Trí tuệ như biển lớn (1 lạy )

***

Con về nương tựa Tăng

Cầu nguyện cho chúng sanh

Thống nhiếp cả muôn loài

Tất cả không ngăn ngại (1 lạy )

***

PHỤ LỤC

  KINH DƯỢC SƯ LƯU LI QUANG THẤT PHẬT BẢN NGUYỆN CÔNG ĐỨC

Hán Dịch: Sa Môn Nghĩa Tịnh

Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Nguyên Chơn

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật đi khắp các nước giáo hóa hữu t́nh, dần dần đến thành Quảng Nghiêm an trú nơi cội Nhạc Âm. Bấy giờ vô lượng đại chúng vây quanh, cung kính lắng ḷng nghe Ngài thuyết pháp. Trong đó có tám ngàn đại t́-kheo, ba vạn sáu ngàn bậc đại bồ-tát, rất nhiều các vị quốc vương đại thần, hàng bà-la-môn, nam nữ cư sĩ và tám bộ chúng: trời rồng... tham dự. Bấy giờ bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, y lộ vai phải, nương oai thần Phật, đứng dậy cung kính chắp tay bạch rằng:

Bạch Đức Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn v́ các hữu t́nh ở đời tượng pháp, rủ ḷng từ bi nói về công đức bản nguyện danh hiệu của mỗi Đức Phật, để ai nghe đến, nghiệp chướng tiêu trừ.

Thế Tôn khen ngợi: “Hay thay! Hay thay! Văn-thù-sư-lợi! Với ḷng đại bi, mong trừ nghiệp chướng trói buộc hữu t́nh, và làm lợi lạc cho thời tượng pháp măi măi về sau, nên ông thỉnh Ta nói về công đức bản nguyện danh hiệu của mỗi Đức Phật. Ông hăy lắng nghe và suy nghĩ kĩ, Ta sẽ nói rơ cho ông được biết.”

Văn-thù-sư-lợi! Về phương đông xa, cách đây hơn mười hằng sa cơi Phật, có một thế giới tên Tịnh Lưu Li. Giáo chủ cơi ấy, Dược Sư Lưu Li Quang Vương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Măn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Văn-thù-sư-lợi! Khi Đức Phật ấy tu đạo bồ-tát đă phát mười hai lời nguyện rộng lớn.

- Nguyện lớn thứ nhất: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, tự thân đầy đủ ba mươi hai tướng bậc đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp tùy h́nh trang nghiêm, ánh sáng từ thân chiếu đến vô lượng vô biên thế giới, cũng khiến hữu t́nh giống như thân Ta, không mảy sai khác.

- Nguyện lớn thứ hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, thân ta trong suốt như ngọc lưu li, không một t́ vết, đức tướng rạng ngời, công đức ṿi vọi. Toàn thân trụ trong màn lưới ánh sáng, rực rỡ hơn cả hai vầng nhật nguyệt, làm cho hữu t́nh ở nơi tăm tối nhận biết lẫn nhau, tuỳ ư đến đi, làm trọn các việc.

- Nguyện lớn thứ ba: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, sẽ dùng vô lượng trí tuệ phương

tiện, giúp cho hữu t́nh đầy đủ tất cả những vật cần dùng, không bao giờ hết.

- Nguyện lớn thứ tư: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có hữu t́nh tu theo tà đạo, th́ giúp quay về chánh đạo bồ-đề; nếu học các pháp Thanh văn-Duyên giác, cũng lại đưa vào diệu pháp Đại thừa.

- Nguyện lớn thứ năm: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có hữu t́nh tu tập Phạm hạnh trong pháp của Ta, th́ Ta sẽ giúp trọn vẹn giới pháp, đủ ba tịnh tụ, không phạm lỗi lầm. Dẫu lỡ hủy phạm, nghe danh hiệu Ta, liền được thanh tịnh, không đoạ đường ác.

- Nguyện lớn thứ sáu: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có hữu t́nh thiếu khuyết các căn, ngờ nghệch xấu xí, điếc đui câm ngọng, lác hủi điên cuồng, tật bệnh bức bách, chịu vô lượng khổ, nghe danh hiệu Ta, thân liền đoan chánh, trí tuệ thông minh, đầy đủ các căn, không c̣n bệnh khổ.

- Nguyện lớn thứ bảy: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có hữu t́nh nghèo cùng khốn khổ, thân mang bệnh tật, không người giúp đỡ, không chốn gá nương, không thầy chữa trị, chẳng có thuốc men, mà nghe tên Ta, bệnh tật liền tiêu, thân tâm an ổn, quyến thuộc đoàn tụ, của tiền không thiếu, cho đến chứng đắc Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ tám: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có hữu t́nh phải mang thân nữ, chịu những nỗi khổ do thân bức ép, nhàm chán muốn ĺa, nghe danh hiệu Ta, tất cả sẽ được chuyển thành thân nam, đầy đủ h́nh tướng của bậc trượng phu, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ chín: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, sẽ giúp hữu t́nh ra khỏi lưới ma, thoát ṿng ngoại đạo, đưa người tà kiến trở về chánh kiến, dần dần tu tập muôn hạnh bồ-tát, cho đến chứng đắc Vô thượng bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ mười: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có hữu t́nh pháp luật kết tội, giam vào ngục tối, gông cùm xiềng xích, đánh đập khảo tra, thân tâm đớn đau, nhục nhă ưu sầu mà nghe tên Ta, th́ nhờ oai thần, phước đức Như Lai, liền thoát tất cả.

- Nguyện thứ mười một: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có hữu t́nh v́ t́m thức ăn phải tạo nghiệp ác, mà nghe tên Ta, một ḷng xưng niệm, th́ trước ta ban thức ăn thức uống thơm ngon tuyệt hảo, thọ dụng no đủ, sau đó lại ban pháp vị Đại thừa, giúp họ măi trú trong niềm an lạc tuyệt diệu vô cùng.

- Nguyện thứ mười hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng bồ-đề, nếu có hữu t́nh, thân không mảnh vải, luôn bị muỗi ṃng tha hồ cắn đốt, mưa gió nóng lạnh bức bách đớn đau, mà nghe tên Ta, một ḷng xưng niệm th́ tùy ư thích, áo quần tốt đẹp, vật dụng quí giá, ṿng hoa hương thơm, âm nhạc hát ca hiện tiền đầy đủ, mặc t́nh thụ hưởng.

Văn-thù-sư-lợi! Đó là mười hai lời nguyện rộng lớn và thật cao cả của Đức Dược Sư Như Lai phát ra khi c̣n tu hành đạo hạnh bồ-tát. Nhưng các nguyện lớn của Phật Dược Sư và cảnh trang nghiêm cơi Tịnh Lưu Li, th́ trong một kiếp hoặc hơn một kiếp, Ta không thể nào giảng nói cho hết. Bởi cơi Phật ấy hoàn toàn thanh tịnh, không có người nữ, không có tiếng khổ và ba đường ác; đất do lưu li trong suốt tạo thành, dùng dây vàng ṛng giăng phân ranh giới, tạo thành đường đi; c̣n những thành quách, cung điện mái hiên, cửa nẻo màng lưới, đều bằng bảy báu, giống như cảnh trí trang nghiêm ở cơi Cực Lạc phương tây. Hai vị bồ-tát thượng thủ cơi ấy: Nhật Quang Biến Chiếu, Nguyệt Quang Biến Chiếu, chăm lo giữ ǵn kho báu chánh pháp của Đức Dược Sư. V́ thế các vị thiện nam tín nữ nên nguyện sanh về thế giới của Ngài.

Văn-thù-sư-lợi! Có những hữu t́nh, không biết thiện ác, tham lam bỏn xẻn, không biết bố thí và những quả báo của việc bố thí, ngu si vô trí, không có ḷng tin. Suốt đời chỉ biết chất chứa của cải, cất giữ nhọc nhằn, thấy người đến xin ḷng đă không muốn, dẫu bất đắc dĩ phải cho chút ít th́ lại luyến tiếc, đau xót khôn cùng đứt ruột đứt gan. Lại có hữu t́nh, tham lam bỏn xẻn, chỉ lo cất chứa của cải đầy nhiều, đối với bản thân c̣n không chi dụng, nói chi đến việc cấp cho cha mẹ, vợ con anh em, những người giúp việc và kẻ đến xin. Những hữu t́nh này, sau khi chết đi, sanh vào ngạ quỉ hay loài súc sanh. Nhưng do ngày trước, khi ở nhân gian họ đă từng nghe danh hiệu Dược Sư, nên nay dù sanh trong các đường ác, vẫn nhớ lại được danh hiệu Như Lai. Khi vừa nhớ lại, liền bỏ thân khổ, sanh vào cơi người, biết được đời trước, sợ hăi đường ác vô lượng khổ đau. Do đó không ưa những cảnh dục lạc, thích hành bố thí, khen ngợi người thí, không c̣n tham tiếc tất cả tài sản, cho đến đầu mắt, tay chân máu thịt, tất cả thân phần, dần dần ban phát cho người đến xin.

Văn-thù-sư-lợi! Có những hữu t́nh, thọ giới của Phật mà lại phá giới; hoặc có những kẻ không phá giới pháp mà phá phép tắc; hoặc có những kẻ không phá giới pháp và cả phép tắc mà hủy chánh kiến; hoặc có những kẻ không hủy chánh kiến mà bỏ đa văn, nên không hiểu được nghĩa lí sâu xa trong các khế kinh; hoặc có những kẻ tuy cầu đa văn mà ḷng kiêu mạn, do ḷng kiêu mạn, nên khen ngợi ḿnh, chê bai người khác, phỉ báng chánh pháp, kết đảng với ma. Những kẻ ngu ấy, tự theo tà kiến, lại khiến vô lượng trăm ngàn hữu t́nh rơi vào hố sâu đầy dẫy hiểm nạn. Những kẻ như thế, sau khi mạng chung, sanh vào địa ngục, ngạ quỉ súc sanh, lưu chuyển vô cùng. Nhưng nếu nghe được danh hiệu Dược Sư Lưu Li Quang Phật, liền bỏ hạnh ác, tu theo pháp lành. Nếu đoạ đường dữ, người ấy nhờ sức uy thần bản nguyện, của đức Như Lai, hiện tiền nghe được danh hiệu của Ngài, liền từ nơi ấy chấm dứt thọ mạng, sanh về nhân gian, có được chánh kiến, tinh tấn khéo léo điều phục tâm ư, xuất gia tu hành trong pháp Như Lai. Sau khi xuất gia, thọ tŕ giới luật, không c̣n huỷ phạm, chánh kiến đa văn, thông đạt yếu chỉ, ĺa tăng thượng mạn, không huỷ chánh pháp, không thân với ma, dần dần tu tập muôn hạnh bồ-tát, mau chóng thành tựu Vô thượng bồ-đề.

Văn-thù-sư-lợi! Nếu những hữu t́nh tham lam tật đố, khen ḿnh chê người, sau khi qua đời rơi vào cơi ác, trải trăm vạn năm chịu vô lượng khổ. Xong nghiệp cơi ác, sanh vào nhân gian, hoặc làm các loài trâu ngựa lạc đà, luôn bị hành hạ, đánh đập trói buộc, đói khát khổ năo bức bách thân tâm. Lại thường đi xa, mang nhiều chở nặng, khốn khổ vô cùng. Nếu được làm người, chịu thân hèn hạ, bị người sai khiến, không được tự do. Nhưng nếu khi xưa, lúc c̣n làm người, đă từng nghe qua danh hiệu Đức Phật Dược Sư Như Lai, bởi sức căn lành, hôm nay nhớ lại, một ḷng quay về nương tựa nơi Ngài, nhờ thần lực Ngài mà thoát khổ đau, thân h́nh đoan chánh, thông minh trí huệ, học rộng nghe nhiều, luôn cầu diệu pháp, luôn gặp bạn lành, vĩnh thoát lưới ma, phá vỏ vô minh, cạn sông phiền năo, xa ĺa tất cả sanh lăo bệnh tử, khổ năo sầu bi.

Văn-thù-sư-lợi! Có những hữu t́nh, ưa thích chống trái, tranh đấu kiện cáo gây ra phiền phức cho ḿnh lẫn người, thân miệng và ư tạo các nghiệp xấu, nối tiếp thực hiện các việc vô ích, mưu hại lẫn nhau, hoặc thỉnh thần núi, thần cây thần mộ, hoặc giết chúng sanh để lấy máu thịt, cúng tế các quỉ dạ-xoa la-sát; hoặc lại viết tên, hoặc làm h́nh tượng của kẻ oán thù rồi dùng tà thuật, ếm chú vào đó; hoặc sai trùng độc, hoặc chú khởi thi[4] đi lấy mạng người. Các chúng sanh ấy nếu đă từng nghe danh hiệu Dược Sư Như Lai, th́ ác duyên kia không thể hại được, tất cả dần dần khởi ḷng từ bi, thực hiện các việc lợi ích an lạc, không niệm sát hại và ḷng oán hận, mỗi mỗi vui vẻ tự thấy thoả măn với điều ḿnh có, không c̣n cướp đoạt mà c̣n giúp nhau những việc lợi ích.

Văn-thù-sư-lợi! Bốn chúng tăng ni, nam nữ cư sĩ, và những người có ḷng tin thanh tịnh thọ tám trai giới, hoặc trong một năm hoặc trong ba tháng thọ tŕ học xứ, đem căn lành này hồi hướng nguyện sanh Tây phương Cực lạc của Đức Từ Phụ A-di-đà Phật, nếu chưa quyết định, mà đă nghe được danh hiệu Dược Sư Lưu Li Như Lai, th́ khi mạng chung sẽ có tám vị bồ-tát thượng thủ: bồ-tát Văn-thù, bồ-tát Quán Âm, ngài Đại Thế Chí, ngài Bảo Đàn Hoa, ngài Vô Tận Ư, bồ-tát Dược Vương, bồ-tát Dược Thượng bồ-tát Di-lặc từ trên không trung đến nơi người ấy, chỉ dẫn đường đi, tức th́ người kia tự nhiên hóa sanh trong hoa sen báu, màu sắc rực rỡ nơi cơi nước ấy. Hoặc sanh cơi trời, nhưng nhờ nhân lành khi xưa chưa hết, nên khi mạng chung, không sanh cơi ác, mà sanh nhân gian, làm Chuyển luân vương, thống lănh bốn châu, đầy đủ uy đức, tự tại giáo hóa vô lượng chúng sanh, tu tập thập thiện. Hoặc sanh vào ḍng vua chúa quyền uy, hoặc ḍng Phạm chí, cư sĩ quí tộc tài sản vô lượng, kho lẫm tràn đầy, h́nh tướng đoan nghiêm, quyến thuộc đông vui, trí huệ thông minh, dơng mănh oai hùng như đại lực sĩ. Nếu có người nữ nghe được danh hiệu Đức Phật Dược Sư, một ḷng thọ tŕ, th́ trong đời sau, sẽ không c̣n mang thân người nữ nữa.

Văn-thù-sư-lợi! Khi Đức Dược Sư chứng đạo bồ-đề, nhờ sức bản nguyện thấy các hữu t́nh bị các bệnh khổ, thân thể ốm gầy, môi miệng khô rát, hoặc sốt xuất huyết, hoặc trúng trùng độc, bùa ngải chú thuật; hoặc bị chết yểu, hoặc bị chết oan. V́ muốn chúng sanh dứt trừ bệnh khổ, thỏa măn mong cầu, Đức Phật Thế Tôn liền vào tam-muội “Trừ diệt nhất thiết chúng sanh khổ ách”. Vào tam-muội rồi, từ nơi nhục kế phóng luồng ánh sáng rực rỡ chiếu khắp, từ ánh sáng ấy tuyên thuyết thần chú:

Nam mô bạc già phạt đế, bệ sát xă lũ lỗ thích lưu li, bát lạt bà, át ra xà dă, đát tha yết đa dă, a ra hát đế tam miệu tam bột đà dă, đát điệt tha, án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xă, tam một yết đế tóa ha.

Thần chú vi diệu vừa được thuyết xong, quả đất chấn động, phóng ra ánh sáng, chiếu khắp muôn nơi, tất cả hữu t́nh bị những bệnh khổ đều được tiêu trừ, thân tâm an ổn, hưởng mọi niềm vui.

Văn-thù-sư-lợi! Nếu gặp những người tật bệnh khổ sở, trước tiên chúng ta tắm rửa sạch sẽ, súc miệng đánh răng, tụng trăm lẻ tám biến thần chú này vào trong thức ăn, thuốc uống hay nước không có vi trùng, rồi cho họ uống th́ những bệnh tật đều được tiêu trừ. Nếu cầu điều ǵ, một ḷng tụng niệm, sẽ được như ư, thân thể không bệnh, lại thêm sống lâu, sau khi mạng chung, sanh về thế giới Tịnh Lưu Li kia, được vị Bất thoái, cho đến chứng được Vô thượng bồ-đề. V́ thế nam nữ ḷng tin vững chắc, cung kính cúng dường Đức Phật Dược Sư, phải thường tŕ tụng bài thần chú này, chứ đừng lăng quên.

Văn-thù-sư-lợi! Nếu các người nam cùng những người nữ ḷng tin vững chắc, nghe đến danh hiệu Dược Sư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nghe rồi tŕ niệm, sáng sớm thức dậy, đánh răng súc miệng, dâng các thứ hương, nào là hương thoa, hương bột hương đốt, hoa quả tốt tươi, các loại âm nhạc cúng dường tôn tượng của Đức Phật kia, rồi tự biên chép, bảo người biên chép, một ḷng thọ tŕ, lắng nghe pháp sư giảng giải nghĩa lí, cung kính cúng dường pháp sư tất cả những vật cần dùng, không để thiếu thốn, th́ những người này được các Đức Phật quan tâm nhớ nghĩ, đồng thời giúp cho thoả măn ước mong.

Bấy giờ bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật rằng:

Bạch Đức Thế Tôn! Vào thời tượng pháp, con nguyện sử dụng mọi cách khéo léo, giúp cho người nam, cùng với người nữ ḷng tin thanh tịnh, được nghe danh hiệu Dược Sư Như Lai, cho đến lúc ngủ, cũng dùng danh hiệu của Đức Phật này, giúp họ tỉnh thức. Bạch Đức Thế Tôn! Nếu ai thọ tŕ, đọc tụng kinh này, sau đó giảng thuyết, chỉ dạy cho người, tự ḿnh sao chép, bảo người sao chép, cung kính tôn trọng dâng cúng hoa tươi, các loại hương thơm, nào là hương bột, hương thoa hương đốt, ṿng hoa chuỗi báu, cờ phướn lọng tàn, âm nhạc ca múa, dùng vải năm màu may túi đựng kinh, rồi chọn nơi tốt, quét dọn sạch sẽ, đặt một ṭa cao, an trí kinh này, bấy giờ sẽ có bốn vị Thiên vương, trăm ngàn quyến thuộc, vô lượng vị trời cùng đến nơi ấy cúng dường bảo vệ. Bạch Đức Thế Tôn! Bởi nhờ uy lực công đức bản nguyện của Đức Dược Sư, và sức uy thần do nghe danh hiệu mà ở những nơi kinh này lưu hành, những người thọ tŕ không bị chết oan, cũng không bao giờ bị các loài quỉ đoạt lấy tinh khí. Dẫu bị đoạt lấy cũng được hoàn lại, thân tâm an ổn, khoẻ mạnh như xưa.

Bấy giờ Đức Phật bảo Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi:

Đúng thế, đúng thế! Thật như ông nói. Nếu có người nam cùng những người nữ niềm tin vững chắc, ḷng muốn cúng dường Dược Sư Như Lai, trước nên tạo lập h́nh tượng của Ngài, đặt trên ṭa cao uy nghiêm đẹp đẽ, rải hoa đốt hương, giăng cờ treo lọng, trang hoàng rực rỡ. Sau đó cần phải bảy ngày bảy đêm giữ tám trai giới, dùng các món ăn thanh tịnh đúng pháp, tắm rửa sạch sẽ, thay y phục mới, tâm ư trong lặng, không niệm sân hận. Đối với hữu t́nh, khởi tâm b́nh đẳng từ bi hỉ xả, nguyện làm lợi ích an lạc cho họ. Đồng thời trỗi nhạc, đàn ca trống phách, nhiễu quanh tôn tượng, nghĩ nhớ công đức bản nguyện Như Lai, đọc tụng kinh này, cứu xét nghĩa lí, diễn nói khai thị cho mọi người biết. Hành đúng như thế, th́ những ước nguyện đều được trọn vẹn, như cầu sống lâu th́ được sống lâu; mong cầu giàu sang, nhất định giàu sang; mong cầu quan tước, hẳn có quan tước; cầu sanh con trai, ắt được con trai; cầu sanh con gái, th́ được con gái. Lại có những người, bỗng gặp ác mộng, thấy các điềm xấu, như loài chim lạ bay đến tụ tập, hoặc tại nơi ở, nhiều lần hiện ra những điềm ḱ lạ. Những người như thế, nếu dùng vật dụng quí giá của ḿnh, cung kính cúng dường Dược Sư Như Lai, th́ những ác mộng và những điềm xấu thảy đều ẩn hết, không c̣n lo sợ. Nếu gặp nạn lớn, gây nên những nỗi sợ hăi kinh hoàng, như nước dâng tràn, lửa cháy chiến tranh, vực thẳm đường hiểm, sư tử voi cuồng, cọp sói gấu beo, rắn rít ḅ cạp, mà lại một ḷng thiết tha nhớ nghĩ, cung kính cúng dường các Đức Phật ấy, tất cả những nỗi sợ hăi kinh hoàng thảy đều không c̣n. Lại nữa nếu bị nước khác xâm lăng, giặc cướp quấy nhiễu, mà ḷng cung kính nhớ nghĩ đến Đức Dược Sư Lưu Li Quang Như Lai kia, th́ những kẻ địch thảy đều lui tan.

Văn-thù-sư-lợi! Có những người nam cùng những người nữ, niềm tin vững chắc, suốt cả cuộc đời không thờ tất cả những vị trời nào, chỉ trọn một ḷng nương Phật pháp tăng, giữ ǵn các giới, hoặc là năm giới, hoặc là mười giới, hoặc bốn trăm giới bồ-tát Đại thừa, hoặc hai trăm năm mươi giới t́-kheo, hoặc năm trăm giới của t́-kheo-ni. Nếu lỡ hủy phạm, sợ đọa cơi ác, mà trọn một ḷng nhớ nghĩ danh hiệu Dược Sư Như Lai, cung kính cúng dường, người ấy nhất định sẽ không rơi vào ba cơi xấu ác. Nếu có người nữ, đang lúc sanh sản, đớn đau khổ sở, mà trọn một ḷng xưng niệm danh hiệu, cung kính cúng dường Dược Sư Như Lai, th́ sẽ không c̣n tất cả khổ đau, đứa bé sanh ra dung mạo đoan chánh, ai thấy cũng vui, lợi căn thông minh, không mang bệnh tật, thân tâm an ổn, tất cả phi nhân không thể đoạt lấy tinh khí của trẻ.

Bấy giờ Thế Tôn bảo A-nan rằng:

Như Ta khen ngợi, công đức danh hiệu Dược Sư Như Lai, đó cũng chính là cảnh giới sâu xa của các Đức Phật, ông chớ nghi ngờ!

A-nan bạch Phật:

Bạch Đức Thế Tôn! Con không bao giờ khởi tâm nghi ngờ ư nghĩa sâu xa trong các khế kinh mà Phật đă dạy. V́ sao như thế? V́ tất cả nghiệp thân miệng và ư của các Như Lai đều rất thanh tịnh. Bạch Đức Thế Tôn! Mặt trời mặt trăng có thể rơi xuống, ṭa núi Diệu Cao có thể khuynh động, nhưng lời của các Đức Phật nói ra, trọn không sai biệt. Nhưng có những người, không đủ ḷng tin, nghe nói cảnh giới sâu xa của Phật, liền suy nghĩ rằng: “Làm sao chỉ niệm danh hiệu của một Đức Phật Thế Tôn mà được công đức lớn lao dường ấy!”. Do ḷng không tin, người ấy khởi tâm hủy báng chánh pháp. V́ thế không những mất lợi ích lớn, mà c̣n măi măi rơi vào nẻo ác, lưu chuyển không cùng. Nhưng này A-nan! Những hữu t́nh ấy, nghe được danh hiệu Dược Sư Như Lai, chí tâm thọ tŕ, ḷng không nghi ngờ, mà c̣n rơi vào những nẻo xấu ác th́ thật vô lí. Đây là năng lực sâu xa vi diệu, của các Như Lai, rất khó tin hiểu mà ông có thể lănh thọ như thế, thật do uy lực của Như Lai vậy. Này nữa A-nan! Tất cả Thanh văn và hàng Duyên giác không thể tin hiểu, chỉ trừ các bậc Nhất sanh bổ xứ mới hiểu mà thôi. Khó được thân người, cũng khó tin kính tôn trọng Tam bảo, càng khó được nghe danh hiệu của đức Dược Sư Như Lai. Dược Sư Như Lai ở nơi nhân vị, đă tu vô lượng công hạnh bồ-tát, sử dụng vô lượng phương tiện khéo léo, phát khởi vô lượng diệu nguyện rộng lớn. Nếu Ta nói ra, th́ trong một kiếp hoặc hơn một kiếp cũng không thể nào tŕnh bày hết được.

Bấy giờ trong hội, Bồ-tát Cứu Thoát từ ṭa đứng dậy, trịch áo vai phải, chân phải qú gối, cung kính chắp tay bạch Đức Phật rằng:

Bạch Đức Thế Tôn! Vào thời tượng pháp, có những hữu t́nh bị các bệnh khổ, bức bách đớn đau, thân h́nh gầy ốm, ăn uống không được, môi cổ khô rát, mắt thấy màn đen, tướng chết hiện ra, cha mẹ anh em, bạn bè quyến thuộc vây quanh khóc lóc; người bệnh nằm đó mà đă nh́n thấy sứ giả U minh dẫn dắt thần thức đến trước Diêm vương. Bấy giờ vị thần Câu Sanh đem sổ ghi những tội phước người ấy đă làm, dâng lên Diêm vương. Diêm vương y pháp, tra xét hành vi, rồi theo tội phước tiến hành xử đoán. Nếu lúc bấy giờ, thân thuộc bạn bè, v́ người bệnh ấy qui y Đức Phật Dược Sư Lưu Li, cung thỉnh chúng tăng đọc tụng kinh này, đốt đèn bảy tầng, treo phan tục mạng bằng vải năm màu, th́ ngay lúc ấy thần thức nhập thân, như vừa tỉnh mộng, thấy biết rơ ràng; hoặc qua bảy ngày, hoặc hăm mốt ngày, hoặc ba lăm ngày, hay bốn chín ngày, thần thức người ấy lại được trở về, như vừa tỉnh mộng, nhớ biết tất cả, quả báo lành dữ, do nghiệp thiện ác, đă tạo từ xưa. Bởi đă tận mắt thấy được nghiệp báo chân thật không sai, nên dù gặp lúc nguy hiểm đến thân, vẫn không tạo ác. Do đó tất cả nam nữ tịnh tín, nên niệm danh hiệu Dược Sư Như Lai, rồi tùy khả năng cung kính cúng dường.

A-nan thưa hỏi bồ-tát Cứu Thoát: Xin ngài chỉ bày phương pháp cúng dường Dược Sư Như Lai và cách làm đèn cùng phan tục mạng!

Bồ-tát Cứu Thoát đáp lời A-nan: Đại đức A-nan! Có người mong cầu ai đó lành bệnh, không c̣n khổ đau, th́ phải v́ họ thọ tám trai giới, bảy ngày bảy đêm, chí thành dâng cúng thức ăn thức uống, các món cần dùng lên Đức Dược Sư, ngày đêm sáu thời cung kính lễ bái đức Dược Sư Lưu Li Quang Như Lai, đọc tụng kinh này bốn mươi chín biến, chuẩn bị đầy đủ bốn chín ngọn đèn. Lại cần tôn trí bảy tượng Như Lai, trước mỗi tôn tượng tạo một ṿng tṛn, trên ṿng tṛn ấy đặt bảy ngọn đèn, phải thắp sáng luôn, bốn chín ngày đêm, không được để tắt. Lại tạo thêm một lá phan năm màu dài bốn chín thước, đồng thời phóng sanh bốn chín con vật. Nếu được như thế, tai ách liền tiêu, ác thần ác quỉ không thể làm hại.

Đại đức A-nan! Nếu lúc đất nước gặp các tai họa: dịch bệnh hoành hành, quân địch xâm lăng, tặc thần phản loạn, sao xấu xuất hiện, nhật thực nguyệt thực, thời tiết bất ḥa, hạn hán không mưa, th́ Quán Đảnh vương ḍng Sát-đế-lợi nên khởi ḷng từ, thương xót phóng thích tất cả tội nhân, giúp họ thoát cảnh tù tội đọa đày, rồi cũng như trước cúng dường Đức Phật Dược Sư Lưu Li. Do việc thiện này và sức bản nguyện của đức Như Lai, mà toàn cơi nước an ổn thái b́nh, mưa ḥa gió thuận, mùa màng bội thu, nhân dân sung sướng, không c̣n tật bệnh, không có các thần Dược-xoa… hung ác làm hại mọi người, những hiện tượng xấu cũng đều ẩn hết; và Quán Đảnh vương ḍng Sát-đế-lợi tăng thêm tuổi thọ, khí lực dồi dào, không bệnh an vui.

Đại đức A-nan! Nếu các hoàng hậu, hoàng phi công chúa, thái tử vương tử, đại thần phụ tướng, thể nữ trong cung, bá quan văn vơ, nhân dân khắp chốn bị bệnh bức bách, tai nạn hiểm nguy, cũng nên chí thành thắp đèn treo phan, phóng sanh loài vật, đốt hương rải hoa th́ liền dứt hết các căn bệnh khổ, tai nạn không c̣n.

A-nan thưa hỏi bồ-tát Cứu Thoát: Tôn giả Cứu Thoát! V́ sao thọ mạng một người đă hết mà c̣n có thể kéo dài thêm được?

Cứu Thoát đáp rằng: Đại đức A-nan! Ngài hẳn không nghe khi xưa Như Lai nói chín trường hợp chết oan hay sao? Cũng từ việc này mà Ngài chỉ dạy đốt đèn làm phan, tu các phước đức. Do tu các phước, mạng sống kéo dài.

A-nan lại thưa: Tôn giả Cứu Thoát! Xin ngài giảng chín trường hợp chết oan cho chúng hội biết!

Cứu Thoát nói rằng: Đại đức lắng nghe, tôi xin nói rơ! Một là hữu t́nh bị bệnh tuy nhẹ, mà không gặp thầy, lại chẳng có thuốc, không người chăm sóc; hoặc có gặp thầy, nhưng trao lầm thuốc, thật không đáng chết mà phải chết oan. Hai là hữu t́nh, tin theo những thuyết họa phước sai lầm, của kẻ tà ma, của bọn ngoại đạo yêu nghiệt ở đời, rồi ḷng sợ hăi không thể tự chủ, bèn đi bói quẻ, hoặc lại xin xăm, t́m hiểu mối hoạ, dẫn đến giết hại sinh mạng các loài cúng tế thần linh, khẩn cầu giải nạn; hoặc là kêu gọi các loài yêu mị ban phước xin ân, mong được an ổn, kéo dài tuổi thọ. Nhưng lại hoàn toàn không thể nào được. Bởi do ngu si, tà kiến điên đảo, nên bị chết oan rơi vào địa ngục không có ngày ra. Ba là chúng sanh chỉ lo chơi bời, vui đùa săn bắn, đam mê tửu sắc, buông lung vô độ, bị loài phi nhân đoạt lấy tinh khí mà bị chết oan. Bốn là chết cháy; năm là chết trôi; sáu là chết v́ thú dữ ăn thịt; bảy là chết v́ rơi từ núi cao; tám là chết v́ thuốc độc bùa ngăi, ếm chú trù dập, quỉ khởi thi giết; chín là chết v́ đói khát bức bách.

Chín loại chết oan Như Lai đă dạy tóm lược như thế, lại c̣n vô số các trường hợp khác không thể kể hết.

Này nữa A-nan! Vua Diêm-ma kia, chủ quản ghi chép tất cả tên tuổi của người thế gian. Nếu hữu t́nh nào bất hiếu cha mẹ, phạm năm tội nghịch, khinh chê Tam bảo, hoại pháp vua tôi, phá hủy giới cấm th́ vua Diêm-ma, tùy tội nặng nhẹ mà định h́nh phạt. Cho nên hôm nay, Ta khuyên mọi người đốt đèn làm phan, phóng sanh tu phước, để vượt khổ đau, thoát khỏi tai nạn.

Bây giờ trong chúng có mười hai vị đại tướng Dược-xoa: Một, Cung-t́-la; hai, Bạt-chiếc-la; ba, Mê-xí-la; bốn, Át-nễ-la; năm, Mạt-nễ-la; sáu, Ta-nễ-la; bảy, Nhân-đà-la; tám, Ba-di-la; chín, Ba-hỗ-la; mười, Chân-đạt-la; mười một, Châu-đổ[5]; mười hai, T́-yết[6]. Mỗi vị đều có bảy ngàn dược-xoa theo làm thuộc hạ. Tất cả đồng thưa Đức Như Lai rằng:

Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con hôm nay nhờ uy lực Ngài, nghe được danh hiệu Dược Sư Như Lai, cho nên không c̣n những nỗi sợ hăi trong các nẻo ác. Chúng con đồng ḷng, suốt đời nương tựa ba ngôi quí báu là Phật pháp tăng. Nguyện sẽ giúp đỡ bảo vệ hữu t́nh, v́ họ mà làm những việc lợi ích. Bất cứ nơi nào, hoặc là thành thị hay ở xóm làng, dù chốn núi non hay vùng đồng vắng, nếu có kinh này lưu truyền đọc tụng, hoặc là có người thọ tŕ danh hiệu Dược Sư Lưu Li Quang Vương Như Lai, cung kính cúng dường h́nh tượng các Ngài, nhất định chúng con và các thuộc hạ luôn luôn bảo vệ, giúp cho người ấy tránh khỏi nạn khổ; thành tựu tất cả những điều mong cầu. Nếu có người nào, bệnh hoạn khổ năo mà muốn xa ĺa, th́ nên chí tâm đọc tụng kinh này, dùng chỉ năm màu, gút tên chúng con, khi đă măn nguyện, mới mở gút ra.

Nghe vậy Thế Tôn khen ngợi các vị Dược-xoa đại tướng: Hay lắm, hay lắm! Đại tướng Dược-xoa, nếu các ông biết một ḷng nhớ nghĩ, báo đáp ân sâu của Đức Như Lai, th́ thường phải nên giúp cho hữu t́nh có được lợi ích, an lạc như vậy.

Bấy giờ A-nan từ ṭa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính, bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Kinh này tên ǵ, chúng con cung kính gọi như thế nào?” Phật bảo A-nan: “ Kinh này được gọi bằng nhiều tên là Dược Sư Lưu Li Quang Như Lai bản nguyện công đức, Chấp Kim Cang bồ-tát nguyện yếu ḱ, Thập nhị thần tướng nhiêu ích hữu tịnh kết nguyện thần chú, cũng là Bạt trừ nhất thiết nghiệp chướng. Ông nên kính gọi các tên như thế.

Nghe Phật Thế Tôn nói kinh này xong, các đại bồ-tát, các hàng thanh văn, quốc vương đại thần, hàng bà-la-môn, cư sĩ tại gia, trời rồng dược-xoa, thần càn-thát-bà, thần a-tu-la, thần yết-lộ-trà, thần khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhân và phi nhân vui mừng tin nhận, cung kính thực hành.

Nam-mô Dược Sư hải hội Phật bồ-tát (3 lần)

 

 

[1] Chú khởi thi: một loại thần chú sai khiến tử thi đứng dậy đi giết người.

[2] Châu-đổ: gọi đủ là Châu-đổ-la

[3] T́-yết: gọi đủ là T́-yết la

[4] Chú khởi thi: một loại thần chú sai khiến tử thi đứng dậy đi giết người.

[5] Châu-đổ: gọi đủ là Châu-đổ-la

[6] T́-yết: gọi đủ là T́-yết la


 


-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Uploaded / Updated on 2024-10-12

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0