Kinh Bát Nhă Ba La Mật
(Mahàprajnàparamitàsatra) - Tác giả: Nàgàrjuna (Long Thọ) Dịch Phạn ra Hán: Cưu Ma La Thập - Dịch Hán ra Việt: Thích Trí Tịnh Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành P.L 2539 DL 1995 (Trọn Bộ 3 Tập)
QUYỂN 3
PHẨM KHUYẾN HỌC THỨ TÁM
Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát muốn đầy đủ Đàn na ba la mật thời phải học Bát nhă ba la mật, muốn đầy đủ Thi la ba la mật, Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia ba la mật, Thiền na ba la mật và Bát nhă ba la mật thời phải học Bát nhă ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn biết ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, muốn biết nhăn xúc cùng nhăn xúc làm nhơn duyên sanh ra thọ, nhẫn đến ư xúc làm nhơn duyên sanh ra thọ, thời phải học Bát nhă ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn dứt tam, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, giới thủ, các thứ tâm sở phiền năo, thời phải học Bát nhă ba la mật. Muốn dứt tứ phược, tứ kiến, tứ điên đảo, thời phải học Bát nhă ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn biết thập thiện, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng, đều phải học Bát nhă ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn nhập giác ư tam muội, muốn nhập lục thần thông, muốn nhập cửu thứ đệ định, muốn nhập siêu việt tam muội, đều phải học Bát nhă ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn được sư tử du hí tam muội, sư tử phấn tấn tam muội, muốn được tất cả môn đà la ni, muốn được thủ lăng nghiêm tam muội, bửu ấn tam muội, diệu nguyệt tam muội, nguyệt tràng tướng tam muội, nhứt thiết pháp ấn tam muội, quán ấn tam muội, tất pháp tánh tam muội, tất trụ tứơng tam muội, như kim cang tam muội, nhập nhứt thiết pháp môn tam muội, tam muội vương tam muội, vương ấn tam muội, tịnh lực tam muội, cao xuất tam muội, tất nhập nhứt thiết biện tài tam muội, nhập chư pháp danh tam muội, quán thập phương tam muội, chư đà la ni môn ấn tam muội, nhật thiết pháp bất vong tam muội, nhiếp nhứt thiết pháp tụ ấn tam muội, hư không trụ tam muội, tam phần thanh tịnh tam muội, bất thối thần thông tam muội, xuất bát tam muội, chư tam muội tràng tướng tam muội, đều phải học Bát nhă ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát muốn thỏa măn nguyện vọng của tất cả chúng sanh thời phải học Bát nhă ba la mật.
Muốn được đầy đủ những thiện căn sau đây: thường chẳng đọa vào ác đạo, chẳng sanh nhà ti tiện, chẳng ở trong hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, chẳng sa vào Bồ Tát đảnh, thời phải học Bát nhă ba la mật”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào là sa vào Bồ Tát đảnh?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Nếu đại Bồ Tát chẳng dùng pháp phương tiện mà thật hành sáu ba la mật nhập không, vô tướng vô tác tam muội, chẳng sa vào hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, cũng chẳng nhập Bồ Tát vị, đây gọi là đại Bồ Tát pháp ái sanh, v́ thế nên sa vào Bồ Tát đảnh”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào gọi là Bồ Tát sanh?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Sanh gọi là pháp ái”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Những ǵ là pháp ái?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Đại Bồ Tát thật hành Bát nhă ba la mật, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là không, là vô tướng, là vô tác, là tịch diệt, là vô thường, là khổ, là vô ngă, Bồ Tát nhẫn thọ ghi nhớ nắm giữ nơi đây, thời gọi là thuận đạo pháp ái sanh.
Đây là khổ phải biết, đây là tập phải dứt, đây là diệt phải chứng, đây là đạo phải tu pháp nầy cấu, pháp nầy tịnh, nên gần pháp nầy, chẳng nên gần pháp nầy, chỗ nầy nên làm, chỗ nầy chẳng nên làm, đây là Bồ Tát đạo, đây chẳng phải Bồ Tát đạo, đây là chỗ học của Bồ Tát, đây chẳng phải chỗ học của Bồ Tát, đây là Đàn na ba la mật nhẫn đến Bát nhă ba la mật của Bồ Tát, đây chẳng phải sáu pháp ba la mật của Bồ Tát, đây là phương tiện của Bồ Tát, đây chẳng phải phương tiên của Bồ Tát, đây là chỗ thành thục của Bồ Tát, đây chẳng phải chỗ thành thục của Bồ Tát. Lúc thật hành Bát nhă ba la mật, nếu đại Bồ Tát nhẫn thọ ghi nhớ nắm giử những pháp trên đây thời gọi là thuận đạo pháp ái sanh”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào là Bồ Tát bất sanh?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhă ba la mật, trong nội không chẳng thấy ngoại không, trong ngoại không chẳng thấy nội không, trong ngoại không chẳng thấy nội ngoại không, trong nội ngoại không chẳng thấy ngoại không, trong nội ngoại không chẳng thấy không không, trong không không chẳng thấy nội ngoại không, trong đại không chẳng thấy không không, trong đại không chẳng thấy đệ nhứt nghĩa không, trong đệ nhứt nghĩa không chẳng thấy đại không, trong đệ nhứt nghĩa không chẳng thấy hữu vi không, trong hữu vi không chẳng thấy đệ nhứt nghĩa không, trong hữu vi không chẳng thấy vô vi không, trong vô vi không chẳng thấy hữu vi không, trong vô vi không chẳng thấy tất cánh không, trong tất cánh không chẳng thấy vô vi không, trong tất cánh không chẳng thấy vô thỉ không, trong vô thỉ không chẳng thấy tất cánh không, trong vô thỉ không chẳng thấy tán không, trong tán không chẳng thấy vô thỉ không, trong tán không chẳng thấy tánh không, trong tánh không chẳng thấy tán không, trong tánh không chẳng thấy chư pháp không, trong chư pháp không chẳng thấy tánh không, trong chư pháp không chẳng thấy tự tướng không, trong tự tướng không chẳng thấy chư pháp không, trong tự tướng không chẳng thấy vô sở đắc không, trong vô sở đắc không chẳng thấy tự tướng không, trong vô sở đắc không chẳng thấy vô pháp không, trong vô pháp không chẳng thấy vô sở đắc không, trong vô pháp không chẳng thấy hữu pháp không, trong hữu pháp không chẳng thấy vô pháp không, trong hữu pháp không chẳng thấy vô pháp hữu pháp không,? trong vô pháp hữu pháp không chẳng thấy hữu pháp không.
Như trên đây là Bồ Tát bất sanh, là được nhập Bồ Tát vị.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát muốn học Bát nhă ba la mật phải học thế nầy: Chẳng nghĩ nhớ ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, chẳng nghĩ nhớ sáu ba la mật nhẫn đến mười tám pháp bất cộng.
Lúc được những tâm nầy, tâm vô đẳng đẳng, đại tâm, đại Bồ Tát thật hành Bát nhă ba la mật chẳng nên nghĩ nhớ, chẳng nên tự đắc.
Tại sao vậy? V́ tâm nầy chẳng phải tâm, v́ tâm tướng vốn là thường tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào là tâm tính thường thanh tịnh?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Bồ Tát biết rơ tâm tướng cùng với tham, sân, si, tất cả kiết sử, phiền năo vốn chẳng hiệp, chẳng lư nhau, với tâm Thanh Văn, tâm Bích Chi Phật vốn chẳng hiệp, chẳng lư nhau. Đây gọi là Bồ Tát tâm tướng thường thanh tịnh”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Có cái tâm không tâm tướng nầy chăng?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Trong tâm không tướng nầy có thể được những tướng hữu tâm cùnng tướng vô tâm chăng?"
Ngài Xá Lợi Phất nói: "Chẳng thể được”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Nếu là chẳng thể được thời chẳng nên hỏi có cái tâm không tâm tướng chăng”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Những ǵ là không tâm tướng?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Với các pháp, chẳng hư hoại, chẳng phân biệt, đây gọi là không tâm tướng”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Chỉ có tâm nầy chẳng hư hoại, chẳng phân biệt, c̣n sắc nhẫn đến Phật đạo có là cũng chẳng hư hoại, chẳng phân biệt chăng?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Nếu có thể biết tam tướng chẳng hư hoại, chẳng phân biệt, thời cũng có thể biết sắc nhẫn đến Phật đạo cũng chẳng hư hoại, chẳng phân biệt”.
Ngài Xá Lợi Phất tán thán: " Lành thay, lành thay! Tu Bồ Đề là chơn Phật tử từ miệng Phật mà sanh, từ thấy pháp mà sanh, từ pháp hóa sanh, lấy được pháp phần, chẳng lấy tài phần. Trong chánh pháp tự tin thân được chứng.
Đúng như lời đức Phật từng khen ông là bực nhứt trong những người được vô tránh tam muội.
Đại Bồ Tát phải học Bát nhă ba la mật như vậy. Trong đây cũng phải biết rơ Bồ Tát đúng như lời ông đa nói mà thật hành, thời chẳng rời Bát nhă ba la mật.
Những thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn học bực Thanh Văn cũng phải nghe Bát nhă ba la mật để thọ tŕ, đọc tụng, ghi nhớ, thậc hành. Người muốn học bực Bích Chi Phật cũng phải nghe Bát nhă ba la mật để thọ tŕ, đọc tụng, ghi nhớ, thật hành. Người muốn học bực Bồ Tát cũng phải nghe Bát nhă ba la mật để thọ tŕ, đọc tụng, ghi nhớ, thực hành.
Tại sao vậy? V́ trong Bát nhă ba la mật nói rộng về tam thừa, nên Bồ Tát, Thanh Văn, Bích Chi Phật đều phải học”.
PHẨM TẬP TÁN THỨ CHÍN
Ngài Tu Bồ Đề bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng cảm thấy cũng chẳng được ǵ là Bồ Tát thật hành Bát nhă ba la mật thời sẽ v́ ai mà giảng thuyết Bát nhă ba la mật?
Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng thấy được tất cả các pháp tập hợp rời tan, nếu con v́ Bồ Tát mà gọi tên là Bồ Tát có thể con sẽ hối hận.
Bạch đức Thế Tôn! Tên gọi ấy chẳng an trụ cũng chẳng phải chẳng an trụ. Tại sao vậy? V́ tên gọi vốn vô sở hữu. V́ thế tên gọi ấy chẳng trụ cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng thấy được sắc nhẫn đến thức, nhăn nhẫn đến ư, sắc nhẫn đến pháp, nhăn thức nhẫn đến ư thức, nhăn xúc nhẫn đến ư xúc, nhơn duyên, sanh thọ, con cũng chẳng thấy được vô minh nhẫn đến lăo tử hợp tan, vô minh diệt nhẫn đến lăo tử hợp tan, vô minh diệt nhẫn đến lăo tử diệt hợp tan. Nếu đă là chẳng thấy được thời thế nào lại đặt tên. Thế nên tên gọi chẳng trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Tại sao vậy? V́ tên gọi vô sở hữu vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng thấy được tham, sân, si các phiền năo, kiết sử hợp tan, chẳng thấy được sáu ba la mật đến mười tám pháp bất cộng tập hợp rời tan, thời thế nào sẽ đặt tên gọi là Bồ Tát. Tên gọi nầy chẳng an trụ chẳng phải chẳng an trụ. Tại sao vậy? V́ tên gọi vô sở hữu vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng thấy được ngũ ấm hợp tan như mộng, như bóng, như vang, như dương diệm, như biến hóa.
Con chẳng được rời hợp tan, cùng tịch diệt, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh hợp tan.
Con chẳng được pháp tánh, thiệt tế, pháp tướng, pháp vị hợp tan.
Con chẳng được những pháp thiện, pháp bất thiện hợp tan.
Con chẳng được những pháp hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu hợp tan.
Con chẳng được những pháp quá khứ, vị lai, hiện tại hợp tan.
Con chẳng được những pháp chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại hợp tan.
Những ǵ là pháp chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại? Chính là pháp vô vi vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng thấy được pháp vô vi hợp tan. Chẳng thấy được Phật hợp tan, cũng chẳng thấy được hằng sa Phật quốc, chư Phật và Bồ Tát cùng Thanh Văn, Bích Chi Phật hợp tan. V́ đều vô sở hữu nên chẳng trụ, chẳng phải chẳng trụ.
Như thế thời thế nào sẽ có thể giáo Bồ Tát về Bát nhă ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Danh tự Bồ Tát đây chẳng an trụ, cũng chẳng phải chẳng an trụ. Tại sao vậy? V́ danh tự nầy vô sở hữu vậy, thế nên chẳng trụ, cũng chẳng phải chẳng an trụ.
Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng thấy được chư pháp thiệt tướng hợp tan thời thế nào đặt tên cho Bồ Tát mà gọi là Bồ Tát. Danh tự thiệt tướng của các pháp chẳng trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. V́ danh tự nầy vô sở hữu. Thế nên danh tự chẳng trụ, cũng chẳng phải chẳng an trụ.
Bạch đức Thế Tôn! Các pháp do nhơn duyên ḥa hiệp mà có giả danh thi thiết. Danh tự Bồ Tát trong ngũ ấm, thập nhị xứ, thập bát giới nhẫn đến trong mười tám pháp bất cộng đều bất khả thuyết, ở trong pháp ḥa hiệp cũng là bất khả thuyết.
Ví như mộng, ảnh, hưởng, diệm, hóa trong các pháp, đều bất khả thuyết.
Ví như danh tự hư không, địa, thủy, hỏa, phong cũng chỉ có thể nói trong không có pháp.
Danh tự của giới, tam muội, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, danh tự của Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật cũng chỉ có thể nói trong không có pháp.
Danh tự của Phật, của Pháp cũng chỉ có thể nói trong không có pháp. những pháp là thiện, bất thiện, thường vô thường, khổ, lạc, ngă vô ngă, tịch diệt, ly, hữu, vô .
Bạch đức Thế Tôn! V́ thế nên ḷng con sẽ hối hận nếu con đạt danh tự Bồ Tát mà gọi là Bồ Tát, v́ tướng hợp tan của tất cả pháp đều bất khả đắc. Danh tự ấy chẳng trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ, v́ là vô sở hữu vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát nghe nói tướng và nghĩa của Bát nhă ba la mật như vậy mà tâm chẳng trầm một, chẳng hối tiếc, chẳng kinh, chẳng sợ, thời phải biết Bồ Tát nầy quyết định an trụ trong tánh bất thối chuyển, v́ chẳng an trụ nơi các pháp vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát muốn thật hành Bát nhă ba la mật, chẳng nên an trụ trong ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, chẳng nên an trụ trong sáu đại chủng, thập nhị nhơn duyên.
Tại sao vậy? V́ sắc và sắc tướng là không nhẫn đến lăo tử và tướng lăo tử là không.
Sắc không nhẫn đến lăo tử không chẳng gọi là sắc nhẫn đến chẳng gọi là lăo tử. rời ngoài không cũng cũng không có sắc, nhẫn đến rời ngoài không cũng không có lăo tử. Sắc tức là không, không tức là sắc. Nhẫn đến lăo tử tức là không, không tức là lăo tử.
V́ lẽ trên đây nên lúc muốn thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bồ Tát chẳng nên an trụ trong sắc, nhẫn đến chẳng nên an trụ trong lăo tử. Chẳng nên an trụ trong tứ niệm xứ nhẫn đến chẳng nên an trụ trong mười tám pháp bất cộng. Tại sao vậy? V́ tứ niệm xứ và tướng của tứ niệm xứ là không. Tứ niệm xứ không chẳng gọi là tứ niệm xứ, rời ngoài không cũng không có tứ niệm xứ. Tứ niệm xứ tức là không, không tức là tứ niệm xứ. Nhẫn đến mười tám pháp bất cộng cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Lúc muốn thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bồ Tát chẳng nên ai trụ trong sáu ba la mật. Tại sao vậy? V́ sáu ba la mật và tướng của sáu ba la mật là không. Sáu ba la mật không chẳng gọi là sáu ba la mật. rời ngoài không cũng chẳng có sáu ba la mật. Sáu ba la mật tức là không, không tức là sáu ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Lúc muốn thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bồ Tát chẳng nên an trụ trong nhứt tự môn, nhị tự môn nhẫn đến vô lượng tự môn. V́ ư nghĩa cũng như trên đă nói.
Bạch đức Thế Tôn! Lúc muốn thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bồ Tát chẳng nên an trụ trong các môn thần thông. V́ ư nghĩa cũng như trên đă nói.
Bạch đức Thế Tôn! Lúc muốn thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bồ Tát chẳng nên an trụ trong sắc là vô thường, sắc là khổ, sắc là vô ngă, sắc là không, sắc là tịch diệt, là ly. Tại sao vậy? V́ vô thường và tướng vô thường là không. Vô thường không chẳng gọi là vô thường, rời ngoài không cũng chẳng có vô thường. Vô thường tức là không, không tức là vô thường. Khổ, vô ngă không tịch diệt và ly cũng như vậy. Nhẫn đến thọ, tưởng, hành, thức là ly, đại Bồ Tát chẳng nên an trụ cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Lúc muốn thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bồ Tát chẳng nên an trụ trong như như. Tại sao vậy? V́ như tướng là không nên chẳng gọi như như, rời ngoài không cũng chẳng có như như. Như tức là không, không tức là như.
Bạch đức Thế Tôn! Muốn thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bồ Tát chẳng nên an trụ trong pháp tánh, pháp tướng, pháp vị, thiệt tế. Tại sao vậy? V́ thiệt tế và thiệt tế tướng là không. Thiệt tế không chẳng gọi là thiệt tế, rời ngoài không cũng cũng chẳng có thiệt tế. Thiệt tế tức là không, không tức là thiệt tế.
Bạch đức Thế Tôn! Muốn thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bát nhă ba la mật chẳng nên an trụ trong tất cả môn đà la ni, môn tam muội. Tại sao vậy? V́ tướng của đà la ni và tam muội là không. Đă là không thời chẳng gọi là môn đà la ni môn tam muội. Rời ngoài không cũng chẳng có môn đà la ni, môn tam muội. Môn đà la ni và môn tam muội tức là không, không tức là môn đà la ni và môn tam muội.
Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát muốn thật hành Bát nhă ba la mật, v́ không phương tiện nên an trụ trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức, v́ có tâm chấp ngă nên Bồ Tát nầy sanh khởi sắc hành. Nếu đă sanh khởi hành thời chẳng nhẫn thọ Bát nhă ba la mật và cũng chẳng đầy đủ Bát nhă ba la mật. V́ chẳng đầy đủ Bát nhă ba la mật nên chẳng thành tựu được nhứt thiết chủng trí.
Như ngũ uẩn, thập nhị xứ đến tam muội môn cũng như vậy. Do tâm ngô ngă mà Bồ Tát sanh khởi tam muội môn hành. V́ có hành nên chẳng nhẫn thọ và chẳng đầy đủ Bát nhă ba la mật, do đây nên chẳng thành tựu được nhất thiết chủng trí.
Tại sao vậy? V́ sắc đến tam muội môn vốn chẳng thọ nhận. V́ chẳng thọ nhận nên sắc chẳng phải sắc, đến tam muội môn, chẳng phải tam muội môn, v́ là tánh không. Bát nhă ba la mật cũng chẳng thọ nhận, thế nên chẳng phải Bát nhă ba la mật, v́ là tánh không.
V́ thế nên muốn thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bồ Tát phải quán các pháp tánh không, quán tâm không hành xứ. Đây gọi là Bồ Tát chẳng thọ nhận, công dụng tam muội quảng đại nầy chẳng cùng chung với hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Nhứt thiết chủng trí đây cũng chẳng thọ nhận, v́ là nội không, v́ là ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhứt nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tánh không, tự tướng không, chư pháp không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp không,vô pháp hữu pháp không.
Tại sao vậy? V́ nhứt thiết chủng trí chẳng thể dùng tướng và hành mà có thể được tướng hành. V́ tướng hành là cấu tướng.
Những ǵ là cấu tướng? Sắc tướng đến tam muội môn tướng gọi là tướng cấu uế.
Nếu nhẫn thọ, nếu tu hành cấu tướng nầy mà có thể được nhứt thiết chủng trí thời phạm chí Tiên Ni tất chẳng phát tín tâm.
Tin thế nào? Tin Bát nhă ba la mật. Suy gẫm phân biệt rơ biết chẳng do pháp hữu tướng, chẳng do pháp vô tướng. Như thế, phạm chí Tiên Ni chẳng chấp lấy tướng mà an trụ. Trong tín hành, phạm chí Tiên Ni dùng tín không trí nhập trong pháp tướng, chẳng nhẫn thọ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, v́ các pháp vốn tự tướng không nên chẳng thể nhẫn thọ.
Phạm chí Tiên Ni nầy do chẳng phải nội quán, ngoại quán và nội ngoại quán mà được trí tuệ nầy. Cũng do chẳng phải là không trí huệ quán nên được trí huệ nầy.
Tại sao vậy? Phạm chí nầy chẳng thấy có pháp, v́ người trí biết pháp, biết xứ vậy.
Chẳng phải ở trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng phải ở ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà phạm chí nầy được trí, cũng chẳng ở trong nội ngoại sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà được trí huệ nầy, cũng chẳng phải rời ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà được trí tuệ nầy, v́ nội ngoại không vậy.
Ở trong đây phạm chí Tiên Ni tâm được tín giải nơi nhứt thiết trí. Thế nên phạm chí tin thiệt tướng của các pháp, v́ tất cả các pháp bất khả đắc. Tín giải như vậy rồi thời không có pháp để có thể nhẫn thọ, v́ các pháp không tướng, không ức niệm.
Nơi các pháp, phạm? chí Tiên Ni cũng vô sở đắc, không thủ, không xả, v́ thủ xả đều bất khả đắc vậy.
Phạm chí Tiên Ni cũng chẳng niệm trí huệ, v́ các pháp tướng vôn vô niệm vậy.
Đây gọi là Bát nhă ba la mật của đại Bồ Tát v́ Bát nhă ba la mật chẳng phải Bát nhă ba la mật vậy.
Đại Bồ Tát chẳng nhẫn thọ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, v́ tất cả các pháp chẳng nhẫn thọ vậy. Nhẫn đến chẳng thọ tam muội môn, v́ tất cả pháp chẳng htọ vậy.
Ở trong đây, Bồ Tát nầy cũng chẳng lấy Niết Bàn niệm xứ, v́ chưa đầy đủ tứ niệm xứ nhẫn đến chưa đầy đủ mười tám pháp bất cộng. Tứ niệm xứ nầy chẳng phải tứ niệm xứ, nhẫn đến mười tám pháp bất cộng chẳng phải pháp bất cộng. Những pháp nầy chẳng phải pháp, cũng không chẳng phải pháp.
Đây gọi là Bát nhă ba la mật của đại Bồ Tát chẳng thọ sắc, nhẫn đến chẳng thọ pháp bất cộng.
Bạch đức Thế Tôn! Muốn thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bồ Tát phải tư duy như vầy: Ǵ là Bát nhă ba la mật? Tại sao gọi là Bát nhă ba la mật? Bát nhă ba la mật của ai?
Nếu thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bồ Tát nên nghĩ nhớ rằng nếu các pháp vô sở hữu bất khả đắc thời là Bát nhă ba la mật”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Những pháp ǵ vô sở hữu bất khả đắc?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Bát nhă ba la mật là pháp vô sở hữu bất khả đắc, Thiền na, Tỳ lê gia, Sằn đề, Thi la, Đàn na ba la mật là pháp vô sở hữu bất khả đắc. Tại sao vậy? V́ là nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhứt nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, tự tướng không, chư pháp không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là pháp vô sở hữu bất khả đắc, nhẫn đến vô pháp hữu pháp không là pháp vô sở hữu bất khả đắc. Tứ niệm xứ đến bất cộng pháp là pháp vô sở hữu bất khả đắc. Các môn thần thông cùng như như pháp tánh, pháp tướng, pháp vị, pháp trụ và thiệt tế đều là pháp vô sở hữu bất khả đắc.
Nầy Xá Lợi Phất! Phật cùng nhứt thiết trí, nhứt thiết chủng trí là pháp vô sở hữu bất khả đắc. V́ là nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu lúc tư duy như vậy, quán sát như vậy, đại Bồ Tát tâm chẳng trầm một, chẳng hối tiếc, chẳng khinh, chẳng sợ, phải biết đại Bồ Tát nầy chẳng rời hạnh Bát nhă ba la mật”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Do nhơn duyên ǵ mà biết Bồ Tát chẳng rời hạnh Bát nhă ba la mật?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Sắc rời sắc tánh, nhẫn đến thức rời thức tánh. Sáu ba la mật rời sáu ba la mật tánh, nhẫn đến thiệt tế rời thiệt tế tánh”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào là sắc tánh đến thiệt tế tánh?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Vô sở hữu là sắc tánh, nhẫn đến vô sở hữu là thiệt tế tánh. V́ duyên cớ nầy nên biết rằng sắc rời sắc tánh nhẫn đến thiệt tế rời thiệt tế tánh.
Nầy Ngài Xá Lợi Phất! Sắc cũng rời sắc tướng, nhẫn đến thiệt tế cũng rời thiệt tế tướng. Tướng cũng rời tướng, tánh cũng rời tánh”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Nếu học như vậy, đại Bồ Tát được nhứt thiết chủng trí chăng?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Đúng như vậy. Nếu đại Bồ Tát học như vậy thời thành tựu nhứt thiết chủng trí. Tại sao vậy? V́ các pháp chẳng sanh khởi, chẳng thành tựu vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Duyên cớ ǵ các pháp chẳng sanh, chẳng thành?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "V́ sắc tức là sắc không, nhẫn đến v́ thiệt tế là thiệt tế không nên sắc sanh thành bất khả đắc, nhẫn đến thiệt tế sanh thành bất khả đắc.
Nầy Ngài Xá Lợi Phất! Học như vậy, đại Bồ Tát lần lần gần nhứt thiết chủng trí, lần lần được thân thanh tịnh, tâm thanh tịnh và tướng thanh tịnh. V́ được thân và tâm cùng tướng thanh tịnh nên đại Bồ Tát nầy chẳng phát sanh những tâm phiền năo, tham, sân, si, mạn, xan tà kiến. V́ chẳng phát sanh tâm phiền năo nên Bồ Tát nầy chẳng sanh từ bụng người mẹ mà thường hóa sanh từ một Phật quốc đến một Phật quốc để thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, măi đến khi thành Vô thượng Bồ đề trọn chẳng lúc nào rời chư Phật.
Đại Bồ Tát phải học và hành Bát nhă ba la mật như vậy”.
PHẨM HÀNH TƯỚNG THỨ MƯỜI
Ngài Tu Bồ Đề bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát nếu không phương tiện mà muốn thật hành Bát nhă ba la mật, nếu duyên nơi sắc, nếu duyên nơi thọ, tưởng, hành, thức, thời là hành tướng, nếu duyên nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc thường hay vô thường, hoặc lạc hay khổ, hoặc hữu hay không, hoặc ngă hay vô ngă, hoặc ly, hoặc tịch diệt, đây đều là hành tướng cả.
Nếu đại Bồ Tát không phương tiện mà duyên nơi tứ niệm xứ, nhẫn đến duyên nơi mười tám pháp bất cộng, đây là hành tướng.
Nếu thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bồ Tát nghĩ rằng: Tôi có thật hành Bát nhă ba la mật, đây là hành tướng. Hoặc lại nghĩ rằng có thể thật hành như vậy thời là tu hành Bát nhă ba la mật, đây cũng là hành tướng. Nên biết đại Bồ Tát nầy không có phương tiện mà thật hành Bát nhă ba la mật.
Ngài Tu Bồ Đề lại nói với Ngài Xá Lợi Phất: "Lúc thật hành Bát nhă ba la mật, nếu đại Bồ Tát phân biệt duyên nơi sắc, v́ vấn đề sắc mà khởi hạnh. Nếu v́ vấn đề sắc mà khởi hạnh, thời chẳng thể thoát ly sanh, lăo, bệnh, tử, ưu bi, khổ năo và khổ quả đời sau. Như sắc với thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy.
Như ngũ ấm với lục căn, lục trần, thập bát giới với tứ niệm xứ, nhẫn đến mười tám pháp bất cộng cũng vậy. Nếu đại Bồ Tát phân biệt duyên nơi pháp bất cộng, v́ vấn đề pháp bất cộng mà khởi hạnh thời chẳng thể thoát ly sanh, lăo, bịnh, tử, ưu bi, khổ năo và quả khổ đời sau
Bồ Tát như đây c̣n chẳng thể chứng bực Thanh Văn, Bích Chi Phật huống là có thể được Vô thượng Bồ đề.
Nên biết Bồ Tát như vậy là không phương tiện mà thật hành Bát nhă ba la mật”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào biết rằng đại Bồ Tát thật hành Bát nhă ba la mật mà có phương tiện?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Lúc muốn thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bồ Tát chẳng duyên nơi sắc, chẳng duyên nơi thọ, tưởng, hành, thức, chẳng duyên nơi tướng của sắc, chẳng duyên nơi tướng của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng duyên nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức là thường, là vô thường, là lạc, là khổ, là ngă, là vô ngă, là không, là vô tướng, là vô tác, là ly, là tịnh diệt. Với tất cả, đại Bồ Tát đều chẳng duyên.
Tại sao vậy?
Nầy Xá Lợi Phất! Sắc không đây thời chẳng phải sắc, rời ngoài không cũng chẳng có sắc, rời ngoài sắc cũng chẳng có không, sắc tức là không, không tức là sắc. thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Nhẫn đến mười tám pháp bất cộng, pháp bất cộng không thời là chẳng phải pháp bất cộng, rời không chẳng có pháp bất cộng, rời pháp bất cộng cũng chẳng có không, pháp bất cộng tức là không, không tức là pháp bất cộng.
Nên biết đây là đại Bồ Tát thật hành Bát nhă ba la mật có phương tiện vậy.
Thật hành Bát nhă ba la mật mà có phương tiện như vậy, đại Bồ Tát nầy có thể được Vô thượng Bồ đề.
Lúc thật hành Bát nhă ba la mật, đại Bồ Tát nầy chẳng nhận lấy thật hành, chẳng nhận lấy chẳng thật hành, chẳng nhận lấy thật hành chẳng thật hành, cũng chẳng nhận lấy chẳng phải thật hành chẳng phải chẳng thật hành. Chẳng nhận lấy, cũng chẳng nhận lấy”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Duyên cớ ǵ mà đại Bồ Tát chẳng nhận lấy?”
Ngài Tu Bồ Đề nói: "V́ tự tánh bất khả đắc nên chẳng nhận lấy.
Tại sao vậy? V́ không có tánh, chính đó là Bát nhă ba la mật. Thế nên đại Bồ Tát với tất cả đều chẳng nhận lấy. Với chẳng nhận lấy, cũng chẳng nhận lấy.
Tại sao vậy? V́ pháp tánh là vô sở hữu nên chẳng duyên nơi pháp, cũng chẳng nhận lấy các pháp tướng.
Đây gọi là tác dụng quảng đại của chư pháp vô sở thọ tam muội của đại Bồ Tát. Tam muội chẳng cùng chung với hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Đại Bồ Tát thường thật hành tam muội nầy mà chẳng rời thời mau được Vô thượng Bồ đề”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Chỉ chẳng rời tam muội nầy mà đại Bồ Tát mau được Vô thượng Bồ đề, hay là c̣n những tam muội khác?”
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Những tam muội sau đây cũng làm cho đại Bồ Tát mau được Vô thượng Bồ đề. Như là thủ lăng nghiêm tam muội, bửu ấn tam muội, sư tử du hí tam muội, diệu nguyệt tam muội, nguyệt tràng tướng tam muội, xuất chư pháp ấn tam muội, quán đảnh tam muội, tất pháp tánh tam muội, tất tràng tướng tam muội, kim cang tam muội, nhập pháp ấn tam muội, tam muội vương an lập tam muội, vương ấn tam muội, phóng quang tam muội, lực tấn tam muội, xuất sanh tam muội, tất nhập biện tài tam muội, nhập danh tự tam muội, quán phương tam muội, đà la ni ấn tam muội, bất vong tam muội, nhiếp chư pháp hải ấn tam muội, biến phú hư không tam muội, kim cang luân tam muội, bửu đoạn tam muội, năng chiếu diệu tam muội, bất cầu tam muội, tam muội vô xứ trụ tam muội, vô tâm tam muội, tịnh đăng tam muội, vô biên minh tam muội, năng tác minh tam muội, phổ chiếu minh tam muội, kiên tịnh chư tam muội tam muội, vô cấu minh tam muội, tác nhạc tam muội, điển quang tam muội, vô tịnh tam muội, oai đức tam muội, ly tận tam muội, bất động tam muội, trang nghiêm tam muội, nhựt quang tam muội, nguyệt tịnh tam muội, tịnh minh tam muội, tác hành tam muội, tri tướng tam muội, như kim cang tam muội, tâm trụ tam muội, biến chiếu tam muội, an lập tam muội, bửu đảng tam muội, diệu pháp ấn tam muội, pháp đẳng tam muội, lập sanh hỉ tam muội, đáo pháp đảnh tam muội, năng tán tam muội, hoại chư pháp xứ tam muội, tự đẳng tướng tam muội, ly tự tam muội, đoạn duyên tam muội, bất hoại tam muội, vô chủng tướng tam muội, vô xứ hành tam muội, ly ám tam muội, vô khứ tam muội, độ duyên tam muội, tập chư đức tam muội, trụ vô tâm tam muội, tịnh diệu hoa tam muội, giác ư tam muội, vô lượng biện tam muội, vô đẳng đẳng tam muội, độ chư pháp tam muội, phân biệt chư pháp tam muội, tán nghi tam muội, vô trụ xứ tam muội, nhứt tướng tâm muội, bất nhứt hạnh tam muội, diệu hạnh tam muội, đạt nhứt thiết hữu để tán tam muội, nhập ngôn ngữ tam muội, ly âm thanh tự ngữ tam muội, nhiên cự tam muội, tịnh tướng tam muội, phá tướng tam muội, nhứt thiết chủng như túc tam muội, bất hỷ khổ lạc tam muội, bất tận hành tam muội, đà la ni tam muội, thủ chư tà chánh tướng tam muội, diệt tắng ái tam muội, nghịch thuận tam muội, tịnh quang tam muội, kiên cố tam muội, măn nguyệt tịnh quang tam muội, đại trang nghiêm tam muội, năng chiếu nhứt thiết thế tam muội, đẳng tam muội, vô tránh hạnh tam muội, vô trụ xứ lạc tam muội, như trụ định tam muội, hoại thân tam muội, hoại ngữ như hư không tam muội, ly trước như hư không bất nhiễn tam muội.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thật hành các môn tam muội trên đây cùng vô lượng vô số môn tam muội môn đà la ni đều có thể mau được Vô thượng Bồ đề”.
Thuận theo ư của đức Phật, Ngài Tu Bồ Đề nói: "Nên biết rằng chư đại Bồ Tát thật hành các môn tam muội nầy, thời đă được chư Phật quá khứ thọ kư. Chư Phật hiện tại ở mười phương cũng thọ kư cho đại Bồ Tát nầy.
Chư đại Bồ Tát nầy chẳng thấy, chẳng nghĩ những tam muội ấy, cũng chẳng nghĩ rằng tôi sẽ nhập, đương nhập, hay đă nhập những tam muội ấy. Chư đại Bồ Tát nầy hoàn toàn không có quan niệm phân biệt”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Đại Bồ Tát an trụ nơi những tam muội nầy, có phải đă được thọ kư từ chư Phật quá khứ chăng?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Không phải. Tại sao vậy? Nầy Xá Lợi Phất! Bát nhă ba la mật chẳng khác những tam muội, . Những tam muội chẳng khác Bát nhă ba la mật. Bồ Tát chẳng khác Bát nhă ba la mật và tam muội. Bát nhă ba la mật và tam muội chẳng khác Bồ Tát. Bát nhă ba la mật tức là tam muội. Tam muội tức là Bát nhă ba la mật. Bồ Tát tức là Bát nhă ba la mật và tam muội. Bát nhă ba la mật và tam muội tức là Bồ Tát”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Nếu tam muội chẳng khác Bồ Tát, Bồ Tát chẳng khác tam muội, tam muội tức là Bồ Tát, Bồ Tát tức là tam muội, thời Bồ Tát thế nào biết tất cả pháp là tam muội?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "Lúc Bồ Tát nhập tam muội nầy chẳng nghĩ rằng tôi dùng pháp nầy để nhập tam muội nầy. Do duyên cớ đây nên đối với các tam muội, Bồ Tát chẳng biết, chẳng nhớ”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Tại sao chẳng biết, chẳng nhớ ?"
Ngài Tu Bồ Đề nói: "V́ các tam muội vô sở hữu nên Bồ Tát chẳng biết, chẳng nhớ”.
Đức Phật khen: "Lành thay, lành thay! Nầy Tu Bồ Đề! Đúng như lời của Phật từng nói, ông là người thật hành vô tránh tam muội đệ nhứt được tương ứng với nghĩa nầy.
Đại Bồ Tát phải y theo nghĩa nầy mà học sáu ba la mật, tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát học như vậy có phải là học Bát nhă ba la mật chăng?"
Đức Phật nói: "Đại Bồ Tát học như vậy chính là học Bát nhă ba la mật b́ pháp ấy là bất khả đắc. Cũng chính là học năm ba la mật kia cùng tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng, v́ pháp ấy là bất khả đắc vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát học Bát nhă ba la mật như vậy, có phải pháp ấy là bất khả đắc chăng?"
Đức Phật nói: "Đại Bồ Tát học Bát nhă ba la mật như vậy, pháp ấy là bất khả đắc”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Những pháp ǵ là bất khả đắc?"
Đức Phật nói: "Ngă là bất khả đắc, nhẫn đến tri giả, kiến giả là bất khả đắc, v́ rốt ráo thanh tịnh vậy. Ngũ ấm, thập nhị xứ, thập bát giới là bất khả đắc, v́ rốt ráo thanh tịnh vậy. Tứ đế, thập nhị nhơn duyên là bất khả đắc, v́ rốt ráo thanh tịnh vậy. Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới là bất khả đắc, v́ rốt ráo thanh tịnh vậy. Tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng là vô sở đắc, v́ rốt ráo thanh tịnh vậy. Sáu ba la mật là vô sở đắc, v́ rốt ráo thanh tịnh vậy. Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật là vô sở đắc, v́ rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: "Bạch đức Thế Tôn! Những ǵ là rốt ráo thanh tịnh?"
Đức Phật nói: "Chẳng xuất, chẳng sanh, không được, không làm, đây gọi là rốt ráo thanh tịnh”.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát học như vậy, đó là học những pháp ǵ ?
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát học như vậy, với các pháp là vô sở học. Tại sao vậy? Nầy Xá Lợi Phất! Các pháp tướng chẳng phải như chỗ chấp trước của kẻ phàm phu.
Bạch đức Thế Tôn! Các pháp thiệt tướng thế nào có ?
Nầy Xá Lợi Phất! Các pháp vô sở hữu. Hữu như vậy, vô sở hữu như vậy, nơi sự nầy mà chẳng biết thời gọi là vô minh.
Bạch đức Thế Tôn! Những ǵ là vô sở hữu, nơi sự nầy chẳng biết nên gọi là vô minh?
Nầy Xá Lợi Phất! Ngũ ấm đến thập bát giới là vô sở hữu, tứ niệm xứ đến pháp bất cộng là vô sở hữu. Tại sao vậy? V́ là nội không, nhẫn đến vô pháp hữu pháp không vậy.
Ở trong đây, v́ sức vô minh làm cho khát ái nên kẻ phàm phu vọng thấy phân biệt. Đây gọi là vô minh. kẻ phàm phu nầy bị nhị biên trói buộc nên chẳng biết, chẳng thấy các pháp vô sở hữu. Do đây mà nhớ tưởng phân biệt chấp trước nơi sắc, nhẫn đến pháp bất cộng.
Nơi pháp vô sở hữu, v́ chấp trước nên người nầy sanh ra sự phân biệt biết và thấy. Đây là kẻ phàm phu chẳng biết, chẳng thấy. Chẳng thấy, chẳng biết những ǵ ? Chẳng thấy, chẳng biết sắc, nhẫn đến chẳng thấy, chẳng biết pháp bất cộng. Do cớ nầy mà sa vào hàng phàm phu như trẻ nít.
Người nầy chẳng ra khỏi. Chẳng ra khỏi chỗ nào? Chẳng ra khỏi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, chẳng ra khỏi trong pháp của Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Người nầy cũng chẳng tin. Chẳng tin những ǵ ? Chẳng tin sắc không, nhẫn đến chẳng tin pháp bất cộng không.
Người nầy cũng chẳng an trụ. Chẳng an trụ nơi đâu? Chẳng an trụ nơi lục ba la mật, chẳng an trụ bực bất thối chuyển, nhẫn đến chẳng an trụ pháp bất cộng.
Do duyên cớ nầy mà gọi là phàm phu như trẻ nít. Cũng gọi là kẻ chấp trước. Chấp trước những ǵ ? Chấp trước sắc, nhẫn đến ư thức giới, chấp trước tham, nhẫn đến tà kiến, chấp trước tứ niệm xứ, nhẫn đến Phật đạo.
Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát học như vậy, có phải cũng là chẳng học Bát nhă ba la mật, chẳng được nhứt thiết chủng trí chăng?
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát học như vậy cũng là chẳng học Bát nhă ba la mật, chẳng được nhứt thiết chủng trí.
Tại sao vậy? V́ đại Bồ Tát nầy không phương tiện nên nghĩ tưởng phân biệt chấp trước Bát Nhă, Thiền na, Tỳ lê gia, Sằn đề, Thi la và Đàn na ba la mật, nhẫn đến nghĩ tưởng, phân biệt, chấp trước pháp bất cộng và nhứt thiết chủng trí. V́ duyên cớ nầy nên đại Bồ Tát học như vậy cũng là chẳng học Bát nhă ba la mật, chẳng được nhứt thiết chủng trí.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu như vậy thời đại Bồ Tát phải học Bát nhă ba la mật như thế mới là học Bát nhă ba la mật được nhứt thiết chủng trí?
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc học Bát nhă ba la mật, nếu đại Bồ Tát chẳng thấy Bát nhă ba la mật thời là học Bát nhă ba la mật được nhứt thiết chủng trí, v́ bất khả đắc vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Tại sao gọi là bất khả đắc?
Nầy Xá Lợi Phất! V́ tất cả pháp nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không vậy”.
Hết quyển 3
|