| 
	  T0182b 
	PHẬT NÓI KINH LỘC MẪU Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt chỉ Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh  
	   Đức Phật kể:         Ngày xưa có bầy nai cả trăm con, v́ măi mê theo cỏ nước mà vào gần xóm làng. Nhà vua cho thợ săn rượt đuổi bầy nai chạy tán loạn. Có một con nai mẹ có thai chạy một ḿnh bị người đuổi theo, vừa đói vừa mệt, lại bị lạc đàn nên nó rất ấm ức và buồn bă. Lúc đó nó sinh hai con nai con, nhưng phải bỏ đi t́m thức ăn, vừa xót xa cho nỗi bơ vơ không nơi nương tựa, lại bị rơi vào bẫy của thợ săn muốn thoát ra mà không được nên nó kêu thảm thiết.         Nghe tiếng kêu của nai người thợ săn vội đến. Khi trông thấy nai, ông rất thích nên muốn giết. Nai mới dập đầu van xin:         -Hai con của tôi mới sinh c̣n nhỏ không biết ǵ. Chúng c̣n mờ mịt chưa rơ phương hướng. Hăy xin tạm tha phút chốc để tôi trở về trông chừng con tôi, dẫn dắt chúng biết đời sống cỏ nước, rồi tôi sẽ từ biệt hai con mà chịu chết. Xin ông rủ ḷng thương xót và thông cảm cho tôi. Nhờ ḷng thương hại, khiến tôi được gặp con tôi, tôi xin đem ḷng chân thành không phải của loài nai mà đáp tạ. Xin phước đức trời thần che chở, ngày nào c̣n sống tôi không trái với lời thề là quay trở lại để chịu chết mà ḷng không ân hận.         Lúc ấy người thợ săn nghe nai nói rất lấy làm kinh ngạc vừa sợ, lông tóc dựng đứng. Ông ta lấy làm lạ v́ nai biết nói lên được t́nh người, liền hỏi nai:         -Có phải ngươi là yêu quái, hay thần núi, thần cây đạt được sự bất biến. Ngươi hăy nói thật cho ta rơ.         Nai nói:         -Tôi v́ đời trước có tội tham tàn, phải chịu làm thân nai. V́ hết ḷng nghĩ đến con cho nên nói những lời như thế, chứ chẳng phải là quỷ mị. Xin ông thương tưởng cho tôi được sống trở về thăm con tôi, sau đó sẽ đành ḷng chết.         Người thợ săn đă tin lời nai nói, nhưng trong ḷng c̣n tham muốn nên không bằng ḷng, bảo nai:         -Tất cả mọi người trong thế gian này c̣n không thành thật, huống chi ngươi là loài nai thương con, tiếc mạng, chỉ hoàn toàn cầu sống th́ từ chỗ chết được thả ra, đâu thể đúng hẹn. Vả lại, lệnh vua khẩn cấp, sợ ngài sẽ biết việc này th́ tội ta làm mất nai sẽ bị khiển trách nặng. Tuy tâm ta không muốn nhưng không thể làm khác đi được. Ta không thể thả ngươi ra.         Nai bàng hoàng đau đớn đáp:         -Tôi tuy là loài thú hèn hạ, nhưng vẫn cam tâm chịu chết không ân hận. Chỉ xin ông khất lại chứ tôi nào dám trái lời. Con người bị tội chỉ nhờ vào sự gieo trồng phước đức mà thôi. Nếu tôi đi th́ con tôi c̣n sống, mà tôi ở lại th́ con tôi sẽ chết. Xin cho tôi đi đúng hẹn, tôi sẽ trở lại. Xin chư Thần làm chứng cho lời nói của tôi: “Nếu tôi chết th́ đâu có tiếc nhưng lại làm trái ḷng chân thành.” V́ nghĩ đến hai con, cho nên tôi tha thiết khẩn cầu! Chúng sống nhưng nếu không có mẹ th́ chúng sẽ mất mạng, nhưng nếu ba mẹ con đều chết th́ đau đớn biết dường nào!         Nai mẹ cúi đầu kêu rồi nói kệ:         Tôi làm thân loài thú          Kiếm ăn chỗ rừng rậm          Kiếp hèn tham mạng sống          Không sức, đưa tới chết.         Nay rơi vào bẫy ông          Dao thớt sẽ phân thân          Không tiếc ḿnh tanh tưởi          Chỉ thương hai con thôi.         V́ tôi đời trước đây         Bạo ngược không chí thành          Không tin khổ tử sinh          Không rơ đường tội phước.         Làm ác tự chuốc tội          Nay chịu làm thân thú          Nếu được tha giây phút          Nguyện không trái lời thề.         Khi ấy, người thợ săn nghe nai phân tích những điều như vậy rất lấy làm lạ và thán phục, nhưng v́ tham lợi nên không muốn thả nai ra. Ông ta trách mắng nai mấy ngày:         -Ngươi chớ dùng lời gian xảo, dối trá khó tin, xỏ lá lọc lừa nhiều kiểu. Ngươi đă xâm phạm vào lúa mạ, cây giống của người, do tội đó mới sa vào bẫy của ta. Nay ta phải giết ngươi để dâng vua một bữa ăn. Ngươi chớ nên dối trá ta để mong ta tha mạng. Ham sống sợ chết, ai có thể đem thí mạng ḿnh! Con người c̣n khó hẹn thời gian, huống chi ngươi là loài thú. Ngươi đ̣i xin tha mạng chết đâu có hẹn ngày trở lại, v́ thế ngươi phải chết. Ta không thể thả ngươi ra.         Lúc đó nai v́ nhớ con, sợ con không nơi nương tựa, liền quỳ gối cúi đầu rơi lệ kêu lên thảm thiết, lập lại bằng lời kệ:         Tuy làm thân loài thú          Không biết đường nhân nghĩa          Sao lại thọ ân lành          Được đi không trở lại.         Thà chịu khổ xả thân          Không chứa lời dối trá          Xót thương con cùng khốn          Cúi xin hoăn chổc lát.         Đời trước do tạo tội          Cho nên chịu thân thú          Nói lời người không tin          Chịu tai ương như vậy.         C̣n chuốc khổ đời sau          Muốn thoát thân cầm thú          Can đảm tỏ ḷng thành         Xin nghe lại lời thề:         Nếu người ác ở đời          Thương tổn Tỳ-kheo Tăng          Phá pháp, hủy hoại chùa          Và giết người tŕ giới          Ngỗ nghịch hại cha mẹ          Huynh đệ và vợ con          Tôi thề không trở lại          Tội tày trời như vậy.         Chịu tội khổ mọi đời          Kiếp hết tội không khỏi          Chuyển thân bị thiêu nấu          Xong lại đến nơi này          Luôn nghĩ t́nh ân nặng          Phải chịu khổ triền miên          Tôi thề không trở lại          Tội sâu dầy như vậy.         Lúc ấy người thợ săn nghe lời nai lập lại, trong ḷng rất sợ sệt mới than:         -Ta thấy tất cả mọi người trong thế gian, nhờ phước đời trước được sinh làm người, ngu si mê hoặc, bội ân bạc nghĩa, bất trung, bất hiếu, bất tín, bất nhân, tham tàn, vô đạo, gian dối, cố giữ lấy mạng sống, không biết lẽ phải và thờ kính Tam bảo. Nai tuy là loài thú mà biết nói những lời tha thiết, lời thề thành tín, c̣n hơn cả con người! Ḷng son tỏ rơ giống như ban ngày trải qua thử thách mới rơ tấm ḷng.         Người thợ săn mở bẫy thả nai mẹ ra. Khi ấy, nai mẹ thoát khỏi lồng, vừa nh́n lui, vừa chạy vội đến chỗ hai con, cúi đầu ngửi và liếm khắp thân thể hai con, mừng mừng tủi tủi, xúc động bồi hồi thở than khóc lóc:         Tất cả ân ái hội          Đều do nhân duyên hợp          Hội họp lại biệt ly           Vô thường khó tồn tại.         Ta nay được làm mẹ          Thường sợ phải xa con          Đời sống nhiều âu lo          Mạng như sương trên cỏ.         Nói xong, nai mẹ đem hai con đến chỗ rừng cây sum suê, chỉ cho con giống lúa ăn được, chỗ nước ngọt, cỏ ngon, dặn ḍ kỹ lưỡng mọi điều trong đời sống, thương con bơ vơ lệ tuôn như mưa, kêu thương thảm thiết nói với hai con:         Đời trước sống dối trá          Phụ rẫy t́nh ân ái          Sát hại mạng chúng sinh          Trộm, giết, sai người làm.         Thân là bóng theo h́nh          Ngày nay phải chịu khổ          Nếu mà không sửa đổi          Sẽ trở lại nơi này.         Chống Phật, không tin pháp          Ngược lại lời thầy răn          Tự tham ḷng không chán          Buông lung ư si mờ,         Tội báo kiếp súc sinh          Làm thức ăn cho người          Phận ḿnh không dám oán          Mạng hết chẳng coi thường.         Tham cầu lấy phi đạo          Đời trước do giết, trộm          Mẹ sinh làm loài thú          Nghiệp cũ măi truy tầm,         Ràng buộc phải chịu chết          Lo sợ không lối thoát          Nhờ biết kính Tam Tôn          Thấy rơ đoạn ân ái.         Một sáng mẹ ngộ nạn          Rơi nhầm bẫy thợ săn         Đáng lẽ bị giết chết          Thọ quả báo nát thân.         Nhớ thương con xin về          Nay trở lại chịu chết          Thương con nhỏ bơ vơ          Hăy nỗ lực tự sống          Đi phải nương theo đàn          Ở phải nương trong bầy          Ăn cùng đi theo bạn          Ngủ phải nhớ cảnh giác          Dè dặt dạo một ḿnh          Ăn theo hai bên lộ          Nói xong lời từ biệt          Mẹ trở về chỗ chết.         Nai mẹ nói xong cùng hai con bịn rịn từ biệt đến ba lần. Nai cúi đầu kêu lên thật thương cảm rồi ra đi. Hai nai con kêu gào khóc thương thảm thiết, theo sau đi t́m dấu nai mẹ khốn khổ nhọc nhằn, vừa đi vừa kêu rất tội nghiệp. Chúng lại nói:         Ḷng tham dục ân ái          Sống làm mẹ, làm con          Xưa nay thọ thân này          Làm mạng thú hèn hạ          V́ sao bị cô độc          Từ biệt kể từ đây          Yêu mẹ t́nh ruột đứt          Cho chúng con cùng chết.         Từ lúc mẹ sinh ra          Chưa hề biết phương hướng          Nhớ mẹ thương chúng con          Sẽ đáp đền ân nghĩa,         Nào ngờ chịu sinh ly          Suốt đời con vắng mẹ          Nhớ mẹ khổ v́ con          Sống một ḿnh đơn lẻ,         Vô phước làm thân nai          Thiếu đức họa tai đến          Trước sống nơi mê muội          Sớm rơi vào cô liêu          Đời có sinh có tử          Sớm muộn cũng sẽ đến          Nỗi đau đớn hôm nay          Chúng con xin theo mẹ.         Nghe nai con nói những lời này, nai mẹ cảm động cúi đầu kêu khóc, than văn bùi ngùi rồi cất tiếng bảo hai con:     -Ở lại, đừng theo mẹ, để mẹ tự chết một ḿnh, không nên mẹ con cùng đi đến chỗ chết. Mẹ đành ḷng chịu chết, chỉ thương cho hai con c̣n non dại. Cuộc đời vô thường, không ai tránh khỏi cảnh biệt ly. Tại mẹ bạc mệnh, đời này vô phước, hai con theo mẹ làm ǵ để thêm xót thương và lo sợ. Hăy để mẹ chóng hoàn tất tội chướng của mẹ hôm nay.         Nai mẹ kêu lên và nói kệ với hai con:         Đời trước v́ tham ái          Nên nay làm súc sinh          Có sinh đều có tử          Không thoát khỏi lo sầu.         Ngăn ư ĺa tham ái          Kết quả sẽ an lành          Thà chết với thành tín          Hơn sống mà dối gian.         Nai con nghe mẹ nói lại càng thêm đau xót, lưu luyến, vừa khóc vừa đi đến chỗ bẫy, t́m kiếm khắp nơi mới thấy người thợ săn đang nằm dưới gốc cây. Nai mẹ đi thẳng đến đứng một bên cúi đầu nói lớn để đánh thức người thợ săn dậy:         Toàn thân rơi vào bẫy          Chấm dứt đời súc sinh          Được thả không dám trái          Trở lại trên dao thớt.         Lúc trước ông thả tôi         Nay đến xin chịu chết          Ân lành cho thân thú          Được từ biệt hai con          Chỉ chúng vùng cỏ nước          Nói rơ khổ vô thường          Tôi không chút hận thù          Nhớ ân không dám phụ.         Lúc ấy người thợ săn nghe nai mẹ đánh thức kêu nói những lời chí thiết, ông ta choàng tỉnh, sợ hăi, trong ḷng đă phát Từ tâm nhưng chưa nói ra. Nai lại quỳ gối cúi đầu trước ông ta và vui vẻ tự giải bày, dùng kệ nói lời tạ ân.         Trước ông thả tôi đi          Đức dày hơn trời đất          Thú hèn v́ thương con          Xót xa không kềm chế.         Tất cả đều vô thường          Giữ lời, đến chịu chết          Nhân duyên giờ diệt hết          Oán thù cũng tiêu tan,         Ban ân không quên được          Cảm nhận dám trái đâu          Dù muôn ngàn cảm tạ          Không đủ đáp ân lành,         Chỉ chí thành tha thiết          Cầu phước về tự nhiên          Nay tôi cam tâm chết          Để con lại nhờ ông.         Người thợ săn cảm nhận ḷng thành của nai liền tỉnh ngủ, lại được nghe nai nói những âm thanh vi diệu, thêm vào đó là sự dốc ḷng giữ chữ tín, bỏ sống, đến chết để giữ trọn lời thề, cả mẹ con khóc thương cùng t́m đến nhau, bèn suy nghĩ: “Con nai này ắt chẳng phải thường t́nh. Ta thấy ở đời chưa từng có kẻ nào như vậy. Tuy nai thân là thú, tâm lại là thần linh. Ta từ lâu sống bất lương tàn bạo, nai mới lập nghĩa nói những lời thành tín chẳng phụ ân, đáng làm lời chỉ dạy cho ta cúi đầu vâng thọ, há lại dám sinh ḷng xúc phạm hại nai.” Người thợ săn liền tỏ ḷng khiêm hạ tôn kính, cảm tạ nai mà nói:         Nai thật đúng thần trời          Thể hiện chí nguyện lớn          Tôi nay ḷng lo sợ          Dám đâu nghịch hại nai.         Thà tự giết thân ḿnh          Vợ con phân từng đoạn          Sao nỡ hại thần linh          Dù thoáng qua ư nghĩ.         Người thợ săn nói xong, ḷng vẫn c̣n thương xót nai nên lập lại lời tạ lỗi và tự trách ḿnh, rồi ông ta thả nai đi đến chỗ hai con. Nai con thấy mẹ được trở về, nó vội vă chạy thật nhanh đến bên mẹ nhảy lên kêu thương. Mẹ con gặp nhau vui mừng khôn xiết, cùng vươn cổ cất tiếng kêu để cảm tạ đại ân cứu mạng. Chúng ngẩng đầu đa tạ người thợ săn:         Thân hèn sinh ở đời          Làm mồi cho đầu bếp          Sắp xẻ thân nung nấu          Xin hoăn từ biệt con.         Trời người thương quư vật          Lại được thả về nguồn          Đức thần giúp vô lượng          Ngôn ngữ khó trần t́nh.         Nai mẹ nói xong, dẫn hai con trở về rừng sâu, tập hợp các bầy nai bạn và dạo chơi. Chúng sống yên lành bên đầm cỏ và tự tại trên núi cao.         Người thợ săn sau đó cứ suy nghĩ măi về con nai, v́ nó là loài thú mà biết giữ tín nghĩa, được thần giúp đỡ, vừa thoát nạn liền cứu giúp kẻ khác. Ta là người tàn bạo, sao không có tâm rộng lượng! Người thợ săn chợt tỉnh ngộ hồi tâm quay về con đường nhân đức. Ông ta ném cung, đập bẫy, không c̣n tâm sát hại nữa và thường đến chùa thưa tŕnh với các bậc Sa-môn. Người thợ săn cúi đầu tỏ ḷng ăn năn hối lỗi, vâng giữ hạnh nguyện từ bi đạt đến chân chính.         Người thợ săn đến tâu với vua, vua nghe lời ông ta nói. Ḷng rất hoan hỷ, than rằng:         -Ta thật là tham tàn. Nai là loài thú mà có nghĩa nhân, lại có trí tuệ thấu suốt nói những lời giáo pháp, biết tôn kính Tam bảo. Ta sống trong đất nước bị vô minh che phủ bởi những lời xấu xa mê muội. Ta rất muốn từ bỏ để bảo tồn sự tốt đẹp lâu dài trọn vẹn. Ta sẽ tuyên bố cho nhân dân trong nước đều nghe hiểu rằng: Loài thú c̣n biết thực hành nhân nghĩa, hiện tại được tín chứng, giáo hóa đạo mầu tỏ rạng khắp nơi.         Lúc ấy quốc vương hội họp hết quần thần và tuyên bố với quốc dân:         -Ta v́ si ám không phân biệt được chân ngụy, theo học thầy tà, sợ hăi thần ngụy, cứu tế yêu quái vô đạo, tàn bạo với chúng sinh, không bằng con nai là loài thú mà hiểu rơ Tam bảo. Từ nay về sau, tất cả dân trong nước của ta, hăy bỏ tà tông, quay về chánh đạo. Hăy đến chùa thưa hỏi, thọ học với những bậc Thánh tăng, nhờ vậy đời sau sẽ đạt được nhiều phước đức. Mọi người dân trong nước, từ nhỏ đến lớn, từ dân đến các quan đều phải kính tin Tam bảo, phụng tŕ Ngũ giới và Thập thiện.         Cả nước cùng nhau tu tập trong ba năm th́ đất nước thái b́nh hưng thạnh. Dân chúng đều sống lâu nhờ ân phước của nai.         Đức Phật dạy:         -Này Hiền giả A-nan, Ta chỉ khéo phương tiện quyền xảo thực hành ân đức, trải qua nhiều kiếp đem t́nh thương cứu độ chúng sinh phát ḷng tin Tam bảo như vậy. Lúc bấy giờ nai mẹ chính là Ta, c̣n hai nai con là La-vân và Chu-ly-mẫu-ca. Nhà vua lúc bấy giờ là Xá- lợi-phất. Người thợ săn chính là A-nan. Người dân chạy đến tâu với vua là Điều-đạt.         Khi Đức Phật dạy xong, từ nơi bụng phóng ra ánh sáng lớn, biến khắp mười phương, mỗi phương cả ngàn cơi Phật. Ở trong quang minh ấy đều có Pháp sư hóa đạo, ṭa sư tử hoa sen báu, hoặc hiện nhục thể là Pháp sư Tỳ-kheo, hoặc hiện làm đế vương và trưởng giả, hoặc làm phàm nhân lê thứ hoặc làm người bần tiện, hoặc v́ mọi loài hiện làm thân thú. Mỗi mỗi hiện thân đều phóng ánh sáng chiếu soi để thuyết pháp.         Lúc bấy giờ Đức Phật đă thuyết công đức và ḷng tín thành của nai mẹ để làm pháp chỉ dạy. Pháp âm thấm sâu vào ḷng, mọi loài đều tin theo thọ tŕ, đều trở về đạo Vô thượng Chánh chân. Đức Phật liền thu hồi các ánh sáng, tiếp theo chiếu khắp cơi Diêm-phù-đề thảy đều thấu suốt. Người nào nhờ ánh sáng vi diệu chiếu soi sẽ được tâm tư an lạc.         Lúc ấy, trong chúng có tám trăm vị Tỳ-kheo đều phát bốn hoằng thệ nguyện để chứng đạo tích, nghe Đức Phật nói kinh Lộc Mẫu, ở trong loài súc sinh đă phát khởi chí nguyện lớn, tín thành nơi đạo, đều cảm ngộ sự biến hóa ấy, liền đến trước bạch Phật:         -Chúng con lập tín thệ, hành đạo Bồ-tát, xin Ngài thương xót trợ duyên lợi ích cho chúng con. Chúng con sẽ xây dựng sự tu hành và gánh vác chúng sinh, trọn đời cứu giúp tất cả mọi loài.         Những vị Tỳ-kheo này liền khoác áo giáp bốn hoằng thệ nguyện của Bồ-tát.         Tôn giả A-nan sửa y phục, quỳ gối bạch Đức Thế Tôn:         -Những Tỳ-kheo này vướng mắc. Đại thừa khổng thọ chánh đế, nay đă khai ngộ được pháp chứng, ĺa vực thẳm, vượt hố hầm sao nhanh vậy? Thật chẳng phải là người thấp kém có thể tin tưởng rơ ràng. Đại hội có điều nghi, cúi xin Thế Tôn nói duyên do ấy để giải thích cho người sau.         Phật dạy:         -Hay lắm! Này A-nan, ông hỏi rất hay! Đây là sự tiếp nối từ trước, chứ chẳng phải là sự hiểu biết mới có bây giờ. Những Tỳ-kheo ấy chính là những con nai ở trong nước tin theo mệnh lệnh vua phụng thuận Tam bảo, nhờ sự cảm hóa của nai mẹ, nên nguyện phát ư chánh chân vô thượng. Nhưng, có thời gian bị si ám nên không tu hành, tuy gặp Ta, được làm Sa-môn nhưng bỗng nhiên bỏ bản nguyện, mê mờ về Đại thừa. Nay nghe Ta nói rơ về cội nguồn đời trước, nghi ngờ tiêu hết, an ổn vô cùng. Đó là do thần thức đời trước của họ được như vậy.         Khi Phật nói như vậy, tám trăm vị Tỳ-kheo đều đắc quả A-la-hán Bất thoái chuyển. Trong số lực sĩ tụ tập có tám ngàn người chứng tâm giải thoát, trừ hạnh phóng dật, đều phát tâm Vô thượng Chánh chân, đạt “nhập tín thanh tâm” được định vô tưởng an ổn. Trời, Rồng, Người, gần bảy ức hai ngàn đều phát tâm Vô thượng Chánh chân.         Phật bảo A-nan:         -Khi Ta c̣n làm súc sinh không quên tâm cứu giúp rộng răi của Bồ-tát, thực hành sự hướng dẫn làm lợi ích cho đến ngày nay là chỉ v́ nỗi khổ đau vô cùng của chúng sinh. Giả sử một người quên cội nguồn, ch́m đắm trôi lăn chưa được cứu vớt th́ không bao giờ buông bỏ. Các chúng sinh mong cầu công đức an lạc, chóng thành Phật quả, đều phải dốc ḷng chí thành trở về quy kính Tam bảo, đời đời không xả bỏ, như Ta hôm nay hiện Bát-niết-bàn là do thành tín mà đạt được.         Này A-nan, ông phải thọ tŕ và tuyên nói rộng răi kinh này, chớ để cho nó mất hẳn.         A-nan cúi đầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, thọ tŕ, đọc tụng. 
	PHẬT NÓI KINH LỘC MẪU
 
  
	  
	  
	 |