佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

KINH QUANG TÁN

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ.

QUYỂN 9

Phẩm 22: PHÂN-MẠN-ĐÀ-NI-PHẤT

Bấy giờ Hiền giả Phân-mạn-đà-ni-phất bạch Phật:

–Đức Phật bảo Tôn giả Tu-bồ-đề nói Bát-nhã ba-la-mật, nhưng mới nói việc làm của Đại thừa.

Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Con nói Đại thừa nhưng vẫn không lỗi.

Đức Phật dạy:

–Không lỗi! Ông nói Đại thừa là theo lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật. V́ sao? Này Tu-bồ-đề! Các pháp thiện hiện có như pháp Thanh văn, Bích-chi-phật, pháp Phật Chánh giác đều từ Bát-nhã ba-la-mật xuất sinh, gốc từ giáo pháp ấy.

Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Tại sao các pháp thiện như pháp Thanh văn, Bích-chi-phật, pháp của chư Phật và pháp của Bồ-tát đều từ Bát-nhã ba-la-mật xuất sinh, đều từ giáo pháp ấy?

Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, Không, Vô tướng, Vô nguyện, các môn giải thoát, mười Lực Như Lai, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, đại Từ, đại Bi, pháp không quên mất, Từ, Bi, Hỷ, Xả, pháp hiểu rõ đạo phẩm để thi hành, pháp Thanh văn, Bích-chi-phật, pháp Bồ-tát, tất cả các pháp đều từ Bát-nhã ba-la-mật xuất sinh, đều từ giáo pháp ấy.

Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật và năm ba-la-mật của Đại thừa; sắc thọ, tưởng, hành, thức; nhãn sắc thức, nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức, nhân duyên tiếp xúc, nhân duyên huân tập, các loại huân tập vừa ý hay không vừa ý, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, Không, Vô tướng, Vô nguyện, các môn giải thoát, tất cả pháp thiện, hữu lậu, vô lậu, có sở hữu, không sở hữu, hữu vi, vô vi, khổ, tập, tận, đạo, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, pháp nội không, pháp ngoại không, pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không, pháp không sở hữu không, tất cả đều b́nh đẳng và các môn Tam-muội, Đà-la-ni, pháp Như Lai đã hiểu, tự đạt đến thành tựu, pháp giới của chư Phật, bản tế của Như Lai, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, hoặc hợp, hoặc tan, không hợp, không tan, có sắc, không sắc, có thấy, không thấy, có h́nh, không h́nh, có tướng, không tướng, tất cả các pháp đó đều từ Đại thừa xuất sinh, đều thuận theo giáo pháp Bát-nhã ba-la-mật. V́ sao? Này Tu-bồ-đề, Đại thừa Bát-nhã ba-la-mật b́nh đẳng không khác, sáu pháp Ba-la-mật cũng không khác, mười Lực, vô úy, pháp của chư Phật cũng không có khác. V́ vậy, Đại thừa, pháp của chư Phật không có khác, cũng không có hai, cũng không có nhiều.

Này Tu-bồ-đề! V́ vậy nên cái gọi là Đại thừa tức là nói Bát-nhã ba-la-mật.

Phẩm 23: ĐẲNG TAM THẾ

Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bồ-tát cũng chẳng nghĩ quá khứ, cũng chẳng nghĩ vị lai, cũng chẳng nghĩ hiện tại. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không có biên giới, Bồ-tát cũng không có biên giới. Sắc và Bồ-tát đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức và Bồ-tát đều không sở hữu cũng chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Như thế, tất cả Đại Bồ-tát đều chẳng thể nắm bắt được, vậy nên dạy Bát-nhã ba-la-mật cho Đại Bồ-tát như thế nào? Nên nói Bát-nhã ba-la-mật thế nào để dạy Bồ-tát? Bồ-tát mà có hiệu là Bồ-tát th́ chỉ có danh tự thôi. Thí như người tự nói ta có ngã, nhưng t́m cầu gốc ngọn đều không sở hữu. Các pháp là tự nhiên th́ chỗ nào sinh sắc mà sắc đã sinh? Chỗ nào sinh thọ, tưởng, hành, thức mà thọ, tưởng, hành, thức đã sinh?

Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nếu không chỗ sinh th́ không có sắc cũng không có thọ, tưởng, hành, thức. Vậy có ǵ đâu mà nói Bát-nhã ba-la-mật? Và nên dạy Bồ-tát như thế nào về việc cũng không có chỗ khác, cũng không có xuất sinh, cũng chẳng thể nắm bắt được, Bồ-tát cũng chẳng thể hành đạo, để Bồ-tát nghe như thế mà chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ để Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật?

Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:

–Tại sao Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được quá khứ, vị lai, hiện tại? V́ sao sắc không có biên giới? Thọ, tưởng, hành, thức cũng không có biên giới? Bồ-tát cũng không có biên giới? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không sở hữu cũng chẳng thể nắm bắt được? Tất cả Bồ-tát đều chẳng thể nắm bắt được th́ dạy Đại Bồ-tát Bát-nhã ba-la-mật như thế nào? Chỗ nào nói tôi ta hoàn toàn chẳng thấy? Bồ-tát cũng chẳng thể nắm bắt được, làm thế nào dạy Bát-nhã ba-la-mật cho Đại Bồ-tát? V́ sao nói Đại Bồ-tát chỉ có danh tự thôi, cầu t́m tôi ta mà không có gốc ngọn? Các pháp là tự nhiên th́ sắc từ đâu sinh? Thọ, tưởng, hành, thức từ đâu sinh?

Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Hễ đã không có chỗ sinh th́ không có sắc, đã không có chỗ sinh th́ không có thọ, tưởng, hành, thức. Vừa rồi, Tôn giả Tu-bồ-đề nói, không chỗ sinh th́ sẽ dạy Bát-nhã ba-la-mật thế nào? V́ sao nói cũng không chỗ khác? Nếu có chỗ sinh th́ có thể đắc Bồ-tát chăng? Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề, người hành đạo tại sao nói lời này: “Đại Bồ-tát nghe lời ấy mà tâm chẳng kinh sợ tức là hành Bát-nhã ba-la-mật”?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời ngài Xá-lợi-phất:

–Con người không sở hữu nên quá khứ Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được. Chúng sinh đều rỗng không, v́ vậy nên quá khứ Bồ-tát không chỗ thọ. Chúng sinh không thật, v́ vậy nên quá khứ Bồ-tát không chỗ thọ. Sắc không sở hữu, v́ vậy nên Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Thọ, tưởng, hành, thức là rỗng không, không sở hữu, v́ vậy nên Bồ-tát chẳng thọ cái thọ quá khứ. Sắc quá khứ là rỗng không; thọ, tưởng, hành, thức cũng rỗng không. Sắc không thật; thọ, tưởng, hành, thức cũng không thật. Sắc tự nhiên, thọ, tưởng, hành, thức cũng tự nhiên. V́ vậy nên Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật đều không sở hữu. V́ vậy nên Bồ-tát chẳng đắc quá khứ. V́ sao? Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! V́ nếu đã là rỗng không th́ chẳng thể nắm bắt quá khứ, vị lai, hiện tại, không có cái khác không, không có Bồ-tát, không có quá khứ không, Bồ-tát và quá khứ đều không hai, không nhiều. V́ vậy nên Bồ-tát chẳng thọ quá khứ; vị lai, hiện tại cũng lại Như thế. Nói tóm lại, Thí ba-la-mật cũng lại không thật, Thí ba-la-mật tự nhiên, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật cũng đều là rỗng không. Bát-nhã ba-la-mật cũng lại không thật tức là không tự nhiên. V́ vậy Bồ-tát chẳng thọ quá khứ.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Cho nên cái ǵ đã là rỗng không th́ không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Không, Bồ-tát và quá khứ đã qua cũng không có hai, cũng không có nhiều.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! V́ vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Bảy không ấy cũng không sở hữu, v́ vậy Bồ-tát chẳng thọ quá khứ.

Lại nữa, Xá-lợi-phất! Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác ý, tám Thánh đạo, ba mươi bảy phẩm cũng là không, cũng là không thật. Bảy không ấy cũng lại Như thế. V́ vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật đều rỗng không, không thật. V́ vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Sáu pháp Ba-la-mật cũng không sở hữu, cũng không thật, cũng không tự nhiên. V́ vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ.

Lại nữa, Xá-lợi-phất! Tất cả Tam-muội đều không sở hữu, môn Đà-la-ni cũng đều rỗng không, cũng lại không thật. Các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni đều không tự nhiên. V́ vậy, Bồ-tát không thọ quá khứ. Sáu pháp Ba-la-mật cũng lại như vậy.

Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Các pháp giới cũng không sở hữu, pháp giới đều rỗng không, pháp giới không thật, pháp giới tự nhiên, pháp giới cũng không có bảy không. V́ vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ.

Lại nữa, Xá-lợi-phất! Như Lai cũng không sở hữu, cũng đều không có cội gốc, không có cội gốc không thật, không có cội gốc cũng rỗng không. Cái vốn không ấy cũng không tự nhiên. V́ vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Cái bản tế ấy cũng không sở hữu, bản tế đều rỗng không, bản tế không thật, cũng không tự nhiên, chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả các cõi cũng không tự nhiên. V́ vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ.

Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Các Thanh văn, Bích-chi-phật, Như Lai cũng không sở hữu. Như Lai rỗng không, không thật cũng không tự nhiên. V́ vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Đạo không sở hữu, không thật cũng không tự nhiên. V́ vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. V́ sao? Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, v́ không và không thật, quá khứ, vị lai, hiện tại cũng Như thế, chẳng thể nắm bắt được. Bồ-tát, cũng chẳng thể nắm bắt được.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! V́ vậy, không, không thật, quá khứ, vị lai không có hai, cũng không có nhiều. V́ vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ.

Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả đã hỏi là tại sao sắc không có biên giới, thọ, tưởng, hành, thức cũng không có biên giới? Bồ-tát cũng không có biên giới? Thọ, tưởng, hành, thức như hư không rỗng không. Ví như hư không không có biên giới; không có khoảng giữa, không có bờ đáy, hư không chỉ có danh tự.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lại Như thế, không có biên giới, không có khoảng giữa, không có bờ đáy, v́ sắc rỗng không. Nếu đã là rỗng không th́ không biên giới, không có khoảng giữa, không có bờ đáy, chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại Như thế. V́ vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, sắc không có biên giới, thọ, tưởng, hành, thức cũng không có biên giới. Bồ-tát cũng không có biên giới, đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. V́ vậy, sắc và Bồ-tát cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại Như thế.

Lại nữa, Xá-lợi-phất! Sáu pháp Ba-la-mật rỗng không nên gọi là không, pháp nội không cũng không, pháp ngoại không cũng rỗng không. V́ không cho nên không. Pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không,… Bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng đều rỗng không. V́ không cho nên không, không có bản tế, chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả các cõi cũng lại là rỗng không. V́ không cho nên không. Các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni cũng lại là rỗng không. Trí Nhất thiết cũng lại là rỗng không. Đạo tuệ hiểu rõ đạo phẩm cũng lại là rỗng không. V́ không cho nên không. Pháp ba thừa cũng lại là rỗng không. Như Lai cũng lại là rỗng không.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Cho nên Như Lai là rỗng không, cũng không sở hữu, sắc cũng chẳng thể nắm bắt được. Sắc và Bồ-tát cũng không sở hữu, đều chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại Như thế.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Theo Tôn giả hỏi th́ v́ sao tất cả Bồ-tát đều chẳng thể nắm bắt được? Bồ-tát nói Bát-nhã ba-la-mật thế nào?

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được. Sắc chẳng thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được. Cái tưởng về tưởng cũng không sở hữu, cái tưởng về thọ cũng không sở hữu, cái tưởng về hành cũng không sở hữu, cái tưởng về thức cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Cái biết về thức cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Cái biết về sắc, cái biết về thọ, cái biết về tưởng, cái biết về hành đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Sáu t́nh cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhĩ không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhĩ và nhãn đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhĩ và tỷ đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Tỷ và sự ngửi đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Tỷ và nhãn đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Tỷ và thiệt đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Xét thiệt, không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiệt, nhãn, nhĩ, tỷ đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Hương và thân đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Thân cùng với thân đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Ý cùng với ý đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp, sáu t́nh, sáu thức, sáu vị, mười tám nhập, nhân duyên, tất cả các sự việc đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Sắc trong, sắc ngoài, thọ… các pháp cũng lại Như thế. Sáu pháp Ba-la-mật và bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, chủng tánh, các pháp, pháp A-la-hán, pháp Bích-chi-phật, pháp Như Lai, pháp Bồ-tát, pháp mười trụ, trí Nhất thiết và các đạo tuệ cho đến Như Lai và Bồ-tát đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Bồ-tát và Bát-nhã ba-la-mật đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Bát-nhã ba-la-mật đối với Bát-nhã ba-la-mật đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Bát-nhã ba-la-mật và Bồ-tát đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Bát-nhã ba-la-mật không ngôn, không thuyết, không giáo, không hóa, cũng không sở hữu, cũng không nắm bắt được. Đối với Bồ-tát, không ngôn, không thuyết, không giáo, không hóa, cũng không sở hữu, cũng không nắm bắt được. Bát-nhã ba-la-mật cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! V́ vậy, tất cả các pháp cũng không sở hữu, cũng không đắc, cũng chẳng thể nắm bắt được. Đại Bồ-tát cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không ngôn thuyết. Như Tôn giả Xá-lợi-phất đã hỏi, sao gọi là danh tự mà danh tự Bồ-tát từ đâu mà ra? Danh tự ấy ở chỗ nào là Bồ-tát, v́ vậy gọi là Bồ-tát? Nói Bồ-tát chỉ dùng danh tự thôi th́ từ đâu mà đến! Sắc thọ, tưởng, hành, thức, chỉ dùng danh tự thôi. Chỉ có danh tự th́ danh tự vướng mắc vào ngôn từ, nhưng không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức. V́ sao? V́ danh tự cũng rỗng không, danh tự tự nhiên rỗng không, chẳng v́ danh tự ấy cho nên gọi là Bồ-tát, nhưng không có danh tự cho riêng ḿnh là Bồ-tát.

Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Sáu pháp Ba-la-mật chỉ dùng danh tự thôi, chẳng dùng danh tự cho nên gọi là sáu pháp Ba-la-mật. Cái gọi là Bồ-tát chỉ dùng danh tự thôi. V́ vậy, nói Bát-nhã ba-la-mật, chỉ dùng danh tự thôi, chẳng dùng danh tự cho nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Bát-nhã ba-la-mật không có danh tự. V́ sao? V́ danh tự cùng Bát-nhã ba-la-mật, hai pháp đó đều rỗng không, chẳng thể nắm bắt được.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Cái gọi là Bồ-tát chỉ là giả hiệu. Cái gọi là pháp nội không, pháp ngoại không, pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không, pháp không sở hữu không chỉ dùng danh tự thôi. Bảy không ấy, chẳng dùng danh tự th́ rỗng không. V́ sao? V́ chẳng dùng danh tự cho nên gọi là rỗng không. Cái rỗng không này chẳng thể nắm bắt được. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, v́ vậy, cái gọi là Bồ-tát chỉ là giả hiệu.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Cái danh tự này là giả hiệu. Ý chỉ, Ý đoạn, Căn, Lực, Giác ý, tám Thánh đạo, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật chỉ là giả hiệu thôi. V́ chẳng dùng danh tự, nên là pháp của chư Phật, mà pháp của chư Phật là rỗng không. V́ vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, cái gọi là Bồ-tát chỉ là giả hiệu. Các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát cho đến Phật cũng là giả hiệu thôi, v́ chẳng dùng danh tự làm danh tự. Cái gọi là tôi ta, ngã sở, suy t́m gốc ngọn của nó cũng không sở hữu, cũng không thành tựu, tôi ta chẳng thể nắm bắt được, huống ǵ đối với đạo mà có cái sở đắc.

Cái biết, cái thấy cũng chẳng thể nắm bắt được, huống ǵ muốn khiếncho có sự thành tựu.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Gốc ngọn của sắc thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thể nắm bắt được, huống ǵ muốn khiếncho sắc, thọ, tưởng, hành, thức có sự thành tựu. Nhãn và các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý… chỗ nhập của sáu t́nh cũng chẳng thể nắm bắt được. Gốc ngọn của sáu pháp Ba-la-mật, bảy không cũng chẳng thể nắm bắt được, huống ǵ muốn khiếncho thành tựu. Ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô úy, pháp của chư Phật, suy t́m gốc ngọn cũng chẳng thể nắm bắt được, huống ǵ muốn khiếncho có sự thành tựu. Các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, suy t́m gốc ngọn, đều chẳng thể nắm bắt được, huống ǵ muốn khiếncho có sự thành tựu. Thanh văn, Bích-chi-phật, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. V́ vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Cái gọi là tôi ta đều không có sở hữu, tất cả các pháp cũng không có sở hữu, đều là tự nhiên. V́ sao? V́ tự nhiên không hợp, không tan.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:

–Sao gọi là tự nhiên không hợp, không tan?

Trả lời:

–Sắc, thọ, tưởng, hành, thức v́ tự nhiên nên không hợp, không tan, sự tập hợp của các thọ do sự tiếp xúc của sáu t́nh: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý sinh ra đều là tự nhiên, không hợp, không tan. Sáu pháp Ba-la-mật cũng không hợp, không tan, đều là tự nhiên. V́ vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp đều không sở hữu, đều là tự nhiên.

Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp cũng vô thường, cũng không chỗ đến.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi lại ngài Tu-bồ-đề:

–Sao gọi là tất cả các pháp vô thường, không chỗ đến?

Tu-bồ-đề đáp:

–Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng vô thường, không có chỗ hướng đến. V́ sao? V́ cái vô thường ấy hoàn toàn không sở hữu, cũng không có nhãn. V́ vậy, tất cả các pháp đều vô thường, không có chỗ đến. Các pháp sở hữu cũng lại Như thế, đều vô thường, không có chỗ hướng đến. Tất cả các lậu cho đến vô lậu, pháp có thể nói, không thể nói, cái hữu thường ấy đều là không sở hữu, cũng không có nhãn. V́ vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, tất cả vạn vật đều vô thường, không có chỗ đến.

Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp không chỗ tích tụ, cũng không hủy hoại.

Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi ngài Tu-bồ-đề:

–Thế nào là tất cả các pháp cũng không tích tụ, cũng không hủy hoại?

Đáp:

–Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không tích tụ, cũng không hủy hoại. V́ sao? V́ thanh tịnh vậy. Các pháp thiện, bất thiện, pháp sở hữu, không sở hữu, pháp hữu lậu, vô lậu đều không tích tụ, cũng không hủy hoại. V́ sao? V́ thanh tịnh vậy. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, v́ vậy, tất cả sở hữu đều không sở hữu.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Trả lời câu hỏi sắc từ đâu sinh, đó là sắc không chỗ sinh; thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ sinh. V́ sao? V́ sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không sở hữu. Hiểu rõ hành th́ không có sắc, cũng không chỗ sinh. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ sinh. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không sở hữu. V́ sao? V́ hiểu rõ hành th́ không có nhãn, nhãn không sở hữu. V́ sao? V́ hiểu rõ hành th́ không có sở hữu. Sáu t́nh cũng như vậy.

Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp đều không sở hữu. V́ sao? V́ hiểu rõ hành th́ không tạo sở hữu. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, v́ vậy sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ sinh.

Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Theo lời Tôn giả hỏi th́, sắc không có chỗ sinh th́ chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức không có chỗ sinh th́ chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. V́ sao? V́ sắc thanh tịnh, rỗng không, không khởi diệt, cũng không chỗ trụ, cũng không sai khác. V́ thọ, tưởng, hành, thức cũng thanh tịnh, v́ rỗng không, thanh tịnh, cho nên gọi là thanh tịnh, cũng không khởi diệt, cũng không chỗ trụ, cũng chẳng thể phân biệt. Tất cả sở hữu cũng lại thanh tịnh, v́ rỗng không, thanh tịnh cho nên gọi là thanh tịnh, cũng không chỗ khởi, cũng không chỗ diệt, cũng không chỗ trụ, chẳng thể phân biệt để biết.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! V́ vậy, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ sinh. Như Tôn giả Xá-lợi-phất đã hỏi là v́ sao nói những pháp này đều không chỗ sinh th́ do đâu mà nói Bát-nhã ba-la-mật? V́ sao? Bát-nhã ba-la-mật cũng không chỗ sinh. Nếu không chỗ sinh th́ Bát-nhã ba-la-mật cũng không chỗ xuất, không có hai pháp, cũng không có nhiều. V́ vậy th́ điều nên nói ở đây là sẽ từ đâu mà nói Bát-nhã ba-la-mật! Tôn giả Xá-lợi-phất đã hỏi: Chẳng từ chỗ khác xuất sinh mà Bồ-tát đắc đạo hạnh là v́ sao? Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng từ chỗ khác sinh, cũng lại chẳng thấy khác. Bát-nhã ba-la-mật lại cũng chẳng phải chỗ sai khác, đều thấy như nhau, các hạnh Bồ-tát cũng không chỗ sinh. Lại nữa, Bồ-tát không có hai pháp, cũng không có nhiều, cũng chẳng thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức có chỗ khác sinh. V́ sao? V́ vô sinh cho nên sắc không có hai, cũng không nhiều, cũng chẳng từ cái khác mà có chỗ sinh, cũng chẳng thấy, sắc từ chỗ khác sinh. V́ sao? V́ sắc không chỗ sinh, thức không có sinh, cũng không có nhiều. Mười tám chủng, ba mươi bảy phẩm, pháp của chư Phật, bảy không, pháp ba thừa chẳng thấy chỗ sinh. V́ sao? V́ không có chỗ sinh, không có hai pháp, cũng không có nhiều. Thưa Tôn giả Xálợi-phất! V́ vậy, Bồ-tát chẳng nắm bắt được cái có chỗ khác sinh mà hành đạo.

Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vừa rồi Tôn giả hỏi: Giả sử Đại Bồ-tát nghe nói như thế mà không sợ, không kinh, không hãi tức là Bát-nhã ba-la-mật là v́ sao? V́ Đại Bồ-tát quán tất cả các pháp đều như mộng, như huyễn, cảnh ảo, cây chuối, bóng, vang. V́ vậy cho nên, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát nghe như thế chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng hãi. Đó là hành Bát-nhã ba-la-mật.

Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, quán pháp Như thế, chẳng thọ sắc thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng xả, cũng không trụ, cũng không chấp trước. Bát-nhã ba-la-mật th́ không có sắc thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng thọ, cũng chẳng xả, cũng không trụ, cũng không chấp trước, không phân biệt, cũng chẳng thọ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, chỗ nương tựa của sáu t́nh, chẳng thọ tôi ta, cũng chẳng thọ Thí ba-la-mật, cũng không xả, cũng không trụ, cũng không chấp trước, chẳng trụ tôi ta. Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật, cũng chẳng thọ bảy không, cũng không xả, cũng không trụ, cũng không chấp trước, chẳng trụ tôi ta.

Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa, người hành Bát-nhã ba-la-mật, đối với ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng lại Như thế, cũng không thọ, cũng không xả, cũng không trụ, cũng không chấp trước, cũng chẳng trụ tôi ta.

Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa, Bồ-tát chẳng thọ tất cả các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni cũng không thọ, cũng không xả, cũng không trụ, cũng không chấp trước, chẳng trụ tôi ta. V́ sao? V́ Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng thấy sắc thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thấy mười tám chủng, ba mươi bảy phẩm và bảy không, Thanh văn, Bích-chi-phật, cho đến Phật và trí Nhất thiết cũng không thấy. V́ sao? V́ không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ khởi, cũng không có sắc thọ, tưởng, hành, thức. Sáu t́nh không chỗ khởi, cũng không có sáu t́nh. Sáu pháp Ba-la-mật cũng không chỗ khởi, cũng không có sáu pháp Ba-la-mật. Bát-nhã ba-la-mật cũng không chỗ khởi, cũng không có hai, cũng không có nhiều. Pháp nội không, pháp ngoại không cũng không chỗ khởi. Pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không, pháp không sở hữu không cũng lại Như thế. V́ sao? V́ bảy pháp không ấy cũng không chỗ khởi, cũng không có hai, cũng không có nhiều.

Bạch Đức Thiên Trung Thiên! V́ vậy, bảy pháp không ấy, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng không chỗ khởi, cũng không có hai, cũng không có nhiều. V́ sao? Bạch Đức Thiên Trung Thiên! V́ không chỗ khởi cho nên không hai, không ba, không có nhiều. Pháp của chư Phật đều không chỗ khởi, chẳng phải là Phật pháp.

Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Cái không cội gốc ấy cũng chẳng thể nghĩ bàn. Cảnh giới của các pháp cũng không chỗ khởi, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn ấy không có hai, cũng không có nhiều.

Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-nahàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát cho đến trí Nhất thiết đều không chỗ khởi, cũng không sở hữu. Cho nên trí Nhất thiết không có chỗ khởi. V́ sao? V́ không có tinh tấn, đó là không hai, không ba, cũng không nhiều. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là diệt tận, cũng không có sắc. V́ vậy thức cũng diệt tận, không có hai, cũng không nhiều. V́ sao? Bạch Đức Thiên Trung Thiên! V́ cái tinh tấn ấy không một, không hai, không ba, cũng không nhiều. Cái thức tinh tấn ấy cũng không có thức, đó là Thí ba-la-mật, cũng không chỗ khởi, cũng không tinh tấn, không hai, không ba, cũng không nhiều. Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như vậy. Bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng lại như vậy.

Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nói không chỗ tinh tấn ấy ở trong hành là điều không thể kể ra. Năm ấm, sáu pháp Ba-la-mật, pháp ba thừa cho đến trí Nhất thiết cũng lại như vậy.

Phẩm 24: QUÁN HẠNH

Bấy giờ ngài Tu-bồ-đề hỏi ngài Xá-lợi-phất:

–Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật quán các pháp như thế nào? Sao gọi là Bồ-tát hành đạo v́ tất cả mọi người mà nói? Bồ-tát mà hiểu rõ tất cả đạo pháp, đối với tất cả pháp không chấp trước, hiểu rõ các pháp th́ hiểu rõ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhưng đối với việc của sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không chấp trước, hiểu rõ ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô úy, pháp của chư Phật cũng không chấp trước, th́ sao gọi là việc của tất cả các pháp?

Tu-bồ-đề trả lời Xá-lợi-phất:

–Bồ-tát quán h́nh dạng, hiện tượng, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của các pháp, h́nh dạng, hiện tượng của các pháp trong, ngoài, hữu vi, vô vi, sở hữu, không sở hữu, hiểu rõ là không nhân duyên th́ đó là quán pháp.

Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả hỏi, sao gọi là Bát-nhã ba-la-mật? Rốt ráo không có ǵ ưa thích là Bát-nhã ba-la-mật.

Sao gọi là rốt ráo không có ǵ ưa thích? Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Chẳng ưa thích ấm, chủng, các nhập, chẳng ưa thích sáu pháp Ba-la-mật: Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật, chẳng ưa thích bảy không, chẳng ưa thích ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, đó gọi là rốt ráo không có ǵ ưa thích, đó là Bát-nhã ba-la-mật. Đối với trí Nhất thiết cũng không có ǵ ưa thích, đó là Bát-nhã ba-la-mật, đó là rốt ráo không có ǵ ưa thích. Đó là Bát-nhã ba-la-mật.

Sao gọi là quán? Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng quán sắc thường hay vô thường, chẳng quán sắc khổ hay vui, chẳng quán sắc có ngã hay không ngã, chẳng quán sắc có không hay không không, có tướng hay không tướng, có nguyện hay không nguyện, chẳng quán sắc tịch tĩnh hay chẳng tịch tĩnh, chẳng quán sắc không thật hay chẳng phải không thật. Thọ, tưởng, hành, thức và bảy không cùng Ba môn giải thoát cũng lại như vậy. Chẳng quán ba mươi bảy phẩm, Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, Căn, Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, pháp của chư Phật là khổ vui, thiện ác, hữu ngã vô ngã, hữu thường vô thường, các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni. Trí Nhất thiết là hữu thường vô thường, khổ vui, thiện ác, hữu ngã vô ngã, có không không không và ba môn giải thoát.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Đó là Đại Bồ-tát quán hành Bát-nhã ba-la-mật.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:

–V́ sao nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức không có chỗ khởi là không có sắc thọ, tưởng, hành, thức? Căn, Lực, Giác ý, ba mươi bảy phẩm, bảy Không, bốn pháp phi thường, trí Nhất thiết đều không có chỗ khởi? Trí Nhất thiết th́ không sở hữu?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời ngài Xá-lợi-phất:

–Sắc, bảy không, đã là không th́ không có h́nh, v́ vậy sắc không có chỗ khởi, th́ không có sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại Như thế. Sáu pháp Ba-la-mật là không, đã là không th́ chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật. Trí tuệ không chỗ khởi.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! V́ vậy, Bát-nhã ba-la-mật không chỗ khởi th́ chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật. Bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, Vô úy, pháp của chư Phật, các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, trí Nhất thiết cũng lại như vậy. Sắc không chỗ khởi tức là không có sắc; thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí Nhất thiết cũng lại Như thế, không chỗ khởi tức là không có trí tuệ.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:

–V́ sao nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí Nhất thiết là không có hai?

Ngài Tu-bồ-đề đáp:

–Đúng vậy, đúng vậy! Nó không hai, sắc th́ không có hai. Thọ, tưởng, hành, thức, tất cả pháp không có hai. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không hợp không tan, không sắc, không thấy, không có thủ, xả. Tướng như thế tức là không tướng. Bảy không, ba mươi bảy phẩm, bốn pháp phi thường, trí Nhất thiết cũng lại Như thế. Năm ấm, sáu suy cho đến trí Nhất thiết đều không có hai.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:

–V́ sao nói sắc không có hai, thanh tịnh không chỗ đến? Thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí Nhất thiết cũng như vậy?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời ngài Xá-lợi-phất:

–Đúng vậy, đúng vậy! Sắc chẳng khác cái không chỗ khởi, cũng lại không khác sắc không chỗ khởi. Thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí Nhất thiết cũng lại Như thế.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Như thế, sắc không có hai, năm ấm, sáu suy cho đến trí Nhất thiết cũng không có hai, tất cả đều thanh tịnh không từ đâu đến.

Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật quán tất cả các pháp, thấy tất cả sắc cũng không chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại Như thế. Tôi ta, tri kiến đều không chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật cũng lại Như thế, đều không chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Bảy không, ba mươi bảy phẩm, Căn, Lực, Giác ý, mười Lực, Vô úy, pháp của chư Phật, chẳng thấy chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Quán các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, trí Nhất thiết, chẳng thấy chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Quán pháp phàm phu, thấy pháp phàm phu đều không chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Quán Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật và Bồ-tát, thấy các pháp này đều không chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Quán tất cả Phật pháp, chẳng thấy chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:

–Những điều nói đó nên hiểu như thế nào? Năm ấm, sáu suy, pháp Ba thừa và trí Nhất thiết đều không chỗ khởi, cũng không có năm đạo, cũng không có Đại Bồ-tát, cũng không đắc thần thông. Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề, nếu tất cả các pháp đều không chỗ khởi th́ v́ sao để thành tựu Tu-đà-hoàn phải đoạn trừ ba kiết tu hành đạo? Tư-đà-hàm cũng đoạn trừ ba kiết, dâm, nộ, si mỏng, tu hành đạo? A-na-hàm vứt bỏ gánh nặng, đoạn trừ các kiết, tu hành đạo? A-la-hán đoạn trừ các kiết và năm Căn, không còn sinh tử mà tu hành đạo? Bích-chi-phật v́ nhân Duyên giác ngộ mà tu hành đạo? V́ sao Bồ-tát siêng tu đạo khổ hạnh v́ vô số chúng sinh mà chịu khổ? V́ sao khi thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi chuyển pháp luân?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời:

–Tôi không muốn khiếncho pháp không chỗ khởi mà có chỗ chứng đắc, cũng không muốn khiếncho pháp không chỗ khởi mà đạt đến Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, cũng lại Như thế, tôi cũng chẳng khiếncho Đại Bồ-tát siêng tu khổ hạnh, chẳng khiếncho Bồ-tát tinh cần khổ hạnh. V́ sao? Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! V́ chẳng riêng nghĩ việc khổ cực nên độ vô số người chẳng thể tính đếm.

Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Người hành đạo Bồ-tát nên độ vô số người chẳng thể tính đếm, nghĩ họ như cha, nghĩ họ như mẹ, nghĩ họ như con, nghĩ họ như bản thân ḿnh, việc làm cũng không chỗ khởi. Bồ-tát nên nghĩ: “T́m cầu tôi ta đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được.” Quán pháp trong ngoài nên hiểu Như thế. Nếu khởi tưởng th́ chẳng nghĩ khổ cực, cũng không khởi tưởng. V́ sao? Tất cả các pháp đều không chỗ khởi, cũng chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôi cũng chẳng muốn khiếncho Như Lai không có chỗ khởi, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng chẳng muốn khiếnchuyển pháp luân, cũng chẳng muốn khiếnđắc pháp không chỗ khởi.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:

–Nói là muốn khiếncó khởi mà đạt được pháp và nói là không khởi th́ chẳng đạt các pháp là thế nào?

Ngài Tu-bồ-đề đáp:

–Chẳng v́ không khởi mà chứng đắc các pháp, cũng chẳng v́ khởi mà chứng đắc các pháp.

Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi ngài Tu-bồ-đề:

–Thế nào là pháp không chỗ khởi, cũng chẳng không khởi mà chứng đắc pháp?

Ngài Tu-bồ-đề đáp:

–Tôi chẳng muốn khiếncho không chỗ khởi sinh mà chứng đắc các pháp, cũng chẳng muốn khiếncho không không chứng đắc.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi:

–Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Theo ý Tôn giả th́ sao? Không có chứng đắc không thành đạo chăng?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời:

–Có chứng đắc, có thành đạo, thật không có hai. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, chứng đắc, thành đạo là đứng về mặt thế tục mà nói. Cái gọi là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật đều là do giáo hóa thế tục mà có những danh hiệu này. Suy t́m gốc ngọn th́ không có chứng đắc, không có thành đạo, không có Ba thừa.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:

–Phải chăng sự chứng đắc thành đạo là dựa vào mặt thế tục? Như vậy, năm đạo đứng về mặt thế tục mà nói th́ hễ có, tất cả phải hoại, chẳng phải là chân đế?

Đáp:

–Đúng như vậy! Do thế tục mà nói có chứng đắc thành đạo. Năm đạo cũng vậy, đứng về mặt thế tục th́ hoại hết, chẳng phải chân đế. V́ sao? V́ muốn thành chân đế th́ không có thiện ác, chẳng khởi chẳng diệt, không có các trần lao, cũng không sân hận mới là chân đế.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề:

–Pháp vô sinh ấy sinh khởi chăng? Hay là pháp sinh sinh khởi?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời:

–Pháp vô sinh cũng không sinh, mà pháp sinh cũng lại không sinh.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi:

–Thế nào là muốn khiếncho pháp không sinh có chỗ sinh?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời:

–Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ sinh, tự nhiên rỗng không chẳng muốn khiếnsinh. Thanh văn, Bích-chi-phật trên cho đến Phật đạo đều không sinh, tự nhiên rỗng không, chẳng muốn khiếnsinh.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi:

–Pháp sinh ấy lại có sinh chăng? Pháp không sinh khởi sinh chăng?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời:

–Pháp sinh ấy cũng không sinh, pháp không sinh ấy cũng không sinh. V́ sao? Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! V́ sinh, không sinh, hai pháp này không hợp, không tan, không sắc, không thấy, không chỗ nắm bắt tức là nhất tướng, không có tướng sở hữu. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, v́ vậy, sinh là không sinh. Pháp không sinh ấy lại cũng không sinh.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi:

–Pháp nào có thể tương ưng pháp không sinh? Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề, pháp không sinh ấy không chỗ sinh. Pháp không chỗ sinh cũng không sinh?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời:

–Pháp không sinh ấy là pháp không sinh, v́ không sinh có thể tương ưng pháp không sinh, không chỗ sinh. V́ sao? V́ pháp không sinh, không chỗ sinh ấy và biện tài đều không sinh. Tất cả các pháp này không hợp, không tan, không sắc, không thấy, chẳng thể nắm bắt, tức là nhất tướng, không có tướng sở hữu.

Ngài Xá-lợi-phất nói:

–Không chỗ sinh, không biện luận về chỗ sinh, pháp không chỗ sinh cũng không sinh, v́ vậy có thể tương ưng.

Ngài Tu-bồ-đề nói:

–Đúng vậy, đúng vậy! V́ không sinh nên không biện luận về chỗ sinh, pháp không sinh cũng không chỗ sinh mới là tương ưng. V́ sao? V́ sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ sinh. Sáu t́nh là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng không chỗ sinh. Thanh văn, Bích-chi-phật cho đến Phật cũng không chỗ sinh. V́ vậy, thưa Tôn giả Xálợi-phất, không biện luận về chỗ sinh, không không chỗ sinh, pháp không chỗ sinh, cho nên hành trạng của nó là không chỗ sinh. Như thế mới có thể tương ưng pháp không sinh.

Ngài Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề:

–Hiền giả Tu-bồ-đề là bậc Thuyết pháp đệ nhất. V́ sao? V́ nếu có ai hỏi th́ tùy theo câu hỏi mà giải đáp, nhưng đối với tất cả các pháp không vướng mắc.

Ngài Xá-lợi-phất nói tiếp:

–Thế nào là đối với tất cả pháp không vướng mắc?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời:

–Sắc, thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, rỗng không, cũng không vướng mắc, cũng không trong ngoài, cũng không trung gian. Sự tiếp xúc của sáu t́nh, mười tám chủng cũng rỗng không, thanh tịnh, chẳng vướng mắc trong ngoài, cũng không trung gian. Sáu pháp Ba-la-mật và bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng thanh tịnh, rỗng không, chẳng vướng mắc trong ngoài, trung gian.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Đối với tất cả các pháp ấy không vướng mắc, Đại Bồ-tát hành sáu pháp Ba-la-mật, th́ đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, cho đến trí Nhất thiết đều thanh tịnh.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi:

–Sao gọi là Đại Bồ-tát thuần hành sáu pháp Ba-la-mật mà làm thanh tịnh đạo Bồ-tát?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời:

–Thí ba-la-mật ấy, có thí thế gian, chẳng vượt thế gian. Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật cũng có trí thế tục và trí vượt thế tục.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi:

–Sao gọi là Thí ba-la-mật thế tục? Thí ba-la-mật vượt thế tục?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời:

–Đại Bồ-tát bố thí nhiều cho Sa-môn, Bà-la-môn, người nghèo cùng, kẻ ăn xin. Đối với người đói cho ăn, người khát cho uống, hương hoa, âm nhạc, nhà cửa, bảy báu, nghề nghiệp sinh sống, thuốc thang trị bệnh, tất cả đều thỏa mãn theo ý muốn, kể cả vợ con nam nữ, đầu mắt, da thịt, thân thể, những cái mà con người ham muốn, nhưng Bồ-tát chẳng thương tiếc, mở lòng ban cho, theo nhu cầu mà trao tặng, không có bỏn sẻn. Tự nghĩ: “Ta là thí chủ buông bỏ tất cả, theo lời Phật dạy, hành Thí ba-la-mật.” Thí như thế rồi, nhưng nếu có vông tưởng, đối với các chúng sinh, tâm chí còn điên đảo cho là chắc thật, đem sự bố thí này, khuyến trợ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Dùng sự bố thí này khiếncho quần sinh hiện thế an ổn cho đến đạt cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Bồ-tát ấy có ba việc mà thấy có bố thí. Những ǵ là ba? Tưởng về ḿnh, tưởng tôi ta, tưởng có quả báo khi bố thí cho người khác. Đó là Thí ba-la-mật thế gian, chẳng phải vượt thế gian. Thế nào là Thí ba-la-mật thế gian, chẳng phải vượt thế gian? Ở tại thế gian chẳng dời đổi, chẳng được độ thoát đạt đến vô chướng ngại, đó là Thí ba-la-mật thế gian. Có thể làm thanh tịnh ba phẩm. Những ǵ là ba? Đại Bồ-tát có bố thí nhưng chẳng thủ đắc tôi ta, chẳng thấy người nhận, có sự nhận lấy cũng chẳng tưởng nghĩ báo đáp. Đó là Đại Bồ-tát làm thanh tịnh ba phẩm.

Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát bố thí cho chúng sinh nhưng cũng không thấy có người, v́ để khuyến trợ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên không có các tưởng, đều không thấy có, đó là Thí ba-la-mật vượt thế gian. Cho nên gọi là Thí ba-la-mật v́ vượt thế gian nên chẳng vướng mắc thế gian. Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật cũng lại Như thế, nếu có vọng tưởng th́ là trí thế gian, không có vông tưởng là trí vượt thế gian.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Đó là Đại Bồ-tát thuần hành sáu pháp Ba-la-mật thành đạo Bồ-tát.

Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi ngài Tu-bồ-đề:

–Sao gọi là Đại Bồ-tát thành tựu đạo Bồ-tát?

Ngài Tu-bồ-đề đáp:

–Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, Căn, Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng, Ba môn giải thoát: Không, Vô tướng, Vô nguyện, bảy không, tất cả các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, bốn phân biệt biện, đại Từ, đại Bi, đó là đạo của Đại Bồ-tát.

Ngài Xá-lợi-phất khen:

–Hay thay, hay thay! Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Cái ǵ làm cho ba-la-mật thành dũng mãnh, là đệ nhất trong việc độ thoát?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời:

–Nhờ ân của Bát-nhã ba-la-mật dũng mãnh mà được độ thoát.

V́ sao? V́ Bát-nhã ba-la-mật là mẹ của tất cả các pháp, hộ tŕ, độ thoát cho Thanh văn, Bích-chi-phật, v́ khiếnthành tựu được Bồ-tát nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Bát-nhã ba-la-mật đều nhập trong Tam thừa. Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại, trong mười phương thế giới đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật mà đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành bậc không thoái chuyển. Nếu có Đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã ba-la-mật mà không hồ nghi, chẳng do dự th́ nên biết Đại Bồ-tát ấy tùy thuận tất cả chúng sinh, v́ tất cả, không có ǵ tiếc nuối, bố thí hết, không điên đảo. Như thế là chẳng ĺa hạnh Đại Bồ-tát. Như vậy điều tưởng niệm là tư duy về đại Bi rộng lớn.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả Tu-bồ-đề:

–Đại Bồ-tát ưa tư duy về đại Từ, đại Bi tức là xả ly tất cả chúng sinh. V́ sao? V́ tất cả chúng sinh chẳng ĺa niệm.

Ngài Tu-bồ-đề nói:

–Hay thay, hay thay! Hiền giả Xá-lợi-phất! Nay tôi khen ngợi lời nói của Hiền giả là chân là thật. Con người không sở hữu, điều nghĩ tưởng ấy cũng không sở hữu, con người không tự nhiên, điều nghĩ tưởng ấy cũng không tự nhiên. Con người cũng rỗng không, niệm cũng rỗng không, con người không thật, niệm cũng không thật, thân người rỗng không, vô niệm cũng rỗng không, không có con người, không có sự giác ngộ, niệm cũng không giác ngộ. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không sở hữu, niệm cũng không sở hữu, bảy không cũng không sở hữu, sắc không sở hữu, rỗng không, không thật. Sắc không giác, niệm cũng không giác. Mười tám chủng, địa, thủy, hỏa, phong, thức, giới; Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, Vô úy, pháp của chư Phật, tất cả các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, trí Nhất thiết, hiểu rõ những pháp đó đều là không sở hữu th́ đó là đạo. Sở niệm không sở hữu, con người không giác, sở niệm cũng không giác, hiểu rõ điều đó rồi mới thành Chánh giác. Đại Bồ-tát nên hành Như thế. Đại Bồ-tát chẳng ĺa niệm ấy mới thành Chánh giác.

Bấy giờ Đức Phật khen ngợi Tu-bồ-đề:

–Hay thay, hay thay! Đại Bồ-tát nên nói Như thế. Bát-nhã ba-la-mật-đa như ông đã nói là đều nương vào oai thần của Như Lai. Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật Như thế.

Khi Hiền giả Tu-bồ-đề nói Bát-nhã ba-la-mật th́ trong tam thiên đại thiên thế giới, sáu thứ chấn động, các phương Đông, Tây, Nam, Bắc trên dưới đều chấn động. Khi ấy Đức Phật mỉm cười.

Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Đức Thiên Trung Thiên! V́ sao hôm nay Ngài cười?

Chắc là có lý do?

Đức Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Đúng! Hôm nay ta ở cõi Nhẫn này, nói Bát-nhã ba-la-mật, th́ các Đấng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại trong mười phương cũng đều nói Bát-nhã ba-la-mật.

Khi Phật nói lời ấy có mười hai triệu chư Thiên, con người đều đắc pháp nhẫn không từ đâu sinh, ngay khi ấy thấy hết chư Phật mười phương đều nói Bát-nhã ba-la-mật. Và Đức Phật khi nói lời ấy, vô số vô số người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

KINH QUANG TÁN

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0