| 
	 VT0291  
	 
	QUYỂN 1   QUYỂN 2   QUYỂN 3   QUYỂN 4 
	KINH NHƯ LAI HƯNG HIỂN 
	 
	Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Trúc pháp hộ, đời Tây Tấn. 
	Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh 
	QUYỂN 1 
	Nghe như vậy:  
	–Một thuở nọ, Đức Phật du hóa tại cõi nước mà Như Lai kiến lập. Đức Phật hiển bày Pháp thân thâm diệu an lạc chiếu kiến khắp cả các lầu gác cung điện, đó là cung điện Lưu ly tạng (Đại quang minh tạng) trang nghiêm và rực sáng là chốn hành hóa của Như Lai. Lúc ấy, Đức Phật hưng khởi ra vô lượng đạo lộ ánh sáng làm cung điện pháp giới. Ánh sáng Pháp thân ấy tự quán chiếu khắp trùm Pháp thân và tòa Sư tử của chư Bồ-tát, đồng thời bao hàm tất cả pháp thể Bồ-tát làm đại pháp tòa, tuyên bày khắp pháp giới. Thánh chỉ của Như Lai duyên với hư không giới, hành không chướng ngại, hiểu rõ bản tế Thánh tuệ, thấu giải Phật tuệ, phân minh Thánh đạo. Quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật đều cùng một Pháp thân bình đẳng. Tất cả các hành của chư Phật đều hành bình đẳng với sức thần thông không chướng ngại. Pháp thân tuệ thể của chư Phật rốt ráo vô tướng. Với pháp độ vô cực (pháp Ba-la-mật), chư Phật đi khắp pháp giới, không có sự vọng hành, nhiệm mầu vô hạn mà làm bậc Tối chánh giác. Như vậy chư Phật đều vượt qua các tâm hành, không còn sự che lấp cửa giải thoát do năm ấm. Pháp giới ấy rộng khắp như hư không, vì Như Lai thường du hành mười phương cõi nước chư Phật vô lượng, vô biên, không một chỗ nào mà không thấy biết. Trăm ngàn vạn ức na-do-tha chư Bồ-tát nhiều như vi trần số, tất cả chư vị đều là những bậc Nhất sinh bổ xứ.  
	Mỗi vị đều ở trong cõi nước chư Phật khác nhau, chí nguyện vô hạn, làm theo trí tuệ. Mỗi vị cũng đều nhập vào pháp giới bình đẳng không hề hư hoại. Cõi giới của các vị là sự vô hạn của không giới, không chỗ sở đắc, không thấy hành trung đạo, không thấy có tự nhiên, cũng không chỗ sinh diệt, tỏ rõ tất cả các pháp cũng là như vậy. Thân chúng Bồ-tát không chỗ động xả, đạt đến các thông tuệ, biến khắp các Phật quốc mà không chỗ khởi niệm. Ở trong Phật đạo tuân theo trí tuệ Như Lai, hiện tại đạt đến ánh sáng sáng tỏ rốt cùng, đi chỗ đi của bậc Đại Thánh, không thấy có sự chuyển động. Trí tuệ trên một thân mà hiện ra chỗ hành vô lượng thể, trùm khắp trong pháp giới vô hạn, khéo phân biệt rõ ràng cảnh giới chúng sinh cho đến quả Không thoái chuyển. Các Bồ-tát ấy đều đạt đến bản tế, pháp giới không gốc đã diệt sạch tự ngã, thân thường nhu thuận, không chỗ sợ hãi. Như Lai chiếu sáng tất cả thiện căn vì các đồ chúng.  
	Những vị ấy là: Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Phổ Xưng Tôn, Bồ-tát Như Lai Tộc Tánh Thành Thủ, Bồ-tát Kim Cang Tràng Anh, Bồ-tát Vô Cái Nguyệt Tịnh, Bồ-tát Nhật Quang Ly Cấu Tạng, Bồ-tát Đại Thần Thông Biến Động, Bồ-tát Ly Cấu Quang Thủ Thập Phương Tinh Tấn Vương Đại Sư Tử Ngu Lạc Thần Thông… Các vị Bồ-tát trong mười phương như thế không thể tính hết, như số vi trần đầy khắp trong trăm ngàn ức na-do-tha cõi Phật. Các chúng hội Bồ-tát cũng nhiều như vậy.  
	Lúc ấy, có ánh quang minh gọi là Như Lai Thánh Chỉ được lưu xuất từ giữa chân mày Đức Thế Tôn. Trăm ngàn vạn ức na-do-tha vô tận số ánh sáng chiếu tỏa vô lượng, vô biên không bờ mé. Như Lai thị hiện oai thần lực, hiển bày khắp mười phương Phật quốc thế giới chỉ dạy cho trăm ngàn ức na-do-tha vô tâïn số chúng Bồ-tát. Oai thần tức là thế giới chư Phật khiến cho tất cả các đường ác thảy đều tiêu diệt, các cung điện của ma quân đều bị che khuất. Lại có chư Như Lai thành tựu quả vị Tối chánh giác, thị hiện ra các chúng hội đạo tràng của chư Phật, làm giác ngộ cho những người chưa giác ngộ, xuất sinh các tòa ánh sáng nghiêm tịnh hiển sáng pháp giới, bậc nhất không giới, một chỗ mà trùm khắp tất cả chỗ, đạt đến cảnh giới chư Phật. Ánh sáng ấy lại trở về nhiễu quanh tất cả đạo tràng Bồ-tát, rồi thể nhập nơi đỉnh môn của Bồ-tát Như Lai Tộc Tánh Thành Thủ. Tất cả Bồ-tát và chúng hội thấy điều kỳ lạ chưa từng có như vậy nên thân tâm hoan hỷ và cho rằng ánh sáng như thế tự nhiên xuất hiện thì nhất định hôm nay phải có sự thần biến vô biên, tuyên thuyết đại pháp. Lúc ánh sáng ấy ẩn tàng thì Bồ-tát Như Lai Tộc Tánh từ chỗ ngồi ở tòa liên hoa đứng dậy quỳ gối chắp tay, nghĩ về công Đức Như Lai, dùng kệ tụng:  
	Thức những kẻ còn mê  
	Siêu vượt các Đức vương  
	Hành ấy không ngăn ngại  
	Chỗ độ thoát vô cùng  
	Đại Thánh ấy an trú  
	Bình đẳng khắp ba đời  
	Nay cung kính đảnh lễ  
	Minh triết của trí tuệ  
	Nẻo hành không hình tướng  
	Tức qua đến bờ kia.  
	Lại có sự thị hiện  
	Khéo trang nghiêm thân tướng  
	Ánh sáng lìa trần cấu  
	Diễn xuất vô lượng quang  
	Hằng phục các ma sự  
	Cúi đầu quy mạng lễ.  
	Chấn động nhiều cõi nước  
	Các cung điện quả lãnh  
	Cho đến khắp mười phương  
	Tất cả các cõi nước  
	Không để cho một người  
	Phải chịu sự sợ hãi.  
	Oai thần của Phật đạo  
	Hưng khởi cũng như vậy  
	Đều bình đẳng kiến lập  
	Ở trong hư không giới  
	Pháp giới ấy như thế.  
	Thấu đạt các cảnh giới  
	Nghiêm tịnh khắp chúng sinh  
	Na-do-tha trần số  
	Dứt sạch nơi chúng sinh  
	Tất cả mọi tội chướng.  
	Chí nguyện rất kiên cố  
	Hành dụng trăm ngàn kiếp  
	Công đức tự tích tụ  
	Thù thắng nơi Phật đạo.  
	Thấu đạt ở nhất hành  
	Thánh tuệ không chướng ngại  
	Lấy một sự tự nhiên  
	Để thực hành Phật đạo.  
	Đạo sư vì như vậy  
	Chỗ diễn phóng ánh sáng  
	Thấy khắp cõi Ta-bà  
	Không chỗ nào chẳng tỏ.  
	Thị hiện cùng khắp cả  
	Oai thần lực biến hóa  
	Thân tôi đã vào trọn  
	Trong đó tự hành dụng.  
	Nay chính vì lẽ ấy  
	Hưng khởi niệm như vầy:  
	Hôm nay chính là lúc  
	Cúi lạy Đấng Pháp Vương.  
	Vô tận số Bồ-tát  
	Đều vân tập về đây  
	Thảy muốn được nghe pháp  
	Được phân minh Pháp sự.  
	Hôm nay các chúng hội  
	Trong lắng càng lắng trong  
	Ở trong các thế giới  
	Thân cận, vâng tu tập!  
	Thánh tuệ không bờ mé  
	Cảnh giới không ngăn ngại  
	Được công đức dũng mãnh  
	Oai thần đến vô biên  
	Thị hiện bạn cõi đời.  
	Chỗ hành vượt thần tiên  
	Trí tuệ khó nghĩ bàn,  
	Vượt ngoài sức tinh tấn  
	Mà ứng hiện ánh sáng  
	Chiếu tỏa chư Bồ-tát  
	Nay đệ tử cần hỏi  
	Pháp tối thượng thù thắng  
	Nơi cảnh giới nhận lãnh  
	Sự thông đạt Đại thánh  
	Tự phóng uy sáng ấy  
	Mà thị hiện khắp cùng.  
	Bậc Đạo sư tối thượng  
	Tuyên thuyết các cõi Phật  
	Ai Thánh trong cõi người  
	Bậc Chân thật tối thượng.  
	Bồ-tát Như Lai Tộc Tánh Thành Thủ nói lời kệ khen ngợi này xong thì cũng lúc ấy, từ trong kim khẩu của Đức Thế Tôn phóng ra ánh hào quang gọi là “bất khả kế ức số chiếu minh”, chiếu khắp tất cả thế giới chư Phật không có bờ mé, rồi nhiễu quanh các Phật quốc đủ mười vòng, thị hiện oai biến Như Lai Thánh chỉ, trăm ngàn ức na-do-tha vô tận số Bồ-tát đều thấy rõ giáo sắc ấy. Thánh chỉ ấy chấn động khắp các Phật quốc cho đến các nẻo ác đều bị tiêu diệt, che lấp tất cả cung điện ma vương. Chánh giáo Như Lai bình đẳng mười phương, thị hiện đến các chúng hội, đạo tràng của chư Phật, giác ngộ người chưa giác ngộ. Ánh sáng ấy độ khắp pháp giới, bao trùm khắp tất cả hư không giới, thấu đến các Phật quốc rồi liền trở lại nhiễu quanh chư Bồ-tát và nhập vào diện môn của Bồ-tát Phổ Hiền. Lúc Bồ-tát Phổ Hiền vừa gặp ánh sánh đó thì cũng là lúc công đức, uy nhan và tòa Sư tử của Bồ-tát đều tăng lên gấp bội phần so với trước, vượt hẳn cả tòa Sư tử và thân Phật, lại còn vượt hẳn hình thể và tòa Sư tử của các Bồ-tát khác. Tòa Sư tử của Bồ-tát Phổ Hiền dáng vẻ đẹp đẽ cao lớn thù diệu, thị hiện tướng thù đặc thật là sáng đẹp.  
	Lúc ấy, Bồ-tát Như Lai Tộc Tánh Thành Thủ hỏi Bồ-tát Phổ Hiền:  
	–Thưa Phật tử! Công đức của Đại sĩ thật khó nghĩ bàn nên tất cả thế giới đều biết đến Đại sĩ hưng khởi sức đại thần biến làm Chư Bồ-tát hoan hỷ và cảm động vô cùng. Thưa Phật tử! Sự xuất hiện của Như Lai là ứng hiện điềm lành gì vậy?  
	Bồ-tát Phổ Hiền liền đáp lời:  
	–Như chỗ tôi nhớ, mỗi lúc thấy sự thị hiện biến hóa cảm động vô biên này của các bậc Bình đẳng giác thuở xưa thì lúc đó, sẽ diễn thuyết kinh điển Như Lai xuất hiện. Nay Đại Thánh vì muốn diễn thuyết nghĩa này nên thị hiện điềm lành biến hóa như vậy.  
	Bồ-tát Như Lai Tộc Tánh Thành Thủ vừa nghe đến tên kinh Như Lai xuất hiện này thì cùng lúc do sức oai thần của Phật mà đại địa chấn động. Khi đó, Bồ-tát Như Lai Tộc Tánh Thành Thủ nói với Bồ-tát Phổ Hiền:  
	–Lành thay Phật tử! Bồ-tát đã vì chư Bồ-tát Đại sĩ mà vui nhận việc tán dương sự xuất hiện thành tựu của Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác sao? Nay đây mười phương thảy đều nghiêm tịnh, trăm ngàn ức vô tận số chúng hội xưa nay khéo tu công hạnh thanh tịnh, tâm có chỗ về, trưởng dưỡng công đức đạo, khơi dòng giác tâm, diễn đại ngôn từ, siêu vượt bờ kia. Kiến lập tất cả công hạnh cùng oai đức tướng tốt Như Lai, một tâm hướng về chư Phật chưa từng quên mất. Hưng khởi đại Bi, quán nhìn chúng sinh cùng chư Đại Bồ-tát, khơi tỏ thần thông, biết rõ tất cả sự tinh cần của Như Lai, tự thân luôn vắng lặng và luôn được nghe tất cả pháp âm Thánh diệu của chư Phật tuyên thuyết. Các vị như vậy là công đức vang danh, bình đẳng dứt trừ tất cả sự thương ghét, chẳng kể thân sơ, làm cho chư Bồ-tát ấy đều vân tập đến.  
	Thưa Phật tử! Bồ-tát đã từng cúng dường, lễ bái, tham vấn, thọ giáo nơi trăm ngàn ức na-do-tha vô tận số chư Phật và hẳn nhiên đã từng siêng năng thi hành trì hạnh Bồ-tát, đắc đại thần thông và các môn Tam-muội. Thần thông pháp lạc ấy đều thể nhập vào tạng bí mật của Như Lai; dứt trừ các sự hồ nghi, và nhập vào sức tinh tấn vô úy của Như Lai. Thấu suốt tất cả căn tánh của chúng sinh và tin chắc vào chân đế giải thoát mà tuyên thuyết kinh điển, đạt Như Lai chủng, ấy là chỗ về của Thánh tánh. Tuyên thuyết tất cả pháp đạo rốt ráo Đệ nhất nghĩa của chư Phật, chứng đắc và độ thoát vô lượng, vô biên. Các việc như vậy và công đức thù đặc không thể lường tính.  
	Lành thay! Phật tử! Bồ-tát đã nguyện tuyên thuyết về chỗ thị hiện của Như Lai, ngôn âm diễn thuyết rộng khắp, chỗ có thể diễn thuyết là các cảnh giới tâm niệm hiện hành, ngợi khen các hành giả, thành tựu Tối chánh giác, chuyển đại pháp luân, xiển dương Phật pháp, thị hiện diệt độ, hiển bày tất cả đức bản và công hạnh của Như Lai.  
	Lúc ấy, Bồ-tát Như Lai Tộc Tánh Thành Thủ muốn giải nghĩa rõ ràng về chỗ sở quy một lần nữa, tức vì Bồ-tát Phổ Hiền mà nói kệ tụng:  
	Chỗ về không nhóm họp  
	Rõ thật tướng là giác  
	Trí tuệ ấy vô thượng  
	Bình đẳng lìa trần cấu.  
	Khen ngợi Bậc Tối thắng  
	Chỗ hành không giới hạn  
	Nghe pháp âm của Ngài  
	Tất cả đều phấn chấn.  
	Thù thắng của Bồ-tát  
	Làm thế nào hưng khởi?  
	Cho nên được chỗ về  
	Làm sao đạt chân thật?  
	Pháp âm của Như Lai  
	Thế nào là thân tâm?  
	Cảnh giới hành hóa ấy  
	Đại xưng ấy thế nào?  
	Sao gọi là chư Phật?  
	Gọi là lời Như Lai.  
	Sao gọi là Tối thắng?  
	Mà chuyển bánh xe pháp  
	Nguyện giảng sự an trú  
	Đạo quả của Niết-bàn  
	Những vị được an vui  
	Vô lượng chư Phật tử.  
	Ở khắp cả mười phương  
	Đại Pháp vương an trú  
	Tất cả chư chúng samh  
	Chỗ về của công đức.  
	Phước lạc những người ấy  
	Đại Thánh vì họ thuyết  
	Duyên gì thấy đạo ấy?  
	Làm sao được an trú?  
	Thế nào được nghe biết?  
	Danh hiệu của Như Lai  
	Chưa từng được tìm thấy  
	Các đại Thánh diệt độ  
	Giả sử tâm hoan hỷ  
	Cung kính với Thánh tôn  
	Xin rủ lòng dạy cho  
	Nhân nào thành đại tâm?  
	Nay vì hỏi điều này  
	Được đại nhân thanh tịnh  
	Vì nói chỗ phụng hành  
	Biển lớn của đại đức.  
	Quán thấy chư Bồ-tát  
	Tất cả đều chắp tay  
	Hỏi Phật và Hiền giả.  
	Cùng hỏi tôi phận mọn  
	Phải vì những vị ấy  
	Nói pháp báu thanh tịnh  
	Vì đoạn các hồ nghi  
	Được tuệ lớn không lường.  
	Vì họ dẫn ví dụ  
	Thị hiện chủng tánh Phật  
	Nếu chúng sinh nghe nhận  
	Phát đạo tâm thanh tịnh  
	Làm cho các cõi Phật  
	Trùm khắp không gì ngoài  
	Chư Phật thị hiện khắp  
	Bằng vô số thân hình  
	Biết giác pháp, thanh tịnh  
	Diễn nói hợp thời cơ  
	Nhân đó nên ví dụ  
	Mà thị hiện tuyên thuyết.  
	Na-do-tha Phật quốc  
	Khắp mười phương trăm ngàn  
	Ức bách na-thuật số  
	Vô lượng không thể lường  
	Khó có thể thấy gặp  
	Các Bồ-tát như thế  
	Như hôm nay vân tập  
	Thắng tự tại như vậy  
	Nên nguyện thuyết cho họ  
	An trú hạnh thanh tịnh  
	Do đó xiển dương rộng  
	Tộc tánh của Như Lai.  
	Chư vị Bồ-tát ấy  
	Tất cả chắp tay đứng  
	Muốn chí cầu pháp đạo  
	Khát ngưỡng nơi kinh điển.  
	Bồ-tát Phổ Hiền vì nhân duyên thỉnh hỏi của Bồ-tát Như Lai Tộc Tánh Thành Thủ nên nói khắp cho tất cả chúng Bồ-tát:  
	–Thưa các Tối thắng tử! Trụ xứ của chư Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác là không thể nghĩ bàn nên diễn bày sự hưng khởi của các vị cũng khó nghĩ bàn, sự tuần tự diễn bày pháp đạo cũng không thể suy lường. Như Lai thị hiện sự hưng thịnh lồng lộng như vậy. Tuy vì một việc mà không vì một việc và tất cả đều quy hướng về đạo. Vì sao? Thưa Phật tử! Có mười việc mà vô lượng pháp đều quy về trăm ngàn công đức không thể kể xiết, sở hành tu tập đều đạt đến ngôi vị Như Lai. Những gì là mười?  
	1.     Đạo tâm vô lượng, thu giữ khắp cả tâm niệm chúng sinh, quá khứ xa xưa đã từng tích lũy tâm niệm thiện hạnh.  
	2.     Chí tánh vô ngại, xưa nay thanh tịnh, nhóm họp vô cực.  
	3.     Đại Từ đại Bi vì các đường ác mà cứu độ chúng sinh.  
	4.     Nguyện hành vô tận không hề gián đoạn.  
	5.     Phước tuệ vô cực huân tập không chán, công hạnh luôn quay về.  
	6.     Giáo hóa chúng sinh bằng Phật tạng vô biên.  
	7.     Cũng vì các nẻo mà khéo biết rõ thanh tịnh.  
	8.     Vô lượng phương tiện quyền xảo của trí tuệ.  
	9.     Phụng hành vô lượng công đức, pháp đạo vô hạn, huân tập Thánh trí.  
	10.    Thông đạt trọn vẹn tạng kinh điển pháp nghĩa không bờ mé.  
	Cho nên, này Phật tử! Mười pháp hành ấy là đầu mặt của pháp. Đã hội đủ mười điều không thể nghĩ bàn này thì trăm ngàn vô lượng hàng quyến thuộc đều được quay về với Như Lai. Này Phật tử! Ví như trong ngàn thế giới sở dĩ có tên gọi ấy không phải vì một yếu tố hợp thành mà vì vô lượng nhân duyên mới hợp thành. Cũng như đám mây hợp thành rồi đổ mưa xuống tạo nên thời tiết. Có bốn nguyên nhân làm nên việc này:  
	1.     Gió thổi hiu hiu, phiêu diêu khắp nơi, gió ấy gọi là Chấp ngự, trong môi trường ngọn đại phong này có chứa nhiều nước nên nó chủ đạo về việc tuôn mưa.  
	2.     Có ngọn gió gọi là Khô kiệt tức là luôn làm tiêu tan hơi nước.  
	3.     Có ngọn gió gọi là Trụ lập, tức tạo lập tất cả các cung điện.  
	4.     Có ngọn gió gọi là Trang nghiêm tức làm cho tất cả chúng sinh thọ hình thể ở tam thiên thế giới thì tội phước của họ thảy đều tiêu dung.  
	Chư Bồ-tát thành tựu công đức cũng là như vậy, không thể hạn lượng, không thể nghĩ bàn. Cũng như bao nhiêu yếu tố lập nên tam thiên thế giới mới có các pháp thì cũng không thể biết được rõ ràng số lượng, gốc ngọn, đầu cuối của vô vàn nhân duyên, cũng không thể nhìn thấy, cũng không thể thấy tận nguồn gốc của nó. Cho nên, này Phật tử! Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác không vì một sự, không vì một nghĩa mà thị hiện.  
	Lại nữa, từ xưa chư Như Lai trước tiên đã từng hưng khởi mưa pháp rộng khắp, tâm luôn hành hóa mà không biết chán mệt, chí tánh kiên cố, luôn giữ gìn chẳng hề quên mất, không hề loạn động, quán chiếu tịch nhiên. Các vị luôn dùng trí tuệ làm đạo tràng, làm khô cạn tất cả trần lao ái dục, khuyến dụ huân tu, gieo trồng gốc đức mà khéo tiến lên, tiêu trừ kiêu mạn, thấu đạt rõ ràng các hành thanh tịnh, giảng thuyết dạy dỗ về công đức thanh tịnh cho chúng sinh. Công đức của Như Lai là nguồn đạo vô lậu nên đem lại những điều như vậy cùng ngôi vị Chí chân Chánh giác, thấu đạt các pháp. Ở cảnh giới ấy mà chưa thị hiện ra tất là nhập vào cửa thứ nhất là nẻo hành hóa của Bồ-tát đi đến chỗ hưng hiển của Như Lai.  
	Lại nữa, này Phật tử! Ví như tam thiên thế giới hưng khởi lên đám mây rộng lớn gọi là Bất khả hoại, đủ duyên thì mưa xuống. Ngoài mặt đất ra thì không gì có thể hứng chịu nước mưa ấy, chỉ có thế giới ba ngàn lúc gặp nước mưa đó mới lưu biến được. Cũng vậy, thưa Đại sĩ! Pháp giới chư Phật cũng có hồ chứa pháp trạch rộng lớn gọi là Vô hoại, tức là Phật chủng bất đoạn của chư Như Lai cùng các Thánh sĩ hợp lại, còn tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác không thể nhận lãnh, thọ trì, phụng hành được. Chỉ có chư Bồ-tát mới đủ năng lực lớn để thừa sự với tâm vô úy, thệ mặc áo giáp công đức, đó là cửa thứ hai.  
	Lúc đó, Bồ-tát nói kệ tụng:  
	Nghe rõ khắp mười phương  
	Tất cả trên thế gian  
	Không thể nào sánh được  
	Như sánh với hư không.  
	Chỗ hành của Đạo sư  
	Vô lượng không bờ cõi  
	Công đức đã biến khắp  
	Không thể tính đếm được.  
	Giả sử tư duy Phật  
	Do chỗ tâm niệm khởi  
	Các vị mười Lực ấy  
	Công đức không hạn lượng.  
	Lời nói của mọi người  
	Ngàn ức kiếp khen ngợi  
	Sư tử hùng vô biên  
	Cõi đời không có hai  
	Khắp mười phương tất cả  
	Vô số cõi nước Phật  
	Đều nghiền nát thành bụi  
	Kiếp số như bụi ấy  
	Ngàn ức lần như vậy  
	Nói về chư Mười Lực  
	Công đức bằng mảy lông  
	Cũng không thể nói hết.  
	Giả sử có một người  
	Muốn đo lường hư không  
	Cũng vậy người thứ hai  
	Tính nhanh các thọ tướng  
	Vô lượng không thể tính  
	Hư không không thể lường  
	Nên biết các mười Lực  
	Hành như vậy vô hạn.  
	Như người trong ba đời  
	Đều ở trong tam giới  
	Tính số lượng chúng sinh  
	Chỗ hành niệm của tâm  
	Trong khoảnh khắc tâm niệm  
	Đều biết rõ phần số  
	Mọi tư tưởng quần mê  
	Chốn niệm của thần thức  
	Thì cũng như pháp giới  
	Không hề có bờ mé  
	Cũng không thấy tất cả  
	Chỗ về của pháp giới.  
	Mười Lực cũng như vậy  
	Nẻo hành không hạn lượng  
	Tất cả, không tất cả  
	Pháp giới là tự nhiên.  
	Giống như cơn mưa lớn  
	Tên là Bất khả hoại  
	Nếu đức không thọ lãnh  
	Thì thủy tai vây bọc  
	Phật diễn hồ vô cực  
	Tiểu thừa không chịu nổi  
	Chỉ Bồ-tát thừa sự  
	Ban rải ở khắp nơi.  
	Không gốc như không gốc  
	Vắng lặng không hai tưởng  
	Vĩnh viễn không sinh diệt  
	Là bình đẳng rộng khắp  
	Trên thế gian tất cả  
	Cảnh giới cũng như vậy  
	Vốn bình đẳng tự nhiên  
	Đã thoát ngoài lợi hại  
	Giống như bản tế ấy  
	Chân bản tế không bờ  
	Ba đời là bình đẳng  
	Giải thoát khắp tất cả  
	Đều thương xót như vậy  
	Là nẻo hành Đạo sư.  
	Cùng ở khắp ba đời  
	Tất cả không ngăn ngại  
	Bản tế không tạo tác  
	Không tạo lẽ tự nhiên  
	Vốn tịnh như hư không  
	Không bẩn, không trần lao.  
	Bậc Tối thắng hiển bày  
	Tất cả đều nghiêm tịnh  
	Bỏ hết làm, không làm  
	Dứt sạch việc có không  
	Phóng hiện các ngôn âm  
	Cùng tất cả phát âm  
	Dứt ý niệm đi về  
	Diệt độ không chốn có.  
	Chư Mười Lực như thế  
	Với pháp luôn tự tại  
	Tất cả lời vô thanh  
	Cũng không thể nắm giữ  
	Tịch tỉnh cũng như vậy  
	Liễu rõ tất cả pháp  
	Như dấu chim trong không  
	Hoặc như đá trong không.  
	Duyên là chỗ thệ nguyện  
	Mà thị hiện sắc không  
	Tự quán các mười Lực  
	Chỗ biến hóa Tối thắng,  
	Giả sử muốn vào đó  
	Cõi Tối thắng như vậy  
	Phải chí niệm tuân đạo  
	Chí tánh ấy tự tịnh  
	Điều phục các tư tưởng  
	Ở nơi niệm vô niệm.  
	Như dấu chim trong không  
	Tâm vào đâu cũng vậy  
	Cho nên đã an trú  
	Tỉnh nơi Đạo sư hành  
	Nghe chỗ nói của tôi  
	Nêu rõ các ví dụ.  
	Nói về chư Mười Lực  
	Công đức không cùng tận  
	Huống gì nói nghĩa ấy  
	Giảng nói về Thánh tôn  
	Như loài chúng sinh kia  
	Tự nhiên hành hết mình  
	Không thể tính, nghĩ bàn  
	Chỗ hành các Đạo sư  
	Cảnh giới của mười Lực  
	Phật đạo tự tại chuyển  
	Thành tựu các gốc đức  
	Nghe nói thảy công đức.  
	Nay hiện làm cõi người  
	Nghĩ và làm không khác  
	Chưa từng nghĩ lãnh chịu  
	Nương nhân duyên hội tụ  
	Ngôn âm ngàn ức cõi  
	Phật nói khế hợp khắp.  
	Sở dĩ có ngôn thuyết  
	Vì có cõi tam thiên  
	Trên cõi người như thế  
	Những việc ấy tự nhiên  
	Công đức khó diễn bày  
	Chỗ biến khắp như vậy  
	Có thể biết số lượng  
	Tất cả niệm chúng sinh  
	Khó biết bậc thị hiện  
	Tự nhiên trong sở hành.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như cơn mưa đó không từ đâu đến, chẳng đi về đâu mà có sự thấm nhuần. Đó là do chúng sinh có tội phước khác nhau nên thấy có sự đến đi vậy thôi.  
	Cũng thế, này Phật tử! Các Đức Như Lai hóa đạo cũng không từ đâu đến, không đi về đâu mà có ra cơn mưa pháp, chỉ do các oai lực nơi gốc đức của chư Bồ-tát mà hiện ra tướng hóa đạo ấy. Đó là việc thứ ba.  
	Bồ-tát nói kệ tụng:  
	Như mưa không đâu đến  
	Cũng chẳng đi về đâu  
	Phật giáo hóa tất cả  
	Không đến cũng không đi.  
	Lại nữa, này Phật tử! Ví như cơn mưa lớn ở tam thiên thế giới rơi vào thân mọi người thì họ không thể tính đếm được số giọt mưa ấy. Giả sử, ở một cõi Phật hưng khởi cho chúng sinh tư niệm về một hồ chứa rộng lớn thì mắt tâm của họ bị choáng ngợp, chỉ có Thiên tử Vũ Tôn chủ nhân về việc này trong tam thiên thế giới mới biết hết số lượng hạt mưa ấy không sót một giọt, đó là do gốc đức của đời trước đã từng đạt đến. Cũng vậy, thưa Đại sĩ! Tất cả chúng sinh, Thanh văn, Độc giác thì không thể tư duy biết rõ hồ pháp rộng lớn của Như Lai, chỗ khởi niệm của họ không thể theo kịp với đại tâm Như Lai. Giả sử có nghe cái đại tâm ấy thì cũng sẽ bị mê hoặc che lấp, chỉ có những chúng sinh tôn Bồ-tát đại nhân đã từng khéo tu đạo nghiệp ở đời Phật quá khứ, được oai lực vô thượng thì mới có thể biết được. Đó là việc thứ tư.  
	Bồ-tát nói kệ tụng:  
	Giả như có mưa lớn  
	Khắp ba ngàn cõi Phật  
	Chỉ Tôn Thiên tử biết  
	Ngoài ra không thể rõ  
	Kể cả hết thảy thừa  
	Thanh văn và Duyên giác  
	Không hiểu mưa Phật pháp  
	Chỉ Bồ-tát mới thông.  
	Lại nữa, này Phật tử! Lúc mây lớn nổi lên, lại có cơn mưa tên là Diệt trừ, nó làm tiêu diệt tất cả lửa đốt; lại có mưa lớn tên là Quán loạn, nó làm tiêu hoại nạn thủy tai; lại có cơn mưa gọi là Đoạn tuyệt, nó làm diệt trừ các loại gió; lại có mưa lớn tên là Hoại bại, nó hủy hoại các vật báu; lại có cơn mưa lớn gọi là Tiêu lạn, nó làm tiêu nát tam thiên thế giới. Cũng vậy, Như Lai thị hiện ra ở đời có đại mưa pháp tên là Diệt trừ để nêu bày hồ nước pháp, tiêu trừ tất cả trần lao ái dục; lại có đại mưa pháp tên là Tích nghiệp, nhằm tuyên diễn hồ nước pháp để tích lũy tất cả các gốc đức; lại có đại mưa pháp tuyên diễn hồ nước pháp gọi là Quyên thích, nhằm đoạn trừ tất cả sáu mươi hai tà kiến; lại có đại mưa pháp làm rõ hồ nước pháp khắp gọi là Hoại bại, khiến cho trí tuệ của tất cả các pháp được thành tựu; lại có đại mưa pháp diễn bày hồ nước pháp gọi là Tiêu hóa, hóa diệt tất cả chốn hành nơi tâm chí. Đó là việc thứ năm.  
	Bồ-tát nói kệ tụng:  
	Như mưa trừ diệt lửa  
	Có mưa hoại thủy tai,  
	Có mưa đoạn tuyệt gió,  
	Và mưa hủy núi báu.  
	Như Lai thị hiện đời  
	Diệt tất cả tham dục  
	Tích lũy các gốc đức  
	Trừ sáu hai tà kiến.  
	Mưa pháp khắp mười phương  
	Thành tựu tất cả tuệ  
	Hóa chí tánh chúng sinh  
	Khiến thuận theo Chánh giác  
	Không tham luyến bốn đại  
	Ba cõi không tự tánh  
	Tự nhiên từ vô lượng  
	Ba đạt không ngăn ngại.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như nước mưa chỉ có một vị mà tưới nhuận vô hạn, thấm nhuần cùng khắp. Như Lai cũng vậy, dùng một tâm đại Bi mà mưa ra tất cả hồ nước pháp cùng khắp, tới tận vô biên, đạt đến Đại Thánh, cho nên gọi là Như Lai hiển hiện phân minh vô lượng pháp. Đó là việc thứ sáu.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Như nước mưa một vị  
	Mà thấm ướt cùng khắp  
	Như Lai cũng như vậy  
	Bình đẳng không nghiêng lệch.  
	Dùng một tâm đại Bi  
	Mưa xuống khắp mọi người  
	Pháp trạch thật vô biên  
	Đem hết về đạo lớn.  
	Lại nữa, này Phật tử! Cũng như lúc tam thiên thế giới hình thành, trước hết hoàn thành thân các Thiên tử và các cung điện của cõi Sắc, thứ đến hoàn thành con người và chỗ ở của cõi Dục, sau đó thành tựu các loài chúng sinh. Như Lai xuất hiện ở đời cũng vậy, trước hết thành tựu trí tuệ chư Bồ-tát, sau đó diễn bày tuệ hạnh Duyên giác, thứ nữa mới hiển thị chốn hành gốc đức của trí tuệ Thanh văn, sau cùng mới chỉ bày chỗ hành trí tuệ nhóm họp gốc thiện cho tất cả chúng sinh khác. Đạo pháp chỉ một vị mà tùy theo sở thích, chỗ hành gốc đức, chỗ ở nhà cửa, xứ sở cung điện của mỗi một chúng sinh mà hiện ra mỗi một loại hoặc hiện ra mặt trái của sự tiện dụng. Pháp vị của Như Lai cũng như vậy, tùy theo trình độ chúng sinh và chỗ gieo trồng gốc đức mà tự nhiên hiển bày tuệ hạnh. Đó là việc thứ bảy.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Như trước lập thiên cung  
	Sắc giới, Vô sắc giới  
	Sau đó mới hình thành  
	Cung điện của dục giới  
	Sau mới thành mặt đất  
	Muôn dân và xứ sở  
	Tất cả loại chúng sinh  
	Các rồng, Kiền-đạp-hòa.  
	Mười Lực cũng như vậy  
	Vốn hợp với tự nhiên  
	Tu hành không bờ mé  
	Oai nghi từ Bồ-tát  
	Sau mới thật tịch nhiên  
	Nhân duyên mà được thành  
	Thứ đến được tự tại  
	Mới sống cùng chúng sinh.  
	Các giọt mưa rơi xuống  
	Không xanh cũng không vàng  
	Nước thì thấm vào đất  
	Do vô số duyên sinh.  
	Và nhờ đất mới thành  
	Sinh cây cỏ núi rừng  
	Nước ấy không những thế  
	Còn tạo nhiều địa chủng.  
	Đạo sư ở chân lý  
	Trí tuệ là Thánh đạt  
	Bi tuệ như hư không  
	Cầm nắm các phương tiện.  
	Như pháp Bậc Tối thắng  
	Vào đó tức cúng dường  
	Trí tuệ rời cấu nhiễm  
	Thân ấy không chỗ trụ.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như lúc hưng khởi thủy tai ngang bằng với hư không, trong thế giới ba ngàn hiện ra hoa sen tên là Thành đức bảo, tự nhiên sinh vô số loại làm che lấp nạn thủy tai ấy và chiếu khắp thế gian. Giả sử lúc hoa sen tự nhiên xuất hiện có, Thiên tử Đại Tôn và trời Tịnh cư thấy được cũng hoa sen ấy thì biết trong kiếp ấy phải có bao nhiêu bậc Bình đẳng giác xuất hiện ở đời. Ở đó có gió tự nhiên tên là Hiển diệu, lúc thổi lên khắp cùng thì nhà cửa cung điện của Thiên tử nơi Dục giới được thành lập. Lại có ngọn gió tên là Tịnh hiển minh, nó làm an ổn, thanh khiết và thành lập nhà cửa cung điện của Thiên tử Dục hành. Lại có ngọn gió gọi là Nhất loại, không hủy hoại mà còn thành lập núi Đại thiết vi, núi Kim cang. Lại có ngọn gió gọi là Đặc tôn, mỗi khi nó thổi lên thì thành lập núi chúa Tu-di sơn. Lại có ngọn gió tên là Trường lập, mỗi khi nó thổi lên thì thành lập bảy núi chúa Đại bảo. Đó là:  
	1.     Âm-đồ-lợi.  
	2.     Ý-thử-sơn-kỳ-lợi.  
	3.     Trừ hại bảo.  
	4.     Trừ-ưu-đà-la.  
	5.     Thoát hóa Dân-tùy-la.  
	6.     Mục-lân đại-mục-lân  
	7.     Hương sơn băng sơn.  
	Lại có ngọn gió tên là Thiện trú, mỗi khi thổi lên thì thành lập đại địa; lại có ngọn gió tên là Nghiêm tịnh, thành lập nhà cửa cung điện của chư Thiên Du địa, Thiên, Long, Kiền-đạp-hòa; lại có ngọn gió tên là Vô tận ý, thành lập và lưu thông tất cả vực sâu đáy biển trong tam thiên thế giới; lại có ngọn gió tên là Chiếu minh tạng, thành lập Bảo châu như ý khắp thế gian, lại có ngọn gió gọi là Kiên cố căn, mỗi khi thổi lên sẽ thành lập vỏ thân cây. Như vậy thưa Đại sĩ! Nước cơn mưa ấy chỉ là một vị, nước kia không hề tưởng nghĩ là nó hình thành vô số các pháp tự nhiên, nhưng vì chỗ biết và gốc đức của chúng sinh nên thấy các pháp có sự sinh diệt. Như các gió ấy, dùng nhiều loại gió mà phân biệt biết rõ tam thiên thế giới. Đức Như Lai Chánh chân Đẳng Chánh Giác sở dĩ mang lại tất cả gốc đức, thành tựu trí tuệ vô thượng, vô cực của các pháp, là vì làm đầu mặt cho cõi đời không để cho đoạn mất. Tánh Như Lai sáng bày vô cực, ánh sáng oai thần chiếu khắp thế gian không một chỗ nào mà không soi thấu. Lúc thấy ánh sáng ấy mỗi một chúng sinh đều phải chí tâm quy hướng Như Lai. Lại nữa, Đại Thánh cùng chư Bồ-tát không hề ngăn ngại, mỗi một đều tự nghĩ: “Hôm nay chư Như Lai sở dĩ hưng hiển là vì giáo hóa chư Bồ-tát nên hiện thân ở đời. Các vị diễn thuyết phân minh, trí tuệ bình đẳng và tánh chư Phật thanh tịnh lìa cấu nên hưng khởi ánh sáng này”. Như Lai gồm đủ ánh sáng đạo tuệ vô lậu gọi là Phổ chiếu, ánh sáng này tỏ rõ chủng tánh Chánh giác, trí tuệ pháp giới chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Lại có ánh sáng tên là Tổng trì mang đến oai lực bất động và sự hưng hiển không gì sánh kịp của Như Lai. Lại có ánh sáng gọi là Siêu việt nên mang lại trí tuệ vô úy và sự hưng hiển không có gì hơn của Như Lai. Lại có đạo ánh sáng gọi là Nhất thiết thông mang lại các thông tuệ không gì là không thuận theo sự giáo hóa ấy. Có đạo ánh sáng gọi là Hoại kiêu mạn, làm cho chúng Thanh văn thấy được gốc công đức, không chỗ hư vọng, không có khiếm khuyết và không hề dính mắt của chư Như Lai. Có tuệ ánh sáng gọi là Phổ đức làm cho tất cả chúng sinh lúc thấy được Phật đều phải quay về và được phước tuệ vô tận cũng như vậy. Có tuệ ánh sáng gọi là Viễn trung gian, tức Như Lai dùng trí tuệ thông diệu ấy để nhóm họp quy hướng tất cả đến pháp đạo Tam bảo, không cho đoạn tuyệt. Có tuệ ánh sáng gọi là Nhược can chủng trang giáo nghiêm tịnh, tức là Như Lai dùng ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp mang lại sự đầy đủ và vui sướng cho khắp tất cả chúng sinh. Lại có tuệ ánh sáng gọi là Vô đẳng luân, tức là Như Lai dùng ánh sáng ấy hóa độ tất cả bằng pháp điển, vào nơi cõi Phật, thọ mạng vô lượng ngang bằng hư không đến chỗ rốt ráo không cùng cực. Như vậy thưa Đại sĩ! Mưa pháp của Như Lai chỉ là một vị tuệ, Như Lai không chỗ tưởng nghĩ, chỉ bày Bồ-tát thành tựu pháp đạo, biết rõ căn tánh chúng sinh mà vì họ thuyết kinh pháp. Trí tuệ Như Lai bình đẳng tất cả, ánh sáng Thánh đạo không hề biện biệt, cho nên Như Lai xuất hiện ở đời.  
	Này Phật tử! Xem đó thì biết Như Lai đem đến một vị giải thoát, hiển hiện phân minh, công đức thanh tịnh không có hạn lượng, không thể nghĩ bàn, làm cho tất cả chúng sinh đều được thấu rõ, đó là chỗ kiến lập của các bậc Đại Thánh. Lại nữa, muốn cho “không chỗ kiến lập” của Như Lai hiển hiện pháp chưa từng có và muốn khuyến hóa ban bố cho một người đến chỗ vô thượng thì đó là sự hiển hiện đầy đủ gốc đức của Như Lai nếu có thể hiểu rõ và tưởng nghĩ về trí tuệ cùng công đức của Như Lai để được chứng đạt là điều chưa từng có. Thánh chỉ Như Lai siêu vượt các pháp nên vì chúng sinh mà phân biệt hiển hiện làm cho họ nhập vào nghĩa này, tỏ rõ pháp sáng không biết chán đủ. Như Lai không có các tưởng, không chỗ niệm khởi, không có sở đắc, cũng không mang đến, không chỗ tạo tác cũng không phải không tạo tác, không có tác giả cũng không từ đâu đến thì đấy mới là sự hưng hiển của Như Lai. Đó là việc thứ tám.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Như hoa sen sinh ra  
	Biết Phật hiện ở đời  
	Chư Thiên đều hoan hỷ  
	Từng thấy Phật quá khứ.  
	Nhìn thấy nước ở đây  
	Cung điện đều sáng trong  
	Đời nay không lâu nữa  
	Đều sẽ có cõi nước  
	Ánh sáng Phật chân thiện  
	Ấy vốn là điềm lành  
	Chỗ niệm của Bồ-tát  
	Không gì không biết rõ  
	Tuệ thức ấy thanh tịnh  
	Thân tinh khiết không bẩn  
	Mười Lực cứu chúng sinh  
	Niệm hành các cõi Phật  
	Rõ tất cả trong đời  
	Chỗ tạo nghiệp vô lượng.  
	Như nương ở trên đất  
	Đất biểu hiện nơi nước  
	Đều ở tại hư không  
	Đó là đại cung điện  
	Lưỡng túc cùng Tứ túc  
	Chúng sinh cùng quy hướng  
	Tôn quý trong cõi người  
	Đã đạt ngôi Pháp vương  
	Vì tất cả mọi loài  
	Chúng sinh đều nương nhờ  
	Nhìn thấy hoặc được nghe  
	Đều tôn sùng hầu hạ  
	Phá tan trần ái dục  
	Chỗ nương nghiệp chúng sinh  
	Trên đến trời Phạm thiên  
	Đều không có bờ mé  
	Ai đã vì chúng sinh  
	Mà muốn an vạn loài  
	Không gặp sáng vì mê  
	Mà cầu nơi trí tuệ  
	Không thí dụ mà dụ  
	Nên Tối thắng thị hiện.  
	Lại nữa, này Phật tử! Ví như trong hư không tạo nên bốn thứ gió luôn nắm giữ nước. Những gì là bốn?  
	1.     Trụ phong.  
	2.     Khởi phong.  
	3.     Ngự phong.  
	4.     Kiên cố phong.  
	Đó là bốn loại gió nắm giữ nước trong hư không. Đất ở trên nước chẳng lay động, đó gọi là địa lực. Nước ở trong gió, gió khởi lập ở hư không, hư không thì không chỗ trú, vì không chỗ trú nên có tất cả các xứ sở ở khắp tam thiên thế giới. Giả sử Như Lai xuất hiện, kiến lập gồm đủ ở đời không hề ngăn ngại. Sự sáng suốt của trí tuệ gồm có bốn bộ, tuệ trường vô cực, nắm giữ tất cả gốc đức của chúng sinh.  
	Những gì là bốn?  
	1.     Dùng tuệ trường (cảnh giới của tuệ) vui thuận với chúng sinh.  
	2.     Tuệ trường kiến lập các pháp nhân duyên.  
	3.     Tuệ trường điều phục tất cả các việc và hộ trì các gốc đức.  
	4.     Trú ở cảnh giới vô lậu mà thấy tuệ trường. Đó là bốn tuệ trường.  
	Đem những điều ấy mà dạy dỗ tất cả chúng sinh, tâm đại Từ độ thoát quần mê, tâm đại Bi nắm giữ tiếng Sư tử. Vì có thể hưng lập đại Từ đại Bi này, phân biệt rõ ràng các chỗ hướng niệm của tất cả chúng sinh, trú ở phương tiện quyền xảo mà kiến lập hạnh từ, đó là hoài bảo xuất hiện của Như Lai được mãn nguyện. Lại nữa, Như Lai không chỗ ngăn ngại, sự sáng thông của Thánh đạt đều vô sở trú. Đó là việc thứ chín.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Giống như hư không giới  
	Không hề có giới hạn  
	Thọ hữu sắc, vô sắc  
	Bao dung không giới hạn  
	Tám hướng cùng trên dưới  
	Cõi Phật, các sắc thân  
	Ba cõi không ra ngoài  
	Đó là hư không giới.  
	Như vậy các Thắng thân  
	Thị hiện ở cùng khắp  
	Quán sát khắp pháp giới  
	Ở chỗ có lẫn không  
	Tôn thể của Đại thánh  
	Tất cả không thể thấy  
	Nếu thấy các Đạo sư  
	Được khai hóa theo luật.  
	Lại nữa, này Phật tử! Giống như tam thiên thế giới rộng lớn vô hạn, có vô số hạnh của các loài chúng sinh, hoặc có phương tiện đều không lìa hư không, hoặc ở trên nước, hoặc ở trên đất, hoặc Phân địa lợi đều không thể lường xét, mỗi một đều hành phương tiện quyền biến; hoặc ở trong cung điện chư Thiên, cung trời Tự Tại, hoặc tại hư không, họ vì cái không mà tự buông thả. Như vậy thưa Đại sĩ! Giả sử Như Lai hiển hiện giáo hóa, tất cả chúng sinh thấy được đều kính ngưỡng. Nếu có kẻ kính cẩn, hoan hỷ, tùy thời buông xả thì được trú vào Giác lực. Kế đến huân tập giới cấm, vui thích nghiệp lớn của Hiền thánh độ đời, thần thông tự tại trí tuệ vô tướng, thuyết không ngăn ngại, đó là cửa Thánh đạt. Tu hành như vậy thì diễn thuyết sáng tỏ, tùy ý thành tựu mà không mất báo ứng, diễn giảng sáng tỏ, dẫn đạo các pháp, nhờ đó mà giáo hóa, không chỗ quên mất. Đó gọi là sự hiển hiện giáo hóa điều phục của Như Lai mà tất cả chúng sinh thảy đều kính ngưỡng, đó là pháp mười Lực.  
	Này Phật tử! Như Lai Chí Chân Đẳng Giác vì chư Bồ-tát mà thị hiện giảng thuyết kinh pháp, có chỗ quay về không hề giới hạn, không có buông lung, cũng không hý luận. Tâm ý thức ấy có chỗ hưng phát, chỗ về vô tướng, tự nhiên như không, biết rõ chúng sinh tất là tự nhiên không thấy ta mình, chẳng có bờ mé. Tất cả cõi Phật đều chẳng có cõi, các cõi đều không, chỗ về không thoái chuyển, chẳng hề đoạn mất. Vào đời vị lai đạt đến Thánh tuệ Như Lai không chỗ vui thích cũng không ai sánh cùng, chỗ về không hai. Các pháp hữu hình, vô hình, hữu vi, vô vi đều bình đẳng. Giả sử thông hiểu tất cả chúng sinh vâng tu đại đạo, nghiệp tự buông bỏ, ấy là sự khuyến giúp từ thuở xưa nên có thể đủ đầy sự kỳ đặc ấy. Này Phật tử! Các loại ngôn từ vô hạn, nhóm họp chỗ nói, mang lại sự hưng hiển đại đạo của Như Lai.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Tất cả các chúng sinh  
	Nương nhờ ở cõi Phật  
	Đều nhờ hư không giới  
	Tức thuận theo giáo pháp.  
	Hoặc trong nước, trên đất  
	Hoặc ở cung điện trời  
	Quỷ thần cùng Long vương  
	Đều quy ngưỡng ở đó  
	Hư không không nghĩ vậy.  
	Nay ta tạo chỗ nào  
	Đã vì chỗ nào mất  
	Vì ai tạo hiện nghĩa.  
	Trên cõi người như vậy  
	Thân bày các duyên pháp  
	Theo tất cả mười phương  
	Mà tạo biết bao hạnh  
	Giới cấm tự vui thích  
	Việc lớn Thánh độ đời  
	Dùng tuệ sáng thần thông  
	Vì ai ích lợi nghĩa  
	Hiển thị pháp trong lắng  
	Rõ các kiến hữu vô  
	Chưa từng khởi tưởng nghĩ  
	Lợi ích nào nên đạo.  
	KINH NHƯ LAI HƯNG HIỂN 
	QUYỂN 1   QUYỂN 2   QUYỂN 3   QUYỂN 4 
	KINH NHƯ LAI HƯNG HIỂN 
	 
	Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Trúc pháp hộ, đời Tây Tấn. 
	Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh 
	QUYỂN 2 
	Này Phật tử! Vì sao chúng Bồ-tát thấy Như Lai đến vô hạn lượng? Nếu Bồ-tát thân cận Như Lai tức là về với đạo. Vì sao? Vì không chỗ thấy là thấy Như Lai, thấy Như Lai tức là thấy một Pháp thân, vì một Pháp thân nên nếu đem từ tâm hướng đến một người tức là hướng đến, nuôi dưỡng khắp tất cả chúng sinh. Như hư không giới không một chỗ nào mà không bao bọc, không một chỗ nào mà không vào, hoặc đến tất cả pháp hữu sắc, vô sắc, hữu hình, vô hình, hữu xứ, vô xứ, không chỗ đến, cũng không chỗ đi, tức không có tướng, vì không có tướng nên không một chỗ nào mà không hiện hữu. Phật thân cũng như vậy, vào khắp tất cả mọi loài chúng sinh, biết rõ các pháp, tất cả cõi Phật, không một chỗ nào mà không biết đến và không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Vì sao? Vì dụng vô thân là thân Như Lai, vì muốn khai hóa các loài chúng sinh nên hiện thân. Này Phật tử! Đó là Bồ-tát vào cửa quay về sự hưng hiển của Như Lai thứ nhất.  
	Lại nữa, này Phật tử! Ví như hư không vô sắc, vô kiến, vô hình tướng nên không thể thấy, chỉ vì sự phân biệt của tất cả chúng sinh mà thấy sự bao trùm của nó rộng lớn cao vời, nhưng hư không chẳng hề tưởng nghĩ, chẳng hề bức bách. Nếu thấy thân Như Lai thì cũng như vậy, chiếu khắp thế gian và độ thế sự là vì tội phước khác nhau của mỗi chúng sinh. Như Lai không từ đâu đến, chẳng đi về đâu, không chỗ ngăn ngại, cũng không thể đủ đắc. Vì sao? Quang minh của Đại Thánh trừ sạch tất cả tám mươi điên đảo. Đó là cửa vào thứ hai.  
	Bồ-tát nói kệ rằng:  
	Vì phát khởi rong ruổi  
	Liền diệt sạch ánh sáng  
	Ánh sáng thấy chúng sinh  
	Các nhân duyên lợi hại  
	Hư không chẳng hình sắc.  
	Như Lai cũng như vậy  
	Vì Pháp thân bình đẳng  
	Cứu thoát mọi chúng sinh  
	Tối thắng vừa xuất hiện  
	Khai hóa mọi tối tăm  
	Dần dần quán sát nghĩa  
	Hưng thịnh gặp Phật đạo  
	Đạo đức thật rộng lớn  
	Chiếu sáng ba ngàn cõi  
	Độ thoát nạn sinh tử  
	Tâm rõ, không tưởng nghĩ  
	Như Lai không ai bằng  
	Thị hiện sự hơn kém  
	Nếu có kẻ tự huấn  
	Chứng thành ở Duyên giác  
	Tất cả chúng sinh biết  
	Gần gũi Thánh trong người  
	Ví như Đại phạm chí  
	Tự ở cung Thanh minh.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như ánh sáng của mặt trời chiếu khắp cõi Diêm-phù-đề, các loài chúng sinh nhờ ân chiếu sáng vô lượng ấy mà được sống còn. Giống như nước chảy ra từ sông suối, nuôi lớn trăm thứ lúa mạ, cây cỏ, ở chỗ tối tăm không có ánh sáng cũng phải nhờ nó. Sâu bọ, côn trùng, trâu ngựa, dê lừa cũng là nhờ nó; chỗ muốn đọc nói, khe suối cây cối, cùng các thảo dược cũng đều nhờ đó; tranh tụng hư thực đều được quyết rõ; các loài chúng sinh du hành trong không đều dựa vào đó; sông ngòi ao hồ, suối nguồn nước chảy cũng đều nhờ đó; hoa sen nở ra, quốc thành huyện ấp, đại bang, châu vực đều nhờ ánh sáng ấy mà hưng phát; thiên hình vạn trạng, loài sống trong đồng hoang cỏ úa, người sống trên đất, cho đến loài ở trong nước cũng đều nhờ nó mà mỗi một được hoàn chỉnh đời sống, sự nghiệp, có chỗ tạo lập và có thể đến chỗ rốt ráo. Vì sao? Vì chỗ chiếu của ánh sáng mặt trời không có giới hạn, lợi ích khắp chúng sinh. Đạo đức cũng như vầng mặt trời, chúng sinh nếu được nhìn thấy thân Như Lai, nghe được pháp âm và đạt được các duyên phương tiện vô lượng, vô biên không thể lường tính thì được nương tựa vào đó mà an trú, xoay ác hướng thiện về pháp tâm đức, trừ sạch vô minh, diệt hết ma sự, hưng thịnh tuệ đạo lồng lộng sáng chói. Đại từ hộ khắp tất cả chúng sinh, đại Bi cứu thoát chúng sinh quy hướng các pháp, trưởng dưỡng thành tựu ba mươi bảy pháp phần trợ đạo, gieo trồng tịnh tín. Giống như nước đục mà gạn cho trong, chỗ thấy không lầm không mất báo ứng. Hữu sắc, vô sắc, việc sinh, việc tử đều nhìn thấy rõ, không hề tổn hại, đạo tuệ sáng tỏ làm cho chúng sinh không mất gốc đức. Bồ-tát Đại sĩ là cái đầu của chúng sinh và cũng như hoa sen, tất cả các hành nhân duyên phương tiện khuyến hóa bố thí, làm tối thượng. Vì sao? Vì đạo tràng của chư Bồ-tát không có bờ mé. Như Lai phấn chấn phóng ra vô lượng tuệ quang vô hạn cảnh giới Thánh cũng là như vậy. Đó là cửa thứ ba.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Như cung điện mặt trời  
	Chiếu sáng Diêm-phù-đề  
	Ở trong không tỏa sáng  
	Trừ tối, không ngăn chướng  
	Vốn không, không xứ sở.  
	Do đất sinh hoa sen  
	Mọi người được nương tựa  
	Vô số trên mặt đất.  
	Mặt trời cũng như vậy  
	Chúng sinh đều nương nhờ  
	Chư Thiên cùng loài người  
	Khéo tu trồng gốc đức  
	Hàng phục đến vô cực  
	Đạt được pháp ánh sáng  
	Được thấy Thánh trong người  
	Vì đó thành Tam thừa.  
	Lại nữa, này Phật tử! Ví như mặt trời kia chiếu vào núi đá vua của núi chúa Tu-di, tiếp đến lại chiếu vào các núi lớn khác, sau đó mới chiếu đến Hắc sơn, sau nữa mới chiếu đến các gò đồi, đất đai và các xứ sở khác. Ánh sáng ấy tùy theo chỗ ở của con người trong cõi Diêm-phù-đề này mà chiếu tới. Ánh sáng của mặt trời không hề có tưởng nghĩ, trước hết phải chiếu ở Bảo sơn vương… Lại nữa, ánh sáng mặt trời chiếu ra bình đẳng không có phân biệt nhưng do mặt đất có chỗ cao thấp không đồng đều, chứ chẳng phải ánh sáng mặt trời có sự phân biệt riêng khác, nghĩ tưởng trước sau. Như Lai cũng vậy, bình đẳng du hóa vô lượng pháp giới chánh chân, đạo tràng lồng lộng, diễn xuất vô lượng tuệ quang, dùng ánh sáng trí tuệ ấy chiếu tỏa khắp nơi. Như trước đã nói, núi chúa Tu-di được ánh sáng mặt trời chiếu đến trước nhất, nghĩa là Như Lai hướng đến chư Đại Bồ-tát, dùng ánh sáng pháp mà vì họ thị hiện, mở bày, thọ ký cho họ trước nhất; sau đó mới chỉ bày trí tuệ ưa chuộng của hàng Thanh văn, Duyên giác và chúng sinh phát tâm kiến lập gốc đức; sau hết mới giáo hóa bè hàng bất thiện, dần dần giáo hóa tà kiến sâu dày của tất cả chúng sinh; tất cả đều được ánh sáng của Như Lai soi chiếu. Đã nhờ được ánh sáng ấy thì họ nhất định sẽ được thọ ký ở đời vị lai. Gặp được ánh sáng mặt trời trí tuệ làm cho họ không còn vọng tưởng nên thành tựu các gốc đức như chí nguyện và đạt được ánh sáng trí tuệ. Đó là cửa vào thứ tư.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Như ánh sáng mặt trời  
	Không rời bỏ vạn hữu  
	Cùng các chúng chư Thiên  
	Cũng đều được nương nhờ.  
	Giống như các sông ngòi  
	Mọi người được lợi ích  
	Ánh sáng an trú ấy  
	Chúng sinh đều ngưỡng dựa.  
	Nếu họ lìa thuần tín  
	Không thấy mặt trời Phật  
	Phật hóa hiện thế nào  
	Họ cũng đều nương cậy  
	Nếu có nghe danh tiếng  
	Gặp ánh sáng thù thắng  
	Nhân duyên tiến dần lên  
	Cho đến thành Phật đạo.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như có người mù thì không thể thấy được ánh sáng chiếu tỏa của mặt trời. Tuy không có mắt, không biết ngày đêm nhưng họ vẫn nhờ ánh sáng ấy mà được sinh sống đủ đầy. Cũng vậy, chúng sinh quên mất bản tịnh nên thấy ánh sáng đạo quang vô lượng của Phật không hề tin hiểu thì đó là kẻ sống mù. Tuy không nhìn thấy ánh sáng trí tuệ của Như Lai nhưng vẫn nhờ được sự chiếu soi của mặt trời Đại Thánh. Vì vậy mặt trời Đại Thánh sáng rộng vi diệu, ánh sáng oai thần chiếu tỏa chúng sinh, ứng bày điềm lành, tẩy sạch tất cả hành nghiệp của phiền não ái dục. Đó là cửa vào thứ năm.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Mặt trời chiếu thiên hạ  
	Người mù không thể thấy  
	Tuy không rõ đêm ngày  
	Vẫn nhờ ánh sáng đó.  
	Chúng sinh mất bản tịnh  
	Không tin tuệ Như Lai  
	Ân từ Phật rộng lớn  
	Vẫn được nhờ hóa độ.  
	Lại nữa, này Phật tử! Ví như cung trăng tạo lập bốn pháp chưa từng có. Những gì là bốn?  
	1.     Soi chiếu mọi chỗ sâu tối, ở với các vì sao mà thường sáng rộng, che khắp.  
	2.     Những ai quên đường thì chỉ bày nẻo về.  
	3.     Đi khắp thiên hạ, dung nạp mọi chỗ.  
	4.     Mọi chúng sinh khi thấy ánh trăng đều ngưỡng mộ vì chỗ đứng của họ ở đâu cũng thấy mặt trăng trước mặt, không có hồ nghi.  
	Thân Như Lai cũng vậy, có bốn điều khó bì kịp xưa nay chưa từng có. Đó là sự thị hiện kỳ đặc, chẳng phải chỗ thấy của con người. Những gì là bốn?  
	1.     Hiện khắp tất cả hàng Hữu học, Vô học, Duyên giác thừa, chỗ thệ nguyện tùy theo sự tín lạc của họ mà thị hiện thân.  
	2.     Các việc hạn ngại, thời gian thọ mạng, sự tổn giảm của chúng sinh thì vì họ mà thị hiện lợi ích dài lâu.  
	3.     Đạo tràng Như Lai không tăng không giảm đều thấy tất cả thế giới chư Phật.  
	4.     Tùy theo sức tín lạc và chỗ khởi niệm của tất cả chúng sinh mà ứng làm pháp khí. Nhờ ánh sáng này mà tất cả chúng sinh nhìn thấy đều kính ngưỡng, quán thấy Phật thân thì đều được nhờ ánh sáng ấy.  
	Lại nữa, thân Như Lai không có tưởng nghĩ nên muốn thấy gặp phải bằng tâm không chỗ trụ. Đó là cửa vào thứ sáu.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Ánh sáng mặt trăng chiếu  
	Thần vi, Tu-di sơn  
	Rồi mới chiếu các núi,  
	Sau đó đến gò đồi,  
	Tiếp chiếu chỗ đất cao,  
	Rồi đến nơi bình địa  
	Sau cùng chiếu chỗ thấp  
	Khắp cả mọi nơi chốn.  
	Ánh sáng chư Phật chiếu  
	Trước tiên chư Bồ-tát  
	Sau đó chiếu sáng đến  
	Nẻo hành của Duyên giác  
	Đó đây chiếu tự tại  
	Đến Hữu học, Vô học  
	Sau mới chiếu chúng sinh  
	Phật đạo không tưởng nghĩ.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như Đại Phạm thiên gọi là tam thiên, tất hiện thân đến tam thiên thế giới không một chỗ nào không cùng khắp mà chẳng hề phân thân. Tùy theo sắc mạo, sắc lực của mỗi phẩm loại chúng sinh hữu hình mà hiện ra trước họ, không một ai là không thấy. Như Lai chí chân cũng như vậy, chưa từng phân thân, chẳng có số lượng hình thể mà luôn hiện khắp thế giới. Tùy theo căn tánh, hình thể, niềm tin, niệm khởi của mỗi loài chúng sinh mà thị hiện khắp đủ nhưng thân tâm Đại Thánh vẫn không bao giờ khởi nghĩ. Đó là cửa vào thứ bảy.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Phạm thiên là Tam thiên  
	Tự hiện hình cùng khắp  
	Ở mọi nơi đều tôn  
	Tự tại hiện bày khắp  
	Mà đấng Phạm thiên ấy  
	Chẳng phân thân hình thể.  
	Đạo sư của các pháp  
	Tự tại cũng như vậy  
	Thân Phật thị hiện khắp  
	Ở mười phương thế giới  
	Thân hình không hạn lượng  
	Cũng không phân hình thể  
	Mọi người đều nghĩ rằng  
	Phật đang ở trước mình  
	Đều thấy hình diện Phật  
	Nghe giảng thuyết pháp đạo.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như Đại y vương biết rõ tất cả các thứ dược phẩm, phân biệt tốt xấu lúc thuốc đi vào các bộ phận của cơ thể. Ông ta thông làu các điển tịch, chú thuật và tất cả các dược thảo ở cõi Diêm-phù-đề này. Người nào không biết thì cho là ông ta dùng thuốc không đúng y vương ra cho chúng sinh thấy các gốc đức của y dược và sức mạnh của y chú. Mọi người vừa thấy y vương này thì bệnh đều được thuyên giảm và an ổn. Lại nữa, Y vương ấy ngoài sức tạo lập ở hiện tại, ông ta còn tự nghĩ xa: “Nếu sau khi ta chết nhân dân sẽ mất đi sự cứu hộ, vì muốn họ được sự nương tựa, khỏi sự côi cút nên ta phải thiết bày phương tiện quyền xảo để chỉ bày cho họ. Nghĩa là ta sẽ thâu hái các dược thảo, dùng nó để tự xoa lên thân thể, nhờ sức phương thuật của mình hòa hợp với các dược thảo nên lúc mạng chung, thân ấy không bị hư hoại, không khô mục, cũng không tan nát. Những người đứng ngồi, kinh hành, đi lại xung quanh thân ấy thì ta đều vì họ mà biến hiện y dược đang có phù hợp với mỗi một chúng sinh để chữa lành bệnh tật cho họ. Nếu họ được nghe thấy hình tướng âm thanh của Y vương ấy thì đều được an ổn, đầu cuối không khác.”  
	Cũng vậy, Như Lai là Y Vương Vô Thượng, hiểu rõ và chữa lành tất cả bệnh khổ trần lao của chúng sinh. Trăm ngàn ức na-do-tha kiếp số Như Lai đã từng tạo lập y dược và tất cả đều cho quy hướng về Nhất thiết trí Độ vô cực. Như Lai đã từng khéo học phương tiện đạo thuật pháp dược và từng kiến lập phụng hành từ thuở quá khứ xa xưa lúc còn tu hạnh Bồ-tát nên trí tuệ, phương tiện quyền xảo, kỳ chú, thảo dược của sức oai thần vẫn còn trụ mãi đến đời vị lai như vậy vô lượng, vô biên. Như Lai luôn ở nơi chúng sinh, lập nên sự cứu hộ và chữa lành những bệnh tật cho tất cả chúng sinh. Như Lai có thân thanh tịnh mà thật chẳng có thân, chẳng sự nghiệp, tất cả chúng sinh vừa thấy thì hết thảy những bệnh tật của phiền não ái dục đều được chữa lành. Dẫu có kẻ không tin nhưng vẫn được hưởng sự an ổn. Tất cả những Phật sự ấy của Như Lai chưa từng đoạn dứt. Đó là cửa vào thứ tám.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Giả như có Y vương  
	Đều học các phương thuật  
	Thấy được thầy thuốc ấy  
	Bệnh chúng sinh tiêu trừ.  
	Như người bệnh nguy khốn  
	Cho thuốc chữa bệnh lành  
	Tức thân ấy được độ  
	Hiện tất cả uy nghi  
	Tôn quý trong cõi người  
	Y vương không hạn lượng  
	Hiển bày nơi Thánh trí  
	Khéo học tuệ y thuật  
	Chỗ hành gốc đời trước  
	Nên hiện thân tôn Thánh  
	Mọi người được nhìn thấy  
	Trừ bệnh dục không còn.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như trong biển lớn có tạng Lưu ly đại bảo châu gọi là Đẳng diễn chư quang. Nếu thấy ánh sáng, gặp được hình thủ sắc mạo của bảo châu này thì nó cũng luôn biến hiện như lưu ly tạng. Giả như, có người nhìn thấy màu sắc đại ngọc báu ấy thì mắt liền thanh tịnh, được mọi sự an ổn. Cho đến ánh sáng uy thần của đại ngọc báu chiếu sáng cung điện, chúng sinh thì tất cả đều nhờ ánh sáng này mà mãi mãi không có hoạn nạn. Như có đại ngọc báu tên là An chúng, chỗ nó ở lúc có mưa xuống thì chúng sinh đều được an ổn, chấm dứt mọi bệnh phiền muộn.  
	Ánh sáng Như Lai cũng như vậy, Như Lai có châu báu tuệ tạng lớn, phước lành hội đủ vô lượng. Giả sử chúng sinh nào gặp được ánh sáng Thánh tuệ của Như Lai thì liền được năm thứ mắt, tất cả những kẻ nghèo nàn sẽ gặp được pháp quý trân bảo, liền được của cải giàu có vô cùng, cho đến được an trú trong đạo mà Như Lai đang trú. Này Phật tử! Hãy quán oai dung của bậc Chánh giác không thể diễn bày mà luôn dẫn dắt và đem lại lợi ích rộng khắp chúng sinh. Đó là cửa vào thứ chín.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Như người không ngọc quý  
	Đến biển sâu tìm báu  
	Được tất cả minh châu  
	Ánh sáng ấy chiếu khắp  
	Người nào gặp ngọc ấy  
	Liền đạt đến tự nhiên,  
	Mắt nhìn thấy ngọc ấy  
	Liền được mắt thanh tịnh.  
	Ngọc báu Phật cũng vậy  
	Diễn xuất ánh sáng tuệ  
	Người gặp ánh sáng này  
	Thì được dung mạo Phật.  
	Nếu quán Bậc Tối thắng  
	Liền thành tựu năm mắt  
	Dứt sạch các trần cấu  
	Liền trú nơi Phật đạo.  
	Lại nữa, này Phật tử! Có đại ngọc báu tên là Nhất thiết tịnh niệm tạng vương. Công đức uy thần của đại ngọc báo này chẳng phải do trăm ngàn nhân duyên mà hợp lại. Nếu đại ngọc báu ấy ở chỗ nào thì chúng sinh ở nơi ấy không có mọi bệnh khổ, cũng không có các hoạn nạn. Giả như chúng sinh nào có bảo ma-ni này thì mọi ý niệm và thệ nguyện đều được viên mãn như ý, vả lại bảo châu này không thể chiếu đến người nào không có gốc đức. Bảo châu Nhất thiết tịnh niệm tạng vương này cũng có nghĩa là Như Lai làm an vui cho tất cả phẩm loại chúng sinh. Bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác thị hiện thân chánh định Tam-muội ngợi khen và độ rốt cùng nơi chốn hàng Thanh văn và tất cả chúng sinh đang ở trong sinh tử, trong năm đường khổ đều được siêu vượt thù thắng.  
	Này Phật tử! Thân Như Lai không trước không sau, chúng sinh thọ hình trong tất cả thế giới có phước ở đời trước đều nhất tâm, không loạn trí, vâng tu chánh niệm, thuần thục các hạnh, chí hướng tinh tấn, đối với Đấng Như Lai đều được nguyện như pháp một cách đầy đủ. Nếu người nào tội nặng không có gốc đức, không thể thấy được ánh sáng Như Lai thì Như Lai kiến lập cho họ, nhờ sự kiến hóa ấy nên họ hiển bày gốc đức. Đó là cửa vào thứ mười. Vì hạnh Bồ-tát nhập vào Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đến chốn niệm của vô lượng tâm, tâm ấy châu biến khắp tất cả mười phương hành dụng không ngăn ngại. Lại nữa, pháp giới là sự quán khắp các giới mà không trú ở bản tế. Như Lai thì không hề sinh diệt, bình đẳng ba đời, trong tất cả tưởng mà không chỗ tưởng, dẫn dắt tâm tế của quần mê vị lai nhập vào đạo này chứ không ra ngoài chỗ ấy. Tất cả thế giới chư Phật biến khắp, đầy đủ Pháp thân thanh tịnh của tất cả Như Lai.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Ví như ngọc Như ý  
	Tất cả nguyện ban cho  
	Giả như có sở cầu  
	Thì đều được Như ý,  
	Kẻ không có công đức  
	Không được thấy châu báu  
	Lại ngọc tôn quý ấy  
	Mãi không tưởng tham tiếc  
	Thân an trú như vậy  
	Ban cho tất cả nguyện  
	Nếu thấy có chỗ đi  
	Ban cho tất cả nguyện  
	Kẻ mang tâm ác hiểm  
	Người ấy chẳng thấy Phật  
	Như Lai không tưởng tiếc  
	Cũng không có tham ganh.  
	Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Phổ Hiền:  
	–Này Phật tử! Sao gọi là Bồ-tát thuận theo âm thanh Như Lai mà bình đẳng tuyên đạt âm thanh Chánh giác không hề hạn hữu? Các ngôn từ âm hưởng tùy theo chỗ sở thích của tâm ý chúng sinh, vì họ thuyết pháp, khiến cho mỗi mỗi người trong chúng hội đều được vui thích. Bồ-tát tùy theo chí nguyện của họ mà hiện sự hóa độ; tùy thời, tùy tâm niệm khởi mà vào, không mất Tam-muội, không cạn, không chìm, không khởi, không diệt. Cũng vậy, quán sát tiếng vang vốn không có chủ thể, cũng không có ngã. Chỗ hành nghiệp tích chứa của tội phước chúng sinh làm trái mất chỗ thâm diệu nên đường về xa tít, khó cứu độ. Chúng sinh hưng khởi sự bất tịnh, phân biệt pháp giới nên âm thanh Như Lai tùy theo đó mà không hề đoạn mất, không pháp hoại xả, không sân, không giận, không mất nẻo cứu cánh. Vì trú nơi đối tượng duyên nên cũng không có chủ thể, cũng không phải không có chủ thể, cũng không giáo hóa, cũng không phải không có sự giáo hóa. Đó là Bồ-tát tùy theo âm hưởng của Như Lai. Vì sao? Ví như thế giới lúc gặp đại tai biến, tự nhiên có bốn đại âm thanh nên làm cho chúng sinh biết được pháp vốn không có chủ thể và không còn nghiệp tham. Những gì là bốn?  
	1.     Lúc đời tai biến tự nhiên có một âm thanh lớn phát ra: “Các Thánh hiền hãy lắng nghe! Sơ thiền tức là sự an tâm của thiền thứ nhất, lìa sự sân hận, lo sợ, vượt qua cõi Dục, đã được vượt qua nên được tự tại”. Lúc chúng sinh nghe âm thanh này thì được thành tựu Sơ thiền, vượt qua cõi Dục, liền sinh lên cõi Phạm thiên.  
	2.     Vừa đạt được pháp ấy rồi thì được nghe đại âm thanh thứ hai: “Các Hiền thánh hãy lắng nghe! Đệ Nhị thiền là được sự an ổn tức là hành vô tưởng, vượt hẳn Phạm thiên mà được tự tại”. Lúc chúng sinh được nghe đại âm thứ hai này liền thành Nhị thiền, vô tưởng vô hành, tịch tĩnh nơi ấy, tâm không chấp trước, thành tựu đệ Nhị thiền và liền được sinh lên cõi trời Quang âm.  
	3.     Vừa nghe pháp ấy rồi thì liền được nghe đại âm thứ ba: “Chư Hiền thánh hãy lắng nghe! Đệ Tam thiền là tối an lạc, xa lìa cái vui của dục, tâm thường tịch định, không chỗ niệm khởi. Đệ Tam thiền là đi theo sự dạy dỗ của Thánh hiền, vượt qua cõi trời Quang âm”. Lúc chúng sinh nghe đại âm thứ ba ấy thì vượt lên cõi trời Quang âm, sinh lên cõi trời Ly quả.  
	4.     Vừa được pháp sinh lên cõi trời này thì liền được nghe đại âm thứ tư: “Chư Thánh hiền hãy lắng nghe! Đệ Tứ thiền là sự tịch nhiên, dứt trừ khổ vui, lo buồn, hoan hỷ, không khổ, không vui, thanh tịnh đủ đầy. Đệ Tứ thiền vượt trên cõi trời Ly quả”. Lúc chúng sinh được nghe đại âm thứ tư rồi thì liền xả cõi trời Ly quả siêu sinh lên cõi trời Thanh tịnh nan cập.  
	Này Phật tử! Lúc cõi đời bị tai biến mà được nghe bốn đại âm thì đạt đến âm thanh tự nhiên hoằng dương pháp điển, không có chủ thể. Công đức của Đại Thánh cao vời vô lượng, âm thanh tự nhiên nhu hòa vi diệu, vang xa khắp nơi. Âm thanh như vậy vốn không có chủ thể, cũng không chỗ tạo ra, vô ứng bất ứng, không cất lên, không hạ xuống. Nếu kiến lập pháp Như Lai thì tự nhiên có bốn đại âm thanh, bốn đại ngôn giáo. Những gì là bốn? Tiếng thứ nhất phát ra: “Không tạo công đức thì bị khổ nạn ở ba đường. Chấp nơi ngã nhân, tham vướng tất cả sở hữu vạn vật và cho đó là ngã sở cũng là khổ nạn. Nếu gieo trồng gốc đức thì được sinh nơi cõi trời, người. Thọ nhận lời dạy của Thánh hiền, bỏ đi tám thứ trói buộc làm cho đời sống gian nan, phụng hành mười thiện thì các ách nạn mới được tiêu trừ và thường gặp được Phật pháp”. Tiếng thứ hai phát ra: “Chư Thánh hiền hãy lắng nghe! Vạn vật đều là khổ, thiêu đốt phừng phực, bức bách lẫn nhau, tư tưởng lo sợ, thân thì vô thường, pháp thì vô ngã, vô hình tịch diệt. Nếu tâm không lợi dưỡng thì không bị thiêu đốt, lìa xa các hoạn nạn”. Lúc mọi người nghe được đại âm này thì liền phụng trì hành tập, dần dần tinh tấn, đắc Thanh văn thừa, dùng độ nhẫn nhục để vượt đến bờ giác. Đại âm thứ ba phát ra: “Qua khỏi quả vị A-la-hán thì sẽ có thừa an lạc vi diệu gọi là Duyên giác thừa, không có thầy mà tự giác ngộ (Độc giác)”. Lúc mọi người nghe âm thanh này rồi thì liền tin vui, tinh tấn đạt đến Duyên giác thừa. Đại âm thứ tư phát ra: “Vượt qua Thanh văn và Duyên giác thừa thì có nẻo hành của Đại thừa Bồ-tát. Đó là thuyền lớn, dung chứa và nơi quay về của tất cả các thuyền bè nhỏ để đưa sang bờ kia. Đại thừa Bồ-tát làm cho tánh Phật không bao giờ mất và chỗ cứu độ của nó vô lượng, vô biên. Nó sẽ hộ trì rốt ráo cho những chúng sinh chán sợ mà hiện ra Thanh văn và Duyên giác thừa. Đại thừa là thừa tối tôn, là thừa tối thù thắng, là thừa chánh chân siêu tuyệt mà tất cả chúng sinh đều phải kính ngưỡng và tín lạc”. Nghe đại âm này rồi thì những người ấy các căn thông đạt, họ là những người từ xưa đã vun trồng gốc đức. Như Lai chánh chân kiến lập oai thần Thánh chỉ khiến cho chí tánh của họ hàm chứa ánh sáng rộng lớn, tự tại chí thành, được phát sinh đạo ý. Âm thanh ấy nói: “Các Đức Như Lai không thân, không tâm, cũng không diễn thuyết, không chỗ khai hóa mà làm cho chúng sinh được sự an ổn”. Này Phật tử! Đó là duyên sự thứ nhất, vì các Bồ-tát được thuận theo âm thanh Như Lai.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Như bốn âm vô lượng  
	Tuyên thuyết khắp thế gian  
	Thanh tịnh chúng sinh giới  
	Phát ra không bờ mé  
	Tức có bốn trí tuệ  
	Thiền an trú tịch nhiên  
	Chúng sinh nghe âm ấy  
	Liền rời bỏ Dục giới.  
	Bậc Mười lực cũng vậy  
	Tròn đầy khắp pháp giới  
	Chỉ vì độ chúng sinh  
	Tuyên dương vô lượng âm  
	Ai đạt đến ấn ấy  
	Thì vượt tướng hữu vi,  
	An trú âm thanh ấy  
	Chưa từng có nghi tưởng.  
	Lại nữa, này Phật tử! Ví như khoảng giữa trong hang đá của núi sâu, vì có hai mặt đối diện nhau nên lúc nói lớn thì sẽ có tiếng vang. Cuộc đời giả hợp cũng như vậy, những gì gọi là phương tục, ngôn ngữ, sắc thân đều không thật có. Nghe có tiếng vang trong hang núi là do nói lớn và do hai mặt đối nhau của hang núi mà có tiếng vang. Tất cả âm thanh, ngôn ngữ sinh ra đều là do duyên đối đãi mà có. Quán nghĩ sâu xa như vậy thì vĩnh viễn không còn vọng tưởng. Như vậy thưa Đại sĩ! Âm thanh của Như Lai chẳng hề ngôn giáo, cũng không xứ sở. Có chúng sinh nào tâm mang niệm đạo, nhân duyên phát tâm, cứu xét rốt cùng lý của âm thanh thì đều không thể thủ đắc, không thật có âm thanh. Này Phật tử! Đó là duyên sự thứ hai mà chư Bồ-tát thuận theo âm thanh của Như Lai.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Giống như trong núi sâu  
	Nhân duyên có âm hưởng  
	Do mọi người gọi to  
	Đáp lại tất cả âm.  
	Phật khuyến hóa chúng sinh  
	Dùng âm thanh khai mở  
	Tuy thuyết có ngôn âm  
	Chưa từng có nghĩ tưởng.  
	Âm hưởng của mười Lực  
	Pháp giới không chấp trước  
	Phân biệt, dắt dẫn người  
	Điều phục các căn nguyên.  
	Các chúng sinh vi tế  
	Khiến cho được vui lòng  
	Có các Đấng Mười Lực  
	Không mong cầu, vọng tưởng.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như tiếng sấm lớn phát ra âm thanh gọi là Chư thiên thành đế pháp. Giả như chư Thiên rong chơi buông thả, lúc ấy, sấm pháp vang lên chấn động phát ra âm thanh ở hư không: “Tất cả ái dục đều về với vô thường, khổ não, cuồng hoặc và chỉ là khoảnh khắc nhất thời. Vì do ngu mê huân tập, nên giác ngộ thì không còn buông thả và chẳng còn rong ruổi. Nếu tự phóng túng thì sẽ rơi vào đường ác nên chớ có mê lầm”. Chư Thiên phóng túng nghe lời dạy này rồi liền buồn rầu và mỗi một đều tự xả bỏ cái vui của ái dục, đi đến cung điện Thiên vương, vui với kinh điển và tuân phụng pháp hành vô tận của Thiên vương. Lại quán âm thanh chấn động của sấm pháp mà vẫn tự nhiên không hề thay đổi. Vì chư Thiên và mọi người mà hưng khởi nhân duyên này; cũng vì muốn kiến lập chúng sinh mà có âm thanh này. Âm thanh của Như Lai cũng như vậy, đều không thể thủ đắc, đều tùy chỗ hành của mỗi người mà có âm thanh diễn bày đại pháp ấy. Âm thanh này không có tham ái, không huân tập nghiệp, không tạo phóng dật. Đó là âm thanh vô thường, khổ, không, vô ngã. Âm thanh này đều dạy bảo khắp pháp giới đạt đến trọn vẹn khắp cùng mọi chúng sinh; tùy theo sở thích của mỗi một mà khuyến hóa làm cho họ được vui lòng. Dùng tam thừa dẫn dắt làm cho tất cả mỗi một đều được lợi ích. Dùng trí tuệ tự tại vô lượng và nẻo hành của Bồ-tát mà làm cho họ hội nhập vào chỗ chẳng thể nghĩ bàn.  
	Lại nữa, tuệ thí Như Lai không có của cải, cũng không xứ sở, mà chỉ dùng dẫn dụ để dạy bảo cho tất cả chúng sinh. Nghe âm thanh này rồi thì vô số phẩm loại chúng sinh không thể kể xiết tinh tấn phụng hành. Lúc ấy, những người có gốc đức, hoặc đều cầu Thanh văn, Duyên giác thừa, hoặc chí cầu Đại thừa vô thượng vô cực. Lại nữa, âm thanh Phật đạo trùm khắp tất cả, không chỗ vướng mắc, cũng không ngôn thuyết. Đó là duyên sự thứ ba mà chư Bồ-tát thuận theo âm thanh Như Lai.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Như cõi trời buông thả  
	Tự nhiên có tiếng sấm  
	Các pháp được sáng tỏ  
	Khiến vui nơi nghĩa đạo.  
	Liền ở trong hư không  
	Pháp âm được tuyên thuyết  
	Chư Thiên nghe pháp ấy  
	Tu sửa chẳng rong ruổi.  
	Bậc Mười lực cũng vậy  
	Nổi sấm, mưa pháp rải  
	Khắp mười phương tràn đầy  
	Dắt dẫn ích chúng sinh.  
	Ngôn âm thù thắng đủ  
	Để khai hóa tha nhân  
	Nghe âm thanh này rồi  
	Chúng sinh thành Phật đạo.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như có Thiên tử tên là Tự tại, cũng gọi là Thiện môn, chỗ hướng vọng của Thiên tử ấy là các Ngọc nữ. Có trăm ngàn chúng loại đều đến tập họp, gióng trống, đánh đàn cầm sắt, ca hát hòa nhịp với cung đàn, phát ra biết bao tiết tấu. Ông ta vừa nghe kỹ nhạc, vừa điều tấu diệu khúc. Như Lai cũng vậy, chỉ dùng một âm mà tùy theo tâm niệm, sở thích, tính tình, bản chí, niềm tin, vô lượng hành nghiệp của mỗi một chúng sinh mà thị hiện sự giáo hóa, làm cho tất cả đều được khai giải. Đó là duyên sự thứ tư mà chư Bồ-tát thuận theo âm thanh của Như Lai.  
	Bồ-tát lại nói kệ tụng:  
	Như ma tự sợ hãi  
	Nhạc trời tấu vang lên  
	Dung nhan của Ngọc nữ  
	Tiết tấu hòa quyện nhau.  
	Một lòng mà ca tụng  
	Hòa âm phát diệu khúc  
	Đủ đầy trăm ngàn ức  
	Tân thanh xuất đủ loại.  
	Chư Mười Lực cũng vậy  
	Thường diễn một âm thanh  
	Tức dùng quyền phương tiện  
	Âm khí rải chúng sinh.  
	Tùy tín lạc chúng sinh  
	Mà nghe lời dạy này  
	Nghe rồi đoạn phiền não  
	Âm này chẳng nhớ nghĩ.  
	Lại nữa, này Phật tử! Giống như Đại Phạm ở Thiên cung, lúc phát ý tưởng thì âm thanh sắc lệnh ban ra chúng hội, các Phạm thiên, Phạm thân Thiên tử đều kính phụng lời ấy. Cũng vậy thưa Đại sĩ! Như Lai Chánh giác diễn ra vô lượng Phật âm vi diệu, tuyên bảo rộng khắp tất cả chúng hội, lặng lẽ ở bên trong mà âm thanh đạt đến mười phương, khai độ chúng sinh khiến đến đạo tràng. Như Lai từ bi, bình đẳng với những chúng sinh không tâm tôn kính, các căn không thuần tịnh, thấy nghe pháp giáo hóa mà không ưa thích thì tất cả đều được đến đạo tràng. Mỗi một người đều tự nghĩ: “Hôm nay Như Lai chỉ vì một mình ta mà khai diễn nói pháp âm”. Lại nữa, âm thanh Như Lai cũng không chỗ chế ngự mà kiến lập việc giáo hóa. Đó là duyên sự thứ năm mà chư Bồ-tát thuận theo âm thanh Như Lai.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Như được chỗ tôn quý  
	Chỗ ngồi của Phạm thiên  
	Dùng một lời ban bảo  
	Phạm thiên vừa được lòng.  
	Âm thanh Phạm thiên ấy  
	Không thất thoát ra ngoài  
	Tâm đều biết tất cả  
	Ý đến khắp chúng hội.  
	Công đức của mười Lực  
	Thanh tịnh khắp cõi Phật  
	Diễn xướng một âm hưởng  
	Bao trùm khắp pháp giới  
	Không chỉ trong chúng hội  
	Cũng không hoài tham tiếc  
	Những kẻ không thuần tín  
	Không được nghe lời Phật.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như nói về nước thì tất cả các loại nước đều đồng đẳng, chỉ cùng một tánh, một vị nhưng tùy theo đồ chứa nó mà biến dạng ra vô số, lại do sự phân biệt mà cho rằng nó có nhiều mùi vị khác nhau. Pháp giáo cũng vậy, pháp đạo Như Lai chỉ là một vị, đó là vị giải thoát, chỉ do tâm phân biệt và chí tánh khác nhau của chúng sinh nên cho rằng chỗ nói ra của bậc Chánh giác không giống nhau, nhưng âm thanh Như Lai không hề khởi nghĩ. Đó là duyên sự thứ sáu mà chư Bồ-tát thuận theo âm thanh của Như Lai.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Như kể các loại nước  
	Tất cả mưa tự nhiên  
	Vị đều cùng trong ướt  
	Không nhơ, tám thứ ngọt.  
	Như vậy, chư Phật tử  
	Hiểu rõ tiếng chúng sinh  
	Nếu một vị chí nguyện  
	Đắc Phật đạo tự nhiên  
	Vì nhân duyên giả hợp  
	Tùy nơi mà sai biệt  
	Đồ chứa mỗi một khác  
	Hình dạng nước không đồng.  
	Tất cả mọi chúng sinh  
	Hành nghiệp mỗi một khác  
	Tùy tâm nghe Phật âm  
	Nên chỗ nghe chẳng đồng.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như Đại Long vương A-nậu-đạt lúc muốn mưa thì kéo mây che khắp cõi Diêm-phù-đề, sau đó giáng mưa, nuôi lớn trăm thứ lúa, các loại cây cối, thảo dược, tre lau, rừng rậm thảy đều tươi tốt, hoa quả sung mãn. Các nguồn nước chảy đều từ thân Vô phần Long vương chảy ra làm cho vô số vật loại đều được lợi ích. Cũng vậy thưa Đại sĩ! Như Lai ở khắp tất cả thế giới không một chỗ nào không trùm khắp, tâm đại Từ bi của Như Lai mưa xuống cam lồ mưa pháp khắp nơi, làm cho chúng sinh hoan hỷ, công đức tốt tươi và đều đầy đủ mười Lực ở các thừa. Âm thanh Như Lai không từ trong ra cũng không từ ngoài vào, vô số phẩm loại chúng sinh đều kính ngưỡng mong nhờ. Đó là duyên sự thứ bảy mà chư Bồ-tát thuận theo âm thanh Như Lai.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Như các dòng nước chảy  
	Khắp cõi Diêm-phù-đề  
	Không chỗ nào không thông  
	Thấm đượm khắp đại địa.  
	Núi đồi cùng cây cỏ  
	Ngũ cốc nhờ đó sinh  
	Quán xét thấy nước ấy  
	Chỗ đến không nhớ nghĩ.  
	Đức Thế Tôn cũng vậy  
	Tuyên dương khắp pháp giới  
	Ban bố mưa chánh pháp  
	Sung mãn khắp muôn loài  
	Trưởng dưỡng trăm ngàn thiện  
	Diệt trừ các phiền não  
	Đã hiểu rõ Phật dạy  
	Không rong ruổi bên ngoài.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như Đại Long vương Ma-nại-tư, giả sử lúc hưng khởi cơn mưa lớn, trước tiên tích tập mây mù khắp các chân trời, không một chỗ nào mà không giáp khắp, hoặc có lúc chẳng mưa xuống một giọt. Vì ông ta quán sát nông trình của mọi người một cách đầy đủ khắp rồi sau đó mới giáng mưa. Vì sao? Vì không muốn làm cho mọi chúng sinh phiền não. Giả sử có người cầu Đại Long vương mưa xuống bảy ngày thì ông ta từ từ mưa xuống, hạt mưa nhỏ đều rộng khắp ruộng đất làm cho mọi nơi đều tươi tốt. Cũng vậy thưa Đại sĩ! Như Lai chí chân là Đại Pháp vương hưng khởi mưa pháp khai hóa chúng sinh. Nếu chỗ nào có sự dẫn dắt tức là chỗ đó có giáng mưa cam lồ pháp vị, làm thuần thục muôn loài. Sau đó mới diễn bày pháp đạo hóa độ vô biên, mưa xuống pháp trạch, tuyên xướng kinh điển thâm diệu làm cho tâm chúng sinh không còn sợ hãi; tuyên thuyết các pháp vị thông tuệ vô thượng sung mãn khắp nơi, khiến chúng sinh đều được thành tựu. Đó là duyện sự thứ tám mà chư Bồ-tát thuận theo âm thanh Như Lai.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Giống như có Hiền long  
	Gọi là Ma-nại-tư  
	Bảy ngày mưa mọi nơi  
	Thấm dần lợi ích khắp.  
	Long vương sở dĩ đến  
	Muốn việc chúng sinh thành  
	Sau đó nếu thương xót  
	Giáng mưa rưới an ổn.  
	Mười lực vì muôn loài  
	Kéo mây lành mưa pháp  
	Muốn hóa độ chúng sinh  
	Hiển bày Đệ nhất nghĩa.  
	Theo tâm lượng người ấy  
	Tuyên pháp âm thâm diệu  
	Nghe dạy hết sợ lo  
	Tức vào nơi Phật tuệ.  
	Lại nữa, này Phật tử! Ví như trong biển lớn có Đại Long vương tên là Đại nghiêm tịnh. Trong khoảng một niệm, ông ta có thể diễn bày mười phẩm loại mưa, trong đó không thể kể hết trăm ngàn loại, không một nơi nào không thấm ướt mà mưa chẳng hề tưởng nghĩ. Lại nữa, Long vương ấy không hề tưởng nghĩ gì khác mà tự nhiên mưa xuống trăm ngàn chủng loại sai khác nhau. Cũng vậy thưa Đại sĩ! Giả sử Như Lai chí chân lúc muốn diễn bày mưa pháp âm thì trong khoảng một niệm phân biệt được mười pháp và tỏ rõ chỗ về của nó. Như Lai tuyên dương ánh sáng pháp đạo, xuất sinh ra trăm loại âm thanh. Hoặc lại hiển bày tám vạn bốn ngàn hành nghiệp của chúng sinh mà hiện bốn vạn tám ngàn âm thanh vào đó, cho đến vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha âm thanh ngôn thuyết làm cho tâm chúng sinh được an vui vô hạn, mà pháp âm đạo giáo không hề nhớ nghĩ, cũng có thể thấu giải được tất cả căn nguyên. Cũng vậy, pháp của Như Lai vô lượng, vô biên cùng bao nhiêu loại biến hóa thanh tịnh lồng lộng vi diệu. Đó là duyên sự thứ chín mà chư Bồ-tát thuận theo âm thanh Như Lai.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Như rồng Đại nghiêm tịnh  
	Đích tử của Long vương  
	Trước kéo mây đùn lại  
	Sau mới giáng mưa xuống.  
	Phật đạo thì tự nhiên  
	Cốt ở việc hóa độ  
	Miệng xuất mười loại âm  
	Hai mươi hoặc đến trăm  
	Hoặc lại đến trăm ngàn  
	Pháp trạch vô hạn lượng  
	Tôn trọng không chỗ thích  
	Không hủy hoại pháp giới.  
	Long vương tự hành hóa  
	Được kính trong loài rồng  
	Mưa xuống lại rộng khắp  
	Bao trùm bốn phương cõi  
	Tưới nhuần khắp vạn vật  
	Bao nhiêu thứ mưa tuôn  
	Nước của biển khơi đó  
	Chẳng có bấy nhiêu loại.  
	Thế Tôn cũng như vậy  
	Đạo giáo cùng một vị  
	Tâm hành giả khác nhau  
	Nên kết quả bất đồng.  
	Lại nữa, này Phật tử! Đại Long vương của biển cả muốn hiện bày biến hóa cảm động vô cực làm cho tất cả chúng sinh vui mừng an lạc. Mưa xuống từ bốn châu thiên hạ biến khắp đại địa cho đến cung trời Tự tại thanh minh. Mây giăng che không biết bao nhiêu loại, các loại mây đó cùng hiện ra vô vàn hình sắc sai biệt: Hoặc màu vàng, hoặc sắc vàng tía, hoặc sắc lưu ly, hoặc sắc bạch ngân, hoặc sắc thủy tinh, hoặc sắc ngọc đỏ, hoặc ánh mã não, hoặc ánh xà cừ, hoặc ánh thủ-đà. Các sắc như vậy đan xen lẫn nhau và mây lớn ấy che khắp trùm bốn phương cùng bốn châu thiên hạ. Lại nữa, nước ấy chẳng có gì khác biệt nhau mà lúc mây mù giăng che lại hiện ra bao nhiêu sắc tượng, biến ra ánh chớp, sấm chớp vang rền. Theo sự sở thích của chúng sinh mà giáng mưa, hoặc mưa ra âm thanh xướng nhạc của Ngọc nữ, hoặc tiếng đàn tiếng sáo, kỹ nhạc hòa vang của cõi trời, hoặc tiếng nhạc của không biết bao nhiêu Long phi, hoặc tiếng nhạc của cung phi Kiền-đạp-hòa, hoặc tiếng nhạc vui của A-tu-luân, hoặc âm thanh được phát ra từ lòng đất, hoặc âm thanh kỹ nhạc sấm vang từ trong lòng biển, hoặc tiếng kêu ù ù của vua Nai, hoặc tiếng nhạc của chim Vô hoại, hoặc không biết bao nhiêu kỹ nhạc của hàng vạn điệu múa. Chỗ nào có đám mây lớn ấy giăng che với sắc tượng như vậy thì ở đó thời tiết rất tốt, gió rồng tự nhiên thổi đến cùng khắp. Nếu có gió ấy thổi đến tức có mây giăng kiết tường, đầu tiên rơi xuống những hạt mưa nhỏ, sau đó mới tuôn ra mưa lớn. Mưa ấy rải khắp, trên từ cung trời Tự tại thanh minh, dưới đến khắp trùm đại địa, trong hư không, ở thiên cung không một chỗ nào mà không có mưa ấy; mưa khắp đại hải, chẳng chỗ nào bị hư hại. Lại đến chỗ ở của chư Thiên tự tại, có nàng Ngọc nữ tên là Hoan Lạc mà mưa ra các loại vũ nhạc. Lại mưa xuống các châu như ý đến cõi trời Bất lạc mạn. Ở cõi trời Đâu-suất mưa ra các chuỗi ngọc trang sức, ở Diệm thiên mưa ra vô số loại hoa, ở Đao-lợi thiên mưa ra các danh hương mềm mại; ở trời Tứ Thiên vương mưa ra y phục đẹp; ở trời Uất-đan-việt mưa ra vi diệu hoa; ở cung điện Đại Long vương mưa ra trân châu đỏ chói, ánh sáng siêu đẳng. Vì A-tu-luân mà mưa xuống binh trượng tên là Hoại oán địch. Các hiện tượng như vậy khắp trùm bốn phương cùng bốn châu thiên hạ. Các cung điện chư Thiên mưa xuống mênh mang không thể kể xiết mà Đại Long vương không hề tham tiếc, cũng không đố kî. Lại nữa, chỗ trồng gốc đức của mỗi mỗi chúng sinh đều sai khác, không hề đồng đẳng nên tự nhiên mưa biến hóa ra vô số chủng loại sai biệt.  
	Cũng vậy, này Phật tử! Như Lai chí chân dùng tuệ vô thượng làm Đại Pháp vương, thường hiển pháp lạc mà tự làm vui. Như Lai tịch nhiên không hề phân rải pháp giới mà mây lành Pháp thân tự nhiên trùm khắp không đâu không có, vì tùy theo chỗ tín lạc của chúng sinh mà thị hiện đó thôi. Hoặc vì chúng sinh mà ban tuyên, hiển bày thân Tối chánh giác, hưng khởi mưa pháp; hiện biến hóa thân, phóng pháp vân vũ; hiện thân kiến lập mà giáng mưa pháp; hiệc sắc tượng thân mà diễn xuất ra vô số loại mưa; hiện thân công đức mà diễn vân vũ; hoặc thị hiện tuệ thân vân vũ; hoặc tùy thuộc thế tục mà thị hiện thân có mười thứ Lực; hoặc hiện thân bốn Vô sở úy, tự nhiên hiển hiện không chỗ tổn hại; hoặc hiện pháp giới mà vô thân hình. Đó là mây mưa pháp âm của Đại thánh trùm khắp thế giới. Tùy theo âm thanh tín lạc của chúng sinh mà diễn xuất ra ánh sáng trừ các cấu trược. Ánh sáng ấy gọi là Bình đẳng ánh sáng; hoặc gọi là Vô lượng ánh sáng, hoặc gọi là Phổ thế, hoặc gọi là Tạng bí áo của chư Phật kiến lập, hoặc gọi là ánh sáng chiếu thế gian, hoặc gọi là hành nhập vô tận Tổng trì môn, hoặc gọi là Kỳ ý bất loạn, hoặc gọi là kỳ tâm vô lữ, hoặc gọi là Du bộ phổ nhập, hoặc ánh sáng ấy gọi là Duyệt khả chúng nguyện. Nghe được các hiện tượng mưa pháp và âm thanh sấm rền như thế thì đạt đến Chánh giác, hiểu rõ Phật đạo. Nếu nghe được sấm vang bình đẳng thì thông đạt đến ấn pháp Ly cấu. Các âm thanh tự nhiên của sấm chớp Tam-muội như: Tam-muội Nhất thiết pháp tự tại, Tam-muội Kim cang tràng, Tam-muội Tu-di tràng phan, Tam-muội Nhất định quan, Tam-muội Cự Hải ấn, Tam-muội Khả chúng thứ tâm, Tam-muội Vô tận hưởng giải thoát vô sân, Tam-muội Vô sở chí lạc, Tam-muội Thường mẫn vô thất. Giả sử, xiển dương âm thanh ấy thì làm cho mỗi một chúng sinh đều được nghe âm thanh Phật pháp. Đó là thân Như Lai, diễn bày cam lồ, xuất sinh ra vô lượng mây mưa pháp âm, tuyên giảng chánh pháp, tự tại không ai bằng, làm vui lòng tất cả chúng sinh, đó là cửa Chánh giác Nhất thiết trí không thể nghĩ bàn. Làm vui lòng tất cả chúng sinh thì lúc ấy gọi là hiểu rõ đạo tràng trí tuệ rộng lớn và phương tiện vô cấu đã thành tựu từ xưa. Đại từ đại Bi rốt ráo không lỗi lầm, hưng khởi đạo hóa độ. Đó là tuân theo định quyết nơi thân tâm của tất cả Bồ-tát, sau đó mới diễn mưa đại pháp. Này Phật tử! Các sắc tượng hiển hiện mưa mưa pháp từ bi không thể nghĩ bàn như thế sẽ mưa ra Bình đẳng giác, khai hóa thân tâm cho tất cả chúng sinh. Như Lai chí chân thông suốt những điều khó có thể thông suốt, ban cam lồ vô cực, hoặc thị hiện đi đến Bồ-đề đạo tràng vì chư Bồ-tát tuyên đại mưa pháp, gọi là pháp giới không chỗ hư hoại, thì các vị Bồ-tát ấy sẽ được thành tựu quả vị Nhất sinh bổ xứ, rốt ráo thù thắng. Lại có đại mưa pháp gọi là Như Lai bí mật tạng Bồ-tát Sở Lạc thì cũng tác thành cho các Bồ-tát thành tựu đạo quả Nhất sinh bổ xứ. Có đại mưa pháp gọi là Nghiêm tịnh sức, khiến khắp chúng sinh không chỗ trái mất, không bỏ Bồ-tát thừa, Như Lai thừa. Có đại mưa pháp tên là Trang hiệu đạo tự nghiêm sức, hợp thành pháp nhẫn và bảo tuệ của các Bồ-tát. Có hạnh Bồ-tát gọi là Thiện hóa không bao giờ đoạn mất mà luôn xiển dương mưa pháp. Có hạnh Bồ-tát thành tựu gọi là Vô mạn môn, đi vào cửa thâm diệu mà hành dụng không chán mệt. Lại có mưa pháp làm cho Bồ-tát mới phát tâm tuân hành Vô thượng đạo gọi là Như Lai hành. Đại từ đại Bi cứu giúp chúng sinh, hưng phát mưa pháp, giáo hóa Duyên giác thừa hành trong tín lạc. Vì chúng sinh mà thuyết về đạo lý mười hai nhân duyên, hoặc lên nữa là có quả giải thoát gọi là Nhập phổ trí, đoạn trừ các kiến sự mà diễn nói mưa pháp khai hóa Thanh văn thừa cùng chúng sinh tín lạc. Dùng đao Thánh đạt chặt đứt tất cả phiền não cấu bẩn. Có kiếm trí tuệ mà ban rải mưa pháp gọi là Hưng diệt chư hại. Vì những kẻ tà kiến sâu nặng không thể tỏ ngộ thì tích lũy gốc đức mà mưa các pháp. Nghe được âm thanh ấy thì gọi là Mưa pháp hiển bày mười pháp, tức được sung mãn trùm khắp tất cả. Tùy theo sự tín lạc của chúng sinh mà tương ưng với cõi giải thoát. Như Lai diễn đại mưa pháp lớn biến khắp pháp giới, không một chỗ nào mà không thấu suốt. Đại Thánh chưa từng tham tiếc đối với pháp, chỉ tùy theo chỗ hành thuần thục và căn nguyên tinh tấn được chừng nào mà hiện bày đại mưa pháp. Này Phật tử! Đó là duyên sự thứ mười nơi hạnh chư Bồ-tát.  
	Bồ-tát lại nói kệ rằng:  
	Giống như mây đùn lại  
	Bốn phương gió nổi lên  
	Vì mưa nên trải qua  
	Cùng dòng chảy của nước.  
	Bồ-tát phân biệt nói  
	Vì gốc đức chúng sinh  
	Nên trong đời hiện tại  
	Lập Tam thiên giới này.  
	Chư Mười Lực cũng vậy  
	Khéo tu tuệ là gió  
	Nhân duyên giáng mưa pháp  
	Chí tánh thật lắng trong  
	Quán chúng sinh vô sự  
	Đem thanh tịnh khuyến trợ  
	Nghĩa là chư Mười Lực  
	Làm Đạo sư khai hóa.  
	Ở trong chốn hư không  
	Đùn mây và mưa xuống  
	Hư không gánh chịu cả  
	Nắm giữ nước mưa ấy.  
	Do đời gặp tai biến  
	Mới nhận chịu được vậy.  
	Rõ ngôn từ, không chấp  
	Thân giới là rộng khắp  
	Chư Mười Lực như vậy  
	Tự nhiên vô sở hữu.  
	Chỗ nói của Đại thánh  
	Ngôn âm của pháp giới.  
	Mà mưa pháp giáo hóa  
	Thấm nhuần không thể lường  
	Không thể nắm giữ nổi  
	Chỉ có pháp tịnh chí.  
	Chưa từng có niệm ấy  
	Chỗ tạo sự đi về  
	Cũng lại không chỗ tạo  
	Mãi không sự gặp gỡ.  
	Giống như trong hư không  
	Mây mù tạo mưa tuôn  
	Chỉ tạm gọi pháp vậy  
	Tự nhiên mà không hóa.  
	Chư Mười Lực cũng vậy  
	Mưa pháp vô sở hữu  
	Cũng không đến từ đâu  
	Chưa từng thấy đi đâu.  
	Tận oai thần Bồ-tát  
	Mà hưng tạo hạnh ấy  
	Biết rõ pháp huyễn hóa  
	Giúp đời mà giáng mưa.  
	Chúng sinh không chỗ hành  
	Thì không có tam giới  
	Giống như mây tự nhiên  
	Mưa rơi nước theo xuống.  
	Chỉ có Tự tại tôn  
	Gọi là thầy Tam thiên  
	Tạo lập được tự tại  
	Quả báu bản phước ấy.  
	Mưa an lành như thế  
	Khắp cõi Phật trọn vẹn  
	Niệm nghĩ cùng hạn lượng  
	Không thể kể đếm được.  
	Ở trên chúng sinh ấy  
	Bậc tôn quý ở đời  
	Suy xét về mưa này  
	Đạo báu từ nơi tay.  
	Vắng lặng nên an nhiên  
	Tự tại được thông tỏ  
	Đoạn trừ các việc khác  
	Chỗ khởi mọi ngăn che.  
	Diệt sạch các cấu uế  
	Hành đạo báu ích lớn  
	Phẩm trụ ba ngàn cõi  
	Tất thấu tỏ hết thảy.  
	Bậc Mười lực như vậy  
	Dứt mọi phiền não dục  
	Tư duy, niệm an nhiên  
	Muôn đức không thể lường.  
	Lại nên đoạn trừ hẳn  
	Tất cả các tà kiến  
	Chí tánh hành phân biệt  
	Báu tối thắng sung mãn.  
	Chân đế chỉ một vị  
	Từ hu không giáng mưa  
	Chốn mưa không ngằn mé  
	Tung rải khắp mọi xứ.  
	Lại tính kể lượng mưa  
	Tưởng không hợp chẳng hợp  
	Đến nơi không ngằn mé  
	Thành Phật cùng Thánh chúng  
	Hết thảy đều thọ trì  
	Phần tượng pháp như vậy.  
	Phật dạy: Do mười tên đức, nên đối âm thanh của Như Lai nhập vào chốn không hạn lượng. Những gì là mười?  
	1.     Hội nhập nơi hư không, tức không hạn lượng, đến khắp tất cả cảnh giới của các pháp nên không hạn lượng.  
	2.     Hội nhập trọn vẹn, phân biệt hiểu rõ về cảnh giới của chúng sinh, tứ không hạn lượng.  
	3.     Hội nhập nơi tâm vui thích của tất cả các loài, chỗ hướng tới tội phước, nên không hạn lượng.  
	4.     Hội nhập nơi nhân duyên báo ứng theo mầm loại, dứt trừ các thứ kết sử phiền não, nên trí tuệ không hạn lượng.  
	5.     Hội nhập nẻo vắng lặng rốt ráo, an nhiên nơi âm thanh vô sinh, nên không hạn lượng.  
	6.     Thuận theo chỗ ưa thích của chúng sinh để mở bày đẫn dắt, giáo hóa, đạt đến giải thoát, nên không hạn lượng hợp với vị giải thoát.  
	7.     Hội nhập nơi ba cõi, không có ngằn mé, nên không hạn lượng. Ở nơi không tận cùng, đạt được không cảnh giới.  
	8.     Hội nhập nơi hành tuệ nên không hạn lượng.  
	9.     Tuyển chọn các pháp cốt yếu, ở nơi cảnh giới của chư Phật không còn chuyển đổi, nên không hạn lượng.  
	10.    Hội nhập nơi Như Lai, thuận theo pháp không bỏ, nên không hạn lượng.  
	Như vậy, Bồ-tát Hiền Mục! Vì âm vang của muôn loài là không thể tính kể, nên nêu rõ âm thanh của Như Lai.  
	Đức Phật nói kệ rằng:  
	Nhờ mười việc của đức  
	Nhập tuệ Phật vô lượng  
	Đến tất cả các pháp  
	Cảnh giới không hạn lượng.  
	Đại đạo cùng như vậy  
	Lồng lộng chẳng thể xét  
	Từ nhiều chốn xót thương  
	Hết thảy tất cứu độ.  
	Phân biệt cõi sinh tử  
	Muôn loài chẳng thể cùng  
	Giáo hóa trừ tội lội  
	Tâm vui khiến lãnh hội.  
	Khiến không cầu báo ứng  
	Tuệ đạo không bến bờ  
	Rõ âm thanh của Phật  
	Liền nhập nơi vắng lặng.   
	KINH NHƯ LAI HƯNG HIỂN 
	QUYỂN 1   QUYỂN 2   QUYỂN 3   QUYỂN 4 
	KINH NHƯ LAI HƯNG HIỂN 
	 
	Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Trúc pháp hộ, đời Tây Tấn. 
	Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh 
	QUYỂN 3 
	 Đức Phật dạy:  
	–Những gì gọi là chư Bồ-tát hội nhập vào chỗ niệm hành của tâm Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác?  
	Như Lai không vì tâm mà có đối tượng tư niệm, không phân biệt danh, không thức hiểu biết. Như Lai vô tâm mới có thể hội nhập vào niệm vô lượng. Như tất cả vạn hữu được tạo lập là nhờ dựa vào hư không mà thành tựu, nhưng hư không ấy không hề vướng mắc. Cũng vậy, này Nhân giả! Nếu muốn cầu đạo thì phải nương nhờ vào trí tuệ. Tất cả thế tục và việc vượt qua mọi thế sự đều nhờ vào Thánh tuệ Phật mà kiến lập và hiển bày, nhưng trí tuệ Như Lai không hề dính mắc. Đó là cửa duyên sự thứ nhất mà chư Bồ-tát hội nhập vào hành niệm của Như Lai.  
	Đức Phật nói kệ rằng:  
	Giống như trong hư không  
	Thâu nhận hết vạn hữu  
	Tất cả nương vào đó  
	Mà chẳng hề khởi niệm.  
	Diệu tuệ của Như Lai  
	Vô sở trước cũng vậy  
	Đều cứu độ tất cả  
	Mà chẳng nghĩ ta, người.  
	Lại nữa, này Phật tử! Giống như pháp giới đều không lìa tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác và tất cả Bồ-tát đã tự tại với nghiệp tập mà pháp giới ấy không hề tăng, chẳng hề giảm. Đại đạo cũng vậy, trí tuệ Như Lai dung chứa thế gian, trí tuệ vượt thế gian, suy niệm thấu đạt phân minh, hành dụng bằng phương tiện quyền xảo mà trí tuệ ấy không hề tăng giảm. Đó là cửa duyên sự thứ hai.  
	Rồi nói kệ rằng:  
	Ví như Thanh văn địa  
	Cùng với Duyên giác thừa  
	Các Bồ-tát Đại sĩ  
	Đều từ pháp giới sinh.  
	Thánh giả cũng như vậy  
	Tuệ vô cực rõ không  
	Bình đẳng không tăng giảm  
	Cứu độ chẳng thân sơ.  
	Lại nữa, này Phật tử! Ví như đại hải cùng bốn đại vực và tám ngàn ức cõi liên tiếp với nhau, đến chỗ tận cùng của mặt đất thì khắp nơi đều lấy được nước, nước ấy tự nhiên tuôn trào mà không hề niệm khởi. Trí tuệ của Như Lai cũng như vậy, đến khắp tất cả tâm ý của chúng sinh, không chỗ nào mà không thấu tận. Tùy theo tâm niệm hiện tại của chúng sinh mà kiến lập pháp môn thanh tịnh để tùy thuận, làm cho tất cả đều đạt đến trí tuệ tự nhiên. Lại nữa, Như Lai Thế Tôn diễn bày trí tuệ đều bình đẳng, chỉ tùy theo chí tánh của chúng sinh mà dùng những duyên sự sai khác để trị bệnh cho mỗi một, khiến cho công đức đạo quả đều vượt hẳn đời. Đó là duyên sự thứ ba.  
	Rồi nói kệ rằng:  
	Ví như bốn biển cả  
	Cùng tám ngàn ức cõi  
	Đều liên tiếp với nhau  
	Chỗ tận cùng mặt đất  
	Nơi nào cũng có nước  
	Tuôn chảy rất tự nhiên  
	Biển nước không khởi niệm.  
	Như Lai tuệ cũng vậy  
	Đến với tâm chúng sinh  
	Chỗ nào cũng thấu đạt  
	Tùy sở thích chúng sinh  
	Dẫn dắt, khai hóa họ  
	Đến ánh sáng thanh tịnh  
	Đạt ánh sáng tự tại  
	Chỗ diễn bày bình đẳng  
	Như Lai chẳng nhớ nghĩ.  
	Lại nữa, này Phật tử! Giống như biển lớn tự có bốn đại bảo châu Như ý, tích lũy vô lượng công đức. Ngọc Như ý này không do Long thần có đức sinh ra mà do từ biển cả sinh khởi. Nó sinh ra tất cả các vật báu, khiến hết thảy chúng sinh đều ngưỡng mộ, không ai mà không được giúp nhờ. Những gì là tên của bốn đại bảo châu như ý?  
	1.     Đẳng tập chúng bảo.  
	2.     Vô tận âm.  
	3.     Quy thú.  
	4.     Đẳng tập chúng từ.  
	Đại bảo châu như ý này là một linh vật phi phàm, tất cả A-tuluân, Ca-lâu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, chư long, quỷ thần cùng các loại thủy cư, các loài có sinh vật đều có thể được nhờ nơi ánh sáng ấy. Vì sao? Vì vật báu này sinh ra tại Hải Long vương tạng. Lại nữa, các ma-ni bảo châu của Đại hải thiên ở bốn góc của bốn phương cung điện Hải Long vương, mỗi một đều riêng biệt. Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác cũng như vậy, công đức của pháp đạo sáng rỡ, hiển lộ, có bốn đại bảo trí tuệ vô cực. Như Lai dùng bốn đại tuệ bảo này đểâ khuyến hóa, dẫn dắt tất cả chúng sinh hàng Hữu học, Vô học, cho đến tuệ báu của Duyên giác, Bồ-tát đều duyên vào đó mà đạt đến cùng cực, không ai là không được tế độ. Những gì là bốn?  
	1.     Hưng khởi pháp lạc, cho đến trí tuệ không chỗ trụ và phương tiện quyền xảo.  
	2.     Trí tuệ pháp bảo tạng hữu số, vô số, hữu vi, vô vi.  
	3.     Ở trong các pháp giới mà không chỗ hư hoại.  
	4.     Đại trí tuệ bảo tùy thời diễn bày tuệ sáng để được siêu độ, trí tuệ biết thời hay phi thời hoặc sự nhiễu động lầm lỗi.  
	Đó là bốn đại bảo tuệ. Dùng bốn đại bảo tuệ này mà cầu Như Lai tạng, nhập vào kho tàng đạo thì không cùng cấu nhiễm với chúng sinh, ở trong chúng sinh mà được khai mở thượng tuệ, làm cho chư Bồ-tát tự tại, đi khắp bốn phương, huân tập Vô thượng Chánh chân mà luôn đứng vững không hề thoái chuyển. Đó là cửa duyên sự thứ bốn.  
	Rồi nói kệ rằng:  
	Nghĩa mầu bốn châu báu  
	Đạt diệu tạng an trú  
	Vì vậy trong biển lớn  
	Tự nhiên sinh các báu  
	Minh châu như ý ấy  
	Luôn thanh tịnh vi diệu  
	Nằm riêng ở bốn phương  
	Mỗi phương đều sáng rỡ.  
	Bốn phẩm tuệ Như Lai  
	Vô lượng không giới hạn  
	Thánh an trú lồng lộng  
	Khai đạo khắp năm nẻo  
	Chí tuệ vô cực ấy  
	Không hề tưởng nghĩ khác  
	Quán các bậc Mười lực  
	Sở thuyết đều thông đạt.  
	Lại nữa, này Phật tử! Có biển lớn kia lại hiện ra bốn đại bảo châu Như ý, oai thần vời vợi, ánh sáng vô cực. Ánh sáng công đức của ngọc Như ý ấy làm tiêu tán chỗ nước tụ của biển lớn khiến cho nước không còn tuôn trào mà biển lớn ấy vẫn không hề tăng giảm. Vì vậy, nên đại bảo châu Như ý này thường khiến cho biển lớn tự dừng hẳn sự tích chứa. Tên bốn đại bảo châu Như ý là gì?  
	1.     Nhật chi diệu tạng đại bảo châu Như ý.  
	2.     Sư tử chi bộ đại bảo châu Như ý.  
	3.     Chiếu diệu ánh sáng đại bảo châu Như ý.  
	4.     Vô dư cứu cánh đại bảo châu Như ý.  
	Giả sử biển lớn không có đại bảo châu Như ý này thì nước sẽ chảy tràn trề khắp bốn đại vực, nước chảy mênh mang đến cả Vi thần sơn, Đại vi thần sơn đều sẽ chìm ngập. Nhật diệu tạng bảo châu Như ý ấy làm cho nước trong biển lớn biến đổi hai cách, tức là ánh sáng của nó chiếu tỏa ra làm tiêu tan nước biển và khiến sắc nước biển thành như nước sữa. Ánh sáng của Sư tử bảo châu như ý chiếu tỏa làm sắc màu của nước sữa ấy thành dạng Tô đoàn, rồi ánh sáng của ngọc Như ý chiếu diệu quang minh chiếu vào làm mất đi dạng váng sữa. Như lúc kiếp nạn lửa cháy, ngọn lửa dữ dội thiêu đốt trời đất, ánh sáng của ngọc đại châu Như ý này chiếu vào biển lớn làm cho lửa bỗng nhiên biến mất và không biết về đâu.  
	Như vậy, này Nhân giả! Như Lai Chánh giác chỉ vì chúng sinh nên dùng bốn tuệ soi sáng tất cả. Vì ánh sáng chiếu soi ấy đến chư Bồ-tát làm cho chư Bồ-tát đạt Tam-muội Như Lai. Bốn tuệ ấy là gì?  
	1.     Dùng sông pháp để tẩy trừ các tội cấu.  
	2.     Dứt hết ân ái, khiến thành tựu đạo hóa độ.  
	3.     Dùng ánh sáng của trí chiếu khắp thế gian.  
	4.     Trí tuệ Như Lai không tối không sáng. Đó là bốn Đại trí tuệ của Như Lai, vì chư Bồ-tát mà nhẫn chịu mọi sự sợ hãi, trồng gốc công đức không thể nghĩ bàn, đạt đến chỗ Nhất phẩm. Chúng chư Thiên, cõi người, A-tu-la không kham nổi các hoạn nạn và vô lượng thống khổ. Nếu gặp được cảnh giới vắng lặng của Như Lai, được ánh sáng trí tuệ soi chiếu thì hàng phục các chấp trước, kiến lập Tam-muội, thường nghe lời khen ngợi Pháp tạng, đi qua khỏi biển sinh tử, gặp được Như Lai, được trí tuệ khai hóa, thuần vui Tam-muội. Vì được hưng khởi với thần thông Đại Thánh, pháp âm hành dụng vi diệu, đại tuệ soi chiếu thế gian tiêu trừ cấu uế, đạt đến hạnh thần túc; có thể tự kiến lập ánh sáng lớn cho đời, dẫn đường cho kẻ mù tối, không tối không sáng. Nhờ Thánh tuệ của Như Lai ấy nên có thể hàng phục tà trí của thế gian. Bậc Đại nhân hành Tam-muội không định, dứt sạch tất cả của cải tài nghiệp, thân vô sở hữu nên đạt được trí tuệ đại đạo này. Nếu không có ánh sáng nơi bốn trí tuệ ấy của Như Lai mà muốn làm cho chư Bồ-tát đạt đến chánh định của Như Lai Chí Chân Chánh Giác là điều chưa từng có. Cũng không thể diệt trừ bốn khổ sinh lão bệnh tử, đạt vô sở úy, hành vô bản tế. Đó là cửa duyên sự thứ năm.  
	Rồi nói kệ rằng:  
	Nước biển không hạn lượng  
	Có bốn thứ ngọc báu  
	Đại oai lực vô cực  
	Lại có Vi diệu tôn  
	Các sông suối bốn phương  
	Thường chảy vào biển lớn  
	Mà biển chẳng tăng giảm.  
	Tuệ xứ tại pháp tòa  
	Đoạn sạch các chấp trước  
	Đem pháp bố thí khắp  
	Hoan hỷ không chỗ nói.  
	Bốn tuệ bậc An trú  
	Đều vì các Bồ-tát  
	Tối thắng và Bồ-tát  
	Chưa từng có lo ngại.  
	Lại nữa, này Phật tử! Ví như từ phương dưới là mặt nước lên cao cho đến cõi trời Tưởng, Vô tưởng thiên, cho đến tam thiên đại thiên thế giới đều ở hư không. Như vậy thì tất cả chúng sinh hữu hình trong ba cõi đều không lìa hư không mà hư không không hề tính nghĩ, không khởi ta người, không chỗ nương tựa, không hề chấp trước, không chỗ bức bách. Sinh tử cũng vậy. Xét thấy ở mười phương đều trùm khắp hư không, hàm nhận tất cả thế giới của chư Phật mà không chỗ nhận. Như vậy, này Nhân giả! Trí tuệ của Thanh văn và Duyên giác thừa, Hữu vi hành tuệ, Vô vi hành tuệ đều dựa vào trí tuệ Như Lai. Sự khai hóa theo trí tuệ của Như Lai nhằm thông đạt đại đạo, vào trọn tất cả, không một chỗ nào không giáp khắp mà không hề tưởng nghĩ, cũng không hề ngăn ngại, thường dùng Thánh trí tế độ vô số. Đó là cửa duyên sự thứ sáu.  
	Rồi nói kệ rằng:  
	Từ xa ở phương dưới  
	Khởi đến nơi cõi trên  
	Tất cả ba ngàn cõi  
	Dục, Sắc, Vô sắc giới  
	Chỗ trú, không chỗ trú  
	Các cõi không ta người  
	Không tính nghĩ thường có  
	Không nghĩ sự đoạn mất.  
	Tuệ an trú cũng vậy  
	Tất cả gốc của tuệ  
	Hàng Hữu học, Vô học  
	Cùng các Duyên giác thừa  
	Chúng Bồ-tát minh đạt  
	Chí nguyện luôn Từ bi  
	Hoặc kiến lập đạo ngôn  
	Trí tuệ Phật tối thượng.  
	Lại nữa, này Phật tử! Ví như ở mặt đất, trên đỉnh núi Sơn vương mọc lên cây đại thọ gọi là Vô căn nguyên. Cây to lớn này có rễ ăn thông xuống mặt đất sáu vạn tám trăm ngàn do-tuần, qua khỏi tầng Kim cương, đến tầng Thủy giới và trụ vững ở đó, không thể nhổ lên được. Rễ của nó phân bố giáp vòng khắp cõi Diêm-phù-đề. Mầm mống của vạn vật đều vây quanh nó. Nếu gần thân thì sinh ra thân, gần cành thì sinh ra cành, gần đốt thì sinh ra đốt, gần lá thì sinh ra lá, gần hoa thì sinh ra hoa, gần quả thì sinh ra quả. Cây cối hoa quả của thiên hạ đều nhờ nơi đại thọ này mà có. Lại nữa, rễ của đại thọ ấy chuyển thành thân thể và thân thể của nó cũng làm cho rễ chuyển. Có hai chỗ mà nó không sinh ra vạn vật là gần với địa ngục và ở với nước thuần âm. Tuy ở những chỗ ấy nhưng nó cũng không hề chuyển đổi. Đó là vì pháp là như thế. Những chỗ còn lại trên đại địa, chỗ gốc rễ phân bố và chỗ sinh trưởng của đại thọ ở tận mặt đất thì tất nhiên là vậy. Đạo tuệ của Như Lai thì cũng như thế, từ gốc thanh tịnh tức dùng Đại bi, sinh nguồn kiên cố, bình đẳng giác chủng, ấy là chân đế thông đạt chỗ cốt yếu vi diệu mà chẳng đồng, đó là gốc rễ. Phương tiện quyền xảo là thân, trí tuệ là cành, pháp giới là đốt, cửa giải thoát nhất tâm chánh thọ không chỗ hư hoại là lá cây; giác ý trang nghiêm là hoa, suốt cả thân cây các thông tuệ giải thoát tri kiến là quả; biện tài vô ngại không chỗ nào mà không thông đạt là đất. Trí tuệ ấy của Như Lai không có rễ bám. Vì dùng những gì mà không có rễ bám? Vì vĩnh viễn không chỗ tin chấp ấy mới gọi là rốt ráo. Nghĩa là do không rễ bám mới có thể hưng khởi vô sở hành, kết thúc hạnh Bồ-tát, tức là vô bản, ấy gọi là Như Lai. Diễn bày hạnh Bồ-tát gọi là không chỗ nương tựa. Nếu có Bồ-tát thân cận nguồn tuệ vô cực của Như Lai, thì không xả bỏ tất cả chúng sinh. Vì đạo căn ấy mà sinh đại Bi. Gần với thân cây thì tinh tấn kiên cố, vì thân cây ấy sinh ra cành Độ vô cực lớn lên và thành tựu. Gần cành thì sinh ra lá, tức là học cấm giới biết tùy thời tịch mịch. Gần hoa là các tướng tốt và vô lượng gốc đức vậy. Đốt cây là sự tùy thời, lại sinh ra quả tức là sự rốt ráo Vô sinh pháp nhẫn, không lời thô ác, dịu dàng hòa nhã. Lại nữa, trái cây là các thông tuệ, là đạo quả. Do đó trí tuệ Như Lai không sinh ở hai chỗ. Những gì là hai?  
	1.     Cái hang lớn vô vi và hữu vi, nếu rớt vào khe suối mà đi đến chỗ không cùng cực vô vi, tức là ở nơi Thanh văn thừa và Duyên giác thừa.  
	2.     Lại nữa, chí tánh ấy không cùng kết hợp, cũng vô sở úy, dạo nơi nguồn cội ba dòng ba ái, đối với trí tuệ của Như Lai không chỗ sinh ra cũng không chỗ trở về. Nếu có chỗ sinh, đã đạt Thánh tánh tu tâm bình đẳng thì đối với chư Bồ-tát không có đây kia.  
	Vả lại, quán Chánh giác, đại đạo sáng rõ hiển lộ, vòi vọi không bờ mé, nhân vì tuệ chân đế không tăng giảm. Rễ ấy bám trụ bền chắc làm cho chúng sinh thông đạt rốt ráo, hiểu rõ chỗ không dốc sức tin tưởng. Đó là cửa duyên sự thứ bảy.  
	Lúc đó, Đức Phật nói kệ tụng:  
	Trùm trên đỉnh Tuyết sơn  
	Đại thọ Vô căn trước  
	Cây ấy có thần lớn  
	Oai sáng không gì bằng  
	Nuôi lớn khắp tất cả  
	Mọi cây cối núi rừng  
	Mà rễ, thân, cành, lá  
	Cành nhờ các căn nguyên.  
	Tất cả chư Phật chủng  
	Đạo tuệ tự nhiên thành  
	Công đức cũng như vậy  
	Vâng tu Nhất thiết trí  
	Hành Phật đạo hiểu rõ  
	Phụng tuyên theo đường  
	Thánh Huân từ bi bình đẳng  
	Sinh trưởng Giác minh triết.  
	Lại nữa, này Phật tử! Như kiếp tai biến, lửa lớn sáng rực thiêu cháy tam thiên đại thiên thế giới, tất cả cây cối, dược thảo vạn vật cho đến cả Vi thần sơn, Đại vi thần sơn, Đại kim cương sơn không có gì là không bị thiêu đốt. Giả sử có người lấy cỏ tranh khô, gỗ cây tùng lớn ném vào lửa hừng hực ấy thì ý ông thế nào, có một lá nào không cháy chăng?  
	Bồ-tát đáp: Không thể không bị đốt cháy, không đốt cháy là điều không thể có.  
	Phật bảo: Đúng vậy. Nếu có thể làm cho lửa không thiêu đốt cây cối hoặc hạn chế sự thiêu đốt ấy thì chỉ có Thánh tuệ ba Đạt thần trí của Như Lai. Số lượng chúng sinh, cõi nước nhiều ít, tận cùng các pháp, vô số kiếp quá khứ, hiện tại và vị lai không thể thấy khắp mà có ngăn ngại là điều chưa từng có. vì sao? Vì đạo tuệ Chánh giác không có hạn lượng, không thể nghĩ bàn, không gì mà không thông triệt nên gọi là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Đó là duyên sự thứ tám.  
	Rồi nói kệ tụng:  
	Như gặp kiếp tai biến  
	Biến đổi cả trời đất  
	Đốt cháy cùng một lúc  
	Cây cối cùng sinh mạng  
	Phật tử hãy nghe quán  
	Những thứ ở nơi này  
	Kim cương còn tiêu chảy  
	Huống gì là cây cỏ  
	Gò đồi cùng tất cả  
	Đâu thể thoát lửa ấy.  
	Trí tuệ bậc An trú  
	Đều biết rõ mảy may  
	Mọi chúng sinh vị lai  
	Trải vô số cõi kiếp  
	Chư Phật đều thấu đạt  
	Như vậy không cùng tận.  
	Lại nữa, này Phật tử! Ví như lúc gặp kiếp phong tai, có ngọn đại phong tên là Hủy minh. Sức tàn phá của nó có thể hủy hoại cả Vi thần sơn, Đại vi thần sơn cùng Kim cương sơn và tất cả tam thiên đại thiên thế giới cũng bị thổi tan nát không còn sót một thứ gì. Lại có ngọn gió lớn gọi là Nhân duyên cái; mỗi khi thổi thì cả tam thiên đại thiên thế giới đều bị nâng bổng lên và mang đến đặt ở Phật quốc khác. Giả sử ngọn gió Nhân duyên cái ấy tự tung hoành một mình mà không có ngọn gió Hủy minh thì nó sẽ tàn phá cảnh giới chư Phật trong mười phương không thể suy lường. Như vậy, này Nhân giả! Như Lai có đại trí tuệ Vô cực gọi là Hủy hoại nhất thiết trần dục. Đấng Chánh giác dùng đại tuệ Vô cực này thổi trừ tất cả vô số phiền não ngăn ngại của chúng Bồ-tát. Như Lai lại có vô lượng Thánh đẳng gọi là Tổng nhiếp đại quyền phương tiện. Nó có thể tiêu diệt được tai họa ái kết, đạt đến đạo tràng vi diệu. Nhờ đó mà có thể khai hóa các Bồ-tát mới phát tâm và tất cả các căn chưa thuần thục. Giả sử chư Như Lai không có Đại quyền phương tiện tổng nhiếp thành đại đạo thì khiến cho vô số chúng Bồ-tát tu ở Thanh văn và Duyên giác thừa. Thế Tôn dùng phương tiện quyền xảo, tùy thuận làm cho chư Bồ-tát Đại sĩ siêu vượt lên quả vị Thanh văn và Duyên giác, nhờ vậy mà được tự tại và không chỗ trụ. Đó là cửa duyên sự thứ chín.  
	Rồi nói kệ tụng:  
	Sợ hãi kiếp phong tai  
	Chư Thiên loạn không an  
	Thần, Vi, Tu-di sơn  
	Thảy đều bị phá hủy  
	Một khi gió hưng khởi  
	Không cách gì chế ngự  
	Vô lượng các cõi Phật  
	Nghiền nát không sót gì  
	Nhờ các bậc Mười lực  
	Đắc Thánh tuệ tự tại  
	Có thể hủy tan nát  
	Trần lao nơi Bồ-tát  
	Lại có gió Đại phong  
	Vâng tu quyền phương tiện  
	Liền dùng để cứu hộ  
	Hành giả Thanh văn an.  
	Lại nữa, này Phật tử! Trí tuệ Như Lai hội nhập tất cả Thánh trí mênh mông, không một chỗ nào không cùng khắp, trong cảnh giới đầu cuối của tất cả chúng sinh. Vì sao? Vì nếu còn dục tưởng mà muốn đạt cùng trí tuệ của Như Lai là điều chưa từng có. Lại nữa, trí tuệ của Như Lai là trí tuệ tự tại, xa lìa các tướng, nghĩa là đến đi tự tại không hề ngăn ngại. Giả như viết một cuốn kinh lớn bằng tam thiên thế giới; hoặc có một cuốn đại kinh chưa viết thành, lớn bằng biển của tam thiên thế giới; hoặc lớn như Thần vi sơn, Đại thần vi sơn; hoặc lớn như đại địa. Nói tóm lại, là lớn như một ngàn thế giới; hoặc như cõi bốn châu thiên hạ, hoặc như cõi Diêm-phù-đề, hoặc như biển cả, hoặc như Tu-di sơn, như Đại thần cung, Dục hành thiên quán, hoặc như Sắc hành thiên, Vô sắc hành thiên. Giả sử kết tập thành đại kinh rộng dài trên dưới như tam thiên đại thiên thế giới mà có một hạt bụi trên đó. Lại nữa, trên các quyển kinh, mỗi một đều có bụi trần và đều biến khắp trong cuốn đại kinh. Lúc đó, có một trượng phu tự nhiên xuất hiện, trí tuệ thông minh, thân đi vào trong đó, vị ấy lại có Thiên nhãn thanh tịnh, chỗ thấy cùng khắp. Ông ta lại dùng Thiên nhãn để quán sát khắp cuốn đại kinh ấy thì thấy mình không có lợi lạc gì cho chúng sinh, cũng như mảy bụi trần nhỏ bé nằm trên bộ đại kinh rộng lớn vô cực ấy. Nên ông ta nghĩ: “Ta có thể dùng sức đại tinh tấn vô cực để mở bày và lãnh hội kinh này, đem đến lợi lạc cho chúng sinh”. Vừa nghĩ vậy xong, ông ta liền được hưng khởi sức đại tinh tấn vô cực, đúng như sở nguyện, nắm bắt và tự khai giải kinh này để đem đến cho muôn loài. Rồi từng quyển kinh một trong vô số quyển kinh của bộ đại kinh, ông ta cũng đều làm như vậy. Cũng như thế, này Nhân giả! Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác dùng vô lượng ánh sáng trí tuệ không thể nghĩ bàn nhập vào nẻo hành của biển tâm tất cả chúng sinh, thấu hiểu hết thảy chí tánh của họ. Trí tuệ của Như Lai trùm khắp tất cả, không chỗ nào là không thấu đạt, không bao giờ cùng tận. Trí tuệ bậc Chánh giác không thể nghĩ bàn, quán sát tất cả cảnh giới của chúng sinh, thật là kỳ lạ chưa từng có. Chúng sinh mê tối mới không thấy rõ Thánh tuệ của Như Lai. Đức Thế Tôn vào khắp tất cả và tự nghĩ: “Ta có thể tuyên thuyết và hiển bày đại đạo làm cho các tưởng của chúng sinh tự nhiên đoạn trừ”. Như năng lực nơi cõi Thánh của Pháp thân Phật sẽ làm cho tâm niệm chấp trước được xả ly. Giả sử trí tuệ chánh chân hiểu rõ nghĩa lý và chỗ quy thú đạt đến Chánh định Tam-muội vô cực, diễn thuyết chánh đạo, trừ tất cả tưởng chấp, dạy bảo chúng sinh khiến họ nghĩ đến đạo tuệ vô thượng. Giáo hóa tất cả chúng sinh trong năm đường đến chỗ vô cực. Này Phật tử! Đó là việc thứ mười mà Như Lai chí chân khuyến tâm các Bồ-tát nhập vào nghĩa lý của đạo. Như vậy mà nói, nhờ trí tuệ của Như Lai đã khai hóa tế độ chư Bồ-tát làm cho tâm họ được vào đại đạo.  
	Rồi nói kệ tụng:  
	Giống như có quyển kinh  
	Lớn bằng tam thiên giới  
	Tự nhiên có bụi trần  
	Đều rải khắp trên ấy  
	Có Trượng phu trí tuệ  
	Mắt sáng thấu kinh này  
	Thông suốt, phân rải khắp  
	Bố thí cho năm đường.  
	Thế Tôn cũng như vậy  
	Trí tuệ như biển lớn  
	Thấy tâm niệm chúng sinh  
	Đều mê hoặc, vọng tưởng  
	Phật thương xót tất cả  
	Nên giải trừ các tưởng  
	Chư Bồ-tát kính ngưỡng  
	Bỏ hẳn các chấp trước.  
	Lại nữa, này Phật tử! Sao gọi là Bồ-tát hội nhập cảnh giới Như Lai? Đối với Bồ-tát ấy nhập vào vô ngã, biết rõ tất cả cảnh giới đều là cảnh giới của Như Lai; tất cả Phật quốc, hết thảy cảnh giới, chúng sinh giới đều không có tự thể riêng biệt, không chỗ hư hoại. Pháp giới ấy không hề có sự che chướng. Lại nữa, bản tế vốn không có bờ bến, giống như hư không, không hề có biên giới, cũng không có cái không có. Bồ-tát dùng điều đó để vào hội nhập cảnh giới của Như Lai. Giống như các loài chúng sinh không có hạn lượng, không có bờ mé, cảnh giới của Như Lai cũng như vậy. Vì sao? Vì chỗ tư niệm của chúng sinh không thể tư lường, Như Lai dùng vô lượng tuệ mà khai hóa họ. Như Long vương Tôn nhiếp thâu gồm vô lượng nước ấy mà được tự tại, tùy thời tuôn mưa không thể tính đếm, nước ấy không từ trong ra, cũng không từ ngoài vào. Cảnh giới của Như Lai cũng như vậy, tùy theo ý muốn của chúng sinh mà tạo dựng và liền tự thành tựu. Như Lai không có thầy, cũng không có nơi tham vấn. Như nước trong biển lớn, không có hạn lượng, chỉ tùy theo niệm khởi của Long vương. Cũng như vậy, vô lượng Thánh đạt đến các thông tuệ, hành như biển pháp, được tạo ra từ hạnh nguyện của chư Bồ-tát đã phát tâm từ quá khứ xa xưa.  
	Nhưng vì làm theo sự sai quấy mà có sự sai biệt.  
	Bồ-tát hỏi:  
	–Sao gọi vô lượng? Là biển lớn. Sao gọi là vô hạn? Là biển thông tuệ.  
	Đức Phật đáp:  
	–Có nhiều sự giải thuyết khó nghĩ bàn về biển lớn. Nay chỉ nêu lên chỗ then chốt để phân biệt. Các ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ! Trong cõi Diêm-phù-đề này có năm trăm dòng sông đổ vào biển lớn; cõi Câu-da-ni có năm trăm dòng sông đổ vào biển lớn; cõi Phất-vu-đãi có bốn ngàn dòng sông chảy vào biển lớn; cõi Uấtđan-việt có một vạn dòng sông chảy vào biển lớn. Ý ông thế nào? Nước ấy tụ hội lại chảy vào biển lớn thì nước trong biển có tăng lên nhiều không?  
	Bồ-tát thưa:  
	–Bạch Thế Tôn, rất nhiều!  
	Đức Phật dạy:  
	–Nước mưa của Thập quang Long vương thì nhiều hơn nước chảy trong các dòng sông. Lại nữa, tất cả nước của bốn đại vực và nước của Thập quang Long vương chảy vào biển lớn không bằng nước mưa của Bách quang Long vương rơi vào biển lớn. Lại nữa, nước của bốn đại vực, nước của Thập quang Long vương, Bách quang Long vương đổ vào biển lớn so với nước từ trong thân của Đại du Long vương đổ vào biển lớn nhiều gấp bội phần. Nói tóm lại, nước mưa của Ma-nại-tư Long vương thì còn nhiều gấp bội thế; nước mưa của Nanđầu, Hòa-nan, Vô lượng quang, Diệu quần Long vương, Đại diệm Long vương, Đại tần thân Long vương cũng là như thế. Mười Đại Long vương ấy cùng Lập Ý Long vương, mỗi một đều giáng mưa không thể suy lường. Nước của biển lớn ở bốn đại vực cùng nước mưa của mười Long vương và tám mươi ức Long vương đều chảy về biển lớn thì không bằng nước biển ở cõi Diêm-phù-đề. Tất cả nước ở các con sông lớn cùng nước của các mưa lớn của trưởng tử Long vương không bằng nước chảy ra từ cung điện của Thập quang đại Long vương. Tất cả sông suối ở bốn đại vực cùng mưa của các Long vương như đã nói ở trên và nước chảy ra từ cung điện của Thập quang Long vương, Bách quang Long vương đều không bằng nước chảy ra từ cung điện của Đại nghiêm tịnh Long vương. Nói chung, nước của các Long vương: Manại-tư, Lôi chấn, Nan-đầu, Hòa-nan, Vô lượng quang minh, Đại diệu quần và Đại minh diệm Long vương đều không bằng nước chảy ra từ cung điện của mười Long vương cùng cung điện của tám mươi ức Long vương. Nước từ cung mười Long vương, từ tám mươi ức Long vương cũng không bằng nước chảy ra từ cung điện của Trưởng tử Hải Long vương. Như vậy, nước của tất cả các Long vương chảy về biển lớn so với nước mưa không hoại của Đại hải Long vương là nhiều vô cùng tận. Nước của cõi Nam Diêm-phù-đề cùng nước mưa từ các cõi Câu-da-ni, Phất-vu-đãi, Uất-đan-việt, Thập quang Long vương, nước mưa từ cung điện Bách quang Long vương, Đại lưu ly Long vương, cùng nước mưa chảy ra từ các cung điện Ma-nại-tư Long vương, Lôi chấn, Nan-đầu, Hòa-nan, Vô lượng ánh sáng, Diệu quần Long vương, Đại diệm Long vương, Đại tần thân Long vương, nước chảy ra của tám mươi ức dòng họ Long vương cùng nước của nhiều cơn mưa lớn không bị hư hoại của Hải Long vương và nước của Trưởng tử Long vương ở biển bốn đại vực đều không bằng nước chảy ra từ ngọc Thanh lưu ly của Đại hải Long vương tràn đầy khắp biển lớn. Nước trong biển lớn như vậy không có hạn lượng, nên các chủng loại báu vật cũng không hạn lượng, thế giới chúng sinh cũng không hạn lượng. Quán đến đại thân không thể suy lường, nước trong biển cả không thể tính lường, các phẩm loại báu vật cũng không thể suy lường.  
	Này Phật tử! Ý ông thế nào? Nước trong biển lớn ấy thật không hạn lượng sao?  
	Bồ-tát thưa:  
	–Bạch Thế Tôn! Thật không hạn lượng. Như đức của biển cả không thể suy lường. Cũng vậy, trí tuệ của Như Lai không thể đo lường. Nhân bội trăm lần, ngàn vạn ức lần cũng không thể ví dụ được về trí tuệ và công đức của Như Lai. Không thể nương vào ngôn từ và theo chỗ kiến giải của chúng sinh mà dẫn dụ về biển lớn. Đại đạo của chư Phật còn hơn thế nữa. Nhờ vào ánh sáng Tam-muội vô biên, tức trí tuệ của Như Lai thấu đạt lồng lộng giống như biển lớn. Trí ấy vô hạn từ lúc mới phát tâm cho đến thành Nhất thiết trí của Bồ-tát không bao giờ đoạn mất. Tất cả đạo phẩm vô lượng, vô lượng đạo pháp của Tam bảo cũng không thể cùng tận. Khuyến hóa chúng sinh hàng Hữu học, Vô học của Duyên giác thừa phải quán biết điều ấy, thấy được điều ấy tức là được tế độ. Dùng Vô cực đế, chí Vô sở trú thì đều thấy biết vô lượng, trú ở quả vị an lạc Đệ nhất. Bồ-tát mới phát tâm liền có thể đạt đến phần vị không quái ngại, hóa độ chư Bồ-tát này đến chỗ không thoái chuyển. Này Phật tử! Đó là chúng Bồ-tát có thể hội nhập cảnh giới của chư Phật, cũng có thể hiện hữu khắp tất cả nơi chốn, cũng không thể nghĩ bàn.  
	Rồi nói kệ tụng:  
	Chứa các phẩm thanh tịnh  
	Vô số không thể lường  
	Cảnh giới của các niệm  
	Tất cả không bờ mé.  
	Ngang giới hạn như ý  
	Tâm ấy không cùng khắp  
	Tất cả bậc Mười lực  
	Phải cầu cảnh giới ấy  
	Giống như chỗ Rồng chúa  
	Chưa từng có rời bỏ  
	Theo sở niệm tâm ấy  
	Mà giáng mưa tuôn trào.  
	Giả sử tâm có đến  
	Nhưng có thể trở về  
	Rồng ấy không hề nghĩ  
	Ta đang cho mưa xuống.  
	Bậc Mười lực cũng vậy  
	Chưa từng có đi, đến  
	Cũng không có trở về  
	Tịch mặc “bất khả đắc”  
	Không có chỗ tạo tác  
	Huống tâm có khởi niệm  
	Pháp giới không hạn lượng  
	Giống như nước sông biển  
	Biển ấy không bờ mé.  
	Nước, vật báu cũng vậy  
	Chỗ ở mọi sinh vật  
	Tất cả không giới hạn  
	Nước ấy cùng một vị  
	Chúng sinh đều hưởng nhờ  
	Nếu ở trong chỗ ấy  
	Không uống nước nghiệp khác.  
	Đại Thánh cũng như vậy  
	Diệu tuệ không bờ cõi  
	Tam bảo không hạn ngại  
	Yếu đạo không thể bàn  
	Hàng Hữu học, Vô học  
	Muôn dân nhiều vô số  
	Chúng sinh không thể lường  
	Đạo tuệ chí nguyện Phật.  
	Này Phật tử! Sao gọi là Bồ-tát hội nhập nơi chốn hành hóa thuộc Thánh tuệ của Như Lai không hề ngăn ngại? Oai nghi lễ tiết, đến gốc Vô sinh đều giống Như Lai. Ở đời vị lai không chỗ tạo tác, tùy thời tùy duyên tự nhiên thành tựu. Hạnh Như Lai ấy không sinh không diệt, chẳng có chẳng không, cũng không vào ra ở hữu vi, vô vi. Ví như pháp giới không có hạn lượng, cũng không có cái không hạn lượng. Vì sao? Vì không có tự nhiên, cũng không có thân nên gọi là pháp giới. Đại Thánh cũng như vậy, hành không hạn lượng, cũng không cái không hạn lượng, hội nhập vô thân, cũng không tự nhiên, ấy gọi là Như Lai. Giống như chim bay trong hư không, bay trong trăm ngàn năm, dường như có chỗ đến mà không có chỗ đến. Quán trước xem sau như vậy thì thấy hư không ấy không có ngằn mé. Hạnh của Như Lai cũng như vậy, ở trong trăm ngàn ức kiếp thuyết giảng vô lượng, vô biên mà sự tán thán thì hữu hạn. Giả như vô sở thuyết thì hạnh Như Lai vẫn không hạn lượng, Như Lai đã trú hạnh không quái ngại, cũng không chỗ trụ mà vì chúng sinh nên hiển bày vô số hạnh nguyện, đi qua tất cả vết tích chướng ngại. Như chim Sí điểu vương bay trên hư không dùng mắt thanh tịnh quán sát cung điện loài rồng thấy hình dáng có đổi khác thì biết loài rồng sắp mạng chung nên nó vỗ cánh bay lên, rẽ tung nước biển, sóng nước cạn kiệt rồi vồ lấy các rồng và thê thiếp của chúng mà ăn. Như Lai cũng vậy, trí tuệ không ngăn ngại, trú vô sở hành. Ở trong pháp giới, quán khắp chúng sinh các căn thuần thục, tùy theo các gốc đức đã gieo trồng đời trước, dùng mười Lực của Như Lai vô cực vô biên thị hiện thân vào biển thủy chung, rẽ vực sâu sinh tử, khai đạo chúng sinh, có thể làm thuyền pháp đưa chúng sinh thoát khỏi biển sinh tử. Nghĩa là kiến lập chí nguyện đưa chúng sinh vào nơi chánh pháp Phật đạo, đoạn trừ hết thảy ngôn hành, đạt đến chỗ không tưởng nghĩ của Như Lai. Lấy chỗ không tưởng nghĩ, trí tuệ không ngăn ngại mà làm chỗ trú, tức trú nơi vô sở trú vậy. Như ánh nhật nguyệt chiếu khắp thiên hạ, một mình bước đi mà không bạn bè, tức không chỗ đứng, đi trong hư không, mọi người đều có thể ngưỡng nhìn mà nhật nguyệt chẳng hề tưởng nghĩ: “Ta có đi và có quay về”. Như Lai cũng vậy, đi trong Niết-bàn, vào pháp thanh tịnh mà cũng không hề tưởng nghĩ. Ở nơi các pháp giới mà thị hiện khắp tất cả các hành, quần sinh của năm cõi, không có kẻ thuần tín mà cũng không hề lười bỏ. Thông đạt và xiển dương tất cả Phật sự, cũng không hề có đến, đi.  
	Này Phật tử! Chư Bồ-tát đi vào tuệ hành của Như Lai không hạn lượng cũng không cái không hạn lượng, chẳng dứt các duyên sự.  
	Rồi nói kệ tụng:  
	Vô bản không cùng tận  
	Chưa từng có sinh diệt  
	Bàn về vô bản ấy  
	Không chỗ, không thể thấy  
	Đấng Đại bi cũng vậy  
	Hạnh ấy không hạn lượng  
	Vô bản là tự nhiên (pháp tánh)  
	Tức không có hai việc.  
	Giống như các loại ấy  
	Pháp giới không xứ sở  
	Cũng không hề hạn lượng  
	Không cái không hạn lượng  
	Đạo hạnh cũng như vậy  
	Thánh đạt không bờ mé  
	Chỗ phân minh vô cực.  
	Các vị không thân tướng  
	Như có chim du hành  
	Bay ức kiếp trên không  
	Trước sau cũng như vậy  
	Hư không giới bình đẳng.  
	Bậc Tối thắng ngàn kiếp  
	Giảng thuyết chỗ nên hành  
	Phương tiện tùy chúng sinh  
	Thành tựu công đức thiện.  
	Chim Sí điểu trên không  
	Xa nhìn thấy trong nước  
	Biết rồng sắp mạng chung  
	Bắt thê thiếp nó ăn.  
	Trí mười Lực tự tại  
	Đốt sạch các phiền não  
	Khéo tạo các gốc đức  
	Kéo ra dòng sinh tử.  
	Ví như ánh nhật nguyệt  
	Du hành giữa hư không  
	Chúng sinh nhờ an ổn  
	Ánh sáng không tưởng nghĩ.  
	Thế Tôn cũng như vậy  
	Do pháp chúng vô ngại  
	Khai hóa vô số chúng  
	Không khởi các tưởng nghĩ.  
	Này Phật tử! Sao gọi là Bồ-tát hội nhập vào sự khai đạo của Như Lai? Đối với các Bồ-tát này đã biết vượt qua tất cả các hành chấp trước mà không nghi lầm do dự, pháp vị bình đẳng, tỏ ngộ nẻo vào là bất nhị. Chỗ xiển dương của Như Lai, tức sự hội nhập vào Vô tưởng giác, Vô hành giác, Vô xứ sở giác, Vô hạn trung giác, Vô biên tế giác, bỏ đi sự không thành tựu và sự chấp trước vào trung gian. Nghĩa là quán tất cả âm thanh văn tự đều vô xứ sở. Ở trong ngôn ngữ mà không hề ngôn giáo, phụng hành bình đẳng giác, hành nghiệp của chúng sinh tận cùng rốt ráo, chí tánh các căn, phiền não ái dục đều thanh tịnh, đạo nhãn Như Lai đều bình đẳng nơi tất cả ba đời. Giống như biển lớn, tất cả chúng sinh đều được bao dung nên gọi là biển lớn. Đạo của Như Lai cũng như vậy, thấy tâm tánh và chỗ về của tất cả chúng sinh. Tuy có sự chiếu soi nhưng không nghĩ tưởng về sự chiếu soi ấy, tức là tự nhiên, cho nên gọi là Đạo Như Lai khai thị chúng sinh vậy. Như Lai dùng phương tiện để giáo hóa kẻ có thể giáo hóa, tạm dùng văn tự khai đạo, giảng giải nhưng cũng không hề nói một điều gì, ở nơi tất cả âm thanh mà không hề tuyên xướng. Tuy có ngôn giáo nhưng không hề có chỗ nói. Dẫu có sự kính ngưỡng cũng không thấy chỗ kính ngưỡng. Lại nữa, vì khuyến hóa chúng sinh mà nay phải chuyển bánh xe pháp lớn, vì họ mà diễn thuyết. Đạo Như Lai khai hóa vô lượng chúng sinh thành Tối chánh giác, như vô lượng danh hiệu Như Lai, như số hóa thân, như số cõi nước, như số lượng hiện có nơi tất cả ba đời, số lượng hóa thân cũng là như vậy không hề sai khác. Như số đạo giáo, tất cả ngôn âm số lượng như hư không, số lượng pháp giới của Như Lai không hề ngăn ngại. Sự khai thị của chư Như Lai, bờ cõi ngôn giáo, cõi giới Niết-bàn, thân hình chúng sinh, số cõi trú xứ cũng là như vậy; số lượng lời nói cũng như vậy. Như số lượng thân khẩu, tâm không ngăn ngại; số lượng chỗ trú cũng bình đẳng không sai biệt. Bồ-tát vì hội nhập vào vô số như vậy thì làm thanh tịnh ba cảnh giới đạt đến công đức chánh đạo, thấy tâm mình bình đẳng với tất cả chúng sinh. Thấy rõ như vậy nên tất cả đều vắng lặng mà quán bình đẳng, dẫn dắt tất cả đến cõi Niết-bàn. Đã thấy tự nhiên tự tại như vậy nên đều nhập vào tất cả, tức vô tự nhiên, vô tận tự nhiên, không sinh không diệt thì cũng tự nhiên. Đối với tướng ngã, tướng nhân, tướng vô ngã, vô nhân cũng là tự nhiên. Chư Phật không hề khởi nghĩ tưởng cũng lại tự nhiên, pháp giới tự nhiên, hư không tự nhiên, cũng không có tự nhiên. Đã hiểu rõ điều này thì thành Tối chánh giác, đạt đến trí tuệ chánh pháp trọn vẹn, được thấy Như Lai đại Bi vô lượng, giáo hóa vô số chủng loại chúng sinh. Giống như hư không dung chứa tất cả phương tục, chí tánh tự nhiên, thành tựu thế gian. Các thứ như vậy vô lượng, vô biên, không chỗ sinh diệt. Cũng vậy, Như Lai thành Tối chánh giác cũng không chỗ giác, tướng thành Tối chánh giác ấy thật không có tướng thành Tối chánh giác, ấy mới là tướng thành Tối chánh giác mà chẳng có tất cả tướng ấy. Ví như có người có thể biến hóa con người thành hằng hà sa số chư Như Lai không có gì sánh được, cũng không có hình tướng. Vừa hóa hiện ra thì lại lấy hằng hà sa số ấy làm số kiếp. Ý ông thế nào? Người biến hóa ấy vì hóa những gì mà làm cho tất cả phát tâm thành Như Lai?  
	Bồ-tát đáp:  
	–Bạch Thế Tôn! Như chỗ con biết là để làm rõ nghĩa số Như Lai hóa và không hóa cũng đều như nhau.  
	Đức Phật dạy:  
	–Lành thay, lành thay! Đúng như chỗ ông nói! Này Phật tử! Tất cả chúng sinh chỉ trong một sát-na đều có thể đạt đến Vô thượng chánh đạo, thành Tối chánh giác, thành hằng hà sa số Bồ-tát với sự không thành cũng đều như vậy, không tăng không giảm. Vì sao? Vì nếu đã giác tỉnh Chánh đạo thì thấy không có thật tướng, thật thấy vô tướng thì không có tướng thành Chánh giác, không có sở đắc và lợi lạc. Tuy đắc Chánh giác nhưng thật không có chỗ đắc. Chư Bồ-tát phải dùng ấn tâm như vậy vào cảnh giới Như Lai mới thành Chánh giác. Nếu muốn biết rõ thì phải phát khởi cái biết ấy. Như Lai đều cùng một tướng, cùng phẩm loại nhưng thật không có phẩm tướng. Phẩm tướng ấy gọi là trí tuệ thành tựu giác đạo Chánh thọ Tam-muội. Mỗi một chỗ giác đều là Pháp thân, siêu vượt thân tướng của tất cả chúng sinh. Giống như có người thành được Tối chánh giác đến được cửa đạo thì tất cả chúng sinh nếu thành Phật đạo thì cũng đến được cửa pháp đạo như vậy, không hề sai biệt. Giả sử vô lượng người thành tựu cửa Chánh giác nhập vào vô lượng cõi của các thân Như Lai không có bờ mé, vào cõi chúng sinh nhiều không thể tính. Đó là chư Bồ-tát hội nhập vào Như Lai thành Tối chánh giác thì mỗi mỗi đều đạt đến rốt ráo. Như nguồn gốc chúng sinh nhập vào thân Như Lai. Vì sao? Vì nếu được vào cửa Như Lai Chí Chân Tối Chánh Giác, thì chốn hành của thân ấy không chỗ sinh ra, không chỗ diệt mất. Như đạt đến một việc thì các việc khác còn lại cũng như vậy. Bồ-tát tác pháp hội nhập tất cả pháp giới không lìa xứ sở, không xả ngôn từ, bởi tin vào Pháp thân Như Lai vậy. Vì sao? Vì nếu có thể vào trọn mới có thể thành Chánh giác, đạt đến trí tuệ vô cực, vắng lặng rộng khắp, đến tòa Sư tử nơi cây Phật đạo. Lại nữa, Bồ-tát hiểu rõ tâm mình có thể thành Chánh giác, tức vào được Pháp thân vậy. Vì sao? Vì Như Lai chí chân không bao giờ rời bỏ bản tâm nên đạt đến đại đạo như bản tâm của mình. Những việc còn lại cũng đều như vậy, nghĩa là khai thị dẫn dắt tất cả tâm của chúng sinh để có sự hội nhập ấy. Này Phật tử! Các Bồ-tát vì chư Đại thánh dùng sự hội nhập này mà thành Tối chánh giác, rộng lớn cùng khắp, không đâu chẳng vào mà chẳng hề trái bỏ, không chỗ nối tiếp mà chẳng hề chán nghĩ, không chỗ dốc tâm tin thì vào pháp phẩm khó nghĩ bàn.  
	Rồi nói kệ tụng:  
	Đã thoát hai, không hai  
	Biết rõ tất cả pháp  
	Bình đẳng như hư không  
	Hiểu rõ hết kinh điển  
	Bình đẳng không ta, người  
	Đó là rõ các pháp.  
	Đã phân minh Chánh giác.  
	Tất cả không chỗ giác  
	Giống như bốn phương vực  
	Chứa tất cả hình thể  
	Bao dung hết sông suối  
	Nên gọi là biển lớn  
	Mười Lực cũng như vậy  
	Hải ấn của chúng sinh  
	Biết rõ chí tánh họ  
	Cho nên nói phân minh  
	Tâm ý đều như huyễn.  
	Chư Phật như hiển hiện  
	Hành bình đẳng tự nhiên  
	Hóa độ đều như huyễn  
	Phật đạo tạm ngôn thuyết  
	Cho tất cả chúng sinh  
	Vốn tự nhiên bình đẳng  
	Không giảm cũng chẳng tăng.  
	Tam-muội Bậc tối thắng  
	Gọi là đạo Thiện giác  
	Lúc ở cây Bồ-đề  
	Đắc thành định ý này  
	Tức phóng xuất ánh sáng  
	Chiếu vô lượng chúng sinh  
	Khai đạo như hoa sen  
	Dạy dỗ khắp mọi loài  
	Như ở kiếp đương lai  
	Cõi chúng sinh tự nhiên  
	Pháp, tư duy cũng vậy  
	Các căn cùng chí tánh  
	Quán bình đẳng tất cả  
	Không làm chỗ ta, người  
	Cho nên không bờ mé  
	Biết rõ đạo cùng khắp  
	Luôn hành đạo Bồ-tát  
	Đại trí, bi vắng lặng  
	Bồ-đề tòa Sư tử  
	Thành tựu Vô thượng giác  
	Đạo lực không ai bằng  
	Pháp thân Phật lồng lộng  
	Không đâu không vào khắp  
	Không hề bỏ chúng sinh.  
	Này Phật tử! Sao gọi là Bồ-tát hội nhập nơi âm hưởng chuyển Pháp luân của Như Lai? Bồ-tát ấy khéo đứng trên chỗ tư niệm rộng lớn của Như Lai. Tất cả chúng sinh đều không gốc ngọn, không chỗ thành tựu. Bồ-tát luôn vào các pháp mà vĩnh viễn vô sở trú, đoạn dứt ba chốn, đi vào chân đế, ở trong tất cả pháp mà xa lìa chỗ thấy biết, xả bỏ chỗ tham cầu. Nghĩa là không chỗ bám trụ mà đi vào tất cả pháp. Như cõi hư không không chỗ hành niệm, tức là hội nhập mọi pháp mà không chốn sở đắc, gốc ngọn vĩnh viễn vắng lặng. Tất cả các pháp hay Niết-bàn đều tự nhiên. Các văn tự ngôn thuyết ấy đều để tự nhiên thì đó mới là hội nhập âm hưởng chuyển Pháp luân của Như Lai. Như gọi lớn thì âm thanh vang dội, ấy mới gọi là tự nhiên. Nghĩa là đi vào pháp môn pháp luân tự nhiên, tất cả các âm đều cùng một hưởng mới gọi là thể nhập pháp luân, gốc ngọn vô chủ, văn tự vô tận, thể nhập pháp luân ở trong lẫn ngoài đều không chỗ tích chứa. Như văn tự ngôn thuyết, dẫu có văn tự cũng không hề xả bỏ chân đế. Giảng thuyết từ quá khứ xa xưa, tỏ bày gốc ngọn trong vô số kiếp mà tất cả văn tự ngôn thuyết không thể cùng tận. Như vậy, này Nhân giả! Sự chuyển Pháp luân của Như Lai chí chân tất cả là giả hiện và đều là tạm dùng văn tự. Diễn thuyết vô tận mà không chỗ dốc tâm tin, đều vô sở hữu, không có âm hưởng, không chỗ thi hành, cũng không thể nghĩ bàn. Như Lai chuyển Pháp luân tức vào tất cả mà không chỗ vào, chỉ tạm mượn văn tự mà thôi, nên gọi là không. Nếu gọi là đèn sáng thì tất cả cái tạo ra đèn ấy đều là giả hợp, chỉ tạm gọi mà thôi. Vào tất cả các pháp ở đời, tạm gọi là độ thế, là đi vào đó mà luôn vô sở trú. Đó là pháp âm Như Lai vào khắp tất cả các cõi của chúng sinh, các sự báo ứng, các Pháp thân giới vĩnh viễn đều vô sở trú. Bao nhiêu chủng loại ngôn từ âm thanh của tất cả chúng sinh đều là bấy nhiêu âm thanh tuyên chuyển Pháp luân của chư Như Lai. Vì sao? Vì chỗ chuyển Pháp luân của Như Lai chí chân đều phát ra tất cả âm thanh mà không hề tăng giảm. Đó là Bồ-tát thể nhập nơi sự chuyển Pháp luân của các Như Lai. Bồ-tát Đại sĩ cần phải tạo lập điều ấy để đi vào ngôn từ tuyên thuyết vô hạn của Như Lai.  
	Sao gọi là chỗ vào ngôn thuyết của Như Lai? Lúc Như Lai chí chân chuyển Pháp luân, ngôn ngữ âm thanh diễn thuyết là diễn bày về hành nghiệp, chí tánh, sở thích của chúng sinh. Vì sao? Vì Đức Phật có Tam-muội gọi là Không ngăn ngại cứu cánh vô úy. Lúc chuyển Pháp luân, Đức Phật dùng định ý Chánh thọ để tùy theo tất cả ngôn ngữ âm thanh của chúng sinh mà chuyển Pháp luân; mỗi một âm hưởng đều tùy theo chí tánh của họ. Giả sử dùng Tam-muội Chánh thọ này làm vui lòng tất cả chúng sinh đó là hội nhập nơi sự chuyển pháp luân của Như Lai chí chân. Nghĩa là dùng sự thuận hơp để tuyên thuyết pháp đạo không chỗ nhập, sự hội nhập như thế mới thật là hội nhập, mới nghe được ngôn ngữ âm thanh Thánh giáo của pháp Như Lai. Này Phật tử! Đó là chúng Bồ-tát hội nhập nơi sự chuyển pháp luân của Như Lai đến vô hạn lượng.  
	Rồi nói kệ tụng:  
	Pháp luân không hạn lượng  
	Thành tựu cõi cứu cánh  
	Không thấy chỗ lợi ích  
	Giúp tất cả không hai  
	Các văn tự sở thuyết  
	Tất cả không cùng tận.  
	Mười lực cũng như vậy  
	Pháp luân chuyển vô cùng  
	Giảng thuyết về luật giáo  
	Vào các pháp hữu vi  
	Không thật có chỗ nhập.  
	Phật luân cũng như vậy  
	Đi vào các ngôn âm  
	Tự nhiên, không chỗ nhập  
	Tuyên thuyết khắp chúng sinh  
	Không ngoài tất cả hạnh  
	Tam-muội siêu hữu vi  
	Các định lực cứu cánh  
	Vì muốn cầu diệu pháp  
	Đó là định lực Phật.  
	Chỗ đến nhờ ân Phật  
	Thấu tất cả chúng sinh  
	Đấng Tối thắng diễn thuyết  
	Ngôn âm luôn nhu hòa,  
	Dùng một lời dạy dỗ  
	Chuyển đến khắp chúng sinh  
	Phân làm vô lượng hưởng  
	Không ngoài pháp âm Phật.  
	Phật là đấng trên hết  
	Hiểu rõ tâm chúng sinh  
	Ví như nói điều gì  
	Chúng sinh đều nghe trọn  
	Ngôn âm chẳng từ trong  
	Cũng không từ ngoài vào  
	Kỳ thật đều diệt tận  
	Cũng thật vô sở hữu.  
	Như Lai chuyển pháp luân  
	Chỉ vì mọi chúng sinh  
	Hãy quán các mười Lực  
	Thị hiện chuyển trần lao.  
	KINH NHƯ LAI HƯNG HIỂN 
	QUYỂN 1   QUYỂN 2   QUYỂN 3   QUYỂN 4 
	KINH NHƯ LAI HƯNG HIỂN 
	 
	Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Trúc pháp hộ, đời Tây Tấn. 
	Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh 
	QUYỂN 4 
	Này Phật tử! Sao gọi là Bồ-tát hội nhập nơi sự thị hiện diệt độ của Như Lai chí chân? Bồ-tát ấy muốn vào sự diệt độ thì phải hiểu rõ tất cả vốn thanh tịnh, tự nhiên, tức là như Phật. Giống như vô bản mà quay về diệt độ. Như Lai diệt độ cũng là như vậy. Lại nữa, bản tế, pháp giới cũng như vậy, giống như cõi hư không vô cực. Lại như bản tịnh, chân bản tế mà lìa dục tế, như vô tướng tế, vô tự nhiên tế. Giống như tất cả các pháp vốn thanh tịnh, như chân bản tế giữ lấy diệt độ. Như Lai diệt độ cũng là như thế. Vì sao? Vì tương ưng hay không tương ưng và tất cả những điều ấy đều không sai khác, không sinh không diệt. Giả sử các pháp không sinh không diệt thì chúng không trú, cũng chẳng phải không trú; không rời, cũng chẳng phải không rời. Lại nữa, Như Lai không vì hưng phát sự rộng nói cho chúng Bồ-tát mà giữ lấy sự diệt độ vĩnh viễn vô dư. Vì sao? Vì tất cả Như Lai đều ở trước mắt, nếu như hiện tại, quá khứ cùng với vị lai cũng vậy thì nhất thời đều thành tựu trí tuệ, phút chốc đắc đạo, nhìn thấy chư Như Lai đều đang tuyên thuyết thông suốt âm thanh sắc tướng, không khởi hai tưởng cũng chẳng không hai tưởng. Thấy chư Như Lai đã bỏ các tưởng tương ưng với hạnh Bồ-tát, buông xả các sự trú chấp. Như Lai chẳng hề nghĩ là làm vui lòng tất cả chúng sinh, đó là Như Lai diệt độ. Chỉ vì thương xót các tưởng lo sợ của họ nên xuất hiện ở đời mà cũng chẳng diệt độ. Vì sao? Vì chỗ trú của Như Lai là ở pháp giới, làm vui lòng mọi chúng sinh cho nên có hiện thân mà có sự diệt độ, vì do pháp giới vô biên. Cũng giống như lúc mặt trời mọc thì ánh sáng của nó chiếu khắp thiên hạ và ảnh hiện trong nước mà nó chẳng hề tưởng nghĩ, cũng không chuyển dời và đều chiếu soi không chỗ nào không có. Những nơi chứa nước thì đều thấy ảnh của nó, nếu đồ chứa nước không có nước thì chẳng thấy ánh sáng mặt trời. Ý ông thế nào? Có thể cho đó là lỗi của mặt trời mà làm cho ảnh của nó không hiện ra ở đồ chứa nước chăng?  
	Bồ-tát thưa:  
	–Bạch Thế Tôn! Không phải vậy. Đó là lỗi của vật chứa không có nước, chẳng phải là lỗi của mặt trời.  
	Đức Phật dạy:  
	–Đúng vậy! Mặt trời trí tuệ của Như Lai đem bản hạnh đến các pháp giới là đều vì chúng sinh mà thường diễn thanh tịnh, hưng khởi việc tự nhiên, đạt đến đạo nghiệp, hiển bày ánh sáng của biển tâm và thường nhìn thấy thân Như Lai. Do đồ đựng con người bị hư hoại, tâm mang uế trược nên không nhìn thấy uy quang của Đức Phật. Này Phật tử! Cần phải hóa độ chúng sinh khát ngưỡng chưa hiển bày tánh Như Lai là hiện diệt độ; cũng không có sinh, không có cái bất sinh, cũng không diệt độ.  
	Rồi nói kệ tụng:  
	Như mặt trời chiếu khắp  
	Cõi giới cùng bờ bến  
	Chỗ thấy ảnh khó giữ  
	Vừa thấy là biến mất.  
	Chư Phật cũng như vậy  
	Hiện khắp ở thế gian  
	Chúng sinh chưa thuần tín  
	Dùng vô vi dạy bảo  
	Quán khắp các cõi Phật  
	Bình đẳng bởi như huyễn  
	Các nhân duyên huân tập  
	Mà phân biệt ta, người  
	Giả như có tạo hạnh  
	Chỗ Phật làm rốt ráo  
	Hoặc chẳng thấy Đại thánh  
	Chỗ thấy đều không đồng  
	Định lực Bậc Tối Thắng  
	Gọi là Giải vô thường  
	Phật dùng đó diệu dụng  
	Về sau hiện Đẳng sinh  
	Vì phân biệt thân hình  
	Là vô lượng vô hạn  
	Khắp mười phương chốc lát  
	Phật giống như hoa sen.  
	Giống như lửa vì khắp chúng sinh mà nấu chín và thành tựu nhiều thứ. Ví như có một lúc nào đó, ở một nơi nào đó lửa bỗng nhiên tắt hết. Ý ông thế nào? Lửa có tắt hết khắp tất cả thế gian chăng?  
	Bồ-tát đáp:  
	–Bạch Thế Tôn! Không phải vậy.  
	Đức Phật dạy:  
	–Đúng vậy! Như Lai đều vào khắp tất cả pháp giới vô dư, hưng khởi Phật sự. Vào một lúc khác, ở một cõi Phật khác, hiển phát đạo ý bèn thấy diệt độ mà thật chẳng phải diệt độ. Bồ-tát phải dùng ấn tâm như vậy để vào Bát-niết-bàn của Như Lai. Giả sử có một ảo thuật sư giỏi về huyễn thuật, biết rõ phương tiện, thông thạo thần chú, luôn luôn tinh chuyên. Ông ta có thể hóa tam thiên thế giới thành nước. Thân ông ta tự hiện ra tại một nước, một quận, một ấp nào đó. Ông ta dừng lại trong một kiếp mà duy trì kiến lập thành ấp, rồi ông ta muốn đi đến một nước, một quận, một thành ấp khác thì những thành ấp trên đều biến mất. Ý ông thế nào? Huyễn thuật sư ấy đều tận diệt hết hay không?  
	Bồ-tát thưa:  
	–Bạch Thế Tôn! Không phải như vậy.  
	Đức Phật dạy:  
	–Đúng vậy! Như Lai khéo học vô lượng huyễn tuệ, thị hiện phương tiện quyền xảo, kỳ thuật Thánh chú, vào khắp tất cả, vào trọn pháp giới mà không hề thấy chỗ vào. Giống như huyễn hóa, hiện thân Như Lai, ở tại pháp giới, cùng hư không giới. Nghĩa là tùy theo chỗ tin ưa của chúng sinh mà hiển bày mỗi một cõi nước chư Phật mà hiện diệt độ. Không chỉ ở trong một cõi nước thị hiện Bát-niết-bàn mà ở khắp tất cả pháp giới. Như Lai đều thị hiện như vậy không một chỗ nào mà không khắp thấu. Này Phật tử! Là Bồ-tát thì phải biết thể nhập chư Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiện diệt độ.  
	Lại nữa, Phật tử! Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác có Tam-muội gọi là Vô sở trước định ý Chánh thọ hiện diệt độ. Lúc dùng định ấy trong Tam-muội thì nơi mỗi lỗ chân lông của pháp thể Như Lai đều diễn xuất trăm ngàn ức na-do-tha ánh sáng khó tính đếm được. Mỗi mỗi ánh sáng đều hóa hiện ra hoa sen không thể suy lường. Mỗi một hoa sen đều biến hiện ra vô số tòa Sư tử tự nhiên vi diệu. Trên mỗi tòa ấy đều có hóa thân Như Lai ngự tọa. Như Lai tùy theo tâm lượng vô số chúng sinh mà tự hóa lập đầy đủ hình mạo, công đức chân đế viên tịnh đầy khắp như bản nguyện trong quá khứ xa xưa. Nếu có chúng sinh nào các căn thuần thục thì liền thấy rõ dung mạo thị hiện của Như Lai. Như Lai dùng phương tiện theo luật giáo mà kiến lập bản tế nghiêm tịnh ở vị lai. Tùy thuận theo tâm chí thuần thục của chúng sinh mà dùng lục độ. Hình tướng Như Lai không có xứ sở, cũng không phải không có xứ sở; không có sở thuyết, cũng không phải không có chỗ nêu thuyết; không có cái thường, cũng không phải không có cái thường. Lại nữa, chư Như Lai hẳn nhiên là do bản hạnh thệ nguyện đời trước mà khai thị chúng sinh, diễn đạt các căn ấy là chỗ hóa hiện oai thần của Thánh chí.  
	Này Phật tử! Chư Bồ-tát hội nhập nơi đại Niết-bàn của Như Lai mà chỗ nhập không hạn lượng, không hề ngăn ngại nơi vô lượng hư không giới, cứu cánh pháp giới. Lại nữa, pháp tánh của Như Lai, không sinh không diệt, ở nơi bản tế. Sự thị hiện của Như Lai là muốn cho chúng sinh luôn được an nghỉ. Như Lai dùng oai thần kiến lập khắp để chỉ bày cho tất cả pháp giới chúng sinh, tùy thuận theo căn tánh của họ mà diễn bày pháp yếu. Tuy có tạm lập Duyên giác, nhưng chỉ có Bồ-tát mới biết rõ.  
	Rồi nói kệ tụng:  
	Phật vô trước, Vua định  
	Tối tôn trong chúng sinh  
	Lực đại Bi vô cực  
	Pháp thân bao trùm khắp  
	Ở nơi đạo chánh chân  
	Diễn mưa pháp phân minh  
	Sáng nhuần chẳng tưởng nghĩ  
	Khắp đời mỗi một khác.  
	Ngưỡng mộ tuệ như thế  
	Tâm các bậc Mười lực  
	Thánh tối tôn quán sát  
	Lấy những gì làm đạo  
	Ở mười phương khắp cùng  
	Các chúng sinh hữu hình  
	Nghĩ tất cả đều không  
	Vô tự nhiên, vô thân.  
	Phương tiện tuệ Bồ-tát  
	Biến tòa sen Sư tử  
	An ổn biết bao chốn  
	Khắp pháp giới chúng sinh  
	Tất cả Thánh an trụ  
	Thành trí tuệ tự nhiên  
	Dùng vô cực tuệ này  
	Siêu việt các hình tướng  
	Đã bình đẳng giải thoát  
	Pháp giới chẳng ta, người  
	Ở mười phương tại đó  
	Lý do có Duyên giác  
	Phật mới rõ điều đó  
	Thấu pháp giới trọn vẹn  
	Lại quán các pháp giới  
	Không tăng cũng chẳng giảm.  
	Thân cận Thánh Tối thắng  
	Tuệ tự tại tất cả  
	Hàng Hữu học, Vô học  
	Hữu vi cùng vô vi  
	Đều an trú tự tại  
	Không giảm cũng chẳng tăng  
	Không diệt cũng chẳng sinh  
	Phật tuệ khó nghĩ bàn.  
	Như nước chảy thông dòng  
	Dần dần chảy lan khắp  
	Thấm ướt khắp mặt đất  
	Nước ấy không phân biệt  
	Đất cũng chẳng khởi nghĩ  
	Không cho nước chảy khắp.  
	Sức tinh tấn vâng tu  
	Phân minh rộng khắp cả  
	Mười Lực chẳng bờ mé  
	Giải thoát khỏi chúng sinh.  
	Những loài chúng sinh ấy  
	Tuệ an trú tư duy  
	Tuân theo đó tu hành  
	Thân lập sự tinh tấn  
	Biết vậy không bao lâu  
	Sẽ đạt tuệ công đức.  
	Này Phật tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát phải vào tất cả các gốc đức mà nghe biết chỗ hiện của Như Lai? Bồ-tát ấy phải dùng chân hành vô tâm chứ không thể đem sự hư vọng để quán biết Như Lai. Bồ-tát biết được việc trồng các gốc đức, vào nơi vô lượng hành nghiệp tham dục bằng oai thần cứu cánh, dùng bình đẳng để chế ngự các hành nghiệp ấy. Sinh trong cảnh hữu vi mà đầy đủ tất cả các nguyện không cùng tận, đi vào vô vi mà luôn khởi dụng đến tận vị lai không hề hạn hữu, xét tận sắc, dục về tự tại địa. Như có một người muốn dùng ngọn gió thoảng nhẹ để hủy hoại kim cương, việc đó không thể được. Phải luôn nghĩ thân thể này toàn là vật bất tịnh, nếu phân lìa ngũ tạng ra riêng biệt thì chẳng có gì là thân thể, là sở hữu cả. Lại nữa, pháp tánh của gió ấy và không có chỗ tiêu mất. Như vậy, này Phật tử! Theo Phật pháp và lời dạy của Như Lai thì tuy trồng gốc đức hơi mỏng nhưng đều có thể phá trừ tất cả hữu vi là chỗ trú của phiền não vọng tưởng. Trí tuệ của Như Lai ứng với vô vi, thật vô sở hữu, trừ các ngăn ngại, sự trồng các gốc đức của Như Lai không chỗ diệt mất. Giống như có người tích tụ củi khô, rơm cỏ nhiều như núi Tu-di nhưng chỉ một ngọn lửa bằng hạt cải ném vào củi ấy thì tức thời cháy ngay không sót một gì. Vì sao? Vì ý nghĩa của lửa chủ về việc thiêu đốt. Hành giả cũng vậy, tuy đối với Như Lai trồng ít phước đức nhưng đều có thể đốt cháy vô số phiền não không còn dư sót, mau chóng gần gũi và trở về sự diệt độ. Vì sao? Vì đã gần gũi Như Lai trồng các gốc đức thì vĩnh viễn dứt sạch các chướng ngại và tội cấu. Ví như có một vị thuốc lớn tên là Thiện kiến, giả như có người thấy sắc của nó, nghe tiếng, ngửi mùi, ăn uống rồi đeo vào thân thì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều tự nhiên được thanh tịnh. Hoặc lúc người ấy chết chôn vào đất thì sẽ biến thành vị thuốc quý, có thể trừ các bệnh. Như vậy, này Nhân giả! Như Lai chí chân làm Đại dược vương, dùng Đại Thánh tuệ tạo lợi ích cho chúng sinh, chữa lành nhiều bệnh tật. Nếu có kẻ quán thấy sắc thân Như Lai thì mắt được thanh tịnh, tai nghe thì thấu rõ Tam-muội, nếu ngửi hương giới thì mũi tự nhiên được thanh tịnh, nếu uống pháp vị thì tròn đủ các hạnh, người ấy nghe được chỗ giảng của Như Lai, lưỡi tự nhiên tịnh, biện tài vô lượng. Nếu gặp được ánh sáng của Như Lai thì liền được thân pháp; nếu người ấy nhớ nghĩ về Như Lai thì tâm họ được bình đẳng an tịnh; nếu có cúng dường Như Lai thì thành tựu gốc đức, trừ bệnh phiền não.  
	Này Phật tử! Nay ông khuyến dụ, hiển bày khiến người ấy nghe thấy Như Lai thì có thể tịnh trừ tội chướng ngăn che. Nếu nghe thấy thuyết pháp mà không hoan hỷ tin nhận thì Phật làm cho những người ấy gieo trồng và thành tựu gốc đức, không còn hư vọng, đạt đến diệt độ, đó là thấy được Như Lai. Nếu được nghe âm thanh của Như Lai tức được hội nhập vào các gốc đức. Nhờ đó mà được đoạn trừ các pháp bất thiện, tỏ rõ nguồn cơn của đạo không hề thiếu sót. Như Lai hưng hiển, dùng sự liễu giải, dẫn các ví dụ đầy đủ tất cả, không thể lấy sự dẫn dụ làm giả dụ. Công đức của chư Phật không thể nghĩ bàn, độ thoát các tâm, vì muốn khai hóa chí tánh chúng sinh làm cho họ có được pháp lạc, cho nên Như Lai vì chư Bồ-tát dẫn các ví dụ để họ được thấu đạt, chứ đó chẳng phải là điều rốt ráo. Như vậy, nguyên lý rộng lớn tức là tạng bí áo của Như Lai, gọi là chỗ không thể hiểu tới của tất cả thế gian, chỗ ấy là vào được diệu ấn của Như Lai, vào chủng tánh Thánh minh đại tuệ vô cực của Như Lai; gọi là chỗ không thể đạt tới của tất cả Bồ-tát và thế gian; cũng gọi là sự hội nhập nơi cõi bình đẳng của cảnh giới Như Lai; gọi là làm thanh tịnh chúng sinh giới không một ai còn sót; gọi là tuyên thuyết khắp nguồn gốc của tất cả sự ngăn ngại. Lại nữa, Như Lai chí chân chỉ vì người chí cầu Đại thừa, vì hành giả của Bất tư nghì thừa (vô thượng thừa) mà giảng đạo Bồ-tát chứ chẳng vì những hạng người khác mà thuyết kinh điển thâm diệu. Lại nữa, những kinh điển ấy đều trở về đạo Bồ-tát, chứ không nhằm đến các nẻo khác. Này Phật tử! Ví như Kim luân, Bạch tượng, Ngựa tía, Minh châu, Ngọc nữ, Tạng thần, Binh thần của Chuyển luân thánh vương tự nhiên hóa hiện ra, thất bảo ấy đến với nhà vua chứ không đến với một ai khác. Thất bảo này cũng chỉ sẽ về với Thái tử của vua. Vì sao? Vì Thái tử ấy do Thánh hậu mang thai mà sinh ra nên đầy đủ tướng Chuyển luân thánh vương. Nếu Thái tử ấy mạng chung thì thất bảo của Chuyển luân thánh vương sau bảy ngày sẽ biến mất. Gốc của kinh điển cũng vậy, không đến với một ai khác mà chỉ đến với trưởng tử của đấng Chánh giác là Tộc tánh của Như Lai sinh ra, đã gieo trồng gốc đức của Như Lai. Nếu đạt đến Pháp thân, vâng tu Chánh sĩ, nhờ ân đức và năng lực ấy thì chẳng bao lâu cũng sẽ thành tựu như vậy. Chỗ then chốt của kinh điển là bí tạng của Như Lai không bao giờ đoạn mất Tam bảo. Pháp bị diệt mất nghĩa là do không có người thấu giải được chánh pháp. Vì sao? Vì tất cả Thanh văn và Duyên giác không thể lãnh nhận và đạt đến chỗ cốt yếu của kinh điển, không thể nghe được huống là có thể đọc tụng, thọ trì. Kinh điển cốt yếu chỉ có thể về tay của chư Đại Bồ-tát, kết tập kinh điển đặt trước hiên nhà. Cho nên, này Phật tử! Nếu có Bồ-tát nghe giảng kinh ấy, chí tánh thuần nhất, hầu cận và cúng dường cho Pháp sư thì sẽ thọ nhận được kinh điển ấy. Vì sao? Nếu có Bồ-tát thuần tín hành phỏng theo cảnh giới của Như Lai thì sẽ thành tựu đạo Chánh chân vô thượng. Bồ-tát Đại sĩ trải qua trăm ngàn ức na-do-tha số kiếp, phụng hành tích tập sáu Độ vô cực (sáu pháp Ba-la-mật) mà còn mang lại pháp đạo, tuân tu đại Bi mà không thể nhập cảnh giới bất tư nghì vô cực của Như Lai, không nghe biết, không tiến tới, ấy chẳng thể là Bồ-tát vậy. Đối với pháp Bồ-tát thì chẳng được nhiều lợi lạc, không thuận theo giềng mối của Như Lai. Nếu có Bồ-tát giảng thuyết về trí tuệ vô ngại của Như Lai, thuần tín nhập đạo mà không hồ nghi, đó mới gọi là chân Bồ-tát. Nghĩa là không làm trái mất các thông tuệ, có thể hành rốt ráo tất cả thế pháp của bậc Đại thánh. Thuận theo lời dạy Như Lai ở trong các Phật giới mà không chấp trước thì được kiến lập pháp Bồ-tát, liền được thông đạt chánh điển chư Phật mà không hề chìm đắm trong nhiều chỗ biến hiện của cảnh giới đạo phẩm. Do được tự tại nên lập thành các pháp, ở trong chúng Bồ-tát oai thần uy nghi và liền thể nhập cõi giới vô ngại của Như Lai. Cho nên, nếu Bồ-tát nào nghe được pháp này thì đạo ấy vô hạn, an trú rộng khắp. Lại nữa, chí tánh ấy có năng lực chánh chân, xả bỏ các tưởng, vào Thánh minh ứng hợp mà cũng chẳng ứng hợp. Tất cả Như Lai đều ở trước mắt, tâm niệm đều rõ hư không giới, phụng hành Tam-muội, khai tâm phát ngộ. Vị này có thể hành nhập trong vô lượng pháp giới, chí nguyện thệ lập đã thành tựu công đức nên được tự tại, thông tuệ thấu suốt, trừ sạch cấu bẩn của thế gian, phát tâm thuần nhất. Cõi nước của họ ở khắp tất cả mười phương thể nhập Bồ-tát đạo. Quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật cùng một đường đi về gốc đức, khuyến trợ Thánh đạo, dẫn dắt chúng sinh, làm cho tất cả hưng khởi đạo tâm, khai hóa cho kẻ chưa được nghe hiểu, thể nhập pháp ấy, nhập mà không chỗ nhập, không chỗ sở đắc, khiến các pháp đều quy về chỗ không nhân duyên. Thường nghĩ như vậy, tùy thuận theo Nhất thiết trí và tất cả các pháp không hề hạn cuộc. Bồ-tát đã có thể hội nhập như thế thì chỗ tư niệm vắng lặng, còn chỗ nhập thì khó ai bì kịp, trí tuệ tự tại, oai thần vòi vọi. Lúc thuyết pháp, Bồ-tát Phổ Hiền nhờ Thánh chỉ Phật nên mười phương trăm ngàn ức na-do-tha vi trần số không thể tính đếm cõi nước chư Phật chấn động sáu cách, mười tám bộ biến hóa. Oai thần của Như Lai hiển bày pháp thí, trời rải mưa hoa, đàn sáo nhạc khí không tấu mà tự vang rền hòa nhã, tung rải cúng dường các loại y phục, các đồ trang sức, tràng phan, bảo cái, mưa ra các loại danh hương hơn cả hương cõi trời, các loại tạp hương, hương bột, hương đốt, hương xoa, anh lạc cõi trời; lại mưa xuống Đại bảo châu như ý, ánh sáng bảo châu ấy vượt hẳn ánh sáng các loại trân châu cõi trời và cất tiếng khen ngợi: “Lành thay! Bồ-tát đạo siêu vượt các cõi trời, vĩnh viễn vô tướng tịch diệt và vô sở đắc”. Chư Bồ-tát nhờ công đức đời trước của mình nên mưa ra ngọc quý khắp cùng không thể nghĩ bàn, thanh tịnh trang nghiêm các cõi nước Phật, thành tựu Tối chánh giác làm cho tất cả mười phương đều vân tập. Mưa ra vô lượng pháp, âm thanh giảng tụng hòa nhã và cùng tán thán lời giảng thuyết của chư Như Lai. Cũng như chư Bồ-tát ở bốn đại vực mới thành Chánh giác phát khởi kiến lập và thành tựu cho các Bồ-tát, làm cho họ được hoan hỷ. Tất cả thế giới chư Phật như vậy khắp cả mười phương không một chỗ nào không có, tám mươi ức na-do-tha trăm ngàn nước Phật không thể tính đếm như số vi trần, trong mỗi một bụi trần đều có số cõi Phật còn nhiều hơn thế. Hiện tại chư Phật thấy Bồ-tát Phổ Hiền và nghe chỗ giảng thuyết của Bồ-tát nên tán thán: “Lành thay, lành thay! Này Tộc tánh tử! Đó là chỗ phân biệt giảng thuyết không thể nghĩ bàn của chư Như Lai”. Vì sao? Vì đó là sự kiến lập chân đế, hội nhập pháp giới của Như Lai. Lại có mười phương tám mươi trăm ngàn ức na-do-tha không thể nói thế giới Phật và tất cả chư Phật nhiều như vi trần số đều tự nhiên cất tiếng mà giảng nói kinh pháp: “Chúng ta ở đây thị hiện sự dạy bảo cũng như chư Phật đồng hiệu Phổ Hiền hiện sự khai hóa, cũng như chư Phật giảng thuyết không hề sai khác”. Lại như tất cả chư Bồ-tát nhiều như vi trần số trong trăm ngàn cõi đều được thể nhập Tam-muội, vì thấy mười phương chư Phật sẽ thọ ký cho tất cả đều được Nhất sinh bổ xứ và về với đạo Vô thượng Chánh giác. Lại có chúng sinh nhiều như vi trần số đầy khắp trong ngàn cõi Phật đều phát đạo ý Vô thượng Chánh chân, đều được thọ ký làm bậc Thánh tôn, đến tận vị lai số kiếp nhiều như vi trần số đầy khắp trong vô số cõi Phật sẽ được làm Phật có hiệu là Phật Giới Chi Thủ Như Lai Chánh Chân Đẳng Chánh Giác và thường giảng thuyết kinh pháp này, Bồ-tát vị lai sẽ được nghe điều chưa nghe, phụng hành chỗ tuyên thuyết và được thế giới chúng sinh trong tứ vực này đều biết đến. Giống như chúng sinh trong các cõi giới này được nhờ đạo giáo khai hóa mà tuân hành theo luật đạo. Mười phương cõi Phật cũng đều như vậy, trăm ngàn ức na-do-tha không có biên tế, không có hạn lượng, không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn về sự hóa độ của đạo. Cõi nước chư Phật tận hư không giới đều khai hóa và dung nhiếp tất cả chúng sinh. Mười phương chư Phật oai thần chiếu sáng; Như Lai đời trước đã từng kiến lập chỗ đạt đến sự rốt ráo của các pháp, tuân tu gốc đức nên Thánh tuệ Như Lai không thể ví dụ được. Phật dạy tùy thời, dẫn dắt lợi lạc tất cả chúng Bồ-tát, tùy nghi đạt được, các căn thuần định, chỗ hành đời trước không hề quên mất. Bồ-tát Phổ Hiền oai thần rộng lớn, dung mạo hoan hỷ là nhờ các thông tuệ. Bồ-tát thấy chư Bồ-tát nhiều như số vi trần, đầy khắp trong trăm ngàn ức na-do-tha cõi Phật không thể tính đếm đều vân tập ở mười phương. Cũng Bồ-tát này thị hiện trang nghiêm vô cực, diễn xuất đại ánh sáng, cảm động tất cả thế giới chư Phật, làm kinh hãi thiên cung, hàng phục chúng ma, diệt trừ tất cả nẻo ác, tuyên dương vô lượng oai tôn và vô lượng pháp lạc của Như Lai không thể tính đếm. Tán thán công đức Như Lai, lưu xuất vô lượng phẩm vật, mưa xuống tất cả các báu kỳ diệu, vô vàn phẩm loại không có bờ mé. Mỗi một hóa thân đều hàm chứa tất cả pháp môn Như Lai. Thân là pháp khí, hàm nhận vô lượng, thừa sự Thánh chỉ của chư Phật và tất cả đều diễn xuất một âm thanh: “Lành thay, lành thay! Này Phật tử! Chỉ có Phật tử mới có thể tuyên thuyết được pháp không gì sánh bằng của Như Lai. Lại có thể huân tập theo Đức Phổ Hiền, đạt được vô lượng danh xưng, thể nhập pháp âm, thân gần Như Lai mà theo đến đây. Thế giới Phật ấy gọi là Phổ Quang và pháp ấy cũng vậy. Nay ở đây đều thuyết pháp ấy không có sai khác và nhờ Thánh chỉ Phật mà thấu đạt kinh điển của Như Lai”.  
	Này Phật tử! Đó là sự làm rõ chỗ kiến lập hiện tại của chư Phật đi đến chúng hội này. Lại như hôm nay mười phương pháp giới đi đến chúng hội này đều được giáo hóa vô hạn cũng như vậy. Cõi nước chư Phật đều hiện bày khắp hư không, mỗi một cõi giới ở bốn phương đều thị hiện chỗ kiến lập của Như Lai và cõi nước chư Phật không thể hạn lượng. Chư Bồ-tát vân tập trong trăm ngàn cõi Phật nhiều như số vi trần, tất cả đều là công đức oai thần, tu không gì sánh của Như Lai. Dùng chương cú này mà nghiêm tịnh, quán xét kỹ càng không hề tổn bỏ và không ai có thể vượt qua được.  
	Lúc ấy, Bồ-tát Phổ Hiền quán sát tất cả công đức của chư Bồ-tát, quán sát pháp tế xong rồi tuyên dương Tộc tánh của Đại thánh, lý giải đạo vô cực của Đại thánh và pháp của Như Lai mà không ai sánh kịp. Bồ-tát liền nói rộng về chỗ thấu đạt rộng lớn vô biên, ấy là do gốc đức đời trước. Ánh sáng tường tận, tất cả vô hình, diễn thuyết Phật điển, hiểu rõ chí tánh và chỗ hướng đến của chúng sinh, không một chỗ nào mà không thấy khắp, làm cho chúng sinh đều hướng đến, đúng thời không bỏ pháp cú, khiến cho chư Bồ-tát nghĩ không thể thấu. Tổng thâu đạo pháp ánh sáng vô cực của Như Lai, kiến lập vô ngã và hiện lời khen ngợi: “Tất cả Như Lai đều là một thân hợp cùng pháp thể”. Lại tuyên dương năng lực đại hạnh tinh tấn từ xưa không hề che giấu, năng lực an lành dứt trừ tất cả sở hữu. Nhờ oai thần của Phật và sự cảm ứng đạo giao mà không thể ví dụ, không ngôn ngữ nào thấu đạt được.  
	Lúc ấy, Bồ-tát Phổ Hiền bảo các Bồ-tát một lần nữa:  
	–Bồ-tát Đại sĩ mà đạt đến pháp nhẫn thì có mười việc, để có thể đầy đủ nơi các pháp nhẫn không có sự chướng ngại, liền có thể đạt đến các pháp nhẫn địa, ở trong Phật pháp không hề ngăn ngại. Những gì là mười?  
	1.     Nhẫn âm hưởng.  
	2.     Nhẫn nhu thuận.  
	3.     Nhẫn không khởi.  
	4.     Nhẫn Vô sinh.  
	5.     Nhẫn như sóng nắng.  
	6.     Nhẫn như mộng.  
	7.     Nhẫn như tiếng vang.  
	8.     Nhẫn như ảnh.  
	9.     Nhẫn như hóa hiện.  
	10.    Nhẫn như không.  
	Đó là mười pháp nhẫn mà Bồ-tát chứng đạt.  
	Sao gọi là Nhẫn âm hưởng? Nghĩa là những chỗ nghe được không hề lo sợ, hoan hỷ tùy thuận, các chỗ tuân hành không hề trái mất. Đó là Nhẫn âm hưởng.  
	Sao gọi là pháp Nhẫn nhu thuận? Bồ-tát tùy thuận theo pháp sinh mà quán sát pháp, tạo lập các hạnh, không làm nghịch loạn. Giả sử cần tùy thuận các pháp để hóa độ thì tùy thuận mà độ. Chí tánh thanh tịnh, tuân tu bình đẳng, càng thêm tinh tấn, thuận nhập thành tựu. Đó là pháp Nhẫn Nhu thuận.  
	Sao gọi là pháp Nhẫn không khởi (Vô sinh pháp nhẫn)? Giả sử Bồ-tát thấy các pháp có chỗ sinh ra thì thấy sự sinh ra ấy không có xứ sở, không hề diệt tận, cũng không chỗ thấy. Không có chỗ sinh thì không chỗ diệt, không diệt thì không chỗ tận, không tận thì không chỗ hoại, không hoại thì không bờ mé, không bờ mé thì hoàn toàn vắng lặng, vắng lặng tức là an nhiên, an nhiên tức là vô sở hành, vô sở hành tức là vô sở nguyện. Đó là pháp Nhẫn không khởi của Bồ-tát.  
	Sao gọi là pháp Nhẫn dụ huyễn của Bồ-tát? Là hiểu rõ các pháp đều do nhân duyên như huyễn mà thành. Thuần tin một pháp thì tế độ vô lượng pháp, dùng vô số pháp bình đẳng nhập một pháp, nhập vào chỗ ta người, nhập vào chỗ không nhập, các chỗ kiến lập dẫn dắt chúng sinh không hề chấp trước. Giống như cỡi trên chiếc xe voi lớn như huyễn, nó không cùng tan hay hợp với người cỡi voi, xe voi, người đi bộ; nó cũng chẳng cùng tan hợp với đàn ông, đàn bà, già trẻ; nó không cùng đi ở với cây cối, cành lá, hoa quả. Bồ-tát hiểu rõ các pháp không hợp không tan, không cùng đi ở với đất nước gió lửa, nó không cùng đi ở với ngày đêm, nửa tháng, một tháng, một năm; nó cũng không cùng đi ở với trăm năm, ngàn năm, ngày tháng, số kiếp; nó cũng không cùng đi ở với bóng hình, tiếng vang, các kiến giải, nó không cùng chừng ấy mà cũng chẳng chừng ấy mà đi ở; nó không đem chừng ấy nhập vào một việc mà cùng tan hợp; không cùng với sự vi diệu và thấp kém hay dịu dàng và thô lỗ mà tan hợp; nó cũng chẳng cùng hữu hạn hay vô hạn mà tan hợp; nó chẳng cùng chừng ấy chúng hội khác nhau về xứ sở và sắc tượng mà tan hợp. Sự huyễn biến ấy không cùng chúng hội mà tan hợp, không ở mà chẳng phải không ở, không một chỗ nào không ở mà đều tế độ bình đẳng. Tất cả các kiến và chừng ấy huyễn biến đều thấy khác nhau. Đối với các chỗ thấy ấy thật không chỗ thấy mới là thấy nguồn cội tất cả các nẻo.  
	Này Phật tử! Đó là Bồ-tát hội nhập vào như huyễn mà độ đời, độ đời sở hành trần lao, đôï đời cõi nước phương tục, độ đời ta người, độ đời thống khổ, đời hữu vi, đời lìa có, đời hợp hội, đời không hợp hội, đời phân biệt, đời tạo tác, đó là tên đời mà Bồ-tát tế độ. Nghĩa là dùng cái như huyễn mà vào khắp các đời, không nhận chúng sinh, không hoại chúng sinh, không nhận cõi nước, không hoại cõi nước, không nhận nơi pháp, không hoại nơi pháp, không nhớ quá khứ, không chỗ nghĩ tưởng với việc quá khứ, cũng không rời nghĩ tưởng, cũng không vị lai, không tạo hạnh, không theo cái chưa đến, không trú ở hiện tại, không hủy cái đang tồn tại. Nghĩa là đối với Phật đạo không hề rong ruổi, không tưởng nhớ đạo, cũng chẳng hưng hiển Phật, chẳng khuyến thỉnh Phật thủ lấy diệt độ. Không trú ở nguyện, cũng không xả thệ nguyện, vâng tu bình đẳng, cũng chẳng nghiêm tịnh, không chỗ ngăn ngại, khai hóa cõi nước khiến cho tất cả tiến vào chỗ không hủy hoại. Trụ ở gốc pháp mà không động chuyển, bình đẳng vào chỗ ta, người mà không bỏ tưởng, ấm, chủng tử, các nhập của ta người; dạy bảo các hạnh, tẩy trừ chấp trước, độ thoát chúng sinh. Đối với các hạnh này không chỗ trú trước, hiểu rõ các pháp mà bình đẳng, vĩnh viễn không sở đắc, phân biệt các pháp chỉ là giả hợp. Minh tuệ Thánh đạt không thể đoạn mất, độ thoát chúng sinh, hằng thuạân tùy thời, cũng không dựa bám vào nhân duyên của chúng sinh, trú nơi đại Bi thông đạt các hạnh đời trước không thể tính đếm, khiến cho chúng sinh tin chắc các việc báo ứng. Đó là pháp Nhẫn huyễn dụ thứ tư.  
	Này Phật tử! Sao gọi là pháp Nhẫn như sóng nắng của Bồ-tát Đại sĩ? Bồ-tát hiểu rõ tất cả sở hữu của thế gian đều là lờ mờ không thật. Giống như ngựa hoang mà chúng ta thấy chúng từ xa, cũng như dòng sông chảy mà có sóng dậy, kẻ nhìn rõ thì thấy đó là hơi nước bốc lên chứ không phải nước. Bồ-tát cũng vậy, phân biệt các việc có không của các pháp không trong, không ngoài, không có, không không, cũng không đoạn diệt, chẳng cho là thường còn, không xem nhẹ lời giáo huấn, quán thấy như có mà chẳng chạy theo, tâm không hướng ngoại cũng chẳng hướng nội, là một hình tướng mà chứa vô số hình tướng, biết tất cả các pháp vốn không hình tướng, đầy đủ sự vi diệu, tất cả đều vô tự tánh. Đó là pháp Nhẫn ngựa hoang thứ năm.  
	Này Phật tử! Sao gọi là pháp Nhẫn như mộng của Bồ-tát? Bồ-tát quán thế gian giống như mộng tưởng, như giấc mộng của người mộng, không ở trong đời, không từ đời hưng khởi, không từ đời sinh ra, mộng tức là mộng không có dục giới, không có Sắc giới, không có Vô sắc giới, cho nên gọi là mộng. Nghĩa là mộng không có chỗ sinh ra, không có sở hữu, mộng không có trần lao thì không có oán kết. Lại nữa, đã cho là người mộng thì không có chỗ sinh ra, cũng không thanh tịnh, mộng không thấy mộng, Bồ-tát quán tất cả ở đời đều hiểu rõ như mộng, không sáng thông cũng không mù tối. Mộng thì tự nhiên, mộng không chấp trước, mộng là mơ màng, mộng cũng vốn tịnh, có chỗ kiến lập nên có mộng này; mộng không chỗ hoại, vì chỗ niệm tưởng mà có mộng ấy. Nếu có thể hiểu rõ các pháp đều là như mộng thì có thể dẫn dắt tất cả thế gian. Đó là pháp Nhẫn như mộng thứ sáu của Bồ-tát.  
	Này Phật tử! Sao gọi là pháp Nhẫn như tiếng vang của Bồ-tát? Bồ-tát học pháp, vào các âm thanh, nếu có sở học thì đó là việc độ người chưa độ, học pháp hóa độ, biết rõ tất cả. Giống như tiếng vang không phải không có tiếng vang nhưng vốn vắng lạêng cũng không thấy có chỗ đủ. Bồ-tát Đại sĩ ở nơi các sắc tượng như vậy, quán sát các âm hưởng trong ngoài của Như Lai, chớ có thấy các việc trong ngoài, cũng không biết ngoài, không lấy cái trong mà hiểu việc ngoài, chẳng thấy chỗ gởi gắm, biết rõ ngôn từ, tùy nghi tiến lùi. Đó là sự biết rõ chừng ấy chương cú, nhân duyên như tiếng vang nhưng có sự hưng khởi hướng đạo. Đối với các pháp thí không có chỗ nào mà không thông đạt, cũng không ngăn ngại. Người có sở học là phân biệt, hiểu rõ tất cả các âm thanh đều vô sở hữu. Giống như Ngọc nữ thù diệu ở cõi trời là thuộc của trời Đế Thích. Chỉ dùng một miệng mà tấu ra trăm ngàn âm thanh kỹ nhạc, những kỹ nhạc ấy không hề tưởng nghĩ, miệng cũng không nghĩ là ta nay đang phát ra trăm ngàn diệu hưởng. Bồ-tát Đại sĩ độ các cảnh giới cũng không hề tưởng nghĩ, cũng không ngôn thuyết, biết rõ quyền biến, phương tiện vô hạn, thành tựu vô lượng âm, độ các pháp thế gian mà chẳng hề thoái lui, thường chuyển các cảnh, vào với chúng sinh và các chúng hội, phân biệt giảng nói cho họ. Mở đường dẫn lo cùng khắp tức là kiến lập cho họ, diễn thuyết thông suốt, hiện ra âm thanh không hề ngăn ngại, biến khắp cõi Phật làm cho họ tin chắc. Ban tuyên kinh đạo, dạy dỗ chúng sinh, ánh sáng phát ra chiếu khắp kẻ mê khiến họ giác ngộ. Tất cả âm thanh, dẫu có nói gì cũng không chỗ sinh, chừng ấy âm thanh không hề tưởng nghĩ mà lại mở đường dẫn lối, rõ vô sở sinh, tuyên dương giác trường, đạt đến Thánh đạo. Bồ-tát Đại sĩ đã trú nơi này thì đều bình đẳng không có sở đắc, khiến người nghe rộng khắp, vào nơi tất cả chỗ hưng khởi của chư Phật, diện kiến chư Phật, chuyển bánh xe pháp, hóa độ và tùy thuận vô lượng mà không hề khởi nghĩ. Đó là pháp Nhẫn như tiếng vang của Bồ-tát.  
	Này Phật tử! Sao gọi là pháp Nhẫn như ảnh của Bồ-tát? Bồ-tát không chìm ở nơi đời, không sinh ra nơi đời, không đi vào đời, không ra khỏi đời, không làm ở đời, không tin pháp giới, không hoại tập tục. Lại nữa, đối với thế giới cũng không phải không hoại, không đến ở đời, không tham vui ở đời, không ngự trị ở đời, không lớn lên ở đời. Lại nữa Bồ-tát ấy không ở tại đời, cũng không độ đời, không phụng hành hạnh Bồ-tát, không chỗ thuần tín. Đối với đại thệ nguyện không thật cũng không hư, không có cũng chẳng không thì trở về tất cả pháp của chư Phật, không một chỗ nào mà không cùng khắp ở thế gian. Đối với pháp thế tục cũng không chỗ trụ, không theo tục giáo, như ảnh, như mặt trời, mặt trăng chiếu khắp loài người, cỏ cây, núi đồi, nhà cửa, cung điện các thần, các dòng sông… Tất cả vạn hữu không thể tính đếm vô lượng nhân duyên, vô số phương diện, vì ánh sáng mặt trời đều thấy vạn vật và chỗ hướng đến của nó, cũng như nước lắng trong vậy. Lại như người chèo thuyền gặp ngọc Dạ quang nên nhờ ánh sáng ấy mà được như ý, những chỗ cấu uế và không có ánh sáng thì đều nhờ ánh sáng tự hiện ra ấy mà được chiếu tỏa, người chèo thuyền ấy không hề phải tạo lập. Lại nữa, ánh sáng ấy không có sở hữu, không có âm hưởng, cũng không chỗ sinh ra. Vì ánh sáng ấy mà có chỗ sáng tối khác nhau, nhưng ánh sáng này không hề có đi lại. Tuy là trong sáng nhưng không cùng ở với sự trong sáng, ở nơi chỗ ánh sáng thì cũng gọi là ánh sáng. Nó chiếu soi vô số dòng nước mà không hề có chỗ chiếu, không chỗ biến khắp, ảnh chiếu của nó không nhập vào sông ngòi, khe suối, ao sâu, biển lớn. Ảnh ấy không xứ sở, cũng không bám chắc, chỗ hiện của ảnh ấy không trong sáng cũng không tỳ vết. Ảnh ấy không hiện thì trong khoảng không gian ấy không nương được vào gốc, nếu hiện ra rộng thì chảêng gần, chẳng xa. Cũng vậy, Bồ-tát khai hóa cùng với chí hướng nẻo hành của họ mà được tự tại. Chỗ quán sát đạo tuệ của chúng sinh cùng chỗ khuyến hóa chí hướng nẻo hành cho tha nhân đều không sai biệt. Phân biệt chỗ đi vào đạo tràng của mình và quán sát cảnh giới thâm sâu của mình cùng của người không có hai bậc. Như việc trồng cây, trước hết nảy mầm rồi mới phát triển tươi tốt, dần dần lới lên mà sinh ra lá, cành, đốt, hoa, quả. Như vậy, đối với pháp giới của mình cùng với pháp giới của tha nhân, Bồ-tát phân biệt rõ các tướng, biết pháp không có hai thì được siêu nhập bản tế vô ngại. Thân Bồ-tát ấy được siêu vượt cảnh giới của chư Phật không thể nghĩ bàn, thấy các cõi Phật không hề trú trước. Ở nơi các thế giới không hề di chuyển, đến các Phật giới mà cũng chẳng có chỗ đến, chỗ đến của Pháp thân như ảnh mặt trời nhìn thấy trước mắt. Thân ấy vào khắp, hiện khắp thế giới, có chỗ hiện sinh mà hành không ngăn ngại cũng không phân thân, cũng chẳng chốn hành, không nghĩ đến thế tục, dứt bỏ từ ngữ hư dối của phương tục, cũng không tán thân để đạt đến chỗ không đầu cuối, không chỗ nào mà không trùm khắp. Chốn hành hóa nơi bản tế của Như Lai chủng cũng chẳng làm tịnh thân, khẩu, ý hành, bèn hội nhập vào sự giảng nói vô lượng, thanh tịnh tất cả thần, không gì không đạt được. Đó là pháp Nhẫn như ảnh thứ tám của Bồ-tát.  
	Này Phật tử! Sao gọi là pháp Nhẫn như hóa của Bồ-tát Đại sĩ? Bồ-tát vào khắp thế tục, nếu có chỗ đến thì Bồ-tát quán rõ tất cả chúng sinh đều như huyễn hóa. Nhưng nghĩ đến việc như hóa mà chẳng muốn biết vì cho là vạn vật huyễn hóa. Nghĩa là tất cả thế giới các cõi vì có hành vi, tư tưởng hóa hiện ra nên tất cả đều là sự khổ vui, điên đảo. Tất cả sự hóa hiện ấy của thế gian đều do tư tưởng, vô minh mà liền thành các niệm tưởng phiền não cấu nhiễm. Vì do hóa hiện biến ảo nên kiến lập âm thanh tuyên thuyết, rộng nói pháp đạo. Dùng giáo pháp vô tưởng mà khai hóa họ làm cho họ kiên cố không lùi, bình đẳng dẫn dắt, khai ngộ người chưa khai ngộ, lập chí thệ nguyện, hành như huyễn hóa. Quán sát hành dụng đại Bi của Như Lai và sự huyễn hóa của muôn loài. Hiểu rõ điều đó tức là tu phương tiện quyền xảo, dùng tuệ vô úy, bốn phân biệt biện Thánh đạt tự tại. Bồ-tát như vậy hóa độ khắp đời, công đức vượt đời, biện tài tự tại, rộng lớn không bờ, vào trong trăm ngàn chúng hội mà luôn tự tại. Có thể hiểu rõ sự tương ưng giữa cõi trời và cõi người, thấy rõ đường Thánh, chỉ bày đại đạo đúng như chốn hành không hề trái mất. Ví như hóa nhân thì không có sở niệm, không có tạo tác, chẳng hưng khởi tâm, không có chỗ trụ ở nơi pháp, không khởi theo nghiệp, chẳng mong báo ứng, không chỗ đi đến, không ra khỏi đời, không ở nơi đời mà thành Chánh giác, cũng chẳng nghĩ đến pháp, không huân tập các pháp, không trụ lâu dài cũng chẳng trụ phút chốc, cũng không chỗ ở, không hành tập tục, không lớn lên ở thế gian, không có phương diện ngôn từ, không gần các giới hạn, cũng không phải không giới hạn, không tăng không giảm, không có thuần tín, cũng không phải không thuần tín, không có Hiền thánh cũng không phàm phu, không có phiền não cũng không oán hận, không sinh không diệt, không có trí tuệ cũng không phải không có trí tuệ, không sở hữu cũng không vi diệu, không nương tựa thế gian cũng không dẫn dắt hành xử thế gian. Ở trong các pháp giới không có chỗ nhận cũng không phải không nhận, không có ngũ ấm cũng không phải không có ngũ ấm, không có sinh tử cũng không diệt độ, chẳng có chẳng không. Bồ-tát như vậy mà du hành ở đời, tu hạnh Bồ-tát, sáng tỏ biện tài, không hề kiêu mạn, nhìn thấy thế gian, không có tự cao, vâng tín tu hành không vì thân mình, chẳng vì thế tục, không có phóng dật, chẳng có ta người, rời chấp cống cao, cũng không ỷ lại, không dựa vào đời, xả bỏ kiêu mạn, không chỗ nhớ nghĩ, không ở nơi đời cũng không ngăn cách đời, không ở nơi pháp mà đầy đủ sự tự tại, không có sự ỷ lại ở nơi cõi người, không chỗ khai đạo cũng không ở nơi cõi chúng sinh, không có sở nguyện cũng không có nhớ nghĩ, cũng không chỗ tịnh. Lại nữa, đối với các pháp không chỗ trang nghiêm, pháp của chư Phật đều không sở hữu, thành tựu đầy đủ mới đến đại đạo. Lại nữa, các pháp ấy không có cũng chẳng không. Bồ-tát trụ nơi pháp nhẫn, đạt được sự như hóa, bình đẳng hiểu rõ tất cả Phật đạo, đã được thành tựu thì kiến lập cái biết chắc thật. Đó là Bồ-tát rộng nhìn Phật pháp như ảo hóa, không nơi chốn, khắp trong Phật đạo mà không sở đắc. Hành dụng nơi chúng sinh mà không chướng ngại, không khởi thân tướng, vào tất cả thân mà dẫn dắt họ, có chỗ kiến lập mà không chấp trước. Nếu thấy sắc mà đối với sắc xem như huyễn hóa, không chấp trước thì được tròn đầy và tự nhiên sáng tỏ bản tế, chân đế. Có sự sáng chiếu nơi pháp giải thoát mà không sở đắc. Đối với tất cả các pháp hiện hữu chỗ sinh mà không chỗ sinh. Như hóa nhân kia không chỗ nhớ biết, bản tánh thanh tịnh, không chỗ thọ nhận lời nói. Như chỗ vấn hỏi và giải thuyết thì thuận theo tất cả luật không chỗ nhớ nghĩ, sự cảm động cũng như huyễn hóa, chỗ tạo tác luôn đổi dời. Hiện tại, vị lai đi đến Như Lai chí Thánh này mà không thoái chuyển, cũng không chỗ sinh, không hề ngăn ngại, thành tựu tất cả lực, không có các tưởng. Như hóa nhân kia, tâm đều thấu đạt mà chẳng ngăn ngại với Vi thần sơn. Đó là pháp Nhẫn như hóa thứ chín của Bồ-tát.  
	Này Phật tử! Sao gọi là pháp Nhẫn như không của Bồ-tát Đại sĩ? Bồ-tát quán sâu vào cõi chúng sinh giống như hư không không có duyên tướng. Tất cả các pháp cũng là như vậy. Đi vào các cõi Phật mà không có thật, các pháp và hư không đều không có hai. Bồ-tát như vậy thể nhập vào chỗ không thệ nguyện. Giống như hư không bao hàm cõi Phật cũng là như vậy, không chỗ trói buộc. Hưng khởi năng lực nơi chỗn hội nhập của Như Lai mà đều đi cùng, giống như hư không chỗ vào không hai. Đạo cũng như vậy, không quá khứ, hiện tại, vị lai. Tuệ cũng như thế, đều diễn thuyết phân minh tất cả pháp và nẻo nhập cũng như vậy. Bồ-tát Đại sĩ đạt đến pháp nhẫn giống như hư không, chỗ đạt đến Thánh tuệ cũng là như vậy. Đối với các thừa, chỗ sở đắc đều như hư không, sự gặt hái của thân, khẩu, ý đều được tự tại. Giống như hư không ở nơi pháp mà không chỗ bám trụ, cũng không sinh diệt. Như vậy, Bồ-tát ở nơi tất cả pháp mà được tự tại, không đầu không cuối, không có xứ sở, không thể phá hủy giống như hư không vậy. Đối với các thông tuệ không có xứ sở cũng không hư hoại, đối với Phật lực cũng giống như hư không tự nhiên mà trú, ở trong tất cả đời mà không chỗ trú tức là cảnh giới tự nhiên. Như vậy Bồ-tát kiến lập chúng sinh cũng không chỗ nhập, tất cả như huyễn, giống như hư không không sinh không diệt, cũng không chỗ sinh mà hàm chứa tất cả vạn hữu trong thế gian. Bồ-tát như vậy cũng vô sở trú, không chỗ thành tựu mà tự nhiên tịnh. Vì Bồ-tát hiển hiện khắp các thế giới giống như hư không không có xứ sở, cũng không bờ cõi, không có ranh giới, bờ đáy, thông đạt sâu rộng không đâu không đến. Như vậy Bồ-tát không có xứ sở, cũng không phương diện mà có nơi đến. Đối với tất cả pháp, Bồ-tát tuyên thuyết thấu tận rộng khắp, các hạnh bình đẳng, không đâu không có giống như hư không. Có chỗ nương tựa, trụ lập thì không chỗ sinh mà hiện ra nhiều thứ, hàm chứa nhiều hình tướng. Bồ-tát như vậy không đi không đứng, đi theo các hạnh mà có chỗ hiện, cũng không chỗ sinh, giống như hư không không có hình tượng, cũng không phải không có hình tượng, không hành thanh tịnh cũng không uế trược vì có sự hằng hữu đạo. Bồ-tát như vậy không có ảnh tượng thế gian, không có ảnh tượng độ thế gian, không có vô lượng ảng tượng, vì có chỗ hiện hữu, giống như hư không không có lâu bền cũng không phút chốc. Bồ-tát như vậy không dừng lại lâu, không trú chốc lát, giống như hiện ảnh mà không có ảnh là Hạnh Bồ-tát. Nếu hiểu rõ điều này mới là rốt ráo, hành như hư không, hiện các phiền não mà không vết nhơ, hiện các oán kết mà không oán kết. Bồ-tát như vậy thì dùng đạo lực hàng phục chúng ma, thanh tịnh tất cả, tâm luôn tươi sáng, vắng lặng điềm nhiên, bình đẳng bao dung tất cả thế giới, cũng như hư không ở trong thế gian không có sai khác. Bồ-tát như vậy đối với các pháp tâm đều bình đẳng, không chỗ ngăn ngại, không chỗ quên mất, giống như hư không bình đẳng và bao dung hết thảy. Muốn đo lường hư không thì chẳng thể được vì nó chẳng hề có ngằn mé. Bồ-tát như vậy đối với các pháp, chí tánh đi vào, lại nữa đạo tâm ấy không có ngằn mé. Vì sao? Vì hư không ấy bình đẳng rộng khắp. Bồ-tát đối với mình mà vâng tín tu hành, thành tựu thanh tịnh, việc làm bình đẳng, vì một việc thì dùng một việc mà chuyển vô lượng việc, đi khắp các cõi giống như hư không. Đối với cõi nước chư Phật, không chỗ rốt ráo mà được tròn đầy. Đối với các phương diện thì không chỗ trú mà đi vào các phương, thành tựu thần thông và tất cả công đức không có hạn lượng. Các việc thù thắng tự nhiên đầy đủ, thâu hoạch các pháp đến Độ vô cực, trụ vững kiên cố chí như hư không, như kim cang. Đối với tất cả các âm hưởng, các âm Dị đạo mà không hề tưởng nghĩ, không hề trái bỏ việc chuyển pháp luân. Giả sử hạnh Bồ-tát có thể thành tựu pháp nhẫn ấy thì được tự tại, cũng không chỗ đến, không lui không tới, không chỗ hướng về mới là tự tại mà không chỗ diệt, liền được ở nơi vô vi mà được tự do không chỗ quên mất. Xả thân không thật, thành tựu chân thể, tuân theo luật giáo, tâm không vọng cầu, tức là một tướng, thân ấy tự tại vào nơi vô tướng tức dùng vô tướng không có hạn lượng. Phật lực vô hạn, thân tự tại khắp không đâu chẳng có, tức giúp hạnh mình, thân không chỗ hoại mà được tự tại, bình đẳng kiên cố, có chỗ hàng phục, vào khắp tất cả. Mắt ấy đều thấy khắp là mắt thanh tịnh không bị che chướng, các hạnh lìa dục, cũng chẳng phải không hành, giống như hư không vắng lặng vô hạn, nơi chỗ đi vào tức dùng vô nhẫn, không chỗ không nhẫn, đó là công đức. Đã làm xong việc lớn rộng khắp, đến chỗ an nhiên, giống như hư không không có nguy ách. Tất cả Bồ-tát biết rõ chốn hành, vào nơi thanh tịnh, tâm bình đẳng như hư không không chỗ hủy mất, tất cả Phật pháp giống như biển lớn thù đặc vô hạn có chỗ hội nhập, không có đoạn mất. Bồ-tát vào nơi cõi Phật, kiến lập dẫn dắt vô lượng cõi chúng sinh như hư không không bờ mé, xa lìa các sắc tượng, không có âm hưởng. Quán sát kỹ càng, thấy sự thị hiện tùy thuận rộng khắp, khai hóa chúng sinh, thành tựu tròn đầy, chí nguyện bền vững như hư không, không thể tan mất. Tâm Bồ-tát luôn kiên cố, đạt đến rốt ráo khắp cùng thế giới, cũng như hư không không có sở hữu. Sự kiên cố ấy không theo thế gian, trừ các ân ái, tròn đủ đại đạo. Cho dù có gặp kiếp nạn thiêu cháy trời đất nhưng chẳng thể đốt cháy hư không; hư không nắm trọn và hàm dung tất cả thế giới chư Phật. Như vậy Bồ-tát vào nơi các lực thì kiến lập được trí tuệ vô thượng Chánh chân. Đó là pháp Nhẫn các pháp như hư không thứ mười của chư Bồ-tát.  
	Lúc Bồ-tát Phổ Hiền giảng nói kinh này xong thì chúng Bồ-tát, chư Thiên, Long thần, A-tu-la, Trời, Người… không ai mà không hoan hỷ, phụng hành.  
	KINH NHƯ LAI HƯNG HIỂN 
	
	 
  
	MỤC-LỤC
  
	 |