Số 0216
KINH PHẬT THUYẾT ĐẠI NGƯ SỰ
Hán dịch: Trúc Đàm-vô-lan[1], đời Đông Tấn
Việt dịch: Thanh Mai-Thanh Nhiên
Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời, Đức Bà-già-bà[2] trú tại Ḱ Thụ Cấp Cô Độc Viên[3] thuộc thành Xá-vệ[4]. Bấy giờ Thế Tôn bảo các t́-kheo[5]:
Ngày xưa, có một ḍng sông chứa rất nhiều cá lớn. Một hôm, cá lớn bảo cá nhỏ:
- Các con đừng bỏ nơi đây đi đến chỗ khác kẻo bị người xấu bắt nhé!
Đàn cá nhỏ chẳng nghe lời, rủ nhau bơi qua chỗ khác. Ngay lúc ấy, người đánh cá liền giăng lưới để bắt chúng. Đàn cá vội bơi về chỗ cá lớn. Thấy cá nhỏ trở về, cá lớn bảo:
- Các con đừng bỏ nơi đây mà đến chỗ khác nữa nhé!
Đàn cá nhỏ đáp:
- Chúng con vừa đến nơi ấy trở về đây!
Cá lớn hỏi:
- Các con qua đó không bị lưới bắt sao?
Cá nhỏ đáp:
- Chúng con đến đó không bị người bắt, nhưng thấy lưới kia bủa theo sau!
Cá lớn bảo:
- Các con sẽ bị hại. Sở dĩ ta nói như thế v́ cái lưới các con trông thấy sẽ bủa đến đây! Ngày xưa, tổ tiên ông bà của chúng ta đă bị cái lưới này hại, hôm nay, các con chắc chắn sẽ bị hại! Các con không xứng đáng là con ta!
Thế là đàn cá nhỏ bị ngư ông buông lưới kéo lên bờ. Cả đàn đều bị giết hại.
Cũng vậy, có một t́-kheo đắp y, ôm bát vào làng nọ khất thực[6], dùng phúc độ chúng sinh, nhưng lại không biết giữ ǵn thân, khẩu, ư, không pḥng hộ các căn, không nhiếp tâm, thấy các thiếu nữ đẹp như hoa đào liền khởi tâm dục. Do đó nên thân, khẩu, ư hừng hực lửa dục. V́ hừng hực lửa dục nên khất thực trở về, người này lại khởi lên ư tưởng dâm dục, liền đến gặp các t́-kheo lớn, thưa rơ mọi việc cho họ nghe. Các vị ấy dạy:
- Này hiền đệ! Khởi ư tưởng dâm dục là bất tịnh. Hiền đệ phải quán chiếu ác lộ[7]!
Các t́-kheo lớn nhiều lần dạy bảo như thế, nhưng do lửa dục thiêu đốt thân, khẩu, ư, t́-kheo này lại đến xóm kia khất thực. Thấy các thiếu nữ đẹp như hoa đào, t́-kheo này lại khởi dục tâm thiêu đốt thân, khẩu, ư. Khất thực trở về, người này lại đến chỗ t́-kheo lớn thưa rơ mọi việc. Vị này bảo:
- Hăy đi đi, ông không c̣n là người trong chúng này nữa!
Nhưng t́-kheo ấy không xả giới cấm mà lại mặc y phục thế gian, vui sống trong ái dục[8], đó gọi là t́-kheo tạo cơ hội cho ma, chạy theo ham muốn của ma Ba-tuần[9], không thoát khỏi sinh, già, bịnh, chết, ưu bi, khổ năo. Do đó, các t́-kheo có đầy đủ lợi dưỡng thật là đại hoạ, thật khổ, thật đáng sợ, sẽ bị đọa vào ba đường ác, không sinh đến cơi vô thượng. Do đó, các t́-kheo phải ghi nhớ điều này: “Được lợi dưỡng th́ phải xả bỏ, chưa được lợi dưỡng th́ đừng khởi tâm ham muốn”. Các t́-kheo hăy nhớ kĩ điều đó.
Nghe Đức Phật dạy, các t́-kheo hoan hỉ vâng theo.
KINH PHẬT THUYẾT ĐẠI NGƯ SỰ
HẾT
________________________________________
[1] Trúc Đàm-vô-lan 竺曇無蘭 (S: Dharmarakṣa?): cao tăng Tây Vực, sang Trung Quốc dịch kinh vào thời Đông Tấn. Các dịch phẩm của sư phần nhiều thuộc kinh điển Tiểu thừa và thần chú. Sư c̣n soạn bộ Đại t́-kheo tam bách lục thập giới tam bộ hợp vị (2 quyển).
[2] Bà-già-bà 婆伽婆 (S: Bhagavat): một trong mười đức hiệu của Phật, là đức hiệu của đấng có đầy đủ các đức được người đời tôn kính. Ở đây chỉ cho Đức Phật Thích-ca.
[3]Ḱ Thụ Cấp Cô Độc Viên 祇樹給孤獨園 (S: Jetavanānāthapiṇḍadasyārāma): tinh xá ở khu vườn phía nam thành Xá-vệ, nước Kiều-tát-la, thuộc Trung Ấn Độ (nay là khu vực phía nam Nepal), gần Sahet-Mahet ở bờ phía nam sông Rapti. Đây là nơi nổi tiếng nhất trong các nơi Phật thuyết pháp.
[4]Xá-vệ (Xá-vệ quốc 舍衛國; S: Śrāvastī): một vương quốc cổ ở Trung Ấn Độ. V́ quốc thành này xuất hiện nhiều danh nhân, sản xuất nhiều vật tốt nên gọi là Văn Vật quốc. Xá-vệ vốn là tên thành đô của nước Bắc Kiều-tát-la, để phân biệt với nước Nam Kiều-tát-la nên lấy tên thành gọi thay tên nước.
[5] T́-kheo 比丘 (S: Bhikṣu): người nam được độ xuất gia, thụ giới cụ túc; một trong năm chúng, một trong bảy chúng của giáo đoàn Phật giáo.
[6] Khất thực 乞食 (S: paiṇḍapātika): đi xin thức ăn của mọi nhà nuôi dưỡng sắc thân để tu tập, là một trong mười hai hạnh đầu-đà.
[7] Ác lộ 惡露 (P: asubha): chất lỏng nhơ nhớp từ trong thân thể chảy ra, như máu mủ, phân, nước tiểu…
[8]Ái dục 愛欲 (S: kāma): nghĩa là tham ái, là ḷng ham muốn về t́nh dục.
[9] Ma Ba-tuần 魔波旬 (S: Māra-pāpman): ma vương quấy phá Đức Phật khi Ngài sắp thành đạo, cũng chỉ cho loài ác ma làm tổn sinh mạng và căn lành của người.
|