佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

 

KINH PHÓNG QUANG BÁT-NHÃ

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Vô-la-xoa, người nước Vu Điền.

QUYỂN 20

Phẩm 86: CÁC PHÁP B̀NH ĐẲNG

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Người nhận xét đúng sự thật, th́ không chấp trước, không từ bỏ; người không nhận xét đúng sự thật, cũng không chấp trước, không từ bỏ; pháp sở hữu không có sở hữu, cũng không chấp trước, không từ bỏ; sự nhận xét đúng và không nhận xét đúng đều không chấp trước, không từ bỏ. Việc này thế nào?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–V́ các pháp b́nh đẳng cho nên ta nói có đoạn.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Việc đó nghĩa là ǵ?

Phật dạy:

–Pháp đó, dầu có Phật hay không có Phật th́ pháp tánh chân như vẫn như vậy. Pháp đó không bao giờ biến đổi và thường trụ như vậy, cho nên gọi là đoạn. Chỉ do tục đế nên có danh hiệu, có ngôn ngữ, giáo pháp, đều không có sở hữu.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Giả sử các pháp như mộng, như tiếng vang, như bóng trong gương, như sóng nắng, như huyễn thuật, như biến hóa, th́ làm sao Bồ-tát đối với pháp không này mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Nói rằng, ta phải đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, đầy đủ thần thông Bát-nhã ba-la-mật, bốn Thiền, bốn Đẳng và bốn Không định, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, chín cấp độ Thiền, mười Lực của Như Lai, mười tám pháp Bất cộng, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp và đầy đủ Đà-la-ni môn. V́ sao nói ta sẽ làm ánh sáng, chiếu khắp chỗ tối tâm và biết tâm ý của chúng sinh mà thuyết pháp?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Như lời ông hỏi pháp đó là như huyễn như hóa đó chăng?

Tu-bồ-đề thưa:

–Giả sử các pháp như mộng, như huyễn th́ Bồ-tát làm sao thực hành Bát-nhã ba-la-mật?

–Bạch Thế Tôn! Mộng là huyễn hóa, không phải là chân thật. Pháp không chân thật th́ không thể thực hành sáu pháp Ba-la-mật, cho đến mười tám pháp Bất cộng cũng không thể thực hành được.

Phật bảo:

–Này Tu-bồ-đề! Đúng vậy, đúng vậy! Như lời ông nói, pháp huyễn hóa th́ không thể thực hành được sáu pháp Ba-la-mật; không thể thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Pháp đó đều là pháp tướng hữu vi, nhưng pháp tướng hữu vi cũng không thể đạt được Nhất thiết trí; pháp đó là đạo, cũng lại là Niết-bàn, do pháp này không có h́nh tướng, không có chỗ sinh. V́ vậy, Bồ-tát từ khi mới phát tâm đến nay, tu tập các thiện pháp, sáu pháp Ba-la-mật, cho đến mười tám pháp Bất cộng, biết pháp đó như mộng, như hóa nhưng không đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật và mười tám pháp bất cộïng th́ không thể giáo hóa chúng sinh.

Bồ-tát tu tập các thiện pháp, quán các pháp như mộng, như huyễn; quán pháp Ba-la-mật; quán Nhất thiết trí; quán chúng sinh đều như mộng, như huyễn. Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không chấp nhận h́nh tướng trong pháp huyễn hóa đó mà nói sẽ đạt được đến Nhất thiết trí. Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, nên đối với mười tám pháp Bất cộng cũng không có chỗ chấp thủ. Bồ-tát biết các pháp không có chấp thủ, nên được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tại sao? V́ các pháp không có h́nh tướng, không có chỗ giữ nên không thể nắm được; pháp không có chỗ nắm mà lại nắm bắt th́ không thể thấy pháp đó. Cho nên, Bồ-tát v́ chúng sinh mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ khi phát tâm cho đến nay đều thực hành sáu pháp Ba-la-mật, chỉ v́ tất cả chúng sinh chứ không phải v́ bản thân ḿnh. Bồ-tát phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là v́ chúng sinh, nhưng chúng sinh không thấy có; v́ chúng sinh có chúng sinh, không thấy mà tướng thấy, không biết mà tướng biết, cho nên Bồ-tát cứu chúng sinh ra khỏi điên đảo ấy để đoạn dứt các tạp tưởng đến chỗ Niết-bàn.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo, thực hành Bát-nhã ba-la-mật. Đối với các pháp không có chỗ nhập, nhưng đối với không có chỗ nhập đó mà giáo hóa chúng sinh, đó chỉ là tục đế chẳng phải Đệ nhất nghĩa đế.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Pháp giác ngộ mà Như Lai đạt được dựa vào thế tục hay Đệ nhất nghĩa đế.

Phật dạy:

–Dựa vào Tục đế, Như Lai đã giác ngộ, nhưng không có pháp giác ngộ và người giác ngộ. Tại sao? Nếu nói ta là người giác ngộ, được giác ngộ, việc đó rất hổ thẹn. Nếu có hai th́ không đạt được mà không giác ngộ.

Tu-bồ-đề lại hỏi:

–Thưa Thế Tôn! Giả sử có cả hai, không đạt được giác ngộ, vậy v́ từ một được giác ngộ chăng?

Phật dạy:

–Cũng không từ hai, cũng không từ một, người đạt được giác ngộ, không một cũng không hai; v́ không một, không hai đó là đạt đến giác ngộ. V́ sao? Có người đạt đến giác ngộ là hý luận, là cống cao. Bậc Chánh đẳng giác không hý luận, không cống cao.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Sở hữu các pháp đều không có, v́ sao gọi là Chánh đẳng giác.

Phật dạy:

–Cũng không cũng có; cũng không, không không. V́ không có lời để nói, đó là Chánh đẳng giác. V́ pháp Đẳng giác không có lời để nói và không có pháp nói về bậc Chánh đẳng giác. Bậc Đẳng Giác đã vượt qua các pháp; phàm phu ngu muội còn cách xa Đẳng giác.

Tu-bồ-đề lại hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai đã xa ĺa Chánh đẳng giác chăng?

Phật dạy:

–Đẳng giác không phải thuộc về cảnh giới của Thánh hiền Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát và Phật.

Tu-bồ-đề lại hỏi:

–Thưa Thế Tôn! Đối với các pháp, Như Lai được tự tại không?

Phật đáp:

–Phàm phu, Thanh văn, Bích-chi-phật và Phật cùng một Đẳng giác. Tất cả Đẳng giác đó không có hai, không có phàm phu, không có Chánh đẳng Chánh giác, cho đến Như Lai cũng không có phân hạng ǵ cả.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Giả sử đối với Bậc Đẳng Giác không phân hạng th́ phàm phu, Thanh văn, Bích-chi-phật cũng không có khác nhau.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy! Phàm phu cho đến Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác cũng không có sai khác.

Tu-bồ-đề hỏi:

–Giả sử phàm phu cho đến Chánh đẳng Chánh giác không có sai khác v́ làm sao có Tam bảo?

Phật dạy:

Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Về Phật bảo, pháp bảo, Tăng bảo và pháp Đẳng Giác có khác nhau không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Con được nghe Thế Tôn dạy Tam bảo và Đẳng Giác không có khác. Tam bảo và Đẳng giác không hội hợp, không chia ĺa, không có h́nh tướng, cũng không thể thấy; một tướng là vô tướng v́ pháp vô tướng nên tạo ra số lượng nơi chốn nên có sự thân cận, có nơi chốn.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bậc Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác khi đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm chỗ y cứ của các pháp, nên biết có ba đường ác, có biết nhân đạo, biết có cõi trời Ba mươi ba, biết ba mươi bảy phẩm Trợ đạo cho đến nội ngoại không và sở hữu vô sở hữu không. Biết có mười tám pháp Bất cộng. Vậy cho nên, Tu-bồ-đề, đó là chỗ đặc biệt của Bậc Như Lai Đại Sĩ bất động đối với pháp Đẳng giác nên thành lập nơi chốn của các pháp.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Như Ngài đối với Đẳng giác mà bất động th́: phàm phu, Thanh văn, Bích-chi-phật đối với Đẳng chánh giác cũng bất động chăng? Pháp của Phật, phàm phu, Thanh văn, Bích-chi-phật và Như Lai là một pháp chăng? Cho đến pháp vô h́nh, pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức có khác biệt không? Các pháp nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý có khác biệt không? Pháp địa, thủy, hỏa, phong, không, thức có khác không? Pháp dâm, nộ, si, có khác không; sáu mươi hai tà kiến, có khác không? Bốn Thiền, bốn Đẳng và bốn Không định, có khác không? Ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, nội ngoại không, pháp không có sở hữu, vô sở hữu, tám Bối xả, chín Cấp độ thiền, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại tuệ, mười Lực của Như Lai, mười tám pháp Bất cộng, pháp hữu vi và vô vi, các pháp này đều chỉ có tên.

Thế nào là xứ không thể nắm bắt được? 

Nếu Bồ-tát không trụ ở xứ này th́ không phân biệt được các pháp và không thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật. Thực hành Bát-nhã Ba-la-mật th́ Bồ-tát phải đi khắp mười xứ, mới có thể đạt đến địa vị Bồ-tát, liền vượt qua hai địa, khi qua hai địa rồi được đầy đủ thần thông, nhờ các thần thông đó nên đầy đủ năm pháp ba-la-mật.

Bồ-tát đi khắp cõi Phật để cúng dường chư Phật, trồng các căn lành, giữ ǵn công đức để giáo hóa chúng sinh làm thanh tịnh cõi Phật.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Như lời ông hỏi pháp của Như Lai, phàm phu và hai địa tại sao ông hỏi như vậy. Ý ông thế nào? Pháp không của năm ấm và pháp Như Lai có khác chăng?

Tu-bồ-đề thưa:

–Đều không.

Phật dạy:

–Đối với pháp không, có thể thấy pháp vô tướng không? Tướng năm ấm và tướng Phật có thể thấy không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không thể thấy.

Phật dạy:

–Vậy nên, Tu-bồ-đề phải biết, pháp của các pháp cũng không có phàm phu, không ĺa phàm phu, không phải pháp Như Lai cũng không ĺa pháp Như Lai.

Tu-bồ-đề lại hỏi:

–Thưa Thế Tôn! Pháp này là pháp hữu vi hay là pháp vô vi?

Phật đáp:

–Không ĺa pháp vô vi mà được pháp hữu vi, không ĺa pháp hữu vi mà được pháp vô vi.

Này Tu-bồ-đề! Pháp hữu vi và pháp vô vi là một pháp, không hai, cũng không hội hợp, không chia ĺa, không có h́nh tướng, không thể thấy, là một tướng; một tướng là vô tướng.

Do thế tục cho nên có chỗ tạo tác, không phải Đệ nhất nghĩa đế. Đệ nhất nghĩa đế không phải hành động của thân, miệng, ý; cũng không rời thân, miệng, ý. Đắc Đệ nhất nghĩa đế do các pháp b́nh đẳng. Thế nên, đối với Đệ nhất nghĩa, Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng không thủ đắc nghĩa Đệ nhất mà thực hành Bồ-tát hạnh.

Phẩm 87: CÁC PHÁP NHƯ HÓA

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Giả sử các pháp đều không, nên đối với các pháp không có tạo tác, tại sao Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không theo Đệ nhất nghĩa đế, mà lại hành tŕ Bồ-tát hạnh và làm bốn ân cho chúng sinh?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Như lời ông nói, không cũng không có làm hay không không làm. Nếu chúng sinh biết nghĩa không th́ không có Như Lai và cảnh giới của Như Lai. Hiểu rõ đối với pháp không, vượt qua các ngã chấp, vượt qua tướng bốn đại, vượt qua tướng thấy biết của năm ấm, vượt qua tướng mười hai xứ, vượt qua tướng hữu vi, kiến lập thế giới vô vi, đó là tánh không của vô vi. Vậy không là ǵ?

Phật dạy: 

–Đối với các tướng không, th́ người do nhà ảo thuật hóa ra là không, không huyễn hóa và không, nó không hội hợp, không chia ĺa, do không không; không không và người hóa là không thể phân biệt.

Tại sao vậy? V́ tất cả đều không.

Này Tu-bồ-đề! Năm ấm đều không; v́ không cho nên nói năm ấm là không.

Tu-bồ-đề lại hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Pháp của thế tục như huyễn, vậy đạo pháp cũng lại như huyễn chăng? Giả sử đạo pháp là huyễn th́ từ ba mươi bảy phẩm Trợ đạo cho đến mười tám pháp Bất cộng, pháp của ba thừa cũng như huyễn, người thực hành pháp ba thừa cũng như huyễn phải không?

Phật dạy:

–Các pháp hóa này do ai hóa ra? Chỗ hóa ra đó là Thanh văn, Bích-chi-phật hay là Bồ-tát và Phật; hoặc là do tập khí và hành hóa ra.

Tu-bồ-đề thưa:

–Không có người hóa ra.

Phật dạy:

–Thế nên, các pháp như hóa.

Tu-bồ-đề lại hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Chỗ đoạn diệt của Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán, Bích-chi-phật và Phật, các tập khí đã đoạn diệt cũng như hóa chăng?

Phật dạy:

–Tất cả các pháp có sinh, có diệt đều như hóa.

Tu-bồ-đề lại hỏi:

–Thưa Thế Tôn! Những pháp ǵ không như hóa?

Phật dạy:

–Pháp mà không sinh, không diệt thời không phải như hóa.

Tu-bồ-đề hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Cái ǵ không sinh, không diệt, không phải là như hóa?

Phật dạy:

–Niết-bàn không phải là hóa.

Tu-bồ-đề thưa: 

–Bạch Thế Tôn! Ngài thường nói không tức là không động chuyển, không có hai pháp, cũng không bất không, cho nên Niết-bàn cũng như hóa?

Phật dạy:

–Đúng thế, Đúng thế! Tất cả đều không, cũng chẳng phải chỗ tạo tác của Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát và Phật biết rõ pháp không đó là Niết-bàn.

Tu-bồ-đề lại hỏi:

–Thưa Thế Tôn! Người thực hành về pháp không ở quá khứ th́ nhập vào, học và giảng giải?

Phật dạy:

–Này, Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Chỉ có đời quá khứ, chứ không có đời vị lai ư?

Phẩm 88: TÁT-ĐÀ-BA-LUÂN

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bậc Đại Bồ-tát muốn cầu Bát-nhã ba-la-mật, phải như Bồ-tát Tát-đà-ba-luân, hiện đang tu phạm hạnh thanh tịnh, ở chỗ Đức Phật Lôi Âm Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Bồ-tát Tát-đà-ba-luân cầu Bát-nhã ba-la-mật như thế nào?

Phật dạy:

–Khi Bồ-tát Tát-đà-ba-luân cầu Bát-nhã ba-la-mật, không tiếc thân mạng, không mong cúng dường, không cầu tiếng khen. Ngài thường ở chỗ vắng lặng, bỗng nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: “Này thiện nam, tâm ý chớ có mệt mỏi, chán nản muốn ngủ nghỉ; không nên nghĩ đến việc ăn uống, sớm, tối, lạnh, nóng; chớ để cho tâm ý vướng bận ở trong, ngoài, nh́n bên trái, bên phải. Khi thực hành, tâm phải nghĩ như không thực hành; đối với thân năm ấm đừng nghĩ có tướng. Tại sao? V́ cho là có tướng th́ Phật pháp bị chướng ngại; nếu có chướng ngại th́ bị khổ sinh tử; nếu bị khổ sinh tử th́ không thể đạt được Bát-nhã ba-la-mật.”

Khi đó, Bồ-tát, Tát-đà-ba-luân đáp lời với tiếng giữa hư không: “Tôi sẽ làm xong lời dạy này. Tại sao vậy? V́ tôi muốn làm ánh sáng lớn để giảng giải Phật pháp cho chúng sinh. Tôi muốn được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Nói như vậy xong, Bồ-tát nghe trong hư không có tiếng khen: 

–Lành thay, lành thay! Này thiện nam, ông muốn nghe pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện th́ phải cầu Bát-nhã ba-la-mật, phải ĺa niệm tưởng, ĺa mạng kiến, ĺa nhân kiến, lánh xa ác tri thức, phải làm theo việc của Thiện tri thức, phải cúng dường bậc tri thức chân chánh. Các vị đó sẽ nói pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, pháp bất sinh, bất diệt cho ông. Ông phải khuyến khích và giúp đỡ mọi người cầu trí Nhất thiết. Người thực hành việc đó liền được nghe Bát-nhã ba-la-mật, hoặc nghe từ trong kinh, hoặc nghe từ niệm của bậc Bồ-tát.

Này thiện nam! Từ chỗ nghe được pháp Bát-nhã ba-la-mật, phải xem người đó như Đức Phật. Ông đối với vị Pháp sư phải biết báo đáp không được bội ân. Nghe Bát-nhã ba-la-mật ở người nào th́ vị đó là bậc Tri thức chân chánh; nghe được kinh th́ đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không còn thoái chuyển. Phật tự nghĩ rằng: Ta đã đến gần với Bậc Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác, chỗ ta sinh ra thường gặp chư Phật, thường xa ĺa tám chỗ tai nạn và được tám chỗ an vui, ǵn giữ đức hạnh, nên cung kính Pháp sư như cung kính Phật; đừng đem tâm ý thế tục mà đối với vị ấy. Đối với Pháp sư phải xem như giáo pháp nên đều cung kính, nếu có trái với tâm ý mong muốn th́ biết đó là việc ma.

Nếu ma Ba-tuần dùng năm Lực sắc: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, để dâng hiến Pháp sư, th́ Pháp sư dùng phương tiện quyền xảo muốn độ chúng sinh nên nhận cho họ. Nếu ông thấy như vậy chớ có tâm ô nhiễm, chỉ nên nhớ rằng: Ta chưa được phương tiện quyền xảo đó như hành động Pháp sư. Bồ-tát khi đạt được phương tiện quyền xảo rồi th́ Bồ-tát được tự tại, ví như kim cương đi xuyên vào các vật, nhưng không bị dính bụi. Ông phải lấy pháp hạnh tổng quát để quán xét Pháp sư. 

Những ǵ là pháp hạnh tổng quát? V́ các pháp không chấp trước, không từ bỏ. Tại sao vậy? V́ các pháp đều không, vô ngã, vô nhân, vô mạng. Ví như sóng nắng là huyễn hóa, phải quán sát rằng: Pháp sư là thầy dẫn đường. Với sự quán sát như vậy không bao lâu sẽ được Bát-nhã ba-la-mật.

Này thiện nam! Ông nên nắm vững việc ma nầy. Thiện nam tử đến chỗ Pháp sư mà không được vừa ý, không nên có tâm nghi ngại, nên v́ pháp mà cung kính Pháp sư.

Sau khi lãnh hội tiếng nói trên không trung th́ Bồ-tát Tát-đà-ba-luân đi về hướng Đông. Đi không được bao lâu lại suy nghĩ: “Lúc nãy ta quên hỏi, vậy ta phải đi đâu? Đi đến chỗ nào? Nghe ai nói?” Bồ-tát liền khóc lớn, sau khi khóc lại nghĩ: “Ta ở đây không ăn uống, không di chuyển từ một ngày, cho đến bảy ngày, nếu không nghe được Bát-nhã ba-la-mật th́ quyết không rời chỗ này.” Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Ví như ông trưởng giả có một người con, nhưng người con đó đã chết, cha mẹ buồn thảm chỉ nhớ đến con, ngoài ra không còn nhớ nghĩ đến ai.

Này Tu-bồ-đề! Lúc đó Bồ-tát Tát-đà-ba-luân không còn nhớ nghĩ ǵ khác chỉ nhớ nghĩ Bát-nhã ba-la-mật.

Khi Bồ-tát đang khóc, liền có h́nh tượng của Như Lai hiện ra trước mặt, với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Đức Như Lai đó khen rằng: “Lành thay, lành thay! Này thiện nam, các Đức Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác ở quá khứ, khi thực hành Bồ-tát hạnh phải cầu pháp Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy. Con hãy quyết giữ ý chí dũng tiến đi về hướng Đông, đi hai vạn dặm th́ đến nước Hương thị. Nước đó có bảy lớp thành, vách làm bằng bảy báu và có ao nước chảy mười vòng quanh thành, có cây bằng bảy báu mọc từng hàng nhiều lớp, có hào bằng bảy báu, thành đó dài rộng bốn trăm tám mươi dặm. Nước đó giàu có an vui, nhân dân hưng thịnh, phục sức với những châu báu kỳ diệu. Trong thành có năm trăm dãy hành lang, các đường xá ngõ ngách và phố phường đều thẳng tắp, được trang trí bằng bảy báu, như vàng bạc lót đường và treo cờ phướn; lầu đài ở trên thành xinh đẹp như gấm trời; vách tường đều làm bằng bảy báu. Trên thành, cây báu mọc từng hàng rất xinh đẹp, lại che lọng trang trí bằng vàng ròng, những con đường trang trí rất đẹp. Trên lầu treo những cái linh bằng bảy báu, khi gió thổi nghe tiếng linh vang lên như tiếng nhạc trời. Những chúng sinh nào nghe tiếng linh này th́ được vui vẻ. Quanh thành có ao nước nóng, lạnh hòa nhau luôn luôn đầy không vơi, mọi người chèo thuyền dạo chơi trong ao nước đó. Người nào đời trước có làm phước và công đức th́ vào được nơi đó. Trong ao đó có các hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng. Ngoài ra, có nhiều loại hoa màu sắc sặc sỡ, số trăm ngàn loại; có các thứ hoa kỳ diệu ở trong tam thiên đại thiên cõi nước, không có loại nào không có tại đó. Ở quanh thành có năm trăm tòa nhà, trang trí bằng bảy báu rất đẹp. Mỗi một tòa nhà có năm trăm ao nước, ao đó dài rộng đến hai mươi dặm và có hoa đẹp nhiều màu lớn như lọng, bánh xe; có năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, mỗi thứ đều rõ ràng.

Trong ao đó có chim nhạn, chim uyên ương, chim công và chim giao tinh; có nhiều loại chim khác nhau số đến trăm ngàn. Tòa nhà trong thành đó có bảo vật, nhưng không có chủ và người giữ. Những người nhờ phước báu đời trước nên được ở nước này, luôn luôn tu tập và thực hành Bát-nhã ba-la-mật, do đó phước của họ thọ nhận lâu dài.

Này thiện nam! Nước kia có vị Bồ-tát tên là Pháp Thượng. Ngài có tòa cung điện ở trung tâm nước đó, dài rộng bốn mươi dặm, đều bằng bảy báu, có bảy lớp tường, có cây bằng bảy báu làm lan can, vườn cây ao tắm cũng có bảy lớp; cung điện, lầu gác, lan can, cửa lớn, cửa nhỏ đều có bảy lớp chạm trổ điêu khắc bằng bảy báu.

Trong cung điện Bồ-tát Pháp Thượng có bốn tòa nhà: Một tên là Thường lạc; hai tên là Trừ ưu; ba tên là Tạp hoa; bốn tên là Tạp hương. Mỗi một nhà trọ có tám ao nước: Một là Hiền; hai là Hiền diệu; ba là Lạc; bốn là Diệu lạc; năm là Kiết tường; sáu là Kiết thượng; bảy là Trừ và tám là Bất hoàn.

Bốn bên bờ ao, mỗi bên bằng một thứ báu: vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh. Đáy ao vàng ròng, dùng lưới vàng làm lọng che, bậc cấp ở mỗi ao đều bằng vàng, được trang trí bằng xà cừ, mã não. Hai bên bậc thang có cây chuối bằng vàng, lá của nó mềm mại phất phơ theo chiều gió. Trong ao có nhiều loại hoa như đã kể ở trên. Dọc theo hai bên bờ ao lại có hoa, khi gió thổi các hoa đó rơi xuống nước, nhưng vẫn tươi như ở trên cây. Nước ao thơm mùi Chiên-đàn của trời.

Trong cung của Bồ-tát Pháp Thượng có sáu vạn tám ngàn phu nhân, thể nữ vây quanh hưởng lạc. Nam nữ trong thành Hương thị đều hội hợp, ở đó thường cùng vui vẻ trong lầu đài và ao nước.”

Đức hóa Phật kia bảo rằng: 

–Này thiện nam! Bồ-tát Pháp Thượng và quyến thuộc cùng nhau vui với ba thời pháp. Nhân dân trong nước Hương thị làm pháp tòa cho Bồ-tát Pháp Thượng, chưng bày ngay ở giữa thành. Tòa đó làm bằng vàng, bạc, thủy tinh, mã não; nệm làm bằng các loại bông mềm mại và tẩm các loại hương thơm lên tấm nệm ấy. Tòa đó cao đến mười dặm; ở trên tòa có những nam nữ cầm các chuỗi ngọc, hoa đẹp và đốt hương thơm. Tại sao? V́ cung kính pháp Bồ-tát Pháp Thượng ngồi trên tòa thuyết pháp Bát-nhã ba-la-mật cho chúng sinh.

Đức hóa Phật lại bảo: 

–Này thiện nam! Người nước Hương thị, họ cung kính, phụng sự h́nh tượng của Bồ-tát Pháp Thượng như vậy; có trăm ngàn chư Thiên đến pháp hội để nghe pháp và nhận lãnh pháp Bát-nhã ba-la-mật. Trong pháp hội đó có người đọc tụng biên chép, nhận lãnh lời dạy ghi nhớ, có người im lặng ghi nhận mà thọ tŕ. Chúng sinh trong nước đều là bậc không thoái chuyển nơi pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này thiện nam! Ông đi về phương Đông, đến chỗ Bồ-tát Pháp Thượng để được nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật. Bồ-tát Pháp Thượng là vị Tri thức chân chánh đời trước của ông. Ngài thường khuyến khích ông về quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bồ-tát Pháp Thượng khi xưa cầu pháp Bát-nhã ba-la-mật cũng như ông vậy.

Này thiện nam! Nay ông đến đó, ngày đêm chớ quên chánh niệm, th́ không bao lâu sẽ nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật.

Lúc bấy giờ, Tát-đà-ba-luân nghe nói như vậy, liền vui mừng hớn hở nói: “Đến bao giờ con có thể được thấy Pháp sư và nghe Bát-nhã ba-la-mật.”

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Ví như có người bị trúng mũi tên độc, họ không nhớ nghĩ việc khác, chỉ nghĩ rằng: Lúc đó ta làm sao t́m vị lương y để nhổ mũi tên độc ra làm cho chỗ đó mau lành.

Bồ-tát Tát-đà-ba-luân lại không nhớ nghĩ ǵ khác, chỉ mong được thấy Pháp sư và nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật rồi diệt trừ các chấp trước.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Tát-đà-ba-luân liền thấy các pháp với trí tuệ không chướng ngại và đạt được Tam-muội vô thượng.

Các Tam-muội ấy tên là: Tam-muội kiến chư pháp sở hữu, Tam-muội ư chư pháp vô sở đắc, Tam-muội hàng phục chư vô trí, Tam-muội đắc chư pháp vô phân biệt, Tam-muội đắc ư chư pháp vô biến dị, Tam-muội chư pháp vô sở hữu, Tam-muội vô sở trụ, Tam-muội diệt chư minh, Tam-muội ư chư pháp thứ đệ vô dị, Tam-muội ư chư pháp vô sở kiến, Tam-muội tán hoa.

Tát-đà-ba-luân được vô lượng các Tam-muội như vậy, trụ nơi Tam-muội đó, liền thấy mười phương vô số chư Phật đang nói pháp Bát-nhã ba-la-mật cho các vị Bồ-tát.

Khi ấy, mười phương chư Phật đều tán thán: 

–Lành thay, lành thay! Này thiện nam, khi xưa các Như Lai còn là vị Bồ-tát, cầu pháp Bát-nhã ba-la-mật, cũng từ Tam-muội này mà được như vậy.

Khi được Tam-muội này rồi, th́ đi vào pháp Bát-nhã ba-la-mật, liền thành tựu phương tiện quyền xảo, đạt được không thoái chuyển. Khi các Như Lai đắc pháp Tam-muội này cũng không thấy có hành pháp Tam-muội, không có thấy người hành pháp Tam-muội, không có người ĺa Tam-muội, không thấy có người hành đạo, cũng không thấy có người hiện chứng Đẳng giác. Như vậy, người đạt Bát-nhã ba-la-mật không có cống cao.

Này thiện nam, chúng ta không cống cao nên được sắc vàng, có Ba mươi hai tướng, ánh sáng không hạn lượng, được trí tuệ không thể nghĩ bàn, giác ngộ Phật trí chánh định tối thắng vô thượng, đầy đủ các công đức. Đối với chư Phật không thể bàn, không thể nói hết, huống ǵ hàng Thanh văn, Bích-chi-phật.

Thế nên, này thiện nam! Đối với pháp này nên cung kính thêm nữa.

Này thiện nam! Nếu có người chí nguyện tinh tấn th́ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không khó khăn ǵ.

Này thiện nam! Đối với Chân tri thức, nên có cung kính mến mộ như xem Phật Thế Tôn. Bồ-tát được gần Chân tri thức th́ mau được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi ấy, Bồ-tát Tát-đà-ba-luân bạch chư Phật:

–Con phải kính trọng chân tri thức, nhưng đó là ai? 

Chư Phật bảo:

–Bồ-tát Pháp Thượng đời đời đem Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chỉ dạy cho ông phát tâm Vô thượng Bát-nhã ba-la-mật, đầy đủ phương tiện quyền xảo. Thế nên, vị ấy là chân tri thức của ông.

Này thiện nam! Nếu đặt Đại Bồ-tát Pháp Thượng trên đầu, từ kiếp này đến kiếp khác cho đến trăm kiếp, cúng dường các thứ cần dùng ở khắp tam thiên đại thiên thế giới còn chưa thể báo đáp một chút ân. Huống ǵ nghe được pháp này làm cho ông lợi ích Bát-nhã ba-la-mật phương tiện quyền xảo.

Sau khi nói vậy rồi, các Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác biến mất.

Bấy giờ, Tát-đà-ba-luân xả chánh định, nh́n khắp bốn phương và suy nghĩ: “Các Như Lai này từ đâu đến rồi đi về đâu?” Nghĩ như thế nên buồn bã không vui và nghĩ: “Bồ-tát pháp Thượng từng thực hành Bát-nhã ba-la-mật phương tiện thiện xảo, giữ ǵn các môn Đàla-ni. Đối với các pháp được tự tại, đã tạo ra công đức từ Phật quá khứ, đây là bậc Chân sư của ta, ta nên hỏi vị ấy. Các Như Lai này từ đâu đến và đi về đâu?”

Lúc đó, Bồ-tát Tát-đà-ba-luân suy nghĩ đến Bồ-tát Pháp Thượng th́ lại càng mến mộ cung kính: “Nay ta lại nghèo không có đủ trân châu bảo vật, hương hoa kỳ lạ để đến hiến dâng Thầy, vậy đem Bát-nhã ba-la-mật cúng dường Bồ-tát pháp Thượng, chẳng nên đi không để gặp Ngài. Ta có cung kính mà không có tài sản, không bằng bán thân cúng dường Bát-nhã ba-la-mật và Thầy. Bởi từ trước đến nay, thân này nhiều lần đã mất, nên nay không diệt, nhưng vẫn bị trói buộc trong dâm, nộ, si; làm phá hoại thân, nên vẫn thống khổ, mà cũng không v́ Pháp, không v́ Thầy, mà chỉ v́ tham dục năm ấm, sáu căn.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát đi con đường lớn thẳng đến thành rao to:

–Tôi muốn bán thân, ai muốn mua tôi?

Khi đó ma Ba-tuần suy nghĩ: “Bồ-tát này đang v́ Bát-nhã ba-la-mật, nên bán thân ḿnh muốn đem cúng dường Bồ-tát Pháp Thượng, để được nghe Bát-nhã ba-la-mật phương tiện thiện xảo. Bồ-tát làm sao mà hành Bát-nhã ba-la-mật, mau đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho được; nghe rồi nhất định Bồ-tát cung kính cúi đầu lãnh thọ. Nếu ta không phá hoại th́ Bồ-tát sẽ dạy vô số trăm ngàn Bồ-tát và các chúng sinh thoát khỏi cảnh giới của ta. Vậy ta nên đến phá hoại.”

Ma Ba-tuần làm cho nam nữ cả nước không thấy h́nh và không nghe tiếng nói của Bồ-tát.

V́ bán thân không được, nên Tát-đà-ba-luân buồn rầu khóc lớn: “Tôi rất tha thiết muốn bán thân ḿnh để cúng dường Thầy mà không được.”

Khi đó Thích Đề-hoàn Nhân suy nghĩ: “Bồ-tát đang v́ Bát-nhã ba-la-mật để cúng dường Bồ-tát Pháp Thượng. Ta đến đó xem thử người ấy v́ cầu pháp hay là dối trá.” Nghĩ vậy rồi, Thích Đề-hoàn Nhân hóa làm vị Phạm chí trẻ tuổi đến nơi hỏi Bồ-tát Tát-đà-ba-luân:

–Này thiện nam! V́ sao không vui mà buồn rầu khóc lóc Như thế?

Bồ-tát đáp:

–Này thiếu niên! Tôi v́ pháp muốn bán thân cúng dường Thầy nhưng vẫn không bán được, không ai hỏi đến nên tôi khóc. Tự nghĩ ḿnh đức mỏng không tài vật quý báu để cúng dường Thầy.

Thiếu niên nói với Bồ-tát:

–Tôi không cần người, tôi đang cúng tế, chỉ muốn cần máu, tủy và tim người. Hãy đưa cho tôi th́ tôi sẽ đưa báu vật cho.

Bồ-tát vui mừng nói:

–Thế là tôi được lợi ích hoàn toàn, thiếu niên hãy mua tim tủy và máu của tôi, cho tôi tài bảo để cúng dường Thầy. Khiếncho tôi được nghe Bát-nhã ba-la-mật và phương tiện thiện xảo th́ tôi được mãn nguyện.

Thiếu niên lại hỏi:

–Ông bán tủy máu và tim giá bao nhiêu?

Bồ-tát đáp:

–Thiếu niên cho tôi nhiều ít tùy ý.

Tát-đà-ba-luân liền dùng tay phải tự đâm vào tay trái lấy máu cho thiếu niên, lại muốn chặt xương lấy tủy.

Trong thành, có một nữ trưởng giả tài giỏi hơn ma, không bị ma chễ phục. Đang ở trên lầu trông thấy Bồ-tát đang tự hành h́nh, cô ta suy nghĩ: “Ta hãy xuống hỏi người ấy muốn ǵ?”

Đi xuống lầu gặp Bồ-tát, nữ trưởng giả hỏi:

–Này anh kia! V́ sao như vậy? Tự đâm ḿnh lấy máu một cách tàn khốc, rồi lại còn muốn chặt xương nữa?

Tát-đà-ba-luân đáp:

–V́ muốn bán thân cho thiếu niên để được vật báu cúng dường Thầy với mục đích muốn nghe tôn kinh Bát-nhã ba-la-mật.

Nữ trưởng giả liền nói với Bồ-tát:

–Cúng dường cho Thầy sẽ được các công đức kỳ lạ đặc biệt ǵ?

Bồ-tát đáp:

–Thầy sẽ dạy cho tôi Bát-nhã ba-la-mật phương tiện thiện xảo, nói cho tôi sự hành pháp Bồ-tát, thời tôi sẽ học được pháp ấy, nhất định bắt đầu cho tất cả chúng sinh thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thân tôi sẽ được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng vô thượng, đạt bốn Tâm vô lượng, bốn Vô sở úy, mười Lực của Phật, mười tám pháp Bất cộng, đạt sáu phép Thần thông, giới thanh tịnh không thể nghĩ bàn, thành Phật rồi được Tuệ vô ngại, sẽ được của báu vô thượng, trừ tất cả nghèo. Tôi sẽ được pháp này như vậy.

Nữ trưởng giả nghe nói vậy rồi hớn hở vui mừng nói Bồ-tát:

–Lành thay, lành thay! Hiền giả, thật là kỳ lạ đặc biệt, nên mới nói pháp vi diệu như vậy.

Bồ-tát lại nói:

–Hiền giả! Do một pháp này sẽ t́m gặp hằng hà sa pháp. V́ sao? V́ công dụng của pháp này rất sâu xa vi diệu.

Nữ trưởng giả nói:

–Này thiện nam! Điều mong muốn của ông sẽ được, chớ nghi nan. Các loại báu trân châu, kim ngân, hổ phách, chiên-đàn, hương thơm, lụa cờ, lọng hoa, tùy theo ý muốn của ông, tôi sẽ cho, có thể đem cúng dường Thầy. Ông chớ tự đâm cắt hủy hoại thân ḿnh. Tôi cũng muốn đi đến chỗ đó cùng với ông để vun trồng gốc thiện. Như những ǵ ông nói, tôi cũng đều muốn đạt được.

Khi ấy, Thích Đề-hoàn Nhân biến Phạm chí thiếu niên trở lại thân ḿnh, đứng trước Bồ-tát Tát-đà-ba-luân khen: “Hay thay, hay thay! Thiện nam, sự bền chí như Hiền giả quá khứ các Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác, hành Bồ-tát đạo, cầu Bát-nhã ba-la-mật phương tiện thiện xảo thành hiện Đẳng giác cũng như Hiền giả. Hôm nay, tôi cũng không cần tim tủy và máu người, v́ tôi muốn thử nên đến đây, Hiền giả nguyện muốn ǵ?

Tát-đà-ba-luân đáp:

–Tôi không cần ǵ khác, chỉ nguyện được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Thích Đề-hoàn Nhân thưa:

–Thiện nam! Đây là cảnh giới của chư Phật, không phải chỗ hiểu biết của tôi, hãy cầu mong chuyện khác để cho tôi hưởng ít nhiều phước.

Bồ-tát đáp:

–Giả sử đại nguyện chẳng phải cảnh giới của bạn th́ xin thân thể tôi lành lặn như xưa, đó chính là phước rồi.

Vừa nói dứt lời, thân của Tát-đà-ba-luân liền trở lại như cũ. Lúc ấy, Đế Thích biến mất.

Nữ trưởng giả thưa Bồ-tát:

–Xin ông hãy theo tôi trở về gặp cha mẹ tôi và thưa với họ, tôi tùy theo ý muốn của ngài mà xin cấp những vật cần cúng dường như ý ngài muốn để phục vụ ngài. Tôi sẽ đến nơi Bồ-tát Pháp Thượng.

Khi ấy, Tát-đà-ba-luân đến nhà cô ta và đứng đợi ngoài cửa. Vào nhà, nữ trưởng giả thưa:

–Xin hãy cho con kim ngân, trân bảo, lưu ly, ma-ni, hương thơm, chiên-đàn, lọng, hoa, cờ đủ các loại y phục nhiều màu, cùng năm trăm nữ hầu và các thứ kỳ lạ khác để cúng dường, sẽ v́ pháp cùng với Bồ-tát Tát-đà-ba-luân đến chỗ Bồ-tát Pháp Thượng ở nước Hương thị, muốn nghe kinh điển các pháp của Phật, con sẽ đạt được kết quả độ thoát chúng sinh. Cha mẹ hỏi:

–Tát-đà-ba-luân là ai?

Thưa:

–Người này đang đứng ngoài cửa, phát thệ nguyện kiên cố muốn cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. V́ muốn cứu khổ vô cùng cho chúng sinh. Có pháp rất vi diệu tên Bát-nhã ba-la-mật. Đây là pháp Bồ-tát cần phải học. Thiện nam tử đó chỉ v́ pháp này mà bán ḿnh không tiếc thân mạng, tự đâm cắt thân mạng cúng dường Pháp Thượng Đại sư. Người này chí thành nên cảm động đến Đế Thích. Con thấy sự việc ấy nên đến hỏi: “Có oán hận ǵ kỳ lạ vậy, mà tự đâm cắt thân ḿnh?” Tát-đà-ba-luân bảo con: “Tôi bán thân cho người thiếu niên để được tài vật cúng dường Thầy tôi. Tôi sẽ được ba mươi hai tướng tốt, Tám mươi vẻ đẹp như Phật, sẽ chuyển pháp luân độ thoát chúng sinh.” Con nghe thế rất vui mừng và ai nghe pháp này cũng đều vui cả. Con hứa cho đủ trân bảo cúng dường và theo hầu vị ấy. V́ thế, xin cha mẹ cho con trân bảo và các nữ hầu.

Cha mẹ bảo:

–Như lời con nói, người này tinh tấn một cách kỳ lạ, v́ muốn cầu pháp chẳng thể nghĩ bàn mới không tiếc thân mạng như vậy.

Như lời con nói, thiện nam này chắc chắn có đầy đủ pháp Vô thượng làm an ổn chúng sinh. Kiến lập bốn hoằng đại thệ của Bồ-tát, ta làm sao trái nguyện này của con. Ta cũng muốn đến chiêm ngưỡng cúng dường Bồ-tát Pháp Thượng, nhưng v́ già yếu không thể đi được. Tùy ý nguyện, con vui vẻ thay ta, tùy ý muốn trân kỳ bảo vật ta hoàn toàn đáp ứng mọi tâm nguyện của con.

Bấy giờ, nữ trưởng giả đem năm trăm chiếc xe trang sức bằng bảy báu và năm trăm thể nữ hầu cùng nhau trang sức xinh đẹp, chở tất cả thứ hoa nhiều màu sắc, y báu... Những thứ nói như trên. Và một chiếc xe riêng chở Tát-đà-ba-luân với năm trăm thể nữ đi theo.

Như vậy, tuần tự đi về phương Đông, họ trông thấy thành Hương thị, các loại thất bảo trân kỳ màu đen, vàng xinh đẹp chưa từng có như trên đã nói.

Lại thấy Bồ-tát Pháp Thượng cùng đại chúng đến trăm ngàn vạn vây quanh thuyết pháp ở giữa thành. Họ thấy vậy rồi lòng rất vui mừng, thân được an ổn như Tỳ-kheo đắc Tứ thiền.

Laị nghĩ: “Ta không nên ngồi trên xe mà phải xuống đi bộ.” Bồ-tát cùng nữ trưởng giả và năm trăm thể nữ theo hầu, tụ họp trước cửa thành. Nh́n thấy đài bằng bảy báu, dùng trân châu, chiên-đàn màu đỏ trang sức hai bên đường. Đài ấy h́nh tứ giác, có bốn b́nh báu đựng ngọc ma-ni phát ra ánh sáng suốt ngày đêm. Có lò hương bằng báu, thường đốt hương thơm, thơm ngát ngày đêm. Chính giữa đài có tháp bảy báu, dùng vật báu bốn màu làm rương; dùng vàng ròng tía mỏng để viết Bát-nhã ba-la-mật làm thành quyển kinh để trong rương đó. Lại dùng bảy báu dệt thành cờ treo hai bên, màu sắc cờ rực rỡ, phất phới theo chiều gió.

Tát-đà-ba-luân và năm trăm người nữ ấy thấy đài trang trí bằng bảy báu. Có Thích Đề-hoàn Nhân cùng các Thiên tử đem bột thơm mịn như vi trần được giả bằng chiên-đàn ở cõi trời, tung vãi khắp hư không lên đài và trổi nhạc cúng dường.

Lúc đó, Tát-đà-ba-luân hỏi thăm Thích Đề-hoàn Nhân:

–Ông dùng hoa này rải lên đài cúng dường để làm ǵ?

Thích Đề-hoàn Nhân đáp:

–Thiện nam! Ngài không biết thật sao? Bát-nhã ba-la-mật này sinh các Bồ-tát, tất cả Bồ-tát đang học pháp này sẽ thành tựu công đức ba-la-mật, đầy đủ các pháp của Phật, đạt Nhất thiết trí, thế nên chúng tôi cúng dường.

Tát-đà-ba-luân nghe như vậy vô cùng vui vẻ.

Lại hỏi:

–Bát-nhã ba-la-mật hiện đang ở đâu?

Thích Đề-hoàn Nhân đáp:

–Trong rương bảy báu ở giữa đài. Bồ-tát Pháp Thượng đóng dấu bằng ấn bảy báu, các vị và tôi không thể thấy được.

Khi ấy, Tát-đà-ba-luân cùng nữ trưởng giả với trăm ngàn người nữ đều lấy các hoa thơm, hương thơm, chiên-đàn, các thứ báu lưu ly, ma-ni để cúng dường Bát-nhã ba-la-mật; để dành một phần đem đến nơi tòa để cúng dường Đại sư Pháp Thượng. Những hoa được rải hóa thành đài hoa bảy báu lơ lửng giữa hư không ngay trên Bồ-tát Pháp Thượng và mưa các hoa quý lên Bồ-tát Pháp Thượng, tung các y báu nhiều màu sắc lên đài, có hóa Thiên nhân tay cầm cờ trời phủ xuống.

Tát-đà-ba-luân với năm trăm người nữ thấy sự biến hóa như vậy đều nghĩ: “Sự biến hóa này của Đại Bồ-tát pháp Thượng thật chưa từng có. Huống ǵ thành bậc hiện chứng Đẳng giác Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Khi ấy, nữ trưởng giả và năm trăm người nữ thấy Bồ-tát Pháp Thượng đều hớn hở vui mừng. Họ đều phát ý Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đồng thời khen: “Nếu giữ ǵn công đức này th́ được pháp lợi ích cũng như vậy. Làm cho chúng ta được cúng dường Bát-nhã ba-la-mật như Bồ-tát Pháp Thượng. Chúng ta sẽ truyền bá rộng Bát-nhã ba-la-mật, độ chúng sinh cũng như Bồ-tát Pháp Thượng. Mong rằng chúng ta được Bát-nhã ba-la-mật, thành tựu phương tiện quyền xảo, tạo ra sự biến hóa này, đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đối với các pháp được tự tại cũng như Đại sư Pháp Thượng.”

Lúc đó, Tát-đà-ba-luân với nữ trưởng giả cùng năm trăm người nữ cúng dường rồi đến trước đức Pháp Thượng đảnh lễ sát đất lui đứng một bên, cung kính chắp tay thưa:

–Khi xưa, con ở nơi thanh vắng nghe tiếng nói trong hư không: “Này thiện nam, từ đây đi về phương Đông có thể nghe được Bát-nhã ba-la-mật. Con đi về phương Đông nữa đường, suy nghĩ: “Con không nên theo ai để được nghe Bát-nhã ba-la-mật.” Nói rồi buồn rầu khóc lóc, đứng yên một chỗ, bảy ngày không nghĩ đến ăn uống, chỉ nghĩ lúc nào sẽ được Bát-nhã ba-la-mật.

Lúc đó, có Hóa Phật đứng trước con bảo rằng: “Này thiện nam, hãy giữ ǵn ý chí dũng mãnh tinh tấn này. Từ đây đi về phương Đông hai vạn dặm, có nước tên Hương thị, có Bồ-tát tên Pháp Thượng thường thuyết Bát-nhã ba-la-mật, ông có thể nghe. Vị ấy là bậc Chân sư của ông.”

Nghe hóa Phật dạy rồi, con liền đi về phương Đông, nh́n thấy Đại sư trong ý an ổn hớn hở vui mừng. Ví như Tỳ-kheo đắc Tứ thiền. Do nhớ nghĩ Bát-nhã ba-la-mật nên đắc Vô thượng Tam-muội, liền thấy mười phương chư Phật khen con rằng: “Lành thay, lành thay! Tam-muội mà ông chứng được đều sinh ra từ Bát-nhã ba-la-mật. Khi còn hành Bồ-tát đạo, ta cầu Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như vậy.” Khen ngợi con rồi, Ngài biến mất. Sau khi ra khỏi Tam-muội con suy nghĩ: “Chư Phật từ đâu đến, rồi đi về đâu?” Con rất buồn, lại nghĩ: “Đại sư Pháp Thượng được Bát-nhã ba-la-mật phương tiện thiện xảo. Đối với các pháp được tự tại, con nên đến hỏi Thầy: Mười phương chư Phật từ đâu đến và đi về đâu?”

Hôm nay, xin Đại sư giảng giải cho con, các Như Lai này từ đâu đến, con nguyện muốn nghe điều đó. Chúng con nghe rồi thường gặp chư Phật không rời Thế Tôn.

Phẩm 89: PHÁP THƯỢNG

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Pháp Thượng bảo Bồ-tát Tát-đà-ba-luân:

–Này thiện nam! Các Như Lai thường không lay động, không đi cũng không đến. Như Lai nghĩa là: Như như, không sinh không diệt. Không sinh nghĩa là: không đến cũng không đi; không sinh chính là Như Lai.

–Này thiện nam! Thật tế không biết lúc đến cũng không biết lúc đi; thật tế ấy chính là Như Lai. Hư không: không đến cũng không đi; hư không ấy chính là Như Lai. Chân đế: không biết lúc đến cũng không biết lúc đi; Chân đế ấy chính là Như Lai. vô vi: không đến cũng không đi; vô vi ấy chính là Như Lai. Diệt tận: không đến cũng không đi; Diệt tận ấy chính là Như Lai.

Này thiện nam! Như Lai không ĺa pháp này, các pháp này chính là chân thật của Như Lai.

Này thiện nam! Như vậy, có một không hai, không ba cũng không số lượng, v́ pháp là không vậy.

Này thiện nam! Ví như thời tiết mùa Xuân đã qua, mùa Hạ nóng gắt. Nóng thời có sóng nắng, người ngu đuổi theo bảo cho là nước, chạy theo t́m không ngừng nghỉ, cho rằng sẽ được nước. Ý Hiền giả thế nào? Nước mà người ấy rượt theo là nó từ đâu đến? Từ biển Đông, biển Tây, biển Nam, biển Bắc, hay từ biển nào đến?

Tát-đà-ba-luân đáp:

–Sóng nắng khi trời nóng không phải là nước th́ làm sao gọi là từ biển đưa đến đây?

Pháp Thượng nói:

–Này thiện nam! Người phàm phu kia, v́ nóng khát tưởng cho là nước, nên đuổi theo mệt nhọc, cuối cùng cũng không được nước.

Như các hữu t́nh có tưởng cho rằng, các Như Lai có đến có đi, cũng như hàng phàm phu kia không khác. V́ sao? Đừng dùng sắc thân mà quán Như Lai. Như Lai là pháp tánh không đến, cũng không đi. Các Như Lai cũng như vậy, không đến không đi.

Này thiện nam! Ví như ảo thuật hóa ra voi, ngựa, xe cộ. Nếu ai gọi các ảo thuật ấy có đến có đi đều là người ngu. Người cho rằng các Như Lai có đến có đi cũng là phàm phu. V́ sao? V́ pháp tánh không đến cũng không đi.

Tát-đà-ba-luân bạch Pháp Thượng:

–Việc thấy trong mộng đều không, không thật, đều không có.

Pháp Thượng bảo:

–Này thiện nam! Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói: Các pháp đều như có trong mộng. Nếu pháp mộng huyễn có thật tướng th́ không biết Như Lai. Chỉ dựa vào thân danh sắc Như Lai mà thôi. Cho rằng, Như Lai có tướng đến đi, hạng này đều là phàm phu vô trí, hạng này sẽ luân hồi vô số trong sinh tử, cách xa Bát-nhã ba-la-mật, cách xa pháp của chư Phật.

Đối với các pháp mộng huyễn mà biết các pháp ấy như mộng huyễn th́ người đó biết Như Lai.

Đối với các pháp Như Lai cầu có tướng đến đi, cũng không cầu các Như Lai có sinh có diệt. Các ông nếu biết Như Lai không đến không đi, không sinh không diệt th́ không bao lâu nữa sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đó là hành Bát-nhã ba-la-mật, đó là đệ tử của Phật. Những người này đáng nhận của cúng dường trong nước và làm phước điền cho nhân gian.

Này thiện nam! Ví như báu vật quý giá trong biển lớn, không từ mười phương quốc độ mà đến. Do phước người nên biển sinh báu này, đều do nhân duyên nên sinh ra báu này, khi diệt th́ không trở về mười phương. Từ nhân duyên mà có, do nhân duyên mà mất, cũng không từ mười phương đến hay đi.

Này thiện nam! Thân chư Phật do các hành làm nhân duyên nên được tạo thành, đạt được đến bản hạnh rồi không còn dùng hành nữa, đi khắp mười phương. Nếu không có các hành th́ luôn luôn nhân duyên để tập hợp, hoặc không nhân duyên th́ không có thân.

Này thiện nam! Ví như đàn không hầu nhờ vào sợi dây và con ngựa đàn, có người đánh th́ phát ra âm thanh, khi âm thanh dứt th́ không biết đi về đâu? Khi tiếng đàn này phát ra cũng không từ đâu đến, khi tiếng dứt cũng không biết về đâu!

Muốn biết thân Phật cũng như vậy, có phước đức vô lượng không do một việc, mà phải do nhiều nhân duyên chủng họp mới thành, không ĺa nhân duyên mà có.

Này thiện nam! Nên biết chư Phật không đến đi, tất cả các pháp đều như vậy cũng không sinh diệt. Ông biết vậy rồi đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhất định hoàn thành Bát-nhã ba-la-mật phương tiện thiện xảo.

Khi ấy, Thích Đề-hoàn Nhân đem hoa trời Mạn-đà-la trao cho Tát-đà-ba-luân và nói:

–Xin cúng dường Bồ-tát Pháp Thượng và hồi hướng phước ấy cho tôi. V́ sao? V́ tất cả chúng sinh sẽ nhờ ân của Ngài sẽ đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. 

Thưa Nhân giả! Ở đời này, bậc Thượng sĩ rất ít có, khó gặp. Các ngài lao khổ nhọc nhằn v́ chúng sinh trong vô tận số kiếp mà vẫn không cho là khổ nhọc.

Khi ấy, Tát-đà-ba-luân nhận hoa Mạn-đà-la của Thích Đềhoàn Nhân đem rải lên Bồ-tát Pháp Thượng. Rải xong, thưa:

–Từ nay về sau, con đem thân dâng cho Thầy, để cung cấp hầu hạ những điều cần dùng. Nói rồi chắp tay lui đứng một bên.

Bấy giờ, nữ trưởng giả và năm trăm nữ hầu thưa Bồ-tát Tát-đà-ba-luân:

–Chúng con nguyện đem thân mạng dâng lên cho Thầy, cung cấp những việc cần dùng, đem công đức này nguện được pháp lợi như Đại sư ngày nay. Sẽ cùng với Đại sư cúng dường chư Phật Thế Tôn.

Tát-đà-ba-luân bảo nữ trưởng giả và năm trăm nữ hầu:

–Các vị theo lời dạy của tôi, tôi sẽ nhận các vị.

Các người nữ thưa:

–Thân mạng của chúng con do nơi Thầy dạy bảo, không dám trái lời.

Tát-đà-ba-luân bạch Bồ-tát Pháp Thượng:

–Con nguyện đem thân này với năm trăm người nữ, năm trăm cỗ xe, cùng tất cả tài vật dâng cúng Đại sư. Xin Ngài thương chúng con mà nhận cho.

Thích Đề-hoàn Nhân khen:

–Hay thay, hay thay! Hiền giả phát ý Bồ-tát sẽ được những ǵ như Hiền giả đã làm. Bồ-tát bố thí như vậy mau đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Việc cung kính dâng nhờ Thầy, có thể mau nghe được Bát-nhã ba-la-mật phương tiện thiện xảo. Quá khứ các Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác đều như vậy, xả bỏ tâm ý Bố thí sẽ đắc Bát-nhã ba-la-mật phương tiện thiện xảo, thành bậc hiện chứng Đẳng giác.

Khi ấy, Bồ-tát Pháp Thượng nhận Tát-đà-ba-luân và nữ trưởng giả, năm trăm nữ hầu, năm trăm cỗ xe và tất cả các vật trân bảo v́ muốn làm cho Tát-đà-ba-luân thành tựu công đức. Tuy đã nhận nhưng đem hoàn toàn lại cho Bồ-tát Tát-đà-ba-luân.

Khi ấy trời đã tối, Bồ-tát Pháp Thượng từ tòa cao đứng dậy trở vào cung.

Bấy giờ, Tát-đà-ba-luân nghĩ: “Ta v́ pháp mà đến không nên ngồi nằm nên thực hành hai việc để đợi Thầy: Một là kinh hành; hai là đứng thẳng.”

Khi ấy, Bồ-tát Pháp Thượng vào ngồi giữa cung, dùng Bát-nhã ba-la-mật phương tiện quyền xảo thực hành vô tận số Tam-muội đến bảy năm. Suốt bảy năm, Tát-đà-ba-luân cũng không ngồi nằm, thường kinh hành, đứng thẳng, không phát sinh ba cấu, không nghĩ đến ăn uống, chỉ nhớ nghĩ Bồ-tát Pháp Thượng sẽ ra thuyết pháp Bát-nhã ba-la-mật cho ḿnh.

Sau bảy năm, Tát-đà-ba-luân suy nghĩ: “Ta sẽ trang trí chỗ ngồi của Thầy với các loại hoa đẹp, đốt các loại hương thơm để đợi Pháp sư. Ngài sẽ v́ đại chúng thuyết Bát-nhã ba-la-mật.”

Tát-đà-ba-luân với năm trăm người nữ đều đem những y phục đẹp quý mềm mại ở trên thân trải lên tòa. Tát-đà-ba-luân đi t́m nước để rưới lên đất nhưng không có. Bởi v́, ma Ba-tuần che giấu nên nước không xuất hiện, muốn phá hoại Bồ-tát làm cho tâm ý loạn động, không muốn làm cho ngài thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tát-đà-ba-luân suy nghĩ: “Ta sẽ tự đâm ḿnh ra máu để dùng rưới nơi đất. V́ sao? V́ sợ đất có bụi bay đến dơ Thầy. Ta không tiếc thân mạng mỏng manh. V́ sao? V́ vô số kiếp từ xưa đến nay đã vứt bỏ thân thể này vô số không thể tính hết mà chưa gặp pháp Vô thượng này.” Nghĩ xong, Bồ-tát Tát-đà-ba-luân liền dùng dao bén đâm vào thân rồi, lấy máu rưới lên đất, năm trăm người nữ cũng đều làm như vậy. Lúc đó, ma Ba-tuần không làm ǵ được.

Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân nghĩ: “Bồ-tát Tát-đà-ba-luân với năm trăm người nữ rất kỳ lạ đặc biệt, v́ ham muốn công đức đến nỗi không tiếc thân mạng để cúng dường Pháp sư. Ma Ba-tuần tuy muốn phá hoại nhưng không được. Do v́ đại nguyện kiên cố nên không tiếc thân mạng. V́ muốn được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để độ chúng sinh thoát khỏi nỗi khổ vô hạn.” Khi ấy, Đế Thích khen:

–Lành thay! Lành thay! V́ nguyện vô lượng nên Hiền giả tinh tấn không thể nghĩ bàn. Thời quá khứ chư Phật thực hành tinh tấn cũng như vậy.

Tát-đà-ba-luân suy nghĩ: “Ta đã trải tòa cho Thầy xong, ước ǵ có hoa thơm đẹp, để rải lên khi Pháp sư ra.”

Khi ấy, Đế Thích biết được suy nghĩ đó, liền đem hoa Mạn-đàla ngàn cánh trên trời, trao cho Bồ-tát, nói:

–Hãy đem hoa này để cúng dường Thầy và rải lên đất.

Bồ-tát liền lấy hoa rải lên đất và lưu lại một phần.

Đã bảy năm, sau đó Bồ-tát Pháp Thượng từ trong cung đi ra đến chỗ ngồi. Tát-đà-ba-luân với năm trăm người nữ liền cầm hoa trời rải lên Pháp Thượng, cúi đầu đảnh lễ lui ngồi một bên.

Bồ-tát pháp Thượng bảo Bồ-tát Tát-đà-ba-luân:

–Này thiện nam! Hãy lắng nghe lãnh thọ và khéo suy nghĩ! Lúc ấy, Bồ-tát Tát-đà-ba-luân vâng lời lắng nghe. Các pháp b́nh đẳng như: Kim cang b́nh đẳng, như các pháp vắng lặng, các pháp b́nh đẳng vắng lặng, không động, nên Bát-nhã ba-la-mật b́nh đẳng vắng lặng không động cũng như Kim cang.

Các pháp không có chỗ dựa, các pháp không sợ sệt; các pháp chỉ một vị, nên Bát-nhã ba-la-mật cũng không chỗ dựa; các pháp chỉ một vị không sợ sệt; các pháp không sinh; các pháp không diệt; các pháp như không, nên Bát-nhã ba-la-mật cũng không sinh, không diệt cũng như hư không. Năm ấm không đáy, không biên tế; các pháp không đáy, bốn đại không đáy nên Bát-nhã ba-la-mật cũng không đáy. Không, là không có ngằn mé. Biển lớn không có ngằn mé, các pháp không có ngằn mé, nên Bát-nhã ba-la-mật cũng không ngằn mé. Ví như núi Tu-di, tất cả trang nghiêm tốt đẹp, Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy.

Các pháp không bị phá hoại, các pháp không thể thấy được, các pháp không chỗ nhận lấy, các pháp không có sở hữu, các pháp không thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật không bị phá hoại, cũng không thể có, không có chỗ nhận, cũng không có sở hữu không thể nghĩ bàn cũng như vậy.

Ngay khi ấy, tại chỗ ngồi Tát-đà-ba-luân đắc các pháp Tam-muội B́nh đẳng; Tam-muội Các pháp vắng lặng; Tam-muội Bất động, Tam-muội Vô ỷ; Tam-muội Vô úy; Tam-muội Nhất vị, Tam-muội Vô sinh; Tam-muội Vô diệt; Tam-muội Hư không; Tam-muội năm ấm vô để; Tam-muội Các pháp vô để; Tam-muội Tứ đại vô biên; Tam-muội Hư không tánh; Tam-muội Như hải; Tam-muội Như Tu-di sơn; Tam-muội Kim cang, Tam-muội Vô sở phá hoại, Tam-muội Vô sở đắc, Tam-muội Vô sở thọ; Tam-muội Vô sở hữu; Tam-muội Chẳng thể nghĩ bàn; Tam-muội Như thị đẳng; được sáu vạn môn Tam-muội như vậy.

Phẩm 90: CHÚC LỤY

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Lúc đó, Bồ-tát Tát-đà-ba-luân đắc sáu vạn Tam-muội rồi, thấy hằng hà sa số mười phương tam thiên đại thiên quốc độ, thấy các Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác và Tỳ-kheo Tăng đại chúng vây quanh thuyết Ba-la-mật, cũng như ta ngày nay, v́ các ông thuyết Bát-nhã ba-la-mật. Mười phương chư Phật cũng như vậy, tên là Thích-ca Văn.

Bồ-tát Tát-đà-ba-luân học hỏi đầy đủ nên trí tuệ như biển, luôn luôn sinh vào chỗ có Phật, gần gũi Đức Phật, ở trong chiêm bao cũng nhớ đến Phật, vượt qua các nạn đã được tự tại.

Cho nên, Tu-bồ-đề, phải biết Bát-nhã ba-la-mật làm cho các Đại Bồ-tát đạt đến Nhất thiết trí. Nếu Bồ-tát muốn học sáu pháp Ba-la-mật, muốn đạt Nhất thiết trí, cảnh giới chư Phật, th́ nên học hành Bát-nhã ba-la-mật nên thọ tŕ giữ ǵn đọc tụng, giảng nói ý nghĩa rộng rãi bên trong cho mọi người. Đem hoa đẹp, hương thơm, tràng phan, lọng báu của ḿnh bằng nhiều phương tiện đem cúng dường cho ngài. V́ sao? V́ Bát-nhã ba-la-mật là chỗ tôn trọng của chư Phật, là pháp đứng đầu các pháp.

Phật bảo A-nan:

–Ý ông thế nào? Ông có tôn trọng kính mến Như Lai không?

A-nan đáp:

–Dạ vâng thưa Thế Tôn, con kính mến Như Lai, điều ấy Như Lai tự biết.

Phật nói:

–Ông thật kính mến Như Lai. Này A-nan, ông theo ta từ trước đến nay, thân, khẩu, ý ông thường từ hòa tốt đẹp. Nay ta đã già, ông đã làm hoàn tất công việc cúng dường của người đệ tử. Ông từ nay trở đi cung kính vâng thờ Bát-nhã ba-la-mật.

Thế Tôn đã chúc lụy ba lần như vậy.

V́ sao Ngài ân cần tôn trọng Như thế? Là v́ Ngài muốn làm cho Bát-nhã ba-la-mật không đoạn diệt. Nếu bị đoạn diệt th́ tất cả chúng sinh chịu cảnh mù tối. Ở đời, nếu Bát-nhã ba-la-mật không bị đoạn tuyệt th́ chư Phật Như Lai cũng không đoạn tuyệt. Nếu Bát-nhã ba-la-mật bị đoạn tuyệt th́ chư Phật Như Lai sẽ đoạn tuyệt.

Này A-nan! Nếu Bát-nhã ba-la-mật còn ở đời th́ phải biết Như Lai thường trụ thuyết pháp. Tất cả chúng sinh không rời Phật, không rời việc thuyết pháp.

Này A-nan! Nếu có người biên chép, phúng tụng, nhớ nghĩ, tu hành giải nói nghĩa kinh và cúng dường quuyển kinh Bát-nhã ba-la-mật, lại dạy người khác biên chép phúng tụng, rộng nói cho người hiểu th́ phải biết người này thường gặp chư Phật, không ĺa chư Phật.

Khi Phật nói như vậy, Bồ-tát Di-lặc, Trưởng lão Tu-bồ-đề, Tôn giả Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Phân-nậu-văn-đà-ni-tử, Ma-ha Câu-hy-la, Ma-ha Ca-chiên-diên, Hiền giả A-nan. Tất cả hội chúng, chư Thiên, A-tu-la, nghe Phật thuyết rồi, đều vui mừng đến trước Phật đảnh lễ.

KINH PHÓNG QUANG BÁT-NHÃ

 Mục Lục

Quyển-1   Quyển-2   Quyển-3   Quyển-4   Quyển-5   Quyển-6   Quyển-7   Quyển-8   Quyển-9   Quyển-10   Quyển-11   Quyển-12   Quyển-13   Quyển-14   Quyển-15   Quyển-16   Quyển-17   Quyển-18   Quyển-19   Quyển-20

 

previous.png          back_to_top.png

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0