| 
	 VT0267  
	KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN 
	Hán dịch: Không rõ tên người dịch, Đại sư Tăng Hựu đời Lương sao lục. 
	Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh 
	MỤC LỤC 
	QUYỂN 1 
	PHẩm 1: MỞ ĐẦU  
	Phẩm 2: TÍN HÀNH (Phần 1)  
	QUYỂN 2 
	Phẩm 2: TÍN HÀNH (Phần 2)  
	Phẩm 3: THANH VĂN, BÍCH-CHI-PHẬT  
	QUYỂN 3 
	Phẩm 4: NÊU RÕ HÀNH TƯỚNG HAI THỪA  
	Phẩm 5: DỨT TRỪ MỌI TƯỞNG  
	Phẩm 6: HÀNG PHỤC CÁC MA  
	QUYỂN 4 
	Phẩm 7: THỌ KÝ  
	Phẩm 8: NHẬN RÕ  
	Phẩm 9: AN DƯỠNG QUỐC. 
	  
	  
	QUYỂN 1    QUYỂN 2    QUYỂN 3    QUYỂN 4 
	KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN 
	Hán dịch: Không rõ tên người dịch, Đại sư Tăng Hựu đời Lương sao lục. 
	Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh 
	QUYỂN 1
	  
	Phẩm 1: TỰA  
	Tôi nghe như vầy:  
	Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo Tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị, chúng Bồ-tát Ma-ha-tát thì có đến số vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ.  
	Lúc bấy giờ, vào khoảng quá nửa đêm, Đức Thế Tôn nhập chánh định Quảng Đại Quang Minh Chiếu, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử nhập chánh định Đại quang minh, Bồ-tát Di-lặc cũng nhập chánh định Biến cự. Lúc này, Đức Thế Tôn xuất định, cùng Tôn giả Xá-lợi-phất ra khỏi phòng đi tới chỗ trú của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Chợt Tôn giả Xá-lợi-phất nhìn thấy hai bên trái và phải của phòng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cũng như phòng của Phật thảy đều hiện ra những ao nước đầy, trong ao có vô số lớp lớp những đóa hoa sen trải kín trên mặt nước. Mỗi đóa hoa sen trong ao đều phát ra ánh sáng chiếu khắp khu Kỳ hoàn và nước Xá-vệ, cho đến cả tam thiên đại thiên thế giới thảy đều được chiếu sáng. Lại nghe có tiếng pháp âm lớn vang khắp tất cả các thế giới trong mười phương, nghe rõ có tiếng của các vị Bồ-tát đang thưa hỏi, nêu câu hỏi, luận bàn. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất đã bước vào phòng, thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đang ngồi nhập định, bèn đứng trước mặt rồi búng mạnh ngón tay để phát ra tiếng.  
	Lúc này Đức Thế Tôn cùng Tôn giả Xá-lợi-phất đều thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử dùng thần thông biến hóa nên đều thấy thân mình đang ở trên mặt nước biển lớn. Tôn giả Xá-lợi-phất khi ấy muốn ra khỏi phòng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nhưng không thể được, muốn phóng vụt lên hư không mà cũng chẳng được, không tự biết mình từ đâu đến, huống gì là việc vận dụng thần thông bay đi. Thế rồi, Tôn giả liền ngồi kiết già nhập định, đột nhiên nhìn thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đang ngồi ngay thẳng trước mặt mình, biết đấy là do năng lực thần thông của Bồ-tát thể hiện, nên không rời khỏi chỗ ngồi.  
	Tôn giả Xá-lợi-phất thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Qua số cõi Phật như cát sông Hằng có một thế giới tên là A-bệ-bạt-trí nghị luận âm thanh, Đức Phật ở thế giới đó hiệu là Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu, hiện đang ngự trên tòa báu, có vô lượng ngàn ức Bồ-tát vây quanh. Tôn giả thấy các lỗ chân lông trên thân của Đức Phật ấy đều mọc ra hoa sen, mỗi đóa hoa sen đó đều phát ra ánh sáng chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Mỗi hoa có ngàn cánh, cọng bằng ngọc lưu ly xanh, tua bằng ngọc mã não, đài bằng các thứ báu, trên mỗi đài đều có các vị Bồ-tát đang ngồi kiết già. Các vị Bồ-tát ấy đều trụ trong pháp không thoái chuyển, sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đối với các pháp môn Tổng trì đều thành tựu Đại nhẫn, tự trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng, thân sắc màu vàng ròng nhiệm mầu bậc nhất.  
	Lúc bấy giờ từ nơi rốn Đức Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu mọc ra một đóa hoa sen lớn, rất nhiều mầu sắc, thân cũng bằng ngọc lưu ly xanh, cánh hoa bằng kim cang, tua bằng lưu ly nhân đà, đài bằng Long kiên chiên-đàn vương, nước ở thế gian không thể làm ô nhiễm. Tôn giả Xá-lợi-phất nhìn thấy đài hoa ấy còn bỏ trống nên Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã lên ngồi nơi đó và cùng với đài hoa sen vụt biến lên cao vút. Rồi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đi nhiễu quanh Phật ba vòng, chắp tay, nhất tâm đảnh lễ dưới chân Phật, sau đó trở lại đài hoa sen ngồi kiết già, chánh niệm hướng về Phật.  
	Lúc này, Như Lai Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:  
	–Nhân giả từ nơi nào đến đây?  
	Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Con từ thế giới Ta-bà đến cõi này. Trong cõi Phật này có hai vị Bồ-tát là Thiện Âm và Thiện Thanh; hai vị Đại Bồ-tát này đều đã an trụ nơi pháp không thoái chuyển quyết định sẽ chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hai vị cùng từ nơi đài hoa bước ra, sửa lại y phục ngay ngắn, rồi đầu gối bên phải quỳ sát đất, nhất tâm chắp tay cùng bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Thế giới Ta-bà ấy cách cõi này bao xa?  
	Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu đáp:  
	–Thế giới Ta-bà đó cách đây với số thế giới nhiều như số cát sông Hằng, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi từ cõi ấy đến đây.  
	Hai vị Bồ-tát cùng hỏi Phật:  
	–Đức Phật ở thế giới Ta-bà đó hiệu là gì? Chúng con muốn được biết.  
	Đức Phật đáp:  
	–Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Mâu-ni, là Bậc Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang còn trụ thế giới.  
	Hai vị Bồ-tát lại hỏi:  
	–Đức Thích-ca Mâu-ni hiện giờ đang nói pháp gì?  
	Phật nói:  
	–Hiện đang nói pháp ba thừa.  
	Lại hỏi:  
	–Thế nào gọi là ba thừa?  
	Phật dạy:  
	–Đó là giảng về Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Phật thừa. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thường giảng về pháp ba thừa như vậy.  
	Hai vị Bồ-tát lại bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Các Đức Phật nói pháp vì sao không giống nhau?  
	Đức Phật đáp:  
	–Tất cả các Đức Phật nói pháp đều giống nhau.  
	Lại hỏi:  
	–Thế nào là giống nhau?  
	Đức Phật dạy:  
	–Đó là Chuyển pháp luân không thoái chuyển, tất cả các Đức Phật đều nói giống nhau.  
	Hai vị Bồ-tát lại bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Như vậy thì vì sao Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại nói về pháp ba thừa?  
	Đức Phật dạy:  
	–Vì tâm của chúng sinh ở thế giới Ta-bà ấy phần nhiều thấp kém, nếu chỉ nói về Nhất thừa thì không thể lãnh hội ngay được. Do đó, Phật Thích-ca Mâu-ni đã khéo dùng phương tiện khéo léo phân biệt nói ba thừa, giúp cho chúng sinh ra khỏi thế giới năm trược, dẫn dắt họ lần lượt hội nhập Nhất thừa.  
	Hai vị Bồ-tát bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở thế giới Ta-bà ấy nói pháp chắc là hết sức khó khăn?  
	Đức Phật đáp:  
	–Đúng vậy! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói pháp thật rất khó khăn.  
	Hai Bồ-tát bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con được lợi ích tốt đẹp nên không sinh vào cõi nước có chúng sinh thấp kém xấu ác như thế.  
	Phật đáp:  
	–Các vị chớ nói lời ấy, hãy mau bỏ ý nghĩ ấy.  
	Hai vị Bồ-tát nói:  
	–Bạch Thế Tôn! Do đâu mà Thế Tôn dạy chúng con không nên nói những lời ấy. Ở thế giới năm trược như vậy, mà nói pháp này rất là khó khăn, do đó mà chúng con hôm nay chẳng sinh tâm vui mừng, ưa thích.  
	Đức Phật dạy:  
	–Ở thế giới này, trong hai mươi ức na-do-tha kiếp tu tập các căn lành, sự việc ấy không khó khăn bằng ở thế giới Ta-bà chỉ trong thời gian một bữa ăn mà tu tập các căn lành. Nhưng Đức Thích-ca Mâu-ni đã luôn thích ứng với các pháp tu Bát-nhã ba-la-mật để dẫn dắt chúng sinh quy y Tam bảo thọ trì năm giới, khiến họ xa lìa tâm Thanh văn, Duyên giác, khiến họ phát đạo tâm Vô thượng Bồ-đề là những việc hết sức khó khăn. Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai đã tu tập như thế trải qua những hai mươi ức na-do-tha kiếp, huống chi còn khuyến khích mọi người xuất gia, khen ngợi công đức xuất gia, nói pháp rộng rãi, giúp họ ra khỏi ba cõi, giáo hóa như vậy để được lợi ích cho chính mình, tu tập pháp lành, nhập vào các thiền định. Vì sao? Vì chúng sinh ở thế giới Ta-bà đó luôn bị các thứ phiền não làm cho mê mờ, điên đảo.  
	Hai vị Bồ-tát lại bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Vì sao mà ở thế giới ấy, các chúng sinh lại bị nhiều thứ phiền não trói buộc khiến cho mê mờ điên đảo như vậy?  
	Phật dạy:  
	–Nếu ta nói cho các vị nghe về các thứ phiền não của chúng sinh ở thế giới Ta-bà như tham dục, sân hận, ngu si, vô số các pháp bất thiện, xấu ác thì dù hết suốt đời ta cũng không thể nói cho hết được. Chỉ có Phật mới biết rõ về nghiệp báo thiện ác ở thế giới đó.  
	Bấy giờ, hai vị Bồ-tát Thiện Âm và Thiện Thanh đều khen ngợi:  
	–Thật là Đấng Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni thật là Bậc Sư Tử trong họ Thích, thật là vị Đại Tiên trong dòng họ Thích!   
	Hai vị Bồ-tát khen ngợi ba lần như thế, tức thì các vị Thế Tôn ở đấy thảy đều khen ngợi:  
	–Lành thay! Bậc Đạo Sư thuyết pháp độ sinh, đã khéo biết rõ tâm niệm của muôn loài. Vì vậy mà ta đã nêu rõ về các pháp bất thiện, tham dục, sân si, tà kiến cùng vô lượng những điều xấu ác, khéo léo giảng nói dẫn dắt đưa họ về nẻo thiện, hướng về con đường tu tập của hàng Thanh văn, Duyên giác, đều quy về Phật thừa, thành tựu trí tuệ Phật, thanh tịnh bậc nhất. Lại giúp cho chúng sinh phát tâm Bồ-đề, thuận theo sự giải thoát, nhập vào trí tuệ Phật, vì giúp cho chúng sinh có đầy đủ căn lành, tâm không bị cấu nhiễm.  
	Các vị Bồ-tát ấy đều lấy những đóa hoa sen được cấu tạo bằng bảy thứ báu với nhiều màu sắc, mỗi hoa có trăm ngàn muôn ức cánh, như kho báu kim cang, tua bằng ngọc lưu ly xanh cõi trời, đài bằng Chiên-đàn long kiên, thân bằng các thứ châu báu, không hề bị dính các thứ nước ở thế gian, mắt đều nhận thấy rõ, hoa này nhiệm mầu bay lên hư không và tự xoay theo các hướng, khỏi phải nắm giữ, giống như hình ảnh huyễn từ nghiệp báo sinh ra, cũng từ các chánh định giải thoát sinh ra.  
	Các vị Bồ-tát lấy hoa trong hư không rồi từ xa hướng về thế giới Ta-bà tung rải cúng dường Đức Thích-ca Mâu-ni. Lại cầm các tràng hoa, lọng hoa, đều làm bằng các chất báu, rồi nào mây báu, lọng báu cùng các lọng lụa quý giá để cúng dường Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai. Sau đó, các vị Bồ-tát gieo năm vóc sát đất, hướng về Phật đảnh lễ, cùng đọc:  
	–Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật.  
	Các vị Bồ-tát Ma-ha-tát ở thế giới Ta-bà này, đã tự trang nghiêm bằng các pháp Đại thừa, luôn tinh tấn không hề biếng trễ, tu tập các công đức, có khả năng giữ gìn tất cả Chánh pháp của các Đức Phật quá khứ, hiện tại cùng vị lai, vì muốn cứu giúp các chúng sinh khổ não nên chiếu sáng rộng lớn và trụ trong Nhất thừa. Chúng con muốn đến ra mắt Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng chúng Đại Bồ-tát ở thế giới Ta-bà, những Bậc đã dùng sự Đại trang nghiêm để trang nghiêm thân mình, vì tiếp nối hạt giống Phật không để dứt mất.  
	Đức Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu Như Lai nghe các vị Bồ-tát nói lời ấy, liền quán sát tâm các vị ấy, lại nói cho các vị ấy nghe về công đức của các Đức Phật, chỉ dạy cho được lợi ích vui mừng, bèn bảo các vị Bồ-tát:  
	–Các ông nên theo học sự hành đạo của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Đối với tất cả chúng sinh phát tâm đại Từ bi, phát tâm làm lợi ích an vui cho họ. Đối với các pháp sâu nhiệm không sinh tâm sợ hãi hoặc chê bai, trái lại luôn giữ tâm niệm vô tướng, đầy đủ căn lành, không cầu quả báo. Các vị Đại Bồ-tát như thế đều sẽ đến cõi nước của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, do năng lực của bản nguyện nên đều sinh về thế giới ấy để giữ gìn chánh pháp, thuận theo sự chỉ dạy của các Đức Phật để làm chỗ dựa cho việc tu học của mình. Các ông nên đến thế giới đó để ra mắt Phật.  
	Hai vị Bồ-tát Thiện Âm và Thiện Thanh cùng bạch Phật:  
	–Chúng con sẽ nương theo năng lực thần thông của Phật và năng lực của các Đức Phật thời quá khứ, vị lai mà đến được thế giới Ta-bà ấy.  
	Đức Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu nói với hai vị Bồ-tát:  
	–Bây giờ, các ông hãy cùng đi với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến thế giới đó. Rồi Phật nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:  
	–Ông hãy hướng dẫn hai vị Bồ-tát này cùng đến thế giới Ta-bà.  
	Hai vị Bồ-tát Thiện Âm và Thiện Thanh nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:  
	–Chúng tôi muốn ra mắt Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng các vị Bồ-tát và tất cả đại chúng ở thế giới ấy, xin được nương theo thần lực của Bồ-tát để được ra mắt Đức Phật ấy.  
	Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:  
	–Này các thiện nam! Các vị trước hết phải nên lễ bái Đức Phật ấy, nên luôn luôn gần gũi cung kính cúng dường vô số các Đức Phật đều vì lợi ích cho tất cả chúng sinh trong các thế giới ở mười phương, cũng vì muốn tăng trưởng tánh chất giác ngộ nơi mìmh tức là thành tựu trí tuệ của Phật.  
	Hai vị Bồ-tát được nghe lời chỉ dạy của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền cùng thưa:  
	–Chúng tôi cũng sẽ hết lòng cúng dường các Đức Phật, Như Lai, gần gũi lễ bái tôn trọng khen ngợi, sẽ học hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.  
	Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đảnh lễ Đức Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, cung kính tôn trọng rồi cùng với các vị Bồ-tát và Tôn giả Xá-lợi-phất đến gần Phật để nghe nói pháp, được Phật chỉ dạy quán kỹ Như Lai. Các vị đều tung hoa cúng dường, lại dùng các thứ hương bột, hương xoa; các thứ cờ phướn dù lọng làm bằng lụa là thanh tịnh bậc nhất, tất cả đều được sự hộ trì thần lực của chư Phật quá khứ, khiến cho niệm tuệ được vững chắc, hướng đến cúng dường khắp ba ngôi tôn quý là Phật, Pháp, Tăng, nhằm giúp cho tất cả chúng sinh được giải thoát.  
	Chỉ trong khoảnh khắc như sự co duỗi cánh tay của vị Đại lực sĩ, thì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng các vị đã đi về phương Đông, trải qua các cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, ở mỗi cõi Phật ấy, Bồ-tát thảy đều khuyến thỉnh các Đức Phật giảng nói rộng về chuyển pháp luân thanh tịnh không thoái chuyển. Nơi các cõi Phật này không có người nữ, cũng không có danh từ hai thừa Thanh văn, Duyên giác, cũng giống như ở thế giới của Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu không khác. Trong các thế giới ấy được trang nghiêm bằng các vị Đại Bồ-tát. Nơi lỗ chân lông và rốn của các vị Đại Bồ-tát ấy đều hiện ra những đóa hoa sen, trong mỗi hoa sen đều có các vị Bồ-tát an tọa, trên mỗi đài hoa ấy đều có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi là do thần thông của Bồ-tát biến hóa để cúng dường các Đức Phật.  
	Đến các phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và hai phương trên, dưới, cho tới các thế giới trong mười phương, đều có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói chuyển pháp luân không thoái chuyển, đều có hai vị Bồ-tát từ trong đài hoa sen bước ra hỏi Phật: “Vì sao Đức Phật ở thế giới Ta-bà lại giảng nói về giáo pháp ba thừa?” Các vị Bồ-tát đó đều muốn được đi cùng với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến thế giới Ta-bà để ra mắt Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.  
	Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, trong các thế giới ở mười phương đều khuyến khích các vị Bồ-tát ở đó cùng đi với mình đến thế giới Ta-bà, khi tới cõi Diêm-phù-đề, thì trời sắp sáng.  
	Bấy giờ, Tôn giả A-nan đã thức giấc, dù trời chưa sáng nhưng nhìn qua lỗ trống của chiếc then cửa thấy ánh sáng hắt vào phòng mình, liền rời khỏi chỗ nằm bước ra ngoài, chợt thấy ánh sáng chiếu khắp tinh xá Kỳ hoàn và cả khu vực toàn là nước trong xanh óng ánh đầy khắp, giống như tấm gương lớn sáng loáng không chút bụi bặm, mà cũng không thấy bóng dáng cây cối và tinh xá đâu cả. Trông thấy cảnh tượng ấy, Tôn giả liền nghĩ: “Vì nhân duyên gì mà bỗng nhiên có các hiện tượng này? Cứ theo các điềm lạ hiện ra như thế thì chắc hôm nay Đức Thế Tôn sẽ nói pháp Đại thừa.”  
	Nghĩ rồi Tôn giả lội vào nước nhưng chân không bị ngập trong nước, nước cũng không bám vào chân, nên tâm ý vui mừng, liền đi thẳng đến phòng Đức Phật, chợt thấy có tới mười ngàn đóa hoa sen đang bay vòng quanh phòng Phật, lại nghe có tiếng nhạc vang khắp, các đóa hoa ấy đều phát ra ánh sáng chiếu khắp tinh xá Kỳ hoàn cùng nước Xá-vệ trong cõi Diêm-phù-đề và cả tam thiên đại thiên thế giới cũng đều được chiếu sáng như ban ngày. Tôn giả A-nan lòng tràn ngập nỗi vui mừng, gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính nhất tâm hướng về phía Phật. Lúc này tướng sáng đã xuất hiện, mặt trời sắp mọc, thấy rõ mười ngàn hoa sen đang bay vòng quanh phòng Phật, trong đó có một hoa sen đặc biệt đẹp nhất hiện ra nơi khu vực tinh xá Kỳ hoàn. Tôn giả A-nan liền nghĩ: “Hôm nay, Đức Thế Tôn chắc chắn sẽ nói pháp, ta phải lo sửa soạn chỗ ngồi để đợi Như Lai. Vì thấy có những hiện tượng này là Ngài sẽ nói pháp.”  
	Rồi Tôn giả lo sắp đặt tòa Sư tử cho Đức Phật ngồi, chỉ trong chốc lát là Phật đã ngồi yên. Lúc đó, mặt đất rung chuyển sáu cách, cho đến hằng hà sa thế giới trong mười phương cũng rung chuyển sáu cách như vậy. Khắp tam thiên đại thiên thế giới hoa trời rải khắp như hoa Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi, Ưu-bát-la... cùng các thứ cây đầy hoa trái tự nhiên mọc lên.  
	Lúc ấy, các vị Tỳ-kheo đều muốn ra khỏi phòng để đến đạo tràng, nhưng trông thấy cả khu vực toàn là nước nên sợ hãi không dám đi. Các vị thấy cả khu Kỳ hoàn, cây cối cùng Tăng phòng, giảng đường, vườn hoa như chìm trong làn nước đầy ắp, trong lành chẳng chút cấu bẩn, lại chỉ thấy ánh sáng rực rỡ chiếu sáng khắp nơi. Các vị Tỳ-kheo ấy đều nói:  
	–Hôm nay có những điềm lành này, chắc chắn là Đức Thế Tôn sẽ nói pháp Đại thừa.  
	Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn xuất định ngồi khoan thai. Tức thì, tất cả các Đức Phật trong các thế giới ở mười phương đều phát ra ánh sáng rực rỡ cùng nhiều mành lưới báu, có trăm ngàn muôn ức vô số màu sắc, mắt đều trông thấy nhưng không thể nắm bắt. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng hằng hà sa số các vị Bồ-tát của các cõi Phật trong mười phương, vì muốn đem lại lợi ích cho vô lượng chúng sinh, nên đối với các Đức Phật Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đều lễ bái cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, cùng với các vị Đại Bồ-tát như thế, thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn, muốn giúp cho chúng sinh tin theo Phật pháp, giáo hóa làm lợi ích, tùy theo sự thích ứng mà đều được nghe thấy, dùng phương tiện giảng nói giúp họ lãnh hội, thông tỏ.  
	Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi biết Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã an tọa. Tất cả mặt đất đều rung chuyển sáu cách và các vị Bồ-tát từ dưới đất vụt hiện lên, từ một a-tăng-kỳ, trăm a-tăng-kỳ, cho tới trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ vị đều đến nhóm họp trong hội. Tất cả các Bồ-tát đều đi nhiễu quanh Đức Phật đến hàng trăm ngàn vòng.  
	Lại cầm vô số hoa sen rất nhiều màu sắc, mỗi hoa có vô lượng cánh nhiều không thể tính kể, tất cả được tung rải trên chỗ Phật để cúng dường, nhằm giúp cho chúng sinh nhất tâm chuyên niệm, phát sinh trí tuệ thù thắng, số hoa sen được tung rải cúng dường ấy phủ khắp tam thiên đại thiên thế giới.  
	Lại có các loại hương Long kiên, Chiên-đàn, các thứ hương tạp làm bằng Chiên-đàn, do thần thông phương tiện biến hóa là kết quả của sự tu tập các pháp Ba-la-mật là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ mà có, đều là loại hương Vô tướng trợ đạo, được oai thần của các Đức Phật trong mười phương che chở để cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.  
	Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, vì muốn cúng dường các Đức Như Lai, nên cùng với các Bồ-tát trang sức tháp báu, những cờ phướn, dù lọng bằng lụa là quý đẹp, dùng nhiều loại võng báu giăng mắc khắp phía trên. Bồ-tát cũng dùng ngọc Ma-ni tạo dựng các phòng ốc, cửa ngõ, bình phong, cửa sổ, cửa lớn, tất cả đều đẹp đẽ trang nghiêm. Rồi nào ao hồ, suối khe, kênh ngòi, sông lớn với đủ các loại hoa như hoa Ưu-bát-la, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi, các thứ hoa sen báu phủ khắp mặt nước, nước ấy có tám thứ công đức, lại thêm vô số các loài chim lạ cùng bay đến tụ tập hót vang. Các cây báu cõi trời tùy theo ý muốn mà hiện ra, để cứu giúp chúng sinh khiến được giải thoát, vì tu trí Phật, phát ra tâm Bồ-đề, tất cả đều do thần thông không thể nghĩ bàn của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi biến hóa ra, nương theo uy thần của các Đức Phật và năng lực của thệ nguyện, cũng là nguyện lực bản hạnh của Phật Thích-ca Mâu-ni. Bồ-tát Văn-thù biến hóa như vậy là muốn cho sự giáo hóa dẫn dắt chúng sinh được thành tựu trọn vẹn, khiến tâm họ không thể nghĩ bàn, mà sự nhận thức cũng không thể nghĩ bàn nên đã tạo ra vẻ trang nghiêm hết mực cho cảnh giới Phật.  
	Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng với các vị Đại Bồ-tát đã tạo đầy đủ vẻ trang nghiêm cho đạo tràng nói pháp của Phật. Khi các vị Bồ-tát sắp sửa an tọa, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi chỉ trong một sátna, trước hết là hiện rõ thân tướng của mình, rồi thì các hoa sen vô tướng từ các lỗ chân lông trên thân hiện ra, mỗi lỗ chân lông là một hoa sen với vô số trăm ngàn màu sắc xen nhau, có vô số cánh không thể nghĩ bàn màn lưới ánh sáng bằng kho báu Kim cang, tua bằng ngọc lưu ly xanh, đài bằng Long kiên chiên-đàn, các vị Bồ-tát đều ngồi kiết già trên các hoa sen ấy.  
	Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, từ nơi rốn trên thân tướng phát ra ánh sáng chiếu khắp sáu đường tăm tối, hàng ngàn ức thứ ánh sáng như màu sắc hoa A-đề-mục-đa-già cùng với vô số luồng ánh sáng mềm mại như hoa sen trong lành thơm ngát, lan tỏa khắp mười phương không hề bị trở ngại… từ trong đài hoa sen hiện ra những ngôi lầu gác đẹp đẽ, được các Đức Phật che chở, cùng hòa nhập với pháp giới bao la, như màu sắc của cảnh giới vắng lặng an vui giải thoát là Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô tác, vô vi, vô sinh, vô diệt, đồng với ba đời, tất cả đều hội nhập vào cõi không, vượt quá sự thấy biết của mắt thường. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, thân tướng khôi ngô xinh đẹp, an tọa trên tòa lầu gác đẹp đẽ ấy, tâm không dao động, nghĩ nhớ cảnh giới Phật, tự chứng ngộ pháp Không được chánh định Kim cang, khéo tu học theo pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nhất định sẽ đạt pháp Tam-muội vô duyên, đi sâu vào trí tuệ Phật.  
	Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng với các vị Đại Bồ-tát đã thực hiện viên mãn các Phật sự trong các thế giới ở mười phương, tâm ưa thích chánh pháp, thường siêng năng tu tập, cũng gieo trồng căn lành đã lâu đối với các Đức Phật đời quá khứ, đều được Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi che chở chí tâm dốc sức hành đạo giác ngộ, không thoái chuyển, giống như sư tử mạnh mẽ ngự trên tòa vô úy.  
	Phật bảo A-nan:  
	–Ông nên báo cho các Tỳ-kheo trong tinh xá Kỳ hoàn cùng các vị Tỳ-kheo-ni đang tu học nơi các tinh xá trong thành Xá-vệ biết rằng hôm nay Đức Như Lai, Thế Tôn sẽ nói pháp, đồng thời cũng báo cho các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di trong kinh thành ấy là những người kính tin, ưa thích Tam bảo, căn lành thuần thục, được biết để đều nhóm họp nghe pháp.  
	Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy, đi tới các phòng Tăng và những chỗ kinh hành để báo rằng Đức Phật sắp nói pháp.  
	Bấy giờ, các Tỳ-kheo đã nhóm họp, lại có các Tỳ-kheo đang ở trong phòng, đều nói là đã thấy các hiện tượng lạ báo trước việc Đức Thế Tôn sẽ nói pháp nhưng không thể đến nhóm họp được. Tôn giả A-nan nói:  
	–Vì sao các vị không đến được?  
	Các Tỳ-kheo ấy đáp là hôm nay trông thấy cả tinh xá Kỳ hoàn toàn là nước đầy khắp chẳng còn thấy cây cối đâu cả, chỉ thấy ánh sáng rực rỡ chiếu sáng khắp nơi, vì thế nên không dám ra đi. Tôn giả A-nan liền trở lại chỗ Phật bạch:  
	–Bạch Thế Tôn! Có các Tỳ-kheo không thể đến nhóm họp được. Vì họ trông thấy cả tinh xá Kỳ hoàn như ngập chìm trong nước, nước rất trong xanh không chút cấu bẩn, lại còn chẳng thấy tinh xá và cây cối đâu cả, nên các vị ấy không đến được.  
	Phật bảo A-nan:  
	–Các vị Tỳ-kheo ấy, đối với nơi không có nước mà tưởng là có nước, đối với không có hình sắc mà tưởng là có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức thì lại tưởng là có thọ, tưởng, hành, thức. Chưa đạt quả vị Thanh văn, Duyên giác mà tưởng là đã đạt được các quả vị ấy. Này A-nan! Hãy trở lại nói cho các vị Tỳ-kheo ấy biết để họ còn kịp đến nghe pháp.  
	Bấy giờ, Tôn giả A-nan vâng theo lời Phật dạy, đi khắp thành Xá-vệ báo cho tất cả các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di biết là hôm nay Đức Thế Tôn sẽ nói pháp, vậy các vị hãy mau đến tinh xá Kỳ hoàn để nghe pháp.  
	Phật bảo Mục-liên:  
	–Tôn giả hãy đi báo cho các vị Đại Bồ-tát trong tam thiên đại thiên thế giới, những người luôn phát tâm tu tập các pháp trang nghiêm và các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, những vị hướng về pháp Đại thừa, tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tula, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân... cũng đều nhóm họp để được nghe Phật nói pháp, những ai chưa được nghe thì hôm nay sẽ được nghe. Nên biết rằng bốn chúng đệ tử và tám bộ chúng sẽ đến nghe pháp ấy vốn đã gieo trồng căn lành từ trước nơi vô lượng các Đức Phật thời quá khứ, luôn phát tâm hướng về các pháp Đại thừa, cầu tu Đại thừa để đạt đến Tối thắng thừa, cũng gọi là thừa thanh tịnh bậc nhất. Riêng các vị Đại Bồ-tát thì luôn dùng các pháp Đại trang nghiêm để tự trang nghiêm cho quá trình tu theo thừa này. Tóm lại Tôn giả hãy thông báo cùng khắp để các vị ấy biết mà đến nhóm họp.  
	Tôn giả Mục-liên bạch Phật:  
	–Con xin vâng lời Thế Tôn!  
	Thế là chỉ trong khoảnh khắc, Tôn giả Mục-liên đã đi khắp tam thiên đại thiên thế giới, đến các đạo tràng lớn nhỏ, nhờ thần lực Phật và năng lực bản nguyện nên công việc thông báo đã hoàn tất nhanh chóng. Tôn giả Mục-liên trở lại chỗ Phật, bạch Phật rằng là mình đã làm viên mãn công việc được giao.  
	Bấy giờ, tất cả bốn chúng đều nhóm họp. Chiếm một khoảng rộng lớn mỗi bề hàng ngàn do-tuần, bao quát cả một không gian cao đến năm ngàn do-tuần, tất cả trời, người lòng tràn ngập niềm ưa thích mong được nghe Pháp. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Bốn chúng đã nhóm họp đông đủ.  
	Lúc này, các vị trời hiện ra đầy khắp hư không, thảy đều chắp tay bạch Phật:  
	–Hiện giờ cả đại chúng đều kinh sợ trước uy đức của Như Lai nên không dám tự tiện an tọa, kính mong Thế Tôn cho phép họ ngồi.  
	Bấy giờ, Đức Như Lai liền hiện ra điềm lành, chỉ trong khoảnh khắc, từ dưới đất vụt hiện lên một hoa sen lớn bằng vàng Diêm-phù-đề có trăm ngàn muôn ức cánh, màu sắc ánh sáng tỏa chiếu rực rỡ như một vầng lửa khổng lồ. Đóa hoa sen ấy có tua bằng ngọc lưu ly xanh, đài làm bằng ngọc trai, thân bằng bảy thứ báu. Tất cả đại chúng đều tự biết phải ngồi phía trước Đức Như Lai. Các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thác-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, Nhân phi nhân… đều hướng về Đức Phật, chiêm ngưỡng Đức Như Lai.  
	Đối với các vị Đại Bồ-tát thì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi là bậc Thượng thủ, các vị Đại Bồ-tát này đều có ba mươi hai tướng làm tăng thêm vẻ trang nghiêm nơi thân mình, màu sắc như vàng ròng, đều là bậc mạnh mẽ tinh tấn, uy đức rõ ràng.  
	Bấy giờ, các vị Bồ-tát cùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đều từ nơi các đài hoa sen bước ra, chắp tay hướng về Đức Phật, khuyến thỉnh Đức Thế Tôn và nhất tâm nghĩ nhớ Phật. Rồi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Bốn chúng đã nhóm họp, tất cả đều ngồi yên lặng, tất cả các vị trời hiện ra đầy khắp hư không. Cúi mong Đức Thế Tôn giảng nói rõ về pháp Bất thoái chuyển pháp luân thanh tịnh. Bốn chúng đệ tử hiện có ở đây là các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng vô lượng trăm ngàn vị trời, các vị tín hành, pháp hành, cùng với tám bậc, có Tu-đà-hoàn tưởng, Tư-đà-hàm tưởng, A-nan-hàm tưởng, A-la-hán tưởng, Thanh văn tưởng, Duyên giác tưởng, Phật tưởng, mỗi người đều có ý tưởng. Mong Phật giảng nói để khuyến khích tâm họ là do nhân duyên gì mà nói về tín hành, pháp hành, cho đến tám bậc, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, do đâu mà nêu lên như vậy?  
	Đức Thế Tôn yên lặng không đáp.  
	Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Vào lúc quá nửa đêm, trời gần sáng, con đứng dậy ra khỏi phòng và đi đến phòng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, đến trước cửa phòng sắp sửa bước vào thì chợt thấy nơi phòng của Như Lai có đến mười ngàn đóa hoa sen vụt hiện ra bay vòng quanh, lại nghe có tiếng trống trời tự nhiên vang lên cùng với âm thanh ca vịnh, thấy khắp khu rừng Kỳ hoàn, thành Xá-vệ và cả tam thiên đại thiên thế giới thảy đều được chiếu sáng. Do nhân duyên gì mà hiện ra điềm lành ấy?  
	Tôn giả Xá-lợi-phất vừa hỏi dứt lời thì Đức Phật liền nói:  
	–Do hôm nay ta sẽ nói pháp nên mới trước hiện ra điềm lành ấy.  
	Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi Đức Như Lai sẽ nói pháp gì mà trước hiện điềm lành như vậy.  
	Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Vào khoảng cuối đêm, lúc trời gần sáng, con thấy ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào phòng mình qua khe cửa, con liền đứng dậy đi ra khỏi phòng trông thấy cả khu rừng Kỳ hoàn toàn là một vùng nước trong xanh chẳng có chút cáu bẩn, nhưng cây cối cùng tinh xá, Tăng phòng đều chẳng thấy đâu cả, chỉ thấy có ánh sáng chiếu rực rỡ. Vậy do nhân duyên gì mà hiện trước điềm lành như thế?  
	Thế Tôn bảo A-nan:  
	–Đó là vì hôm nay Như Lai sẽ nói về pháp luân thanh tịnh, cũng là điềm lành khuyến thỉnh do thần lực của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã hiện ra. Bây giờ, Đức Thế Tôn vì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nên nói bài kệ:  
	Thừa này thanh tịnh  
	Thành được trí Phật  
	Văn-thù diệu biện  
	Thưa hỏi nghĩa ấy  
	Nhất thừa dứt nhiễm  
	Được thượng trí Phật  
	Văn-thù hiểu rõ  
	Nên hỏi như thế.  
	Thừa không phân biệt  
	Lìa sự đùa bỡn,  
	Văn-thù hiểu rõ  
	Nên hỏi như thế.  
	Vốn không có lại  
	Cũng không có đi  
	Giống như Niết-bàn  
	Lời Văn-thù hỏi  
	Thực không được quả  
	Cũng không có nói  
	Chỉ dùng phương tiện  
	Dẫn dắt chúng sinh.  
	Xa lìa âm thanh  
	Âm thanh một tướng  
	Văn-thù hiểu rõ  
	Nên hỏi như thế.  
	Tìm cầu âm thanh  
	Không âm để tìm  
	Thanh vốn là không  
	Lời Văn-thù hỏi  
	Thanh ấy như gió  
	Không chỗ nương tựa  
	Thanh tức giải thoát  
	Lời Văn-thù hỏi  
	A-nan lắng nghe  
	Lời Văn-thù hỏi  
	Phương tiện giác ngộ  
	Đều không thật có  
	Phật và giác ngộ  
	Có tiếng không thật  
	Cũng chẳng chốn nơi  
	Các pháp đều thế  
	Bồ-đề không sắc  
	Nhân duyên không sinh  
	Không có đến đi  
	Là các Phật nói  
	Vô vi vô tướng  
	Như không, chẳng thấy  
	Bồ-đề không nói  
	Lời Văn-thù hỏi  
	Phật khứ, lai, hiện  
	Tất cả đều thế  
	Trí không nơi chốn  
	Không nghe, không thấy  
	Tánh, tướng như thị  
	Hiển bày pháp giới  
	Chỉ là giả danh  
	Mở bày chân thật  
	Tu thí thanh tịnh  
	Giữ giới không lỗi  
	Nhẫn nhục bền chí  
	Chí cầu Bồ-đề  
	Tinh tấn không trễ  
	Tu thiền nhiếp tâm  
	Trí tuệ thanh tịnh  
	Để cầu Bồ-đề  
	Phật dùng phương tiện  
	Độ các thần thông  
	Chúng sinh không nương  
	Vì nói Bồ-đề  
	Phân rõ ba thừa  
	Bốn quả khác nhau  
	Dùng trí như thật  
	Tùy nên cứu đời  
	Hiện cõi năm trược  
	Vì người thấp kém  
	Đối đạo Nhất thừa  
	Kinh nghi không tin  
	Nên nói bốn quả  
	Mở bày La-hán  
	Từ cửa Thanh văn  
	Vào cửa Phật giáo  
	Nói số vô số  
	Nhân duyên khác nhau  
	Nhận rõ bốn Đế  
	Chứng các pháp tướng  
	Thanh văn, La-hán  
	Duyên giác, Bích-chi  
	Cùng được vô sinh  
	Đó là Bồ-tát  
	Hành Không, Vô tướng  
	Vô nguyện Tam-muội   
	Vào cửa giải thoát  
	An trụ Niết-bàn  
	Đời khứ, lai, nay  
	Tâm không đắm nhiễm  
	Mở rộng mười phương  
	Vô sinh, vô vi  
	Pháp sâu như vậy  
	A-nan, Văn-thù  
	Phương tiện thưa hỏi  
	Sức tuệ vô tướng  
	Theo nẻo Nhất thừa  
	Biết pháp vô tướng  
	Cho nên hỏi Phật  
	Nay nói các quả  
	Ba đời bình đẳng  
	Biết không, vô tướng  
	Các tiếng vắng lặng  
	Không Bồ-đề Phật  
	Vô số hằng sa  
	Thế giới các Phật  
	Đến cầu Bồ-đề  
	Văn-thù triệu tập  
	Nghe các Phật ấy  
	Việc Bồ-tát làm  
	Muốn nói ba thừa  
	Đến cõi Ta-bà  
	Văn-thù thưa hỏi  
	Nhằm giải nghi hoặc  
	Phân biệt thừa, quả  
	Xin nói Bồ-đề  
	Dùng thần lực Phật  
	Cùng sức thệ nguyện  
	Nên nói ba thừa  
	Độ chúng sinh khổ  
	Khiến siêng tu tập  
	Văn-thù biện thuyết  
	Nói để cứu đời  
	Việc Bồ-tát làm  
	Ức ngàn vị trời  
	Cúng dường cứu đời  
	Kẻ tưởng các quả  
	An ủi nghi ngờ  
	Tỳ-kheo như vậy  
	Và Tỳ-kheo-ni  
	Thanh tín nam nữ  
	Ý tưởng tốt đẹp  
	Lời Văn-thù hỏi  
	Nhằm giải nghi hoặc  
	Các Bồ-tát ấy  
	Vì pháp nên đến.  
	Phẩm 2: TÍN HÀNH (Phần 1)  
	Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ ấy xong, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:  
	–Hôm nay Như Lai vì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà Chuyển pháp luân không thoái chuyển?  
	Phật dạy:  
	–Đúng thế!  
	A-nan lại bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Hôm nay Như Lai Chuyển pháp luân không thoái chuyển phải không?  
	Đức Phật dạy:  
	–Đúng vậy, này A-nan! Như Lai thật sự Chuyển pháp luân không thoái chuyển.  
	Tôn giả lại bạch Phật:  
	–Như Lai dùng phương tiện thế nào để nói về Tín hành, Pháp hành, tám bậc như thị? Cũng như nói về các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật. Đối với bốn chúng đệ tử đang nghe pháp, Như Lai đều nêu rõ các pháp Bồ-tát chăng? Vì sao Như Lai lại nói: Vì hạng chúng sinh thấp kém nên mới xuất hiện ở cõi đời năm trược, hạng chúng sinh ấy khó lãnh hội pháp Đại thừa.  
	Như Lai là Bậc Tự Tại, thành tựu phương tiện, nhận thấy chúng sinh hạng có tâm nguyện lớn thì ít, mà hạng tâm niệm thấp kém thì nhiều. Do vậy, vì Thế Tôn biết rõ căn tánh của chúng sinh để mở bày Phật pháp, dùng phương tiện cứu độ, dùng vô lượng các pháp lành để giáo hóa chúng sinh, khiến họ diệt trừ các khổ, được biết sinh tử, lìa các phiền não, khiến trụ nơi Chánh đạo, chứng Niết-bàn vô vi, cho tới đạt được Nhất thiết chủng trí.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:  
	–Bậc Đại Bồ-tát! Vì vô lượng, vô biên chúng sinh giúp họ phát sinh tin tưởng, hiểu biết các kiến giải về Phật pháp và pháp mà vô số các Đức Phật đã chứng biết. Các pháp ấy là không sắc, cho đến không thọ, tưởng, hành, thức, không tham nhiễm, không mê đắm, nên được gọi là tín hành.  
	Lại nữa, này A-nan! Bậc Đại Bồ-tát tin tưởng trí tuệ Phật tâm sinh vui mừng. Thế nào là trí tuệ? Trí tuệ là đều không thấy có thật pháp, vì không thấy có thật pháp nên gọi là tín hành.  
	Lại nữa, này A-nan! Các vị Đại Bồ-tát không đắm nhiễm năm dục lạc, không lìa bỏ lòng tin, nên gọi là Bồ-tát tín hành. Bậc Đại Bồ-tát lại nghĩ rằng: Bố thí pháp không thể nghĩ bàn cho các chúng sinh vẫn giữ tướng như thế, tin tưởng pháp thì không thể nghĩ bàn như thế, đó gọi là Bồ-tát tín hành. Các vị Bồ-tát Ma-ha-tát luôn tạo được sự hoan hỷ, có thể xả bỏ cả thân mình mà vẫn chưa cho là đủ, đối với mọi hoàn cảnh và nơi chốn đều không hề sinh ganh ghét giận dữ, các việc làm bố thí đều hồi hướng, hồi hướng mà cũng không có ý tưởng để cầu được Bồ-đề, vì không hoại diệt công đức hồi hướng ấy nên gọi là Bồ-tát tín hành.  
	Lại nữa, này A-nan! Các vị Đại Bồ-tát luôn giữ lòng tin thanh tịnh, chánh niệm hướng về Phật, tâm không cấu uế và cũng tin là không hề bị cấu nhiễm, xem các pháp đều bình đẳng, không có chúng sinh, thọ mạng, ta, người, không có uẩn, giới, nhập, cũng tự mình không mê đắm thọ mạng, nơi chốn, đó gọi là Tín hành giải thoát.  
	Các vị Đại Bồ-tát giáo hóa chúng sinh khiến họ kính tin Phật pháp, để điều phục tâm hồi hướng về Bồ-đề, cũng không chấp vào tướng của tâm. Nhận thức rõ về sáu giới, năm uẩn, mười hai nhập đều bình đẳng, đều đồng với pháp giới. Vì không phân biệt nên biết pháp giới không có tướng khác, đó là tin tất cả hành là vô thường, tất cả các hành là khổ, tất cả hành là không, tất cả hành là vô ngã. Đối với pháp ấy được năng lực trí tuệ. Tin bố thí, tin vào giới luật của Phật, không rơi vào cõi chỗ đùa bỡn, được năng lực Thiền định, tin vào cõi vắng lặng, đó gọi là Bồ-tát tín hành.  
	Các vị Đại Bồ-tát tuy giáo hóa chúng sinh thường tin vào sự vắng lặng nhưng không bám víu vào tướng chúng sinh, xem các chúng sinh đồng với giải thoát, khéo biết tất cả chúng sinh là vô tướng, đều đồng với pháp giới, chẳng thể nhận thức, cũng không phải chẳng nhận thức. Vì sao? Vì pháp giới tức là cõi tâm của tất cả chúng sinh, nên gọi là Đại Bồ-tát tín hành.  
	Lại nữa, này A-nan! Đại Bồ-tát xem tất cả chúng sinh là không thật có, không trụ, không diệt, tánh tướng vốn không. Vì vậy, chẳng hề thấy tất cả chúng sinh, cũng không thấy có nơi nương tựa, xem tất cả chúng sinh đồng giới cảnh giới Niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều nhập vào “không giới”. Bồ-tát có khả năng khiến cho vô lượng chúng sinh như thế đều kính tin và hiểu rõ nên gọi là Đại Bồ-tát tín hành.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại ý nghĩa vừa nêu nên nói bài kệ:  
	Chúng sinh kính tin  
	Thấy vô số Phật  
	Không đắm sắc tướng  
	Đó là Tín hành.  
	Tin tất cả pháp  
	Mở bày không tướng  
	Thành tựu giải thoát  
	Đó là Tín hành.  
	Thường tin chánh pháp  
	Ưa thích cầu Phật  
	Lúc nào sẽ đạt  
	Trí không nghĩ bàn  
	Xét rõ năm dục  
	Thật không đáng tin,  
	Được năng lực tin  
	Đó là Tín hành.  
	Niềm tin như thế  
	Rất là tốt đẹp  
	Phải tu pháp thí  
	Cúng dường Đại Tiên.  
	Thí không nghĩ bàn  
	Nên được tín biện  
	Không tâm thấp kém  
	Đó là Tín hành.  
	Xả bỏ tất cả  
	Thân mình yêu mến  
	Nhưng không tưởng xả  
	Đó là Tín hành.  
	Bố thí tất cả  
	Chẳng hề ganh ghét  
	Lìa tưởng Bồ-đề  
	Đó là Tín hành.  
	Tín tâm thanh tịnh  
	Dứt tất cả nhơ  
	Cũng không tuổi thọ  
	Đó là Tín hành.  
	Tuy tu hạnh thí  
	Chẳng cầu quả báo  
	Được sức tin sâu  
	Đó là Tín hành.  
	Xả bỏ sáu nhập  
	Chẳng nghĩ quả báo  
	Khéo hiểu sáu giới  
	Đó là Tín hành.  
	Tự điều phục mình  
	Và điều phục người  
	Khiến tin Phật pháp  
	Đó là Tín hành.  
	Được niềm tin rồi  
	Hồi hướng Bồ-đề  
	Dứt những tướng tâm  
	Đó là Tín hành.  
	Biết rõ sáu giới  
	Đều đồng pháp giới  
	Tuy nói pháp giới  
	Chẳng đạt tướng giới.  
	Các hành vô thường  
	Khổ, không, vô ngã  
	Cũng không mê đắm  
	Đó là Tín hành.  
	Kính tin giới Thánh  
	Dứt mọi đùa bỡn  
	Thành tựu thiền định  
	Đó là Tín hành.  
	Tin các chúng sinh  
	Cùng tướng vắng lặng  
	Biết vô tướng rồi  
	Đó là Tín hành.  
	Chẳng đắm chúng sinh  
	Cùng nhập pháp giới  
	Cõi chúng sinh này  
	Không thể nghĩ bàn  
	Dùng tín sinh tín  
	Đó gọi là tín  
	Bồ-tát vô úy  
	Đó là Tín hành.  
	Chúng sinh quyết định  
	Dứt hết các tưởng  
	Thể tánh như không  
	Không chỗ, không chứng  
	Chúng sinh, Niết-bàn  
	Cả hai đều không  
	Nương đó tín sinh  
	Đó là Tín hành.  
	Bồ-tát không sợ  
	Tin các chúng sinh  
	Không bám tên chữ  
	Từ tin mà sinh  
	Tin được như vậy  
	Thường nhớ chẳng mất  
	A-nan nhớ ghi  
	Phân biệt chỉ rõ.  
	Các pháp như thế  
	Vô lượng, vô số  
	Phật đã chứng ngộ  
	Bồ-tát hiển bày.  
	Lại nữa, này A-nan! Như Lai Đa-đà A-già-độ đầy đủ tín lực mới có thể giảng nói ý nghĩa sâu mầu như thế. Cho nên gọi là Đại Bồ-tát Tín hành.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy chúng sinh tín lực đã được vững chắc, nên lại nói bài tụng:  
	Tất cả người nghe  
	Tâm đều vui mừng  
	Các Phật tử này  
	Nói về công đức,  
	Bồ-tát hiện rõ  
	Chẳng thể nghĩa bàn  
	Bồ-đề các Phật  
	Người chẳng tín tin  
	Chẳng nhiễm giả danh  
	Cũng không tâm sở  
	Chẳng đắm mười phương  
	Gọi Tín tối thắng.  
	Bồ-tát bày nói  
	Thường tu pháp tin  
	Chẳng chấp vào không  
	Nêu bày vắng lặng  
	Cứu đời nên nói  
	Giải thoát như vậy  
	Sắc tướng cũng thế  
	Như thuyết tu hành.  
	Bồ-tát bày nói  
	Người trí kính tin  
	Phật chẳng thể bàn  
	Vô lượng nhớ nghĩ  
	Điều Bồ-tát tin  
	Hư không vô biên  
	Trí Phật vô lượng  
	Hiệu là Trượng phu.  
	Chí cầu không đắm  
	Chẳng vì tham dục  
	Tạo tác chẳng lành  
	Mà bỏ pháp vui  
	Đó gọi Bồ-tát  
	Thực hành pháp thí  
	Tín của Bồ-tát  
	Thiện Thệ ấn chứng.  
	Pháp thí chẳng nghĩ bàn  
	Tín bố thí uống ăn  
	Ma-ni, vàng, voi, ngựa  
	Tất cả xe, nô tỳ  
	Vợ con các nam nữ  
	Xả thí luôn cõi nước  
	Tay, chân, các bộ phận  
	Đầu mắt và não tủy  
	Mắt tai và mũi miệng  
	Thắng tín của Bồ-tát  
	Xả thân không đắm nhiễm  
	Hành thí cũng không nghĩ  
	Ta vốn tu Pháp thí  
	Mong đạt trí tuệ Phật  
	Xả thân không đắm nhiễm  
	Tất cả thí vui mừng  
	Luôn gần gũi bạn lành  
	Xả bỏ thân mỏng manh  
	Đối với các chúng sinh  
	Tín tâm thường thanh tịnh  
	Nghe pháp, tin các Phật  
	Đó gọi là Bồ-tát  
	Biết mắt, tai, mũi, miệng  
	Các căn đều vô thường  
	Mỏng manh như bọt nổi  
	Tín sâu nên bỏ thân  
	Vì chúng sinh không nương  
	Lập ra bốn Nhiếp pháp  
	Tâm Từ với tất cả  
	Tin Phật vô lượng trí  
	Thấy chúng sinh làm ác  
	Nên phát tâm vô thượng.  
	Kính tín sâu Bồ-đề  
	Không chấp các tướng tâm  
	Chúng sinh chẳng cầu đạo  
	Ngu mê trong ba cõi  
	Nếu tất cả chân thật  
	Vô giới nói tướng giới  
	Thấy chúng sinh trôi lăn  
	Ngu si đắm các cảnh  
	Bồ-tát tin vô ngã  
	Các hành đều vô thường  
	Thấy những kẻ phá giới  
	Tin giới chẳng nghĩ bàn  
	Giới tịnh lập thiền định  
	Bồ-tát nương nhiếp tâm  
	Nếu thấy kẻ biếng nhác  
	Cầu Phật sức tinh tấn  
	Các chánh định điều phục  
	Trí thâu tóm chánh pháp  
	Ngu si đắm tuổi thọ  
	Xem ấm vốn là không  
	Tánh chúng sinh vắng lặng  
	Tướng các pháp cũng vậy  
	Tin ấm không đi đến  
	Nghiệp thiện, ác chẳng dứt  
	Do nghiệp tịnh, bất tịnh  
	Chẳng xa lìa sinh tử  
	Chúng sinh, đồng pháp giới  
	Pháp giới tức sinh tử  
	Đó gọi chẳng nghĩ bàn.  
	Tin Bồ-tát không sợ  
	Thắng tín chẳng nghĩ bàn  
	Tinh tấn tu pháp trí  
	Không vì kẻ thiếu trí  
	Nên vì tịnh tín nói  
	Cùng tin các chúng sinh  
	Thường trụ không thật có  
	Đối không, chẳng mê đắm  
	Tất cả pháp chẳng trụ  
	Chúng sinh không cũng không  
	Đồng như cõi Niết-bàn  
	Nói pháp thường vô tướng  
	Khiến chúng sinh tin, hiểu  
	Tất cả pháp tánh không  
	Quán chúng sinh bình đẳng  
	Thắng trí trong ba cõi  
	Được tín, trì như thế  
	Cũng gọi tín trên hết  
	Ưa thích pháp không sợ  
	Người trí trong Phật pháp  
	Tự tin, khuyên người tin  
	Xoay vần dạy như thế  
	Nuôi lớn các công đức  
	Tâm tịnh không đắm nhiễm  
	Ruộng phước thêm lợi ích  
	Vui mừng điều phục Thí  
	Tịnh giới và Nhẫn nhục  
	Tinh tấn, Thiền định thảy  
	Dùng Trí tuệ dẫn đường  
	Phương tiện bày tịnh trí  
	Khiến chúng được an vui.  
	Khi chết lìa nẻo ác  
	Trí Bồ-tát trên hết  
	Thần thông độ muôn loài  
	Thế giới rung sáu cách  
	Ánh sáng đều chiếu khắp  
	Trí mầu của Bồ-tát  
	Vô tướng, sư tử rống  
	Khắp Đông, Tây, Nam, Bắc  
	Bốn góc và dưới, trên  
	Đều nói ra Pháp âm  
	Thề không nghi ngờ Phật  
	Dạy người cũng không nghi  
	Do nhân duyên như thế  
	Hiển bày vô lượng tướng  
	Người trụ trong trí ấy  
	Chỉ Phật chứng biết được.  
	KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN 
	QUYỂN 1    QUYỂN 2    QUYỂN 3    QUYỂN 4 
	KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN 
	Hán dịch: Không rõ tên người dịch, Đại sư Tăng Hựu đời Lương sao lục. 
	Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh 
	QUYỂN 2 
	Phẩm 2: TÍN HÀNH (Phần 2)  
	Này A-nan! Đó là Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác đã vì các vị Bồ-tát mà dùng phương tiện như thế để giảng nói về Tín hành.  
	A-nan thưa:  
	–Vì sao Như Lai lại vì các Bồ-tát mà nói về pháp hành?  
	Phật bảo A-nan:  
	–Nay ông nên biết! Các vị Đại Bồ-tát không trụ trong Phật pháp nhưng có khả năng hiển bày không lìa pháp giới, rốt ráo không nghĩ bàn giới; thọ trì các pháp tâm không thấp hèn, tuy giảng nói các pháp nhưng đối với tướng các pháp không hề chấp đắm, vô niệm vô trụ; thâu tóm các pháp, đúng với thật tướng thật tánh của chúng, không chấp các pháp, không lìa bỏ phi pháp, không ưa thích các pháp mà cũng chẳng phải không ưa thích các pháp.  
	Các Đại Bồ-tát tuy được như vậy nhưng đã lìa tướng các pháp, nhờ khéo điều phục, nên tâm thường an vui, khéo nói các pháp không hề bị nhiễu loạn, đối với tướng các pháp không lìa bỏ thân mà cũng không trụ thân, mé trước của thân này đồng với pháp giới, như hư không chẳng đi chẳng đến, đồng với mé chân, như như tướng. Đó là chỗ Phật nói về việc Bồ-tát đã chứng đạt các pháp thanh tịnh, dứt tất cả cấu nhiễm, quán tất cả pháp không, không thể nhìn thấy, chẳng thể nắm bắt. Vì sao? Vì các pháp là không, đã lìa bỏ, không mê đắm cho nên không thấy các pháp. Không thể nắm bắt, không có tranh chấp. Hiển bày pháp giới vô ngôn, vô thuyết. Thể tánh vốn không, chỗ tâm vọng động đều vắng lặng. Tâm này không thật có cũng chẳng thể nghĩ bàn, chỉ lộ rõ tánh chất vắng lặng, không duyên theo cảnh giới, giữ gìn các pháp, không hề nương tựa. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều vô thể vô tướng. Pháp Bồ-tát này là nhất tướng, vô tướng, không thể khen ngợi, không sợ nói pháp. Nếu nói pháp tướng, danh tự, tất cả chương cú cho người nghe thì bản thân mình đã tự chứng, đầy đủ pháp ấy gọi là chủng tánh Đại Bồ-tát. Đạt được thể tánh ấy rồi thì đối với các pháp không còn có đến, có đi, không còn nắm bắt hay lìa bỏ, giữ gìn tất cả pháp nhưng bất động, bất hoại, vì bất hoại nên gọi là pháp hành, vì thành tựu pháp nên luôn thấy tất cả các pháp là vô tướng, vì được pháp lợi nên cũng gọi là pháp hành.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:  
	Pháp không thoái chuyển  
	Các Phật cũng vậy  
	Nếu giữ gìn được  
	Đó là Pháp hành.  
	Nêu rõ Phật pháp  
	Không hình, không tướng  
	Rất sâu, không nhiễm  
	Đó là Pháp hành.  
	Chẳng lìa các cõi  
	Không thể nghĩ bàn  
	Hội nhập pháp giới  
	Đó là Pháp hành.  
	Giữ gìn các pháp  
	Như Phật hiển bày  
	Tâm không vết nhơ  
	Đó là Pháp hành.  
	Pháp không thoái chuyển  
	Tên là Vô tướng  
	Dứt mọi bám vướng  
	Không còn mê đắm  
	Đó gọi Pháp hành.  
	Không chấp, không trụ  
	Thọ trì pháp trí  
	Người trì như thế  
	Đó là Pháp hành.  
	Tâm thường yêu thích  
	Cầu pháp không chán  
	Xa lìa biếng nhác  
	Đó gọi Pháp hành.  
	Nghe pháp thọ trì  
	Vô lậu, chẳng nương  
	Khéo trụ an vui  
	Đó gọi Pháp hành.  
	Nếu người nói pháp  
	Chẳng nghĩ, chẳng đắm  
	Thọ trì vô tướng  
	Đó gọi Pháp hành.  
	Thân khéo an trụ  
	Trụ nơi không chốn  
	Là thân, chẳng thân  
	Là biết thân tướng.  
	Không mé trước sau  
	Đồng với Pháp tánh  
	Không đến, không đi  
	Là biết thân tướng.  
	Cũng như các Phật  
	Thị hiện Bồ-tát  
	Được pháp ấy rồi  
	Đó là Pháp hành.  
	Tánh, tướng cõi không  
	Tất cả không đắm  
	Giữ gìn như vậy  
	Đó gọi Pháp hành.  
	Lại đối các pháp  
	Không, vô sở kiến  
	Nếu vô sở kiến  
	Thì không chướng ngại.  
	Hiển bày vô tướng  
	Dứt các hý luận  
	Không lời, không nói  
	Cũng không thật có  
	Lìa các tướng tâm  
	Nên không thật có  
	Nếu tâm vô đắc  
	Thì chẳng nghĩ bàn  
	Không đến, không đi  
	Không chẳng hiển bày.  
	Không duyên, không nói  
	Gọi chẳng nghĩ bàn.  
	Nếu trì pháp này  
	Không thể nương tựa  
	Là không thật có  
	Gọi là giữ pháp.  
	Pháp như thế ấy  
	Do Bồ-tát nói  
	Không hợp, không tan  
	Hiển bày vô tác.  
	Gọi là Hành xứ.  
	Là nơi chủng tánh  
	Được lợi như thế  
	Gọi là Hành xứ.  
	Theo chủng tánh ấy  
	Không thể chê trách  
	Được cõi như thế  
	Đó gọi giữ pháp.  
	Thấy pháp không giảm  
	Tuy đi không đi  
	Đến mà chẳng đến  
	Chẳng thấy có pháp.  
	Hoặc đến, hoặc đi  
	Các pháp cũng vậy  
	Giữ pháp như thế  
	Cũng không dao động.  
	Chẳng thêm, chẳng bớt  
	Là pháp vô tác  
	Nếu không thêm, bớt  
	Đó gọi giữ pháp.  
	Tướng pháp như như  
	Không duyên, không nói  
	Người được pháp này  
	Gọi là giữ pháp.  
	Vì vậy, A-nan!  
	Bồ-tát hiển bày  
	Được lợi pháp sâu  
	Đó là giữ pháp.  
	Vì vậy, A-nan!  
	Hiển bày giữ pháp  
	Vì kẻ chẳng tin  
	Mà nói pháp ấy.  
	Phân biệt như thế  
	Nói cho Bồ-tát  
	Đều dùng phương tiện  
	Mở bày Phật pháp.  
	Như thế đấy, A-nan! Như Lai Chánh Giác vì các vị Đại Bồ-tát mà dùng phương tiện để nêu rõ việc giữ pháp.  
	Phật bảo A-nan:  
	–Do đâu mà Như Lai vì các Đại Bồ-tát nói về tám pháp Chánh đạo? Là vì các vị Đại Bồ-tát đã lìa bỏ tám con đường tà để hướng đến tám con đường giải thoát, vượt khỏi đời sống phàm phu, tu tập tám Chánh đạo nhưng không thấy nơi chốn mình đạt tới, xa lìa hai bên thường đoạn, an trụ trong Trung đạo, vượt thế giới phàm tục, an trụ trong Bồ-đề, cũng không trụ trong tướng Bồ-đề, lìa bỏ các tà kiến, tu tập chánh kiến, không bám vào thân tướng, cũng không trụ trong tướng Bồ-đề. Thân Phật là vô vi, lìa những khái niệm tính toán, tu theo tướng Phật tức là đạt được diệu lý Nhất tướng vô tướng đối với chúng sinh, ra khỏi ấm giới sinh tử của chúng sinh, an trụ trong ngôi nhà vô vi rốt ráo không, thấy tất cả pháp là vô sinh vô trụ. Vì sao? Vì thể tánh và tướng trạng của các pháp đều là vô trụ.  
	Đại Bồ-tát xa lìa thế gian và xuất thế gian, an trụ trong chốn vắng lặng, không nhiễm thế gian, cũng không mê đắm con đường xuất thế gian. Đối với pháp, phi pháp, hữu vi, vô vi đều xa lìa, xả bỏ hai bên thường và đoạn, trụ trong tướng bình đẳng, biết tâm sở quá khứ, vị lai, hiện tại, không có tướng khác, cũng không được tướng của tâm Bồ-đề. Vì sao? Vì tất cả tâm đều bình đẳng. Thân tướng cũng thế. Vì thế mà không hề bị các thứ lửa dữ, đao tên làm tổn hại thân mạng. Vì sao? Vì đã lìa tất cả phiền não độc hại, thường được sinh vào các cõi thanh tịnh, xa các đường ác, tuy sống trong các đường mà vẫn chứng đạo Bồ-đề, thường sống trong an ổn, cũng không nương tựa. Vì ý nghĩa như thế nên tất cả các thứ đao binh không thể hại được. Vì sao? Vì thấy Bồ-đề vắng lặng là không, vô trụ xứ, vì vô trụ xứ nên tất cả tên độc đều không hại được. Đó gọi là không bị trói buộc.  
	Bậc Đại Bồ-tát đi trên cỗ xe nhanh nhất mà không chấp vào cỗ xe ấy, đó gọi là không bị trói buộc. Vì sao? Vì không thật có, do đó mà đao tên không hại được thân. Rõ các pháp là không, chẳng thật có cho nên tất cả thứ độc hại đều không thể xâm hại. Vì sao? Vì hành tâm Từ rộng khắp che phủ tất cả. Thực hành tâm Từ Bồ-đề thấy các chúng sinh là không thật có; thực hành tâm Từ theo lý không thấy các pháp vắng lặng; thực hành tâm Từ không nóng bức xa lìa các phiền não; thực hành tâm Từ bi như vậy có công năng làm cho đao binh đều không hại thân được.  
	Đại Bồ-tát xem ba cõi Dục, Sắc và Vô sắc đều bình đẳng, biết tất cả các cõi, tất cả pháp tánh đồng với Bồ-đề, bình đẳng không có khác nhau. Các vị Đại Bồ-tát tâm không suy nghĩ như thế, cũng không đùa bỡn, vắng lặng thanh tịnh. Bậc Đại Bồ-tát biết tất cả pháp như âm vang tiếng gọi, lìa tất cả tướng, đồng với pháp giới, không nơi hướng tới mà cũng không chốn quay về, khéo hiểu các thứ âm thanh lời nói, không nêu bày, không nói năng, lìa tướng âm thanh, chẳng tự đề cao mình, lìa bỏ ngã tưởng, vượt qua tất cả lời nói, âm thanh mà cũng không chấp vào tướng vượt qua ấy. Cho nên biết tất cả các pháp đều vắng lặng, tất cả pháp tướng cũng không thật có, tâm không có chốn để quay về vì đã vượt qua các pháp. Đối với mọi ngôn ngữ, âm thanh cũng không bị đắm nhiễm.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:  
	Lìa tám đường tà  
	Tu tám nẻo chánh  
	Chín thứ, tám giải  
	Đó là tám bậc.  
	Vượt khỏi phàm phu  
	Chẳng trụ Bồ-đề  
	Bậc Hùng trong pháp  
	Đó là tám bậc.  
	Vượt khỏi phàm phu  
	Không trụ Bồ-đề  
	Lìa tướng Bồ-đề  
	Đó là tám bậc.  
	Bỏ các tà kiến  
	Tu hành chánh kiến  
	Đạt được đạo rồi  
	Đó là tám bậc.  
	Vượt các thân tướng  
	Chẳng trụ Bồ-đề  
	Lìa chứng thân Phật  
	Đó là tám bậc.  
	Lìa tưởng chúng sinh  
	Thường tu tưởng Phật  
	Bỏ tưởng thiền định  
	Đó là tám bậc.  
	Lìa hạng chúng sinh  
	Vào thành Niết-bàn  
	Không chấp các pháp  
	Đó là tám bậc.  
	Ra khỏi thế gian  
	Mở bày đạo Thánh  
	Về cõi tịch diệt  
	Đó là tám bậc.  
	Lìa các thế gian  
	Nêu tướng Phật pháp  
	Tâm không sở chứng  
	Không có bờ hữu  
	Đó là tám bậc.  
	Cũng không cõi vô  
	Xa lìa hữu vô  
	Đó là tám bậc.  
	Vắng lặng vô vi  
	Bỏ cả đoạn thường  
	Vào sâu bình đẳng  
	Đó là tám bậc.  
	Tâm rời quá khứ  
	Luôn cả vị lai  
	Hiện tại cũng thế  
	Đó là tám bậc.  
	Nói có sơ tâm  
	Cầu nẻo Bồ-đề  
	Tướng tâm vốn không  
	Gì gọi Bồ-đề?  
	Không đến, không đi  
	Cũng không Bồ-đề  
	Độc, lửa, đao, tên  
	Không thể hại được,  
	Dứt hẳn các đường  
	Lìa hẳn nương tựa  
	Không đến, không đi  
	Nên không hại được,  
	Không hướng Bồ-đề  
	Bày nói âm thanh  
	Tự chứng như thật  
	Chẳng do người dạy,  
	Không được đường ấy  
	Và chẳng phải đường  
	Tiếng niệm, niệm dứt  
	Đại thừa mau bày,  
	Thường nói an ổn  
	Pháp không bậc nhất  
	Nên mau chứng được  
	Đó là không buộc.  
	Mau nương pháp này  
	Bồ-tát giảng nói  
	Tâm không lìa bỏ  
	Đó là không buộc.  
	Đao, binh, nẻo ác  
	Không bức hại được  
	Thân không sợ gì  
	Độc chẳng hại được.  
	Bồ-tát hành Từ  
	Cùng khắp tất cả  
	Lìa bỏ tranh chấp  
	Đó là không buộc.  
	Không chấp thân tướng  
	Khéo nhận rõ thân  
	Đến đạo giác ngộ  
	Từ bỏ nẻo ác,  
	Dứt bỏ ngu si  
	Thần thông tự tại  
	Được Bồ-đề sáng  
	Đó là tám bậc.  
	Biết cõi Dục, Sắc  
	Và cõi Vô sắc  
	Ba cõi đồng tướng  
	Đó là tám bậc.  
	Các cõi bình đẳng  
	Lìa não, Bồ-đề  
	Vọng tưởng không trí  
	Chẳng nhiễm ô được,  
	Lìa tất cả tướng  
	Không có chê bai  
	Nếu có nói năng  
	Đều hướng pháp giới  
	Nói không chỗ hướng  
	Đồng với pháp giới  
	Tâm trụ pháp Nhẫn  
	Đó là tám bậc.  
	Nếu muốn tu hành  
	Trụ pháp vắng lặng  
	Chẳng tự đề cao  
	Chỉ nói cho người,  
	Vượt tướng âm thanh  
	Khỏi tướng âm thanh  
	Chẳng đắm âm thanh  
	Đó là tám bậc.  
	Nhờ thanh giải thoát  
	Biết pháp vô tướng  
	Cũng không ở đâu  
	Không hướng, không rời.  
	A-nan nên biết!  
	Tám bậc như thế  
	Đã nêu bày đủ  
	Ở trong các thuyết  
	Là bậc thứ nhất. 
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-nan:  
	–Nay ông nên biết! Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các Đại Bồ-tát nên dùng phương tiện để nói bày về tám bậc như vậy.  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Do đâu mà Như Lai Thế Tôn giảng nói về quả Tu-đà-hoàn cho các vị Đại Bồ-tát nghe như thế.  
	Đức Phật dạy:  
	–Tu-đà-hoàn nghĩ là được vào dòng Thánh, gọi là Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn. Nếu các vị Đại Bồ-tát có thể tu tập như vậy, không thấy đạo cùng nơi chốn mình tu tập đạo ấy, vượt qua tất cả hình tướng, thông tỏ Phật pháp là phi sắc, phi sinh, đối với tất cả pháp không mê đắm, tất cả pháp không nơi chốn, tất cả pháp không nhân duyên, tất cả pháp vô trụ, tất cả pháp không thật có, tất cả pháp không thành tựu.  
	Nếu bậc Đại Bồ-tát đến được đạo ấy thì tinh tấn vững chắc, thế lực vững chắc, trí tuệ vững chắc, không sinh biếng nhác, an trụ vắng lặng, nương đạo Như Lai, cứu giúp chúng sinh, không gì hơn được.   
	Bậc Đại Bồ-tát không chấp đạo ấy, cũng không trụ đạo ấy, tu đạo như thế mong đạt được tất cả các pháp, nhưng không thấy có chỗ mình đạt được, không chìm đắm cũng không dao động: không có ý tưởng về trụ, không có ý tưởng về đạo, không có ý tưởng về thế gian, không có ý tưởng về Phật, xem tất cả đều bình đẳng, không hề có những sự ngăn che, trí tuệ quán chiếu các cảnh giới không trở ngại.   
	Bậc Đại Bồ-tát đối với tất cả các pháp và các tà kiến đều an trụ trong tướng bình đẳng, khai mở tri kiến Phật, bày các pháp môn sâu rộng, phân biệt thân kiến, vượt khỏi vọng tưởng chấp ngã, đó gọi là Tu-đà-hoàn.  
	Đại Bồ-tát không chấp vào Phật đạo, rốt ráo vô ngại: ưa thích mong cầu Phật đạo nhưng không đắm giới luật, thế gian cũng không chấp vào giới luật của Phật, chẳng phải giới chấp là giới, không chấp tướng giới. Ba hoặc đã dứt, không vướng vào ba cõi, học hỏi theo lời Phật dạy, tu hành Thánh đạo, lìa tất cả tưởng, không chấp các duyên, không các chướng ngại, nhập vào Phật đạo, tâm được vắng lặng, không mê đắm sự sống, về ta, người… các căn thanh tịnh, xa lìa phiền não.  
	Bậc Đại Bồ-tát tu đạo Bồ-đề thực hành bố thí, xả bỏ tất cả, giúp chúng sinh khổ, vượt qua bốn dòng, đạt đến Niết-bàn, dứt hết các tưởng, hiển bày Vô tướng. Nếu thấy bốn chúng tâm không sinh sợ sệt, chí cầu vắng lặng, an trụ nơi đạo Bồ-đề thanh tịnh, đã lìa sợ hãi, thì không sợ sinh tử. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát hiện chứng được vắng lặng, lìa các phiền não cấu uế, khéo đứng vững trong Phật đạo, biết đường đến đi, cũng không còn đến đi, khéo nhận rõ những vọng tưởng của chúng sinh, tâm không đùa bỡn, rốt ráo Phật đạo. Đó gọi là tướng Tu-đà-hoàn của Đại Bồ-tát.  
	Phẩm 3: THANH VĂN, BÍCH-CHI-PHẬT  
	Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:  
	Nói về bốn đường  
	Phật khó nghĩ bàn  
	Nếu có người trụ  
	Bồ-đề không lui,  
	Giống như hư không  
	Không chốn nương tựa  
	Không trụ không duyên  
	Lìa các chấp đắm.  
	Đó gọi là đạo  
	Ý được vững chắc  
	Đi đúng nẻo ấy  
	Cứu đời hơn hết.  
	Không chấp kia đây  
	Chẳng ở giữa dòng  
	Chẳng đắm Phật đạo  
	Là Tu-đà-hoàn,  
	Tất cả thế gian  
	Cùng pháp Phật khác  
	Rốt ráo bờ kia  
	Là Tu-đà-hoàn.  
	Dứt những ngăn che  
	Nêu bày Phật đạo  
	Dứt tất cả tướng  
	Gọi Tu-đà-hoàn.  
	Chẳng đề cao mình  
	Làm thạnh Phật pháp  
	Mở bày tri kiến  
	Vào trí tuệ Phật.  
	Trước khởi tưởng ngã  
	Các ác điên đảo  
	Biết như thế rồi  
	Không đắm Phật đạo.  
	Vốn nghi ngờ Phật  
	Là được, không được  
	Rốt ráo không đắm  
	Chẳng chấp tưởng đạo.  
	Chẳng khởi chấp giới  
	Khéo trụ giới Phật  
	Thường tu Chánh cần  
	Chẳng chấp tưởng giới.  
	Dứt bỏ ba kết  
	Không đắm ba cõi  
	Thực hành Phật đạo  
	Biết tưởng chúng sinh.  
	Tuy tu Bồ-đề  
	Nhưng không chấp tưởng  
	Tâm hành vắng lặng  
	Phật đạo thanh tịnh.  
	Vui vẻ bố thí  
	Xa lìa ưu sầu  
	Trụ trong chánh mạng  
	Tâm không đùa bỡn  
	Xả bỏ tất cả  
	Giúp chúng sinh khổ  
	Đạt thí Vô thượng  
	Gọi Tu-đà-hoàn.  
	Dứt bao nhiêu kiếp  
	Không tướng, không chấp  
	Lìa xa sợ hãi  
	Nỗi sợ thế gian.  
	Pháp và phi pháp  
	Tất cả đều xả  
	Chẳng đắm các ấm  
	Bậc sáng ở đời.  
	Ở trong bốn chúng  
	Không hề sợ sệt  
	Hiển bày vắng lặng  
	Tịnh tu Phật pháp.  
	Không tưởng chúng sinh  
	Cũng chẳng thật tưởng  
	Đó gọi không nhiễm  
	Nhận rõ lo sợ  
	Lìa tất cả sợ  
	Cũng không sợ chết  
	An trụ vắng lặng  
	Lìa cấu, an ổn.  
	Đã qua nẻo ác  
	Do đó chẳng sợ  
	Khéo nói các đạo  
	Vô lậu, vô tướng.  
	Pháp của Bồ-tát  
	Bày Tu-đà-hoàn  
	Vì hạng thấp kém  
	Nên nói lời ấy.  
	Dùng phương tiện khéo  
	Hiển bày Phật pháp  
	Vì người buông lung  
	Nên bày pháp này  
	Thế Tôn cứu đời  
	Tìm nhiều cách nói  
	Mà nêu Phật đạo.  
	A-nan nên biết!  
	Là Tu-đà-hoàn  
	Vì kẻ trí nhỏ  
	Nói việc như vậy.  
	Chẳng hiểu phương tiện  
	Ngu si hẹp hòi  
	Chẳng thấu pháp sâu  
	Mà sinh tranh luận.  
	Dùng trăm ngàn pháp  
	Bày Tu-đà-hoàn  
	Bậc Tu-đà-hoàn  
	Bày pháp Bồ-đề.  
	Như thế đấy A-nan! Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các vị Đại Bồ-tát đã dùng phương tiện khéo để nói về Tu-đà-hoàn.  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Do đâu mà Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các vị Đại Bồ-tát nói về Tư-đà-hàm? Đức Phật nói:  
	–A-nan nên biết! Bậc Đại Bồ-tát thuận theo trí tuệ, trí tuệ Phật không thể nghĩ bàn, tu tập vô lượng nhân lành, nhưng không chấp vào tướng các nhân ấy, cũng như trí Bồ-đề, có khả năng dứt bỏ tất cả vọng hoặc để cầu trí tuệ Phật, khen ngợi chánh định Kim cang vượt trên tất cả các thiền định, dứt bỏ tất cả kết sử phiền não mê lầm ngăn che để hội nhập tri kiến của Phật, đạt được đầy đủ các pháp chánh quán bình đẳng mà tất cả Phật đã chỉ dạy, dùng vô lượng nhân để cầu Vô sở đắc, như pháp Phật đã chứng đắc; bất động đối với chúng sinh, cũng bất động đối với thế giới chúng sinh mà chấp vào pháp giới. Vô lượng chúng sinh trải qua nhiều kiếp thường chịu thiếu kém, không có khả năng thành tựu đạo Bồ-đề, dắt dẫn các chúng sinh đến chỗ không còn thoái chuyển.   
	Đại Bồ-tát chí cầu thành Phật, Căn, Lực, Giác, Đạo, Thiền định, Giải thoát gọi là Vô sắc định, nghĩ: “Nay ta sẽ đem các pháp như thế mở bày cho chúng sinh, khiến họ được thông tỏ và cầu Phật đạo, muốn ngồi đạo tràng, mong đạt trí tuệ như thật, mắt Phật thông đạt, là loại mắt không thể nghĩ bàn.”  
	Đại Bồ-tát vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh nên mong cầu mắt Phật, trí tuệ như vậy là cao tột hơn hết, thấu tỏ tướng sâu xa của các pháp, đối với trí tuệ của mình không hề phân biệt. Đại Bồ-tát giúp chúng sinh đứng vững trong Phật pháp, giúp họ hiểu rõ tất cả pháp không dừng trụ, vì muốn đạt được pháp ấy nên đến nhóm họp để nghe Phật nói pháp. Đó gọi là Tư-đà-hàm.  
	Những người đến nhóm họp thấy thế giới chúng sinh và cảnh giới không thể nghĩ bàn một cách thông suốt không trở ngại nên không chấp vào cảnh giới, cũng không đắc, không đến. Nhưng làm sao để chúng sinh thành tựu mà không thấy chúng thành tựu sinh? Đối với tất cả pháp và thế giới chúng sinh chẳng thấy, cũng chẳng phải chẳng thấy, nhờ vậy mà thấu rõ về chúng sinh, thông đạt pháp giới, rõ biết pháp giới, đồng với Bồ-đề hiểu rõ pháp giới và thế giới chúng sinh giới, vô lượng Phật đạo, không đắc không phân biệt, đồng với đạo trí, gần với Vô đẳng trí, lìa tất cả cấu nhiễm được thanh tịnh, đắc Vô sở đắc chứng Vô sở chứng, đó là trí tuệ chân thật. Đại Bồ-tát mong cầu trí tuệ như thế gọi là Tư-đà-hàm.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:  
	Người thuận theo trí này  
	Gọi là không nghĩ bàn  
	Vì cầu trí tuệ Phật  
	Nên gọi Tư-đà-hàm.  
	Vô lượng nhân duyên nói  
	Thành tựu đạo Bồ-đề  
	Nhờ tu hành pháp này  
	Ta thường qua lại tìm.  
	Tướng chánh định bất động  
	Dứt bỏ kiết phiền não  
	Nên chuyên tâm tu tập  
	Thành tựu không thoái chuyển.  
	Cũng biết pháp, phi pháp  
	Tướng thông đạt vô ngại  
	Trụ mé thật các pháp  
	Tu hạnh Tư-đà-hàm  
	Thuận theo lời Phật dạy  
	Như nghe pháp tu hành  
	Vì đạt được pháp ấy  
	Ta thường qua lại tìm  
	Pháp giới chưa từng có  
	Các chúng sinh chẳng động  
	Đó là Tư-đà-hàm  
	Không có việc đến, đi  
	Chúng sinh không trí tuệ  
	Ngu si chịu khổ não  
	Vì muốn đưa đến đạo  
	Mà cầu trí tuệ Phật  
	Các Căn, Lực, Giác, Đạo  
	Thiền định và Giải thoát  
	Siêng tu pháp Chánh định  
	Mà cầu trí tuệ Phật  
	Rốt ráo đạo Bồ-đề  
	Việc làm của các Phật  
	Đó là Tư-đà-hàm.  
	Khởi hạnh thường mong cầu  
	Đạt được pháp như thế  
	Mắt Phật khó nghĩ bàn  
	Đó là Tư-đà-hàm.  
	Thường cầu được mắt Phật  
	Nên cầu được như Phật  
	Làm chỗ giúp, nương tựa  
	Điều ta nay mong cầu  
	Chính là Nhất thiết trí  
	Chỗ biết của trí ấy  
	Tướng các pháp chân thật  
	Tâm thường không đắm nhiễm  
	Thường cầu pháp như vậy  
	Lợi lạc các chúng sinh  
	Nhất thiết trí trên hết  
	Đó gọi Tư-đà-hàm.  
	Chỗ mong cầu qua lại  
	Quán kỹ về pháp giới  
	Chúng sinh không nghĩ bàn  
	Đó gọi Tư-đà-hàm.  
	Vì cầu cõi chúng sinh  
	Biết cõi chúng sinh rồi  
	Không mê đắm chúng sinh  
	Đó gọi Tư-đà-hàm.  
	Mà đạt Vô sở đắc  
	Nên chúng sinh chẳng đạt  
	Tất cả pháp vô tướng  
	Tạo được nhận thức ấy  
	Biết rõ được như thế  
	Dẫn dắt các chúng sinh  
	Tuy quán tất cả pháp  
	Chẳng thấy tướng quán sát  
	Giữ tâm không loạn động  
	Mà cầu các pháp Phật  
	Trí thanh tịnh như thế  
	Xa lìa tất cả cấu  
	Không được tướng trí ấy  
	Đó gọi là cầu đạo  
	Mở bày các chúng sinh  
	Điều Bồ-tát không chê  
	Đó gọi trí rốt ráo  
	Mong được trí nên đến.  
	A-nan phải nên biết  
	Vì nói Tư-đà-hàm  
	Các chúng sinh trí kém  
	Vọng chấp tướng phải quấy.  
	A-nan ông nên biết  
	Vì nói Tư-đà-hàm  
	Giúp chúng sinh tinh tấn  
	Khiến họ hiểu như vậy.  
	Luôn khéo tu học rộng  
	Quyết định pháp sâu xa  
	Tỏ ngộ nghĩa chân thật  
	Chóng thành đạo Bồ-đề.  
	Này A-nan! Đó gọi là Như Lai Đẳng Chánh Giác vì Đại Bồ-tát nên dùng phương tiện nói về Tư-đà-hàm.  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Vì sao gọi là Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các Đại Bồ-tát nói về A-na-hàm?  
	Phật bảo A-nan:  
	–Các vị Đại Bồ-tát đều ra khỏi tất cả tướng thế gian, rốt ráo hạnh Phật, tâm không hành xứ, tuy biết có đến đi, nhưng thường không chấp vào tướng đến đi, biết tất cả pháp không nương tựa, không an trụ. Vì sao? Vì chẳng thấy các pháp có đi không đi. Đại Bồ-tát vượt khỏi phàm phu, dứt ý tưởng phàm phu, không đắm mê Phật tưởng, đạt được pháp vô trụ. Vì sao? Vì rốt ráo tất cả pháp giới vắng lặng, cũng không thấy sự khác nhau giữa Phật và phàm phu. Xa lìa đường ác, dứt bỏ tham dục, không đắm các vị, xa lìa bốn thứ thực.   
	Đại Bồ-tát luôn chú tâm đến việc mở bày tri kiến Phật cho chúng sinh, không chấp tất cả sáu mươi hai thứ kiến chấp, không đắm vô tướng, tất cả lìa hữu, vô, đối với các thứ ngăn che đều xem là tướng của Niết-bàn, không lưu chuyển cũng chẳng không lưu chuyển, dứt bỏ những cấu uế của các đường ác, hàng phục các ma, xa lìa ngu si, nhổ sạch ba mũi tên vô minh, và những hạt giống vô minh, giết giặc vô minh, quán chiếu dứt bỏ tham lam giận dữ, dứt bỏ các kết sử, mở bày cho chúng sinh trong ba cõi.  
	Đại Bồ-tát nhổ mũi tên ái dục, dứt bỏ các kiêu mạn, hiểu rõ tướng các ấm, đạt đến rốt ráo là cõi giác ngộ trong sáng, thường ưa thích Phật thừa, là thừa không thể nghĩ bàn, đạt đến thật tướng của tất cả các pháp. Nếu các vị Đại Bồ-tát ra khỏi được vũng bùn sinh tử như thế, lìa tất cả trói buộc tham đắm, được kho báu bản nguyện, cũng được kho báu của các Đức Phật quá khứ, vị lai, đều nằm trong tất cả kho báu, cũng là chỗ xây dựng của các Phật quá khứ. Tâm luôn bình đẳng, không phân biệt cao thấp. Đạt được thừa như vậy, đối với các chúng sinh là Bậc Tối tôn Tối thắng bậc nhất không gì hơn được.   
	Đại Bồ-tát luôn nhằm đạt đến Phật thừa rốt ráo, đối với tất cả các pháp đều đạt đến diệu lý vô tướng. Đại Bồ-tát đối với các pháp dứt trừ được lưới nghi, chứng quả Bất hoàn.   
	Lại nữa, này A-nan! Đại Bồ-tát thường dùng bốn thệ nguyện lớn để che chở, giúp đỡ tất cả chúng sinh, dẫn dắt họ đến chánh pháp và đứng vững trong chánh pháp, tất cả đều đến được Phật thừa, sống trong đạo Bồ-đề. Làm thế nào ở an trụ trong Bồ-đề? Cái gọi là tướng chúng sinh, thì giác ngộ như thật, an trụ trong thế giới chúng sinh. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đã khéo biết, Không giới là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, lìa các vọng tưởng về chúng sinh. Vì sao? Vì cảnh giới Hiền thánh tức là cảnh giới chúng sinh, cảnh giới không thể nghĩ bàn tức là không tướng, cũng không có chúng sinh, lìa các kết sử, giống như hư không, không hình không tướng, không thật có, không nhiễm không đắm, biết tất cả chúng sinh đều bình đẳng, chẳng hiện chẳng mất, giác ngộ rốt ráo, lìa tướng chúng sinh, cũng như hư không, không có nơi chốn giác ngộ. Vì sao? Vì không có pháp nào có thể đạt được. Vô đắc như vậy chính là tướng tất cả pháp và tướng chúng sinh, điều tâm giác tỏ ngộ tức là chẳng phải tỏ ngộ. Vì sao? Vì không có pháp nào thật có. Vô đắc như thế tức là Vô chứng, cho nên gọi là A-na-hàm. Tất cả chúng sinh, tất cả pháp, Phật, Pháp, Tăng… đều hiện ra các tướng như vậy, gọi là A-na-hàm. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:  
	Chẳng hề trở lại  
	Dứt pháp phàm phu  
	Bỏ hành thế gian 
	 Gọi A-na-hàm.  
	Biết không đến, đi  
	Không trụ, không nương  
	Không có nơi chốn  
	Nên gọi Bất lai  
	Lìa bỏ phàm phu  
	Được Phật cứu giúp  
	Không còn trở lại  
	Gọi A-na-hàm.  
	Pháp không có đến  
	Cũng chẳng có đi  
	Chẳng đến chẳng đi  
	Gọi A-na-hàm.  
	Dứt các tham dục  
	Không đắm bốn thực  
	Chẳng rời đạo tràng  
	Gọi A-na-hàm.  
	Dứt bỏ tất cả  
	Sáu mươi hai kiến  
	Mà không chốn đi  
	Gọi A-na-hàm.  
	Lìa tất cả cõi  
	Tướng vô thường tâm  
	Tỏ ngộ như thật  
	Nên gọi Bất lai  
	Niết-bàn vắng lặng  
	Dứt các phiền não  
	Lìa tướng đến, đi  
	Đó là Bất lai.                                       
	Dứt các đường ác  
	Bỏ tất cả cấu  
	Chứng đắc Niết-bàn  
	Đó là Bất lai.  
	Hàng phục kẻ thù  
	Cùng các ma quân  
	Vượt các giả danh  
	Đó là Bất lai.  
	Nhổ tên vô minh  
	Dứt tất cả ái  
	Dứt mọi hỷ, dục  
	Đó là Bất lai.  
	Lìa các kết sử  
	Mở bày tướng ấm  
	Được trí quyết định  
	Là A-na-hàm.  
	Nhổ gai ưu não  
	Xô núi kiêu mạn  
	Khéo hiểu năm ấm  
	Gọi A-na-hàm.  
	Rốt ráo chiếu sáng  
	Trang nghiêm Phật thừa  
	Ra khỏi bùn dục  
	Gọi A-na-hàm.  
	Đều biết kho kín  
	Trên các kho kín  
	Chỗ Phật đặt để  
	Gọi là Bất lai.  
	An trụ Tối thắng  
	Phật thừa Vô thượng  
	Dứt bỏ các kết  
	Gọi A-na-hàm.  
	Dùng bốn nguyện rộng  
	Tạo dựng Bồ-đề  
	Trụ Bồ-đề rồi  
	Nên gọi Bất lai.  
	Biết các cõi không  
	Rất khó nghĩ bàn  
	Dứt bỏ các tưởng  
	Nên gọi Bất lai.  
	Đối với chúng sinh  
	Và tướng pháp giới  
	Đều không thật có  
	Nên gọi Bất lai.  
	Tâm không chấp đắm  
	Chẳng chạy theo tướng  
	An trụ Bồ-đề  
	Gọi A-na-hàm.  
	Cõi chúng sinh không  
	Chẳng thể nghĩ bàn  
	Biết pháp như vậy  
	Nên gọi Bất lai.  
	Như thế A-nan  
	Hiển bày Na-hàm  
	Các tướng vô ngại  
	An lập Phật pháp.  
	–A-nan nên biết! Như Lai Đẳng Chánh Giác đã vì các Đại Bồ-tát dùng phương tiện thích hợp để nói về A-na-hàm.  
	Phật bảo A-nan:  
	–Ta nay lại nói Đại Bồ-tát là A-la-hán. Là vì Bồ-tát đã dứt bỏ tất cả các hành, tu tập theo những điều Phật đã thực hành, lìa các pháp hữu vi, có khả năng thành thục tất cả chúng sinh, cũng dứt bỏ tất cả khổ não cho chúng sinh nên gọi là A-la-hán.   
	Không vướng vào tướng chúng sinh, cũng không vướng vào tướng khổ não, đó gọi là A-la-hán.   
	Dứt các chấp đắm, an trụ vô tướng, biết các pháp không, lìa tất cả tướng, đều không thật có, trừ sạch tất cả vọng tưởng điên đảo si mê lầm lạc của chúng sinh, hiểu rõ các pháp là không, không thể nghĩ bàn, đó là A-la-hán được Bồ-đề không thể nghĩ bàn, nhờ thành tựu pháp như thế nên gọi là A-la-hán.   
	Như pháp mà các Đức Phật quá khứ nên nói thì tất cả các Đức Phật hiện tại, vị lai cũng nên nói như vậy. Dứt những đùa bỡn, đầy đủ thanh tịnh, giảng nói pháp Bồ-đề chân thật, đó là A-la-hán.   
	Khiến cho chúng sinh được an trụ trong đạo Bồ-đề, không hề chấp đắm gọi là A-la-hán.   
	Nên thực hành các Ba-la-mật, Từ đạt đến tâm đại Từ của Phật, cứu độ đầy đủ đối với chúng sinh, đó là tâm Từ vô tướng, cũng khiến cho tất cả chúng sinh được an lập nơi tâm Từ ấy, tu tập theo tâm Từ ấy không có sự phân biệt, chẳng chấp chúng sinh và tướng của tâm Từ, đó là A-la-hán.   
	Nói pháp cho tất cả chúng sinh nghe, nhưng đối với các pháp đều không có chỗ chấp đắm. Nếu được như vậy thì gọi là A-la-hán.   
	Nhận rõ, hiển bày căn lực, giác đạo, đối với các chúng sinh không nhiễm không đắm, gọi là A-la-hán.   
	Khéo biết tâm hành của tất cả chúng sinh, khiến họ phát tâm Bồ-đề, nếu được như vậy gọi là A-la-hán.   
	Giảng nói tất cả các hành pháp hữu vi mà không chấp đắm gọi là A-la-hán.   
	Cũng nói hạnh không chấp, hạnh không đắm cho tất cả chúng sinh khác nghe, làm được như vậy gọi là A-la-hán.   
	Đến được các cõi Phật mà tâm không có tướng đến được các cõi Phật, dùng trí vô tướng nhìn các pháp như Phật gọi là A-la-hán.   
	Nếu thành tựu đầy đủ các công đức của cõi Phật như thế cũng gọi là ruộng phước thanh tịnh bình đẳng không cấu nhiễm, chẳng thể nghĩ bàn. Đó chính là ruộng phước không hạnh, là ruộng phước không còn thoái chuyển, là ruộng phước thanh tịnh bậc nhất không còn tướng người nữ, là ruộng phước lìa hết các kết sử tham dục, là ruộng phước như các Đức Phật chứng tri dứt hết các thứ chướng ngại che phủ, là ruộng phước hàng phục các ma phiền não, là ruộng phước chế ngự tà kiến của ngoại đạo. Đó là ruộng phước của tất cả, ruộng phước trang nghiêm, ruộng phước lìa tất cả sợ hãi, ruộng phước không có tranh chấp, ruộng phước vắng lặng, ruộng phước thần thông, ruộng phước tối thắng, ruộng phước không có hang hốc, ruộng phước vô tận, ruộng phước đầy đủ những việc mà Bồ-tát thực hành, ruộng phước được sự tự tại trên hết của Phật, ruộng phước được Phật che chở, ruộng phước biến hóa, ruộng phước dùng ấn pháp này để ấn vào tâm chúng sinh giúp họ được an vui, nói năng khéo léo, ruộng phước gồm tất cả những châu báu trang nghiêm cõi Phật, quyết định Niết-bàn vắng lặng. Đối với tất cả ruộng phước mà thành tựu ruộng phước như thế, biết được tất cả các pháp là bất sinh bất diệt, gọi là A-la-hán.   
	Dứt các đắm nhiễm, thấy người đến tức giận mà tâm không buồn bực, đó là A-la-hán. Đối với tất cả các pháp không chấp tướng của nó, đó là A-la-hán.   
	Dùng tâm Bi dứt trừ những tri thức đầy phiền não để tu hành trí tuệ trên hết, chứng đắc nhanh chóng, gọi là A-la-hán. Dùng oai nghi này để xây dựng Bồ-đề, nhờ thế lực của Bồ-đề nên gọi là A-la-hán; Bồ-đề như vậy cũng gọi là chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nghĩ bàn ấy cũng gọi là Bất động. Bất động như thế có công năng khiến cho vô số ức loài chúng sinh được an lập trong Bồ-đề, không hề chấp đắm, đều trụ trong bình đẳng, đồng với tướng hoại, tường không thật có, biết tất cả pháp đều trở về giác ngộ, trụ nơi vô trụ, đó là A-la-hán.   
	Đã nhận thức như thế, thì có khả năng nói pháp như thế cho chúng sinh nghe mà không đắm nhiễm; tuy có nói năng nhưng không có tướng nói; độ các chúng sinh nhưng không có ý tưởng chấp vào các chúng sinh; thân bất động đối với hai bên đoạn, thường chẳng dứt phiền não và lìa kiêu mạn; đối với tất cả pháp vô sinh, vắng lặng, vô hành, không hoại tướng sắc, không hoại tướng thọ, tưởng, hành, thức và các pháp tướng của phàm phu. Tâm được bất động để cầu giải thoát; an trụ Phật pháp, cũng chẳng phải an trụ vào quả tướng giải thoát của Tu-đà-hoàn, quả tướng giải thoát của Tu-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Vọng kiến tất cả sinh khởi các điên đảo, chấp vào trí tuệ giải thoát của Phật; vọng kiến chấp vào tâm Bồ-đề giải thoát; vọng kiến tu Bồ-đề thì giải thoát; vọng kiến tu giới Bồ-đề giải thoát; vọng kiến não hại nhẫn nhục giải thoát, vọng kiến biếng nhác tinh tấn giải thoát; vọng kiến loạn tưởng thiền định giải thoát; vọng kiến ngu si trí tuệ giải thoát; vọng kiến Thanh văn phàm phu giải thoát, vọng kiến cha mẹ, vợ con, gái trai, quyến thuộc. Tất cả các giải thoát như thế, vọng kiến tham đắm các dục, vô lượng khổ não, sinh ra thân ái, sinh ra đắm nhiễm. Pháp kết sử này là nơi não hại, đối với pháp này sinh ra hai thứ tướng: Một là dứt bỏ vọng tưởng, độ thoát chúng sinh, đó là A-la-hán; hai là dứt bỏ vọng tưởng tham cầu lợi dưỡng và ý tưởng xuất gia, tại gia.   
	Đối với các pháp thấp hèn hay tối thắng đều bình đẳng, nhưng cũng không thấy pháp phàm phu này, đó là Phật pháp. Nhằm dứt bỏ vọng tưởng điên đảo như vậy nên nói pháp giải thoát, nếu muốn trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh thành tựu như thế, thì đó gọi là Niết-bàn.   
	Chúng sinh như thế chẳng thể gọi là Niết-bàn, chúng sinh như thế sinh vào ba cõi; chúng sinh như thế không sinh vào ba cõi. Chúng sinh như thế là thực hành đạo giác ngộ; chúng sinh như thế không thực hành đạo giác ngộ. Chúng sinh như thế là hủy phá giới cấm; chúng sinh như thế vâng giữ giới cấm; chúng sinh như thế gọi là có trí tuệ; chúng sinh như thế gọi là không có trí tuệ. Nếu có chúng sinh khởi lên hai tâm và sinh vọng tưởng, vì dứt bỏ vọng tưởng cho chúng sinh như thế nên; chẳng phải ruộng phước cũng chẳng phải không phải ruộng phước. Chúng sinh như thế siêng năng tinh tấn; chúng sinh như thế là chẳng siêng năng tinh tấn. Là pháp của kẻ ngu si, là pháp của người hiểu biết, là pháp của người nữ, là pháp của người nam, là pháp của bậc Thánh, là chẳng phải pháp của bậc Thánh. Sinh khởi hai ý tưởng như vậy. Nên phải dứt bỏ hai thứ tâm vọng tưởng như thế. Bồ-tát an trụ trong Bồ-đề không lui sụt. Được thọ ký Bồ-đề cũng chẳng phải được thọ ký Bồ-đề. Được gần tòa Bồ-đề cũng chẳng phải được gần tòa Bồ-đề. Chính do hai tâm như vậy mà dấy khởi lên vọng tưởng hư dối. Bồ-tát như vậy là đạt đến Bồ-đề. Bồ-tát như vậy là chẳng đạt Bồ-đề giải thoát chân thật. Tóm lại, chấp đắm vào tất cả pháp đều là vọng tưởng. Vì thế A-nan nên biết! A-la-hán đã dứt bỏ tất cả vọng tưởng về chúng sinh, để đạt đến giải thoát nên có thể nói về pháp Vô tưởng như thế. Đó là Đại Bồ-tát A-la-hán.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:  
	Trừ tất cả hành  
	Lìa hành sinh tử  
	Ra khỏi thế gian  
	Gọi A-la-hán.  
	Dứt hết phiền não  
	Độ thoát tất cả  
	Các chúng sinh khổ  
	Gọi A-la-hán.  
	Chúng sinh chẳng đạt  
	Và các kết sử  
	Đối pháp không lợi  
	Gọi A-la-hán.  
	Dứt bỏ vọng tưởng  
	Trụ không vọng tưởng  
	Rõ các pháp Không  
	Là A-la-hán.  
	Rõ không hơn hết  
	Đạt được vô tướng  
	Dứt tất cả tướng  
	Là A-la-hán.  
	Diệt các chúng sinh  
	Tất cả tướng ác  
	Trừ tất cả tướng  
	Là A-la-hán.  
	Trừ các bờ mé  
	Đạt pháp vô tưởng  
	Tự mình chứng biết  
	Là A-la-hán.  
	Vì được Bồ-đề  
	Khó thể nghĩ bàn  
	Phát tinh tấn mạnh  
	Là A-la-hán.  
	Nếu nói các pháp  
	Không báng, không nhơ  
	An trụ Bồ-đề  
	Là A-la-hán.  
	Ruộng phước thanh tịnh  
	Khiến người được vui  
	Chúng sinh chẳng được  
	Là A-la-hán.  
	Nếu nói các pháp  
	Tất cả không chấp  
	Vô pháp, chẳng pháp  
	Là A-la-hán.  
	Căn, Lực, Giác, Đạo  
	Vì chúng hiển bày  
	Đắc quả bậc nhất  
	Là A-la-hán.  
	Khéo rõ chúng sinh  
	Bồ-đề thanh tịnh  
	Giảng nói tướng ấy  
	Là A-la-hán.  
	Lời thế gian nói  
	Tất cả các hành  
	Đối hành không chấp  
	Là A-la-hán.  
	Thế Tôn mạnh mẽ  
	Ruộng phước khó lường  
	Tùy trú xứ Phật  
	Giảng nói người nghe,  
	Nếu muốn thấy Phật  
	Không thấy, chẳng thấy  
	Như Phật thấy điều  
	Là A-la-hán.  
	Ruộng phước thích hợp  
	Ruộng phước Thánh hiền  
	Tinh tấn tột bậc  
	Là A-la-hán.  
	Xa lìa dục nhiễm  
	Đối giận chẳng giận  
	Cũng nói Bồ-đề  
	Là A-la-hán.  
	Rõ tất cả pháp  
	Vắng lặng vô tướng  
	Do đó giác ngộ  
	Là A-la-hán.  
	Tất cả chẳng động  
	Các cõi chúng sinh  
	Khiến vô số ức  
	An trụ Bồ-đề.  
	Chúng sinh Bồ-đề  
	Đều trụ vô tướng  
	Rõ kia bình đẳng  
	Là A-la-hán.  
	Đắc Vô đẳng đẳng  
	Đồng tất cả pháp  
	Biết rõ vô tướng  
	Bồ-đề bình đẳng  
	Hiểu được như vậy  
	Gọi là La-hán.  
	Tỏ pháp như thật  
	Thanh tịnh không nhơ  
	Nói pháp chúng nghe  
	Nhưng không pháp nói  
	Độ vô lượng chúng  
	Cũng không dao động.  
	Chúng sinh chẳng được  
	Hai bên đoạn, thường  
	Mà chúng đều thấy  
	Độ thoát khổ não  
	Rốt ráo các pháp  
	Không sinh, không diệt  
	Mà dùng phương tiện  
	Độ thoát muôn loài  
	Chẳng hủy hoại sắc  
	Thọ, tưởng, hành, thức  
	Cũng giống như thế  
	Tức là giải thoát.  
	Đối với phàm phu  
	Cũng không tướng động  
	Kiến lập Phật pháp  
	An trụ giải thoát.  
	Khiến các chúng sinh  
	Nhớ nghĩ quả báo  
	Tướng giải thoát Phật  
	Nói pháp người nghe  
	Chấp lấy Bồ-đề  
	Tu hành Bố thí  
	Trì giới, Nhẫn nhục  
	Để bỏ vọng tưởng  
	Biếng nhác, buông lung  
	Giữ sự Tinh tấn  
	Trừ tướng giải thoát  
	Lời La-hán nói  
	Sinh tưởng Thiền định  
	Người ngu vô trí  
	Giúp họ giải thoát  
	Nói pháp La-hán  
	Pháp vô tướng ấy  
	Ngăn che hư vọng  
	Nói pháp như vậy  
	Là A-la-hán.  
	Chúng sinh hư vọng  
	Chấp tưởng Thanh văn  
	Không tướng, giải thoát  
	La-hán nói pháp,  
	Cha mẹ vợ con  
	Ngu si chấp đắm  
	Chẳng phải Bồ-đề  
	Tham đắm sinh tử,  
	Anh em chị em  
	Vọng sinh thân ái  
	Vắng lặng giải thoát  
	Là A-la-hán.  
	Tạo các hành nghiệp  
	Tham đắm thân ái  
	Thấy liền luyến ái  
	Vốn là thân mình.  
	Lại đắm nhiễm nhau  
	Thân ái lẫn nhau  
	Chẳng biết lìa bỏ  
	Khiến ma lộng hành.  
	Không lìa thế gian  
	Làm ác cùng cực  
	Lỗi lầm như vậy  
	Lời La-hán nói.  
	Đối các kết sử  
	Thảy đều giác ngộ  
	Cả hai hư vọng  
	Lời La-hán nói.  
	Lợi ích nhiều người  
	Không hề đùa bỡn  
	Giải thoát như vậy  
	Lời La-hán nói.  
	Tại gia xuất gia  
	Thường sinh vọng tưởng  
	Phàm, ngu chấp đắm  
	La-hán giải thoát.  
	Thấy rõ trói buộc  
	Nêu rộng chánh pháp  
	Phàm, ngu vọng tưởng  
	La-hán giải thoát.  
	Lìa bỏ phàm phu  
	Không lợi Phật pháp  
	Bỏ lợi, không lợi  
	Là A-la-hán.  
	Thấy có cao thấp  
	Từng ấy các loài  
	Chúng sinh chấp đắm  
	La-hán giải thoát.  
	Đầy đủ tướng chấp  
	Tu tập rất nhiều  
	Chấp tướng như vậy  
	Khéo léo giải thoát  
	Được ruộng phước Phật  
	Rốt ráo chân thật  
	Vọng chấp là ruộng  
	La-hán giải thoát.  
	Không diệt, chẳng diệt  
	Cũng vật, chẳng vật  
	Tuy tu Bồ-đề  
	Chẳng được giác ngộ.  
	Giữ giới, phá giới  
	Có trí, không trí  
	Chúng sinh ngu si  
	Dấy lên hai tưởng  
	Nhiều người chấp đắm  
	Có rất nhiều loài  
	Giải thoát tưởng ấy  
	Lời La-hán nói  
	Khởi tưởng ruộng phước  
	Chẳng tưởng ruộng phước  
	Phàm ngu không trí  
	Sinh các thứ tưởng  
	Đối với người nữ  
	Và đối người nam  
	Pháp Thánh, chẳng Thánh  
	Sinh hai thứ tâm  
	Chúng sinh như vậy  
	Phàm, ngu không trí  
	Chấp đắm hai tưởng  
	La-hán giải thoát  
	Pháp lui, không lui  
	Có ký, không ký  
	Gần tòa Bồ-đề  
	Chẳng chấp Bồ-đề  
	Được Bồ-đề rồi  
	Rốt ráo vắng lặng  
	Lìa hẳn sinh tử  
	Chấp tưởng Niết-bàn  
	Dứt buộc chúng sinh  
	Diệt tất cả tướng  
	Cho nên La-hán  
	Gọi là giải thoát.  
	Bồ-tát pháp nhĩ  
	Hiện là La-hán  
	Không khởi pháp nhẫn  
	Tức trí La-hán.  
	La-hán như vậy  
	Bồ-tát khen ngợi  
	Tâm thường trụ nơi  
	Bồ-đề trên hết.  
	Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-nan:  
	–Nay ông nên biết! Đó là Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các vị Đại Bồ-tát dùng phương tiện nói về A-la-hán.  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Vì sao Như Lai Đẳng Chánh Giác lại vì các Đại Bồ-tát nói về Thanh văn?  
	Đức Phật dạy:  
	–Này A-nan! Bồ-tát có khả năng làm cho vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh, dùng pháp âm của Phật khiến tất cả đều được nghe, do đó gọi là Thanh văn.   
	Cũng khiến cho họ được nghe âm thanh chẳng thể nghĩ bàn ấy, nghe những âm thanh không thể nghĩ bàn rồi thì đối với đạo Bồ-đề dứt mọi đùa bỡn, chỉ dùng âm thanh thanh tịnh để họ được nghe, cũng gọi là Thanh văn.   
	Lại khiến cho họ được nghe về niềm an vui của Niết-bàn chư không phải là những niềm an vui khác. Nghe được những âm thanh như vậy cũng gọi là Thanh văn.   
	Cũng khiến cho họ được nghe các đạo phẩm như Căn, Lực, Giác, Đạo, Thiền định giải thoát, các pháp Tam-muội, Niệm xứ, Chánh cần, chứng đắc Vô dư. Các pháp này đều khiến cho vô số chúng sinh đều được nghe, cũng gọi là Thanh văn.   
	Lại thân này là khổ, không, vô ngã, nhưng tướng các ấm đều không thật có. Kẻ phàm phu ngu si phân biệt thân ấy vọng khởi chấp đắm nghe những âm thanh như vậy cũng gọi là Thanh văn.   
	Lại do nhãn giới là hư ngụy không thật, cho đến mắt Phật đều đồng với nhãn giới chẳng thể nghĩ bàn, có công năng giúp cho chúng sinh thấy biết như thật. Đối với tất cả pháp không có tướng thành tựu, gọi là thành tựu nhãn, tướng các pháp như vậy khiến chúng sinh nghe nên gọi là Thanh văn.   
	Như âm vang của tiếng gọi, khiến chúng sinh nghe nên gọi là Thanh văn.   
	Không ứng hợp với âm thanh mà vọng chấp đắm, vì không có tướng âm thanh, cũng không thật có, âm thanh như vậy nên gọi là Thanh văn.   
	Không ứng hợp với hương mà chấp lấy tướng hương, tướng của hương cũng không thật có; ví như có người nằm mộng ngửi được mùi hương, nhưng thật ra không có mùi hương, ở trong cái không có hương mà vọng khởi tưởng là có hương, chỉ là điên đảo tự sinh ra phân biệt, chấp lấy tướng hương, kẻ phàm phu tin nhận, nghe tiếng như thế gọi là Thanh văn.   
	Lưỡi tiếp xúc với tướng không giống như cục thịt không thể nhận biết được vị, cũng như chùm bọt nước không thể làm ví dụ. Vì vượt khỏi ví dụ nên chẳng phải vị, chẳng phải thấy, mọi phân biệt về tướng của vị thật sự không thật có. Cảnh giới của vị như vậy và cảnh giới không thể nghĩ bàn là bình đẳng không hai. Lìa tâm, vô niệm cũng không nhớ nghĩ, thật không có tướng của tâm. Nghe âm thanh như vậy gọi là Thanh văn.   
	Pháp đã biết, lại khiến cho người khác nghe gọi là Thanh văn.  
	Nếu nghe về thân, thấu rõ tướng thân, thể tánh vốn không, chẳng phải sinh chẳng phải không sinh, đó gọi là Bồ-đề. Khiến cho vô lượng chúng sinh được nghe âm thanh ấy gọi là Thanh văn.   
	Thể tánh của tâm là không, không thật có, đều như huyễn hóa, chẳng sinh chẳng diệt, có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều được nghe nên gọi là Thanh văn... Phật bảo A-nan:  
	–Pháp thí của Thanh văn chẳng thể nghĩ bàn, chứng được đạo này gọi là chẳng thể nghĩ bàn, vì Pháp thí chẳng thể nghĩ bàn này có công năng sinh ra Bồ-đề. Vì sao? Vì hạt giống tương tự sinh nên không quả là quả, Tài thí không đạt được, từ nghe mà tin, hiểu nên gọi là Thanh văn. Tài thí nhỏ ít, Pháp thí mới là quan trọng. Pháp thí như vậy không hề ganh ghét kẻ khác, cũng không tướng thí, không đắm vào sự bố thí ấy. Ví như huyễn hóa không phân biệt, không sinh nguyện cầu, không chấp ý tưởng bố thí vì không nguyện cầu. A-nan nên biết! Pháp thí như vậy thành tựu Bồ-đề, từ nghe được tin hiểu nên gọi là Thanh văn. Dứt tất cả tướng, lìa các kết sử, vượt qua tất cả tăng thượng của Thanh văn, phát ra âm thanh lớn để giảng nói Phật pháp. Vì sao? Vì đầy đủ âm thanh vượt qua tất cả các âm thanh, ra khỏi âm thanh này rồi, khiến nghe được Phật pháp. Biết tướng các âm thanh chẳng phải một, chẳng phải khác, chánh tín thành tựu, nói pháp không hai cũng chẳng phải không hai. Nghe được pháp ấy gọi là Thanh văn.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ:  
	Vô lượng chúng sinh nghe  
	Phật pháp chẳng nghĩ bàn  
	Bồ-tát giảng rộng khắp  
	Đó gọi là Thanh văn.  
	Nghe rồi tin Bồ-đề  
	Không nhơ, không đùa bỡn  
	Khiến tất cả đều nghe  
	Đó gọi là Thanh văn.  
	Nghe Niết-bàn an vui  
	Là an vui bậc nhất  
	Đều khiến nghe vắng lặng  
	Đó gọi là Thanh văn.  
	Các Lực là Giác đạo  
	Bốn Niệm xứ, các Căn  
	Mau đạt tới rốt ráo  
	Đó gọi là Thanh văn.  
	Nghe thân này khổ, không  
	Không vững chắc, chân thật  
	Bị tham, sân, si lấp  
	Cho nên chấp lấy thân,  
	Cũng nghe nơi nhãn nhập  
	Chẳng thật mà thấy thật  
	Chúng sinh nhiều ngu si  
	Phàm phu mù chẳng trí  
	Nếu đạt được mắt Phật  
	Chánh kiến chẳng nghĩ bàn  
	Nếu được mắt như thế  
	Không còn các ngu si  
	Các pháp không thành tựu  
	Tất cả chúng sinh nghe  
	Do nhân duyên như thế  
	Cũng gọi là Thanh văn,  
	Tất cả tướng các pháp  
	Đều giống như tiếng vang  
	Nơi ấy không người nghe  
	Cũng không có người nói  
	Giúp vô số người nghe  
	Đó gọi là Thanh văn.  
	Trong ấy không nghe gì  
	Không có người đắm nhiễm  
	Ví như người nằm mộng  
	Tuy ngửi nhiều mùi hương  
	Nhưng đều không thật có  
	Biết thể hương như vậy  
	Lìa bỏ tất cả cấu  
	Cũng không người ngửi hương  
	Bồ-tát thì giải thoát  
	Chúng sinh nhiều điên đảo  
	Nghe lưỡi như cục thịt  
	Chẳng thể biết được vị  
	Nếu cục thịt biết vị  
	Cũng nên biết bình đẳng  
	Phân biệt tướng như thế  
	Tham vị là ác nhất  
	Cõi này khó nghĩ bàn  
	Đó gọi là biết vị,  
	Quyết định biết vị rồi  
	Bồ-tát không đắm nhiễm  
	Khiến chúng sinh quyết định  
	Đó gọi là Thanh văn.  
	Quán thân, nhận rõ tướng  
	Bản tánh không, vô chủ  
	Nếu biết được chân thật  
	Không sinh, không năng sinh  
	Tướng Bồ-đề như vậy  
	Không sinh, không năng sinh  
	Khiến mọi chúng sinh tỏ  
	Đó gọi là Thanh văn.  
	Ý cũng biết như thế  
	Thể tánh không thật có  
	Vì không có thể tánh  
	Nên khiến tất cả nghe  
	Như Phật pháp vô sinh  
	Vô diệt, cũng không hai  
	Không tướng, không chỗ thấy  
	Đó gọi là Thanh văn.  
	Đều khiến nghe thí ấy  
	Pháp thí chẳng nghĩ bàn  
	Tu hành đến đạo tràng  
	Thành tựu được Bồ-đề.  
	Ví như gieo hạt giống  
	Được quả như hạt giống  
	Tu thí chẳng nghĩ bàn  
	Chứng đắc đạo cũng vậy.  
	Bố thí các tài vật  
	Pháp thí là hơn hết  
	Xả tâm, không tham ganh  
	Đó gọi đạo Bồ-đề.  
	Tâm thường không chấp đắm  
	Tuy thí, không nương tựa  
	Nếu thí được như vậy  
	Mau chứng đạo Bồ-đề.  
	Xa lìa tất cả tướng  
	Dứt hết các kết sử  
	Không còn các đắm nhiễm  
	Đó gọi là Thanh văn.  
	Âm thanh ấy nhiệm mầu  
	Hơn các âm thanh khác  
	Thanh đó giúp nghe xa  
	Phật pháp chẳng nghĩ bàn,  
	Khiến mọi người đều rõ  
	Các thanh không nương tựa  
	Chẳng một cũng chẳng khác  
	Đó gọi là Thanh văn.  
	Muốn cho tất cả nghe  
	Lời các Phật giảng nói  
	Tùy pháp âm được nghe  
	Đều phát tâm Bồ-đề,  
	Nghe trong các ruộng phước  
	Ruộng phước Phật trên hết  
	Tùy theo chỗ Phật ở  
	Gần gũi Đấng cứu đời,  
	Khiến ba ngàn cõi nghe  
	An trụ trong hư không  
	Chúng sinh cũng như thế  
	Đều đồng tướng Niết-bàn,  
	Giảng nói thân bốn đại  
	Phân biệt là chúng sinh  
	Giống như tướng hư không  
	Đều chẳng thể nghĩ bàn.  
	Tướng như thị các cõi  
	Cũng không thể biết được  
	Trong ấy chẳng sinh tử  
	Không phiền não, Niết-bàn,  
	Các pháp không chân thật  
	Chúng sinh cũng như vậy  
	Đó là cõi tịch diệt  
	Làm sao thấy kẻ sinh  
	Vì vô lượng chúng sinh  
	Ngày đêm thường nghe biết  
	Chẳng đắm danh lợi mình  
	Chỉ vì chúng sinh nói  
	Nên biết là Thanh văn.  
	Muốn khiến tất cả nghe  
	Thật không pháp Thanh văn  
	Chỉ hiện làm Thanh văn  
	Phật chỉ giả danh nói  
	Trên hết trong các pháp  
	Cho nên biết chúng sinh  
	Tất cả đều tướng như  
	Đó gọi là Thanh văn.  
	Vô lậu dứt trói buộc  
	Giải thoát tất cả kết  
	Mà nói chúng sinh nghe  
	Hiển bày lìa trói buộc  
	Thanh tịnh không đùa bỡn  
	Thấy rồi nói người nghe  
	Phật pháp đều cũng thế  
	Không lâu sẽ được thấy  
	Đúng như pháp Phật nói  
	Vị Bồ-tát tu hành  
	Đối pháp không đắm nhiễm  
	Đó gọi là Thanh văn.  
	Không trói buộc, thanh tịnh  
	Cũng khiến tất cả nghe  
	Tu hành như đã nghe.  
	A-nan ông nên biết,  
	Ta dùng phương tiện nói  
	Biết Thanh văn như vậy  
	Bồ-tát không nương tựa.  
	A-nan nên biết! Đó gọi là Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các Đại Bồ-tát phương tiện nói về Thanh văn.  
	A-nan thưa:  
	–Thế nào là Như Lai Đẳng Chánh Giác lại vì các Đại Bồ-tát nói về Bích-chi-phật?  
	Đức Phật dạy:  
	–Này A-nan! Bồ-tát hiện thấy tất cả pháp!  
	Thế nào là hiện thấy? Đó là rõ các pháp là không tranh chấp, đều là giả danh, không hủy hoại tánh của các pháp mà thấy được pháp, chứng được pháp, nên gọi là Bích-chi-phật. Phật là chẳng thể nghĩ bàn. Đối với tất cả pháp và các chúng sinh đồng với tướng Niết-bàn bình đẳng không sai khác. Vô hình, vô tướng, thanh tịnh vắng lặng. Cảnh giới chân thật, cảnh giới chúng sinh, cảnh giới Niết-bàn, giống như hình bóng huyễn hóa, không giới hạn, không thật có. Đối với các cảnh giới này cũng không có tướng của cảnh giới. Không thể dùng lời, không thể diễn tả, không có nơi chốn nương tựa, cũng không thể diễn tả. Vì sao? Vì như ngã không, không sinh, không diệt, biết cảnh giới chúng sinh thì biết cảnh giới các pháp, cảnh giới sinh tử, tức là cảnh giới Phật. Biết các cảnh giới như vậy nên gọi là Bích-chi-phật. Bồ-tát hiện biết đối với sắc, sắc ấy tức là sắc ấm, sắc ấm đã dứt thì chỉ còn có lời nói, không có ngã, ngã sở. Vì sao? Vì như nói về sắc ấm chỉ có lời nói. Nên là không, không sinh, không diệt, lời nói không có tướng của lời nói, vì sao dùng lời nói? Nói về sắc ấm ấy cũng hiện thấy thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Ví như nói về thức ấm, thì biết chỉ giả danh là thức ấm, chỉ có lời nói, lời nói đều không, không sinh không diệt, chẳng phải thật chẳng phải hư. Lời nói còn không, huống gì là tướng ấm, năm ấm như vậy đều từ giả danh mà lập nên, đó gọi là Bích-chi-phật. Vì sao? Vì nhờ vào tên gọi mà nói về là sắc, sắc chỉ là giả danh, không nhân, chẳng phải nhân, nhưng gọi tên là nhân, ấm ấy là do nhân duyên hợp nên không thể nói tướng của nó. Tất cả các pháp đều không nương, không duyên, biết rõ như vậy gọi là Bích-chi-phật.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:  
	Hiện thấy tất cả pháp  
	Đều biết không đối kháng  
	Chẳng sinh cũng chẳng hoại  
	Không có tướng trược loạn  
	Hiện thấy tất cả pháp  
	Bản tánh đều vắng lặng  
	Thể tướng là như vậy  
	Thì không có quyết định.  
	Hiện thấy chỗ rốt ráo  
	Tất cả pháp cũng thế  
	Đó gọi là Chánh trí  
	Duyên giác chẳng nghĩ bàn.  
	Niết-bàn và chúng sinh  
	Đời trước không thật có  
	Cõi này chẳng có sinh  
	Phật cũng khó nghĩ bàn.  
	Như chúng sinh Niết-bàn  
	Không sinh, không xuất xứ  
	Như pháp không tướng sinh  
	Đó gọi là Niết-bàn.  
	Chúng sinh và Niết-bàn,  
	Đều như bóng đáy nước  
	Có hình, không chúng sinh  
	Đó gọi là Niết-bàn.  
	Chúng sinh và Niết-bàn,  
	Đều là giả danh nói  
	Không sinh, cũng không diệt  
	Chỉ có tên gọi giả.  
	Tướng lời nói như thế.  
	Rõ không có chúng sinh  
	Nghĩa này phải nên biết  
	Chúng sinh tức Niết-bàn.  
	Tất cả lời nói không,  
	Tâm không, pháp cũng không  
	Dùng lời nói, chẳng lời  
	Quyết định không người biết.  
	Phi ngôn, cõi không nương  
	Lời nói cũng vô trụ  
	Tướng lời nói như vậy  
	Chúng sinh chẳng nghĩ bàn.  
	Chúng sinh và Niết-bàn  
	Cõi thật, cõi chẳng thật  
	Xa lìa, được an ổn  
	Về hẳn nhà vắng lặng.  
	Tất cả cõi chúng sinh  
	Như hình bóng, tiếng vang  
	Không nhân cũng không duyên  
	Cõi thật chẳng nghĩ bàn,  
	Tất cả gốc các pháp  
	Chỉ dùng giả danh nói  
	Là chốn không thật có  
	Tướng tên gọi không thật  
	Cõi thật không nói năng  
	Cũng không người biết được  
	Vì không, không cõi thật,  
	Chúng sinh chẳng nghĩ bàn.  
	Cõi thật chẳng nói năng  
	Lời nói không thành được  
	Tướng chân thật như như  
	Chúng sinh không bờ mé  
	Tướng lời nói tự không  
	Chẳng dùng lời mà biết  
	Như điều ông thường nói  
	Chúng sinh không thể nghĩ  
	Tướng cõi thật như thế  
	Chẳng nghĩ bàn biết được  
	Đó gọi Chánh giác nói  
	Bích-chi khó nghĩ bàn  
	Hiện thấy đối sắc ấm  
	Chỉ có tên gọi giả  
	Tánh, tướng ấm như thế  
	Thường xa lìa lời nói  
	Không có tướng chân thật  
	Đó gọi là xuất thế.  
	Biết các ấm như vậy  
	Bản tánh không trụ xứ  
	Sắc ấy không thật có  
	Giả danh gọi là ấm.  
	Chỉ có tên gọi suông  
	Chẳng sinh cũng chẳng diệt  
	Lời nói và các pháp  
	Không có chỗ quyết định  
	Nếu không có lời nói  
	Đó là nói sắc ấm.  
	Hiện thấy đối thọ ấm  
	Tưởng, hành cũng như vậy  
	Cho đến cả thức ấm  
	Chỉ có lời nói giả  
	Thấy ấm chẳng thể nói  
	Xa lìa tất cả tướng  
	Bản tánh không thật có  
	Chẳng sinh cũng chẳng trụ  
	Chân thật như đã nói  
	Xa lìa tất cả pháp  
	Biết các tướng như thế  
	Thể tánh không chỗ ở  
	Chỉ dùng giả danh nói  
	Nói ấm thảy cũng không  
	Biết lời nói không rồi  
	Không sinh cũng không diệt  
	Lời nói và các pháp  
	Không có chỗ quyết định  
	Nếu không có lời nói  
	Đó gọi là thức ấm.  
	Ấm này lìa lời nói  
	Hạn lượng không thật có  
	Tướng không sinh, không diệt  
	Cũng không chỗ nương tựa  
	Giải thoát các phiền não  
	Chẳng phải nghiệp, quả báo  
	Chẳng giác, cũng chẳng che  
	Chẳng lời, chẳng Niết-bàn  
	Tướng ấy không quyết định  
	Cũng không có trí tuệ  
	Trong ngoài không thật có  
	Không biếng nhác, tinh tấn  
	Không đùa bỡn, nghi ngờ  
	Cũng chẳng có thành tựu  
	Chẳng kinh, chẳng sợ hãi  
	Không có tất cả sắc  
	Cũng chẳng thấy cả không  
	Vô tướng cũng như thế  
	Không có một tướng khác  
	Chẳng buộc cũng chẳng mở  
	Tất cả các tiếng nói  
	Thanh ấy không chỗ vào  
	Đó gọi là Luật-đà.  
	Lời không diễn tả được  
	Rốt ráo nơi hiện thấy  
	Mà nói pháp vô tận  
	Được chánh định ấy rồi  
	Chẳng đắm mê lời nói  
	Trí này như hiện thấy  
	Đều nói A-luật-đà  
	Luật-đà đồng các pháp  
	Im lặng mà giảng nói  
	Bấy giờ, hiện thấy đến  
	Chẳng từ nhân duyên khác  
	Đó gọi là Chánh giác  
	Duyên giác chẳng nghĩ bàn.  
	KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN 
	QUYỂN 1    QUYỂN 2    QUYỂN 3    QUYỂN 4 
	KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN 
	Hán dịch: Không rõ tên người dịch, Đại sư Tăng Hựu đời Lương sao lục. 
	Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh 
	QUYỂN 3 
	Phẩm 4: NÊU RÕ HÀNH TƯỚNG HAI THỪA  
	Này A-nan! Các Đại Bồ-tát như thế hiện đã thật sự nhận rõ về minh, vô minh; về hành, vô hành; nhận rõ về thức và tướng của thức; về danh sắc và tướng của danh sắc; về sáu nhập và tướng của sáu nhập; về xúc và tướng của xúc; về thọ và tướng của thọ; về ái và tướng của ái; về thủ và tướng của thủ; về hữu và tướng của hữu; về sinh và tướng của sinh; về già chết và tướng của già chết, tu tập hiện thấy gọi là Bích-chi-phật.  
	Bấy giờ Đức Thế Tôn đọc bài kệ:  
	Hiện thấy vô minh  
	Nên không chỗ biết  
	Cũng không thành tựu  
	Như bóng trong nước  
	Sáng cũng chẳng động  
	Chẳng đắm mê pháp  
	Nếu không đắm pháp  
	Đó gọi tướng sáng.  
	Vô minh như không  
	Tướng tất cả pháp  
	Đều đến hiện thấy  
	Đó gọi Duyên giác.  
	Nếu nói các hành  
	Chẳng trong, chẳng ngoài  
	Cũng chẳng từ Phật  
	Mà sinh khởi hành  
	Hành ấy giả danh  
	Nhất định chẳng có  
	Chẳng sinh, chẳng diệt  
	Giống như hư không.  
	Đều đến hiện thấy  
	Bồ-tát không sợ  
	Đó gọi Chánh giác  
	Duyên giác khó lường.  
	Biết tất cả pháp  
	Đều như huyễn hóa  
	Biết như huyễn rồi  
	Đó gọi hiện thấy.  
	Chẳng bằng thật biết  
	Hành xứ thức này  
	Là tướng phân biệt  
	Biết thức là không.  
	Biết trí chẳng trí  
	Tất cả không đắm  
	Nếu biết các pháp  
	Thức như huyễn tưởng.  
	Nhân duyên danh sắc  
	Đều tướng hữu vi  
	Thể không quyết định  
	Cũng không thành tựu.  
	Xa lìa sáu nhập  
	Nói tướng sáu nhập  
	Âm thanh lời nói  
	Thể tánh đều không  
	Xúc không nhân duyên  
	Từ sáu nhập sinh  
	Nhận rõ xúc ấy  
	Như huyễn, đều không.  
	Xúc đó vô thể,  
	Từ vọng tưởng sinh  
	Xúc không chân thật  
	Cũng không chỗ ở  
	Hiện thấy xúc ấy  
	Biết không tướng xúc  
	Đều nên chán lìa  
	Gọi Bích-chi-phật.  
	Nếu chứng được thọ  
	Không bền như bọt  
	Tánh, tướng đều không  
	Rốt ráo chẳng thật.  
	Dứt bỏ ái kết  
	Được pháp dứt ái  
	Dứt hết các dục Đó  
	gọi Duyên giác.  
	Nhận rõ chấp đắm  
	Không, chẳng thật có  
	Như ngọn lửa cháy  
	Không có thành tựu.  
	Không có khởi tưởng  
	Sinh tưởng cũng thế  
	Biết thể tánh sinh  
	Vắng lặng, chẳng có  
	Lìa được già suy  
	Cũng không sợ chết  
	Không thành tựu gì  
	Không thọ thân sau.  
	Thấu đạt pháp này  
	Chẳng nơi nương tựa  
	Dùng tiếng Duyên giác  
	Thật tu Bồ-tát.  
	Này A-nan! Nay ông nên biết, Như Lai Đẳng Chánh Giác vì các vị Đại Bồ-tát phương tiện nói về Bích-chi-phật.  
	Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan liền đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay hướng về Đức Phật, nói kệ:  
	Niết-bàn, chẳng Niết-bàn  
	Cứu độ khắp thế gian  
	Ví như buộc trong không  
	Dùng không mà tự mở.  
	Nếu nói được như thế  
	Cũng gọi có nói được  
	Thế Tôn phương tiện khéo  
	Mà nói pháp dứt chấp.  
	Tôn giả A-nan nói kệ xong liền bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh ở thế gian bị ngu si che lấp nên tự khinh mình, không hiểu được ý của Như Lai chỉ dùng giả danh để nói về các pháp như: Tín hành, Pháp hành, tám bậc,… cùng các quả tu như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Duyên giác.  
	Bấy giờ, Phật bảo A-nan:  
	–Đối với các Đức Phật quá khứ ông không quên giả danh mà trồng các căn lành, vì khéo hiểu giả danh, nên không bị sự ngu tối cướp đoạt. Vì sao? Vì các pháp giả danh, như huyễn, như bóng dưới nước, như ngọn lửa nóng, như tiếng vang, giả danh như vậy!  
	Này A-nan! Nay ông nên biết, không để cho các pháp ác xâm hại đến mình. Phải đầy đủ sự trang nghiêm để tự trang nghiêm mình, biết được các pháp là giả danh, do nhân duyên giả hợp, thường luôn ghi nhớ, đầy đủ tinh tấn, nhưng không chấp sự tinh tấn ấy, đừng để quên mất: Đạt được trí tuệ tối thắng nhưng không chấp vào tướng trí tuệ ấy.  
	Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:  
	Các chúng sinh ngu si  
	Biếng nhác, trí tuệ kém  
	Thì không biết giả danh  
	Phải siêng năng tinh tấn.  
	Hiểu rõ về giả danh  
	Biết như thật các ấm  
	Cứu độ các thế gian  
	Giúp đạt trí chân thật.  
	Biết giả danh, không rồi  
	Tức giác ngộ Bồ-đề  
	Cũng không được Bồ-đề  
	Đó gọi là Bồ-đề.  
	Giả danh là tướng không  
	Không, chẳng thể biết không  
	Không chỉ có âm thanh  
	Lìa tất cả tranh luận  
	Hiển bày nghĩa như thế  
	Đối với không chẳng chấp  
	Cũng không chỗ để chứng  
	Vì sao có người được?  
	Đó gọi là Không Không.  
	Như vậy, A-nan nên biết! Pháp không rất sâu vô lượng, không sinh buông lung, cũng không để cho mất. Đó gọi là nói đầy đủ về hành địa của Bích-chi-phật. Bấy giờ, trong chúng hội có năm trăm ức đồng, thành vị Tỳ-kheo đều được Tín hành, liền đứng dậy đến trước Đức Thế Tôn nói kệ:  
	Dứt nghi được chánh trí  
	Bậc Vô Thượng cứu đời  
	Thế Tôn nói giả danh  
	Tín hành trụ Bồ-đề.  
	Trong chúng lại có năm trăm ức vị Tỳ-kheo đã đạt Pháp hành, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy, sửa lại y phục, cùng nói kệ:  
	Chúng con dứt nghi, lầm  
	Nẻo giác ngộ sáng tỏ  
	Như Lai nói giả pháp  
	Pháp hành trụ Bồ-đề.  
	Trong chúng lại có mười ức vị Tỳ-kheo đã đạt tám bậc, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật, đồng nói kệ:  
	Con trước dứt nghi hối  
	Tu tám bậc đã lâu  
	Như Lai nói giả danh  
	Tám bậc trụ Bồ-đề.  
	Trong chúng lại có mười ức vị Tu-đà-hoàn nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật, cùng nói kệ:  
	Con nay nhờ ánh sáng  
	Bậc Thánh chúa cứu đời  
	Biết pháp do Phật nói  
	Mở bày về giả danh.  
	Trong chúng lại có hai trăm lẻ năm vạn vị Tỳ-kheo đã chứng quả Tư-đà-hàm nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật đều nói kệ:  
	Con trước vốn chấp đắm  
	Mà được Tư-đà-hàm  
	Nay dứt các vọng tưởng  
	Vắng lặng không đùa bỡn.  
	Trong chúng lại có mười ức vị A-na-hàm nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật đều nói kệ:  
	Bậc Vô Thượng cứu đời  
	Nay con dứt nói suông  
	Đã nhổ sạch tưởng quả  
	Đạo giác ngộ chiếu sáng.  
	Trong chúng lại có ba mươi lăm ức vị Tỳ-kheo đều trụ trong bốn Thiền đắc quả A-la-hán, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật cùng nói kệ:  
	Nay con đã lìa cấu  
	Tự chứng đắc Vô dư  
	Các thừa nhập Nhất thừa  
	Như huyễn, không quyết định.  
	Trong chúng lại có hai muôn vị Tỳ-kheo, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật cùng nói kệ:  
	Con vốn thích nói suông  
	Thế Tôn nói giả danh  
	Tự gọi là Thanh văn  
	Trụ nơi pháp giả danh.  
	Trong chúng lại có năm ngàn vị Tỳ-kheo trụ trong Bích-chiphật thừa nghe bài kệ ấy rồi liền đứng dậy, đến trước Phật, đều nói kệ:  
	Nay con được hiện thấy  
	Vì Duyên giác Bồ-đề  
	Như Lai nói giả danh  
	Duyên giác không nghĩ bàn.  
	Trong chúng lại có năm muôn vị Tỳ-kheo-ni, chấp tưởng về các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật, cùng nói kệ:  
	Nguyện cho tướng người nữ  
	Đều nhập pháp bình đẳng  
	Thế Tôn nói không khác  
	Giác ngộ là Tối thượng.  
	Trong chúng lại có tám trăm ức muôn vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều có ý tưởng về các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật đồng nói kệ:  
	Con nay tâm không cấm  
	Tịnh như ngọc lưu ly  
	Nay mới gọi xuất gia  
	An trụ trong Phật pháp.  
	Bấy giờ, trong hư không có đến sáu mươi ức na-do-tha các vị trời tung rải hoa Mạn-đà-la cõi trời lên chỗ Phật để cúng dường rồi đến trước Phật, nói kệ:  
	Con trước chấp tưởng thừa  
	Tham đắm các quả vị  
	Nay các quả đều bỏ  
	Mới giác đạo Bồ-đề.  
	Phẩm 5: DỨT TRỪ CÁC TƯỞNG  
	Lúc bấy giờ, trong chúng lại có vô lượng trăm ngàn vị A-la-hán, đứng đầu là các Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, A-na-luật, A-nâu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề... đứng dậy, sửa lại y phục, đến trước Đức Thế Tôn, cúi mình cung kính bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay xin phát nguyện chân thật lìa tất cả vọng tưởng, phá dẹp chúng ma, gồm đủ cả năm tội nghịch và năm thứ dục lạc, đầy đủ tà kiến, lìa bỏ chánh kiến, đoạn mạng vô lượng chúng sinh. Hôm nay chúng con sẽ làm cho chúng đều thành Bồ-đề, nhập vào Niết-bàn vô dư.  
	Lúc này, Đức Thế Tôn im lặng, vô lượng trăm ngàn vị trong hội nghe các Tôn giả nói như thế, đều sinh tâm nghi ngờ: “Vì sao các bậc Trưởng lão ấy lại nói như vậy? Hiện giờ chúng ta đều mờ mịt không thể hiểu nổi. Các vị đó đều là bậc A-la-hán mà còn nói như thế, huống chi là hạng phàm phu.” Tất cả đều ngồi một chỗ không dao động, không thể đứng dậy được, nếu có người đứng thì cũng chẳng thể ngồi, đều nói rằng vì sao các Tôn giả lại nói như thế?  
	Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền vì đại chúng trăm ngàn muôn ức chúng sinh, do năng lực thần thông của Phật nên tự biết tâm mình và biết tâm người khác liền hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:  
	–Hiện tại, trăm ngàn ức vị trong đại chúng như thế nghe các vị A-la-hán nói những lời vừa rồi, đều sinh tâm nghi ngờ. Kính mong Bồ-tát hãy phân biệt nói rõ nguyên do cho tôi được nghe.  
	Lúc này, Đức Như Lai vẫn im lặng. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Tôn giả A-nan:  
	–Đây là Bồ-tát ở địa vị không thoái chuyển, vì thấy nhân duyên của các Đại đức mà nói như vậy:  
	Tôn giả A-nan nói:  
	–Kính thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Địa vị không thoái chuyển là Bồ-tát chăng?  
	–Đúng vậy, địa vị không thoái chuyển là các Đại đức Bồ-tát.  
	Tôn giả A-nan hỏi:  
	–Vì sao các Tôn giả lại nói những lời như thế?  
	Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo Tôn giả A-nan:  
	–Vô minh là mẹ, từ hành sinh ái, rốt ráo diệt hết, trừ hết oán hại. Vọng tưởng điên đảo là cha, xa lìa điên đảo, dứt bỏ ái dục, chứng A-la-hán, vững chắc không mất. Dứt sạch những ý tưởng của phàm phu, và ý tưởng của Tăng. Tưởng ấy đã diệt thì tu tập được tất cả các pháp tưởng bất hoại, cho đến không chấp vào ý tưởng về Như Lai, tu tập vô sinh, rốt ráo lìa hẳn.  
	Này Tôn giả A-nan! Các Đại đức ấy nói: “Hôm nay chúng con làm thế nào có đầy đủ năm tội nghịch. Vì sao? Vì không còn ý tưởng về đến, đi cho nên gọi là đầy đủ năm tội nghịch.”  
	Lại nữa, này A-nan! Năm dục là gì? Vì các vị Tỳ-kheo này biết rõ năm dục như mộng, như huyễn, như chùm bọt trên mặt nước, như âm vang của tiếng gọi. Trí tuệ như vậy đầy đủ. Thế nào là trí tuệ đầy đủ? Vì các pháp vốn không thêm không bớt. Thế nào là năm dục? Vì năm dục cũng không thêm không bớt. Vì sao? Vì năm món dục lạc như thế, rốt ráo là vô thể vô tướng, biết như thật rồi tức tướng của năm dục, chứng được trí tuệ. Cho nên gọi là đầy đủ năm món dục lạc. Vì ý nghĩa đó mà các vị Đại đức nói như vậy, nay con đầy đủ năm dục.  
	Này Tôn giả A-nan! Thế nào là đầy đủ tà kiến, lìa bỏ chánh kiến? Đối với tất cả các pháp đều chấp thủ vướng mắc thì đó là tà kiến. Tà kiến ấy chính là những ý tưởng hư vọng. Tất cả các pháp đều không nương dựa, cũng không phải là không nương dựa. Ví như hư không chẳng có chốn trở về, cũng không chỗ nương dựa. Vì sao? Vì tất cả các pháp không có thật để chứng đắc, nên nhận thức như vậy, tất cả pháp đều bình đẳng. Dứt trừ các ý tưởng ấy thì đó là chánh kiến. Vì sao? Vì các ý tưởng ấy đều là những ý tưởng ác. Do ý nghĩa đó mà các Đại đức Tỳ-kheo không vướng vào các tưởng ấy cũng không vướng vào các tưởng ác. Vì sao? Vì dứt sạch hết tất cả tưởng. Đó chính là sự giác ngộ của Phật. Đạt được giác ngộ như vậy nhưng cũng không thấy một chút pháp có thể chứng được. A-nan! vì nhân duyên ấy mà các vị Đại đức Tỳ-kheo đã nói rằng xa lìa chánh kiến, đầy đủ tà kiến.  
	Này A-nan! Vì sao các vị Tỳ-kheo ấy lại nói: “Hôm nay chúng con thật đoạn mạng hàng trăm ngàn chúng sinh”. Lúc các vị trưởng lão nói ra lời ấy, có hàng trăm ngàn muôn ức các vị trời nghe nói như vậy đều liền chứng được pháp giải thoát, như mộng, như huyễn, như bóng đáy nước, như âm vang của tiếng gọi. Hiểu được như thế rồi liền cắt đứt được những ý tưởng về thọ mạng của chúng sinh, của trượng phu, và của những hạng người khác, cũng tức là được giải thoát, không có gieo trồng căn lành Bồ-đề, tất cả các pháp đều không phát khởi, không tạo tác, không tu tập. Nghe nói giả danh thì liền tin tưởng sâu xa không chút nghi ngờ. Các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di... đều đoạn trừ các tưởng về thọ mạng của chúng sinh, của trượng phu, và những hạng người khác. Dứt được tưởng ấy rồi thì không còn trở lại thọ nhận bao kiếp sinh tử nữa. Vì sao? Vì đã dứt được các tưởng về thọ mạng của chúng sinh, trượng phu, người, quỷ đói... vì còn ý tưởng ấy nên phải thường chịu sinh tử, nếu lìa được tưởng ấy thì liền rốt ráo tự chứng vô sinh. Do nhân duyên đó mà các Đại đức đã dùng phương tiện như thế khéo nói về giả danh, là đoạn mạng vô lượng chúng sinh. Cho nên nói rằng đầy đủ chứng được sự giác ngộ của Phật: Hôm nay chúng con ở nơi Niết-bàn Vô dư, mà Bát-niết-bàn, được tướng tốt của Phật, từ đấy mà giáo hóa vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sinh, diệt các kết sử như Phật đã chứng đắc. Vì sao? Vì đã giúp cho các chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được pháp Nhẫn vô sinh rồi thì giúp đạt được giác ngộ, nhưng cũng không xả bỏ phiền não, chẳng gần gũi Phật pháp, từ ý sinh phiền não, dứt hết không còn. Do nhân duyên ấy mà các vị Đại đức đều nói là nay con đạt được giác ngộ.  
	Này Tôn giả A-nan! Cho nên hôm nay gọi là vô sinh. Vì sao? Vì như các thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiểu rõ các pháp, phát tâm Bồ-đề rồi cũng không thật có, lìa tướng giác ngộ và tướng tất cả pháp ở Niết-bàn Vô dư mà nhập Niết-bàn.  
	Này Tôn giả A-nan! Các vị nam, nữ trong dòng họ của Đức Như Lai nương Bồ-tát thừa, không vì thấy mặt trời mà cho là ban ngày. Kẻ phàm phu ngu si nếu khi thấy mặt trời thì liền cho là ban ngày, cho nên chẳng phải người hiểu biết. Vì sao? Này A-nan! Vì nếu ban ngày là có thể chẳng phải hư vọng, thì có thể chứa nhóm, vì là hư vọng. Do vậy, cũng không có quá khứ, vị lai. Đối với ban đêm cũng như thế. Nếu ban ngày mà tưởng ban ngày, ban đêm tưởng ban đêm thì là cái thấy của phàm phu vọng tưởng.  
	Này A-nan! Đó là Bồ-tát thừa, tu tập Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác Thiện tri thức, không nên ban ngày mà sinh ý tưởng là ban ngày, ban đêm sinh ý lên tưởng ban đêm. Vì sao? Vì họ đã xa lìa bỏ tất cả các tưởng, an trụ trọng đạo giác ngộ của Đức Như Lai.  
	Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền nói kệ:  
	Vô minh chính là mẹ  
	Từ hành mà dấy khởi  
	Nếu dứt được gốc rễ  
	Đó gọi là trừ hại.  
	Ưa thích tưởng điên đảo  
	Đó được gọi là cha  
	Nếu biết được như thật  
	Rốt ráo không thật có,  
	Biết đó đều hư vọng  
	Thì dứt được gốc rễ  
	Không duyên cũng không trụ  
	Đó gọi là trừ hại.  
	Nếu nói các La-hán  
	Phàm phu chẳng nghĩ bàn  
	Tướng như thật bất hoại  
	Diệt ấy gọi rốt ráo.  
	Ta vốn đắm tưởng tăng  
	Nay biết như thật rồi  
	Các pháp đều không mất  
	Cũng khiến tất cả nghe,  
	Trước chấp lấy Như Lai  
	Đó gọi là hư vọng.  
	Biết kia, không tưởng khác  
	Bình đẳng, đều là không  
	Nhổ dứt những cội rễ  
	Đó gọi trí Vô sinh.  
	Nếu nói được như thế  
	Hiển bày sức Thiền định  
	Nếu nói đủ các dục  
	Năm tên gọi như vậy,  
	Xa lìa tưởng như thế  
	Giống như giấc mộng huyễn  
	Không thêm cũng không bớt  
	Đó gọi là năm dục.  
	Trước nhằm để cứu đời  
	Nên nói lời như thế  
	Biết dục bản tánh không  
	Giống như tướng mộng hóa  
	Rốt ráo không có sinh  
	Đầy đủ trí như thật  
	Như các lỗi tà kiến  
	Hư vọng khởi phân biệt  
	Dùng trí rốt ráo này  
	Tất cả đều đầy đủ.  
	Hư vọng không chấp đắm.  
	Xa lìa tướng hòa hợp  
	Khéo biết như vậy rồi  
	Không tướng, không thật có  
	Cùng biết tất cả lỗi  
	Tà kiến và chánh kiến  
	Đạt đến pháp chân thật  
	Tướng tà, chánh đều diệt  
	Tưởng chúng sinh sinh tử  
	Ngu si vọng phân biệt  
	Nếu không có chúng sinh  
	Thì không có sinh tử  
	Chúng sinh nhiều phương tiện  
	Lìa bỏ tưởng về mạng  
	Xa lìa tưởng ấy rồi  
	Biết tưởng mạng ác nhất  
	Nếu lìa tưởng chúng sinh  
	Phân biệt thọ mạng thảy  
	Đoạn mạng nhiều chúng sinh  
	Là lời vị ấy nói  
	Lìa bỏ ý tưởng chết  
	Kẻ ngu si phân biệt  
	Rốt ráo được vô sinh  
	Đó gọi là pháp thật.  
	Dứt bỏ các kết sử  
	Thì chứng đắc vô tướng  
	Giác ngộ không hình sắc  
	Không diệt cũng không quả  
	Ma oán không ngăn được  
	Tự giác nơi Bồ-đề  
	Các pháp dứt hý kuận  
	Tánh vô sinh vắng lặng.  
	Bồ-tát Văn-thù nói kệ xong thì có vô lượng trăm ngàn chúng sinh như thế dứt được các mối nghi ngờ hối hận, nhờ đó tâm sinh vui mừng, được pháp sáng tỏ, mỗi người đều cởi y phục quý giá trên người mình để dâng lên cúng dường Bồ-tát và cùng thưa:  
	–Bồ-tát đã giúp cho chúng tôi đều được pháp này, nên nói lời ấy cũng giúp cho chúng sinh tâm chứng được các pháp, đều được thật tướng như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã giải thích.  
	Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Vì sao trăm ngàn muôn ức chúng sinh như thế đều sinh tâm nghi ngờ hối hận? Vì sao Như Lai không tự mình nói rõ để họ dứt bỏ được mối nghi ngờ hối hận ấy?  
	Phật bảo A-nan:  
	–Trăm ngàn muôn ức chúng sinh như thế đều từ nơi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà phát tâm Bồ-đề, nhờ Bồ-tát mà được điều phục.  
	Tôn giả A-nan lại hỏi:  
	–Họ đều được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng?  
	Đức Phật dạy:  
	–Đúng vậy, này Tôn giả A-nan! tất cả chúng sinh đều không lui sụt đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì họ đều được Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi làm bậc Thiện tri thức.  
	Tôn giả A-nan nói:  
	–Các Tỳ-kheo ấy đã đạt được Tín hành, Pháp hành, Tu-đàhoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật, đã dứt hết các tưởng, thì đều không lui sụt đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng?  
	Đức Phật nói:  
	–Có người khó tin đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có những kẻ trí tuệ ít ỏi căn trí thấp kém, có những kẻ biếng trễ, lười nhác thiếu tinh tấn, ham thích ăn uống, gần gũi năm thứ dục lạc, thích những chốn ồn ào đông đúc, tâm không muốn xa lìa, quên mất chánh niệm, trở thành kẻ không trí tuệ, tâm không chánh định, thường sợ hãi, tán loạn. Có những kẻ tăng thượng mạn, có những kẻ chấp đắm tăng thượng mạn họ tham đắm đối với thân mình, thích sống lâu, không quán sát vô thường, thường tham lam, ganh ghét, ngu si, vô trí, phá hủy giới cấm, sinh tâm muốn não hại người. Đối với Phật pháp thì thường khởi tâm nghi ngờ, hay nghe theo hạng vô trí, gần gũi bạn xấu, xa lìa ban hành, cũng không cung kính bạn lành, không chịu học theo Trí tuệ ba-la-mật, không tu tập các pháp Tổng trì là pháp đứng đầu các kinh, luôn dấy khởi vọng kiến, chấp thủ vọng kiến, gặp thầy tà ham thích y bát. Đối với các bậc Hòa thượng, A-xà-lê, tâm không cung kính, cũng chẳng thích gần gũi. Về các giờ giấc tu tập vào lúc đầu hôm, nửa đêm hoặc gần sáng, tâm thường sinh biếng nhác. Thường nói lời hai lưỡi khó tin, ưa thích nói dối, ác khẩu, tham ganh, gần gũi những người tà kiến, học theo tà kiến, rồi thì thường tu tà quán không thích học giới. Tâm không biết xấu hổ, không biết sợ sệt, gần gũi hạng ngu si, thích làm theo ngoại đạo, không tin ba cửa giải thoát là Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô sinh vô diệt. Đối với tất cả pháp không sinh tín tâm...  
	Này A-nan! Những người như thế khó có thể tỏ ngộ.  
	Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn vẫn im lặng.  
	Tôn giả A-nan nương năng lực thần thông của Phật, hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:  
	–Vì sao Đức Như Lai im lặng như thế?  
	Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:  
	–Vào thời kỳ mạt pháp, ở những đời vị lai có nhiều chúng sinh tâm địa như vậy, họ không tin chánh pháp, cũng không thể hiểu rõ chánh pháp. Do vậy mà Đức Thế Tôn im lặng.  
	Tôn giả A-nan nói:  
	–Lại có chúng sinh tin tưởng chánh pháp không?  
	Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:  
	–Cũng có chúng sinh ít có lòng tin. Này A-nan! Ít người biết được chánh pháp là quý giá, còn phần đông thì không biết. Này A-nan! Ít có chúng sinh có khả năng tin hiểu. Nói pháp như thế khắp các thành ấp xóm làng, có nhiều chúng sinh đều lìa bỏ chẳng tin. Vì sao? Vì những chúng sinh đó do nhân duyên đời trước vốn gây ra tội chướng bài báng đạo pháp.  
	A-nan nói:  
	–Kính mong Bồ-tát vì những chúng sinh đó khiến cho họ được tin hiểu chánh pháp.  
	Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:  
	–Tôn giả nên hỏi Đức Phật, Đức Phật sẽ vì Tôn giả mà phân biệt giải thích.  
	Khi ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn giải thích cho con hiểu, các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai tuy sự hiểu biết và tin tưởng còn ít, nhưng nếu được nghe Phật giảng dạy sẽ rất vui mừng.  
	Lúc này, Đức Thế Tôn liền nhìn khắp bốn phía rồi hiện tướng lưỡi dài che phủ cả tam thiên đại thiên thế giới. Từ lưỡi ấy phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu khắp các thế giới Phật nhiều như số cát sông Hằng. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc và hai phương trên, dưới đều như thế, mỗi phương đều có thế giới Phật nhiều như số cát sông Hằng.  
	Lúc ấy, bốn chúng nhờ năng lực thần thông của Phật nên cũng trông thấy các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng ở phương Đông, đồng nói pháp này. Cũng đều xa nghe không thêm không bớt. Như vậy lần lượt các thế giới trong mười phương cũng lại như thế, đại chúng đều trông thấy và được nghe các Đức Phật ở các cõi đó nói pháp giống như ở phương Đông. Được thấy và nghe xong, đại chúng đều nhất tâm khuyến thỉnh Đức Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Kính mong Thế Tôn rủ lòng Từ bi thương xót, phân biệt giảng nói lại cho chúng con hiểu. Chúng con nhờ thần lực Phật được thấy vô lượng, vô biên không thể tính kể các Đức Phật giảng nói chánh pháp. Chánh pháp ấy không thêm không bớt, không thể nghĩ bàn. Kính mong Thế Tôn hãy giảng nói về pháp ấy!  
	Lúc này, Đức Thế Tôn liền thu lưỡi về rồi bảo Tôn giả A-nan:  
	–Lẽ nào có những kẻ nói dối mà có thể có được tướng lưỡi như vậy chăng?  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Bạch Thế Tôn, không! Nếu có người nói lời chân thật, mềm mỏng, có nhiều sự hiểu biết, lời nói khéo điều hòa, nhu thuận, làm lợi ích, Từ, Bi, Hỷ, Xả như vậy…, cho đến bậc Nhất thiết trí mới có được tướng lưỡi như vậy. Cúi mong Đức Thế Tôn, vì các vị nam, nữ trong dòng họ của Đức Như Lai có ít lòng tin mà phân biệt giải thích, cũng vì thương xót đối với những ai chưa hiểu mà giảng nói, sẽ khiến cho hạng người ấy sinh tâm hối hận.  
	Bấy giờ, Phật bảo A-nan:  
	–Bốn chúng đã nhóm họp, ngồi ngay ngắn cùng với tám bộ là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân... các vị đến ngồi nghe pháp, tâm đều không thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị sẽ ở nơi cõi này mà giảng nói chánh pháp, không thêm không bớt, giống như pháp ta hiện đang nói.  
	Bấy giờ, bốn chúng và Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Atu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân... đều sinh tâm vui mừng nên cùng nhau cởi những tấm y quý giá trên người mình dâng lên Đức Phật. Có người tung rải hoa, có người tung rải tràng hoa, có người dùng các thứ chuỗi vàng, bạc, lưu ly, pha lê, mã não, có người dùng các thứ chuỗi Tỳ-lô chiên-đàn, có người dùng các loại hoa như Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Mạnthù-sa, Ma-ha mạn-thù-sa, có người dùng các thứ hoa do mình làm ra, tất cả đều tung rải lên chỗ Phật. Có người dùng các thứ hoa Ưubát-la cõi trời, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lợi... để tung rải lên chỗ Đức Phật. Trong hư không, nhạc trời tự nhiên hòa tấu vang lừng. Các vị Long vương thì tung rưới ngọc quý. Các phụ nữ thì dùng những xâu chuỗi ngọc cùng các thứ y phục quý giá dâng lên cúng dường Phật. Xong, tất cả các tín nữ ấy đều sửa lại y phục ngay ngắn, quỳ gối bên phải chạm sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cùng nhau bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai không hai.  
	Lúc bấy giờ Phật bảo A-nan:  
	–Đúng thế, đúng như lời họ vừa nói! Đức Như Lai không hai, đã dứt sạch ngu si. Như Lai, Thế Tôn không hề có tiếc lẫn, không còn mảy may lỗi lầm, vì đã lìa mọi tội lỗi, lìa bỏ mọi thứ dục lạc và tất cả phiền não, được thanh tịnh không cấu nhiễm. Mọi thứ kiêu mạn tham lam, ganh ghét đều trừ sạch không còn đầy đủ trí tuệ, giác ngộ chánh pháp, đạt đến bờ giải thoát. Như bậc Đại phạm được tự tại hoàn toàn oai nghi đầy đủ, các hạnh rốt ráo, được bốn thứ đầy đủ, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, không còn chấp đắm vào các pháp hữu vi, vô vi, không nhiễm sinh tử, theo Phật, Thế Tôn được giải thoát chân chánh, được đầy đủ tri thức, không hề thiếu sót hay mất mát, đầy đủ sự gần gũi.  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Thế nào gọi là Như Lai được đầy đủ tri thức không thiếu sót, mất mát? Thế nào gọi là đầy đủ nghe Phật, đầy đủ thấy Phật, đầy đủ gần gũi?  
	Phật bảo A-nan:  
	–Ông không rõ ư?  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Con thật sự không rõ.  
	Phật dạy:  
	–Bây giờ ông hãy lắng nghe, ta sẽ giải thích cho ông hiểu.  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn giải thích cho con hiểu.  
	Đức Phật dạy:  
	–Này A-nan! Giờ đây ông nghe ta là Phật Thích-ca Mâu-ni, đã nghe, sẽ nghe như vậy… thì đều được không thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì tất cả pháp thân nếu được giảng nói thì người thấy nghe đều được lợi ích.  
	Này A-nan! Nếu cúng dường Như Lai một cành hoa và sau khi ta nhập Niết-bàn, vì xá-lợi Phật mà xây tháp cúng dường thì cũng được không thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Cho đến loài súc sinh, nếu được nghe danh hiệu Phật, thì cũng được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ư?  
	Đức Phật dạy:  
	–Này A-nan! Nếu có người chỉ được nghe âm thanh Phật Thích-ca Mâu-ni rồi xưng niệm danh hiệu ấy thì đều là hạt giống của Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nếu các thiện nam, thiện nữ được nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni thì cũng đạt được những điều như đã nói, hoàn toàn là chân thật không hư dối.  
	Này A-nan! Ví như cây Ni-câu-đà, tàng cây tỏa rộng có thể che phủ cho một, hai, ba, bốn người, cho tới năm mươi, một trăm, một ngàn hoặc nhiều hơn nữa đi đến dừng nghỉ? Dưới bóng cây ấy, vậy thì theo ý ông, cây Ni-câu-đà con ấy lúc mới đem trồng là lớn hay nhỏ?  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Bạch Thế Tôn, rất nhỏ!  
	Phật bảo A-nan:  
	–Cây Ni-câu-đà ấy nhờ mưa, nước, phân bón, đất đai, sức người cùng các trợ duyên khác qua năm tháng dần dần cao lớn.  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Đúng vậy, bạch Thế Tôn!  
	Phật bảo A-nan:  
	–Cây Ni-câu-đà vốn rất nhỏ, nhờ đất, nước, thời gian cùng bao nhân duyên khác dần dà cao lớn. Như thế, này A-nan! Cũng như vậy, người được nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni thì hạt giống căn lành đó không bao giờ bị mất đi, không còn thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng giống như thế. Vì sao? Vì hạt giống vô tướng không trụ ở tất cả nơi, cho nên không bị hư thối. Do không bị hư thối nên hạt giống ấy cũng không thể bị hủy hoại, cũng không giữ được hình tướng của nó. Cho nên đối với tất cả pháp đều không bị mất đi.  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Bạch Thế Tôn! Đó là năng lực bản nguyện của Đức Như Lai hay là tất cả pháp của các Đức Phật cũng đều như thế?  
	Phật liền đáp:  
	–Do năng lực bản nguyện. Nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu ta thì đều không bị thoái chuyển trên đường tiếng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Pháp của tất cả các Đức Phật cũng đều như vậy. Vì sao? Vì pháp của tất cả Phật đều bình đẳng.  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Pháp của tất cả Phật bình đẳng có lợi ích gì?  
	Đức Phật dạy:  
	–Đó là có thể khiến cho chúng sinh tuy không nghe chánh pháp nhưng nhờ năng lực phát nguyện nên cũng khiến được cùng nghe pháp và đạt được lợi ích.  
	Bấy giờ, A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Như Lai thành tựu pháp chưa từng có, có khả năng đem lại lợi ích lớn lao cho các vị Đại Bồ-tát không?  
	Phật dạy:  
	–Đúng thế, này A-nan! Nay ta làm lợi ích lớn lao cho chúng sinh. Nếu người nào nghe pháp thì đều được sống trong ruộng phước lợi ích. Trong thời quá khứ ta đã cúng dường các Đức Phật, không hề tiếc rẻ thân mạng, tất cả đều xả bỏ, lìa mọi tham lam ganh ghét, siêng tu tinh tấn, các căn thanh tịnh, đối với tất cả các pháp không chấp không đắm, không hề nương tựa. Cho nên, này A-nan! Ta đã đạt được giác ngộ, có khả năng đem lại lợi ích lớn lao cho tất cả chúng sinh.  
	Phẩm 6: HÀNG PHỤC CÁC MA  
	Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Thế Tôn giảng nói Pháp luân không thoái chuyển này làm cho ác ma không thể đến quấy nhiễu phá phách, vì sao vậy?  
	Đức Phật nói:  
	–Đó là do năng lực thần thông của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi khiến cho Ma vương Ba-tuần không thể nghe được.  
	Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền phát lời thệ chân thật, khiến cho ác ma nghe được âm thanh trong hư không Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang chuyển Pháp luân không thoái chuyển.  
	Bấy giờ, ma vương Ba-tuần cảm thấy rợn người, tâm sinh kinh hãi, liền nói:  
	–Thấy thế giới này đều chẳng còn là thế giới.  
	Thế rồi buồn bã khóc lóc biến thành một lão già, như người trăm tuổi, tóc bạc, mặt nhăn nheo, thân thể tiều tụy lụ khụ. Lúc này, Ma vương liền nhóm họp bốn thứ ma binh và các thứ ma ở cõi trời, đều đến chỗ Đức Phật, cũng như khi Đức Như Lai mới thành đạo, chúng sửa soạn các thứ binh khí hăm hở kéo đi, nhưng mỗi người thấy thân mình đều là những người già suy, như người trăm tuổi thân thể lom khom. Chúng cầm khí trượng đi đến trước Phật.  
	Bấy giờ, bốn thứ binh và các vị trời trong hư không đều nghe Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chuyển Pháp luân không thoái chuyển, khiến chúng không thể tiến tới được, liền đứng qua một bên, lòng kinh hãi nghi ngờ, thảy đều không còn theo sự sai khiến của Ma vương nữa.  
	Khi ấy, Ma vương một mình, đi đến chỗ Phật, không còn bè bạn, bạch Đức Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Hiện giờ tôi đã già suy quá đỗi, mong được Thế Tôn thương xót giúp cho kẻ tay chân. Những cõi nước trước kia vốn là của tôi thì nay đều chẳng còn là của tôi. Như Lai là Đấng Đại Bi luôn thương xót tất cả chúng sinh, lẽ nào không giúp cho tôi một người để làm tay chân hay sao?  
	Đức Phật bảo Ma vương Ba-tuần:  
	–Ta xem chúng sinh trong các cõi rất nhiều, ví như cát sông Hằng không thể lường tính được. Giá như ngày ngày đều có các Đức Phật xuất hiện và độ vô số chúng sinh đạt đến giải thoát thì dù trải qua một kiếp hay hơn một kiếp cũng không thể khiến cho số lượng chúng sinh ấy giảm bớt.  
	Ma vương bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh các loài tuy nhiều vô lượng, nhưng tôi hiện không có được một người để có kẻ hầu hạ giúp đỡ, nếu có bị vấp té thì lấy ai giúp đỡ? Nên kính mong Đức Như Lai từ bi thương xót an ủi vỗ về khiến tôi được vui vẻ trở về cõi trời cùng các quyến thuộc.  
	Đức Phật bảo:  
	–Chúng sinh điên đảo chẳng tin chánh pháp đều là quyến thuộc của ngươi, đó chính là tay chân của ngươi, là bạn bè của ngươi!  
	Ma vương Ba-tuần nghe nói như vậy rất vui mừng, nói:  
	–Bây giờ tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh không phát khởi lòng tin mà lại luôn sinh nghi ngờ. Đã rơi vào nghi ngờ thì đều là vây cánh của tôi cả.  
	Nghĩ vậy, Ma vương liền bạch Phật:  
	–Kính mong Thế Tôn an ủi, chỉ dạy một lần nữa khiến tôi được vui mừng. Như Phật đã dạy là: Nếu như có chúng sinh nào được nghe và xưng niệm danh hiệu Phật thì đều được không lui sụt trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vây kính mong Như Lai nên yên lặng đừng nói về Pháp không thoái chuyển ấy. Nếu có chúng sinh nào được nghe danh hiệu Phật thì các chúng sinh đó sẽ siêng năng tinh tấn tu đạo Bồ-đề. Kính mong Thế Tôn an ủi, chỉ dạy như thế!  
	Bấy giờ, Đức Phật bảo ma vương Ba-tuần:  
	–Ngươi chớ nên buồn khổ, nên vui mừng mà trở về cõi trời. Nay ta sẽ khiến cho không một chúng sinh nào phát tâm Bồ-đề. cũng khiến cho không một chúng sinh nào nhận thức hiểu biết về thế giới chúng sinh, cho đến không một chúng sinh về năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhận thức hiểu biết về thân kiến, nghi, giới, thủ... Cũng không có chúng sinh nào có ý tưởng nhận thức về quá khứ, hiện tại, vị lai. Cũng không một chúng sinh nào đối với các tội như sát sinh, trộm cắp, dâm dật, nói dối, nói lời hai lưỡi, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt, tham dục, giận tức, tà kiến mà nhận thức tìm hiểu để trừ bỏ. Cho đến không thấy chúng sinh nào đối với các thứ tà vạy sai lầm mà có thể nhận thức để xa lánh. Ta cũng không thấy chúng sinh tu tập sáu pháp là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ. Không thấy chúng sinh sẽ dứt hết mọi ý tưởng về chúng sinh, thọ mạng, cha mẹ, anh em, vợ con, nam nữ, ngày đêm, một tháng, nửa tháng, vài năm, một kiếp... Các ý tưởng về Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, về lực Vô úy, năm Căn, bảy Giác ý, tám Chánh đạo, các ý tưởng về Phật, Pháp, Tăng, về Bồ-đề, vô ngại, tất cả các pháp bất động. Nói chung là không có một chúng sinh nào đối với các ý tưởng ấy mà có thể nhận thức tìm hiểu để học hỏi tu tập.  
	Này ma vương Ba-tuần! Ngươi chớ sinh lo buồn, hãy vui mừng mà trở về.  
	Lúc này, ma vương Ba-tuần nghe Phật nói thế tức thì không còn lo buồn, lòng đầy vui mừng, ngay lúc ấy liền trở lại thành một chàng trai, liền tung rải hoa trời lên chỗ Phật, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, lại đến trước Phật nói kệ:  
	Giờ tâm tôi vui mừng  
	Bậc Chánh Giác cứu đời  
	Lời Phật nói không khác  
	Chân thật chẳng luống dối.  
	Ma vương Ba-tuần nói bài kệ ấy xong, vui mừng ra đi, trở về cung trời, vui chơi năm thứ dục lạc, không còn dấy khởi tâm quấy phá, nhiễu loạn nữa.  
	Ma vương vừa đi không bao lâu, tức thì mặt đất rung chuyển sáu cách. A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Nay vì sao mặt đất này rung chuyển sáu cách như vậy. Đâu phải là năng lực của ma?  
	Đức Phật nói:  
	–Đó là do năng lực thần thông của ta đã đuổi trừ được ma khiến cho mặt đất này rung chuyển sáu cách như thế. Lúc này, có đến sáu mươi bốn trăm ngàn chúng sinh được pháp Nhẫn vô sinh, do đó mà mặt đất rung chuyển đủ sáu cách như thế.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Có chúng sinh nào khởi tâm nghi ngờ không?  
	Phật bảo:  
	–Có tới mười ức người sinh tâm nghi ngờ, họ cho rằng, hôm nay chúng ta ở đây không có nghe lầm chăng? Thế rồi tâm ý đều rối loạn mê mờ, không còn biết bốn phương, không biết mình từ đâu đến... đó là do si mê, tăm tối nên không thấy nhau.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Cúi mong Thế Tôn hãy mau thương xót, giúp cho các chúng sinh ấy tâm ý được trở lại sáng suốt thông tỏ, lìa bỏ mọi nghi hoặc.  
	Đức Phật dạy:  
	–Pháp tướng giả danh do Như Lai nói. Nếu không biết được thì đều đọa vào địa ngục.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai khiến cho Ma vương tâm hết lo buồn, vui mừng mà ra đi. Như Lai lại nói là không có một ai an trụ nơi đạo Bồ-đề, cũng không có một chúng sinh nào có thể nhận thức hiểu biết về thế giới chúng sinh, đối với năm ấm, về thân kiến, về sáu mươi hai thứ kiến chấp thường đoạn hữu vô, về quá khứ, hiện tại, vị lai các thứ tướng, cũng không có một chúng sinh nào đối với tội lỗi như sát sinh, trộm cắp, dâm dật, nói dối, nói lời ác độc, nói lời hai chiều, nói lời thêu dệt, tham lam, sân hận, si mê, tà kiến... mà biết nhận thức tìm hiểu để dứt trừ. Vì sao Như Lai lại an ủi chỉ dẫn ma vương Ba-tuần như thế mà cho rằng: không có chúng sinh tu tập hạnh Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Cũng không có chúng sinh có ý tưởng về thọ mạng, về cha mẹ, vợ con, anh em, nam nữ, ngày đêm, một tháng, nửa tháng, nhiều năm, thời tiết, nhiều kiếp... Vì sao Như Lai nói như thế là an ủi Ma vương Ba-tuần khiến chúng hết lo buồn, vui mừng mà ra đi. Lại cũng không có chúng sinh nào nhận thức để tìm hiểu, tu tập về tâm Bồ-đề, về các Căn, Lực, Vô úy, Giác ý, Đạo, Phật, Pháp, Tăng...  
	Kính mong Thế Tôn vì chúng đệ tử hiện có nơi chúng hội này mà nêu rõ soi sáng, khiến cho tất cả chúng sinh ở đời vị lai cũng được hưởng công ân soi sáng chỉ dạy ấy. Đã được thông tỏ thì đối với pháp này sẽ được lần lượt tiếp nối, phát huy không để cho bị gián đoạn, mai một. Nếu có chúng sinh nào phát tâm quyết chí tin tưởng lãnh hội thọ trì pháp này thì sẽ vì người ấy mà nói rõ nguyên do vì sao Như Lai nói như thế.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền vì vô số trăm ngàn chúng sinh nhằm dứt trừ mối nghi ngờ cho họ, nên nói lại bài kệ:  
	Bồ-đề không chỗ trụ  
	Cũng không người an trụ  
	Do bởi nhân duyên đó  
	Nói Bồ-đề vô trụ.  
	Bồ-đề và chúng sinh  
	Chẳng một, cũng chẳng khác  
	Do bởi nhân duyên đó  
	Nói Bồ-đề vô trụ.  
	Chúng sinh vốn chẳng động  
	Cõi ấy cũng như thế  
	Pháp ấy không thành tựu  
	Rốt ráo không thật có,  
	Thể tướng chúng sinh không  
	Cõi ấy khó nghĩ bàn  
	Không người có thể hiểu  
	Trí tuệ nhận thức khắp.  
	Chỉ Nhất thiết trí hiểu  
	Như các ấm đã nói  
	Chúng sinh không tướng động  
	Ấm tức là chúng sinh  
	Tướng không hai, không trụ,  
	Thể của ấm là không  
	Tánh, tướng là bất động  
	Nếu không tướng giữ được  
	Thì làm sao có động?  
	Cho nên biết các ấm  
	Cũng không có tướng động  
	Dứt bặt mọi lời nói  
	Vô tướng cũng vô thể.  
	Thân chính là tướng ấm  
	Ấm chính là hành xứ  
	Không hành xứ mà hành,  
	Nói ấm gọi là không.  
	Cõi không như đã nói  
	Chẳng sinh cũng chẳng khởi  
	Như thế đồng với ấm  
	Gọi là chẳng thể động.  
	Thân thấy tướng vô thế  
	Cũng không pháp thật có  
	Không thật, nên vô động   
	Nay ta nói như thế.  
	Chẳng chấp tướng chúng sinh  
	Rốt ráo không chỗ trụ  
	Cũng không có tướng tâm  
	Thân, chỗ, không thật có.  
	Như nói các kiến chấp  
	Hiển bày sáu mươi hai  
	Các chúng sinh như thế  
	Cũng như bóng đáy nước.  
	Kiến chấp bóng đáy nước  
	Sáu hai cũng như thế  
	Vô ngã, không thật có  
	Tánh ấy chẳng thể động.  
	Quá khứ và vị lai  
	Hiện tại cũng như thế  
	Vô tướng, không thật có  
	Đều như lửa, bóng nước  
	Đó gọi là vô ngã  
	Không có tướng chúng sinh  
	Chúng sinh chẳng thể động  
	Cũng không có người động  
	Ví như kẻ sát sinh  
	Ở đồng rộng sinh tử  
	Cũng trụ nơi vắng lặng  
	Đó gọi là bất động.  
	Nếu khiến chúng sinh động  
	Chúng sinh không thật có  
	Thật chẳng có chúng sinh  
	Cho nên nói bất động.  
	Bồ-đề không đứt đoạn  
	Cũng không có người độ  
	Cho nên phải siêng tu  
	Không được đối người động  
	Pháp thí chẳng nghĩ bàn  
	Độ chúng sinh quá khứ  
	Phải nên siêng tu tập  
	Đó gọi không thể động.  
	Độ thoát mọi tà dục  
	Cũng không dấy tưởng tà  
	Phải nên siêng tu tập  
	Đó gọi không thể động.  
	Các chúng sinh nói dối  
	Vì khiến được giải thoát  
	Sẽ phát tâm tinh tấn  
	Như tướng chẳng động kia.  
	Ác khẩu và hai lưỡi  
	Thêu dệt cũng như thế  
	Tướng bình đẳng như vậy  
	Như ánh lửa không thật.  
	Các pháp đều như thế  
	Cũng không chỗ nương dựa  
	Như âm vang tiếng gọi  
	Khéo biết tướng vắng lặng  
	Các vô minh quá khứ  
	Đắm ngã nên sinh ái  
	Nếu chứng được vô ngã  
	Đó gọi là bất động.  
	Nếu rõ phiền não hại  
	Thể tánh vốn vô tướng  
	Vô tướng tức Bồ-đề  
	Đó gọi là bất động.  
	Hiểu rõ các tà kiến  
	Trí chân chánh tu đạt  
	Tu hành các chánh trí  
	Lìa rừng rậm tà kiến  
	Đó gọi là bất động.  
	Nếu tâm không còn dục  
	Hiện nhận bảo nữ dâng  
	Cho đến các đồng nữ  
	Kẻ trí thường xa lìa.  
	Dùng tướng tà giữ giới  
	Nhưng không bỏ chánh pháp  
	Người trí không tâm ý  
	Chỉ mong cầu đạo Thánh.  
	Đó là tu pháp nhẫn  
	Hiển bày các ngoại đạo  
	Vô tâm mà hành nhẫn  
	Cũng không gần Niết-bàn.  
	Ngoại đạo tự bày khác  
	Năm nhiệt là tinh tấn  
	Chẳng phải điều trí tu  
	Khổ hạnh chẳng Bồ-đề  
	Định mà ngoại đạo nói  
	Chấp tướng làm chỗ hành  
	Không được Phật khen ngợi  
	Không khiến kẻ khác học.  
	Bồ-đề không sợ hãi  
	Che chở các chúng sinh  
	Do nhân duyên ấy nói  
	Chấp tướng không hề động.  
	Chẳng thuộc loại chấp đắm  
	Sinh ra tâm Bồ-đề  
	Bồ-đề không chấp tướng  
	Do đó chẳng thể động.  
	Cha mẹ anh em thảy  
	Chị em và vợ con  
	Ví như vật huyễn hóa  
	Do đó chẳng thể động.  
	Tất cả chấp pháp tướng.  
	Thảy đều không thật có  
	Nếu trụ không thật có  
	Do đó chẳng thể động.  
	Nếu có tưởng ngày đêm  
	Một tháng và nửa tháng  
	Tất cả tưởng như thế  
	Như lửa, bóng đáy nước  
	Bố thí và Trì giới  
	Tu Nhẫn nhục, Tinh tấn  
	Đều khởi lên chấp đắm  
	Tưởng ấy gọi là động.  
	Bồ-đề thế lực mạnh  
	Tu Thiền định, Trí tuệ  
	Nếu có tưởng Vô úy  
	Tất cả tưởng chẳng tưởng  
	Giác ý và chánh đạo  
	Vốn có tưởng Bồ-đề  
	Ngu si sinh khởi lên  
	Người hiểu biết xa lìa  
	Phật và tưởng các pháp  
	Cho đến có tưởng tăng  
	Các thứ tưởng như thế  
	Đều gọi là tưởng động.  
	Bồ-đề là vô tưởng  
	Chủng trí tức Bồ-đề  
	Xa lìa tưởng như vậy  
	Bồ-đề khó nghĩ bàn.  
	Cho nên nói như thế  
	Kẻ cầu như bóng nước  
	Nếu động tưởng ấy rồi  
	Thì chẳng xa Bồ-đề  
	Bồ-đề và chúng sinh  
	Tất cả pháp như như  
	Nên ta nói như thế  
	Không biết tâm ma ác.  
	Đức Phật lần lượt nói kệ đuổi trừ bọn ma xong, thì có mười ức chúng sinh dứt bỏ nghi ngờ, đạt được sự thông tỏ đối với các pháp, được pháp Nhẫn vô sinh, thế rồi tất cả các vị ấy đều đến trước Phật nói kệ:  
	Phật đạo khó nghĩ bàn  
	Là Tối thắng bậc nhất  
	Nên hiệu là Thế Tôn  
	Dứt nghi, được an định.  
	Tất cả đều sáng tỏ  
	An trụ trong Phật đạo  
	Ánh sáng khắp mười phương  
	Thấy vô số ức Phật.  
	Thấy Phật, được nghe pháp  
	Tướng tốt, thân trang nghiêm  
	Trừ nhơ, được trí tịnh  
	Bậc Năng Độ cứu đời  
	Trong trăm ngàn ruộng phước  
	Ruộng phước Phật tốt nhất  
	Tùy nơi Phật an trụ  
	Bậc Cứu đời Vô thượng.  
	Lúc ấy, có mười ức chúng sinh nghe kệ ấy, rồi đều dâng y phục quý giá lên cúng dường Đức Phật và cúng dường Pháp, đều nói:  
	–Xin khiến cho tất cả chúng sinh đều được nghe pháp này, đều cùng đến nhóm họp.  
	Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã chuyển Pháp luân đuổi ma, các vị nam nữ trong dòng họ của Đức Như Lai đã được nghe, đều được giải thoát, tin nhận không nghi ngờ, thế thì được bao nhiêu phước đức?  
	Đức Phật dạy:  
	–Này Tôn giả A-nan! Nếu như có các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai vào lúc mặt trời mới mọc gần gũi cúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi một trăm vị Phật, vào giữa trưa gần gũi cúng dường một trăm vị Phật, cho đến buổi chiều cúng dường một trăm vị Phật, vào lúc đầu hôm cúng dường một trăm vị Phật, lúc nửa đêm cúng dường một trăm vị Phật, lúc gần sáng cúng dường một trăm vị Phật, dùng các thứ nhạc cụ hay, y phục quý giá cúng dường Phật trong hai vạn năm, sáu thời trong một ngày tôn trọng khen ngợi, đi đứng ngồi nằm tu hành cúng dường, vẫn như lúc đầu không hề tạm nghỉ.  
	Này A-nan! Vậy ý của ông nghĩ sao? Phước đức ấy có nhiều hay không?  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Bạch Thế Tôn! Phước đức ấy rất nhiều, không thể dùng thí dụ mà biết được số lượng.  
	Đức Phật nói:  
	–Này A-nan! Nếu các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai, được nghe về đoạn kinh đuổi trừ ma này, lần lượt nghe về ý nghĩa của nó, lại tin hiểu không sinh nghi ngờ thì công đức của những người ấy còn hơn trường hợp cúng dường kể trên rất nhiều.  
	KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN 
	QUYỂN 1    QUYỂN 2    QUYỂN 3    QUYỂN 4 
	KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN 
	Hán dịch: Không rõ tên người dịch, Đại sư Tăng Hựu đời Lương sao lục. 
	Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh 
	QUYỂN 4 
	Phẩm 7: THỌ KÝ  
	Phật bảo:  
	–Này các thiện nam! Lại có ba vị Đại Bồ-tát từ phương Đông đến an trụ trong đạo Đại thừa, cầm đóa hoa Mạn-đà-la có trăm ngàn muôn cánh tỏa sáng như mặt trời vừa mới mọc.  
	Tôn giả A-nan cùng tất cả các vị trong chúng hội đều trông thấy và cho là đều chưa từng có. Lúc này, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:  
	–Bạch Phật Thế Tôn! Ba vị trong dòng họ của Đức Như Lai từ chốn nào đến?  
	Đức Phật đáp:  
	–Về phương Đông, trải qua hằng hà sa số thế giới, có thế giới tên là Tu-di liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vân Thượng Công Đức Như Lai, hiện đang trụ thế. Trong đó, ba vị thiện nam, vừa mới nghe pháp, từ cõi ấy đến đây. Bấy giờ, ba vị Bồ-tát đứng trước Đức Thế Tôn, tung rải hoa Mạn-đà-la lên chỗ Phật để cúng dường, sau đó cùng bạch Phật:  
	–Chúng con đối với pháp này rất sinh tâm tin tưởng, lãnh hội sâu xa, không có nghi ngờ. Vì sao? Vì Đức Như Lai Thế Tôn đã nhờ pháp này mà không còn nghi ngại, cho nên hôm nay chúng con cũng không còn sự nghi ngại.  
	Lúc này, vị Bồ-tát thứ nhất trong ba vị Bồ-tát bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Nếu có người gọi Thế Tôn là Như Lai thì con chính là Như Lai. Vì đối với pháp này đều không còn nghi ngờ.  
	Vị Bồ-tát thứ hai lại bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Nếu có người xưng gọi Thế Tôn là Thế Tôn, thì con chính là Thế Tôn, cũng đối với pháp này đều không còn nghi ngờ.  
	Vị Bồ-tát thứ ba bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Nếu có người xưng gọi Thế Tôn là A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà thì con cũng là A-la-ha Tam-miệu Tamphật-đà, vì cũng đối với pháp này không còn nghi ngờ.  
	Bấy giờ, trong đại chúng có vô lượng trăm ngàn ức người, tất cả đều kinh ngạc, tâm chẳng vui thích, cùng bàn tán với nhau: Chúng ta từ trước đến nay chưa hề nghe nói ở một thế giới mà có tới hai vị Phật. Vì sao hôm nay ba vị Đại sĩ ấy mỗi vị đều tự xưng là Phật, đều ở trước Thế Tôn mà nói như thế? Chỉ có Phật, Như Lai là Bậc Tôn quý trong trời, Người đối với tất cả các pháp đều được tự tại, thông suốt ba đời không chút trở ngại. Do đâu mà ba vị Bồ-tát hôm nay đều nói như vậy?  
	Lúc này, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Ba vị Bồ-tát ấy tên là gì mà có thể ở trước Phật vừa bày tỏ những lời như tiếng rống của Sư tử?  
	Đức Phật đáp:  
	–Ba vị Bồ-tát đó, vị thứ nhất tên là Nhạo Dục Như Lai Thanh Chánh Trụ, vị thứ hai tên là Nhạo Dục Thế Tôn Thanh Chánh Trụ, vị thứ ba tên là Nhạo Dục Phật Thanh Chánh Trụ. Này A-nan! Do nhân duyên như thế nên ba vị Đại sĩ ấy mới nói những như vậy.  
	Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Như vậy là có đến hàng trăm ngàn muôn ức vị trong chúng hội, tâm đều kinh ngạc do nghe ba vị Bồ-tát ấy nói những lời vừa rồi. Lại có người nghe, tâm không kinh ngạc hay nghi ngờ mà lại tăng thêm sự thanh tịnh tốt đẹp. Ví như có người trẻ tuổi luôn trang sức dung mạo mình, hình thể tươi đẹp thanh tịnh, tinh khiết, lại tắm gội, dùng hương thơm, dầu thơm xoa thân, lại dùng nhựa hương chiên-đàn đỏ rảy lên người nữa. Như vậy là người trẻ tuổi ấy càng thêm thơm tho trong sạch bội phần. Cho nên, nếu người nghe được pháp này, tin tưởng thọ trì không nghi ngờ thì cũng ví như người ấy vậy.  
	Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Vì sao các vị Bồ-tát lại nói như thế?  
	Phật dạy:  
	–Ba vị Bồ-tát này đã khéo hiểu về giả danh, cho nên nói lời ấy.  
	Tôn giả A-nan nói:  
	–Đúng thế, đúng thế! Ba vị Bồ-tát đó đã khéo nói về giả danh. Cúi mong Thế Tôn giải thích lại cho con nghe, cũng khiến cho đại chúng tâm ý được thêm sáng tỏ.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền vì hàng trăm ngàn muôn ức chúng sinh, nhằm giúp họ cởi bỏ mối nghi ngờ hối hận, gieo trồng căn lành nên liền nói kệ:  
	Nếu thấy được quá khứ  
	Vị lai cũng như thế  
	Biết các pháp như thật  
	Đó gọi là Như Lai.  
	Hiện tại cũng như vậy  
	Quá khứ, vị lai đồng  
	Chẳng một, cũng chẳng khác  
	Tướng rốt ráo vắng lặng.  
	Thệ như Phật quá khứ  
	Hành thí chẳng nghĩ bàn  
	Thí ấy cũng như thế  
	Do vậy nói giả danh.  
	Ví như Phật quá khứ  
	Trụ Bồ-đề vô ngại  
	Trụ ấy cũng như thế  
	Đó gọi là Như Lai.  
	Tất cả pháp không trụ  
	Bồ-đề cũng vắng lặng  
	Không có tướng Bồ-đề  
	Đó gọi là Như Lai.  
	Nếu nói giới quá khứ  
	Vị lai cũng như vậy  
	Hiện tại đều đồng nhau  
	Đó gọi là Như Lai.  
	Đời quá khứ hành nhẫn  
	Bồ-tát chặt tay chân  
	Nhẫn ấy cũng như thế  
	Đó gọi là trụ nhẫn.  
	Nếu phát khởi tinh tấn  
	Vun trồng gốc giác ngộ  
	Được tinh tấn ấy rồi  
	Đó gọi là Như Lai.  
	Tất cả pháp bình đẳng  
	Được chứng như thật kia  
	Cũng chẳng chấp tướng ngã  
	Đó gọi là Như Lai.  
	Không chấp đối các pháp  
	Tất cả đều bình đẳng  
	Biết bình đẳng ấy rồi  
	Vô tướng, không thật có,  
	Các chánh định như vậy  
	Không chấp tướng các pháp  
	An trụ trong thiền định  
	Đó gọi là Như Lai.  
	Tánh, tướng tất cả pháp  
	Và các pháp đã nói  
	Biết tánh, tướng ấy rồi  
	Như thật, không thật có,  
	Phải biết các pháp không  
	Trí tuệ chẳng ruộng phước  
	Biết đó chẳng phải trí  
	Đạt đến trí giải thoát.  
	Như đến bờ giác kia  
	Trí tuệ không nghĩ bàn  
	Nhưng không được trí này  
	Đến bờ kia vắng lặng  
	Tướng như, trí chẳng đạt  
	Không có bờ này, kia  
	Trí chẳng đạt như vậy  
	Đó gọi là Như Lai.  
	Bồ-đề chẳng như được  
	Phàm ngu chẳng thể nghĩ  
	Tất cả pháp vô đắc  
	Đó gọi là Như Lai.  
	Nếu đạt được vô ngại  
	Mà tới chốn Đại trí  
	Tất cả pháp không lợi  
	Chứng giác ngộ vô ngại,  
	Như đạo vốn tu tập  
	Bậc Cứu đời tế độ  
	Được đạo không nương kia  
	Biết rõ được thể, tướng  
	Tu tập như vậy rồi  
	Đạt được đạo Tối thắng  
	Điều phục đạo này rồi  
	Biết tất cả đều không,  
	Biết rõ đầu, giữa, sau  
	Đều đồng với các pháp  
	Pháp ấy là bình đẳng  
	Nên gọi là Như Lai.  
	Nếu đạo như Bồ-đề  
	Đó gọi trụ Bồ-đề  
	Giống như tướng hư không  
	Đó gọi là Như Lai.  
	Nói pháp như thế rồi  
	Như tướng đều bình đẳng  
	Nếu việc ấy vô ngại  
	Đó là trụ Bồ-đề.  
	A-nan biết giả danh  
	Lời nói là Như Lai  
	Lời nói cũng như thế  
	Hành xứ của người trí,  
	Bồ-tát không sợ hãi  
	Trí sáng chẳng lui sụt  
	Tất cả các hành xứ  
	Thảy nêu rõ như vậy,  
	A-nan biết thứ lớp  
	Những điều Như Lai nói  
	Vì các vị Bồ-tát  
	Khiến đạt được vô ngại.  
	Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền nói kệ:  
	Vì bởi nhân duyên gì  
	Biết được tướng các pháp  
	Bồ-tát này vô ngại  
	Cũng gọi là Thế Tôn?  
	Đức Thế Tôn đáp:  
	Trong trăm ngàn muôn ức  
	Vô lượng vô số kiếp  
	Mới thành tựu Bồ-đề  
	Phật đạo khó nghĩ bàn  
	Thành tựu Bồ-đề rồi  
	Vì chúng sinh trụ thế  
	Chốn chốn thật không sinh  
	Đó gọi là Thế Tôn.  
	Đã vượt nẻo luân hồi  
	Chẳng còn bị sinh tử  
	Vì cứu độ chúng sinh  
	Đó gọi là Thế Tôn.  
	Không còn luân hồi nữa  
	Cũng không còn sinh tử  
	Làm sao nhổ gốc khổ  
	Hiệu thế Vô Thượng Tôn  
	Không nhớ nghĩ các pháp  
	Cũng không còn nguy khốn  
	Không có tướng chúng sinh  
	Vượt qua các khổ não,  
	Không trôi lăn sinh tử  
	Cũng không trụ sinh tử  
	Khiến chúng trụ như thị  
	Đó gọi là Thế Tôn.  
	Được các pháp không sợ  
	Đối Phật cũng như thế  
	Mênh mông không bờ mé  
	Nói pháp rất nhiều thứ.  
	Các pháp rốt ráo không  
	Thể tánh của Phật pháp  
	Thành tựu như thế rồi  
	Nhưng không thấy các pháp.  
	Nếu tinh chuyên tu hành  
	Thể tánh pháp là không  
	Tâm không còn sợ hãi  
	Đó là biết pháp không.  
	Biết các pháp như thật  
	Tất cả đều vọng tưởng  
	Hiển bày không sợ hãi  
	Pháp tướng thật như thế.  
	Đã vượt chốn sợ hãi  
	Cũng lìa nơi an ổn  
	Không sợ cũng không hãi  
	Vượt qua các đường ác.  
	Cứu giúp bao chúng sinh  
	Lìa nỗi sợ sinh tử  
	Chẳng còn bị sinh tử  
	Cứu độ được chúng sinh.  
	Đặt để chúng sinh trên  
	Bờ Niết-bàn vắng lặng  
	Cũng không tướng chúng sinh  
	Đó gọi là Thế Tôn.  
	Các pháp như hư không  
	Hiện rõ nơi muôn loài  
	Nơi ấy cũng không sợ  
	Đó gọi là Thế Tôn.  
	Tất cả pháp bình đẳng  
	Hiển hiện ra nhiều loại  
	Bồ-đề dứt phân biệt  
	Không có tướng Bồ-đề,  
	Chúng sinh tu như thế  
	Được thành tựu giác ngộ  
	Tu hành đúng lời dạy  
	Dứt các tưởng lo sợ,  
	Tưởng phân biệt Bồ-đề  
	Giống như tưởng chúng sinh  
	Vượt qua tất cả tưởng  
	Đó gọi là Thế Tôn.  
	Dứt bỏ tất cả tưởng  
	Bồ-tát thì không cấu  
	Không có tướng tên gọi  
	Đó gọi là Thế Tôn.  
	Biết rõ tất cả pháp  
	Đồng với lìa diệt hết  
	Quá khứ chẳng thật có  
	Đó gọi là Thế Tôn.  
	Vì chẳng trọng tên gọi  
	Nên gọi chẳng cầu danh  
	Người lìa chấp tên gọi  
	Nói pháp rộng họ nghe,  
	Bồ-đề lìa tên gọi  
	Như chỗ ở của kia  
	Chúng sinh trọng tên gọi  
	Nên xa lìa Bồ-đề.  
	Tên gọi như tiếng vang  
	Phân biệt thì nhiều loại  
	Tiếng cũng không phân biệt  
	Nương không có tên gọi,  
	Chẳng đắm tất cả tiếng  
	Tên cũng không chỗ nương  
	Bồ-đề không đùa bỡn  
	Đó gọi là Thế Tôn.  
	Các pháp như thế ấy  
	Do Thế Tôn giảng nói  
	Bồ-tát chẳng đạt được  
	Đó gọi là Thế Tôn.  
	Nếu hiểu việc tu đạo  
	Không, có người biết được  
	An trụ trong Bồ-đề  
	Dứt ngại, gọi vô lậu.  
	A-nan! Giả danh này  
	Chỉ dùng ngôn ngữ nói  
	Vì thế ta nay xưng  
	Danh hiệu là Thế Tôn.  
	Tôn giả A-nan lại nói kệ:  
	Vì bởi nhân duyên gì  
	Bồ-tát nói như thế  
	Lại vì nhân duyên gì  
	Được tôn xưng là Phật?  
	Đức Phật đáp:  
	A-nan đệ tử Phật  
	Tất cả pháp không ngại  
	Giác ngộ pháp vô ngại  
	Được tôn xưng là Phật.  
	Phật biết lỗi, phiền não  
	Làm cho không tự tại  
	Đã lìa các kết sử  
	Được tôn xưng là Phật.  
	Nhờ không được thành Phật  
	Cũng không có tướng thân  
	Trong đó không chân thật  
	Làm sao thân thật được?  
	Chẳng bền, tưởng bền chắc  
	Phàm phu chấp là thân  
	Giác ngộ như thật rồi  
	Được tôn xưng là Phật.  
	Biết ngu si không trí  
	Thể tánh không thật có  
	Trí tuệ sáng đạt được  
	Được tôn xưng là Phật.  
	Vốn tưởng có quá khứ  
	Giác rồi không còn tưởng  
	Biết tưởng và vô tưởng  
	Không để tưởng tự tại.  
	Hiểu rõ đối sắc ấm  
	Vốn tự trụ vô sinh  
	Phàm phu vọng phân biệt  
	Chẳng sắc, chẳng thành tựu.  
	Biết rõ không cội gốc  
	Xưa nay không có tánh  
	Vì thế không lãnh thọ  
	Tất cả pháp không nương.  
	Tưởng như lúc lửa bùng  
	Nhân duyên không thật có  
	Do đó dứt bỏ tưởng  
	Tất cả pháp cũng thế.  
	Không có thân hành này  
	Tướng thân không bền chắc  
	Nếu biết thân hành không  
	Thì sẽ không đắm thân  
	Thân này và tướng hành  
	Thảy đều như cây chuối  
	Biết chân thật như thế  
	Nên tôn xưng là Phật.  
	Cầu tướng chân thật thức  
	Chẳng nằm ở trong thân  
	Cũng lại chẳng ở ngoài  
	Làm sao có chỗ sinh?  
	Nếu thức ấy không sinh  
	Thì các pháp cũng vậy  
	Đều không có nơi chốn  
	Hữu vi không thật có.  
	Biết thức như thế rồi  
	Rốt ráo không thật có  
	Thể tánh giống như huyễn  
	Cũng không có kẻ sinh  
	Nếu chẳng thể thấy thức  
	Chúng sinh cũng như thế  
	Thật chẳng có chúng sinh  
	Làm sao biết được thức?  
	Thức này không có thật  
	Các pháp rốt ráo không  
	Pháp cùng với chúng sinh  
	Tất cả không thành tựu.  
	Tất cả pháp vô tướng  
	Đã tỏ rõ như vậy  
	Vắng lặng không đùa bỡn  
	Nên tôn xưng là Phật.  
	Chứng biết đối Phật pháp  
	Chỗ chánh giác an trụ  
	Tất cả pháp đều không  
	Nên tôn xưng là Phật.  
	Như Lai là giác ngộ  
	Chỗ Chánh Giác an trụ  
	Phật và tướng Bồ-đề  
	Rốt ráo không thật có  
	Nếu sinh khởi tâm xứ  
	Cũng như trụ Bồ-đề  
	Tâm đồng với Bồ-đề  
	Phật giống như huyễn hóa.  
	A-nan! Giả danh này  
	Chỉ dùng ngôn ngữ nói  
	Được xưng gọi là Phật  
	Ta là Đấng cứu đời.  
	Tương tợ sinh như vậy  
	Đồng Phật âm thanh nói  
	Nếu được Pháp âm này  
	An trụ trong Bồ-đề.  
	Không đắm mê Bồ-đề  
	Nên hiểu biết như vậy  
	Chẳng nên sinh tâm nghi  
	Tất cả pháp không cầu.  
	Đối các pháp dứt nghi  
	Trên hết trong chúng sinh  
	Pháp tương tự như vậy  
	Nên biết tướng chân thật.  
	Đức Phật đã nói về ba danh hiệu Như Lai, Thế Tôn, Phật như thế, bấy giờ có trăm ngàn ức chúng sinh bạch Phật:  
	–Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con thật sự nhờ ánh sáng của Phật soi sáng nên đã dứt bỏ được các nghi ngờ.  
	Các vị Đại Bồ-tát ấy đã nêu lên và Đức Thế Tôn đã nhân đó nói về các thứ giả danh, đã nói rõ về các danh hiệu Như Lai, Thế Tôn và Phật. Giờ đây chúng con đã biết như thế, đã hiểu như thế rồi, đối với tất cả các pháp đã được nhẫn lực. Đức Như Lai, Thế Tôn đã làm lợi ích lớn lao, giống như cha mẹ. Nhờ năng lực thần thông của Phật và tay trí tuệ của Phật đã kéo chúng con ra khỏi lầm lạc không còn bị nhiễu loạn nữa. Cũng như Đức Thế Tôn đối với tất cả đều bất động.  
	Bạch Thế Tôn! Ví như hư không, không ai có thể làm cho lay động. Cũng như vậy bạch Thế Tôn! Chúng con đối với tất cả các pháp tâm cũng bất động. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều đồng với hư không, như Phật đã giác ngộ không có tướng động.  
	Lúc này, trăm ngàn ức đại chúng đi nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi ngồi sang một bên cách chỗ Phật không xa.  
	Khi Phật nói phẩm Như Lai Thế Tôn Phật Danh này, Bồ-tát Thường Chiếu Tịnh Căn liền đứng dậy, sửa sang lại y phục bày vai áo bên phải, đầu gối phải quỳ sát đất, tung rải các thứ hoa lên chỗ Phật, đều nói kệ khen ngợi Phật:  
	Chúng sinh tham đắm quả  
	Đều khiến được giải thoát  
	Lìa tưởng quả trọn nên  
	Thành tự lìa tưởng quả  
	Nên con lễ Bậc Trí  
	Giảng nói các thứ quả  
	Khiến biết tướng bình đẳng  
	Chánh giác chứng bình đẳng  
	Quy mạng lễ Tối Thượng.  
	Chúng sinh thường tham đắm  
	Hành xứ các thứ quả  
	Vì Phật là giải thoát  
	Nên con lễ Bậc Trí  
	Hiển bày ra các pháp  
	An trụ chốn bình đẳng  
	Biết được bình đẳng rồi  
	Kính lễ Đấng Mâu-ni  
	Chúng sinh nhiều trói buộc  
	Rất nhiều các quả báo  
	Phật đều khiến giải thoát  
	Quy mạng lễ Vô Thượng  
	Thành tựu đạo vắng lặng  
	Không trụ các quả vị  
	Khéo biết tướng giả danh  
	Đảnh lễ Bậc Thế Trí.  
	Đại Bồ-tát Chiếu Minh Tịnh Căn nói kệ xong liền đi nhiễu quanh Phật ba vòng rồi đến cách chỗ Phật không xa để chiêm ngưỡng dung nhan, mắt không tạm rời.  
	Bấy giờ, Đại Bồ-tát Liên Hoa Thắng Tạng đứng dậy, sửa lại y phục bày vai bên phải, gối phải chấm đất, tung rải các thứ hoa cúng dường Phật. Lại khen ngợi Phật bằng bài kệ:  
	Chúng sinh thường chấp tưởng  
	Đều khiến dứt trừ hết  
	Lìa sợ, được vui mừng  
	Kính lễ Đấng Mâu-ni.  
	Vắng lặng lìa ba cõi  
	Không sợ mà nói pháp  
	Bậc mạnh mẽ trong đời  
	Kính lễ Đấng Mâu-ni.  
	Biết pháp vốn vắng lặng  
	Thế ấy không thật có  
	Nhiệm mầu trong các pháp  
	Kính lễ Đấng Mâu-ni.  
	Đã lìa hẳn ba cõi  
	Dứt bỏ các kết sử  
	Lìa sợ, được không sợ  
	Kính lễ Đấng Mâu-ni.  
	Không sợ cũng không hãi  
	Trên hết trong các thí  
	Vượt hơn tất cả thí  
	Kính lễ Đấng Mâu-ni.  
	Lìa sợ được không sợ  
	Nhổ sạch tên ưu độc  
	Nêu các pháp giải thoát?  
	Kính lễ Đấng Mâu-ni.  
	Đại Bồ-tát Liên Hoa Công Đức Tạng nói kệ khen ngợi Đức Phật như thế xong, liền bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào vào đời Mạt pháp được nghe kinh này, tâm không kinh sợ thì con sẽ đảnh lễ họ.  
	Bấy giờ, Bồ-tát Ly Cấu Ý ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:  
	Thường nên rải các hoa  
	Điều người trí tu hành  
	Được nghe kinh này rồi  
	Sẽ khiến được giải thoát.  
	Đại Bồ-tát Quảng Tư Duy ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:  
	Pháp Phật rất sâu rộng  
	Hiển nói kinh như thể  
	Sẽ có ít chúng sinh  
	Tin nhận chẳng nghi ngờ  
	Tham đắm đối ngã kiến  
	Chấp ý tưởng về thân  
	Không tin nhâïn kinh này  
	Đó là kẻ không trí.  
	Đại Bồ-tát Liên Hoa Nhãn ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:  
	Thật vì các chúng sinh  
	Mở bày mắt dẫn đường  
	Đối kinh pháp như thế  
	Chỉ người lành không nghi.  
	Đại Bồ-tát Bất Tư Nghị Giải Thoát ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:  
	Bậc tôn quý trong đời  
	Chúng sinh khó nghĩ bàn  
	Nói các kinh như vậy  
	Nghe dứt các nghi hối.  
	Đại Bồ-tát Thường Ức Niệm ở trước Đức Thế Tôn nói kệ:  
	Nếu người không nhớ nghĩ  
	Nhiều kiếp trong sinh tử  
	Không đắm mê các pháp  
	Tu hành thì không nghi.  
	Đại Bồ-tát Bảo Y Giải Thoát ở trước Đức Thế Tôn nói kệ:  
	Y phục nhiều cả ức  
	Sạch sẽ và mềm mại  
	Mới, dày, xin phủ kín  
	Tu hành thì dứt nghi.  
	Đại Bồ-tát Thí Thực ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:  
	Bày biện thức uống ăn  
	Đầy đủ các món ngon  
	Hằng ngày phải thường thí  
	Tu hành không có nghi.  
	Bồ-tát Bi Hành ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:  
	Vì thương các chúng sinh  
	Nên thường thường kêu khóc  
	Kinh này thật sâu mầu  
	Chán ác không tu học.  
	Nếu từ địa ngục đến  
	Ắt ưa ở địa ngục  
	Tuy dường tu công đức  
	Khoảnh khắc liền sinh nghi  
	Gần gũi các bạn xấu  
	Chẳng tin pháp sâu xa  
	Lưới ngu si tự che  
	Sinh nghi ngờ như vậy.  
	Có những kẻ phá giới  
	Tâm ác thấy tội ấy  
	Nghe kinh chẳng tin nhận  
	Phỉ báng các hành này  
	Biếng nhác, không tinh tấn  
	Chẳng trụ trong Bồ-đề  
	Vô trí, tâm thấp hèn  
	Không hiểu hạnh như thế.  
	Chúng sinh thường ưa đắm  
	Ta thấy tâm tự tại  
	Luôn quanh quẩn ba cõi  
	Không thể tu hành được  
	Ngu si khởi tâm ác  
	Vô trí, đắm các dục  
	Thích ở chốn ồn náo  
	Làm điều phỉ báng ấy.  
	Kẻ ngu si trí kém  
	Tham lam, thích ăn uống  
	Chẳng tu pháp thanh tịnh  
	Nên làm việc phỉ báng  
	Chúng sinh nhiều tham đắm  
	Thiên chấp, lấy vọng tưởng  
	Chẳng biết là giả danh  
	Chỉ cứu đời độ được.  
	Bấy giờ, Đại Bồ-tát Năng Viễn Ly Giải Thoát ở trước Đức Thế Tôn nói kệ:  
	Xa lìa các chúng sinh  
	Như bỏ vật nhơ uế  
	Hư giả như tiền bùn  
	Giải thoát đắm tướng quả.  
	Ví như thây chết hoại  
	Ác ấy rất đáng chán  
	Nếu bài báng hạnh ấy  
	Nên mau mau xa lìa.  
	Như giặc cướp xóm làng  
	Ở nơi đường trống trải  
	Người nghe đều tránh xa  
	Mong chẳng gặp ác ấy.  
	Nếu thấy kẻ hủy hoại  
	Chán ác như giặc hại  
	Lại bài báng kinh này  
	Chớ thấy ác như thế.  
	Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Các vị Đại Bồ-tát như thế rất là ít có. Tâm ý hiểu rõ, đó là do định lực của mình hay là do thần lực của Phật?  
	Đức Phật nói:  
	–Đều là nhờ thần lực Phật mới nói được như vậy, cũng là uy lực công đức của kinh này nên mới được vô ngại. Vì sao? Vì các vị trong dòng họ của Như Lai đó đã từng trải qua sáu mươi hai ức Đức Phật, được nghe chính miệng các Đức Phật nói về pháp này không thêm không bớt, cũng như được nghe ta nói không khác. Do đó, nhớ nghĩ tất cả các năng lực thiền định và năng lực thần thông của các Đức Phật đời quá khứ.  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Bạch Thế Tôn! Đúng thế, đúng thế! Tin tưởng lời Phật dạy, các vị Bồ-tát ấy hiện có thể chứng biết.  
	Phẩm 8: NHẬN RÕ  
	Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai, nếu được nghe pháp này, lần lượt tin tưởng hiểu rõ không dấy khởi nghi ngờ, vậy thì các vị ấy sẽ đạt được phước đức như thế nào?  
	Đức Phật dạy:  
	–Các nam nữ trong dòng họ của Như Lai an trụ trên đường tiến đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nếu như có người cúng dường Phật bảy thứ báu đầy khắp trong cõi Diêm-phù-đề thì công đức của người ấy chẳng bằng được nghe kinh này thứ lớp câu nghĩa tin tưởng hiểu rõ không nghi ngờ thì phước đức rất nhiều. Giả sử cúng dường hết toàn bộ bảy thứ báu trong cõi Diêm-phù-đề, cũng như toàn bộ các thứ châu báu trong các thế giới nhiều như số cát sông Hằng lên Đức Phật, nhưng nếu lại có các thiện nam, thiện nữ được nghe kinh này, thứ lớp câu nghĩa, tin tưởng hiểu rõ không nghi ngờ, tâm cũng không hối hận công đức của các vị ấy hơn hẳn trường hợp kia.  
	Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói kệ:  
	Giả sử khắp tam thiên  
	Các châu báu đầy dẫy  
	Cúng dường Đức Như Lai  
	Cứu độ các thế gian.  
	Nếu Phật nói kinh này  
	Mà có người lắng nghe  
	Trí tuệ được giải thoát  
	Phước ấy hơn người kia.  
	Ví như cát sông Hằng  
	Ở nơi các thế giới  
	Bảy báu đều đầy khắp  
	Thảy cúng dường Như Lai.  
	Đối với lời Phật nói  
	Tín nhận kinh điển này  
	Đó là trí giải thoát  
	Phước ấy cũng hơn kia.  
	Lúc này, Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Nếu có các vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai tin nhận hiểu rõ kinh này, thọ trì đọc tụng, lại giảng nói cho người khác nghe thì các vị ấy được bao nhiêu phước đức?  
	Đức Phật nói:  
	–Các nam nữ trong dòng họ của Như Lai ấy, trụ trong đạo Vô thượng, trong trăm kiếp tu hạnh bố thí, cúng dường Như Lai, cũng trải qua trăm kiếp tu các pháp Ba-la-mật là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, lại trải qua trăm kiếp được năm thứ thần thông, tu tập đạt được mọi thứ trí thức ở thế gian, đầy đủ giới thân, nhưng nếu các vị đó xa lìa kinh này thì cũng không được gọi là tôn trọng cúng dường các Đức Như Lai. Nếu có các thiện nam, thiện nữ tin nhận hiểu rõ kinh này, thọ trì đọc tụng, lại giảng nói cho người khác nghe thì những vị ấy sẽ được phước đức nhiều hơn trường hợp trên.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:  
	Giả sử trong trăm kiếp  
	Hết thảy các thức ngon  
	Cúng dường Bậc Cứu đời  
	Không gọi tôn trọng cúng.  
	Nếu người muốn cúng dường  
	Phải thọ trì kinh này  
	Xả bỏ tưởng phước báo  
	Tu tập cúng dường pháp,  
	Người cúng dường như thế  
	Mới gọi chân cúng dường.  
	Lấy pháp làm cúng dường  
	Pháp thân của Như Lai  
	Giả sử trong trăm kiếp  
	Dâng y phục cúng dường  
	Đấng Thế Tôn cứu đời  
	Thí nhiều các y phục  
	Không gọi là cúng dường.  
	Có người trì kinh này  
	Đó gọi chân cúng dường  
	Là Bậc nhất, trên hết  
	Giả sử trong trăm kiếp  
	Thường rải các hoa trời  
	Dâng cúng các Thế Tôn  
	Chưa gọi là cúng dường.  
	Nếu cúng dường Bậc nhất  
	Bậc Cứu đời độ thế  
	Nên thọ trì kinh này  
	Nên dứt tướng quả báo.  
	Nếu xây tháp bảy báu  
	Vì cứu đời mà lập  
	Tất cả như Tu-di  
	Không gọi cúng dường Phật.  
	Đây là cúng lớn nhất  
	Hơn hẳn cúng dường khác  
	Người trì được kinh này  
	Chẳng chấp tướng thân ta  
	Giả sử trong trăm kiếp  
	Tu giữ các giới cấm  
	Mà chẳng trì kinh này  
	Chưa gọi là hơn hết.  
	Nghe kinh và giữ giới  
	Xem giới là hơn hết  
	Cũng đối việc trì kinh.  
	Không nghĩ mình trì kinh.  
	Không gọi là phạm giới  
	Cũng không gọi phá giới  
	Tu học được kinh này  
	Như lời ta giảng dạy.  
	Nếu tu được kinh này  
	Cũng khéo tu Bồ-đề  
	Tuy cùng tu Bồ-đề  
	Mà thật không điều học.  
	Giữ giới được như vậy  
	Điều kinh này hiển bày  
	Đối giới được đầy đủ  
	Đó gọi là giữ giới.  
	Giả sử trong trăm kiếp  
	Có người tu Nhẫn nhục  
	Đánh mắng không đánh lại  
	Tất cả đều nhẫn được.  
	Cho đến chặt tay chân  
	Mà không khởi ý khác  
	Cũng chẳng sinh oán hờn  
	Tất cả đều không nghĩ  
	Thực hành được nhẫn này  
	Đầy đủ trong trăm kiếp  
	Tuy tu nhẫn như vậy  
	Tâm không cho là hơn  
	Đó là nhẫn bậc nhất  
	Cũng gọi là khéo tu  
	Nếu được nghe kinh này  
	Tin hiểu mà thọ trì  
	Đó là nhẫn trên hết  
	Bậc nhất không gì hơn  
	Nếu đối với kinh này  
	Nghe rồi mà tin hiểu  
	Mong đạt được vô ngại  
	Trí tuệ Phật Vô thượng  
	Nên thọ trì kinh này  
	Thì sẽ mau đạt được  
	Giả sử trong trăm kiếp  
	Tinh tấn thường không ngồi  
	Giờ kinh hành đã qua  
	Dứt bỏ sự ngủ nghỉ  
	Người trí tu kinh này  
	Nên giảng nói người nghe  
	Thì được không sợ hãi  
	Đó gọi tinh tấn nhất.  
	Giả sử trong trăm kiếp  
	Chứng được năm thần thông  
	Nếu chẳng nghe kinh này  
	Không gọi thần thông nhất.  
	Nếu trì được kinh này  
	Gọi là thần thông nhất  
	Hơn những thần thông khác  
	Biết nghĩa mà không đắm  
	Giả sử trong trăm kiếp  
	Thường làm người trí sáng  
	Đầy đủ trí thế gian  
	Biết rõ việc thế gian.  
	Nếu chẳng học kinh này  
	Chưa xứng là người trí  
	Nếu trì được kinh này  
	Gọi là người sức mạnh.  
	Nếu biết được như thế  
	Đó gọi là người trí  
	Thọ trì kinh điển này  
	Nghe thì tin, hiểu được.  
	Hiển bày trong kinh này  
	Hành xứ của người trí  
	Nếu trì được kinh này  
	Phải siêng năng tinh tấn.  
	Khi ấy, Tôn giả A-nan lại nói kệ:  
	Đi đủ trăm do-tuần  
	Hoặc cả ngàn do-tuần  
	Sẽ đến chỗ người trí  
	Nơi có kinh pháp này  
	Thường nên đến chỗ ấy  
	Để nghe được kinh này  
	Nghe rồi mà tin hiểu  
	Tâm họ thường thuận theo  
	Ví lửa khắp thế giới  
	Trăm ngàn ức do-tuần  
	Nếu chỗ có kinh này  
	Người trí mau đến nghe  
	Nếu cầu thiền định Phật  
	Hơn hẳn các thiền định  
	Nên nói kinh như thế  
	Dứt bỏ các phiền não  
	Nếu có người muốn bỏ  
	Ưa đắm đối thế gian  
	Vì hiển bày kinh này  
	Như lời Phật đã nói.  
	Nếu muốn thấy các Phật  
	A-súc là trên hết  
	Trong các thứ thọ trì  
	Kinh này là Bậc nhất.  
	Muốn được mọi niềm vui  
	Tu các hạnh Bồ-tát  
	Phải nên nói kinh này  
	Mau đến chỗ an vui.  
	Muốn thấy Bậc Chánh Giác  
	An dưỡng khó nghĩ bàn  
	Nên giảng nói kinh này  
	Như lời Phật giảng nói.  
	Lúc bấy giờ, Phật bảo A-nan:  
	–Lành thay, lành thay! Khi nói kinh này, các nam, nữ trong dòng họ của ta nếu được nghe rồi, tâm không tán loạn, đọc tụng kinh này, xa lìa tất cả những chỗ gần gũi, tất sẽ dứt bỏ tất cả các thứ ràng buộc chấp đắm. Nếu muốn thấy Phật liền được thấy, khi sắp qua đời sẽ được tận mặt thấy trăm ngàn Đức Phật. Vì sao? Vì các vị ấy luôn được tất cả các Đức Phật che chở giữ gìn, nói được kinh này lại còn thọ trì đọc tụng, kính tin, hiểu rõ, cũng giảng nói giải thích cho người khác nghe.  
	Phẩm 9: AN DƯỠNG QUỐC  
	Lúc bấy giờ, trong bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di có một vị đồng nữ tên là Sư Tử cùng năm trăm đồng nữ khác bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Nếu có người nữ đọc tụng kinh này, lại giải thích, giảng nói cho người khác nghe thì người nữ ấy được phước gì?  
	Phật bảo đồng nữ Sư Tử:  
	–Nếu có người nữ, an trụ trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thọ trì đọc kinh điển như vậy, lại giảng nói cho người khác nghe, thì nên biết rằng những người ấy đang mang thân nữ sau cùng, không còn thân nữ nữa. Vì sao? Vì những người ấy chẳng những thọ trì, đọc tụng kinh này, mà còn giảng nói cho người khác nghe, tâm không tán loạn, tất cả phiền não đều được dứt bỏ, nếu có người nữ muốn sinh phiền não thì cũng không sinh được.  
	Đồng nữ Sư Tử bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Vì sao tướng người nữ này có thể sinh ra phiền não?  
	Phật dạy:  
	–Này đồng nữ Sư Tử! Nếu có người nữ thấy cô gái khác xinh đẹp, trang sức bằng những xâu chuỗi quý giá làm bằng ngọc Ma-ni và các thứ châu báu khác, thấy như vậy thì rất thích thú, phát khởi tâm tham đắm chứ không biết quan sát, ví như chiếc bình vẽ cảnh trí bên ngoài đẹp đẽ, nhưng bên trong đều là một khối chứa đầy những thứ bất tịnh phân dãi nhơ nhớp, kẻ phàm phu ngu si hôi thối cũng giống như thế. Bị chất bất tịnh xông ướp, phẩn tiểu đầy dẫy, không biết quán sát. Các tướng như thế lại sinh ưa đắm mà khởi tâm nhuốm bẩn vì nhân duyên ấy nên thường phải làm thân nữ.  
	Phật bảo đồng nữ Sư Tử:  
	–Tất cả người nữ thường sinh tâm ganh ghét, lừa gạt, nói dối, ý nghĩ và lời nói trái nhau, hoặc đối diện trò chuyện thì thường xin xỏ, đến chỗ Tỳ-kheo không phải vì pháp, sinh tâm giận tức và tâm thích ngủ nghỉ, hoặc đến những nơi ồn ào náo nhiệt, gần gũi chuyện thế tục. Đối với kinh này hay làm những việc không lợi ích, không chịu nghe nhận, không giảng nói, không đọc tụng, ngày đêm thường khởi các tâm phiền não, xa lìa giải thoát. Vì có những thứ tâm như vậy mà phải mang lấy thân nữ, khó lìa bỏ được.  
	Này đồng nữ Sư Tử! Tất cả người nữ đều phải nên quán sát như thế rằng, ta phải làm thế nào để dứt bỏ các phiền não, không cho chúng sinh khởi trở lại. Người nữ như thế không có việc lợi ích, phải nghe kinh này, thọ trì đọc tụng, lại giảng nói cho người khác nghe. Vì sao? Vì nếu được nghe kinh này, lần lượt lãnh hội thì chắc chắn sẽ dứt bỏ được tất cả phiền não.  
	Đồng nữ Sư Tử bạch Phật:  
	–Nếu có người nữ, đọc tụng kinh này, lại giải thích cho người khác nghe, nếu muốn xả bỏ thân nữ thì có thể được chăng?  
	Đức Phật đáp:  
	–Này đồng nữ Sư Tử! Nếu có người thọ trì, đọc tụng kinh này, thì đó là người mang thân nữ sau cùng, sẽ không còn trở lại làm thân nữ nữa, trừ trường hợp phương tiện thần thông biến hóa thị hiện thân nữ.  
	Này đồng nữ Sư Tử! Ví như có người đốt một đống lửa lớn rồi tự nhảy vào đó, đã nhảy vào lửa rồiù mà còn bảo chớ để lửa đốt cháy thân tôi, cũng đừng khiến cho thân tôi bị nám đen, này đồng nữ, theo ý đồng nữ thì thế nào? Người ấy tuy nói như vậy mà có được như lời mình nói hay không?  
	Đồng nữ thưa:  
	–Bạch Thế Tôn! không thể được. Vì sao? Vì tánh chất của đống lửa ấy là đốt cháy các vật cũng như hủy diệt thân sắc.  
	Đức Phật dạy:  
	–Này đồng nữ Sư Tử! Kinh này cũng giống như thế, có công năng đốt cháy tất cả các thứ củi phiền não hiện hành. Nếu muốn xả bỏ thân tướng người nữ thì phải dứt trừ tham dục, thành tựu Phật pháp, muốn thấy vô lượng vô số a-tăng-kỳ các Đức Phật, được biện tài vô ngại, muốn phát khởi tâm Từ bi đối với tất cả chúng sinh... thì cũng phải thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này.  
	Bấy giờ, đồng nữ Sư Tử và năm trăm đồng nữ bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Chúng con từ thời Phật Định Quang đã được nghe kinh này và thọ trì đọc tụng. Hôm nay chúng con lại vì vô số chúng sinh mà nêu bày lại.  
	Lúc này, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Nay đồng nữ Sư Tử ấy và năm trăm vị đồng nữ kia vì sao chưa chuyển thân nữ?  
	Phật bảo A-nan:  
	–Nay Tôn giả cho rằng đồng nữ Sư Tử và năm trăm đồng nữ kia thật là nữ chăng?  
	–Bạch Thế Tôn, đúng vậy!  
	Phật bảo A-nan:  
	–Chớ nói như thế. Vì sao? Vì đồng nữ Sư Tử này và năm trăm đồng nữ kia đều là thị hiện làm thân người nữ, chứ chẳng phải thật là thân nữ chỉ vì đối với chúng sinh đời vị lai mà thị hiện biến hóa, vì thương xót tất cả các người nữ mà hiện làm người nữ, giúp cho họ điều kiện để chán ghét lìa bỏ thân nữ, vì nếu làm thân người nam thì khó có thể tiếp xúc đi đến tất cả các nơi chốn.  
	Này Tôn giả A-nan! Đồng nữ Sư Tử này và những đồng nữ kia chẳng phải là nam, cũng chẳng phải là nữ. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều là chẳng phải nam chẳng phải nữ, vượt ngoài tất cả pháp tướng không thật có, đó mới thật sự là thông đạt. Các vị đồng nữ ấy đều thuận theo các pháp thế gian nên làm thân người nữ để hóa độ những người nữ khác tu học theo.  
	Khi ấy có năm trăm vị Tỳ-kheo-ni, đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật và bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Chúng con xin nguyện từ nay về sau sẽ thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe. Vì sao? Vì chúng con làm thân nữ này không có lợi ích gì, phải mau nhàm chán, lìa bỏ. Chúng con xin nguyện kể từ hôm nay, đối với những người chưa hiểu kinh này thì sẽ khiến cho họ được hiểu, những người chưa nghe thì sẽ khiến cho họ được nghe, vào đầu hôm, nửa đêm hay gần sáng, ngoài việc ngủ nghỉ phải chuyên tâm suy nghĩ, quán tưởng.  
	Đức Phật dạy:  
	–Lành thay, lành thay! Các Tỳ-kheo-ni, các vị đã phát tâm đại trang nghiêm để tự trang nghiêm, phát tâm tinh tấn mạnh mẽ bậc nhất, thảy đều nhàm lìa, muốn xả bỏ thân nữ, vì muốn lợi ích đối với tất cả Phật pháp mà thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe. Các vị đều mang thân nữ này là thân nữ sau cùng.  
	Các vị Tỳ-kheo-ni nghe Phật nói như vậy, hớn hở vui mừng, liền cởi thượng y dâng lên cúng dường Phật và cùng nói kệ:  
	Chúng con mong an ủi  
	Mong được thân người nam  
	Như Lai không hai lời  
	Lời trên hết trong đời.  
	Bấy giờ, trong bốn bộ chúng có năm trăm vị phu nhân của các Trưởng giả, đứng dậy, sửa sang lại y phục, gối bên phải sát đất, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Kể từ hôm nay chúng con cũng thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này, giải thích cho người khác hiểu. Chúng con chỉ vì mang thân nữ nên luôn bị người khác ràng buộc, chẳng được tự tại. Lại như phải mười tháng mang thai, làm sao tránh khỏi nỗi khổ cực. Cho dù được sinh trong chốn vương giả nhưng vẫn bị trăm mối hệ lụy, hoặc bị ràng buộc bởi cha mẹ, con cái… Kể từ hôm nay trở đi, sẽ dốc tinh tấn siêng năng tu tập, cho đến khi qua đời vẫn thọ trì chánh pháp.  
	Đức Thế Tôn liền khen ngợi năm trăm vị phu nhân của các Trưởng giả:  
	–Lành thay! Như lời các vị đã nói, từ hôm nay các vị sẽ được bỏ hẳn thân nữ, không còn phải chịu sự chi phối của người khác, cũng không còn chịu nỗi khổ của mười tháng mang thai, sẽ lìa bỏ dâm dục và các bào thai, đời đời thường sinh về cõi Phật thanh tịnh.  
	Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Các vị phu nhân này lìa bỏ được thân gái và sinh về cõi thanh tịnh nào?  
	Đức Phật nói:  
	–Các vị phu nhân này sẽ được sinh về thế giới Bảo tạng liên hoa quang.  
	Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Đức Phật ở thế giới ấy tôn hiệu là gì?  
	Đức Phật đáp:  
	–Ở thế giới ấy có Đức Phật hiệu là Nhất Thiết Bảo Như Ý Vương Quang Minh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, hiện đang nói pháp bằng mọi cách để giáo hóa chúng sinh ở đấy. Như vậy các vị nữ trong dòng họ của Như Lai ấy đều được sinh về cõi Phật ấy, để được nghe kinh này.  
	Bấy giờ, các vị phu nhân nghe Phật dạy, trong tâm vui mừng hớn hở, liền cởi những xâu chuỗi anh lạc giá trị bằng trăm ngàn lượng vàng dâng lên cúng dường Phật, cúng dường xong cùng nói kệ:  
	Chúng con được ân sâu  
	Lìa bỏ thân nữ này  
	Như Lai không hai lời  
	Nói ra đều chân thật.  
	Thân nữ xấu xa nhất  
	Nên mong sớm lìa bỏ  
	Kẻ phàm ngu mê lầm  
	Chẳng rõ tướng chân thật.  
	Thai sinh thân nữ khổ  
	Nguyện chẳng làm nữ nữa  
	Lìa được thai nữ rồi  
	Giác ngộ là Vô thượng.  
	Bấy giờ, các vị phu nhân của các Trưởng giả cùng kính chiêm ngưỡng Như Lai mắt không tạm rời. Thích Đề-hoàn Nhân tung rải hoa trời Mạn-đà-la lên chỗ Phật để cúng dường và bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ thọ trì kinh này.  
	Đức Phật nói:  
	–Này Kiều-thi-ca! Nếu khi ông chiến đấu với A-tu-la thì thường được chiến thắng, không bị thất bại.  
	Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, và trăm ngàn ức chúng sinh đều phát khởi nhân duyên căn lành, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Lúc Như Lai chưa phát tâm Bồ-đề, thì con đã quay bánh xe pháp không thoái chuyển này.  
	Đức Phật nói:  
	–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Vô lượng ức các vị Bồ-tát trong muời phương thảy đều phát ra ánh sáng rực rỡ giống như vầng mặt trời, mặt đất rung chuyển sáu cách, các vị trời tung rải, vô số các loại hoa ngập tới gối.  
	Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà mặt đất rung chuyển sáu cách, các vị trời rải hoa xuống như mưa như vậy?  
	Đức Phật nói:  
	–Đó là do vô lượng trăm ngàn ức vị trời nghe lời dạy của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, tâm sinh vui mừng, nên tung rải hoa ấy và cùng nói: “Chúng tôi đều sẽ thọ trì, sao chép đọc tụng kinh này, cũng nguyện sẽ được như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giảng nói kinh pháp như thế, được nghe kinh rồi, tâm sinh vui mừng, mặt đất tất cả đều rung chuyển, các vị trời rải hoa như mưa.  
	Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Kinh này có công năng thành tựu những công đức lớn lao, kinh này rất sâu xa, ít có nhất. Nếu có chúng sinh nào được nghe kinh này, dù chỉ một lần thì nên biết công đức người ấy không phải nhỏ.  
	Đức Phật dạy:  
	–Đúng thế! A-nan nên biết, các vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai đều đã cúng dường các Đức Phật đời quá khứ, vì vậy mà hôm nay trong chúng hội này được nghe kinh này, sinh tâm kính tin, hiểu rõ, cho đến thọ trì, đọc tụng, giải thích. Nên biết rằng chỗ nào có kinh này thì nơi đó chính là ngôi tháp của tất cả trời, người, lợi ích vô lượng, phước đức chẳng luống mất. Nếu nơi nào cất giữ kinh điển này và thọ trì cho đến sao chép thì đều nên cúng dường tưởng như cúng dường Thế Tôn. Người được nghe kinh này, khi chết đi không bị rơi vào đường ác, người ấy hàng phục được các loài ma, dựng lên ngọn cờ chánh pháp, thường đốt ngọn đuốc chánh pháp, soi sáng những nơi tối tăm, thổi được ốc pháp, đến tận cội Bồ-đề, gióng lên tiếng trống pháp, khai mở các cửa pháp, tuôn xuống trận mưa pháp lớn, giúp cho những người cầu pháp đều được đầy đủ pháp vị. Kinh này hiển bày pháp giới, mở hết các kho báu tiềm ẩn của các Đức Phật thời quá khứ, thấu rõ tất cả các pháp, dứt bỏ các tưởng về năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, xa lìa các tưởng về sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, lìa các tưởng về tất cả pháp cho đến tưởng về Phật. Nếu người được nghe kinh này kính tin, hiểu rõ, thọ trì, đọc tụng thì người ấy là đệ tử Phật chân chánh, đều từ pháp sinh ra.  
	Này A-nan! Nếu có vị thiện nam nào muốn ăn được pháp vị, ngồi dưới cội Bồ-đề trong đạo tràng như ta không khác thì phải thọ trì, đọc tụng kinh này, giảng nói cho người khác nghe, cho đến tay cầm quyển kinh, cung kính cúng dường.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Vào thời kỳ mạt pháp, sẽ có người có khả năng thọ trì đọc tụng, tay cầm kinh này, cung kính cúng dường không?  
	Phật dạy:  
	–Nếu hiện giờ nghe kinh mà kính tin và hiểu rõ, thì đời tương lai cũng dốc lòng thọ trì đọc tụng, giảng nói cho người khác nghe, tay cầm kinh này, lễ bái cúng dường. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người, A-tu-la, hiện giờ nghe kinh này mà ở đời vị lai lại chẳng được nghe. Điều ấy không thể có được. Vì sao? Vì nhờ năng lực nhân duyên nghe pháp hiện tại, nên ở đời vị lai cũng được nghe pháp, sẽ kính tin, hiểu rõ. Ví như có vị trưởng giả sinh nhiều người con, gia đình giàu có hết mực, của cải châu báu vô kể, nào vàng bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, ngọc trai... đủ thứ ngọc quý giá, còn có cả voi ngựa, xe cộ, tôi trai tớ gái... tất cả những tài sản ấy đều được sắp đặt cất giấu có nơi có chỗ, rồi ông ta đi dạo chơi qua những nơi chốn khác, khi trở về quê cũ mình thì có thể tìm lại được những của cải quý giá ấy không?  
	–Bạch Thế Tôn! Tìm lại được. Vì sao? Vì những của cải quý giá ấy ông ta đã biết rõ nơi cất giấu chúng.  
	Đức Phật nói:  
	–Này A-nan! Pháp bảo cũng như vậy, hiện nay được nghe thì đó chính là pháp của mình, đời sau lại được nghe. Nay ta dùng mắt Phật thấy đời hiện tại, những người đã thọ trì đọc tụng kinh này, thì đời sau cũng sẽ được như vậy không khác. Nếu ở đời vị lai có các chúng sinh thọ trì kinh này, nếu dùng mắt Phật xem xét thì thấy cũng như hiện nay không khác. Nếu có kẻ phỉ báng kinh điển này, ta dùng mắt Phật thấy rõ những người ấy cũng như hiện nay.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Nếu người không tin, không hiểu, lại phỉ báng kinh này thì sẽ đến nơi nào?  
	Đức Phật bảo:  
	–Hãy thôi, A-nan! Ông đừng nên hỏi như thế!  
	A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn hãy nói rõ về điều ấy, để giúp chúng sinh ở đời vị lai, nếu có kẻ không tin kinh này nghe thấy quả báo như vậy sẽ khiến họ sợ hãi mà phát tâm kính tin, thấu hiểu.  
	Phật dạy:  
	–Nếu có kẻ phỉ báng không tin kinh này thì phải chịu quả báo rất đau khổ, tội ấy đồng như năm tội nghịch. Nếu có người dùng dao bén giết hại chúng sinh đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, thì theo ý của Tôn giả, tội báo của người ấy phải bị đọa lạc vào đường nào?  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Nghiệp báo của người ấy sẽ bị đọa vào đường ác.  
	Phật dạy:  
	–Này A-nan! Nay ông nên biết. Nếu sau khi hằng hà sa Đức Phật nhập Niết-bàn, vì cúng dường xá-lợi các Đức Phật mà xây dựng các tháp miếu tôn thờ, lại có kẻ phát khởi tâm ác thiêu đốt hủy hoại các tháp miếu ấy, thì theo ý của Tôn giả, người đó phải chịu lấy tội báo như thế nào?  
	Tôn giả A-nan thưa:  
	–Hạng người như vậy sẽ chịu quả báo rất đau khổ không thể nói hết, cũng không thể nghe hết, nếu phỉ báng kinh này, mà nói về tội lỗi của việc phỉ báng ấy và tội báo phải chịu thì cũng như thế, không thể nói hết hay nghe hết được. Vì sao? Vì người ấy đã hủy hoại tất cả Pháp nhãn của các Đức Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai.  
	Đức Phật dạy:  
	–Nếu thấy có người thọ trì, đọc tụng kinh này mà sinh tâm phỉ báng, khinh cười, chê bai, xúi người không tin, khiến cho họ không được đọc tụng, đúng như pháp thọ trì, thì nên biết tội ác của người ấy rất nặng nề, còn hơn trường hợp trước.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Nếu chúng sinh trong khắp tam thiên đại thiên thế giới, đều tu tập đầy đủ mười điều lành, an trụ trong đạo Bồ-đề. Nếu có người hủy hoại đôi mắt của những người ấy, thì tội ác của kẻ ấy như thế nào?  
	Đức Phật nói:  
	–Trong vô số a-tăng-kỳ kiếp, người ấy hễ làm thân người thì thường bị mù, ở trong địa ngục chịu khổ không ngừng, thường bị móc mắt.  
	Phật dạy:  
	–Nếu có người đối với kinh này tâm hủy báng, không kính tin thì ta nói tội của người ấy cũng giống như trường hợp trên.  
	A-nan thưa:  
	–Nếu có vị Bồ-tát, trụ đạo giác ngộ, kính tin, thấu hiểu kinh này, thọ trì không nghi ngờ, thì vị ấy sẽ sinh về cõi nào?  
	Phật dạy:  
	–Đó gọi là tùy thuận cúng dường các Đức Phật không hề sai khác.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Nếu lại có người chẳng tin kinh này, tự mình phỉ báng lại xúi người khác phỉ báng theo những kẻ như thế sẽ thọ thân như thế nào, chịu quả báo đau khổ như thế nào?  
	Đức Phật dạy:  
	–Hãy thôi, A-nan! Ông chớ nên hỏi điều ấy.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Kính mong Thế Tôn hãy giải thích, giúp cho bốn chúng đệ tử ở đây, nếu có vị nào nghi ngờ chẳng tin, thì sau khi nghe Phật chỉ dạy như vậy thì sẽ tự hối cải về những lỗi lầm của mình mà sinh tâm kính tin trở lại.  
	Phật bảo:  
	–Nếu có kẻ chẳng tin kinh này mà còn phỉ báng, thì sẽ chịu quả báo có thân hình cao đến mười ngàn do-tuần, phải chịu thân hình cao lớn như vậy và chịu vô lượng sự đau khổ.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Kẻ đó còn chịu quả báo về lưỡi như thế nào?  
	Đức Phật nói:  
	–Tội báo của người đó, lưỡi dài rộng mỗi bề một ngàn do-tuần, lại bị năm trăm ức chiếc lưỡi cày bằng sắt nung đỏ rực cày xới trên lưỡi người ấy, lại còn có năm trăm ức viên sắt nóng lên tuôn xuống như mưa trên lưỡi người đó. Vì sao? Vì người đó không biết ngăn ngừa nghiệp ác, tội lỗi phỉ báng nên phải chịu khổ như thế.  
	Lúc bấy giờ, bốn chúng nghe Phật nói như vậy, khắp mình đều nổi ốc, buồn bã khóc lóc, ngã lăn ra đất, rồi cùng một lời bày tỏ với Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Nếu như những vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai mà phỉ báng kinh này sẽ phải chịu tội báo như thế. Vì vậy mà chúng con hôm nay xin thay họ sám hối, khiến cho các tội lỗi được tiêu trừ, chẳng phải chịu lấy quả báo xấu xa cực ác như thế. Hôm nay, trước Thế Tôn và trước vô lượng các Đức Phật trong mười phương, chúng con là những kẻ ngu si mê tối, không tự biết tội lỗi của mình, chỉ có mắt Phật thì mới thật thấy thật chứng, chúng con thảy đều xin sám hối, từ nay về sau không dám gây tạo những tội ấy nữa. Ví như đứa trẻ chưa hiểu biết gì, không thể hiểu rõ, phân biệt căn lành. Hôm nay chúng con chí thành thống trách về tội lỗi của mình, kính mong Thế Tôn rủ lòng thương xót nhận cho chúng con sám hối.  
	Phật dạy:  
	–Lành thay, lành thay!  
	Bấy giờ bốn chúng đệ tử cùng thưa:  
	–Hôm nay chúng con thành tâm tự quy y, tất cả các tội lỗi đều sám hối, không dám che giấu.  
	Đức Phật nói:  
	–Các vị đã chí tâm sám hối như vậy, tất cả các pháp lành đều được tăng trưởng.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Hiện nay trong chúng hội này, có người sinh tâm nghi ngờ thì tội ác nghiệp chướng cũng như thế không?  
	Đức Phật nói:  
	–Nếu trong chúng hội này có người sinh tâm nghi ngờ liền sám hối thì tất cả những tội khác và chịu quả báo cũng giảm nhẹ.  
	A-nan thưa:  
	–Thế nào là chịu tội giảm nhẹ?  
	Đức Phật nói:  
	–Lúc người ấy sắp chết, trong các lỗ chân lông trên thân mình đều chịu khổ, giống như đang ở trong địa ngục không khác. Vì sao? Vì người ấy kính tin lời dạy của Như Lai và kính tin vô lượng a-tăng-kỳ các Đức Phật, cũng như đã tự sám hối.  
	Này A-nan! Các vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai không rời bỏ tất cả mắt Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai, nếu những người ấy muốn thấy vô lượng a-tăng-kỳ các Đức Phật và thấy vô lượng đóa hoa sen có cánh bằng kim cang với ánh sáng chiếu khắp nơi, tốt đẹp nhiệm mầu.  
	Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân hiện thân thành một vị trưởng giả, rải các thứ hoa khắp bốn chúng trong chúng hội, rồi nói:  
	–Sẽ dùng các thứ hoa này để cúng dường Phật, cho đến cúng dường kinh này.  
	Tức thì bốn chúng đệ tử liền tung rải những thứ hoa đó lên chỗ Phật, tạo thành một lọng hoa, cùng bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà hiện ra điềm lành này? Hiện giờ ở trước Thế Tôn, có đóa hoa sen ấy, cũng như ở trước các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng cũng đều có hoa sen như vậy?  
	Đức Phật dạy:  
	–Nhờ công đức uy lực do giảng nói kinh này mà có điềm lành ấy. Nên biết các điềm lành ấy đều được năng lực thần thông giữ gìn.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Năng lực uy thần của Phật có thể giữ gìn được pháp này không?  
	Đức Phật dạy:  
	–Này A-nan! Chính là thần lực của ta giữ gìn pháp ấy, cho đến hằng hà sa Đức Phật cũng đều giữ gìn.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Kinh này sẽ được gọi là kinh gì và thọ trì bằng cách nào?  
	Đức Phật dạy:  
	–Kinh này tên là Vô Trước Quả Vô Hữu Chủng Chủng Chư Tạp Ác Báo, nên thọ trì như thế. Đối với các pháp Tín hành, Pháp hành, tám bậc, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật hiểu đó là giả danh, không chân thật, cứ theo ý nghĩa đó mà thọ trì. Gọi là Lìa Bỏ Các Thứ Ma, nên thọ trì như thế. Kinh này cũng gọi là Xả Ma, nên thọ trì như thế. Cũng gọi là Lục Ba-la-mật, nên thọ trì như thế. Vì sao? Này A-nan! Nếu có người kính tin, thấu hiểu thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe, nên biết thiện nam, thiện nữ ấy đã đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật.  
	Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Làm cách nào thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe thì liền được đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật?  
	Đức Phật dạy:  
	–Nếu các thiện nam, thiện nữ đã kính tin, thấu hiểu kinh này thì liền đầy đủ Đàn ba-la-mật. Đối với pháp này, tâm không phạm giới, đó gọi là Thi ba-la-mật. Nếu đọc tụng kinh này, tâm nhẫn không lui sụt tức là đầy đủ Sằn-đề ba-la-mật. Đối với kinh này, tâm không lui sụt, đó gọi là đầy đủ Tỳ-lê-da ba-la-mật. Kính tin, ưa thích kinh này, tâm không tán loạn, đó gọi là đầy đủ Thiền ba-la-mật. Hiểu rõ diệu lý kinh này, dứt các vọng tưởng phân biệt, đó gọi là đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật. Cho nên kinh này tương ứng với sáu pháp Ba-la-mật. Cũng gọi là Nhất Thiết Chư Phật Sở Thuyết Bất Thoái Pháp Luân Quảng Bác Nghiêm Tịnh.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Tên gọi kinh này, được nghe đã là khó rồi huống chi là được thấy kinh và vào đầu hôm, nửa đêm, gần sáng lại thọ trì đầy đủ.  
	Đức Phật dạy:  
	–Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông vừa nói.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Người được nghe kinh này sẽ vượt khỏi bao nhiêu kiếp sinh tử?  
	Phật dạy:  
	–Nếu người được nghe tên kinh Bất Thoái Pháp Luân Quảng Bác Nghiêm Tịnh Phương Đẳng này, thì người ấy sẽ thoát ngàn kiếp sinh tử.  
	A-nan bạch Phật:  
	–Nếu có người nghe tên kinh này, kính tin, hiểu rõ và phát tâm Bồ-đề thì công đức người ấy sẽ được trụ ở giai vị nào?  
	Phật nói:  
	–Nếu có người nghe tên kinh này thì được thọ ký thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được địa vị không thoái chuyển.  
	Bấy giờ, ở trước bốn chúng đều có các tòa hoa sen với nhiều màu sắc, mỗi hoa có trăm ngàn muôn ức cánh hoa. Bốn chúng đệ tử vui mừng hớn hở, liền dâng rải những hoa ấy lên để cúng dường Đức Phật và cùng bạch:  
	–Bạch Thế Tôn! Chúng con đều sẽ vì mọi người mà giảng nói rộng khắp kinh này, giải thích hiển bày khiến cho kinh không bị dứt mất.  
	Bấy giờ Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Tức thì vang lên nhạc trời, gió thơm thổi tới xông tỏa múi hương ngạt ngào. Trong hư không, rất nhiều vị trời cũng trổi vô số các thứ nhạc trời, lại tuôn xuống như mưa các thứ hương trời bột mịn màng, các thứ hương chiên-đàn, trầm thủy, giao lương, mạt vàng Diêm-phù-đàn và các loại mạt bạc, lưới báu ma-ni phủ khắp phía trên và năm thứ hoa năm màu: hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa, hoa Ca-ca-la, hoa Ma-ha ca-ca-la, và tất cả các thứ hoa Ưu-bát-la, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi. Rồi nào hương anh lạc, hương xoa, hương bột... tất cả vật cúng dường của các vị trời đều đầy khắp cả hư không. Trên mặt đất thì có vô số chúng dân cũng sửa sang y phục, hoa cúng dường. Lại có các chúng sinh khác đều cởi vô số những vòng ngọc, xuyến vàng, chuỗi ngọc, mũ mão quý giá dâng lên Đức Thế Tôn. Lại có các chúng sinh khác rải vàng bạc lên chỗ Phật để cúng dường. Lại có các chúng sinh khác vui mừng hớn hở cùng nhau hô to: “Lành thay, lành thay!” Và các voi ngựa cũng kêu lên những tiếng êm tai.  
	Trên không trung muôn ngàn những loài chim chóc hót vang, để cúng dường Phật. Chúng sinh ở địa ngục được tạm vui do ngừng hình phạt. Các loài súc sinh thì tỏ ra thân ái, tưởng như cha mẹ, tất cả chúng sinh ở cõi vua Diêm-la cũng tạm được vui. Chúng sinh ở cõi ngạ quỷ thảy đều dứt hết mọi đói khát khổ não. Tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa,… cũng đều cảm thấy vui sướng, phát khởi lòng thương yêu lẫn nhau, xem nhau như cha con.  
	Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì hôm nay Đức Như Lai mỉm cười?  
	Phật bảo A-nan:  
	–Hiện nay, bốn chúng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng tám bộ chúng là Trời, Rồng, Dạ-xoa… nếu trong đời này, đời sau được nghe kinh này, thì đều được không thoái chuyển trên đường tiến đến đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có khả năng nói rộng kinh này cho người khác nghe, không hề tổn giảm, cũng như ta hôm nay phân biệt, giảng nói,… không có sai khác.  
	Này A-nan! Những người nghe kinh này rồi, sinh tâm kính tin, hiểu rõ tức là gieo trồng hạt giống Phật, huống chi là thọ trì, đọc tụng, tu lành. Nên biết người này sẽ bỏ tất cả mọi trí thức thông thường và chẳng bao lâu sẽ đạt đến Nhất thiết trí, Tự nhiên trí. Do đó kinh này còn có tên là Bất Thoái Chuyển Pháp Luân Chi Ấn, kinh này có công năng đem lại những lợi ích lớn lao cho các vị Bồ-tát, cũng như tạo nhân duyên phát tâm đạo Vô thượng cho tất cả chúng sinh. Đã phát tâm rồi thì sẽ thành tựu đầy đủ kinh này.  
	Này A-nan! Như Lai chỉ bày cho các chúng sinh Nhất thiết trí. Nếu như có người nào, tuy lìa trí tuệ Phật, nhưng nghe kinh này thì được Tự nhiên trí và Phật trí, cũng được Phật thọ ký. Do vậy, kinh này còn có tên là Bất Thoái Chuyển Pháp Luân Quảng Bác Nghiêm Tịnh cũng gọi là Thành Tựu Cụ Túc Thiện Căn Trang Nghiêm Phương Tiện Vi Tác Lợi Ích Hành Đại Thừa Giả, A-nan nên ghi nhớ.  
	Bấy giờ, khi Đức Như Lai nói rộng kinh này thì có vô số các vị Bồ-tát đều được thành tựu pháp Nhẫn vô sinh; cùng với vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ ức số chúng sinh đều được an trụ không lui sụt trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.  
	Đức Thế Tôn nói kinh này xong, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Xá-lợi-phất, A-nan... cùng với bốn chúng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và tám bộ chúng là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đều rất vui mừng, cung kính thực hành, lễ Phật rồi lui ra.  
	KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN 
	[^]
  
	  
	 |