佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Bồ Tát Bổn Sinh Man Luận, 16 quyển

VT0160

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

MỤC LỤC

Quyển 01    QUYỂN 02    QUYỂN 03    QUYỂN 04  

QUYỂN 05    QUYỂN 06    QUYỂN 07    QUYỂN 08  

QUYỂN 09    QUYỂN 10    QUYỂN 11    QUYỂN 12 

QUYỂN 13    QUYỂN 14    QUYỂN 15    QUYỂN 16

Duyên Khởi 1:  GIEO M̀NH HIẾN THÂN CHO CỌP

Duyên Khởi 2: VUA THI-TỲ CỨU MẠNG CHIM BỒ CÂU

Duyên Khởi 3: NHƯ LAI KHẤT THỰC

Duyên Khởi 4: THẦN THÔNG BIẾN HÓA TỐI THẮNG CỦA NHƯ LAI

Duyên Khởi 5: NHƯ LAI CHẲNG BỊ CHẤT ĐỘC LÀM HẠI

Duyên Khởi 6: THỎ CHÚA XẢ THÂN CÚNG DƯỜNG PHẠM CHÍ

Duyên Khởi 7: TÂM TỪ CỦA LONG VƯƠNG HÒA GIẢI MỐI THÙ SÁT HẠI

Duyên Khởi 8: VUA TỪ LỰC CHÍCH MÁU THÂN M̀NH BỐ THÍ CHO NĂM QUỶ DẠ-XOA

Duyên Khởi 9: NÊU RÕ DIỆU LỰC CỦA SỰ BỐ THÍ ÍT

Duyên Khởi 10: NHƯ LAI ĐẦY ĐỦ TRÍ TUỆ KHÔNG GÁNH VIỆC TỐT NGƯỜI KHÁC

Duyên Khởi 11: ĐỨC PHẬT RÓT NƯỚC LÊN ĐẢNH ĐẦU TỲ-KHEO BỆNH, BỆNH ĐƯỢC LÀNH

Duyên Khởi 12: CÔNG ĐỨC XƯNG NIỆM TAM BẢO

Duyên Khởi 13: PHƯỚC BÁO THÙ THẮNG CỦA VIỆC TẠO THÁP PHẬT

Duyên Khởi 14: CÔNG ĐỨC XUẤT GIA

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 1

Đảnh lễ Nhất Thiết Trí  

Đức viên dung lặng diệu

Tướng mạo Thánh chi phần

Vô tác đồng chân như.

Tâm con tĩnh không tranh

Quên xưng tán bố thí

Do bốn đại là gốc

Sinh thanh tịnh không đổi.

Thuở xưa trong cõi người 

Thường tu hạnh tịch tĩnh

Đem hoa Câu-tô-ma 

Chắp tay mà rải cúng.

Xa ĺa các tội ác   

Giải thoát các phiền não

Được trời, người yêu thích

Giảng nói đạo Vô thượng.

V́ tâm ý vắng lặng        

Đạt được pháp thanh tịnh

Tướng thế giới thường trụ

Vô tận, không tạo tác.

Chúng sinh nơi thế gian

Nghe công đức tương ứng

Khởi quyết định tin hiểu

Trụ tạng mật Như Lai,

Dứt hành nghiệp lưu chuyển

Diệt điên đảo hư vọng

Công năng của Thắng trí

Như đèn luôn chiếu khắp.

Các loài hữu t́nh ấy 

Tự tánh vốn không nhiễm

Nương tựa Phật Thế Tôn

Dốc tu nghiệp chân, tịnh,

Tức nghe tên Tam bảo 

Cùng Sư trưởng chỉ dạy

Tùy thuận học hạnh thiện

Trừ sạch tâm ngã mạn.

Thuở trước, Bậc Điều Ngự

Siêng tu đạo Bồ-tát

Theo Bố thí, Ái ngữ

Cùng Đồng sự, Lợi hành,

Tóm giữ nơi Thắng tuệ

Thoát cấu nhiễm trói buộc

Tạo lợi lạc chúng sinh

Tăng trưởng các pháp lành.

Do lực thí viên mãn

Sinh chủng tộc Phạm thiên

Chỉ dốc tăng nghiệp tịnh

Mà lấy đó làm gốc.

Nếu dấy khởi ngã mạn

Cùng không lực Thắng tuệ

Ở trong chủng loại ḿnh

Lại sinh điều kiêu mạn,

Nơi trăm ngàn vạn thứ          

Ĺa hỷlạc nơi sinh 

Do điên đảo chấp giữ

Nên chẳng thể chứng đắc.

Lại chốn tịch tĩnh kia 

Phước đức càng thù thắng

Đủ sắc tướng rộng lớn           

Nhân nhỏ đâu đạt được,

Chính bỏ tục xuất gia 

Bậc Đại Bồ-tát ấy

Đầy đủ trí tuệ lớn

Nên đảm đương gánh vác.

Ở nơi đời quá khứ

Luôn tu tập sáu độ

Đã đoạn trừ nhiễu, chướng

Ĺa dứt khỏi luân hồi,

Tâm từ bi lớn rộng

Luôn thương xót muôn loài

Tự tánh thường chân thật

Thông thạo nhân nhiễm ô.

Bấy giờ trời Đế Thích 

Quan sát nơi thế gian

Đến thử nghiệm hành tu

Tâm ấy không nghiêng, động.

Nên dứt lời ca ngợi:

Nay bậc Thiện nam này

Xuất hiện nơi thế gian 

Là Đấng Tối Thù Thắng,

Nơi vô thường dời đổi

Tâm an trụ như thế

Đem thức ăn tịnh diệu 

Cung kính dâng cúng dường.

Chư Thiên và người đời

Thảy đều được thiện lợi.

Nhớ xưa tu nhân tịnh 

Hợp chân trí vô tướng

Hành giả tu như vậy 

Trị diệt bệnh phiền não.

Trụ học xứ thanh tịnh 

Chân thật không hư dối

Quan sát Thắng nghĩa đế

Ĺa nhiễm, không tạo tác.

Mở cửa phương tiện Từ

Thí b́nh đẳng an lạc

Thắng giải được phát sinh

Không tà mạng mong cầu.

Dứt bỏ mọi hữu vi

Lên thẳng nơi cõi thật

Đạo thanh tịnh thành tựu

Mọi công đức tương ứng.

Nơi nhân duyên tạp nhiễm

Đều đoạn trừ rốt ráo

Luôn tôn trọng, kính tin

Tạng bí mật Như Lai.

Ĺa vọng chấp phân biệt         

Dứt trừ sân, phiền não

Chớ thuận chủng tộc hơn

Mà sinh tâm tham đắm.

Như bóng luôn theo h́nh

Như mẹ sinh nơi con

Lực bi nguyện Bồ-tát

Thương xót khắp muôn loài

Dũng mãnh bỏ thân ḿnh

Chẳng sinh tưởng sầu khổ.

Con nay đem chút thiện

Xin quy kính tán dương

Mong Thánh chúng gia hộ

Bồ-đề thảy thành tựu.

[^]

Duyên Khởi 1:  GIEO M̀NH HIẾN THÂN CHO CỌP

Thuở ấy, Đức Thế Tôn cùng đại chúng đi đến tận khu rừng thuộc một làng lớn tên là Bát-già-la. Ngài bảo Tôn giả A-nan: 

–Tôn giả sắp đặt cho Như Lai một tòa ngồi ở đây!

Công việc xong xuôi, Đức Phật thăng tòa bảo chư Tỳ-kheo:

–Các thầy muốn thấy xá-lợi của Như Lai nơi đời quá khứ trong khi tu hành khổ hạnh không?

Đại chúng đáp: 

–Bạch Đức Thế Tôn, chúng con nguyện muốn được trông thấy.

Đức Thế Tôn khi ấy dùng tay ấn vào đất, tạo nên sáu thứ chấn động, bỗng nhiên từ dưới đất vọt lên tòa tháp bằng bảy báu hiện ra trước mặt đại chúng. Đức Thế Tôn rời tòa đảnh lễ tháp, nhiễu quanh bên phải rồi bảo Tôn giả A-nan: 

–Tôn giả hãy đến mở cánh cửa tháp này, sẽ thấy một chiếc hộp làm bằng bảy báu, cẩn bằng các ngọc quý, lại mở nắp hộp đó sẽ thấy xá-lợi màu trắng như ngọc kha tuyết. Hãy đưa linh cốt của bậc Đại sĩ ấy lại cho ta.

Khi Đức Thế Tôn đã cầm linh cốt, bèn bảo đại chúng hãy xem kyơ và Ngài đọc kệ:

Bồ-tát công đức vượt

Siêng tu hạnh sáu độ

Dũng mãnh cầu Bồ-đề

Xả thân, tâm không tiếc.

Đức Phật bảo: 

–Này các Tỳ-kheo, các thầy đều phải tỏ lòng kính lễ, v́ xá-lợi này là do sự huân tập tu trí từ vô lượng hương Giới, Định, Tuệ.

Tất cả đại chúng đều kính lễ, tán thán là điều chưa từng có.

Khi ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật: 

–Thưa Thế Tôn, Như Lai là Bậc Đại Sư vượt ra khỏi ba cõi, v́ nhân duyên ǵ Ngài lại đảnh lễ nắm xương này?

Đức Phật đáp: 

–Này A-nan, Như Lai từ nắm xương này nên nay mới thành Phật. Để báo đáp ân xưa nên hôm nay Ta kính lễ. Để dứt bỏ tâm còn nghi ngờ của các thầy, Như Lai sẽ nói về nhân duyên kiếp trước của Ta. Đại chúng phải chí tâm lắng nghe:

Này A-nan, vào thời quá khứ vô lượng kiếp về trước, có một Quốc vương tên là Đại-xa, nhà vua có ba người con: Vương tử thứ nhất tên là Ma-ha-ba-la, vương tử thứ hai tên là Ma-ha-đề-bà và vương tử thứ ba tên là Ma-ha Tát-đỏa. Bấy giờ, nhà vua tổ chức đi du ngoạn các cảnh núi non, đem ba vương tử theo, cùng tạm dừng nơi rừng tre lớn. Ngày sau, ba vương tử tiếp tục trên đường dạo chơi, thấy một cọp mẹ sinh bảy cọp con đã trải qua bảy ngày. Vương tử thứ nhất nói: 

–Bảy cọp con mãi quây quần bên cọp mẹ, khiến cọp mẹ không rảnh thời giờ đi t́m mồi được, e cơn đói khát bức xúc ắt ăn thịt con. 

Vương tử thứ hai nghe lời nói ấy bèn than: 

–Ôi! Mẹ con đám cọp này chẳng bao lâu sẽ chết hết, ta có cách nào cứu được mạng sống của chúng nó chăng? 

Vương tử thứ ba thầm nghĩ: “Thân này của ta, trải qua trăm ngàn đời xả bỏ một cách phung phí, tàn tạ, hư hoại chưa từng có được chút lợi ích ǵ. Hôm nay, ta sao chẳng thể xả bỏ?” Các vương tử nói, nghĩ như vậy, rồi tâm trạng bồi hồi, nấn ná bên mẹ con cọp đói giây lâu th́ trở về.

Vương tử Tát-đỏa lại suy nghĩ: “Thân ta cần phải thành tựu được thiện nghiệp lớn, ở nơi biển sinh tử làm chiếc thuyền lớn. Nếu xả bỏ thân này, tức dứt bỏ trăm ngàn nỗi sợ hãi của vô lượng thứ ung nhọt bệnh dữ, v́ thân này chỉ là nơi chứa những thứ bất tịnh, chỉ là gân xương kết hợp duy tŕ, thật đáng nhàm chán. Do vậy, ta nay nên từ bỏ nó, để cầu nẻo giải thoát rốt ráo vô thượng, vĩnh viễn xa ĺa mọi thứ sầu, buồn, khổ não, vô thường, đạt được trăm phước trang nghiêm, thành tựu Nhất thiết trí, ban cho chúng sinh vô lượng pháp lạc.”

Lúc ấy, vương tử dấy lên đại dũng mãnh lớn lao, dùng nguyện lực từ bi tăng thêm nơi tâm ḿnh, e ngại hai vương huynh có thể gây trở ngại cho chí nguyện, nên xin hai anh về cung trước, em sẽ về sau.

Bấy giờ, vương tử Ma-ha Tát-đỏa vội trở vào rừng tre, đến chỗ mẹ con cọp đói, cởi bỏ y phục vắt lên cành cây, rồi đặt thân ḿnh nằm trước miệng cọp đói. Bồ-tát với tâm Từ bi nhẫn chịu, saün sàng xả thân. Nhưng cọp mẹ không thể làm ǵ được. Bồ-tát suy nghĩ: “Cọp mẹ nay đang đói, yếu chẳng thể vồ được thân ta”, liền dùng cành tre khô chọc vào cổ ḿnh cho máu chảy ra, rồi trèo lên gộp đá cao, gieo ḿnh xuống đất. Ngay lúc ấy, đại địa hiện đủ sáu thứ chấn động, như cuồng phong làm dậy sóng biển, nhô lên lặn xuống chẳng yên, mặt trời bỗng tối sầu như bị A-tu-la che mất ánh sáng. Trời tuôn mưa các loại hoa cùng hương bột vi diệu, lớp lớp rơi xuống phủ khắp rừng tre, nơi không trung, chư Thiên cùng xưng tán.

Lúc đó cọp đói liếm máu nơi cổ Bồ-tát rồi ăn hết thịt, chỉ để lại những khúc xương. Khi ấy, hai vương huynh lòng sinh sầu muộn, nên cùng chạy lại chỗ cọp đói, không giữ được cảm xúc, liền gieo ḿnh trên đống xương còn lại của em, chết giấc hồi lâu mới tỉnh, buồn thương khóc lóc, bịn rịn mãi rồi mới trở về. 

Bấy giờ, vương phu nhân đang ngủ trên lầu cao, trong giấc mộng chợt thấy điềm chẳng lành: Răng rụng, hai vú bị cắt lại thấy ba chim bồ câu non, trong đó một con bị chim ưng bắt mất. Phu nhân thức giấc, thấy hai vú ḿnh còn chảy sữa. Một tỳ nữ nghe người bên ngoài nói: “T́m kiếm vương tử vẫn chưa có!”, liền chạy vào cung cho phu nhân hay. Phu nhân nghe qua, lo âu buồn khóc, mắt đầy lệ, vội đến nơi vua đang ngự, tâu: 

–Đại vương, chúng ta đã mất đứa con út yêu dấu!

Nhà vua nghe qua buồn nghẹn than: 

–Ngày nay mất đứa con yêu quý, đau khổ biết bao! 

Rồi dùng lời an ủi phu nhân: 

–Khanh chớ âu sầu, ta nay ra lệnh tập trung các đại thần, dân chúng cùng nhau ra khỏi thành phân tán t́m kiếm.

Lát sau, một đại thần trở về tâu vua: Theo tin nhận được, mới t́m thấy hai vương tử lớn, còn vương tử út th́ vẫn chưa t́m ra.

Tiếp sau, vị đại thần thứ hai dáng sầu khổ, khóc lóc, đến chỗ vua cha, đem tất cả việc xả thân của vương tử xét tâu lên cho vua hay.

Nhà vua và phu nhân đau buồn không sao tự ḱm chế được, liền cùng đến chỗ Bồ-tát xả thân, chỉ thấy để lại đống xương, liền ngã nhào lên trên ấy, vật vã, rồi cả hai cùng chết giấc không còn hay biết, quần thần vội lấy nước rưới khắp châu thân, giây lâu mới tỉnh. Khi ấy, phu nhân đầu bù tóc rối, lăn lộn trên đất, như cá phơi ḿnh trên cạn, như bò mẹ lạc mất con, cùng hai vương tử buồn thương kêu khóc, rồi tâu vua ra lệnh làm lễ trà-tỳ, thâu lượm xá-lợi từ nhục thân của Bồ-tát an trí trong bảo tháp, để cúng dường.

Đức Phật bảo: 

–Tôn giả A-nan nên biết, xá-lợi Ta đang cầm đây chính là xálợi của Ma-ha Tát-đỏa. Ta lúc ấy, tuy còn nhiều phiền não tham, sân, si... thường ở trong các cõi ác như địa ngục, ngạ qu, súc sinh, tùy duyên cứu giúp chúng sinh khiến thoát khỏi các nẻo ấy. Huống chi ngày nay, tất cả phiền não đều đã dứt hết, lại không còn các tập khí, được gọi là bậc Đạo sư của cõi trời, người, đầy đủ Nhất thiết trí, mà lại không thể v́ tất cả chúng sinh ở trong mọi cảnh hiểm nạn thay thế chịu các đau khổ sao?

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: 

–Vương tử Ma-ha Tát-đỏa khi xưa đâu phải là người nào xa lạ, chính là thân Ta ngày nay đang ở trong hội này. Quốc vương lúc đó, nay là phụ vương Tịnh Phạn, hậu phi bấy giờ nay là Ma-da phu nhân. Vương tử lớn nay là Bồ-tát Di-lặc, vương tử thứ hai nay là Bồ-tát Văn-thù. Cọp đói khi xưa, nay chính là di mẫu của ta. Bảy cọp con nay là: Đại-mục-kiền-liên, Xá-lợi-phất và năm Tỳ-kheo nhóm ông Kiều-trần-như.

Khi Đức Thế Tôn nói về nhân duyên đời trước của ḿnh như vậy, th́ vô lượng a-tăng-kỳ đại chúng trời, người thảy đều buồn vui lẫn lộn, đồng phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. 

Đức Phật thu nhiếp thần lực, ngôi tháp nhiệm mầu bằng bảy báu hiện ra lúc trước, giờ này hốt nhiên biến mất.

[^]

Duyên Khởi 2: VUA THI-TỲ CỨU MẠNG CHIM BỒ CÂU

Đức Phật bảo với các vị Tỳ-kheo: 

–Ta nhớ thuở xa xưa cách nay vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, trong cõi Diêm-phù-đề có vị Đại quốc vương tên là Thi-tỳ, thành chọn làm kinh đô tên là Đề-bà-để, đất đai trong nước ph́ nhiêu, dân chúng sống cảnh sung túc, an lạc. Đại vương thống lãnh tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, phu nhân, thể nữ tổng cộng hai vạn, có năm trăm thái tử và một vạn quần thần. Nhà vua đầy lòng từ bi, thi hành chính sách: nhân từ, khoan dung, độ lượng, thương yêu muôn dân như mẹ hiền thương con đỏ.

Bấy giờ Đế Thích, chủ cõi trời thứ Ba mươi ba, năm tướng suy kém hiện rõ, sắp bị thoái đọa. Thiên chủ có vị cận thần tên Thiên tử Tỳ-thủ, thấy dung mạo của Đế Thích như vậy nên tâu:

–Cớ ǵ tôn nghi của Thiên chủ có vẻ ưu sầu?

Đế Thích đáp: 

–Ta sắp mãn kiếp, lại nghĩ đến thế gian Phật pháp đã diệt, các vị Đại Bồ-tát lại không ứng hiện, tâm ta lo lắng không biết nương tựa vào đâu!

Thiên tử Tỳ-thủ lại tâu: 

–Tâu Thiên chủ, nay tại cõi Diêm-phù-đề, có vua Thi-tỳ là người tinh tấn, ý chí kiên cố mong cầu Phật đạo, Thiên chủ nên đến đó xin quy y, quyết sẽ được thoát nạn.

Đế Thích nghe qua, không rõ hư thực thế nào: Nếu vua Thi-tỳ đúng là Bồ-tát, ta sẽ thử thách. Liền bảo Tỳ-thủ: 

–Ngươi hóa thành chim bồ câu, ta biến làm chim ưng. Chim ưng đuổi bắt bồ câu, bồ câu chạy vào vương cung xin vua che chở, như vậy mới có thể xét biết nhà vua có phải là Bồ-tát đích thực hay không?

Tỳ-thủ tâu: 

–Ngày nay, đối với Bồ-tát ta phải cung kính cúng dường, chớ nên quấy nhiễu, không được đem tai vạ bức não làm người khổ sở. Khi ấy trời Đế Thích nói kệ:

Ta tâm vốn không ác

Như đem lửa thử vàng

Thử nghiệm Bồ-tát này

Rõ là bậc chân thật?

Nói kệ rồi, Thiên tử Tỳ-thủ bèn hóa làm chim bồ câu, Đế Thích th́ biến làm chim ưng rượt đuổi gấp, suýt bắt được bồ câu, bồ câu hoảng sợ nên bay nấp vào dưới nách nhà vua Thi-tỳ xin cứu giúp che chở. Chim ưng đậu trước mặt nhà vua nói tiếng người:

–Nay chim bồ câu này là món ăn của tôi, hiện tôi quá đói, xin nhà vua trả lại chim bồ câu cho tôi.

Nhà vua đáp: 

–Bản nguyện của ta là nhằm cứu độ tất cả chúng sinh, chim bồ câu này đã chui vào áo ta, dứt khoát ta không thể trả lại cho ngươi.

Chim ưng nói: 

–Tâu đại vương, đại vương nói ngày nay ngài luôn thương xót, nhớ, nghĩ đến tất cả chúng sinh, nếu ngài dứt mất phần ăn của tôi, th́ mạng sống của tôi lâm nguy sao ngài không cứu?

Nhà vua đáp: 

–Nếu thay thế cho ngươi bằng các thứ thịt khác, ngươi có thể ăn được chăng?

Chim ưng thưa: 

–Chỉ có thịt còn máu tươi nóng th́ tôi ăn được. 

Nhà vua thầm nghĩ: “Nếu giết một mạng để cứu một mạng th́ chẳng đúng lý. Chỉ có thịt của thân ta mới có thể thay cho thịt kia, ngoài ra bao nhiêu mạng sống khác đều phải được bảo tồn.” Suy nghĩ như vậy rồi, nhà vua liền cầm dao bén cắt thịt nơi bắp vế ḿnh, đem thịt ấy đưa cho chim ưng để đổi lấy mạng sống cho chim bồ câu.

Chim ưng nói: 

–Vua là nhà thí chủ, nay đem thịt nơi thân ḿnh để thay cho thịt chim bồ câu, th́ thịt ngài phải cân xứng với thịt của bồ câu mới được.

Nhà vua sai lấy cân, hai đầu đòn để hai đĩa cân, chính giữa treo móc cân điều chỉnh cho bằng, rồi đem chim và thịt đặt vào mỗi đĩa. Nhà vua đã cắt hết thịt nơi bắp vế mà đòn cân vẫn lệch về phía bồ câu. Cho đến cắt thịt nơi cánh tay, thịt nơi hông... rốt cuộc nơi toàn thân vua không còn một chút thịt mà vẫn không cân bằng so với thân h́nh nhỏ nhẹ của chim bồ câu. Nhà vua muốn đem cả thân ḿnh đặt trên đĩa cân, nhưng sức khỏe không như ý muốn, nên quî chân ngã nhào, chết giấc trên đất, không còn hay biết, giây lâu mới tỉnh. Vua dùng sức dũng mãnh, tâm tự trách: “Từ vô số kiếp đến nay ta bị cái thân này làm khổ lụy, luân hồi trong sáu nẻo chịu đủ muôn nỗi sự đau khổ, chưa từng đem lại phước lợi ǵ cho chúng sinh, nay chính là lúc tạo được phước lợi, sao lại biếng trễ như thế?” Đại vương suy nghĩ như vậy, tự gượng ḿnh đứng dậy, leo vào trong đĩa cân, tâm rất hoan h, được điều chưa từng có. Lúc ấy, đại địa hiện đủ sáu thứ chấn động, tất cả cung điện của chư Thiên đều bị lay chuyển. Chư Thiên nơi cõi Sắc trụ trong hư không ca ngợi, thấy Bồ-tát tu khổ hạnh, làm được việc khó làm ai nấy đều buồn cảm rơi lệ như mưa, rồi lại rải các loại hoa trời để bày tỏ sự cúng dường. Lúc đó, trời Đế Thích và Thiên tử Tỳ-thủ đều hiện nguyên h́nh, đứng trước nhà vua nói: 

–Công đức tu hành khổ hạnh của đại vương thực khó có thể nghĩ bàn! Ở trong ba cõi, đại vương đem công đức ấy nhằm mong cầu quả vị Chuyển luân vương, Phạm vương, Đế Thích, hay muốn làm những ǵ?

Nhà vua đáp: 

–Bản nguyện của ta chẳng phải cầu phước báo tôn vinh nơi thế gian, chỉ nguyện đem công đức này để cầu thành Phật đạo.

Đế Thích lại hỏi: 

–Ngày nay thân nhà vua đau nhức đến xương tủy, có sinh tâm hối hận chăng?

Nhà vua đáp: 

–Không chút hối hận. Ta thấy nơi thân ông có khổ nạn hết sức lớn.

Đế Thích nói: 

–Nhà vua nói không hối hận, vậy lấy ǵ làm bằng chứng?

Nhà vua bèn phát nguyện: 

–Ta từ khi phát tâm cho đến lúc này, không có chút mảy may hối tiếc. Nếu chỗ mong cầu quyết định thành Phật của ta là chân thật không hư dối đúng như bản nguyện th́ xin khiến cho các chi phần nơi thân thể của ta hiện nay tức khắc b́nh phục như cũ. 

Phát lời thệ nguyện xong, chỉ trong khoảnh khắc, thân thể nhà vua trở lại như trước. Chư Thiên, người đời đều ca ngợi là điều chưa từng có, không thể tự ḱm chế được lòng vui mừng vô hạn.

Đức Phật bảo đại chúng: 

–Vua Thi-tỳ thuở xưa đâu phải là người xa lạ, chính là thân Ta ngày nay. 

Lúc ấy, chúng hội nghe lời Phật nói, thảy đều khác miệng cùng lời thưa hỏi: 

–Thuở xưa, Đức Thế Tôn nhằm cứu độ chúng sinh, tu các hạnh xả bỏ thân mạng để cầu đại pháp lớn, đến khi thành đạo, biển pháp đã viên mãn, cờ pháp đã dựng, trống pháp đã đánh, đuốc pháp đã thắp, chính là lúc căn cơ của chúng sinh đã thuần thục, nhân duyên thích hợp, v́ sao Như Lai lại ĺa bỏ tất cả chúng sinh, muốn nhập Niết-bàn mà chẳng thuyết pháp? Đến khi trời Phạm thiên tán thán tiền thân của Như Lai v́ dốc cầu pháp đã xả bỏ ngàn đầu, lúc ấy, Ngài mới nhận lời, đến vườn Nai thuộc nước Ba-la-nại, ba lần chuyển xe chánh pháp, cùng quán pháp Tứ diệu đế. Tam bảo từ đấy mới xuất hiện tại thế gian.

[^]

Duyên Khởi 3: NHƯ LAI KHẤT THỰC

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngự tại giảng đường Trùng các trong tinh xá Trúc lâm, thuộc nước Ma-kiệt-đà. Sắp đến giờ thọ trai, Phật cùng Tôn giả A-nan đắp y mang b́nh bát vào thành khất thực, thấy một cặp vợ chồng già yếu, hai mắt bị mù, lại thêm nghèo khổ, chỉ có một đứa con duy nhất tuổi vừa lên bảy. Người con này thường đi xin về nuôi dưỡng song thân, khi nào xin được thức ăn ngon, trái cây tươi tốt th́ dâng cho cha mẹ ăn trước còn đồ ăn không ngon, trái cây bầm héo th́ tự ăn.

Lúc ấy, Tôn giả A-nan thầm nghĩ: “Đứa bé này tuổi còn thơ ấu mà có hạnh chí hiếu, sớm hôm lo lắng ân cần không để cha mẹ thiếu thốn”. 

Đức Phật khất thực xong trở về tinh xá, thọ trai xong th́ rửa chân trải tòa ngồi, v́ đại chúng sắp diễn nói kinh pháp.

Tôn giả A-nan đến trước Đức Phật, chắp tay bạch: 

–Bạch Đức Thế Tôn, chính trong khi con hầu Thế Tôn vào thành khất thực, thấy một em bé dắt cha mẹ mù lòa xin ăn đây đó, phụng dưỡng cha mẹ hết lòng hiếu thảo. Hằng ngày làm được mãi như thế th́ thật là khó. 

Đức Phật bảo: 

–Này A-nan, chẳng những chỉ kẻ tại gia, mà hàng xuất gia đều phải lấy hiếu hạnh làm việc trước tiên. Xét về công đức, th́ công đức của sự hiếu thảo đối với cha mẹ là không thể lường tính. V́ sao?

Ta nhớ vào thời quá khứ, vô lượng kiếp về trước, lúc ấy Ta là đồng tử tuổi cũng lên bảy. V́ lòng hiếu thuận, nên từng cắt thịt thân ḿnh để cứu mạng sống của cha mẹ trong cơn nguy cấp. Từ đó đến nay, Ta nhờ công đức này thường làm Đế Thích hay vua cõi người, cho đến hiện tại, thành Phật đều do phước đức ấy.

Tôn giả A-nan bạch Phật: 

–Bạch Đức Thế Tôn, con muốn được nghe nguyên nhân việc cứu mạng sống cho song thân vào đời trước của Ngài, việc ấy như thế nào? 

Đức Phật bảo: 

–Này A-nan, hãy nên lắng nghe, Ta sẽ v́ Tôn giả mà kể lại chuyện ấy.

Về thời xa xưa, tại cõi Diêm-phù-đề này có một nước lớn tên là Đắc-xoa-thi-la, nhà vua tên là Đề-bà, có mười vị thái tử, mỗi người trị v́ một tiểu quốc. Thái tử út tên là Thiện Trụ. Đất nước của vua ấy sung túc, yên ổn, dân chúng sống trong cảnh thái b́nh. Lúc ấy có vua hung ác ở nước láng giềng tên La-hầu, muốn xâm chiếm đất nước của vua Thiện Trụ. Vua La-hầu kết giao với đám hung bạo, cử binh tướng đến tấn công. Vua Thiện Trụ binh lực thua sút, nên phải bỏ chạy về nước của cha ḿnh để lánh nạn.

Vua Thiện Trụ có một thái tử rất yêu quý tên là Thiện Sinh, tuổi còn thơ ấu không thể xa ĺa, nên nhà vua vừa dắt vợ vừa d́u con vội vã chạy trốn khỏi nước. Đường về cố hương có hai ngả: Một ngả chỉ đi bảy ngày th́ đến quê nhà, còn một ngả nữa đường sá chật hẹp hẻo lánh quanh co, phải trải qua mười bốn ngày mới tới. Nhà vua cố gắng mang theo lương thực dự trữ đủ bảy ngày, nhưng trên đường chạy trốn kẻ địch, tâm thần hoảng loạn, nên đi nhầm ngả đường quanh co hẻo lánh, thành ra mới đi được một nửa th́ lương thực đã cạn, những ngày kế tiếp cả ba người đều đói khát mỏi mệt, xem khắp chung quanh hầu như không còn ǵ để sống. V́ sự cấp bách cùng kế phải hy sinh một người để bảo tồn mạng sống cho hai người, nên nhà vua mới bảo vợ dẫn con đi trước, còn ḿnh th́ đi sau rút gươm sắp chém thân vợ dùng để nuôi thái tử và mạng sống của thân ḿnh. Thái tử Thiện Sinh lúc ấy bỗng nhiên nh́n lại phía sau thấy cha ḿnh đang giơ kiếm sắp chém mẫu hậu nên vội vã tâu: 

–Xin phụ vương chớ giết mẫu thân con, thà cắt thịt thân con dùng làm lương thực! Con chưa từng nghe có người con nào lại ăn thịt mẹ ḿnh. 

Thiện Sinh ân cần, thành khẩn khóc lóc van xin để mẫu hậu được toàn tánh mạng.

Thiện Sinh lại tâu với vua cha: 

–Nguyện đem thịt của thân con cứu sống song thân, nếu cắt thịt th́ xin chớ cắt hết một lượt, có thể cắt ăn từ từ, đủ kéo dài số ngày theo đường đi còn lại. Nếu cắt hết một lần, mạng con chết rồi th́ thịt kia sẽ thối rữa, ắt phải bỏ đi, đối với việc cứu đói như thế chẳng thành.

Khi ấy, vua cha cùng mẫu hậu đồng nói với Thiện Sinh: 

–Ngày nay cha mẹ làm điều tội lỗi này thật không phải là bản ý của chúng ta. Nhưng hai ta sao nhẫn tâm cầm dao trực tiếp cắt thịt con ḿnh. 

Lúc ấy, vương tử đã định ý saün, bèn cầm dao bén tự cắt thịt thân ḿnh, quỳ dâng cho cha mẹ. Nhà vua và phu nhân thấy việc như vậy, buồn khóc thảm thiết, hồi lâu mới đành lòng ăn thịt con. Trải qua mấy ngày, thịt trên thân con đều hết mà chưa đến nơi, cơn đói khát lại càng bức bách khó chịu đựng được. Ở khoảng giữa những đốt xương chỉ còn chút ít thịt, đủ để duy tŕ mạng sống thoi thóp của vương tử vào những giờ phút cuối cùng. Thiện Trụ và phu nhân đều dùng lời thương yêu an ủi con ḿnh, gục đầu vào nhau lưu luyến, rồi đành phải bỏ đi.

Khi đó, vương tử thầm nghĩ: “Ta đã đem thịt ḿnh cứu sống song thân, mong cho cha mẹ về đến quê cũ, thân được an ổn, hưởng cảnh thái b́nh. Nguyện đem thiện căn này mau chứng Bồ-đề nhằm cứu độ tất cả chúng sinh trong mười phương, xa ĺa các khổ, hưởng được niềm vui chân thường.” Lúc vương tử phát nguyện ấy, Tam thiên đại thiên thế giới hiện đủ sáu thứ chấn động, tất cả chư Thiên nơi cõi Dục, cõi Sắc đều kinh ngạc, liền dùng Thiên nhãn quán sát thế gian, mới biết Bồ-tát tu hiếu hạnh như thế. Các vị Thiên tử ở trong hư không chắp tay tán dương công đức, nước mắt rơi xuống như mưa.

Bấy giờ, trời Đế Thích biến làm cọp, sói muốn đến ăn thịt để thử tâm Bồ-tát. Vương tử tự nghĩ: “Các loài thú dữ ấy muốn đến ăn thịt ta, ta hiện chỉ còn nắm xương thừa này, xin đem tâm hoan hỷ bố thí tất cả không chút hối tiếc buồn rầu.”

Tức th́, Đế Thích liền hiện nguyên h́nh ca ngợi vương tử: 

–Thật là ít có! Đã có thể dùng thịt nơi thân ḿnh để cứu mạng sống cho cha mẹ, tâm hiếu thảo như vậy, không ai sánh kịp! Ngài cầu mong những ǵ, xin nói cho chúng tôi biết.

Vương tử đáp: 

–Ta chỉ dốc cầu đạt được Phật đạo vô thượng.

Thiên đế lại hỏi: 

–Tôi nay thấy thân ngài, v́ hiếu dưỡng đối với cha mẹ mà da thịt đều hết, sự đau khổ đó thật khó nhẫn chịu, ngài có hối hận chăng?

Vương tử đáp: 

–Nếu đúng như thật là tâm ta không chút hối hận, cùng nhất định vào đời vị lai ta sẽ thành Phật, th́ xin khiến cho thịt trên thân ta đầy đủ lại như cũ. 

Nói lời thệ nguyện ấy xong, tức khắc thân thể được b́nh phục như trước.  Khi ấy, Đế Thích và chư Thiên cùng hết lời tán thán: 

–Hay thay! Hay thay!

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: 

–Vua Thiện Trụ thuở xưa nay chính là phụ vương Tịnh Phạn, vương phu nhân khi đó nay là phu nhân Ma-da, còn vương tử Thiện Sinh là thân Ta.

Hết Quyển 1

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 2

Duyên Khởi 4: THẦN THÔNG BIẾN HÓA TỐI THẮNG CỦA NHƯ LAI

Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị đệ tử đều là bậc Đại A-la-hán, du hành giáo hóa, dừng nghỉ nơi thành Vương xá thuộc nước Ma-kiệt-đà. Vua nước ấy tên là B́nh-sa vương, bẩm tánh nhân từ, hiền hòa, từ lâu đã vun trồng đạo đức, chứng được Sơ quả, lòng tin không thoái chuyển, tâm kính tín Tam bảo càng thêm sâu dày, thường đem các thức ăn thượng diệu, y phục, đồ nằm, thuốc men… cúng dường Đức Như Lai và chúng Tỳ-kheo.

Từ trước, cả nước Ma-kiệt-đà cũng như nơi kinh đô là thành Vương xá đã có nhóm Phú-lan-na là một trong sáu phái ngoại đạo, truyền bá tà giáo, làm mê hoặc dân chúng, số người tin theo cũng khá nhiều. Nhà vua có người em rất sùng tín ngoại đạo này, kính thờ bốn việc gọi đó là có đạo.

Khi mặt trời Phật xuất hiện nơi đất nước này, pháp bảo liền được hưng thịnh. Nhà vua ân cần khuyên nhủ người em quy y Tam bảo, nhưng người ấy vẫn cố chấp, tin vào tà thuyết, không nghe lời khuyên, lại còn nói với vương huynh: 

–Em đã có thầy của em, chẳng cần phải kính lễ ông Cù-đàm nữa!

Nhà vua lại bảo: 

–Phước điền khó gặp, em nên sắm sửa đủ các thức ăn uống thượng vị để cúng dường Đức Như Lai.

V́ lời nói của nhà vua hợp lý, nên người em không dám trái ý, liền tổ chức đại trai đàn, không hạn cuộc người đến dự, nếu người nào tự ý đến ông ta đều đón tiếp.

Ông ta sắp đặt, bố trí bàn ghế, tòa ngồi, bày biện đủ các món ăn hết sức thịnh soạn, rồi sai kẻ hầu âm thầm mời đám Lục sư ngoại đạo. Bọn này nhận lời liền đến ngồi vào vị trí quan trọng.

Đức Phật và chúng Tăng v́ chưa có sự cung thỉnh nên không tự đến. Nhà vua nói với người em: 

–Em tuy không đích thân đến thỉnh Đức Phật, nhưng cũng phải cho một người đến thưa mời.

Khi có người mời, Đức Phật nhận lời rồi cùng đại chúng đầy đủ oai nghi đồng đến dự hội. Đức Phật thấy đám ngoại đạo đã ngồi saün nơi những tòa cao, bèn dùng thần thông dời họ xuống hàng dưới thấp. Chúng nh́n nhau, cùng bảo đứng dậy dời tòa lên, nhưng tòa vẫn cố định, vẫn thấy ngồi dưới thấp. Cứ như vậy ba phen, cuối cùng họ phải gắng gượng mà ngồi.

Đến lượt rửa tay, Đức Phật bảo thí chủ mời thầy của ông rửa tay trước, nhưng nắp b́nh nước cứ đậy kín, phải đem đến mời Đức Phật rửa trước, lúc này nước trong b́nh liền chảy ra.

Tiếp theo là chú nguyện, Đức Phật cũng bảo thí chủ mời thầy ḿnh chú nguyện trước, nhưng đám Lục sư miệng như cứng lại nói không ra lời, phải đến mời Phật, ngài dùng Phạm âm chú nguyện, âm thanh trong lành vang rộng khiến người nghe đều vui thích.

Kế đến giờ thọ thực, sự việc cũng được tiến hành như trước, nhưng đồ ăn đem đến cho đám Lục sư liền bay lên hư không. Lúc đem dâng cho Đức Phật và chúng Tăng, th́ các thức ăn kia từ trên không hạ xuống. Đức Phật và chúng Tăng thọ trai xong, rửa tay, súc miệng, xỉa răng, trải tòa an tọa.

Đến lượt thuyết pháp, Đức Phật cũng bảo mời thầy của thí chủ giảng nói trước, nhưng cũng như lúc chú nguyện, đám Lục sư đều như bị cấm khẩu. Tới phần Đức Phật, lúc này Đức Như Lai dùng Phạm âm, v́ khắp chúng hội diễn nói pháp vi diệu, đại chúng lắng nghe thảy đều thấu đạt. Người em của B́nh-sa vương tâm được thanh tịnh, tin hiểu Phật pháp, nên quy y Tam bảo chứng được Sơ quả. Ngoài ra trong chúng hội có người chứng được Nhị quả, cho đến dứt hết các lậu, chứng quả A-la-hán.

Mưu đồ của đám ngoại đạo hôm ấy bị thất bại, nên ôm lòng buồn bực, tức giận, tâm không lúc nào an ổn. Sau đó mỗi người tự t́m nơi vắng lặng để mong học các thuật lạ. Thiên ma Ba-tuần sợ đám ngoại đạo này khiếp nhược, không thể giữ nổi các thứ tà đạo mà Thiên ma đã trao, nên mới hiện xuống biến thành tướng của vị Lục sư, ở trước một người ra năm người phô diễn pháp thuật. Bay đi trong hư không, thân phun ra nước, lửa, một thân phân làm nhiều thân, biến hiện đủ cách. Do đó đám ngoại đạo càng thêm tin cậy, bao nhiêu tâm niệm tủi nhục lúc trước đều tiêu tan. Nay tự xét ḿnh có thể hơn Sa-môn Cù-đàm, liền cùng nhau đến trước nhà vua khoe khoang về phép lạ, lại xin nhà vua mời Phật đến đấu phép mới thấy ai cao thấp.

Bấy giờ, B́nh-sa vương mỉm cười nói: 

–Ta thấy đám tà thuật các ông thật hết sức mê muội. Uy đức của Phật rộng lớn, lời nói không thể diễn tả hết! Các ông quả là muốn đem ánh sáng của đom đóm so với ánh sáng mặt trời, đem nước đọng nơi dấu chân thú, sánh với nước nơi biển cả, đem ụ đất của kiến đùn so với núi Tu-di, đem thân thấp hèn của loài dã can mà sánh với tướng của sư tử... Chỗ cao thấp, lớn nhỏ đã quá rõ ràng có thể tự biết.

Lục sư tâu: 

–Đại vương chưa tận mắt chứng kiến sự biến hóa thần diệu của chúng tôi, do đâu mà ngài đem tâm xem rẻ chúng tôi như vậy!

Nhà vua chấp nhận, hẹn bảy ngày sau mời nhóm ngoại đạo này đến thí trường đấu phép.

Nhà vua thân hành đến chỗ Phật, tŕnh bày mọi sự việc như trên, rồi thưa: 

–Cúi mong Đức Thế Tôn dùng phương tiện thể hiện uy lực để hàng phục tà đảng, đem chúng trở về với chánh đạo.

Đức Phật nói: 

–Này đại vương, Như Lai tự biết đúng lúc!

Nhà vua nghe lời nói ấy, cho rằng Đức Phật đã chấp nhận, liền ra lệnh đám quần thần t́m một vị trí thật rộng rãi, sửa sang bằng phẳng sạch sẽ, treo cờ phướn, bày biện tòa ngồi. Đúng ngày khai hội, dân chúng đều trông ngóng Như Lai đến. Nhưng ngày hôm đó, Đức Như Lai cùng đại chúng từ thành Vương xá đi tới nước Tỳ-da-ly. Nhà vua đang trị v́ nước ấy tên là Lật-tha liền dẫn các quan cùng dân chúng ra khỏi hoàng cung nghinh đón Phật và chúng Tăng. Đám Lục sư ngoại đạo cùng lớn tiếng nói rằng đã biết từ lâu, trí thuật của Sa-môn Cù-đàm cạn cợt ít ỏi, nay bắt buộc phải so tài hơn thua nên sợ mà lánh đi.

Khi ấy, B́nh-sa vương nghe tin Đức Phật đã rời khỏi nước, nên sắm đầy đủ vật cúng dường chất đầy năm trăm xe, vua cùng các quan, dân chúng gồm đến mười vạn người, đem đầy đủ vật cần dùng, tất cả đều đi theo Đức Phật.

Lục sư ngoại đạo liền đến trước đại vương Lật-tha tâu: 

–Tâu đại vương, cho phép chúng tôi cùng Sa-môn Cù-đàm so tài về thần thông biến hóa.

Đại vương nói: 

–Thật là kẻ ngu si! Tự cho ḿnh là có đạo đức, tài ba! Chỉ lo cho các ông tự chuốc lấy sự tủi nhục đó thôi.

Rồi nhà vua đến bạch Phật: 

–Bạch Đức Thế Tôn, đám Lục sư ngoại đạo háo hức muốn so tài phép lạ với Ngài. Cúi xin Đức Như Lai hàng phục đám tà ác kia.

Đức Phật nói: 

–Này đại vương, Như Lai tự biết đúng lúc!

Nhà vua nghe Phật nói như vậy, tưởng rằng Đức Phật đồng ý, nên về ra lệnh sắp đặt tổ chức giống như B́nh-sa vương. Đúng ngày hẹn, dân chúng chen chúc chờ xem thi phép. Nhưng hôm đó Đức Như Lai lại từ nước Tỳ-da-ly hướng dẫn đại chúng đến nước Câuthiểm-di. Vua của nước này tên là Ưu Điền, nghe tin, bèn tập hợp tất cả các quan lớn nhỏ, đông đảo dân chúng cùng đến đón rước Đức Thế Tôn và đại chúng.

Dân chúng thành Tỳ-da-ly sáng hôm đó sớm không thấy Phật, nên hỏi nhau: 

–V́ sao Phật lại sang nước Câu-thiểm-di? 

Đám Lục sư thấy vậy lại càng huênh hoang, nói với các môn đồ của họ: 

–Rõ là Sa-môn Cù-đàm không dám gặp chúng ta.

Lúc ấy, vua Lật-tha nghe Đức Phật đã rời khỏi nước ḿnh, cũng sắm sửa vật cần dùng, chở đầy năm trăm xe theo để cúng dường. Vua, đông đảo các quan và dân chúng gồm bảy vạn người, đem đầy đủ vật cần dùng, tất cả cùng theo sau Đức Phật. 

Đức Phật từ nước Câu-thiểm-di đi sang nước Việt kỳ, từ nước Việt kỳ, Đức Phật lại đến nước Đặc-xoa-thi-la, rồi tới các nước Bala-nại, Ca-tỳ-la-vệ, sau cùng th́ dừng chân ở nước Xá-vệ.

Trong lúc Đức Thế Tôn đi qua các nước trên, đều có ngàn vạn ức dân chúng, trăm quan, vua tất cả cùng đón rước trọng thể, cung kính cúng dường. Nơi mỗi nước Đức Phật đi qua, đám Lục sư ngoại đạo luôn đuổi theo sau, mời Đức Phật đấu phép và khoe khoang tài năng của ḿnh.

Các quốc vương đem theo các quan, dân chúng gồm đến vô lượng trăm ngàn vạn ức người, chật ních trên các con sông và đồng nội, đang đổ xô về nước Xá-vệ. Vua nước Xá-vệ lúc đó là Thắng Quân, là một vị vua có uy đức lớn được mọi người tôn kính, tiếng đồn khắp mọi nơi.

Đám Lục sư ngoại đạo lại đến chỗ Thắng Quân tâu: 

–Tâu đại vương, Sa-môn Cù-đàm đã lánh mặt chúng tôi, bôn ba qua khắp các nước ý muốn trốn tránh. Chúng tôi cùng đám môn đệ quyết chí đuổi theo, nay đến nơi đây, xin đại vương cho phép chúng tôi cùng Sa-môn Cù-đàm đấu phép hơn thua.

Vua Thắng Quân nói với đám ngoại đạo: 

–Thánh đức của Như Lai khó có thể nghĩ bàn, đám các ông là hàng phàm phu ngu si sao dám tranh hơn thua?

Nhà vua đến chỗ Đức Phật, thưa lại đủ mọi sự việc như trên và cúi xin Đức Thế Tôn thể hiện một ít thần thông biến hóa, nhằm khiến cho dân chúng khắp các nước thấy được thần lực của Phật, phân biệt tà chánh.

Đức Phật nói với vua Thắng Quân: 

–Này đại vương, đây chẳng phải là duyên nhỏ, nay chính là đúng lúc, như lời đại vương thỉnh.

Nhà vua liền ra lệnh các quan trực thuộc sửa soạn, bố trí hội trường, bày biện tòa ngồi, dùng đủ các thứ hoa hương. Tất cả vua quan, dân chúng khắp nước đều tề tựu.

Nhằm ngày đầu tháng, vào lúc ban mai, Đức Phật và đại chúng đến hội trường trước nhất. Hôm ấy đại vương Thắng Quân đem tâm thanh tịnh thiết trai cúng dường, tự tay ḿnh bưng dâng các thức ăn uống, nước rửa, tăm xỉa răng… cho Đức Phật.

Đức Phật nhận tăm xỉa răng xong rồi vứt xuống đất, từ nơi tăm xỉa răng ấy mọc lên một mầm cây xanh tốt phát triển rất nhanh, lần lần cao lớn tới ba trăm do-tuần, tàng cây bao trùm hai trăm do-tuần, cành, lá, hoa, quả bằng bảy báu, có nhiều màu sắc khác nhau; theo mỗi màu sắc phát ra mỗi hào quang, ăn trái cây này mùi vị như cam lộ.

Tất cả dân chúng trông thấy thần thông của Đức Phật biến hóa như vậy, đều sinh tâm kính trọng, ca ngợi là điều chưa từng có. Đức Phật tùy theo căn cơ của đại chúng v́ họ thuyết giảng diệu pháp. Thính giả lãnh hội tâm được giải ngộ, chứng đắc pháp Bất thoái chuyển.

Qua ngày thứ hai, vua Ưu Điền nước Câu-thiểm-di thỉnh Phật cúng dường. Đức Phật, nơi giữa biên giới hai nước, hóa hiện hai hòn núi lớn, cao rộng đẹp đẽ, núi do bảy báu tạo thành, đủ màu sắc chói sáng.

Một núi ở trên đỉnh tuôn ra vô số cơm canh, mùi vị thơm tho, ngon ngọt như vị Tô-đà. Vô lượng chúng sinh trong các nước cùng nhau đến thọ dụng đều được đầy đủ.

Hòn núi thứ hai tuôn ra đầy dẫy các loại cỏ thơm non mềm mại, ăn không đắng không nhám, các loài súc sinh như bò, ngựa, voi, dê... đều được no nê. 

Tất cả dân chúng các nước thấy thần thông biến hóa của Đức Phật như thế, đều sinh tâm kính tín, hết lời ca ngợi là điều chưa từng có. Đức Phật v́ họ mà thuyết pháp, mọi người đều tỏ ngộ, chứng quả Tu-đà-hoàn.

Qua ngày thứ ba, vua Thuần-chân-đà nước Đại Việt-chi thỉnh Đức Phật cúng dường. Nhà vua dâng nước trong sạch để Đức Phật súc miệng, rửa tay, Đức Phật dùng xong đổ nước xuống đất th́ chỗ đất ấy hóa thành ao bảy báu, mỗi mặt rộng hai trăm dặm, nước tám công đức chứa đầy ắp trong ao, hoa sen bốn màu mọc khắp xa gần, mùi thơm tinh khiết. Tất cả chúng hội thấy Đức Phật hiện bày thần thông biến hóa như vậy, đều sinh tâm tín kính. Đức Phật lại v́ họ thuyết pháp, tâm ý khai ngộ, xa ĺa trần cấu đều chứng Sơ quả.

Qua ngày thứ tư, vua Đà-bà-di nước Đặc-xoa-thi-la thỉnh Đức Phật cúng dường. Lúc ấy, Đức Phật đối nơi bốn mặt ao báu kia biến thành tám dòng sông lớn, nước trong xanh, sóng đập dồn dập vào nhau tuôn chảy liên tục. Tiếng nước chảy diễn nói pháp tám giải thoát và các pháp Ba-la-mật, người nghe đều phát tâm Bồ-đề.

Qua ngày thứ năm, vua Phạm-ma-đạt nước Ba-la-nại thỉnh Phật cúng dường. Khi đó, từ kim khẩu Đức Như Lai phóng ra hào quang màu vàng ròng chiếu khắp cõi Tam thiên đại thiên, chúng sinh nhờ hào quang chiếu soi, thân tâm được thư thái, giống hệt như sự an lạc nơi đệ Tam thiền. Đức Phật v́ họ thuyết pháp, chúng hội đều đạt được pháp nhãn thanh tịnh.

Qua ngày thứ sáu, vua Lật-tha nước Tỳ-da-ly thỉnh Phật cúng dường. Diệu lực từ bi của Đức Như Lai gia hộ b́nh đẳng cho tất cả chúng sinh trong hội, khiến tất cả họ đều hiểu rõ về nghiệp báo thiện ác xen lẫn của hành động và tư tưởng khác nhau nơi mỗi người, nên đều kinh sợ và sinh tâm hoan h, ca ngợi công đức của Như Lai. Đức Phật v́ họ mà thuyết pháp, mỗi người được tỏ ngộ một cách thấu suốt, phát tâm thanh tịnh an trụ nơi pháp nhẫn vô sinh.

Đến ngày thứ bảy, các người thuộc dòng họ Thích nước Ca-tỳla-vệ thỉnh Đức Phật cúng dường. Đức Phật dùng thần lực khiến mọi người trong hội đều thấy thân ḿnh làm Chuyển luân thánh vương, đầy đủ bảy thứ báu, một ngàn người con quây quần, các tiểu vương, trăm quan, dân chúng đều cung kính thừa hành, ai nấy đều hoan h, ca ngợi công đức của Như Lai, Đức Phật v́ họ thuyết pháp, mọi người đều phát tâm cầu quả vị Bồ-đề Vô thượng.

Qua ngày thứ tám, trời Đế Thích biết Phật Thế Tôn dùng thần lực để thu phục hóa độ đám tà đảng, nên hiện xuống nhân gian thỉnh Đức Phật cúng dường, v́ Đức Phật, Đế Thích tôn tạo tòa sư tử bằng bảy báu. Khi Đức Phật thăng tòa, hào quang từ tòa chiếu sáng rực rỡ, Đế Thích, Phạm thiên cùng chư Thiên đứng hầu hai bên, tất cả chúng hội đều ngồi im lặng lẽ. Bấy giờ, Đức Như Lai đưa cánh tay màu vàng ròng, dùng bàn tay ấn vào tòa ngồi, bỗng nhiên có âm thanh phát ra như tiếng gầm của voi chúa, ngay lúc đó, có năm đại Dược-xoa, xô dẹp mọi người rồi đến tóm đám Lục sư kéo tới trước pháp tòa, thần Mật Tích cầm chày Kim cang trên đầu đang bốc lửa, tất cả Lục sư thảy đều kinh hãi vội vàng tẩu thoát lấy làm xấu hổ, v́ quá nhục nhã. Môn đồ của đám Lục sư đến chín vạn người đều quy y Phật xin làm đệ tử. Đức Phật nói: “Thiện lai”, tức th́ râu tóc tự rụng, thành Sa-môn, đều chứng quả A-la-hán.

Lúc ấy B́nh-sa vương lại bạch Phật: 

–Thưa Đức Thế-Tôn, ngày nay đám Lục sư ngoại đạo sinh ra tuy gặp Phật mà không được nhờ ân tế độ, con nguyện muốn nghe nguyên nhân nơi kiếp trước của họ.

Đức Phật nói: 

–Này đại vương, nên hết sức để ý lắng nghe! Về thời quá khứ, vô lượng, vô số kiếp về trước, tại cõi Diêm-phù-đề này có một vị vua tên là Xa-câu-lợi, trị nước đã lâu mà không có người nối giữ ngôi báu. Một khi nghĩ đến việc ấy, lòng vua luôn ưu sầu, nên phát tâm rộng rãi làm việc phước lợi để cầu mong cho sở nguyện kia được thành tựu. Trời Đế Thích thấy vậy bèn hiện làm một lương y, đến cung điện vua hỏi về nguyên do sầu muộn, nhà vua đem mọi sự như trên tŕnh bày cho lương y nghe. Thầy thuốc nói: 

–Tôi sẽ v́ đại vương lên Tuyết sơn hái linh dược về cho hậu phi uống, sau đó sẽ có con. 

Nhà vua hết sức vui mừng. 

Sau khi thầy thuốc hái linh dược về nội cung, dùng sữa sắc thuốc dâng lên hoàng thượng cho hậu phi uống. Vương hậu nghe mùi hôi khó chịu, lại thêm không tin nên chẳng chịu uống. Lương y cáo biệt ra về. Phần thuốc ấy các cung tần tranh nhau chia uống, uống xong chẳng bao lâu đều cảm thấy ḿnh có mang. Khi ấy, vương hậu nghe vậy nên hối tiếc, buồn rầu than thở, cho người lục kiếm linh dược lúc trước, may chỉ còn được một ít bã, bèn dùng sữa sắc uống, sau đó vương hậu có mang. Các phu nhân khác đến ngày lâm bồn, ai ai cũng sinh được hài nhi dung mạo tuấn tú, nhà vua hết sức vui mừng. Cuối cùng vương hậu mới sinh được một hoàng tử, khuôn mặt hết sức xấu xí, thân h́nh như gốc cây, nhà vua và hoàng hậu thấy vậy đều chẳng vừa ý, nhân đó đặt tên cho thái tử là Châu Ngột. Thái tử Châu Ngột qua năm tháng đã trưởng thành, võ nghệ, sức mạnh hơn người.

Bấy giờ giặc thù từ trước láng giềng xâm lấn biên cương, nhà vua sai thái tử đánh dẹp, thái tử đẩy lui được quân địch. Nhà vua nhân đấy mà lòng yêu thương con dâng lên, mới lo việc lứa đôi cho thái tử.

Vua Xa-câu-lợi từng nghe vua Lê-sắt-bạt-tha trị v́ nơi nước xa xôi, có một công chúa dung nhan vô cùng xinh đẹp. Vua bèn sai người đến cầu hôn cho thái tử mong được vua Lê-sắt-bạt-tha nhận lời. Sáu nước khác nghe danh công chúa đều đem tâm ưa thích nên tranh nhau tới cầu hôn, do đó sáu nước cử quân đánh nhau. Vua Lêsắt-bạt-tha lúc này mới nói rõ ý ḿnh: Nếu ta chấp nhận gả công chúa cho một nước nào th́ các nước kia sẽ đem tâm oán giận ta. Vậy nước nào đánh lui được các nước khác, chính nước đó sẽ đón công chúa của ta.

Thái tử Châu Ngột nghe lời bày tỏ của vua kia, mới rõ sự thực là đang có các nước tranh nhau, nên sử dụng các thứ binh khí sắc bén, đám quân binh là hàng trai trẻ khỏe mạnh, hăng hái xông ra trận địa nên kết quả là thắng, đem sáu thủ cấp của các vua kia dâng cho vua Lê-sắt-bạt-tha, nhà vua hết sức vui mừng, nhận thái tử làm chàng rể. Thái tử Châu Ngột thống lãnh tướng sĩ sáu nước cùng phu nhân trở về bổn quốc.

Công chúa thấy thái tử Châu Ngột diện mạo xấu xí, thường tỏ vẻ sợ sệt. Thái tử tủi phận, tâm chẳng được yên ổn nên lẻn vào rừng sâu tính bề tự tử. Trời Đế Thích biết được ý định của thái tử nên hiện xuống nơi rừng sâu kia, khéo léo đem lời an ủi và cho một viên ngọc quý, bảo thái tử đem viên ngọc ấy giấu kín tại đảnh đầu, sẽ được tướng mạo như ḿnh không khác. Thái tử quỳ nhận viên ngọc rồi vui vẻ trở về hoàng cung, người vợ thấy, chẳng biết là ai mới hỏi: 

–Ngươi là người nào? 

Thái tử bèn kể lại đầy đủ về nguyên do có được viên ngọc. 

Thái tử từ đây không còn tên Châu Ngột nữa, lại được thay bằng tên Tu-đà-la-xá.

Đức Phật nói với vua B́nh-sa vương:

–Vua Xa-câu-lợi lúc ấy nay là phụ vương Tịnh Phạn, vương phu nhân thời đó nay là Ma-da phu nhân. Thái tử xấu xí chính là Ta, còn người vợ xinh đẹp thuở ấy nay là phu nhân Da-du, sáu vị vua bấy giờ nay là đám Lục sư như Phú-lan-na...

[^]

Duyên Khởi 5: NHƯ LAI CHẲNG BỊ CHẤT ĐỘC LÀM HẠI

Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang hành hóa nơi thành Vương xá, quốc chủ lúc ấy là vua A-xà-thế, mới phát sinh lòng tin thanh tịnh, quy y Phật-đà, bốn sự cúng dường luôn đầy đủ, do đó, các đại thần, muôn dân, bốn chúng đều gần gũi cung kính Đức Như Lai. Phật đã dùng phạm âm thuyết giảng diệu pháp, chỉ dạy hàng đệ tử đoạn trừ mười nghiệp ác: Không được giết hại sinh mạng, không được trộm cướp của người, không được tạo tác tà hạnh, không được nói lời chẳng thật, không được nói lời thêu dệt, không được nói lưỡi hai chiều, không được nói lời thô ác, không tham lam, không sân hận và không tà kiến. Những chúng sinh này nhờ Phật giáo hóa tu tập theo mười điều lành, đem thân tâm thanh tịnh an trụ trong Phật pháp. 

Lúc ấy, có một trưởng giả tên là Thân Nhựt, vô cùng giàu có, tài sản vô lượng, có thế lực lớn, từ xưa đến nay luôn phụng thờ ngoại đạo, chấp giữ tà kiến, theo giáo pháp Bà-la-môn.

Đám ngoại đạo thấy vua A-xà-thế, các đại thần cùng vô số dân chúng quy ngưỡng kính tín Đức Như Lai, mà các môn đồ của họ mất th́ dâng cúng ít ỏi, nên ôm lòng ganh ghét, muốn ám hại Đức Phật, bèn đến nhà trưởng giả Thân Nhựt cùng nhau bàn kế. Chúng nói:

–Sa-môn Cù-đàm thường nói ḿnh biết rõ mọi sự việc trong ba cõi, biết trước tâm niệm của kẻ khác, ta nay t́m cách thử xem việc ấy có thật chăng? 

Trưởng giả nói: 

–Phải đấy, nhưng phải thử nghiệm như thế nào?

Ngoại đạo nói: 

–Trưởng giả phải quy y giả với Phật, thỉnh Phật về nhà bày biện cúng dường món ăn uống thượng vị, nếu Sa-môn biết trước th́ không nhận lời, còn nếu nhận lời thỉnh, th́ đám Sa-môn Cù-đàm ấy tất sẽ bị họa.

Ngoại đạo hiến: Trước tiên là bên trong cổng vào đào saün một hầm thật sâu rộng, dưới chứa đầy những khúc lửa cháy saün, mặt hầm đậy bằng một tấm sắt dựa vào một đòn bẩy rồi phủ lên một lớp đất mỏng, chờ cho Sa-môn Cù-đàm dẫn các môn đệ đi ngang qua đây. Như họ lánh thân đi quanh cửa hông an toàn, th́ xem như không có ǵ xảy ra. Việc kế tiếp, trưởng giả vái chào họ rồi mời đi thẳng vào trai đường, dùng cơm đã trộn lẫn độc dược dâng cho họ ăn.

Trưởng giả Thân Nhựt khen ngợi cho là thượng sách, rồi mỗi mỗi làm theo y như lời ngoại đạo, sai các thuộc hạ gấp rút đào hầm và bố trí đúng như mưu, rồi trưởng giả đến chỗ Đức Phật, tỏ vẻ thành kính thỉnh Phật. Đức Phật biết trưởng giả này cơ duyên hóa độ đã đến, nên im lặng nhận lời. Khi ấy đám ngoại đạo hết sức vui mừng.

Trưởng giả có một người con tên là Nguyệt Quang, tuổi vừa mười sáu, thông minh lanh lợi, từ lâu đời đã vun trồng căn lành, có trí tuệ biết được thọ mạng từ đời trước của ḿnh, nên thưa với cha: 

–Thần trí của Đức Như Lai, chúng sinh vừa dấy niệm là liền biết. Đám ngoại đạo là hạng người ngu si cha phải thận trọng chớ nên tin. 

Trưởng giả Thân Nhựt không nghe theo lời con, vẫn thực hiện kế hoạch đào hầm chứa lửa, dùng thuốc độc hòa lẫn với cơm. Trưởng giả chờ trời sáng cho người đi thỉnh Phật đến xem thử sự việc thế nào.

Đức Như Lai đã biết trước nên dặn các Tỳ-kheo bưng b́nh bát đi theo sau ḿnh. Cùng lúc các vị: Tứ đại Thiên vương, Đế Thích, Phạm thiên và các chúng Trời, Rồng, Qu, Thần... thảy đều theo hầu Đức Phật. Bấy giờ, Đức Phật hiện các thần thông biến hóa: Trước tiên phóng hào quang màu vàng ròng chiếu thẳng đến nhà trưởng giả Thân Nhựt, rồi cùng với đại chúng ung dung hướng về nhà trưởng giả. Thân tướng của Đức Phật uy nghiêm rạng rỡ như mặt trăng ở giữa đám sao. Khi gần đến cổng chính th́ đại địa hiện đủ sáu thứ chấn động, người bệnh được lành, người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, mọi thứ độc hại đều tiêu tan, kẻ điên cuồng th́ tâm trí được sáng suốt trở lại, tất cả các thứ âm nhạc tự nhiên hòa tấu, các loài cầm thú quý hiếm bỗng nhiên cùng nhau nhảy nhót kêu vang, hầm lửa được che đậy kia do thần lực của Phật liền biến thành ao nước rộng lớn, trong lành, nơi ao lại hiện hoa sen ngàn cánh, Đức Như Lai bước trên đó chậm rãi đi vào trước, các vị đại đệ tử tuần tự bước trên hoa sen trăm cánh ngay hàng tiến vào sau.

Trưởng giả Thân Nhựt lúc ấy chứng kiến các thần thông biến hóa của Như Lai mới tỉnh ngộ, thấy ḿnh là kẻ không hiểu biết, nên hết sức lo sợ, vội vàng đầu mặt sát đất cung kính đảnh lễ Đức Phật xin sám hối, tự trách việc làm tội lỗi của ḿnh.

Giờ ăn sắp đến, trưởng giả muốn sai kẻ hầu nhanh chóng nấu cơm thơm ngon khác để dâng cúng Đức Như Lai. Đức Phật bảo trưởng giả: 

–Cứ lấy cơm đã trộn với độc dược đem lại cho Ta, chẳng cần nấu cơm khác. 

Đức Phật lại bảo đại chúng, khi nhận cơm này để vào trong bát chưa được ăn liền. Đức Phật nói tiếp: 

–Kẻ phàm phu nơi thế gian có ba điều độc: Một là tham dục, hai là sân hận, ba là ngu si. Như Lai hiện nay đã trải qua vô số đại kiếp diệt trừ lửa phiền não, tâm được thanh tịnh trong lành, đối với ba thứ độc đó đã hoàn toàn dứt sạch. Giả sử thuốc độc lớn như núi Tu-di, hầm lửa đào rộng như biển cả, th́ đối với thân Như Lai đều chẳng thể gây tổn hại, nên cơm trộn lẫn độc dược này, do diệu lực từ sự thực hành của Phật, Pháp, Tăng khiến cho tất cả mọi độc hại đều được tiêu trừ.

Đức Phật và đại chúng cùng thọ trai, đều b́nh yên vô sự. Lúc này đám ngoại đạo đều lẫn trốn.

Trưởng giả Thân Nhựt quỳ gối đảnh lễ dưới chân Đức Phật, bạch: 

–Bạch Đức Thế Tôn, con quá ngu si nghe theo đám tà sư làm điều ác này, cúi xin đức đại từ bi thương xót thọ nhận sự sám hối của con để con khỏi ưu sầu, sợ hãi.

Đức Như Lai v́ trưởng giả giảng nói pháp bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trưởng giả nghe rồi tâm được thanh tịnh, tin hiểu, chứng bậc Sơ quả, đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra.

[^]

Duyên Khởi 6: THỎ CHÚA XẢ THÂN CÚNG DƯỜNG PHẠM CHÍ

Bồ-tát trong thời quá khứ thường làm thỏ chúa, do các nghiệp nhân còn sót lại từ đời trước của ḿnh, tuy thọ báo thân làm thỏ mà biết nói tiếng người. Thỏ chúa tánh ngay thẳng, thật thà, chưa từng biết dối trá, dốc chứa nhóm trí tuệ, huân tập theo từ bi, tâm không hế dấy niệm sát hại, ở trong vô lượng trăm ngàn con thỏ, do bẩm tánh hiền hòa, mực thước, nên được đứng đầu nơi đồng loại.

Thỏ chúa v́ hàng thuộc hạ giảng nói kinh pháp, khuyên bầy thỏ nên để ý lắng nghe khéo suy niệm: 

–Ta cùng các người từ vô thỉ kiếp đến nay, chẳng tu hạnh chân chánh, nên theo nghiệp lưu chuyển trong các đường ác. Do bốn thứ nhân là tham lam, giận dữ, si mê, kiêu mạn, nên bị đọa trong ba nẻo dữ. 

Hoặc do tham lam bỏn sẻn tạo mười nghiệp ác, v́ nhân duyên ấy nên bị đọa vào loài ngạ qu, do sự tham lam keo kiệt luôn tăng trưởng, nên cổ họng như lỗ kim, nhiều kiếp lâu dài chưa từng nghe đến tên nước uống, nếu thấy được chút cơm th́ cơm kia liền biến thành lửa, da bọc lấy xương chịu các khổ bức về đói khát.

Hoặc do sân hận tạo mười điều ác, v́ nhân duyên này mà phải đọa vào loài súc sinh. Hoặc làm loài thú như: cọp, tê giác, rắn độc, loài không chân, loài nhiều chân, ăn nuốt lẫn nhau. Hoặc làm thân lạc đà, trâu, bò… chịu quả báo phải chở nặng đi xa, cổ mồm đều bị lở để trả nợ đời trước của ḿnh.

Hoặc do ngu si tạo mười điều ác, v́ nhân duyên ấy mà bị đọa vào địa ngục. Do không có trí tuệ chân chánh, nên cho không có nhân quả, hủy báng Phật, Pháp, Tăng, đoạn hạt giống trí tuệ, phải chịu sự trừng phạt thọ nhận vô số khổ bức nơi các địa ngục Bát hàn, Bát nhiệt, núi đao, rừng kiếm...

Hoặc do ngã mạn tạo mười điều ác, v́ nhân duyên đó mà bị đọa vào loài A-tu-la, tâm thường dua nịnh, cao ngạo tự đại, xa lánh thiện tri thức, chẳng tin Tam bảo, tuy thọ nhân phước báo như chư Thiên, nhưng bị cái khổ về chiến đấu nên tay chân luôn bị tàn hại.

Ta nay lược nói sự thọ khổ ở các cõi như vậy, nếu nói đầy đủ th́ trọn kiếp cũng không diễn tả hết. Lại nữa, ta cùng với các ngươi do không có mắt trí tuệ, ngu si luôn tăng tưởng, nên thọ lấy thân loài thỏ, thường chịu các khổ về đói khát, thiếu cỏ ăn nước uống. Tuy sống nơi đồng nội hay rừng sâu, luôn luôn hồi hộp lo sợ, hoặc bị tai nạn do lưới rập, hầm bẫy, hoặc bị thợ săn bắn hại. Hiện tại thọ nhận sự khổ này ta phải hết sức nhàm chán, xa ĺa tai họa ấy. Mỗi người đều nên phát tâm dũng mãnh quyết tu tập mười điều lành, hướng đến việc xa ĺa các nẻo ác, cầu sinh cảnh giới tốt đẹp. 

Thuở ấy, thỏ chúa thường v́ đồng loại diễn nói pháp quan trọng thích hợp với căn cơ của chúng như trên.

Bấy giờ, có một ngoại đạo thuộc dòng Bà-la-môn, nhàm chán thế gian nên vào núi tu tập đạo Tiên, xa ĺa ái dục, không khởi tâm sân hận, uống nước trong, ăn hoa quả, thích ở chỗ vắng lặng, móng tay và râu tóc để dài, ra tướng Phạm chí. Một hôm, bỗng nghe tiếng thuyết kinh giảng pháp của thỏ chúa với bầy thỏ từ xa vọng lại, Phạm chí này tự than: 

–Ta nay tuy được làm người, nhưng ngu si vô trí, không bằng thỏ chúa kia, hiểu rõ pháp thiện đem khai ngộ cho đồng loại. Thỏ chúa này nhất định là bậc đại Hiền thánh quyền biến hóa thân, hoặc là Phạm vương hay Đại tự tại... Ta nhân được nghe lời thuyết pháp của thỏ chúa ấy mà xa ĺa các phiền não, thân tâm được thư thái. Nay thỏ chúa này tâm tánh nhân từ, khéo có thể t́m ra được giáo pháp của các Thánh hiền đời trước, phân biệt được lý báo ứng của thiện ác. Từ bấy lâu nay, ta nương thân nơi hang núi, lấy cỏ làm y phục, sống bằng hoa quả để mong cầu đạo ra khỏi ba cõi, chưa gặp được lời chỉ dạy của các bậc thầy, bạn nào như vậy, nay vừa nghe được nên vui mừng vô cùng. 

Lúc ấy, Tiên nhân bèn đứng dậy chắp tay, đi về chỗ ở của thỏ chúa, nói lời ôn tồn: 

–Bậc Đại sĩ kỳ diệu! Phương tiện hiện thân nơi loài thỏ, v́ chúng sinh giảng nói rộng pháp yếu. Ngài nay đích thật là bậc đã nắm giữ đại pháp, là kho tàng chứa tất cả chánh pháp, xin v́ tôi mà mở bày chỉ rõ giảng nói pháp môn tối thượng, rốt ráo ra khỏi sự khổ nơi ba cõi. Tôi trước đây học đạo Bà-la-môn, từ lâu đã gắng nhiều sức khổ công nhưng hầu như không đem lại kết quả ǵ! Ví như người ngu xoi đục băng để t́m lửa th́ không thể có lửa được! Nay nguyện theo nhân giả làm nơi nương tựa.

Thỏ chúa đáp:

–Này đại Bà-la-môn, pháp giải thoát ta giảng nói hôm nay, có công năng nhổ sạch tận gốc đau khổ, hợp với căn cơ của ông, sẽ thỏa đáng chỗ mong muốn của ông, ta không hề tiếc lẫn. Từ lâu ta đã trừ sạch mọi cấu nhiễm của tham lam bỏn sẻn, v́ nhằm đem lại lợi ích cho chúng sinh, thích ở trong sinh tử để giáo hóa đồng loại, nên thọ lấy thân thỏ này.

Khi ấy, Tiên nhân nghe lời thỏ nói như vậy, tâm rất hoan h, được điều chưa từng có, liền thưa:

–Tôi nay may mắn được gần gũi bậc Từ bi giáo hóa, mong ngài thương xót chỉ dạy, chớ từ chối việc làm nhọc sức này.

Trải qua nhiều năm gần gũi, t́nh thân hữu giữa vị Phạm chí và thỏ chúa càng thêm thắm thiết, cùng ăn cỏ cây, uống nước suối như thỏ không khác.

Thuở đó, dân chúng thường làm điều tà vạy, phi pháp, quen tạo tội lỗi, phước thiện suy kém nên thiện thần xa lánh, tai họa dồn dập nổi lên. Cộng nghiệp chiêu cảm nên trời đại hạn, đã mấy năm không mưa khiến cỏ cây cháy khô, nguồn suối cạn kiệt.

Bấy giờ, Bà-la-môn thầm nghĩ: “Năm nay ta đã già, lại gặp lúc thực phẩm thiếu thốn, nếu cứ ở đây mãi th́ chỉ tăng thêm sự đói khát.” Bèn nói với thỏ chúa: 

–Tôi nay xin tạm rời chỗ này t́m đến chốn khác, may ra khỏi thấy cảnh khô hạn ở đây!

Thỏ chúa liền đáp: 

–Đại tiên hiện không còn thích ở nơi này, nếu thật có điều ǵ xúc phạm xin Đại tiên dung thứ, t́nh nghĩa mật thiết bấy lâu, nay bỗng thành xa cách!

Bà-la-môn nói: 

–Cảnh u tịch này dứt được những hoạn nạn, tội lỗi, rất thích hợp với quý ngài, v́ không ai xâm phạm, nhiễu hại. Chỉ riêng tôi th́ không có người giúp đỡ, thiếu thốn thực phẩm. Từ lâu, nương theo Đại sĩ được hưởng pháp vị, những pháp yếu đã thọ giáo trọn đời ghi chứa trong tâm, nguyện sẽ lưu truyền rộng rãi để cứu giúp mọi chúng sinh. Tôi đã hoàn toàn không ăn uống trải qua cả tuần, sợ mạng sống không bảo đảm, uổng công tu học bấy nay.

Thỏ chúa nghe qua cảm động, nghẹn ngào, nói không thành lời: 

–Chúng ta ngày nay xa nhau biết khi nào được gặp lại. Xin đại tiên nán thêm một đêm, thọ sự cúng dường đạm bạc để tỏ lòng thành kính với nhau.

Khi ấy, thỏ chúa bảo bầy thỏ: 

–Đại tiên này đạo lực vững chắc, là bậc Thiện tri thức, là ruộng phước tối thượng. Các ngươi nên cùng nhau hợp sức t́m nhiều củi khô, giúp ta nấu thức ăn cúng dường bữa sáng. 

Rồi thỏ chúa đến chỗ Đại tiên thưa: 

–Cúi xin Đại tiên sáng sớm ngày mai, dù sao cũng nhận lời thọ thỉnh của tôi.

Đại tiên nhâïn lời, nhưng trong lòng luôn suy nghĩ: 

–Hiện tại thỏ chúa có lẽ t́m được những ǵ chăng? Hoặc là được nai chết, hoặc là gặp thịt thú còn thừa, nên mới vui mừng mời ta như vậy.

Đêm ấy thỏ chúa nói với các đồng loại: 

–Ngày nay Đại tiên sắp rời chúng ta ra đi, sự vô thường, biệt ly là điều luôn xảy ra ở thế gian, thọ mạng của chúng sinh như trò huyễn thuật, quả báo một khi đến th́ không thể nào tránh khỏi. Vậy các ngươi phải siêng năng tinh tấn cầu đạo giải thoát, nhổ sạch gốc rễ đau khổ. 

Trọn đêm hôm đó thỏ chúa không ngủ, v́ chúng đồng loại thuyết giảng pháp yếu.

Tờ mờ sáng, thỏ chúa đến chỗ chất đống củi dùng lửa mồi vào, lửa từ từ rồi bốc cháy ngùn ngụt. Thỏ chúa lại bạch với Đại tiên: 

–Theo lời mời của tôi hôm qua, giờ đây sắp dâng món cúng dường nhỏ mọn, đã sắm sửa đầy đủ, xin Đại tiên chịu khó thọ dụng. V́ sao vậy? V́ kẻ trí đã chứa nhóm của cải để bố thí, kẻ thọ thí phải thương tưởng thí chủ mà thọ dụng. Ta nay nghèo cùng, làm việc bố thí rất khó, cúi xin nhân giả nạp thọ. Ta muốn khiến cho Đại tiên được vui vẻ an lạc, nên tự xả thân ḿnh không luyến tiếc.

Nguyện đem công đức này hồi hướng về khắp tất cả chúng sinh đồng chứng đạo quả Giác ngộ Vô thượng.

Thỏ chúa nói lời ấy rồi th́ lao ḿnh vào đống lửa. Lúc đó, Tiên nhân thấy việc như vậy, vội vã đến bên đống lửa quờ quạng cứu thỏ. Thân thỏ yếu đuối, chỉ trong nháy mắt th́ bỏ mạng. Đại tiên cầm thân thỏ để trên đầu gối, không sao ngăn được nỗi đau buồn, than: 

–Đau lòng thay! Đại sĩ đã sốt sắng hy sinh mạng ḿnh để cứu thân người khác như thế này. Ta nay kính lễ, tôn ngài là bậc ta quy y, nguyện đời sau ta được làm đệ tử. 

Phát lời thề nguyện này rồi, bèn để thi hài thỏ trên đất, đầu mặt sát đất đảnh lễ. Đại Tiên lại ôm thỏ vào lòng, lập tức cùng xác thỏ chúa nhảy vào đống lửa.

Lúc đó trời Đế Thích dùng Thiên nhãn từ xa trông thấy, liền đến nơi đống lửa, dùng các thứ vật báu xây tháp, thiết đại lễ cúng dường. 

Đức Phật bảo chư Tỳ-kheo: 

–Vị Tiên nhân ngày ấy nay là Bồ-tát Di-lặc, còn thỏ chúa bấy giờ chính là thân Ta.

Hết Quyển 2

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 3

Duyên Khởi 7: TÂM TỪ CỦA LONG VƯƠNG HÒA GIẢI MỐI THÙ SÁT HẠI

Bồ-tát thuở xưa v́ nhân duyên sân hận, nên bị đọa vào loài rồng có ba thứ độc: Một là khí độc, hai là con mắt độc và ba là vảy độc. Lại do diệu lực từ phước báo của biệt nghiệp nên thân như một khối bảy báu, đủ các màu sắc, không cần ánh sáng mặt trời, mặt trăng, mà tự thân luôn chiếu sáng. Thường cùng với vô lượng trăm ngàn rồng quyến thuộc vây quanh, biến hiện thành thân người dung mạo tuấn tú. Rồng sống nơi chốn thâm u tịch mịch, tận trong núi Tỳđà, nơi có nhiều rừng rậm, hoa quả sum suê, ao hồ nước trong vắt, là cảnh an nhàn thật đáng yêu thích. Long vương thường cùng các long nữ ca múa vui vầy, sống trong cảnh ấy, như thế qua vô lượng trăm ngàn vạn năm.

Bỗng nhiên một hôm nọ, có một Đại bàng cánh vàng chúa xuất hiện, bay vòng đảo liệng nơi hư không, rồi đáp xuống muốn bắt các loài rồng dùng làm thức ăn. Đương lúc chim Đại bàng bay đến, luồng gió từ hai cánh tung ra làm đổ non vỡ đá, khiến sông ngòi, suối lạch tất cả đều cạn khô. Các rồng và long nữ thấy việc như vậy, nên hết sức lo sợ, cả người run rẩy khiến bao nhiêu thứ anh lạc trang sức trên thân đều rớt xuống đất, cùng nhau than thở:  

–Ngày nay gặp phải đại oan gia này, miệng nó cứng như kim cương, mổ đến vật nào th́ vật đó thảy tan nát! Nay nó sắp đến ăn thịt chúng ta, chúng ta làm thế nào đương đầu được?

Lúc ấy, Long vương nghe qua, rất đỗi lo âu, phiền muộn. Nhờ đời trước Long vương đã từng gieo trồng căn lành, lại biết tư duy nên tâm không sợ sệt, nghĩ rằng: “Đại bàng cánh vàng này tuy có đủ uy

lực lớn, nhưng chỉ một thân ta cũng đủ chống cự. Rồi bảo các rồng: 

–Các ngươi chỉ nên theo núp sau ta th́ nhất định sẽ không bị tổn hại. Nếu ta không bảo vệ được bằng hữu, quyến thuộc th́ cái thân to lớn này dùng để làm ǵ?

Bấy giờ, Long vương đến chỗ Đại bàng cánh vàng, tâm không khiếp sợ nói với Đại bàng: 

–Xin người b́nh tĩnh một chút để cùng ta bàn luận việc này: Người đối với thân ta thường sinh oán thù, sát hại, nhưng ta với nhân giả hoàn toàn không có ý nghĩ này. V́ nghiệp ác từ đời trước chiêu cảm, nên mới có thân to lớn này, tuy có đủ ba loại khí, mắt, vảy, đều độc, nhưng chưa từng dùng ba độc ấy làm hại kẻ khác. So về sức lực ta có thể cùng người đối địch, cũng có thể lánh xa khiến người không thể trông thấy. Nay ta sở dĩ không bỏ đi, v́ có nhiều rồng nương cậy bên ta. V́ vậy ta không muốn cùng người giao chiến. Do đó, đối với người ta không hề khởi tâm oán thù.

Đại bàng cánh vàng nói: 

–Ông đối với ta thật không có tâm oán thù chăng?

Long vương đáp: 

–Ta tuy mang thân loài thú, nhưng hiểu rõ luật nhân quả nghiệp báo, đối với nhân ác dù nhỏ mà nhận lấy quả báo rất nặng, như bóng với h́nh không bao giờ rời nhau. Ta và ông đều bị đọa vào nẻo ác, đều do đời trước tạo nhân tội lỗi. Ông phải nhớ nghĩ đến giáo pháp của Đức Như Lai đã dạy: “Không thể lấy tâm oán thù để hóa giải mối thù oán, chỉ khởi tâm Từ bi, nhẫn nhục, th́ oán thù mới có thể trừ diệt. Thí như đống lửa, bỏ thêm củi khô vào th́ lửa càng cháy mạnh, không bao giờ dừng. Đem sân hận đáp lại sân hận lý đó như vậy”.

Đại bàng cánh vàng khi nghe lời nói này, th́ tâm oán thù liền dứt, tâm thiện phát sinh, lại hướng về Long vương nói:

–Nay ông đã có thể dùng diệu lực của từ bi nhẫn nhục, dứt được lòng sân hận của tôi, như múc nước suối tưới vào đống lửa, khiến tâm tôi liền được thanh tịnh, mát mẻ.

Long vương lại nói: 

–Thuở xa xưa vô lượng kiếp, tôi với ông ở chỗ Đức Phật cùng thọ học giới pháp, do tâm của chúng ta không thanh tịnh, lại chẳng kiên tŕ, ưa cầu danh tiếng sinh ra ganh tî, oán ghét lẫn nhau. V́ nhân duyên đó chúng ta bị đọa vào cõi ác, ta thường tỏ bày sám hối nên nay vẫn nhớ, còn ông do che giấu nên nay quên mất. Ông nay phải nghĩ nhớ tới chánh niệm ban đầu, phát tâm Từ bi nhẫn nhục, tu tập phạm hạnh thanh tịnh.

Đại bàng cánh vàng lại nói:

–Ta từ hôm nay xin ban cho tất cả loài rồng niềm vui an ổn, khỏi phải sợ sệt.

Nói rồi liền rời Long cung, trở về chỗ ở của ḿnh.

Long vương đem lời an ủi các rồng quyến thuộc, lại hỏi các rồng:

–Các ngươi thấy Đại bàng cánh vàng có sợ không?

Các rồng đều đáp: 

–Hết sức sợ.

Long vương nói: 

–Chúng sinh nơi thế gian, nếu thấy các ông th́ họ sợ hãi cũng như vậy. Này các rồng, các ông quý mến thân mạng ḿnh cùng với chúng sinh nơi thế gian quý mến thân mạng họ đều giống nhau không khác, phải xét bụng ta suy ra bụng người. Do vậy các ông phải phát tâm đại từ bi. Ta do nhân duyên tu tập từ bi nên đã khiến cho kẻ oán thù kia trở về chỗ ở của họ.

Chỗ nương tựa cho tất cả các loài chúng sinh luân chuyển trong sinh tử đều không thể vượt bỏ tâm Từ. Tâm đại Từ cũng như lương dược chữa lành bệnh nặng phiền não của chúng sinh. Tâm đại Từ cũng như ngọn đèn sáng chiếu soi xua trừ bóng tối nơi ba độc của chúng sinh. Tâm đại Từ cũng như thuyền bè đưa chúng sinh vượt qua bể khổ trong ba cõi. Tâm đại Từ như người bạn đồng hành, giúp ta vượt khỏi con đường ác sinh tử hiểm nạn. Tâm đại Từ như viên ngọc Ma-ni, làm thỏa mãn sở nguyện hợp lý của chúng sinh.

Ta do từ thuở xua xưa bỏ mất tâm Từ, bị đọa trong loài rồng này, không được giải thoát. Nếu chúng sinh nào tạo dựng được cửa từ bi, th́ có thể làm phát sinh vô lượng pháp thiện, ngăn lấp tất cả bóng tối ngu si, các duyên phiền não bên ngoài cũng không vào được, thường sinh trong nhân gian hay trên cõi trời giải thoát, an lạc.

Các rồng quyến thuộc nghe lời này rồi, đều từ bỏ sân hận, phát khởi tâm Từ. Long vương thấy chúng đồng loại nghe lời giáo hóa của ḿnh, nên vui mừng nói: 

–Hay thay! Việc làm của ta ngày nay đã hoàn tất, đã khiến cho các ông trừ được vô lượng độc ác, đem tất cả pháp lành, thanh tịnh rải khắp nơi đây. Lại v́ các ông, ta sẽ nói pháp Bát quan trai thanh tịnh cần phải vâng giữ.

Chúng sinh nơi cõi Diêm-phù-đề dùng nước của tám giới này rửa sạch thân tâm khiến được thanh tịnh, đoạn trừ vô lượng cấu uế của tham, sân, si. Tám giới này là hành trang trên con đường đi tới cõi trời, người. Nếu ai giữ được tám giới pháp bát quan trai, phải biết người ấy không mặc y phục sang trọng mà đã có đầy đủ áo hổ thẹn. Nên biết người này không có tường thành mà có thể chống ngăn được giặc thù sáu căn. Nên biết người ấy tuy không phải là dòng dõi quý tộc mà đã ở trong tộc họ Hiền thánh. Nên biết người này tuy không có chuỗi báu anh lạc mà đã có đầy đủ pháp lành trang nghiêm nơi thân. Nên biết người ấy tuy không có châu báu mà đã tích tập đủ bảy thứ pháp tài của cõi trời, người. Nên biết người này không nhờ vào cầu cống mà đã vượt qua được con đường nguy hiểm. Công đức của việc thọ tŕ tám giới là như vậy.

Khi ấy, các rồng đồng thưa Long vương:

–Ngày nay chúng tôi muốn được nghe tám giới để siêng năng tu tập...

Long vương nói: 

–Tám giới đó, một là không được sát sinh, hai là không được trộm cướp, ba là không được tà dâm, bốn là không được nói dối, năm là không được uống rượu, sáu là không được ăn sau giờ ngọ, bảy là không được nằm giường cao rộng lớn, tám là không được trang điểm phấn son, ca múa ca nhạc theo thế tục. Đó là tám giới pháp quan trai thanh tịnh. Cốt yếu phải xa lánh nơi ồn ào, ở chỗ thanh vắng, tâm ý chuyên chú theo đúng như lý mà giữ ǵn.

Các rồng cùng thưa: 

–Như đám chúng tôi chỉ xa đại vương một thời gian ngắn, tâm không được an ổn, nhờ nương nơi uy thần của đại vương mà không bị phiền não, trong tất cả các thời lúc nào cũng được an ổn.

Chúng lại hỏi: 

–Công đức diệu lực của Phật pháp, ở chỗ nào chẳng được, cần ǵ phải t́m nơi thanh vắng?

Long vương bảo các rồng: 

–Không thấy cảnh dục th́ tâm niệm không khởi, v́ tập quán duyên vào đối tượng mà phát khởi, ví như đất ướt th́ dễ thành bùn. Nếu ở chỗ thanh vắng, th́ tâm nhiễm không động.

Lúc ấy, Long vương đem bằng hữu quyến thuộc đến ở nơi khu rừng thâm u, rộng rãi trong núi. Xa ĺa tâm tham dục sân hận, thường lấy từ bi nhẫn nhục để tự tu thân, giữ ǵn trai giới, trải qua nhiều ngày hạn chế ăn uống, nên thân gầy ốm sinh ra mỏi mệt.

Vào một hôm nọ có đám người ác t́m đến tại chỗ ở của các rồng, Long vương nghe được tiếng người liền tỉnh ngộ. Đám người ác này thấy Long vương thân h́nh như vậy nên rất đỗi kinh ngạc, nói với nhau: Khối báu ǵ đây từ dưới đất trồi lên chăng?

Long vương tự nghĩ thầm: “Nếu để đám người này thấy nguyên h́nh của ta tức thời sợ hãi đến chết, thế là ta phạm giới sát hiện đang tu tập thọ tŕ. Những người ác này hôm nay đến đây, chắc chắn là tham muốn nơi ở thân ta, họ sẽ giết ta.”

Các người ác lại cùng nhau bàn luận: 

–Chúng ta vào trong núi trải qua nhiều năm, chưa từng thấy h́nh tượng như thế này, các màu sắc xen nhau, ánh sáng chói lòa cả mắt. Nếu được lớp da bên ngoài dâng lên nhà vua th́ chắc chắn sẽ được trọng thưởng, không ǵ sung sướng bằng. Tức th́ cả đám dùng dao bén mổ thân Long vương nhằm lột lấy lớp da.

Bấy giờ Long vương do sức của tâm Từ bi, nhẫn nhục, nên không dấy chút oán hận, lại cũng mất hết đau đớn, đối với đám người này Long vương chỉ khởi tâm thọ nhận nên ba độc đều tiêu diệt. Tâm tự an ủi là chẳng nên lẫn tiếc, dù cho kẻ thù đến giết ta, ta cũng không bỏ đi. Huống chi hôm nay những người này thấy thân ta nên khởi tâm tham tiền thưởng nơi nhà vua mà giết ta, ta thà chịu chết chứ không hại lại họ, chẳng khiến những kẻ ấy thân hiện tại phải chịu khổ. Các người ác lúc đó như càng phấn khích, sức lực thêm mạnh mẻ, cầm dao bén cắt tấm da mang đi.

Sau đó Long vương tự suy nghĩ: “Giả sử có người vô tội bị kẻ

khác phanh thây, đã nhẫn nhục chịu đựng không sinh tâm báo thù, không dấy tâm oán giận, th́ nên biết người này là bậc Đại sĩ. Nếu đối với cha mẹ, anh em, vợ con có thể im lặng nhận chịu, trường hợp này chưa đủ là quý. Như đối với kẻ oán thù giết hại ḿnh, mà tâm không khởi niệm báo thù, chỉ im lặng chịu đựng, trường hợp này mới là rất khó. Nhưng ta nay tu hạnh lợi tha nên im lặng chịu đựng. Ta nghĩ từ vô số kiếp sinh tử cho đến giờ, đã biết bao lần xả bỏ thân mạng một cách uổng phí, chưa từng lần nào bố thí riêng biệt cho một người. Nguyện đời sau sẽ bố thí cho đám người này vô lượng pháp tài, để nguyện ta được viên mãn.”

Lúc ấy Long vương đã bị lột da rồi, khắp ḿnh máu túa đầy đau nhức vô cùng, không thể ḱm chế được nên cả thân run rẩy, lại có vô số loài sâu trùng nghe mùi máu liền t́m đến rúc rỉa. Long vương lại nói: 

–Những loại sâu trùng này ngày nay ăn thịt ta, nguyện đời sau sẽ bố thí pháp thực cho chúng.

Bấy giờ, các rồng quyến thuộc thấy thân của Long vương chịu sự đau khổ như vậy, thảy đều buồn bã áo não. Long vương phát nguyện: 

–Nếu vào đời vị lai ta sẽ thành Phật th́ khiến thân ta tức khắc b́nh phục như cũ. 

Phát nguyện xong th́ thân tự nhiên trở lại như trước. Các rồng quyến thuộc đều hết sức vui mừng.

Đây là việc làm của Bồ-tát ở trong cõi ác, dùng diệu lực nơi từ bi nhẫn nhục, kiên tŕ tịnh giới, chịu khổ như vậy. 

[^]

Duyên Khởi 8: VUA TỪ LỰC CHÍCH MÁU THÂN M̀NH BỐ THÍ CHO NĂM QUỶ DẠ-XOA

Bấy giờ, Đức Thế Tôn an cư kiết hạ tại tinh xá Kỳ hoàn, thuộc nước Xá-vệ. Sau giờ ngọ trai xong, Tôn giả A-nan-đà thâu cất bát của Phật, rồi cùng các Tỳ-kheo vào trong rừng đi kinh hành. Xong, lại theo thứ lớp an tọa và cùng nhau đàm đạo: 

–Ngày nay Đức Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời là điều rất đặc biệt, là sự hy hữu bậc nhất, đối với chúng sinh đã tạo nhiều lợi ích. Nay, năm vị Đại Tỳ-kheo như Kiều-trần-như… là bậc Thượng thủ, sau khi Đức Phật thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, các vị ấy là người gặp Phật đầu tiên. Vậy các vị ấy vốn đã gieo căn lành ǵ? Có nhân duyên ǵ mà khi Đức Phật chuyển pháp luân nơi vườn Lộc dã liền được chứng ngộ, mới đánh trống pháp mà các vị ấy đã nghe trước, Địa thần từ dưới đất vọt lên báo tin cho các thần Hư không, cho đến chư Thiên đều chứng kiến và nói: “Kiều-trần-như đã hiểu rõ Phật pháp”?

Thảo luận như vậy rồi liền rời chỗ ngồi trở về tinh xá, đem mọi sự như trên bạch lên Đức Phật.

Khi ấy Đức Như Lai nói với Tôn giả A-nan: 

–Điều ông ấy hỏi không phải là không có nhân duyên. Từ thời xa xưa Như Lai đã từng thương xót các vị ấy, từng chích máu nơi thân ḿnh giúp họ trừ đói khát, cứu mạng sống khiến được an lạc. Do nhân duyên đó, nên trong đời này họ theo Ta nghe pháp trước tiên và được tỏ ngộ.

Tôn giả A-nan lại bạch Phật: 

–Mong Đức Thế Tôn đem việc này khai thị cho những người chưa được nghe, khiến cho tất cả chúng hội tâm đều được thư thái.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: 

–Vào thuở xa xưa, cách đây vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, tại cõi Diêm-phù-đề này có một quốc vương tên Từ Lực, là người phước đức, trí tuệ gồm đủ, danh tiếng đồn khắp, tướng mạo đoan nghiêm, oai thần không ai sánh kịp, có hai vạn quần thần giúp việc trị quốc, thống lãnh tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, hậu phi quyến thuộc có đến mười ngàn… Vua Từ Lực đã được gặp chư Phật từ đời trước, vốn đã vun trồng các căn lành, thích tu hạnh từ bi, nhân từ, khoan dung, hòa nhã. Đối với chúng sinh nhà vua luôn đem lại mọi sự an lạc, lại khởi tâm Bi giúp đỡ kẻ nghèo khó, hễ có chúng sinh nào đau khổ đều được vua cứu độ. Nhà vua lại sinh tâm hoan h, tôn kính các bậc Hiền thánh, thường dùng lời thân thiện khiến mọi người nghe đều được vui vẻ. Lại khởi tâm xả bỏ không sinh thương ghét, đối với của cải hay thân mạng không hề keo kiệt, đem tâm b́nh đẳng đối với chúng sinh xem như con ḿnh. Nhà vua thực hành bốn pháp b́nh đẳng như vậy, ở trong nhiều kiếp chưa từng biếng trễ thoái chuyển.

Nhà vua lại đem mười điều lành giáo hóa quần thần dân chúng, ai nấy cũng đều vâng lệnh giữ ǵn sự thanh tịnh, nên quốc gia an ổn, muôn dân hưởng cảnh thái b́nh.

Đối với loài quỷgây tật bệnh và quỷ Dạ-xoa thường ăn uống máu, gây khổ não cho dân chúng, giờ đây mọi người đều tu mười điều lành, ba nghiệp thân ngữ ý được thanh tịnh, các tai họa đều tiêu trừ, chư Thiên, Thiện thần thường hộ tŕ, dầu có tà mị, ác quỷvà các hung thần ôm lòng làm tổn hại muôn dân đều không có cơ hội thuận tiện. Lúc ấy, có năm quỷDạ-xoa đến vương cung đồng tâu: 

–Chúng tôi đều nhờ khí huyết nơi muôn dân để nuôi thân mạng. Do nhà vua chỉ dạy dân chúng tất cả đều tu theo mười điều lành, lũ chúng tôi từ đó đến nay không có thức ăn uống, đói khát khốn khổ, thật vô phương sinh sống. Đức từ bi của đại vương là cứu giúp tất cả khổ của chúng sinh, riêng phần chúng tôi, ngài chẳng ban ân huệ ǵ cả. 

Nhà vua nghe lời nói ấy th́ hết sức thương xót đám Dạ-xoa kia, liền tự thầm nghĩ: “Đám Dạ-xoa chỉ uống máu người để sống, làm thế nào để thỏa mãn chỗ mong muốn của chúng? Chỉ phải hy sinh thân ta th́ mới cứu được mạng sống của họ mà thôi”.

Rồi nhà vua bèn chích năm chỗ nơi thân ḿnh, máu từ đó phun ra, năm quỷDạ-xoa liền đem vật dụng đến hứng uống. QuỷDạ-xoa đã được no nê nên rất vui vẻ. Đại vương nói với chúng: 

–Ta đã dùng máu nơi thân ḿnh để cứu mạng sống cho các ngươi, nếu được no nê rồi, ta không đòi hỏi điều ǵ, chỉ mong các ngươi tu tập mười điều lành, đó là báo ân ta, nguyện vào đời vị lai, khi ta thành Phật, đầu tiên thuyết pháp sẽ độ các ngươi trước, dùng vị cam lộ trừ sạch ba độc cùng diệt các thứ đói khát là dục vọng khiến các ngươi được thanh tịnh.

Đức Phật bảo A-nan:

–Vua Từ Lực thuở xưa đâu phải người nào khác, chính là thân

Ta. Năm quỷDạ-xoa lúc đó, nay là năm Tỳ-kheo nhóm ông Kiềutrần-như trong chúng hội này. Do diệu lực từ bản nguyện của Ta thời trước, nay Ta thành Phật, chuyển pháp luân đầu tiên nơi vườn Nai, năm Tỳ-kheo nhóm ông Kiều-trần-như là người trước tiên tỏ ngộ chánh pháp, dứt sạch cội gốc các khổ, chứng quả A-la-hán. Từ đó mới bắt đầu có đủ Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng xuất hiện ở đời.

Đại chúng nghe lời Phật dạy, thảy đều vui mừng, lễ Phật và lui ra về.

[^]

Duyên Khởi 9: NÊU RÕ DIỆU LỰC CỦA SỰ BỐ THÍ ÍT

Đức Phật hiện trú tại tinh xá Kỳ hoàn, thuộc khu lâm viên Kỳđà, Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ, gồm đủ một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ-kheo. Bấy giờ, trong nước có một thương chủ cùng với năm trăm thương khách, muốn chèo thuyền lớn vào biển cả để t́m châu báu. Lúc đó, thương chủ phát tín tâm thanh tịnh, nhằm thiết trai cúng dường Đức Phật và chư Tăng để cầu phước gia hộ, nên đến chỗ Đức Phật chí thành thưa thỉnh. Đức Như Lai biết trước nên im lặng nhận lời.

Vào buổi sáng, tại nhà ḿnh, thương chủ dâng các món ăn đều là loại thượng vị, để tỏ lòng thành kính cúng dường. Đức Phật thọ trai xong, trải tòa ngồi, v́ thương chủ thuyết pháp, tán dương công đức của hạnh bố thí, chỗ cảm ứng như ý nguyện, ruộng tâm đầy đủ sự thù thắng nên gieo nhân ít mà đạt kết quả nhiều. Thương chủ nghe pháp, tâm được tỏ ngộ, lễ Phật, đi nhiễu quanh bên phải rồi lui ra đứng một bên.

Khi ấy, Đức Thế Tôn v́ thương chủ nên giảng nói: 

–Muốn vào biển cả, ở đó luôn có nhiều nguy hiểm đại nạn, nên trước hết ông phải quy y và chuyên niệm Tam bảo, thọ tŕ năm giới làm người Ưu-bà-tắc th́ điều mong cầu mới được toại nguyện, đi tới nơi về đến chốn an ổn. 

Thương chủ nghe Đức Phật thuyết pháp, ân cần lễ Phật, xin thọ năm giới.

Đức Phật bảo: 

–Phải khéo suy nghĩ, lắng nghe ghi nhớ! Năm giới là: 

1.      Không được giết hại sinh mạng.

2.      Không được trộm cắp.

3.      Không được tà dâm. 

4.      Không được nói dối.

5.      Không được uống rượu. 

Ông phải giữ lấy năm điều này, trọn đời không được hủy phạm. Được như vậy gọi là người Ưu-bà-tắc.

Do thương chủ này đã vun trồng cội phước đức từ trước, nên thông minh, trí tuệ sáng suốt, biết được sóng gió thời tiết tốt xấu, nên các khách buôn mời làm người hướng đạo, được mọi người quý trọng tôn xưng là Hiền giả. Mọi người sắm đầy đủ lửa củi, lương thực, chọn ngày lành tập trung các thương khách đồng đi vào biển cả.

Ra đi được vài ngày th́ phong ba nổi dậy, thần biển biến hiện thành một Dạ-xoa, h́nh dạng xấu xí, hung dữ, da đen sậm, răng nhọn hoắc nhô ra ngoài miệng, trên đầu mỗi răng đều bốc lửa, từ dưới sóng vọt lên, kéo thuyền không cho chạy, hỏi các khách buôn: 

–Người trong thế gian đã từng thấy ai đáng sợ hơn ta?

Lúc ấy, Hiền giả thấy h́nh dạng quái lạ, nhưng chỉ nhất tâm niệm Tam bảo, nhờ Phật lực gia hộ, nên không sợ sệt, bèn lớn tiếng đáp lại: 

–Ta đã từng thấy kẻ cực ác hơn ông gấp bội.

Thần biển hỏi: 

–Ai vậy?

Hiền giả đáp: 

–Ở đời có kẻ ngu si thường làm những điều bất thiện, tạo tác mười điều ác, ch́m đắm trong tà kiến, sau khi chết bị đọa vào địa ngục chịu vạn thứ đau khổ, ngục tốt La-sát nắm lấy các tội nhân ấy trị phạt đủ các thứ: Hoặc lóc da, hoặc cắt thịt, hoặc giã, hoặc xay, hoặc chẻ thân tội nhân làm thành trăm ngàn phần, hoặc bắt trèo lên núi đao rừng kiếm, hoặc ở trên xe lửa cháy đốt nướng. Hoặc ở trên băng lạnh, hoặc ở chỗ đại tiểu tiện... Khổ sở như vậy trải qua trăm ngàn kiếp, điều đó mới đáng sợ hơn ông.

Thần biển bèn im lặng ẩn thân mà đi.

Thuyền từ từ tiến về phía trước được vài ngày, thần biển lại hiện thân thành người hết sức ốm yếu, da bọc lấy xương, hơi thở khò khè, cấp bách, bám vào mạn thuyền, hỏi thương chủ: 

–Ông đã từng thấy ai trên thế gian ốm yếu, tiều tụy như ta chăng?

Hiền giả đáp: 

–Lại có kẻ khô gầy tiều tụy quá hơn ông.

Thần biển hỏi: 

–Ai vậy?

Hiền-giả đáp: 

–Có người ngu si, tâm tánh xấu ác, bỏn sẻn, tham lam ganh ghét không biết bố thí, sau khi chết bị đọa vào loài ngạ qu, đầu như Thái sơn, cổ như cây kim, đầu tóc dựng ngược bờm xờm, h́nh dáng cháy đen, trải qua nhiều kiếp lâu dài chưa từng nghe đến danh từ cơm ăn, nước uống. Ốm yếu như thế còn hơn ông nhiều.

Thần biển nghe vậy bèn bỏ thuyền, ẩn thân mất.

Thuyền lại từ từ rẽ sóng tiến lên. Qua được vài ngày, thần biển lại hiện làm một nam nhi, tuổi tác còn niên thiếu, dung mạo hết sức đoan nghiêm, từ dưới nước vọt lên, kéo thuyền, hỏi thương chủ: 

–Người từng thấy ai tuổi trẻ sức lực hơn ta không?

Hiền giả đáp: 

–So với dung mạo của ông, th́ có người tươi đẹp hơn ông trăm vạn lần.

Thần hỏi: 

–Ai vậy?

Hiền giả đáp: 

–Thế gian có người trí, vâng giữ mười điều lành, ba nghiệp thân ngữ ý luôn được thanh tịnh, hết lòng tin Tam bảo, tùy thời cúng dường. Người này mạng chung sinh lên cõi trời, h́nh dung đẹp đẽ, trong thế gian không ai sánh bằng. Đem h́nh dạng của ông so với người ấy, khác nào đem loài khỉ cái mù lòa so với tiên nữ.

Thần biển nghe nói như vậy, lấy làm hổ thẹn, im lặng và thầm nghĩ: “Nay thương chủ này tri thức quảng bác, thông hiểu mọi việc, khéo giảng nói luật nhân quả, báo ứng một cách rõ ràng, nay ta đem một việc rất gần thử hỏi xem sao.” Thần biển liền dùng bàn tay phải vớt một vốc nước, lại hỏi thương chủ: 

–Nước trong tay ta nhiều hay nước trong biển cả nhiều? 

Hiền giả đáp: 

–Nước trong tay ông nhiều, nước trong biển cả ít. 

Thần biển gạn hỏi: 

–Việc rõ ràng trước mắt, lời nói của ông hôm nay thật khó tin.

Hiền giả đáp: 

–Lời nói này là chân thật, quyết định không sai lầm, chỗ hiểu biết của thế gian không thể lãnh hội được.

Thần biển hỏi: 

–Lấy ǵ chứng minh điều đó?

Hiền giả đáp: 

–Nước biển tuy nhiều nhưng có ngày cũng phải khô cạn. Khi thế giới đến thời kỳ hoại diệt, th́ cõi Tam thiên đại thiên đều hoại, núi Tu-di, biển cả đều tan vỡ, tiêu diệt không trừ một vật ǵ. Do đấy nên biết nước biển phải khô cạn. Nếu lại có người đem một vốc nước cúng dường chư Phật, hoặc bố thí cho chúng sinh, hay để phụng dưỡng cha mẹ, hoặc cho kẻ ăn xin, cho đến các loài cầm thú, chính do diệu lực của việc làm lành tuy ít oi này, trải qua số kiếp như vi trần, hưởng phước không cùng tận. Do đây ta biết: Nước nơi biển ít mà vốc nước trong tay lại nhiều.

Lúc ấy, thần biển tâm rất hoan h, liền đem các loại ngọc ngà châu báu quý giá tặng cho Hiền giả, cùng gửi các thứ châu ngọc quý dâng cúng Phật và Tăng.

Bấy giờ, các khách buôn đều trở về đất liền, cùng đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ, đem vật báu của thần biển gửi dâng cúng dường Phật, lại đem số châu ngọc đã tặng cho ḿnh bày trước Đức Phật, quỳ mọp, chắp tay bạch:

–Bạch Đức Thế Tôn, chúng con được may mắn là nhờ đức từ bi của Như Lai từ xa gia hộ, nên khi vào biển thoát khỏi tai nạn, được của báu trở về quê nhà, tất cả đều mang ân Đức Phật. Hôm nay chúng con nguyện làm đệ tử xuất gia.

Đức Phật nói: “Thiện lai”, các khách buôn kia liền có đủ tướng Tỳ-kheo, tất cả đều dứt hết các thứ kết sử, chứng A-la-hán.

Hết Quyển  3

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 4

Duyên Khởi 10: NHƯ LAI ĐẦY ĐỦ TRÍ TUỆ KHÔNG GÁNH VIỆC TỐT NGƯỜI KHÁC

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn cùng chúng đệ tử đại Tỳ-kheo, trên đường du hóa dừng chân tại đại thành Vương xá. Bấy giờ, Đức Như Lai từ tòa ngồi đứng dậy, tản bộ trong hư không, hiện những việc chưa từng có: Dưới chân hiển bày tướng bánh xe một ngàn tăm, khoảng giữa các tăm phóng ra tám vạn bốn ngàn hoa sen báu, mỗi hoa sen xuất hiện tám vạn bốn ngàn nhụy sen và cánh sen vi diệu. Các hoa sen này thứ tự rải khắp trong mười phương thế giới, trên hoa sen đều có vô lượng chư Phật hết sức nhiệm mầu, dưới chân mỗi vị Phật đều hiển bày tướng tốt đường chỉ bánh xe ngàn tăm. 

Trong chúng hội lúc ấy vua Tịnh Phạn trông thấy sự việc như vậy, tâm rất hoan h, hướng về Đức Phật đảnh lễ, năm vóc sát đất, liền chứng được quả A-na-hàm.

Tất cả đại chúng thấy thần thông biến hóa của Đức Như Lai, thảy đều chắp tay bạch Phật: 

–Bạch Đức Thế Tôn, chúng con hôm nay được thấy vô số chư Phật khắp mười phương, xem xét tận tường mà không thể hiểu rõ thế nào là Chân Phật? Thế nào là Hóa Phật?

Lúc đó Đức Thích-Ca Như Lai rủ lòng đại bi thương xót khắp chúng hội, liền bảo: 

–Chư Phật Như Lai đã nhập vào Tam-muội không tịch xứ giải thoát, tùy ý tự tại. Nhưng h́nh tướng của Chân Phật hay của Hóa Phật là do tâm của các vị tự thấy đó thôi.

V́ sao? V́ tâm Phật xưa nay là như nhiên rỗng lặng. Lại nương theo pháp định Giải thoát quang minh vương, do diệu lực của Định này mà hóa thành vô biên thân. Vô biên thân là Nhất thiết trí. Nhất thiết trí là định Vô trước. Định Vô trước chính là diệu dụng của Như Lai: Hoặc Như Lai hiện thân đi khất thực, hoặc hiện thân đi kinh hành. V́ hai việc này đem lại lợi ích rất nhiều cho chúng sinh:

Hoặc có thiện nam, thiện nữ khi Phật tại thế, được trông thấy tướng tốt là bánh xe một ngàn tăm bên dưới bàn chân Phật, chí tâm thành kính đảnh lễ, cúng dường, tán thán. Do công đức này họ diệt được nghiệp ác rất nặng trong ngàn kiếp.

Hoặc sau khi Phật diệt độ, bốn bộ chúng an trụ trong thiền định, tưởng nghĩ đến Đức Phật đang tản bộ, sinh tâm cung kính, cúng dường. Cũng do công đức đó mà tội chướng trong ngàn kiếp đều được tiêu trừ.

Ví dù không ở trong thiền định để tưởng niệm, th́ hoặc chiêm bái các Phật tích, hay dùng xe hoa rước tượng Phật, đem tâm hoan hỷ tùy sức cúng dường th́ chỗ phước báo đạt được chẳng thể cùng tận. 

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Như Lai từ thời xa xưa, trải qua vô số kiếp đến giờ luôn đem tín tâm thanh tịnh cung kính đối với tất cả. Thấy chỗ tu tập diệu hạnh thù thắng kia th́ luôn sinh tâm tùy h, xưng tán, mong muốn khiến được tăng trưởng tốt đẹp. Cho đến dù là một hào ly phước đức nhỏ nhặt, chưa từng dấy tâm ganh tî đối với điều thiện của kẻ khác. Do công đức này, ngày nay Ta được phước báo thù thắng.

Lại nữa A-nan, sau khi Ta diệt độ, các đệ tử muốn tạo tượng Phật, phải tạo thật đầy đủ các tướng tốt, cho đến vẽ các đường chỉ trong h́nh bánh xe ngàn tăm nơi lòng bàn chân và chư Hóa Phật hiện ra chung quanh trong hào quang nơi thân Phật, khiến cho tất cả chúng sinh đời vị lai chiêm ngưỡng tướng hảo của Phật, sẽ được nhiều điều tốt đẹp như ý, những tội nặng chứa nhóm từ lâu đều được tiêu diệt.

Này các Tỳ-kheo, phải siêng năng suy nghĩ đúng chân như ý mà thực hành. 

Đức Phật nói lời ấy rồi lại trở về bổn tòa. 

Khi đó, vua Tịnh Phạn liền rời chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật: 

–Bạch Đức Thế Tôn, ngày nay Đức Phật xuất hiện ở đời tạo được thuận lợi ǵ để có thể khiến chúng sinh đạt được an lạc?

Đức Như Lai ôn tồn nói với phụ vương: 

–Trưởng giả Tu-đạt người thành Xá-vệ trong nhà có một bà già tên Tỳ-đê-la siêng năng giữ ǵn gia nghiệp, nên luôn được Tu-đạt tin dùng, ủy thác các việc thu chi, thọ nhận hay cho ai vật ǵ.

Một hôm, trưởng giả thỉnh Phật và chư Tỳ-kheo về nhà cúng dường. Trong đại chúng có một Tỳ-kheo bị bệnh nên đòi hỏi nhiều việc. Bà già bỏn sẻn tiếc của, sinh giận dữ, ý chẳng muốn cung cấp, nên nói:

–Đại trưởng giả nhà ta bị tà thuật của Sa-môn, các người khất thực đó đòi hỏi quá nhiều không biết nhàm chán, lại có đạo như thế sao?

Rồi bà ta lại buông lời độc ác: 

–Không biết khi nào th́ khỏi phải nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, khỏi phải thấy đám người đầu tròn mặc áo hoại sắc?

Tiếng ác này từ một người nghe được rồi lan rộng khắp thành Xá-vệ. Lời hủy báng này lần lần lọt vào tai vương hậu Mạt-lợi phu nhân, khiến phu nhân hết sức buồn bã than: 

–Tại sao Tu-đạt đối lòng nhân từ ban ân khắp mọi nơi, như hoa sen đẹp ai cũng ưa thích xem, ngược lại có người giữ của khác nào loài rắn độc!

Phu nhân nói lời này rồi ra lệnh: 

–Nói với trưởng giả cho vợ ông đến đây, ta muốn nói chuyện.

Khi vợ trưởng giả đến, Mạt-lợi phu nhân bảo ngồi, rồi nói với bà ta: 

–Lão già nô tỳ nhà bà thường dùng lời nói xấu ác hủy báng Tam bảo, thậm chí còn là nguyện không muốn nghe đến tên ba ngôi báu nữa. Sao bà không đuổi nó đi? Ôi tội ấy không ǵ nặng hơn!

Vợ trưởng giả Tu-đạt tâu với phu nhân: 

–Mặt trời Phật xuất hiện trong thế gian soi chiếu phá tan bóng tối ngu si, rất nhiều nơi được thấm nhuần tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh. Như Ương-quật-ma-la là kẻ đại ác, giết hại đến cả ngàn người lấy ngón tay làm chuỗi, mà Đức Phật còn điều phục được, khiến ông ta phát đạo tâm, huống chi là mụ già nô tỳ này, không đủ để cho phu nhân nhọc sức quan tâm.

Phu nhân nghe nói tâu hết th́ sức vui mừng và nói: 

–Ta sẽ cho trang hoàng nơi cung vua thật trang nghiêm, ngày mai thỉnh Đức Phật và các vị Tỳ-kheo đến cúng dường, người cho mụ già ấy đến đây ta xem thử thế nào. 

Sáng ngày hôm sau, trưởng giả Cấp Cô Độc lấy một chiếc b́nh đẹp đựng đầy ngọc Ma-ni và các thứ ngọc quý khác, sai bà quản gia đem dâng lên nhà vua, phụ vào lễ cúng dường.

Mạt-lợi phu nhân từ xa thấy người tỳ nữ già đến, phu nhân thầm cầu nguyện cho kẻ tà kiến này sẽ nhờ Đức Phật hóa độ. Nếu thấy người này được Đức Phật hóa độ, th́ ḿnh quyết được pháp lợi rất lớn.

Vừa đến hoàng cung, Đức Phật đi vào cửa giữa, Tôn giả Nanđà hầu bên trái, Tôn giả A-nan hầu bên phải, còn La-hầu-la th́ theo sau Đức Phật.

Bà già trông thấy Đức Phật và chư Tăng tiến vào, th́ hoảng sợ kinh hãi dựng cả chân lông, liền muốn t́m nẻo chạy trốn nhưng không được, đành núp sau cánh cửa. Đức Phật hiện trước mặt bà, khiến cánh cửa trong suốt như gương, bà bèn xoay về hướng Đông, th́ thấy Đức Phật ở hướng ấy, cho đến xoay mặt khắp các hướng: Nam, Tây, Bắc, bốn góc và trên dưới đâu đâu cũng đều thấy có Đức Phật. Bà lại dùng tay che mặt, th́ ở giữa kẽ nơi mười ngón tay đều thấy có Hóa Phật hiện. Bà ta lại nhắm mắt, nhưng khi mở mắt ra th́ cũng lại thấy khắp mười phương thế giới đều có Hóa Phật. 

Khi Đức Thích-ca Như Lai thị hiện Hóa Phật th́ trong thành Xá-vệ có hai mươi lăm người đàn bà thuộc dòng Chiên-đà-la, năm mươi người đàn bà tà kiến thuộc chủng tộc Bà-la-môn và năm trăm người đàn bà thuộc các chủng tộc khác, tất cả những người đó trước nay đều tin theo tà giáo không tin Phật pháp. Nhưng hôm nay thấy Đức Như Lai v́ bà quản gia kia đã hiện ra vô số Hóa Phật đi trên hư không, tâm họ đều hoan h, màn lưới tà kiến dày đặc bấy lâu đã bị phá vỡ nên đều cung kính, đầu mặt đảnh lễ nơi chân Phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng Phạm âm hỏi những người đàn bà kia: 

–Nay các người gọi Ta bằng danh hiệu ǵ?

Mọi người đáp:

–Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật, Nam-mô Thích-ca Mâu-ni

Phật.

Đức Phật nói: 

–Do các người xưng danh hiệu, chiêm ngưỡng tướng hảo của Như Lai nên sẽ thoát khỏi các tội nơi sinh tử trong tám mươi ức kiếp, cùng khiến phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lúc ấy, bà quản gia kia, sau khi vừa thấy Đức Phật, liền vụt chạy về nhà, bảo với mọi người: 

–Ta nay vừa gặp phải điều xấu ác! Sa-môn Cù-đàm ở tại cửa cung nhà vua, trước mặt nhiều người đã hiện bày các yêu thuật, thân như núi vàng ròng, mắt đẹp như búp sen xanh, có trăm ức hào quang, không thể diễn tả hết mọi vẻ, sự thiện xảo của Sa-môn trong thế gian này không ai sánh bằng. Các người trẻ tuổi không nên thấy đó lấy làm thích thú. 

Nói rồi, bà già bèn chui vào thùng gỗ, lấy nhiều tấm da bò phủ lên bên ngoài, lánh thân nằm núp trong bóng tối.

Khi Đức Thế Tôn sắp trở về tinh xá, Mạt-lợi phu nhân liền đến trước Đức Phật bạch: 

–Xin Đức Thế Tôn bỏ ít thời gian, phóng ánh từ quang nhiếp hóa bà lão ấy.

Đức Phật nói: 

–Gốc tội lỗi của bà lão ấy quá sâu nặng, vả lại không có duyên với Ta. Bà ấy cùng với La-hầu-la đã nhiều kiếp kết giao bạn bè. Ngày nay Như Lai v́ bà ta, hóa hiện đi trên hư không, là nhằm để diệt trừ tội chướng trong nhiều kiếp. 

Rồi Đức Phật trở về Kỳ-viên bảo La-hầu-la: 

–Tôn giả hãy đến nhà cư sĩ Tu-đạt hóa độ bà lão quản gia ấy. 

Một ngàn hai trăm vị đại đệ tử nghe lời Đức Phật dạy, đều tùy h, nguyện cùng đi với La-hầu-la.

Lúc ấy, Tôn giả La-hầu-la nương theo uy thần của Đức Phật, nhập pháp định Như ý, lễ Phật và nhiễu quanh chỗ Phật bảy vòng, rồi liền biến thành Chuyển luân thánh vương, một ngàn vị Tỳ-kheo biến thành một ngàn người con của vua Chuyển luân, bảy thứ báu, bốn binh chủng thảy đều đầy đủ. Chuyển luân thánh vương ngồi nơi đài sen báu đặt trên bánh xe bằng vàng đi đến nhà Tu-đạt trụ trên hư không. Thần Dạ-xoa giữ vườn nhà Tu-đạt trông thấy bèn to tiếng xướng lên: 

–Thánh vương xuất thế, xua đuổi các người ác, xiển dương pháp lành. 

Bà già kia nghe lời ấy th́ rất đỗi vui mừng, thầm nghĩ: 

–Thánh vương xuất hiện còn hơn chỗ mong cầu của ta, giống như có được ngọc báu Như ý, không một sở nguyện nào là chẳng toại, nguyện ta hôm nay nhất định sẽ thành.

Bấy giờ, Thánh vương ngự trên chiếc xe báu, gióng chuông đánh trống, rồi hạ xuống nhà trưởng giả. Bà già nghe vậy bèn từ thùng gỗ chui ra, đầu mặt sát đất đảnh lễ Thánh vương, tán dương công đức: 

–Nay gặp Thánh vương, xin đem pháp thiện nhiếp hóa muôn dân, quyết chẳng phải như sự mê hoặc của Sa-môn.

Thánh vương sai quan Chủ kho báu đến nói với bà già: 

–Này cô em, người có phước đức từ đời trước nên được nhà vua yêu chuộng, nay muốn tuyển vào làm Ngọc nữ báu, là một thứ báu của Thánh vương.

Bà già đáp: 

–Thân con thấp hèn, bần tiện, bỗng nhiên được Thánh vương quan tâm, lòng thật vui sướng vô cùng, nhưng làm sao con có khả năng làm Ngọc nữ là báu vật của nhà vua? 

Lúc ấy, Thánh vương bảo cư sĩ Tu-đạt: 

–Bà già quản gia của nhà khanh có đủ các tướng, ta nay muốn sung vào làm ngọc nữ, là một trong bảy thứ báu của nhà vua. 

Trưởng giả đáp: 

–Dạ vâng, tôi xin bảo người ấy tuân lệnh. 

Bà già nghe trưởng giả nói, lòng vui sướng không thôi. 

Thánh vương đem châu báu cho bà ta soi mặt, bà thấy dung mạo đoan chánh như điều ḿnh từng mơ ước, chỉ càng thêm hổ thẹn về sự may mắn của ḿnh. Rồi bà thầm nghĩ: “Đám Sa-môn tự cho là có đạo đức, nói lời thương xót suông, hoàn toàn không có hiệu nghiệm. Nay Thánh vương xuất thế đem lại lợi lạc cho chúng sinh rất nhiều, khiến dung mạo già ốm của ta biến thành ngọc nữ của nhà vua.”

Rồi gieo năm vóc sát đất tỏ lòng cung kính lễ tạ.

Khi đó, quan Chủ kho báu tuyên đọc giáo lệnh của Thánh vương: Mọi người tu tập theo mười pháp lành, điều phục thân tâm. Bấy giờ, Tôn giả La-hầu-la hiện lại thân như cũ, bà già liền tỏ ngộ, trông thấy đại chúng liền rơi nước mắt khóc lóc thưa: 

–Phật pháp thanh tịnh không hề ĺa bỏ chúng sinh! Như con là kẻ quá xấu ác mà vẫn còn được độ.

Rồi bà lão ăn năn, tự trách về tội của ḿnh, nguyện dứt trừ mọi lỗi lầm trong quá khứ, lại xin thọ giữ năm giới. Tôn giả La-hầu-la v́ bà giảng nói pháp ba quy y và năm giới, bà lão lãnh hội tâm thư thái, an vui, chỉ trong khoảnh khắc đã chứng đắc quả Tu-đà-hoàn.

Địa thần từ đất vụt hiện lên nói với trưởng giả Tu-đạt: 

–Lành thay trưởng giả! Lưới tà kiến đã được phá tan, Đức Như Lai xuất thế chính v́ việc này.

Sau đó, Tôn giả La-hầu-la đem bà lão về khu lâm viên Kỳ-đà. Đến nơi, bà lão trông thấy Đức Phật, tâm rất vui mừng, cung kính đảnh lễ, phát lời sám hối, nguyện theo như lời Phật dạy, xin được xuất gia. Đức Phật cho người đưa bà đến trú xứ tu tập của di mẫu Kiều-đàm-di. Bà luôn tinh tấn tu hành không chút biếng trễ, như tấm lụa trắng dễ nhuộm màu sắc, nên ngay tại đời này chứng quả A-lahán.

[^]

Duyên Khởi 11: ĐỨC PHẬT RÓT NƯỚC LÊN ĐẢNH ĐẦU TỲ-KHEO BỆNH, BỆNH ĐƯỢC LÀNH

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ở tại tinh xá Trúc lâm, thuộc thành Vương xá. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo bị bệnh ghẻ nhọt rất nặng, khắp thân máu mủ loang lổ, mọi người đều chẳng muốn nh́n, không ai dám gần gũi, chúng Tăng bèn cho ở nơi căn phòng nhỏ hẹp, tồi tàn. Đức Phật rõ được sự việc, bèn dùng thần lực che mắt chúng Tăng không cho ai biết, một ḿnh Đức Như Lai đến chỗ Tỳ-kheo bị bệnh, đem lời êm dịu an ủi, khuyên nên dùng nước tắm rửa sạch sẽ.

Lúc đó, trời Đế Thích cung các Thiên tử đang tụ hội tại giảng đường Thiện pháp, bàn luận về t́nh h́nh trong các cõi. Đức Phật dùng thần lực khiến chư Thiên biết được việc này. Tức th́ trời Đế Thích liền đem vô lượng trăm ngàn chư Thiên quyến thuộc, tấu các thứ nhạc trời trước sau lần lượt nhiễu quanh trên hư không, rồi hiện xuống chỗ Đức Phật, đầu mặt sát đất cung kính đảnh lễ nơi chân Phật, hỏi thăm mọi việc. Đế Thích tay cầm b́nh bằng ngọc quý đựng đầy nước thơm dâng lên Đức Phật, rồi đứng hầu một bên. 

Bấy giờ, Đức Như Lai bèn từ từ giơ cánh tay với trăm phước tướng trang nghiêm, nơi mười đầu ngón tay phóng ra hào quang rực rỡ, tỏa chiếu đến tận nơi xa như báo hiệu khiến chư Thiên thảy đều vân tập đến. Lại từ trên đảnh đầu Như Lai hiện ra một đạo hào quang soi chiếu đến thân Tỳ-kheo bị bệnh. Tỳ-kheo này, nhờ ánh hào quang chiếu vào thân nên các chỗ đau nhức liền hết, những vết máu mủ nơi ghẻ nhọt đều được sạch sẽ. Khi ấy, Tỳ-kheo liền chắp tay đảnh lễ Đức Phật, bày tỏ sự thành tâm sám hối, mong Phật từ bi thương xót diệt trừ mọi trọng tội của ḿnh. 

Lúc ấy Đế Thích tay cầm b́nh ngọc khi trước quỳ gối dâng lên. Đức Như Lai nhận lấy b́nh nước thơm, rồi dùng tay phải cầm b́nh rót nước lên đảnh đầu Tỳ-kheo bị bệnh, còn tay trái th́ kỳ rửa nơi thân Tỳ-kheo. Những mụn nhọt trên ḿnh Tỳ-kheo bệnh, tùy theo tay của Như Lai rửa đến đâu, liền b́nh phục đến đó. Được lành bệnh, vị Tỳ-kheo ấy vô cùng vui sướng, chí tâm xưng niệm: 

–Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật, Nam-mô Đại Từ Bi Phụ! Nam-mô Tối Thắng Y Vương, đã khiến cho thân bệnh của con hôm nay được lành, cúi xin Đức Như Lai dùng diệu lực của bản nguyện thương xót tiếp nhận bố thí pháp dược cho con để tẩy dứt tâm bệnh, bao nhiêu trọng tội nơi con đều được tiêu trừ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với vị Tỳ-kheo kia: 

–Ta nay làm như vậy là để đền đáp lại thâm ân của ông trong đời trước. 

Rồi Đức Phật giảng dạy về bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, chỉ bày các tướng đau khổ, khuyên gắng tu tập để chứng đắc giải thoát viên mãn. Tức th́ Tỳ-kheo bệnh liền chứng được đạo quả A-la-hán, đầy đủ ba minh, sáu thông và tám pháp giải thoát.

Lúc ấy, trời Đế Thích và chư Thiên nghe Đức Phật nói lời đền đáp ân từ đời trước, nên sinh nghi ngờ, bèn bạch Phật: 

–Hôm nay Như Lai đã dùng thần lực, khổ nhọc tẩy rửa máu mủ nơi các vết nhọt trên thân Tỳ-kheo kia, nhưng Đức Như Lai lại nói: “Ta nay làm vậy là để báo thâm ân từ đời trước của ông.” Cúi xin Như Lai v́ đại chúng hiện thời giải thích rõ ràng.

Đức Phật nói: 

–Này Thiên chủ, vào thời xa xưa vô lượng kiếp về trước, có một thôn tên là Tăng quảng, đất đai màu mỡ, dân chúng giàu có, an lạc, người trong làng ấy đều thuộc tộc họ cao quý, cùng tôn một vị kỳ lão làm người xử đoán các việc. Sau đấy, trong thôn có một vị Ưu-bà-tắc lão thành, bỗng nhiên bị một kẻ ác ngang nhiên đến bắt nhằm mưu hại. Kẻ ác đem giao cho quản ngục coi giữ, những người giữ tù này nghĩ rằng vị Ưu-bà-tắc ấy vô tội, nên dẫn đến chỗ vị kỳ lão xét đoán sự việc để phân xử. Vị ấy xét biết người này vô tội nên thả ra. Kẻ Ưu-bà-tắc ấy đương khi bị nạn liền được thoát khỏi.

Đức Phật bảo: 

–Này Đế Thích, vị kỳ lão xét đoán sự việc thời ấy nay là vị Tỳ-kheo bị bệnh này. Còn vị Ưu-bà-tắc lâm nạn được thoát khỏi nay chính là Ta. Cho nên Như Lai đã nói lời như trên.

Do đó, Bồ-tát dù trải qua vô lượng kiếp, đối với một ân nhỏ vẫn luôn nghĩ tưởng phải báo đáp trọng hậu, cho đến khi thành Phật cũng chưa từng quên lãng.

Đế Thích nghe lời Phật giảng nói tâm rất vui vẻ, đại chúng chư Thiên đồng tấu nhạc trời, đảnh lễ Phật rồi trở về chốn cũ.

[^]

Duyên Khởi 12: CÔNG ĐỨC XƯNG NIỆM TAM BẢO

Thời ấy, Đức Phật xuất hiện ở đời, v́ phụ vương và chư đại chúng diễn nói pháp môn Quán Phật tam-muội. Hành giả quán ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Như Lai sắc thân màu vàng ròng, hào quang tỏa sáng rực rỡ. 

Lúc đó, trong chúng hội có năm trăm người thuộc dòng họ Thích, quán thân tướng Phật như vị Bà-la-môn tu khổ hạnh, người gầy ốm, bôi đầy tro. Quán thấy như thế rồi tự bức đầu bức tóc, vật vã khóc than thảm thiết. Đức Như Lai thấy vậy mới an ủi: 

–Các ông chớ nên buồn khóc nữa Ta nay sẽ v́ các ông giảng nói các sự việc về đời quá khứ.

Đức Phật nói: 

–Về thời quá khứ xa xưa, có Đức Phật Tỳ-bà-thi, sau khi Phật ấy nhập diệt, vào thời kỳ tượng pháp có một vị trưởng giả tên Nguyệt Đức sinh năm trăm người con đều là hạng thông minh, nhiều trí, tất cả sách vở thế gian không ǵ là không am tường. Trưởng giả Nguyệt Đức là người kính tín Tam bảo, nên thường giảng nói về ý nghĩa của Phật pháp cho các con ông nghe, nhưng họ đều là người tà kiến, không có tín tâm. Về sau, các người con đều lâm bệnh nặng, trưởng giả bèn đến trước các con rơi nước mắt khóc lóc, chắp tay nói: 

–Các con v́ tà kiến, không tin Phật pháp, ngày nay các con đang bị lưỡi dao bén vô thường cắt đứt mạng sống, sự sống của các con chỉ còn trong chốt lát, không biết nương tựa vào đâu! Nay có Đức Như Lai hiệu là Tỳ-bà-thi, các con phải chí tâm niệm danh hiệu Ngài. 

Các người con nghe lời cha dạy, liền đồng niệm: 

–Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng.

Niệm rồi tất cả đều mạng chung. Do nhân duyên niệm Phật ấy, nên sau khi mạng chung, được sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương. Hưởng hết phước báo nơi cõi trời, do v́ nhân duyên tà kiến thuở trước, liền bị đọa vào địa ngục, ngục tốt La-sát dùng chĩa ba bằng sắt nung nóng đâm vào hai mắt. 

Trong khi chịu khổ não như thế, mới nhớ đến lời dạy của người cha, liền niệm Nam-mô Phật. Nhờ vậy, thoát khỏi cảnh khổ nơi địa ngục, sinh trong nhân gian làm người thuộc hàng hạ tiện, bần cùng. Các kiếp sau đó cũng sinh nhằm vào thời kỳ Đức Phật Thức Khí ra đời, nhưng chỉ nghe danh hiệu Phật mà không chiêm ngưỡng được kim thân. Cho đến các Đức Phật Tỳ-xá-phù, Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp-ba trải qua sáu Đức Phật kế tiếp ra đời như vậy, nhưng chỉ nghe danh hiệu mà không được thấy tướng hảo. 

Do v́ nghe được danh hiệu của sáu Đức Phật, nên ngày nay được cùng Ta sinh trong dòng họ Thích. Sắc thân Ta như vàng Diêmphù-đàn th́ các người quán thấy sắc màu tro như vị Bà-la-môn gầy ốm, là do nhân duyên đời trước khinh chê Phật pháp, chấp chặt nơi tà kiến nên mắc phải quả báo nặng nề như vậy.

Đức Phật dạy: 

–Ngày nay các ông phải xưng niệm danh hiệu chư Phật đời quá khứ, xưng niệm danh hiệu Như Lai, danh hiệu Đức Phật Di-lặc và danh hiệu phụ thân của các ông. Xưng niệm danh hiệu và lễ bái rồi, các ông phải hướng về đại đức chúng Tăng, gieo năm vóc sát đất làm lễ, bày tỏ sự sám hối về tội tà kiến.

Năm trăm người vâng lời Đức Phật, xưng niệm danh hiệu và làm lễ sám hối xong, tội chướng từ đời trước được tiêu diệt, ba nghiệp thanh tịnh, cùng thấy thân Phật màu vàng ròng, oai nghiêm vòi vọi như núi Tu-di, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp quang minh vô lượng, thảy đều hết sức vui mừng chứng được Sơ quả. Tất cả đều xin Phật xuất gia, lần lần chứng được A-la-hán, đầy đủ ba minh, sáu thông, tám môn giải thoát.

Đức Phật nói với các Tỳ-kheo: 

–Sau khi Ta diệt độ, nếu ai xưng niệm danh hiệu Như Lai và danh hiệu của chư Phật, sẽ được phước báo vô lượng, vô biên. 

Này A-nan, Tôn giả xem Như Lai trong khi đi đường, đã có thể khiến cho mặt đường chỗ cao thấp xuống, chỗ thấp nhô lên, các chỗ cao thấp đều bằng phẳng, Như Lai đi qua rồi th́ mặt đất trở lại như cũ. Tất cả cây rừng đều nghiêng hướng về phía Phật, thần cây hiện thân cúi ḿnh lễ kính. Như Lai qua rồi th́ cây rừng trở về trạng thái b́nh thường. Tất cả gò đống, hầm hố, đồi đất, các thứ cấu bẩn chẳng sạch, sỏi sạn gai gốc đều được san lấp, quét dọn, rưới nước trong sạch, rải các thứ hoa trên mặt đường, tỏa mùi hương lạ ngào ngạt.

Lại nữa, Như Lai đi bộ trên đường dài, các loài vô t́nh như cây, đất... tất cả hãy còn nghiêng ḿnh kính cẩn, huống ǵ là các loài hữu t́nh mà lại không cung kính. V́ sao? Là v́ Như Lai khi tu hạnh Bồ-tát đạo, đối với tất cả loài chúng sinh không khởi tâm kiêu mạn, mà luôn khiêm cung đón tiếp khiến họ sinh tâm vui vẻ. Do nghiệp thiện này nên sau khi thành Phật, tất cả các loài hữu t́nh, vô t́nh đối với Phật khi ra đi, thảy đều nghiêng ḿnh đảnh lễ.

Như Lai thuở xưa từng đem rất nhiều tài sản, với tâm thanh tịnh cúng dường chúng Tăng trong mười phương. Do v́ nhân duyên ấy nên nay thành Phật, nơi nào Như Lai ngự đến đều hết sức trang nghiêm, sạch sẽ, khoáng đạt.

Lại nữa, vào thời quá khứ Như Lai đối với các bậc Thánh hiền đồng tu phạm hạnh, trên đường các ngài đi qua Như Lai đều sửa sang bằng phẳng, quét dọn rưới nước. Phòng xá, các vật dùng cần thiết đều được dọn dẹp, sắp đặt trang hoàng một cách đầy đủ.

Ở trong các thời đều dốc cầu Phật đạo, nhằm đem lại lợi ích an lạc cho mọi chúng sinh. Cho nên ngày nay, nơi nào Như Lai đi đến đều tự nhiên thanh tịnh. 

Lại như núi Di-lư cao rộng tám vạn bốn ngàn do-tuần, phần ngập trong biển cả cũng lại như vậy. Núi Thiết vi cao mười hai vạn tám ngàn do-tuần, bền chắc như kim cương, không thể hủy hoại, đến khi Như Lai nhập Niết-bàn, cũng đều nghiêng ḿnh hướng về phía Đức Phật đảnh lễ.

Lại nữa, tâm Như Lai luôn thanh tịnh, ĺa mọi cấu nhiễm, nên khi Phật đi qua bất cứ chỗ nào, chân không hề dính các thứ uế tạp, trùng kiến không bị tổn hại đến tánh mạng.

Phật không mang giày dép, có ba nguyên do: 

1.      Khiến người đi đường sinh tâm ít ham muốn.

2.      Hiển rõ tướng dưới bàn chân có h́nh bánh xe ngàn tăm trên mặt đất.

3.      Khiến người trông thấy sinh tâm hoan h.

Lại nữa, khi Phật bước đi bàn chân cách mặt đất bốn tấc, có ba lý do:

1.      Thương xót loài trùng kiến ở dưới đất.

2.      Giữ ǵn cỏ hoa nơi mặt đất.

3.      Thể hiện thần túc của Phật.

Này các Tỳ-kheo, phải y theo lời Phật dạy tu hành để dứt tận cội nguồn của đau khổ.

[^]

Duyên Khởi 13: PHƯỚC BÁO THÙ THẮNG CỦA VIỆC TẠO THÁP PHẬT

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: 

–Như Lai nay đối trước đại chúng này, nói sơ lược về công đức đạt được của việc xây tháp, Tôn giả phải lắng nghe, suy nghĩ, ghi nhớ. 

Giả sử khiến cho tất cả cỏ cây, rừng rú đầy trong bốn châu thiên hạ, đều trở thành thân người, mỗi người đều phát tâm tu tập, tùy theo khả năng của từng người, có kẻ chứng quả Tu-đà-hoàn, có kẻ chứng quả Tư-đà-hàm, có kẻ chứng quả A-na-hàm, có kẻ chứng quả A-la-hán, cho đến quả Duyên giác. Bấy giờ, có một trưởng giả đem tâm thanh tịnh cúng dường, thường xuyên cung cấp các thức ăn uống, y phục, đồ nằm ngồi, thuốc men... suốt đời không thiếu. Cho đến khi các vị này diệt độ, trưởng giả lại v́ mỗi vị xây một bảo tháp, dùng tua, lọng, cờ phướn trang trí hết sức trang nghiêm, tốt đẹp, lại đem các thứ hoa hương đèn dầu cúng dường nơi mỗi tháp.

Này A-nan, trưởng giả ấy được phước nhiều chăng?

Tôn giả A-nan đáp: 

–Bạch Đức Thế Tôn, trưởng giả ấy đạt được phước rất nhiều.

Đức Phật nói: 

–Này A-nan, trưởng giả ấy tuy đạt được phước rất nhiều, nhưng vẫn còn giới hạn. Chẳng bằng có người, sau khi Phật diệt độ, đem tâm kính mộ cầu được một phần xá-lợi dù hết sức nhỏ như hạt cải, tạo tháp cúng dường. Tháp ấy chỉ lớn bằng quả Am-ma, trụ của lòng tháp bền chắc như cây kim, nơi đỉnh tháp bày mâm lớn bằng lá táo, trên đó đặt một tượng Phật chỉ bằng hạt lúa, hoặc hương, hoặc đèn tùy sức cúng dường.

Này Tôn giả A-nan, đem phước cúng dường của trưởng giả kia đối với phước đức của việc tạo tháp này th́ không thể so sánh. Nói tóm lại, đem phước báo thù thắng của việc tạo tháp này phân ra làm một trăm phần, th́ phước đức cúng dường của trưởng giả kia chẳng được một phần. Ví dầu chia làm ngàn vạn ức phần cũng đều không bằng một phần. Cho đến dùng số để tính toán, ví dụ cũng không thể biết được phước báo của việc tạo tháp này.

Này A-nan, phải biết Như Lai ở trong số kiếp như trần sa, tích chứa, huân tập, tu tŕ năm phần Pháp thân, làm phát sinh các công đức. Năm phần pháp thân là: Giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, lại tu tập các pháp: Bốn tâm vô lượng, sáu pháp Ba-la-mật, tự lợi, lợi tha, thực hành những khổ hạnh khó hành, nên đạt được các thần thông, nguyện lực không thể nghĩ bàn, thế gian và xuất thế gian không ai sánh bằng. V́ sao? Là do Phật đã thành tựu vô lượng, vô biên trí tuệ chân thật.

Này Tôn giả A-nan, tất cả Như Lai vào thời xưa khi còn tu nhân đều biết rõ tự tánh của chúng sinh là thanh tịnh, v́ bị phiền não của ngoại trần che lấp, nhưng tự tánh của chúng sinh hoàn toàn không bị phiền não làm ô nhiễm. Do vậy Như Lai xuất hiện ở đời, v́ tất cả chúng sinh giảng nói pháp vi diệu diệt trừ các thứ cấu uế, ô trược, khiến họ đạt được giải thoát.

[^]

Duyên Khởi 14: CÔNG ĐỨC XUẤT GIA

Khi Đức Phật còn tại thế, trong thành Vương xá có một trưởng giả tên là Phước Tăng, tuổi hơn một trăm nên răng rụng, sức yếu. Mọi người lớn nhỏ trong nhà đều sinh tâm chán nản, xa lánh. Ông lão nghe nói về lợi ích của sự xuất gia nên sinh tâm vui mừng. Công đức ấy là vô lượng, không thể ví dụ, cao hơn núi Tu-di, sâu hơn bể cả, rộng như hư không. V́ sao? Do v́ xuất gia mới chứng đắc quả vị Phật. Chư Phật nơi ba đời chưa từng có vị nào không xuất gia mà thành Phật bao giờ.

Trưởng giả nghe vậy, tuy tuổi già, lòng rất hoan h, t́m đến chỗ Phật cầu xin xuất gia, gặp lúc Đức Phật đi du hóa, nên trưởng giả đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất xin được hóa độ. Tôn giả Xá-lợiphất thấy trưởng giả quá già nên không tiếp nhận. Ông già lại cầu xin xuất gia nơi năm trăm vị La-hán nhưng đều không được tiếp nhận. Bấy giờ, trưởng giả ra về, rời khỏi tinh xá cất tiếng khóc lớn. Lúc ấy, Đức Thế Tôn từ phía sau bước đến, đem lời khuyên bảo an ủi, khiến ông vui mừng. Đức Phật liền bảo Tôn giả Mục-kiền-liên thu nạp làm đệ tử xuất gia, truyền trao giới pháp. Do v́ đám Tỳ-kheo trẻ tuổi mới tu học thường hay đùa giỡn, nhiễu loạn tâm ông, nên ông liền trầm ḿnh, muốn kết liễu cuộc đời. Tôn giả Mục-kiềnliên quán biết, liền dùng thần lực vớt để trên bờ, nhân đó mới hỏi: 

–Nguyên do ǵ khiến ông ra nông nỗi này? 

Trưởng giả bèn tŕnh bày mọi việc như trên.

Tôn-giả Mục-kiền-liên thầm nghĩ: “Người này ngu độn, sân hận đến thế, nếu chẳng đem sự báo ứng đang khiếp sợ trong ba đường ác để giáo hóa, th́ làm sao ông ta chứng được đạo quả?” Khi ấy, Tôn giả Mục-kiền-liên sắp bay lên hư không, mới bảo Phước Tăng chuyên ý nắm vào chéo áo của Tôn giả, sau đó, từ từ bay đến chỗ biển lớn, thấy một thi hài phụ nữ vừa mới chết, thân h́nh đoan chánh, lại thấy một con giòi từ miệng xác chết bò ra, rồi lại chui vào mũi, từ mắt chui ra, rồi lại bò vào lỗ tai. Tôn giả Mục-kiền-liên thấy vậy rồi bỏ đi. Đệ tử Phước Tăng liền thưa: 

–Bạch thầy, người chết này là ai?

Tôn giả Mục-kiền-liên nói: 

–Người đàn bà này là vợ của một đại thương gia trong thành Xávệ, ỷlại nơi nhan sắc của ḿnh không tu phước nghiệp, cậy vào chỗ yêu quý, nuông chiều của người chồng thường gây tổn hại cho mọi người. Hai vợ chồng đi qua vùng này bị ch́m thuyền, cả hai đều bỏ mạng, biển không dung nạp tử thi nên sóng xô giạt vào bờ. Thần thức của người chồng vẫn còn yêu xác thân người vợ đẹp nên biến làm con giòi ấy. Về sau sẽ bị đọa vào địa ngục chịu các quả báo đau khổ.

Rồi thầy trò từ từ tiến về phía trước. Lại thấy một người đàn bà loanh quanh bên chảo lớn đầy nước đang đun sôi, tự cởi y phục nhảy vào trong chảo ấy, da thịt đều tan rã, nước sôi thổi vọt xương văng ra ngoài, bỗng chốc xương lại thành người, tự vớt thịt trong chảo mà ăn.

Phước Tăng bạch thầy: 

–Đây là người ǵ?

Tôn giả Mục-liên đáp: 

–Có một vị Ưu-bà-tắc ở trong thành Xá-vệ, kính tín Tam bảo, thỉnh chư Tăng đến cúng dường, luôn sắm đủ các thức ăn ngon, sai tỳ nữ bưng dọn, tỳ nữ bưng đồ ăn cúng dường, mỗi khi đi qua chỗ khuất người bèn lựa lấy món ngon ăn trước. Mọi người trong nhà thấy hỏi, tỳ nữ đều chối và nói: 

–Khi nào các Tỳ-kheo ăn xong, còn thừa cho tôi, tôi mới dám ăn, nếu tôi có ăn trước, nguyện vào đời sau tự ăn lấy thịt thân ḿnh. 

Do nhân duyên này, trước thọ quả báo như hiện tại, còn quả báo chính thức sẽ thọ nhận trong cõi địa ngục.

Thầy trò lại tiến dần về phía trước, thấy một núi xương cao rộng đến bảy trăm do-tuần, ngăn che ánh sáng mặt trời khiến vùng biển này trở nên tối tăm. Lúc ấy Tôn giả Mục-liên trèo lên đỉnh núi, thấy một bộ xương lớn đang di chuyển qua lại. Phước Tăng hỏi: 

–Bạch thầy đây là núi xương ǵ?

Tôn giả Mục-liên nói: 

–Ông muốn biết núi này chăng? Đây là xương nơi thân cũ của ông.

Phước Tăng nghe qua, toàn thân dựng chân lông, hoảng sợ toát mồ hôi, liền bạch Tôn giả: 

–Ngày nay con nghe qua tâm chưa được tỏ ngộ, kính mong thầy thương xót, v́ con giảng nói rõ về nhân duyên của núi xương này.

Tôn giả Mục-liên nói: 

–Sinh tử luân hồi không có giới hạn, nghiệp báo thiện ác như bóng theo h́nh, như âm vang theo tiếng không sai khác. Về đời quá khứ xa xưa, tại cõi Diêm-phù-đề này, có một làng nọ, dân chúng đều giàu có. Lúc ấy, trong lành có một trưởng giả tên là Pháp Tăng, tộc họ từ trước đến giờ thuần tín Tam bảo, dốc làm việc thiện, lòng nhân từ ưa bố thí, không gây tổn hại đến sinh mạng của chúng sinh, nên dân làng tôn làm bậc Lệnh trưởng. Trong khoảng mười năm đầu, dân chúng được hưởng cảnh an lạc, thái b́nh, đều nhờ ân đức của Lệnh trưởng, dân làng coi vị ấy như cha mẹ.

Một hôm, Lệnh trưởng nhân khi nhàn rỗi tập chơi cờ bạc, bạn ác được cơ hội gần gũi xu phu, giảng nói tà thuyết nên Lệnh trưởng lần lần phế bỏ việc nước, việc dân. Chẳng bao lâu, t́nh h́nh trong vùng bị bọn xấu ác thao túng, xử kiện không công minh, h́nh phạt th́ chẳng đúng pháp. Vào ngày nọ, người hầu cận tŕnh bản án vô tội của tù nhân, nhằm lúc Lệnh trưởng đánh bạc bị thua, không màng xem xét tận tường, liền ra lệnh xử tử.

Hôm sau lại hỏi các quân lính phụ tá: 

–Tội nhân hôm qua nay ở đâu?

Kẻ hầu cận đáp: 

–Theo lịnh của Lệnh trưởng đã giết rồi.

Lệnh trưởng nghe qua liền ngã lăn ra đất chết giấc, kẻ hầu phải dùng nước rưới, giây lâu mới tỉnh dậy, rơi lệ nói: 

–Tất cả những người thân, ngọc ngà châu báu đều còn ở lại đây, chỉ riêng ḿnh ta rơi vào địa ngục! Ngày nay, ta xem thường việc sát nhân, phải biết là ta thuộc loài hàng thịt! 

Suy nghĩ như vậy rồi, trong giây lát mạng chung, sinh làm loài cá Ma-kiệt ở trong biển cả, thân to lớn đến bảy trăm do-tuần.

Phật nói: 

–Này Tôn giả Mục-liên, như hàng quan lại ỷthế cậy quyền, hà hiếp dân chúng giết hại vô số, khi mạng chung phần nhiều đều sinh làm cá Ma-kiệt to lớn, bị loài trùng bám vào thân rúc rỉa ăn thịt, nên thân h́nh bị gầy ốm, mỗi khi dựa vào núi, máu của loài trùng nhỏ chảy ra làm nhơ cả biển, dòng nước nhuộm máu đỏ tươi lan rộng đến trăm dặm. Giấc ngủ của loài cá ấy trải qua hàng trăm năm, sau khi thức dậy nó uống nước, làn nước bị hút vào miệng cá cuộn chảy như dòng sông lớn. Nhằm lúc ấy có đoàn lái buôn vào biển t́m châu báu, gặp loài cá Ma-kiệt đang há miệng, thuyền buôn bị cuốn về hướng miệng cá như gió, cả đoàn thuyền sắp chui vào bụng cá, th́ ngay trước đó, khách buôn buồn khóc, nhất loạt đồng niệm: “Nam-mô Phật”. Cá nghe tiếng Phật liền ngậm miệng, nước dừng chảy. Do diệu lực từ bi hộ niệm của Đức Phật, cả đoàn thương khách đều được thoát nạn. Khi ấy, cá Ma-kiệt nhịn khát mà chết. Các thần biển là Dạ-xoa, La-sát tranh nhau kéo thân cá lên bờ.

Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên dẫn đệ tử là Tỳ-kheo Phước Tăng du hành xong, trở về tinh xá, đầu mặt sát đất đảnh lễ Phật, vô cùng hoan hỷ nên Phước Tăng hiểu rõ sự sinh tử, vô thường, khổ, không, dứt sạch các kết sử hữu lậu, chứng quả A-la-hán.

Hết Quyển 4

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 5

Phiền não trói buộc, tánh, dụng rộng khắp. Lực dụng thắng nghĩa tận diệt các lậu. Căn lành phát sinh, ĺa mọi điên đảo. Lẽ tịch tĩnh ấy không hề giảm suy. Nhân thực nghĩa lợi (đem lại) h́nh tướng tươi đẹp. Dốc sức tiến tu, tăng trưởng cúng dường. Làng xóm chốn chốn thêm tu như vậy. Tất cả mọi nơi biến đổi, an lạc. Thắng nghĩa cõi hành hòa hợp không tranh. Điên đảo dứt sạch, ngộ lẽ vô ngôn. Xa ĺa nhị kiến, đúng nẻo trung đạo. Lành thay tự tánh! Hòa hợp như thế. Cõi bố thí ấy chư Thiên vui thích. Đêm ngày tinh tấn, thắng nghĩa viên mãn. Thế Tôn ứng hiện, khai ngộ hữu t́nh. Sắc tướng tăng trưởng, viên mãn là vậy. Thuận hợp hài hòa, thanh tịnh trùm khắp. Sắc tướng Như Lai, chân thật tối thượng.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh quảng diễn nghĩa thứ mười một.

Thật tướng trượng phu hòa hợp, không đổi. Đó là tùy thuận, lãnh hội thấu đạt hạnh của Bồ-tát. Phát khởi tùy thuận từ nơi chỗ đạt các pháp tịch tĩnh, không biến đổi. Phạm hạnh bao la, tu tập gồm đủ. Nghiệp thiện quyết tu chứng quả vô sinh. Thấu lẽ thậm thâm, tăng trưởng diệu hạnh. Tỏ ngộ giáo pháp, dốc sức tấn tu. Hội nhập trọn vẹn tự tánh căn bản. Trụ ở quá khứ, tịch tĩnh tăng thêm, chế ngự hữu t́nh, gánh vác đại sự. Đức hạnh chân thật, ngôn ngữ khế hợp, khiến cho tâm chúng sinh diệt sạch bao thứ sân hận, tạo được nơi chốn thích hợp. 

Giáo pháp thắng nghĩa dứt mọi sân si. Đúng là giới đức của bậc hữu học. (Nếu không thế th́ sẽ) thọ khổ lưu chuyển nối tiếp không ngừng. Tận cùng tự tánh (chính là) tỏ nẻo luân hồi. Cung kính bố thí đâu mong phước báo (mà là nhằm đạt được nơi) nương tựa an lạc, tịch tĩnh viên mãn. Danh, tướng (được) tự tại. Lưu chuyển dừng dứt. Trí tuệ là điều tối thượng, (là) nơi bậc hữu học ĺa bỏ phiền não. Đó chính là cái nhân tự tại của bậc pháp sư chân chính xuất hiện. Phiền não trừ diệt, ngôn ngữ khế lý. Tâm hành vô tướng, mọi ác thảy trừ. Giới mốc chẳng còn, đảo điên cũng sạch. Đấy chính là lúc mọi thứ phiền não, chướng ngại đều được lắng sạch, tĩnh lặng. Xa ĺa ngôn từ (đó mới là) ngôn ngữ chân thật.

Thế nào là ĺa bỏ cõi khổ đồng nữ?

Bậc hữu học ĺa, chẳng bị nhiễm quấy.

Thế nào là gốc của mọi cấu nhiễm?

Tham dục dấy mạnh thật khó cản ngăn. Biến chuyển tăng trưởng mong đạt thắng nghĩa bất thoái để dứt hết mọi nhiễm chướng. Phận nữ trói buộc thọ khổ như vậy. Tạo nhân tịch tĩnh, thấu đạt khẩu hòa. Bố thí tối thượng, tỏ ngộ tự tại. Tu tập tĩnh lặng, ĺa mọi hý luận. Từ hàng Phạm thiên tăng thêm nghị luận, kiến tánh viên mãn, trí tuệ tương ứng, thông suốt mọi cõi. Tu học trọn vẹn, đắc giới Hòa thượng. Trí lực có thể phá bỏ mọi nhân điên đảo, cũng như có thể luận bàn giáo pháp. Tạo ra các bậc Giáo thọ, A-xà-lê, là những vị giới sư làm khuôn phép mẫu mực. Trọn đủ các nhân chân thật như thế. Luận bàn thuận hợp, tranh biện nảy nở. Năng dứt nhiễm buộc, thiện tịnh hiện bày. Đó là tánh thanh tịnh, xa ĺa mọi trói buộc, là phương tiện tỏ ngộ của tánh Không.

Thế nào là thấu đạt lực dụng của nghiệp?

Trí tuệ tỏ ngộ mọi pháp thường tịch gọi là xuất thế gian. Tất cả các tháp miếu, phước báo Phạm thiên cũng đều được thấu rõ như thế. Nhân chân thật ấy cõi tánh tài bồi. Phước báo cõi trời, không còn sân hận. Từ chốn thanh tịnh mong cầu như vậy, vâng giữ lấy lời, như lọng phủ che. Siêng năng tu tập, nương tựa thầy bạn. Dạy dỗ như thế, cậy bậc thiện hiền. Tu hạnh thắng nghĩa, gieo trồng nhân lành. Chân thật như thế, biết rõ khó đạt. Là chốn đầy đủ Bồ-tát an trụ. Bồ-tát ứng hiện, điên đảo lặng dừng, tâm ý trói buộc, cấu nhiễm đều dứt. Ĺa hạnh Duyên giác, rời mọi kiêu mạn.

Thế nào là h́nh tướng phiền não buộc che trùm khắp như cõi không, như mây, phàm phu khó thoát?

Chánh pháp thậm thâm, thù thắng khó được. Tưởng niệm, tư duy mọi nẻo đều vượt. Bồ-tát thuận duyên, phương tiện chỉ bày. Từ hàng Phạm hạnh, thân ta xuất hiện. Xa ĺa nẻo người, dứt hết nghiệp dữ. Nhân lành tạo tác, tướng mạo hiện bày. Theo đường Thập thiện, xa lánh vọng tưởng. Nơi chốn thanh tịnh, ưu khổ hết buộc. Tự tánh trong lành, phước báo trang nghiêm. Là cõi Bồ-tát ngôn ngữ dạy truyền, giới hạnh uy nghi, rõ nghĩa giải thoát. An trụ bất thoái, hành tướng tự tại. Theo thầy bàn luận, rõ tướng không tịch.

Thế nào là chúng sinh đạt được nghiệp nhân của Thập thiện do thầy truyền dạy?

Ĺa mọi mê chấp thường, đoạn, hữu, vô.

Thế nào là xa ĺa không tạo nhân xấu?

Thế gian gây nhân, tạo nghiệp điên đảo. Chúng sinh nặng nghiệp, chẳng thấu ngọn nguồn. Tạo tác ngã mạn, mắt mờ không thấy; Dòng thác điên đảo lưu chuyển triền miên, biến đổi, chứa dồn, phát sinh ngã kiến. Diệu ý thù thắng sửa trừ ngã vọng. Phiền não hý luận, si mê tạo nghiệp. Nhận rõ nhiễm ô, tịch tĩnh như vậy. Tự thân thanh tịnh, chủng loại chẳng khinh. Hữu t́nh không chuyển, tham thọ càng tăng. Hạnh, tuệ chẳng tu, nghiệp ác tự buộc. Bố thí biếng theo, nhân lành chẳng có. Rõ hạnh Bồ-tát, tâm ý thanh tịnh. Bậc thầy mẫu mực, ngôn ngữ trao truyền. Ý chẳng tu sửa, tánh ngã mạn tăng. Chẳng rõ nghĩa ấy, đức hạnh càng tối. Chẳng xét ngọn nguồn, dẫn dụ khó lập. Do ḿnh tạo tác, tích tụ, chuyển lưu. Tư tưởng điên đảo, sân hận nào dứt. Rốt ráo không thật, biết rõ hư ảo. Căn lành phát sinh, ĺa xa tà pháp. Là nơi có bậc đạo sư mẫu mực, chỉ dạy nhận rõ, dứt tận mọi thứ vọng tưởng. Lành thay! Hàng thiện nam! Bậc đại phạm hạnh sắc tướng tăng trưởng. Mong đạt các hạnh tịch tĩnh viên mãn.

Thế nào là tu tập theo các pháp thiện tĩnh?

Thấu đạt, tỏ ngộ, tu pháp vô tướng. (Tức là) Nghĩa rộng thanh tịnh tiến tu viên mãn. Là bậc Thiện nam đã dứt phiền não. Đó là nghĩa lợi tịch tĩnh thù thắng. Thấu tỏ hiện bày, an lạc nên tu. Cõi trời tự tại ấy thật đã hòa hợp với h́nh tướng của bậc Đại trượng phu. Lực dụng bao trùm, đạt cảnh tịch nhiên. Tạo nhân như vậy, Thánh lực viên mãn. Vượt qua con đường Thanh văn Tiểu thừa. Tướng mạo thế gian, ngôn ngữ tăng trưởng.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc, sinh vào cõi Phạm thiên, quảng diễn về bản sinh nghĩa thứ mười hai.

Phiền não trói buộc thật sự như thế. Đạo pháp xuất thế (có thể đạt được) lực dụng tự tại. Đó là tùy thuận thấu đạt thắng nghĩa chân thật. trí tuệ nhận rõ nghĩa lợi thế gian. Ĺa dứt tất cả gốc rễ ngã mạn. Bồ-tát bố thí các pháp khó làm, cứu độ chúng sinh thoát khỏi nghiệp dữ. Do chỗ biết rõ giới luật là vua của các pháp, phiền não biến chuyển không ngừng, tu hạnh bí mật, dứt bỏ ngã mạn. Là bậc cha lành của cõi thế gian. Bậc Đại trượng phu dưỡng nuôi con trẻ. Tự tánh b́nh đẳng, rõ lẽ biến chuyển. Giáo thừa tùy thuận các pháp công đức (nhưng) đạo vẫn thường hằng. Thấu lẽ trang nghiêm, tạo nhân (cho) thế gian. Diễn giảng giáo pháp, một thân v́ đạo. Tà pháp, ngoại đạo, vững chí thuyết phục. Là chốn mê muội, chánh pháp chẳng cầu, nhân quả nghiệp báo chân lý chẳng tỏ. Mẫu mực tịch tĩnh tu tập như vậy. H́nh tướng ung dung, tánh ĺa điên đảo. Không tạo nghiệp ác, Tam bảo kính tin, không chuộng tham ái, trí tuệ thông tỏ mọi nẻo quá khứ. Đức hạnh tối thượng thảy đều biết rõ. Tu hạnh bố thí, tạo tác thiện tịch. Đó là tuệ nhãn thanh tịnh, vô lậu. Cần nên xa ĺa nơi chốn ngu muội. Tam bảo chân thật mà không hay biết, đúng là xứ sở mê muội tối tăm. Chẳng rõ nhân nhiễm gốc rễ là vậy. Là cõi Phạm thế thông rõ ba tướng.

Thế nào là không thiện?

Phiền não hiện hành không thể dừng dứt. Là chốn xa ĺa mọi hành điên đảo. Ta tự diễn bày ngôn ngữ Phạm chúng. Tự tu hiền thiện, phạm hạnh gồm đủ. Chốn thanh tịnh ấy an trụ, hội nhập. Chúng Phạm thiên vương tu tập viên mãn. Là cõi có hàng Phạm chúng tu hạnh bố thí. Tự tánh thanh tịnh, chốn chốn yên vui. Báo thân mong đạt an định, thiện tịnh, tịch tĩnh viên mãn, tối thượng, tối tôn. Nghĩa tánh Như Lai, thân oán chẳng phân. Lực dụng tự tại, hạnh tu an trụ. Tăng bảo viên mãn, thường trụ thế gian. Chí cầu mong đạt sắc tướng trùm khắp. Tuệ giải tu tập, ý không nhân nhiễm. H́nh tướng hiện bày, tham dục đều không, như bậc A-la-hán.

Thế nào là chúng sinh ĺa khỏi nghiệp dữ điên đảo?

Tâm ý tịch tĩnh, tạo nhân vô tướng. Hạnh thí phát khởi, theo đúng nghĩa lợi. Lãnh hội Thánh giáo, dứt nẻo luân hồi. Nhân tốt, ý vui, nương bậc quốc vương. Thông đạt, an lành, tự tánh hiển hiện. Đó là nương tựa theo nhân Thập thiện. Thể tánh thành tựu (như) mẹ hiền hòa hợp. An trụ thêm tăng, tâm ý sung mãn. Bố thí ân tích, lực dụng phát sinh. Nương tựa mẹ hiền đạt được an lạc. Tri kiến rộng lớn điều phục vương giả. Bốn phương hiện bày như mẹ hiền mến yêu, mọi thứ tranh luận, hý luận thảy đều dứt bỏ. Phát sinh hòa hợp, mọi việc an lành. Như bậc A-la-hán diệt hết ngã mạn, điên đảo, phiền não trói buộc. Chủng loại phát triển, dứt tham, sân, si, ba thứ “hoặc” gốc. Như xua mây che ánh trăng sáng tỏ, trong lặng đáng yêu! Thấu đạt nghĩa lợi chân thật như thế. H́nh tướng vương giả, tư dung đáng chuộng, sắc tướng tuyệt vời. Dứt bỏ nghĩa lợi, đạt quả bất sinh. Nhà cửa, nữ nhân không thể so sánh. Thanh tịnh dứt nhiễm, tham dục xa ĺa. Là chốn cõi tâm chân thật hiển bày. Vua (xứ) Ma-kiệt-đà thân đến chốn ấy. Thế lực hơn hết, thanh tịnh, dứt nhiễm. Ĺa si, mạn, sợ, tham dục đoạn trừ. Nhập Như Lai tạng, hội lẽ vô ngôn, chân tâm b́nh đẳng. Thông suốt ba thời, mọi nẻo luân hồi. Nương tựa cõi ấy, hoa sắc xanh tươi, hương thơm khắp chốn. H́nh tướng tùy thuận, phép tắc uy nghi, chính danh Đại thừa, Đại Bát-niết-bàn. Phước đức gồm đủ, thảy đều viên mãn. Kinh điển thọ tŕ, trí tuệ bừng tỏ. Là chốn mẫu mực, vọng tưởng đều dứt.

Thế nào là trí tuệ vô biệt vô nhân, làm phát sinh các pháp Thập thiện nghĩa lợi? Thế nào là nhân tướng?

Tịch tĩnh chân thật, h́nh tướng dứt mạn. Thiện tịnh hòa hợp. phước đức tịnh diệu. Lực dụng gồm đủ, uế tạp dứt trừ. Thực hành Thập thiện, tu Tứ niệm trụ. Là chốn mê muội, điên đảo dấy tràn. Không theo Thập thiện, chính cõi đói khát. Là chốn gặp gỡ mọi thứ độc hại. Quốc vương ĺa dục, tịnh diệu thi hành. Tu hành tự tại. Tùy thuận các pháp phiền não, tham ái, si độn trói buộc. Căn bản tối thượng của hàng Tỳ-kheo là chỗ sử dụng vật dụng thù thắng. Cội rễ ngã kiến buộc chặt ba đời. Báo chướng khiến thân tạo nghiệp bất thiện. Không theo Thánh hiền, gốc mọi nghiệp dữ. Thiên nữ tự tại, xa ĺa nẻo người. Phải nên tu tập các hạnh chân thật. Không tu Thập thiện là hạng mê mờ. Nơi chốn khế hợp xiển dương chánh pháp. Khiến tâm hoan h, trí tuệ phát sinh. Ý thức tịnh diệu, tịnh thuận thế gian. Ý thức tự tại đúng nghĩa là vậy. Tự tánh phát sinh diệu nghĩa vô cùng. Trọn nên các hạnh bí mật, thuận hợp. Pháp thiện diệu ấy thường xuyên thọ tŕ. Căn bản thượng diệu thuyết phục trời, người.

Tu hạnh lục độ (Ba-la-mật) theo bước Phật Tổ. Gánh vác đại sự, tiến tu như thế. Tạo nhân lâu dài, xa ĺa sợ hãi. Thuyết pháp vi diệu, lĩnh hội tu tập. Các hạnh thù thắng từ gốc nhân lành. Tịnh diệu dốc tu, bền chặt không chuyển. Phụng thờ, diễn giảng, trừ dứt si mê. Diệt phiền não chướng, đúng hạnh Thánh nhân. Thượng diệu tối thắng, bố thí rộng khắp. Tạo tác vô nhiễm, nhân của thanh tịnh. Tâm không vướng dục, gốc của mọi việc. H́nh bóng không thật, tùy tâm sở hiện. Thắng nghĩa chân thật là hạnh thanh tịnh. Dòng thác triền miên, sợ hãi khó tu. H́nh tướng điên đảo, xứ sở héo hắt. Hèn yếu ngu muội do chẳng siêng tu. Mộ cõi tịnh trụ, giữ đúng giới hạnh. Dứt lời sân hận, tâm vốn vô tướng. Vương giả tự tại, tỏ bày chân thật các pháp trị nước. Lực dụng năm uẩn gốc rễ tu tập. Hành tướng của chúng, rõ tánh thiện ác. Phiền não trói buộc (nhưng) thể tánh (vốn) Như như. Mọi chốn nương tựa, tâm cầu đạo pháp. Dứt hết hý luận, lực dụng chẳng sinh. Là chốn chi phần do thiếu tu tập. Các pháp tối thượng, sợ hãi khó theo. Phiền não, chướng ngại vốn không giới mốc. Giữ hạnh thanh tịnh, trừ gốc tham dục. H́nh tướng điên đảo đâu dễ phát sinh. Lực dụng khó ngăn, mê muội đáng khuất. Bố thí thanh tịnh, tâm không bợn đục. Ứng biến rộng khắp, chư Thiên cung kính. Phiền não chẳng sinh, tự tại gồm đủ. Tánh vốn nhân, hòa (nên khiến cho các loài) hữu t́nh phát sinh. Nghĩa lợi thanh tịnh khế hợp như vậy. 

Thế nào là tâm ý an lạc như hàng chư Thiên tướng mạo hòa hợp?

Nghĩa ấy thêm rõ, cầu nhân xa ĺa, đạt quả vô học. Như xứ có vua, cõi nước rộng lớn. Tự ḿnh hành xử các pháp trị nước. Muôn dân ngưỡng mộ, luôn luôn ghi nhớ. Ngôn ngữ ung dung, chân thật, hợp lẽ.

Thế nào là giải rõ ý nghĩa của việc nhận ra tâm ý tương ứng nhưng không bị cấu nhiễm điều ác?

Ham chuộng tu tập, dứt chướng, phá xiềng. Do nhân phiền não, nhiễm lấy nghiệp ác, xuôi theo dòng đời. Hành động hóa độ nương trí tuệ sinh. Nhân quả rõ ràng, diễn bày thêm tỏ. Mẹ hiền từ trời, ngôn từ đúng pháp. Bố thí nhân thực, theo pháp thi hành. Tự tánh hòa hợp, nhân tranh không còn, tạo tác như thế.

Thế nào là tu hành đúng nghĩa bất thoái, chư Thiên chúc tụng?

Tịnh diệu hiện bày, nhân tranh dứt bỏ. Làm chủ hành nghiệp như bậc A-la-hán. Tùy thuận theo nhân, nơi chốn tự tại. Truyền dạy nghĩa lợi, chúng Thánh nên nương. Như mây che phủ, ĺa hạnh tham dục. Chư Thiên cùng tu, ngu si đáng sợ. Phật dạy như vậy, lặng suy, thuận hợp. Nhân thắng chân thật, như đất đỡ nâng. Tu hạnh bố thí, chẳng màng phước báo. Phát huy tại chốn, nghĩa lợi vô tận. Ứng hiện bệnh, nạn, Thánh nhân cũng làm. Mẹ hiền dạy dỗ, ân tích khắp chốn. Ở cõi si độn, mong dứt tạo nghiệp.

Thuận lợi như vậy, thế nào là nhân của ý bất thoái?

Chẳng rõ tội tướng, ngu muội đều mắc. Tịch tĩnh vô biên, thấy nghe gồm đủ, tự tại hòa hợp.

Thế nào là thành thật?

Đạt được ái lạc thù thắng, thậm khó! Giải thoát viên mãn như mây che khắp. Chân lý tối thượng, chúng sinh si mờ. Như bậc mẹ hiền yêu thương con trẻ. Tà pháp ngoại đạo không thể hóa độ.

Ái lạc biến chuyển, làm sao xa ĺa?

Đắm nhiễm tham dục, chính là điều ác. Tứ chúng xa ĺa, tạo nhân ái lạc. H́nh tướng khó bày, thấu lẽ khẩu hòa. Chúng hội hý luận, chư Thiên rời bỏ. Lời nói của vua như mây phủ khắp. Gươm bén chẳng dùng, lực dụng dừng lặng. Tánh (của các) pháp không buộc, thảy cùng tồn, diệt. Cộng nghiệp tạo nhân, cùng lên bờ giác. Phiền não chấp ngã làm nhân tu hành, như bóng theo h́nh, dễ đâu đạt được? Biết rõ nghĩa lợi tất cả không thực. Trí tuệ độ người, vô tranh là vậy. Ngôn luận của vua. Vô ngã là ǵ? Chính nơi ám độn, các mạn phát sinh. Rõ chúng không thực tuệ sinh từ nhiễm. Phát tâm cúng dường, bố thí thân mạng. Do v́ chấp ngã, tánh chẳng tịnh diệu. Bờ giác tối thượng, các pháp giải bày. Vận dụng hướng cầu, nhiễm chướng tận diệt. Biết rõ chư Thiên an lạc tịnh diệu. Chúng sinh mê lầm, tà kiến trói buộc, chánh y quả báo, thân tâm đói khát. Thể tánh ĺa vọng, dốc sức tạo nhân. Thế gian khó được phước đức rộng lớn. Bố thí tự tại, cầu quả Vô thượng. Lời vua truyền dạy, dứt bỏ tham dục. Tạo nhân bố thí lợi ích vô tận. Tu nhân vô ngã, nghĩa lợi biến chuyển dứt nẻo phiền não. Như vậy chúng sinh (mọi) hý luận đều dừng. Tạo nghiệp thế gian, phiền não bủa vây. Ba cõi thế gian, nương pháp tu hành. Thấu đạt tịch tĩnh, quả báo vô tận. Căn lành phát sinh, lực dụng bất thoái.

Chúng sinh an ổn ĺa pháp mê mờ. Hạnh nghĩa lợi sinh, ĺa phiền não chướng.

An trụ nhân diệu, xa ĺa những ǵ?

Nhân khổ chẳng tạo, si mê dần mở, đạt được an lạc. Nhân của thắng nghĩa tùy thuận phát sinh. An trụ từ bi, nghĩa của lợi lành. Là lời Phật dạy. Như bày món ăn, nghĩa lợi tự tại, các pháp đầy đủ. Tu tập biến chuyển, lực dụng khế hợp. Thấu đạt bất thoái, xa ĺa nhân tranh. Bố thí tại chốn, như mẹ hiền làm. Nuôi dưỡng chúng sinh, nghĩa vụ chân thật, như lời vua dạy là chốn hành động, phiền não không ngăn. Chúng sinh đạt được, tâm Từ hóa độ. Biết rõ chúng sinh theo đường an lạc. Tu pháp bố thí chân thật là thế. Thắng nghĩa tối thượng, rõ lẽ vô ngôn. Thánh hiền xuất hiện, khai thị tự tánh. Tâm thí phát khởi, tu tập rộng khắp. Gốc rễ tam độc, trí tuệ phá trừ. Nuôi dưỡng muôn loài, nghĩa lợi thù thắng. Lời mẹ hiền dạy, ĺa mọi nhân tranh.

Tánh Không là ǵ?

Thánh hiền cùng hướng. Gồm đủ bốn quả (của hàng Thanh văn). Rõ đường sinh kế thực của thế gian. Nhớ nghĩ, nuôi dưỡng, ngôn dung thanh tịnh. Tạo nhân bố thí, đạt được thượng vị. Tịch tĩnh sinh thiện, dứt mọi điên đảo. Lực dụng hòa hợp, thắng nghĩa năng tu. Ngã mạn giảm thiểu, đúng pháp vô tướng. Thấu đạt giáo pháp, nơi chốn tịch tĩnh. Dứt phiền não chướng, lợi lạc chúng sinh. Tập nhiễm dứt trừ, an nhiên tự tại. Tâm dục không dấy, rõ hạnh vi diệu. Mẫu mực nghiêm túc nghĩa lợi tối ưu. Là xứ trí tuệ tăng trưởng không ngừng. Tịnh diệu hiện bày thật đáng yêu quý. Ý của vương giả. Dứt tuyệt ngôn từ, trí tuệ thông tỏ. Phước đức cõi người, lực dụng như thiên, tùy thuận dứt tham. Nghĩa lợi chân thật an lạc như vậy. Chúng sinh đắm dục, vương giả tự chế. Đức hạnh thuận hợp, đúng nghĩa giải thoát. Đạt hạnh thanh tịnh, mong đoạn pháp nhiễm. Báu từ biển lớn, sự theo lý sinh. Khổ vọng nhiễm buộc, đường hiểm khó qua. Theo nẻo vô lậu, dứt các pháp nhiễm. Thực sự hòa hợp, vượt mọi tư duy.

Bồ-tát bố thí, Tôn giả Trang nghiêm diễn bày rõ việc hộ quốc bản sinh thứ mười ba.

Các pháp tịch tĩnh, lực dụng chân thật, thuận hợp tấn tu, mong đạt phước báo, khế hợp giáo pháp. Chỗ gọi tùy thuận tức là thấu đạt lời dạy dỗ của Bồ-tát. 

Chúng sinh rộng khắp, nghiệp lành viên mãn, lực dụng khế hợp. Các bậc Bồ-tát bẩm thụ Phật pháp, giáo hóa hữu t́nh chẳng chút nghỉ ngơi, là bậc đạt được trí tuệ viên mãn, giúp hàng hiếu học tham cầu diệu nghĩa, an tĩnh tự tại; là nơi chúng sinh sáng tỏ, thông suốt. Năm tháng dần qua, tri thức tăng thêm. Lực dụng thắng nghĩa, hạnh thí viên mãn. Thu nhiếp hành tướng. Lực đủ độ sinh. Tạo tác tướng mạo. Viên mãn chân thật. Tu nhân bố thí như biển tràn trề. Niệm niệm tăng lên. Tịch nhiên thường tại, chẳng hề sợ hãi. Khẩu hòa gồm đủ. Mưa móc thấm nhuần. Ao khô nước nhẫy. Bờ giác nhân thực, bao la vô tận.

Tịnh diệu gồm đủ, nghiệp dữ chẳng sinh. Điên đảo hý luận, nhân của ngã mạn. Chỉ theo đường thiện mới trừ diệt hết. Phát khởi tu hạnh bố thí ấy, hiện bày thuận hợp. Nhà cửa thanh tịnh, rộng rãi, thanh thoát. Chi phần tịnh diệu, chúng sinh trú ngụ. Ba nghiệp trọn nên, tạo nhân tự tại, dốc theo nghĩa lợi. Là chốn bố thí, tâm niệm gánh vác. An lạc tịnh diệu, hòa hợp trọn vẹn. Hữu t́nh đại nguyện, thắng diệu đáng quý. Những lời dạy bảo, thấu rõ từ tánh. Theo pháp Thập thiện, thấu đạt nghĩa lợi. Tu niệm chuyên tŕ, lực dụng tự đạt. Hóa độ rộng khắp, xem (như) không tạo tác. Ngọn nguồn thiện khởi, ngôn luận chẳng sinh. Cội rễ thăm dò thường không ám độn. Thân xác lưu chuyển, cứu cánh khó đạt. Hành nghiệp hòa hợp.

Thế nào là nhân tu giải thoát đúng nghĩa, thấu đạt, thành tựu?

H́nh tướng chi phần chúng sinh đủ loại. Nhân lớn khó làm, cần thêm thần lực. Tự thể phát sinh, cõi tánh gồm đủ. Là chốn vô ngã, ý không điên đảo. Thân xác hữu hạn, tự tánh vô cùng. Chẳng hề luận bàn. Tánh vốn thường hằng, nhân của dòng thác. Tự tánh thành tựu, tất cả như thế. Tạo nghiệp không hợp, chỉ đạt biến đổi (hý luận). Phát khởi diệu dụng, nhân không cấu nhiễm. Chủng loại biến động, hủy hoại tướng mạo. Ví (như) duyên sinh con, bốn tướng chuyển biến. Thảy thảy chi phần, muôn vật muôn loài. Tướng mạo, lực dụng từ nơi phước báo. Nơi ở, chốn học, tâm kia như biển. Là chốn cuộc sống đầy những sợ hãi. Tăng trưởng cùng tận, b́nh đẳng không phân. Nghe giữ gồm đủ, tu tập pháp thiện. Tùy thuận chúng sinh đều khắp muôn loài.

Thế nào là cấu nhiễm hý luận?

Tu hạnh vọng tưởng, đúng là nghiệp dữ. Tâm ý sáng suốt, dứt ác đầy đủ. Chân thật như biển, sợ, tranh, (hý luận) đều bặt. Giảng dạy b́nh đẳng, phát khởi thắng nghĩa. H́nh tướng tạo tác, đảm đang thích hợp. Lực hòa hợp ấy, an định như biển. Dung mạo rõ ràng như trời quang đãng. Nơi chốn tu học, Thánh lực thêm tỏ. Chân thật kính tin, dứt cõi điên đảo. Khắp chốn hành động, thảy đều hòa hợp, ung dung. Thân tâm an trụ, dứt nẻo luân chuyển. Đường dữ không sa, lực dụng đảm đang. Tu tập vô tướng, xa lánh ác độc. Ví gặp tai họa, độc hại không gần. Trụ tịnh, ĺa ác, phước sinh cõi trời. Người người kính trọng, là chốn an định. Giáo hóa muôn người, tâm không vướng mắc. H́nh tướng thanh tịnh, khẩu hòa viên mãn. Tịch nhiên tấn tu, đường của an lạc. Tánh của năm uẩn, tùy hiện bao la. Thắng nghĩa chân thật, như biển khó dò. Không nhân, không gốc, vượt cả trước sau. Thiện tịnh không tham, ví như biển rộng. Hạnh của Bồ-tát giáo hóa quần sinh. Hữu, vô dừng dứt, trong lặng như biển. H́nh tướng (như cõi) hư không, đâu có trong ngoài. Phiền não, chướng lớn, khó thể ĺa bỏ. Tự tánh hàm thiện, bặt mọi điên đảo. Bố thí không cùng, đúng nghĩa tự tại. Tùy duyên tu tập, tăng trưởng không ngừng. Si độn buộc chặt ví như độc dược. Thí lớn khó làm, giảm trừ càng rộng. Trí tuệ chân thật, tự tại thung dung. Tu tập tinh tấn, Ba thừa hóa độ. Theo đấy mong cầu, tâm ý không nhiễm. Các mạn không dấy, Thập thiện song hành. Thanh tịnh dốc tu, viên mãn như biển. Diệu nghĩa Như Lai, hàm chứa chân tánh. Bậc Đại trượng phu không bàn sắc tướng. Thọ giữ chánh pháp, dứt bỏ ngã tướng. Xứng bậc thầy mẫu (mực) thường luôn xa ĺa (ngã tướng). Tướng xưa nay (vốn) không, dung mạo phát sinh. Trong lặng an nhiên, nhiếp thâu như biển.

Không bàn sắc vọng. Không tạo buộc ràng. Sắc tướng hòa hợp, tự tại như vậy. Hội nhập cõi tịnh, xa ĺa hý luận. Chi phần khắp chốn chẳng hề tổn hoại, ngôn luận cũng bặt. Nhân, Phi nhân các nẻo, thân tự xa ĺa. Thiện, ác, vọng nhiễm thảy đều vượt qua. Đúng nẻo bất nhị, ma chướng tự tiêu. Ô nhiễm chẳng sinh, như biển sâu rộng. Tự tướng ung dung, bỉ thử đều vượt. Nhân không giới mốc, hý luận thảy dừng. So sánh thí dụ nào đủ diễn đạt. Ngọn nguồn đã tận, điên đảo cũng không. Là chốn phiền não không nhân thiện diệu. Nghiệp tạo dứt tranh (hý luận) h́nh tướng không hiện. Biến chuyển trọn nên, như biển không bờ. Tự cầu quả báo, không hạnh bí, diệu. H́nh tướng nhiễm buộc là điều đáng sợ. Hạnh thiện chẳng tu, phiền não là thế. Luận thuyết rốt ráo, trí tuệ hội nhập. Lâu dài hợp phần, h́nh tướng đều không, nơi chốn thênh thang. Ăn năn, ĺa vọng, thâm tâm tịch tĩnh, xa ĺa tranh (hý luận) buộc. Thường không dừng dứt, (nên) nhiễm buộc làm gốc.

Thế nào là nhân trói buộc, khó có thể giáo hóa?

Hữu t́nh hòa hợp, không nhân tu thiện. Các pháp thanh tịnh, chủng loại xuất hiện. Nơi chốn chân thật, bỉ ngã chẳng thêm. Như biển chứa vàng, nơi chốn tùy thuận, xuất hiện biến chuyển, loại loại trang nghiêm. Như lửa bừng sáng, dung mạo thêm tỏ. Thiện diệu diễn đạt, thế gian khó sánh, ví như biển rộng. Nghiệp dữ như lửa, khó lường như biển. Thường khỏi trói buộc, lực dụng rộng lớn. Ân dạy như mẹ vô cùng chân thật. Hóa độ thế nào khỏi vướng dòng thác. H́nh tướng tự tại, không tu nhiễm, tranh. Hành tŕ Thập thiện. Bố thí chúng sinh. Tu tập khế hợp, trí tuệ như biển. Dưỡng nuôi muôn loài, yên vui không bỏ. Hý luận dứt bặt, thắng nghĩa viên mãn. Lực dụng tăng trưởng, h́nh tướng không bày. Lực dụng mẫu mực, thiện diệu như thế. Sinh kế bôn ba, tâm luôn thư thái. Ngôn ngữ thanh tịnh nghĩa lợi chúng sinh. Tạo nhân không nhiễm, các hạnh viên mãn. Thường nên buông xả. Tịch tĩnh vô tướng, diệu dụng như biển. Đủ nhân thiện tịnh, phiền não hằng đoạn. Trói buộc tánh không, giảm trừ hý luận. Tăng trưởng, phát huy, mênh mông biển rộng. Bồ-tát tu hành năng ĺa nhân nhiễm. Hành tướng hiện bày, tự tại phát sinh. Tạo tác ung dung, nhân tu phát khởi.

Thế nào là bố thí thù thắng, đạt được phước báo vô tận?

Là nơi chân thật, thảy thảy nơi chốn, tướng mạo, thân tâm, đều được an định. Pháp bí mật của Như Lai chân thật vô sinh. Nhân thù thắng trọn, phát khởi thuận hợp. Yên vui vô tướng, pháp vượt thế gian. Chúng sinh nương tu, đạt vô tranh biện (hý luận) đúng nghĩa giải thoát. Dòng thác xấu ác, ý kiêu đều dứt, như hạnh mẹ hiền. Nghiệp dữ, bệnh nạn do tự trói buộc. Dứt bỏ vọng tưởng, tu hạnh Như như. Diệu dụng thanh tịnh khó lường như biển. Tạo lập pháp đàn bày lý vô tướng. Hành nghiệp vô ngã, mong đạt sở nguyện. Diệu dụng tịch tĩnh thù thắng như vậy. Căn bản vô tướng vô ngã, tịch tĩnh. Trí tuệ như lửa, phiền não như củi. Chúng sinh lĩnh hội tu ba loại hạnh. Lực dụng tịch tĩnh, thu giữ phước quả. Nhân thật phiền não không do ý tạo. Tùy thuận b́nh đẳng hướng xuất thế gian. Thắng nghĩa tịch tĩnh, tạo nhân chuyển biến. Dốc sức thọ tŕ, dứt mọi tạo nghiệp. Như vậy sân, phẫn là căn, tùy phiền não, diễn biến khó dứt. Nghiệp dữ hướng cầu, càng khó dừng dứt. Hủy hoại pháp tịnh, ruồng bỏ mẹ hiền. Là chốn khiến ta tạo nghiệp đen tối. Chúng sinh nặng nghiệp, giáo pháp khó truyền. Giữ hạnh thuận hợp, tạo được an lạc. Lưu chuyển không hoại, mong khỏi đói khát. Thấu đạt thắng nghĩa, khó nào cũng vượt. Tu chân giải thoát, thông tỏ ngôn hành. Thanh tịnh bất thoái, nên hạnh chân thật. Hư dối, chân thật, tự tánh chuyển đổi. Nghĩa lý khó đạt, dốc tu tịch tĩnh, ngộ lẽ “bất khả đắc”. Trí học tâm tu, siêng năng cầu quả. Thanh tịnh hiện bày, tĩnh trụ tự tại. Tu tập như vậy mong dứt vọng, nhiễm. Ngôn ngữ khế hợp, phiền não lánh xa. Cứu cánh thiện tịnh, thuận hợp chân thật, tâm Bi gồm đủ. Chân như vi diệu, thường trụ viên mãn. Tùy thuận đức hạnh... chúng sinh nhờ đấy đạt được tĩnh trụ tương ưng bất thoái, nơi chốn thanh tịnh.

Nhiễm, tranh dứt tuyệt, khiến tâm tự tại. Nhân ấy không mất (chỉ v́) ngu si (nên đã) dứt bỏ. Lực dụng viên mãn, mọi vọng tưởng tiêu. Thấu đạt ngôn thuyết, h́nh tướng hòa hợp.

Hết Quyển 5

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 6

Cõi rộng như biển, không trí khó dò. An trụ thích hợp, không theo dòng thác. Là nơi chúng sinh không người thương dẫn, hủy hoại bố thí, ngôn luận quấy càn. Tịch tĩnh (nhận ra tính chất) không thật, phát triển tu nhân. Đủ sức đảm đang, chuyển biến vô tận. Không nhân không thật (là gốc của) si mê, nghiệp dữ. Đạt (quả) báo thắng diệu, h́nh tướng đủ loại. Xứ không yên tĩnh, làm sao giáo hóa? Là chốn thanh tịnh tột bậc, khó sánh. Bồ-tát diệu dụng tối thắng, tạo tác chi phần vô tận. Thanh tịnh cúng dường, tùy thuận đàn pháp. Tŕ chú bí mật, theo đúng phép tắc. Chúng sinh dứt khổ, ba nghiệp thanh tịnh. Tu hạnh vô tướng, không chấp văn tự. Rõ pháp vô ngã, thanh tịnh an nhiên. Trí tuệ tăng trưởng, soi sáng tư duy, tâm ý thông tỏ, dứt mọi hý luận. Lực dụng không đạt, phước tu chẳng gắng. Đói khát trói buộc, đảo điên tự tánh. Là chốn chấp ngã, phải cố xa ĺa. Phước đức thù thắng, từ nhân sinh khởi. Thể tính nhân duyên, tai họa chẳng sinh. Bỉ thử không giảm, chấp ngã càng tăng. Phiền não đã sạch, luân hồi tự ĺa. Gốc rễ đã chặt, cành ngọn ngã theo. Dòng thác tạo nghiệp hết nơi sinh trụ. Là chốn phát khởi ngôn thuyết rộng khắp. Đạt được sắc tướng tịnh diệu thù thắng. Nghiệp dữ biến chuyển khó thể dự lường. Quan sát chân thực, ĺa mọi hư ảo, là chốn tỏ ngộ sinh nhân hỷthọ. Tạo dựng pháp đàn trong lành đáng quý. H́nh tướng chân thật (khiến cho bậc) vương giả sinh thiện. Hóa độ chuyển biến tổn hại không dừng. Tùy thuận thích hợp, an lạc dứt mạn. Sắc tướng tươi sáng như thế ít có. Giáo pháp quý giá giữ ǵn không mất. Tinh tú quần tụ chiếu sáng muôn nơi. Nghiệp đạo chuyển biến, nghiệp dữ giảm bớt. Dốc tu thanh tịnh theo lời Phật dạy. Hành tướng dòng thác, không nhân dung bồi. Nghĩa lý hiểu biết, phiền não như biển. Si độn hý luận, nhiễu loạn khó dừng. Hóa độ như vậy, lâu dài vô tận. Vật dụng tạo ra, bố thí nghèo đói. Nơi ở tịch tĩnh, kẻ xấu không gần, là chốn thanh tịnh, thiện diệu rốt ráo. Trí tuệ thông tỏ, dứt mọi buộc ràng. Tùy duyên thuận hợp tu hạnh Thập thiện. Châu báu nhân ái xứ xứ hiện bày. Lực nhân vô tận, các pháp hòa hợp. Tâm tùy tự tánh, phát sinh gắn bó, là chốn nguồn sáng căn bản phát sinh. H́nh sắc viên mãn, xa gần hiện đủ. Y báo, Chánh báo, tướng mạo phát sinh sắc tướng viên mãn. Cõi trời trang nghiêm, nương giáo pháp tu. Ĺa bỏ pháp tà, tin lẽ nhân quả. Nương tựa bạn lành, tu tập trọn vẹn, dứt nghiệp luân lưu, ý nghĩa là vậy.

Bồ-tát bố thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh quảng diễn nghĩa thứ mười bốn.

Giữ giới tu hành tinh tấn không giảm. Ngày đêm chuyên tŕ, thanh tịnh bất thoái. Chỗ gọi tùy thuận là thấu đạt lời Bồ-tát chỉ dạy.

Thế nào là hành tướng hợp phần?

Giáo pháp Đại thừa, mẫu mực tu hành. An trụ tịch tĩnh, ĺa mọi sợ hãi. Chướng ngại chẳng nề, tâm không thoái chuyển. Cả mọi thanh sắc đều không tham đắm. Tự lực thích ứng, hạnh không thay đổi. Nhận ra vọng tưởng, tu tập nghĩa lợi. Xứ sở tùy thuận, cõi nhân an lạc, hòa hợp đích thực. Nơi chốn thanh tịnh, tạo tác nghiệp hành. Cõi ấy như vậy (là) thấu đạt cùng tận. Các pháp si độn: căn, tùy phiền não, trói buộc chúng sinh như loài độc dược. Nên phải tu hành đạt đến giải thoát.

Bậc đại hữu t́nh tu tập các tướng.

Thế nào là tùy thuận hướng tới thắng nghĩa, có thể dứt trừ mọi cấu nhiễm?

Không hành bố thí, theo pháp si độn, đích thị là nhân của kiếp luân hồi. Ĺa mọi sợ hãi, dứt tướng kiêu mạn, rõ nghĩa thanh tịnh, tối thượng tột cùng. Ngôn ngữ phát sinh, quyết rời sáu nẻo, là nơi chúng sinh tu hạnh bố thí. H́nh tướng phước đức tùy tâm phát sinh, như con nương mẹ, được tướng quý giá, là chốn tịch tĩnh, quả báo thù diệu, thanh tịnh đáng yêu, do nhân từ trước. Tạo tác mong đạt h́nh tướng như vậy. Chi phần b́nh đẳng, phát khởi hòa hợp. Tu hạnh bố thí, thực hành làm gốc. Hăm hở tùy thuận, tu tạo tướng nhân. Phát khởi bố thí, thanh tịnh tột bậc. Tăng trưởng tột cùng, sức đủ thi thố. Xa ĺa tánh nhiễm, vọng tưởng, trói buộc. Tạo tác hòa hợp, nghĩa lợi tịnh diệu. Dũng mãnh dứt mọi hành tướng dòng khác. Là cõi Bồ-tát hiện bày diệu dụng. Hành hóa như vậy thù thắng viên mãn. H́nh tướng trang nghiêm, chúng sinh kính yêu. Hành động tự tại thiên trụ thuận hợp. Từ bi dẫn dắt tất cả chúng loại. Tạo tác tịch tĩnh, nghĩa lợi thù thắng. Lại phải xua mọi si độn, đảo điên. Phiền não vây bủa, đâu phải một nơi. Câu kết, biến chuyển, hủy hoại pháp thiện. Giáo hóa (hạng chúng sinh) si mê, ám muội như thế. Lại nên xa ĺa mọi thứ phiền não cùng bao tác hại của chúng. An trụ khế hợp, công năng tu học. Chướng ngại không sinh, pháp nhiễm tự dừng.

Thế nào là ân mẹ hiền nuôi dưỡng?

Xa ĺa kinh sợ, đạt cõi trong lành. Nên thu Thập thiện, thương yêu cứu vớt. B́nh đẳng không lệch. Khắp cõi, khắp thời thực hành ái ngữ. Tư duy đúng nẻo, không theo vọng nhiễm. Vương giả như trời, mưa nhuần đúng tiết. Là chốn thuận hợp, hữu cầu tất ứng. Bày biện cúng dường, phước được lớn lao. Chánh pháp thanh tịnh, trời rồng phụng kính. Đủ sức tùy thuận, hòa hợp như mật. H́nh tướng chi phần, tịch tĩnh như cõi không, tâm ý thông tỏ. Ngôn ngữ căn bản diễn đạt như thế. Vọng tưởng giũ sạch, hương khí xa bay. Hý luận lặng dừng, dứt trừ tướng nhiễm. Tu tướng thắng nghĩa tận cùng là vậy. Như mây che khắp, lực dụng căn bản, tự tánh hiện bày mọi vẻ phước báo. Chủng loại tăng thêm, xa ĺa đói khát. Ngôn ngữ giải thoát, tịch nhiên xa ĺa. Hương khí tỏa lan, muôn ngàn h́nh trạng, trùm khắp hư không, tận cùng các nẻo. Thọ dụng quả báo, chân thật sung mãn. Lớp lớp si mê trừ diệt chẳng sinh. Tạo nhân vi diệu, rõ nghĩa giáo hóa. Dòng thác điên đảo, si độn trói buộc. Vô minh vọng động chuyển biến thành nhiễm, là chốn Bồ-tát tăng trưởng nhân thắng quá khứ. Tướng mạo tự tại, lực dụng tịnh diệu. Các pháp b́nh đẳng, thành tựu viên mãn, đạt chốn thanh tịnh, không còn sợ hãi. Dạy bảo đúng cách, vọng nhiễm đều sạch. Bao lớp trói buộc, nghiệp dữ thảy dừng. Thắng nghĩa thậm thâm, tối thượng phát sinh. Như Lai chứng đắc tự tại, bất thoái, các báu trang nghiêm, rực rỡ sáng ngời, thù thắng tột bậc, thấu đạt các pháp.

Oán báo Thiên đế phi đẹp, hậu quý, ngôn thuyết giảm thiểu.

Thời ấy gồm đủ. Tùy thuận rộng khắp, nguồn ngọn si mê, lại không tịch tĩnh. Xa ĺa chướng nhiễm, buông lung quá mức. H́nh tướng như cõi không, hòa hợp thế gian. Nơi chốn tạo tác, phát khởi vọng, nhiễm. Tâm kia mờ tối chẳng tạo nhân lành, đức hạnh hữu t́nh thanh tịnh, thuận hợp. Trói buộc như vậy, tâm ý tán loạn. Ba tánh của tâm xen tạp mà có. Tu thiện, ĺa vọng, chướng nhiễm không còn. Đạt được như vậy, giới đức tu hành nhân ngã cùng tăng. Xa ĺa tranh, nhiễm, ngã pháp chân thật. Tán dương giữ giới, giới luật viên mãn.

Bồ-tát bố thí, thêm vẻ trang nghiêm, Tôn giả hộ quốc bản sinh quảng diễn nghĩa thứ mười lăm.

Thuyết pháp chân thật, viên mãn, lực dụng hòa hợp vô lượng vô biên. Phiền não như lửa, h́nh tướng hợp nhất. Chỗ gọi là thấu đạt lời dạy bảo của Bồ-tát, chân thật như bạn lành, các pháp không tranh, hòa hợp như vậy.

Đêm tối vọng tưởng, nhiễm tranh tăng thêm.

Xa ĺa (mọi) phiền não, chướng ngại nhiễm buộc, h́nh tướng mờ mịt, chi phần lộn xộn, tạo lại b́nh đẳng.

Như tâm của cha yêu nuôi con trẻ. Thâu chứa công đức, ba thời không vướng. Lực bố thí ấy, tu tập tối thượng. Pháp ĺa hý luận, chúng sinh ghi nhớ. Như ân dưỡng dục của bậc cha lành. Chư Thiên cõi Dục còn tham, sân, si. Tất cả phiền não theo đấy phát sinh. Ngăn chận cản trở các pháp thắng định.

Thắng nghĩa chân thật, bao la như vậy. B́nh đẳng tăng trưởng, dứt mọi nhiễm, vọng. Đây cầu, kia buộc, tạo nhân xa ĺa. Pháp vốn như như, dứt mọi biến chuyển. An lạc tịch tĩnh, pháp vốn thường trụ, tâm không ưu khổ, an lạc tự tại. Thế Tôn thượng diệu, khẩu pháp như hoa sen thơm. Giải thoát đúng nẻo, phiền não đoạn sạch. Ba nghiệp thanh tịnh, vi diệu thậm thâm. Nhân ám độn, chướng, si mê thảy dứt. H́nh tướng thiện diệu, thanh tịnh hiện bày. Thọ mạng an định gồm đủ phước đức. Ĺa mọi tà pháp trói buộc chúng sinh. Lực dụng tịch tĩnh thể hiện b́nh đẳng. Thể tánh thường tại, dốc lòng tu tập. H́nh tướng chi phần không gây phiền não. Cõi ý thanh tịnh, b́nh đẳng, an lạc. H́nh tướng hợp nhất, tâm được sung mãn.

Thế nào là si độn, không tâm bố thí? 

Chúng loại thấp kém dễ sa hý luận. Quả báo thích ứng, an trụ yên định. Phiền não như lửa thiêu đốt căn lành, nhân ác khó dừng. Giáo hóa tạo nhân, chi phần chẳng bận. B́nh đẳng trọn đủ, hòa hợp bất thoái. Lực dụng bố thí, tiếng tăm chẳng màng. Lại tạo phiền não làm nhân ngã mạn. Buông theo nhiễm, chướng, si độn phát sinh. Là chốn đủ lực, việc khó không sửa. Thắng nghĩa viên mãn, nhiễm vọng đâu còn. Bố thí tạo nhân, tướng nghĩa trọn đủ. Theo hạnh Bồ-tát, giáo hóa, tu tập. Như vậy là hàng đại hữu t́nh dứt sạch chấp ngã. Thắng nghĩa phát sinh theo đúng Thánh pháp, thù thắng thêm tăng. Tánh vốn không nhiễm vọng tưởng phiền não. Thấu rõ chẳng tạo tánh của dòng thác. Toàn cõi phiền não tinh thô trùm khắp, thường không gián đọan. Chỉ rõ tự tánh viên mãn đúng thực. Hàng đại hữu t́nh phát sinh hạnh thiện. Ngọn nguồn nghiệp dữ lưu chuyển không cùng. Dứt nhân điên đảo, tịch tĩnh hiện bày. Quảng diễn nghĩa lý, không nhân trói buộc. Trí tuệ như lửa thiêu củi phiền não. Truyền dạy lời Phật, tịch tĩnh bất thoái. Thân thể chi phần, sắc tướng thượng diệu.

Phát tâm bất thoái, vô tướng, không buộc, tu nhân thù thắng, tĩnh trụ như biển. Căn bản phát sinh, mong đạt chân thật. Luôn nhớ bố thí tùy thuận tướng nhân. Tự tánh viên mãn, chân thật hoàn hảo. Nhân tịnh diệu trọn, rực sáng như lửa. Lực dụng đích thực, tu hành dứt nhiễm.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, hạnh của Tôn giả hộ quốc bản sinh thứ mười sáu.

Không tu chướng nhiễm, phát khởi hành giải, nhận rõ si độn, dứt trừ điên đảo, ĺa bỏ tạp thuyết. Đó là tùy thuận các bậc Sư trưởng, phát sinh lãnh hội.

Các hạnh Bồ-tát h́nh tướng thế nào?

Theo đó phát sinh bi nguyện rộng lớn, an trụ hiện bày, thông suốt trọn vẹn. Dứt mọi vọng tưởng, trừ hết Thiên ma. Không nhân vọng loạn, hành nghiệp tạo tác. Vỗ về các loài, diệt trừ nhân độc. Gọi là dứt nhiễm. Bi lực tự tại thế gian khó sánh. Vi diệu, hòa hợp, hướng xuất thế gian. Căn lành vô tận, vọng nhiễm không sinh, thâm diệu khó đạt. Chúng sinh tạo nhân, hành giải gồm đủ. Tu hạnh thắng nghĩa, tự tại hiện bày, là cõi thấu đạt. Hữu t́nh thế gian, tâm không trừ diệt các tướng tham dục. Phật đại từ bi, tâm nguyện cứu vớt, hiện tướng bạn lành, chỉ nẻo an vui. Nương lời chỉ dạy, phiền não không sinh. Ba độc không dấy, thấu rõ lợi ích. Chi phần tăng trưởng, đói khát đổi thay. Hý luận, mười ác, tất cả đều dứt. Chướng ngại, tai nạn cũng đều không sinh. Lại nhận rõ nhiễm, độn, thế gian không thật, mười pháp bất thiện không rời đói khát. Nhân vọng phát khởi, nghĩa lợi chẳng đạt. Mẹ hiền thấy con ưu sầu chẳng bỏ. Trí tuệ thấy rõ cõi tánh chân thật, phiền não tự dứt. Bậc vương giả ấy trị ở cõi đời. Năng lực rộng lớn, đói khổ chẳng còn. Sùng tu chánh pháp, viên mãn, bất thoái. Biết rõ phạm hạnh, ngã mạn không sinh. Si độn chẳng còn. Lực dụng tăng trưởng, nơi chốn đầy đủ, tự tại viên mãn. Bạn bè thích hợp, trí lực tròn đầy, Thanh tịnh đều khắp, diệu dụng tuyệt vời. Tâm ý không nhiễm, thấy rõ tướng xấu. Tu hành đoạn nhiễm, trí tuệ phát sinh. Tin theo nhân quả, nương lời Phật dạy. Tất cả chúng sinh đùm bọc dưỡng nuôi, chỉ dạy nhân quả. Lại tạo vật dụng, ví như lọng phủ. H́nh tướng nuôi dưỡng là nghĩa chở che.

Thế nào là h́nh tướng?

Hành động hòa hợp, dứt bỏ hý luận. Như xứ có vua, đất nước thịnh trị. Ngôn ngữ truyền dạy, tạo tác thù thắng. Nghiệp dữ, điên đảo như thế đều dứt, các loại cô quả dưỡng nuôi đầy đủ. Lại tạo nhân từ gốc, diệt nhiễm, không gây xáo trộn đổ vỡ cho đời. Chúng sinh tự đạt, tịch tĩnh không lời. Hiểu biết chân thật, thắng nghĩa cõi hành. H́nh tướng hợp nhất chúng sinh dứt mạn. Khổ thọ thế gian tất có nguyên nhân, không phải xuất phát từ điều huyền bí. Không như lệnh vua ban ra sai khiến. Có đủ nhân phước, đức hạnh tròn đầy. Cấu nhiễm, hý luận phải được dứt trừ, thế gian thành chốn vun trồng phước nghiệp. Luận đàm, tranh biện, phàm phu khó dứt. Thuận theo thắng nghĩa, thanh tịnh dứt nhiễm. Tri thức sung mãn, phước đức bao trùm.

Thế nào là thuận hợp bất thoái?

Hữu t́nh tịch tĩnh, ngôn thuyết đều dừng. Bậc đại vương giả lãnh hội chánh pháp. Phát triển đầy đủ, ĺa mọi tà thuyết.

Thế nào là đúng nghĩa giải thoát chân chính?

(Bậc) hữu học hướng cầu, phiền não vô tận. Gốc sinh theo loại, hành động tạo nên điên đảo dẫy đầy. Hợp với ngã mạn (làm) gốc rễ tự tánh. Chúng sinh phiền não tràn trề khởi hợp. Ghi, nhớ, nghĩ, giữ, xưa nay không sót. Diệt rồi lại sinh, biến chuyển không cùng. Nhân từ xa xưa, gặp duyên mà khởi. Vuông, tròn các thứ trí tuệ tỏ ngộ. Trong lặng, yên lành tâm kia tự tạo. Đại thừa tối thượng, trí không thể đạt. Hành tướng trói buộc, Như Lai hằng dứt. Thể tánh bao la, biến chuyển chẳng cùng. Nhân diệu thanh tịnh, tịch nhiên không đổi. Tâm được giải thoát vốn chẳng bóng h́nh. Trí vượt hữu, vô, ngôn từ nào kịp. Pháp tánh thanh tịnh, vi diệu khó đạt. An định ĺa sợ, vượt mọi giới mốc. Nơi chốn yên ổn, nghiệp dữ chẳng sinh tạo nghiệp điên đảo. H́nh tướng tối thượng, lực dụng căn bản, Thân tâm hiện bày, uy dung đáng kính. Tự tánh vi diệu hợp nhất, dung thông. Hý luận càng dấy, giáo pháp chẳng sinh, xứ sở thiếu kém, phiền não trói buộc. Nhớ nghĩ không dứt, si độn tận cùng. Trí tuệ diệu bày, chủng loại sung mãn, h́nh tướng thuận hợp, hóa độ nên công, mẫu mực nghiêm túc, tộc loại quý kính; tu hạnh vô thường trụ Như Lai tánh, tối tôn tối thượng, gốc rễ thân tâm, dung mạo tịnh diệu, bóng h́nh tịch tĩnh.

Lực nhân tự tánh viên mãn như vậy, đủ sức tu tập đạt trí tuệ thực. Nhân duyên hòa hợp, ĺa buộc là chính. Tâm sinh căn bản các pháp mẫu mực, lực dụng bố thí v́ đạo, xa ĺa tất cả. Tất cả các loài, mong đường hòa hợp. Thảy đều tu hành, phiền não từ khước, ĺa bỏ nẻo trời. Xa ĺa ngã mạn, nhân thắng đạt được. Gốc rễ ba tranh cùng buộc ngã sinh. Đúng nghĩa giải thoát, xa ĺa tất cả. Nhiễm buộc, tịch tĩnh, tạo tác chân thật. Điều phục tu tập, tạo nghiệp thanh tịnh. Hành, giải gồm đủ, mạn không thể dấy. Trí tuệ thông tỏ, nhân thắng nên tu. Tịch tĩnh ưu việt, sáng rỡ không giảm. Trí tuệ hiện bày, hòa hợp an định. Tiến tới, trọn nên, linh động không bỏ. Tu tuệ viên mãn, ý càng thấu đáo. Tham ái mênh mông, chỉ trí nên ĺa. Diệu lý thâm diệu, vốn chẳng sinh ra, cũng không thể hoại.

Đúng nghĩa an lạc là dứt (nẻo) trôi lăn. Cõi tánh như vậy luôn được an trụ. H́nh tướng căn bản, hiện bày khó đạt. Đức hạnh thắng nghĩa tịch nhiên như như. Tự thể Như Lai hằng đoạn phiền não. Si độn, khổ não, địa ngục khá chịu. Quả báo ngạ qu, lo sợ khó thoát. Vô ngã thuận hợp, lực dụng hiện bày. Thanh văn động chuyển, Đại thừa an trụ. Giải thoát chẳng sinh, Giới luật đâu bận. Hăm hở bố thí, mong cầu không đạt. Cha lành thế gian điều phục chẳng cùng. Tánh giới, tŕ, phạm dứt bỏ nhân nhiễm. Trí thông vô tướng, phiền não chẳng sinh. Đức hạnh như như, tịch tĩnh hiển hiện. Bốn quả Thanh văn, thắng nghĩa chân thật, là xứ có vua tu hạnh đàn-na. Như dòng thác lớn, phải dốc sức tu. Tuy có bố thí không mong phước báo. Hạnh thí vô tướng, ngọn nguồn thuận hợp. Ăn uống đầy đủ, hành đàn rộng khắp. Kiêu, phóng chẳng dấy, muôn dân trong nước hớn hở vui mừng. Lệnh dạy mẫu mực thấm nhuần mọi nẻo. Hạnh bố thí ấy, tịnh diệu kính tu. Tế độ quần sinh chính là đại thí. Làng xóm, thị tứ trong nước ước tính năm ngàn. Lệnh ban khắp nơi theo bậc Đạo sư, là bậc Mẫu mực thảy nên tu tập. Nước ấy giàu có, đạo đức tốt đẹp, đời thật ít có. Lời thiện ban bố. Là nước có vua. Việc nước theo gốc, giỏi trị khắp cõi; còn, mất, bỏ, theo thảy đều cân nhắc. Việc nay, phép xưa luận bàn thích đáng. Chú trọng sự thật, tạo tác an nhiên, h́nh tướng đều đạt. Chi phần thuận hợp, theo pháp lệnh truyền. Lời bậc vương giả ban bố cặn kẽ. Bậc vương giả ấy có đủ trí tuệ, lực dụng thù thắng, đâu cần bạo lực. Tu tập thù thắng, trời giúp bậc ấy. Hành, giải gồm đủ, kiêu mạn chẳng sinh, thuận hợp trọn đủ.

Thế Tôn như vậy ở thời xa xưa. Không đến không lại, sắc tướng viên mãn.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, trang nghiêm xứ ấy, Tôn giả hộ quốc bản sinh nghĩa quảng diễn thứ mười bảy.

Giới luật tịch tĩnh, dứt mọi vọng tưởng. Giới pháp trong lành năng trừ nhiễm buộc. Đó là tùy thuận thấu đạt.

Các bậc Bồ-tát thảy đều an nhiên, dung mạo hòa hợp, an định, thường trụ. Nơi chốn tịnh diệu, các chúng b́nh đẳng, tịch tĩnh chân thật. Hành trạng phạm hạnh, học xứ thanh tịnh. Bạn lành các vị trí tuệ tăng trưởng. Tự tánh xưa nay, tu tập tự tại. Thanh tịnh chân thật, h́nh tướng vẹn toàn. Tùy thuận thế gian, (khai thị) trí tuệ chúng sinh. Dung mạo trang nghiêm, tột vời khó sánh. Cõi người thấu suốt, sáng tỏ đáng yêu. Bờ giác trong lành, nhiễm buộc thảy diệt. Trí tuệ thiền định diệu dụng vô biên. Dòng thác phiền não Như Lai đã trừ. Thế gian si độn, như vậy khó thoát. Do không có trí, chỉ mong lực dụng. Nhận rõ pháp vọng, tri kiến chân thật. Đức hạnh tối thượng, ngã mạn không buộc. Phiền não pháp sinh, có trí tuệ trừ. Xuất gia tu học, bậc đại hữu t́nh. Đắm yêu xứ sở chỉ nhận lấy khổ. Ĺa bỏ chánh pháp, đam mê dục lạc. Tu hạnh bố thí, cõi ý an lạc. Tu hạnh bố thí, b́nh đẳng tăng trưởng. Hơn cả bố thí cho trăm ngàn Sa-môn cùng Bà-la-môn, đó là công đức bố thí. Như Ala-hán trí tuệ viên mãn, công đức không khác. Làng xóm xa xưa, tùy thuận thích hợp. Chốn ngự (của bậc) vương giả biến chuyển, an trụ. An lành, thượng diệu, tùy duyên bất biến. Thiền định cõi Sắc, cội nguồn nhận rõ. Hội nhập thanh tịnh, tướng nhân tịch tĩnh. Thể của thân tâm, năm uẩn biến chuyển. H́nh tướng tịnh diệu, lực dụng tự tại. Như A-la-hán ứng hiện tối thắng. Công đức xuất gia, theo pháp thực hành. Trí diệu thanh tịnh, các mạn chẳng sinh. Tướng nhiễm đã dứt, thọ tŕ kinh điển. Tướng mạo biến hóa, thân tâm đổi thay. Trí tuệ phát sinh, ĺa xa trói buộc. Tịnh diệu hiện bày, đạo đức hơn hết. Thấu đạt thiện tịnh, xa ĺa ồn tạp, trong lặng như trăng. Là chốn phát sinh ý lành bất thoái. Như nhớ cha lành ân đức vô bờ. Thiện, tĩnh trọn đủ như (mùa) xuân sinh dưỡng. Cha lành yêu con thường không rời bỏ. Nơi chốn hành động ngôn ngữ thuận hợp. Khéo léo điều phục (các) h́nh tướng đảo điên, tịch tĩnh mênh mông, giới mốc vô tận. Tán thán công đức như núi cao vời. Năng lực thanh tịnh, khó dùng tên gọi. Sinh linh cõi nước, trí tuệ an lành. Xứ sở diệu kỳ, si độn vắng bặt. Công năng diệu dụng, Thánh hiền bày rõ. Dốc tu thượng diệu, an trụ, yên định. Bạo lực trói che phải nên xa ĺa. Nữ nhân, gốc ngọn âu sầu đáng sợ.

Chúng sinh do đâu dễ sinh tham ái?

Mẫu mực nghiêm túc không tạo nhân ấy. Mong được dứt sạch, tăng trưởng tự độ. Thắng nghĩa mong đạt, cứu vớt muôn loài. Nghĩa lợi thấu đạt, thanh tịnh chân thật. Như ý mẹ hiền khéo dạy các con.

Đó chính là điều không hề biến đổi. Chúng sinh thế gian (cần được) điều phục như thế. Tạo nghiệp đầy đủ, an lạc tự tại, chân thật tăng trưởng.

Thế nào là đạt được an lạc tận cùng?

Vui mừng hớn hở tạo việc an lành. Là xứ các vị Bồ-tát căn bản mong đạt các hạnh an lạc.

Đạt trí vi diệu, ĺa trói buộc, nhiễm. Trao dạy học thức chân thật vô thượng. Dạy dỗ tri kiến an lạc như vậy, từ đấy đảm đang tế độ hữu t́nh. Ngôn thuyết vô tướng, tâm sinh an lạc, nghiệp dữ không còn, tạo nghiệp bố thí. Gây nhân Thập thiện, điều phục khắp chốn. Thắng tuệ an lành như mẹ hộ niệm. Đó là như tánh an lạc chân thật. Nhân ấy tăng trưởng, quả báo thắng diệu. (Nhưng nếu) dấy “Tăng thượng mạn”, (mọi lẽ) vi diệu ắt dừng. Pháp của “Thánh tánh” căn bản là thế. (Chỉ nương vào) nghĩa của nghe, giữ, pháp khó thể đạt. Tự tánh chúng sinh, phàm Thánh chung dòng. Không bỉ, không thử, ngã mạn cũng dứt. Nhân gốc nào có, (nhưng) bày hiện đủ đầy. Vọng tưởng đùa cợt biến chuyển như vậy. Nhân bố thí kia, gốc của an lạc. Trí diệu thanh tịnh (là) nhân lành xuất thế. Các pháp giáo hóa động tĩnh cùng tiến. An lạc, không mạn, hưởng cầu đúng pháp. Tự tại an nhiên, đúng nẻo đạo Phật. Nhân gốc thành tựu, mong đạt không tranh (hý luận). Các pháp ấy giúp chúng sinh ĺa lỗi. Tôn kính Thánh hiền, hoan hỷ cúng dường. An tĩnh vui thích chân thật viên mãn. Thắng pháp dốc tu, công quả chóng thành. Thắng nghĩa tự tánh, ngọn nguồn tịch tĩnh. Ý tịnh không sinh, chân thật khó trụ. Tự tánh pháp ấy, tịch nhiên an lạc, thể vượt hữu vô, trí diệu b́nh đẳng. Tu tập thuận hợp, an lạc tịnh diệu. Thể tánh thanh tịnh, trang nghiêm như vậy, giúp chúng sinh giải thoát, giác ngộ. Khổ não không còn, trói che cũng hết. Thắng nghĩa căn bản, mong đạt bất thoái. Ba loại nhiễm buộc, tạo tác chẳng sinh. Mẹ hiền sung sướng, làm sao ĺa bỏ? Thấu đạt động tĩnh, không ngừng cầu an. Phiền não, độc nhiễm, si độn che buộc. Lực an lạc thiếu, ngã mạn dấy tăng. Nơi chốn thanh tịnh, pháp tánh thường trụ. Nhân duyên các mạn cầu chẳng thể được. Bạo lực, khổ não, si độn trói buộc. Thiện tịnh hòa hợp, tĩnh lặng, xa ĺa. Trong lặng, mẫu mực giống cõi thái hư. Ngã mạn, si mê dấy tăng, đáng sợ. H́nh tướng đổi dời, tịch nhiên an lạc. Cho dù đói khát trăm mối bức bách, khổ não thường xuyên trói buộc như vậy, (Bồ-tát) hóa độ quyết không dừng nghĩ, Thấu tánh phiền não ắt được an lạc. Ngộ lẽ vô tâm, theo hạnh như như. Bờ giác thanh tịnh, Thánh nhân an trụ. Phân tích nghĩa lý, nên dựa trí lực. An lạc tịch tĩnh, tâm lặng dạy truyền. Tham dục, hý luận, gốc của phiền não. Trói buộc bỉ, thử, trí tuệ khó sinh. Dũng lực cha lành, nơi chốn khuyên dạy. Dòng thác gặp duyên, ý kiêu liền khởi. Kẻ học giữ luật, bậc đại hữu t́nh. Tâm thiện hòa hợp, giới hạnh thanh tịnh. Dứt sạch phiền não, chỉ bậc A-la-hán. Trừ bỏ h́nh tướng che buộc chẳng sinh. Tự tánh ĺa bỏ h́nh tướng như vậy. Công năng mẫu mực căn bản không khác.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh nghĩa thứ mười tám.

Một loại vui thích, trí nhận nhiều vẻ. Cội nguồn oan đối, chuyển biến xa ĺa. Đó là tùy thuận theo hạnh Bồ-tát, căn bản tịch tĩnh điều phục thích hợp. 

Đức hạnh trùm khắp, lực dụng an trụ. Dứt trừ phiền não, trí tuệ tăng trưởng. Mọi nghiệp dữ ấy, đích thực do từ si độn, vọng tưởng. Hý luận (về) sắc tướng, ganh ghét, đức giảm. Buông theo bạo lực, hạnh khó điều phục. Lãnh hội đầy đủ, tăng thêm bố thí. Nẻo thiện quyết giữ, theo hạnh tịch tĩnh. Phiền não chẳng sinh, lực dụng tự tại. Thắng nghĩa tăng trưởng, thân tâm sung mãn. Bậc thầy dạy bảo, mong đạt mẫu mực. Rõ lẽ Chỉ, Tŕ mới thông Tác, Phạm. Thiện diệu, thậm thâm, tạo nhân thanh tịnh. Nghiệp lành thường tạo, ba nghiệp vun bồi. Tạo nhân căn bản, dốc tu đã trọn. Xa ĺa nẻo qu, lo lắng sầu khổ. Hành, giải gồm đủ, giảng giải truyền dạy. Ý nhiễm si độn, dòng thác phiền não, chúng sinh thường được tăng trưởng tịnh diệu, hiện bày như vậy. Thảy nên ĺa buộc, gốc rễ, h́nh bóng. Hòa hợp, xa ĺa, vọng tưởng càng tăng. Nhân nhiễm cùng tận, sắc trần cũng vậy. Mong cho tất cả đều được thanh tịnh. Pháp Bà-la-môn tánh không vi diệu. Như ý mẹ hiền dưỡng nuôi đùm bọc. Mong được tự tại, đạt đến viên mãn. Hóa sinh tăng trưởng, h́nh tướng vui thích. Thượng diệu trùm khắp, thần thái kỳ vĩ. Nhận thức tự tại, trí lực đầy đủ. Ĺa cõi hý luận, lên bờ giác ngộ. Bên trong linh động, an trụ b́nh đẳng. Luật nghi tịch tĩnh, thiền định diệu bày. Lại đạt công đức vô thượng, hy hữu. An trụ vô tướng, trong lặng, thanh tịnh. Thật tướng nghĩa lợi đạt được như vậy. An lạc, tự tại tột bậc thế gian. Tính chất phá hoại, hoàn toàn vắng bóng. Là chốn xa ĺa vọng tưởng che buộc. Ý tịnh hòa hợp, cứu cánh b́nh đẳng. Dứt bỏ đói khát, được nhân thấu đạt. Quả vị La-hán dứt nhiễm ba cõi. Ưu sầu cùng loại, tất thảy đều không. Khổ não hòa hợp an trụ như thế. Thể thắng nghĩa ấy, an tĩnh tự tại. Ưu sầu khổ não, biết rõ (là) không còn. Nhân thật tự tánh, gốc rễ hợp phần. Nhiễm, mạn đều dứt, thể giác tự hiện, là chốn thấu đạt tịch tĩnh căn bản, cảnh giới an lạc, tùy thuận vô tận. Lúc ấy nhiễm vọng không nơi bám víu, thanh tịnh thuần nhất. Đó là thời điểm đạt được (lẽ) vi diệu sâu xa, dứt sạch phiền não. Bồ-tát khuyên dạy cảnh giới an lành, đủ lực tùy thuận (giáo hóa chúng sinh). Sinh ở niệm đầu, đạo nghĩa diệu thiện. Là chốn kiêu dật, gốc rễ dấy tăng. Tịnh diệu hữu vô, đúng nghĩa giải thoát. Nhân gốc thấu rõ, tu hạnh hữu học. Tâm được an trụ, lực đủ đảm đang. Bố thí mong đạt được như bậc Thánh hiền. Bảy hàng Thánh ấy tu học gồm đủ. Bạn lành thấu đạt, trí tuệ thông suốt. Nhân tham không khởi, trụ hàng Thánh hiền. Thánh chúng chân thật, tu hạnh Như như. Trụ ở Thập địa, đoạn nhiễm phân biệt. Đạt đúng giải thoát, theo pháp Đại thừa. Lực dụng sung mãn, kiên định an trụ. Giáo hóa thanh tịnh khiến tâm hoan h. Năng lực bố thí, thân tâm chẳng xao. H́nh tướng nhiễm ác không nhân tạo tác. Nương cõi tĩnh trụ, phiền não chẳng dứt. (Cùng với) Ngã mạn càng dấy, vọng tưởng trừ diệt. Thắng nghĩa căn bản, vô tướng hiện bày. Thiền định thanh tịnh, trong lặng an lạc. Bồ-đề Tátđỏa dứt các pháp nhiễm. Mong đạt nghĩa lợi, đủ sức điều phục. Chư Thiên cõi Sắc tự tại vô dục. Hành theo Thập thiện, xa ĺa sân hận. Trí tuệ, sắc tướng mong được viên mãn. Vọng tưởng, buông lung, đầu mối (của) nghiệp dữ. Thắng nghĩa Đại thừa tịch tĩnh tột bậc. Diệu trí căn bản: tỏ tánh chân như. Theo hạnh Bồ-tát, khắp chốn thanh tịnh. Tự tại viên mãn, tu hạnh Bồ-tát. Giáo pháp truyền dạy, chân thật bao la. Biến hóa, tịch tĩnh, sắc tướng trọn đủ. Phước đức hòa hợp, âm thanh vi diệu. Trí tuệ sáng tỏ, vô minh sạch làu. Nhân chánh giải thoát thảy đều chân thật. Tạo nghiệp nhất như, mẫu mực nghiêm túc. Nơi chốn tự tại, phước đức vẹn toàn. Tánh ham tu thí, thuận hợp, trọn thành. Ái ngữ, thiền định, trí tuệ thêm rõ. Thể tánh an trụ, bất hoại như vậy. Giới mốc tột cùng (là) diệt pháp tranh nhiễm. Như vậy ám độn (là do) bản tánh si mê. (Nhờ) Giáo pháp trong lành chế ngự, soi dẫn. Tánh vốn không thật, dụng ở ngăn che. Thiền định thuận hợp, lực dụng biến chuyển. Thiên đế phước tận, thật đáng âu lo. Thảy đều tăng trưởng dứt trừ đầy đủ. Thiền định tự tại, dứt mọi đói khát. Xứ sở thanh tịnh, ngã mạn chẳng sinh. Diệt hết phiền não, đức hạnh chân thật. Tự tánh căn bản lực dụng gồm đủ. Pháp hành tùy thuận, tịch tĩnh xa ĺa. Các cõi Vô sắc, tịnh diệu sung mãn. Thượng diệu phát khởi. Là chốn tịch tĩnh nghiêm đẹp bày rõ. H́nh tướng phiền não, điên đảo đều diệt. Tịnh diệu căn bản, nhân lành gồm đủ, h́nh thái sắc tướng biểu hiện như hoa. Vật dụng trong sạch, h́nh sắc chân thực. Giảng dạy về nhân, rõ nghĩa điều phục. Âm thanh gồm đủ, hòa hợp tận cùng. Si độn, vọng tưởng, thảy do hý luận. Bồ-tát giáo hóa, phiền não dứt trừ. Xứ của vọng tưởng; oan gia, Thiên đế, Phi đẹp các loại… Trói buộc căn bản không dấy như vậy, khổ não phơi bày, mong cầu dứt bỏ. Vui thích tự tại, thanh tịnh vi diệu, là cõi tột bậc. Bồ-tát hướng đến. Phước đức như thế ví như hoa sen. Viên mãn, đáng quý, thuận hợp, chủng loại tu hành vượt xa như vậy. Chi phần trói buộc tự tánh, trí tuệ, tư duy, mong đạt chân thật tận cùng như vậy.

Tâm định viên mãn, bản tánh như thị.

Hết Quyển 6

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 7

Tâm ý tự tại, nghĩa lợi viên mãn. Giữ giới thanh tịnh, luật nghi an trụ. Mong cầu bỉ thử, không phiền não chướng. Chi phần cõi ý, tịch tĩnh hiện bày. Tên gọi sắc tướng, tánh là năm uẩn. Tâm ý như vậy, muốn đạt an lành. Thiện lợi, phước đức tịch nhiên trọn đủ. Nghiệp dữ như thế số lượng gồm ba. Bốn đại, năm uẩn vốn luôn biến chuyển. Tự tánh (vốn) tịch tĩnh, thiện diệu, an lạc. Hạnh nguyện Bồ-tát tăng trưởng thuận hợp. Bậc đại hữu t́nh lực dụng tự tại. Thiền định, tâm lặng, ý thức không xao. Hành, giải như thế mới mong độ khắp. Ngọn nguồn tai nạn thảy nên xa ĺa, là chốn viên mãn, dứt tuyệt hý luận. Cầu pháp chân thật, phiền não dứt trừ cùng tâm nhiễm ác. Sắc tướng Bồ-tát trang nghiêm viên mãn. Thân thể thù thắng, nơi chốn thị hiện trăm thứ tinh diệu. H́nh tướng bạo lực, phiền não chẳng sinh. Tự tánh thành tựu, điên đảo đều dứt. Đức hạnh tự tại, pháp nhiễm không còn. Ngọn nguồn ái lạc là pháp Thập thiện. Tịch tĩnh thượng diệu, tu tập thuận hợp. Cõi ý vô ngã chuyên cần bày biện. Nghĩa lợi Bồ-tát theo hạnh như như. Luật nghi thích hợp là xứ bất thoái. Thiền định viên mãn rõ hạnh không nhiễm. Tâm ý khế hợp, oan nghiệp chẳng đeo. Xa ĺa mọi ác (chính là) ngọn nguồn tạo tác ngã mạn, si độn. Tu hạnh bố thí, si mạn tự dừng. Trí tuệ b́nh đẳng tạo tác ngã mạn, si độn. Tu hạnh bố thí, si mạn tự dừng. Trí tuệ b́nh đẳng tạo tác, chuyển biến. Kiên định dốc tu, an trụ như vậy, là xứ Bồ-tát thanh tịnh tùy thuận. Lực dụng hướng cầu, hành mười nghiệp thiện. Giới mốc như thế, tịch tĩnh trọn đầy. Gốc các phiền não do nhân ý nhiễm, bạo lực phát sinh. Chế ngự cõi ý, gốc nhiễm tự diệt. B́nh đẳng thù thắng, thân sơ chẳng phân. Mong dứt nhân vọng hàng Bà-la-môn. Tịch tĩnh trang nghiêm truyền dạy đầy đủ. Giáo hóa muôn loài dứt bỏ ưu khổ. Nghe, giữ gồm đủ, tăng trưởng hành động. Nghiệp dữ tận cùng (là) đói khát bức bách. Giảng dạy thắng nghĩa, hốt nhiên tự diệt. Chi phần dòng thác tạo mọi si độn. Ngã mạn hiện bày, (cũng) âm thầm dứt sạch. Điên đảo (như) gió cuốn, phiền não không bờ. Nhân duyên trói buộc (mọi) tạo tác chân thực. Thể tánh tự tại, ngôn ngữ thuận hợp. Phiền não, mạn dứt, Thiện diệu an trụ, như thêm hương vị.

Ngọn nguồn cõi ý không nhân đảo điên. Lực dụng vương giả như gió xua cỏ. Lời vương như vậy, giúp đỡ thích hợp, ngôn ngữ đúng phép. Sắc tướng tự tại, thu bày đều đạt. Thảy đều kính tu, thể không bạo lực. Trí tuệ thanh tịnh, nhân diệu tăng thêm. Tánh không đảo điên, giảng truyền thuận hợp. Thắng nghĩa vi diệu, b́nh đẳng đích thực. Thể Như như lớn, biến chuyển không nhiễm, đạt nhân bố thí, trí tịnh bất thoái. Hành, giải thượng diệu, tròn hạnh thù thắng. (Cõi) Tứ thiền tịch tĩnh, ngôn ngữ khế hợp. Cõi dụng không bờ, gốc mọi tướng mạo. Lực dụng không hoại, gồm đủ thù diệu. Luận bàn (theo lý) vô ngã, đạt gốc trí tuệ. Ngôn ngữ tịnh diệu, giáo hóa quần sinh. (Cùng với) nơi chốn, xóm làng, nghiệp dữ, pháp nhiễm, đều được an lành, oan báo đều dứt. Đúng nơi h́nh tướng vương giả an tĩnh. Nghĩa lợi thù thắng, lời ban hiệu lực. Chúng dân như thế, lãnh hội rõ ràng. Dưỡng nuôi các loài thấu đạt, thuận hợp. Tu tập tịch tĩnh, (đạt đến) cõi tánh thù thắng. Hữu t́nh thanh tịnh, nghiệp nhân bất thoái. Ngôn ngữ khế hợp tăng trưởng như thế.

Thế nào gọi là trí tuệ b́nh đẳng?

Thể tánh thanh tịnh, rời cõi hý luận. Cõi tánh vọng động (dẫn tới việc) tạo nghiệp đích thực. Các pháp thanh tịnh, lực trừ từ gốc. Các pháp thiện ấy dứt ác, (tạo) nghĩa lợi. Tự tánh vi diệu, thanh tịnh chân thật. Bạo ác hết mực (chính là) trói buộc ngay gốc. Tạo nhân thắng nghĩa, lãnh hội đầy đủ. Mọi ác xấu ấy thảy đều tự dứt. Là cõi Dạ-xoa thanh tịnh, không nhiễm. Nghĩa lợi Thập thiện, đạt chốn an tĩnh, ngọn nguồn tịch tĩnh. Tạo nhân rộng lớn, đạt lực thanh tịnh. (Đó là) dung mạo của chốn tĩnh lặng, ung dung. Chú nguyện chân thực tánh sinh hàng Thiên. Nghĩa lợi thanh tịnh, đói khát chẳng còn. Giảng lẽ tối thượng, lãnh hội giữ ǵn, mọi thứ vọng tưởng, phải nên trừ diệt. Trí tuệ tịnh diệu, tự tại vô biên, dứt thảy tranh nhiễm, náo loạn, si độn, kiêu mạn. Xứ sở tịnh diệu, giảng lý thanh tịnh, (mọi thứ) đói khát, đảo điên (đều được) nuôi dưỡng an lạc. Như ánh trăng trong xua tan nóng bực. Si độn trói buộc, nhiễm dục thảy dừng. Tạo nhân bố thí, tham nhiễm dần hết. Là cõi Bồ-tát tùy thuận b́nh đẳng. Ngọn nguồn lâu đời, nghiệp dữ cũng diệt. Ngôn ngữ tham dục, si độn, ngã mạn, thể không trong lặng. Tánh của dục nhiễm, thể vốn tạp loạn. Đạt nhân tối thượng, dứt trừ điên đảo. Tánh của phiền não tăng dấy như thế. Tu hạnh Như như phải gắng dứt trừ. Như chốn oan báo Thiên đế, Thiên hậu đúng là hoạn nạn. 

Tham dục, điên đảo làm sao dứt trừ?

Ở chốn thắng nghĩa, căn bản vắng lặng. Mong được lực dụng tự tại, thù thắng. Dốc lòng dưỡng nuôi, tăng thêm tánh thiện. Như mẹ yêu dưỡng, phiền não lặng yên. Các chúng thanh tịnh đạt được an lạc. Nghĩa lợi thù thắng (là) “Vô úy” chân thực. Giáo hóa (theo) mẫu mực, tự tại cùng tận. 

Thế nào là mong cầu hành động tham dục?

Hoan h, cung kính lời Bồ-tát dạy. Hướng đạt nghĩa lợi, dứt mọi đảo điên. Thấu đạt lời dạy của Đức Bổn Sư, ĺa mọi phiền não, đạt cảnh tịch tĩnh. Tham dục, si độn, điên đảo, buộc che. Thế gian sầu lo, chịu mọi thống khổ. Dục tham nghĩa lợi th́ cũng như vậy. Thế là nhân nhiễm tạo pháp điên đảo, cùng với kiêu mạn, che lấp, trói buộc. Bố thí rộng khắp, theo nhân giáo hóa. Đạt được thắng nghĩa tịch tĩnh, vô tướng.

Thế nào là tĩnh trụ hòa hợp, an lạc?

Xa ĺa tranh, nhiễm, tâm thiện cùng bày. Nhân gốc (của) ngã mạn chính là tham dục. Tận cùng tăng trưởng (là) cúng dường Thánh hiền. Dạy bảo (về lẽ) thanh tịnh, rõ nghĩa giáo hóa. Như chốn oan báo Thiên đế, Thiên hậu. Ngôn ngữ giải bày, biến hóa thích ứng. Các chúng tự tại, vô hữu viên mãn. Tạo nghiệp tịch tĩnh, đức, dũng gồm đủ. Cội nguồn giáo hóa: dứt hết chướng ngại. (Đạt được) tịch tĩnh, xa ĺa dòng thác đảo điên. Thảy đều là nơi phát sinh bố thí. Tu tập thanh tịnh, mong được tịch tĩnh. Bồ-tát ứng hiện, dẫn dắt chúng sinh phát khởi theo nhân thanh tịnh. Là chốn Bồ-tát bố thí thích hợp, hành giải sinh khởi. Tùy thuận tịnh diệu, làng xóm yên lành. Lực dụng tận cùng (là) pháp Đại thừa mở. Phiền não (nơi) chín địa tùy thuận cõi trời. Vua tôi tự tại, dạy truyền đây đó. Oan báo Thiên đế, Phi đẹp, kiêu mạn, đúng là dòng thác phiền não cấu nhiễm trói buộc, dấy lên ngã mạn, phóng túng. Ngôn ngữ thượng diệu, tự tại viên mãn. Trí tuệ thông tỏ, phiền não đều dứt. Đạt cõi thắng nghĩa như A-la-hán. Báo thân tự tại (gồm đủ) hai trí chân, tục. H́nh tướng bao la như cõi hư không. Sám hối lỗi lầm, (đó là) buộc ngã cùng tận. Tai nạn xa ĺa, mong được dứt bỏ. Ba độc (buộc) chúng sinh, sám trừ điều ấy. Hướng cầu sinh Thiên, đủ mọi an lạc. Ĺa xa tham dục, rời bỏ si độn. Thực hành bố thí, tu hạnh Như Lai, tịch tĩnh hiển hiện. Nên v́ muôn loài gánh vác, giáo hóa, trọn đủ không ngại. An tĩnh bỉ thử, viên mãn yên định, hoạn nạn không còn. Trưởng giả bạn lành, theo hạnh bố thí, bạo lực các hạng cũng không phân biệt. H́nh tướng viên mãn, đạt giá trị lớn. Người ấy: phiền não cùng dự, oan đối cùng ở. Tu tập tinh tấn, đúng nghĩa giải thoát.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, thêm vẻ trang nghiêm, Tôn giả hộ quốc bản sinh nghĩa thứ mười chín.

Đức hạnh (của) tự tánh, chân thật, diệu dụng. Phiền não hiện bày vui mong dứt sạch. Tu tập nghiêm túc, nhiễm vọng dần tiêu. Đó là tùy thuận thấu đạt.

Bồ-tát “Tịch mặc” tộc họ chính đáng. Vô tận, bao la, ĺa mọi xấu ác. Theo nhân tịnh diệu, mong đạt yên tĩnh. Dạy bảo, dắt dẫn, dứt các si mạn. Bi nguyện tùy thuận, b́nh đẳng an lạc. Tánh không ngã mạn, hành hóa rộng khắp. Đạt pháp Đại thừa, tạo nhân căn bản. Cầu chốn an tĩnh, trí tuệ thanh tịnh. Chánh pháp thấu đạt, lực tu tự tại. Thị hiện ở đời, cõi tịnh an trụ. Là nơi thâm tâm thanh tịnh hiện bày. Tộc họ vương giả bền vững lâu đời. Phiền não quấy nhiễu chi phối đều dứt. Cứu giúp muôn loài, thế gian ít có. Tâm ý dốc tu, tạo nhân tịnh diệu, tự lực giác ngộ. Đại nguyện Bồ-tát, hóa độ chúng sinh, chỉ dạy căn lành, thảy đều viên mãn. Tịch tĩnh nhiều kiếp, làm thân hữu t́nh. Năng cầu tu tập, an trụ thiện định. Theo đường khổ hạnh, (đạt) thắng nghĩa căn bản. Giới đức thanh tịnh, tự tánh như thế. Nghĩa lợi bậc Thánh (gồm) chín loại h́nh tướng. Sinh khởi tận cùng, điều phục tột bậc. Tích tụ giới đức, rõ đoạn buộc ràng. Căn bản tịch tĩnh, gánh vác thuận hợp. Tánh vốn là không, sắc tướng nào có. Ghi nhớ, lãnh hội nhân mọi vọng tưởng. Chúng sinh sao được h́nh tướng giải thoát? Tai nạn thảy ĺa, an trụ trong lặng. Ngã mạn chẳng còn, xa ĺa nhà cửa, bụi bặm, ác nhiễm. Tịch tĩnh phát sinh các hạnh vi diệu. Tự tánh thanh tịnh, nghiệp tịnh căn bản tăng trưởng không ngừng. Nhân diệu gắng theo, chế ngự xua tan phiền não thống khổ. Thắng nghĩa tịnh diệu, cõi trời đầy đủ. Giữ giới thanh tịnh, đạo hạnh khế hợp. Thắng giải tự tại, nhân tịnh viên mãn, (đó là) tùy thuận tận cùng. Xa ĺa che, buộc, bỏ lời kinh sợ. Yêu, nuôi các loài, an lạc, dứt nhiễm, dứt bỏ chấp ngã, (cùng với) nhà ruộng bao thứ. Đó chính là xứ hành động mong đạt. Chẳng theo bố thí, tự tánh lu mờ. Ham muốn bạo lực, sắc tướng càng tăng.

Thế nào là vọng tưởng: “Nhân ít quả nhiều”, các nẻo luân hồi, lời dạy nêu rõ?

Không còn tranh nhiễm (là) gốc mọi xứ sở. Tùy thuận trọn đủ các pháp ái, lạc.

Thế nào là các pháp thắng nghĩa tối thượng?

Bi nguyện tự tại – chúng sinh cùng tận – bạn lành dứt ác – các nhiễm nên dừng. Bố thí trí tuệ. Diệt cõi ngã mạn. Tự tánh giữ giới. Thuận hợp tịch tĩnh. Hành, giải tùy thuận, đạt nhân bố thí. Thắng nghĩa thanh tịnh. Tùy thuận chủng loại, bậc Thánh nhận rõ. Theo pháp chân thật xa ĺa đảo điên. Nghe, giữ gồm đủ, mong dứt pháp nhiễm. Tánh giới vi diệu, phiền não hằng dứt. Lực dụng tự tại, cơm áo thi ân. Hòa hợp không tranh, không điên đảo, mạn. Tu pháp điều phục, hành hạnh thành tựu. Là chốn Bồ-tát nguyện độ muôn loài. Tinh tấn không ngừng, hướng đạt viên mãn. Hạnh nguyện bất thoái, v́ (nhằm dứt) gốc phiền não. An trụ thanh tịnh, hành nhân như như. Si, độc, nghiệp dữ, khổ não, đói khát, dứt sạch từ gốc. Thắng nghĩa căn bản (là) lực dụng từng niệm, ĺa bỏ trói buộc. Làng xóm thành ấp, nơi chốn an lạc. Bản nguyện bố thí (là) hòa hợp vắng lặng. Cứu cánh tịch tĩnh. Nội lực thâm hậu. Mong đạt tận cùng. Gốc mọi mê, vọng, tai nạn đều ĺa. Vọng chấp khó rời, (cần có) thắng nghĩa điều phục. Trí tuệ thấu đạt thông tỏ mọi lẽ. Âu lo khổ não. H́nh bóng con người. Thể tánh vốn không. Chúng Bà-la-môn trí tuệ là có.

Thành ấp, làng xóm, dân chúng an ổn. Dốc tu dứt bỏ tham ái trói buộc. Phát tâm quy ngưỡng giáo pháp Đại thừa. Chúng sinh thế gian học đạo Như Lai, hòa hợp dứt khổ. Thực thể phiền não tùy thuận nghiệp thiện. Hữu học dốc tu, phiền não tự dứt. Là cõi vương giả hành hạnh Bồ-tát. Lực dụng thuận hợp, chủng tộc viên mãn. Tự tại hiện bày, tiếng tăm khắp chốn. Trí tuệ tĩnh lặng, thân tướng an trụ. Bậc Đại trượng phu cõi nước yên định. Trí tuệ tịch tĩnh, tỏ tánh vốn như. Diệu hạnh thanh tịnh, phát khởi tận cùng. Điều phục tự tại, hướng đến tối thượng. Quả báo tịnh diệu, h́nh tướng ung dung. Trí tuệ cõi trời, chúng sinh nghe giữ, là cõi rộng lớn, chúng sinh thanh tịnh, tĩnh lặng, thâm diệu. Si, mạn đều sạch. Sinh khởi thù thắng, biến chuyển an nhiên. Nghiệp dữ, oán đối, âm thầm vắng bóng. Trí tuệ dũng lực, thông tỏ, thích ứng. Dung mạo hài hòa, chúng sinh quy kính. Xóm làng sung túc, chân thực, hiền lành.

Thế nào là xứ sở tùy thuận kiêu mạn, phóng túng?

Sinh kế si độn, dẫn tới tận cùng. Trí tuệ hành, giải, đức hạnh thanh tịnh. Xứ sở tịch tĩnh, căn lành không nhiễm. Hữu t́nh hòa hợp, nhận thức khác nhau. Trí tuệ b́nh đẳng, áo cơm thí khắp. Phiền não, nghiệp chướng gốc rễ giống (như) người. Gốc đã bị nhiễm, ngọn cũng mất theo. Giáo pháp chân thật, dứt trừ như vậy. Nhiễm, buộc thế ấy phút chốc tiêu tan. Si, mạn cũng diệt. Như Lai hộ tŕ, như trời che lấp. Tùy thuận hiện bày. Lực dụng trí tuệ, công năng vô biên. Như vua an trụ.

Thế nào là trí tuệ điều phục bày hiện?

Lời thiện khích lệ (hướng tới) cứu cánh giải thoát. Trí tuệ như thế, tạo nhân tùy thuận. Là chốn có vua, giáo lệnh tự tại, dân chúng tuân hành. (Ví như) Xứ sở kiêu mạn, nhiễm buộc dấy đầy, chúng sinh khổ não, (tất cả đều được) ổn định như trước.

Nhân điên đảo ấy, dẫn tới chấp ngã. Mong cầu nghiệp dữ không duyên chẳng dấy. Là chốn tự tánh hiện bày hỗn tạp: vọng tưởng, oán đối, yếu kém, ngu muội, buộc che tự dừng; kiêu mạn trói buộc chúng sinh; (bậc có) trí tịnh, ý thông hiện rõ, dứt sạch mọi thứ phiền não ấy. Ngã mạn lớn lao, chính là gốc rễ. Ngôn ngữ thuận diệu, trí tuệ tăng trưởng, rõ nghĩa giải thoát. Tất cả chúng sinh kính chúng thanh tịnh. Cõi tánh trong lặng, hý luận chẳng còn. Dòng thác chẳng diệt, khổ não không bờ. Mẫu mực thượng diệu dựa theo thắng nghĩa. Bố thí rộng khắp, cầu nhân cõi trời. Đói khát, ưu phiền, trí tuệ không (bị) mờ. Thấu đạt tịnh diệu, an lạc như vậy. Trí tịnh nghe, giữ như lọng phủ che. Tịch tĩnh tăng trưởng, pháp nhiễm chẳng sinh. Như giáo lệnh vua, tạo nhân Thiên tịnh, trí tuệ phát sinh. Thường không tham dục, thanh tịnh càng tăng. Lực dụng trí tuệ gồm đủ chánh định. Thù thắng tận cùng (là) đạo hạnh tăng trưởng. Thượng phẩm tịnh diệu (là) tự tại bao trùm. Cứu cánh tận cùng (là) thế gian yên tĩnh. Xứ sở tột bậc (là) khắp chốn b́nh đẳng. Thắng nghĩa phát sinh, tạo nhân đạt quả. Bồ-tát khuyên dạy. Như bậc vương giả. Theo dụng trí tuệ, tu hạnh vô tướng. Tịnh diệu cõi trời, xa ĺa che buộc. Bỏ quên cội rễ, tạo pháp hý luận. Nhân không chân thật, hành oán đối sinh. Tịnh diệu tăng trưởng mong dứt pháp nhiễm. Nhân hành phát sinh đúng lý tự tánh. Đức nghiệp thanh tịnh, dứt trừ các mạn. Tịch tĩnh tu học, hành động dũng mãnh. D́u dắt muôn loài diệt trừ ngu muội, đạo đức hiện bày khắp mọi nơi chốn. Vọng nhiễm dứt sạch, tự tại diệu dụng. Ĺa bỏ tranh, nhiễm, hạnh như viên mãn, khổ não, oán thân, đều nên xa ĺa. Tánh trí tuệ ấy thiện tịnh trọn đủ. Nhân duyên thích hợp, thù diệu sinh khởi. Sân hận chuyển tới tạo tác hý luận, ngôn ngữ điên đảo, đâu hạnh của trời. Trí tuệ chuyển tu (chỉ) mong đạt cơm áo. Lời nói tham tục, đâu (phải là) chân trí tuệ. Cõi tâm giả trá, nhiễm buộc dấy lên. Mong cầu tạp loạn, phiền não, chướng sinh. Bậc đại quốc vương diễn nói chánh pháp khiến tâm hoan h, thuận theo đạo lý. Trí tuệ tăng trưởng tự tại tận cùng. Dòng thác phiền não (tạo ra bao) h́nh tướng của khổ. Nghe, giữ trọn đủ. Các pháp mạn, vọng thảy nên xa ĺa.

Thế nào là bố thí căn bản?

Pháp thiện tiêu trừ nhiễm, mạn, vọng tưởng. Chi phần thuận hợp, nghiệp đạo viên mãn. Tăng trưởng tận cùng (là sự) đói khát chân lý. Chế ngự, xa ĺa.

Thế nào là mong dứt hết vọng tưởng?

Ĺa bỏ hý luận, tạo tác thanh tịnh. Thiện tịnh vui cầu, gắn bó Thập thiện. Trí tuệ bạn lành, tu tập viên mãn. Theo hạnh thanh tịnh, phước đức đầy đủ. Thân tâm, năm uẩn mong đạt an trụ. Thấu đạt vi diệu, nhân ấy vô biên. Phiền não, vọng ấy, đích thực thống khổ. Cõi học trọn đủ, thân thể tịnh diệu. Phước đức cõi đời, quả báo không sai.

Thế nào là tăng trưởng cứu cánh tận cùng?

Cõi học thấu đạt, cầu thắng nghĩa ấy. Thanh tịnh chân thực, vọng, nhiễm chẳng sinh. Đói khát, phiền não cõi ý thênh thang. Buộc, nhiễm bị diệt, như (cõi) không vô ngại, vượt cả tư duy.

Vọng động liên tục, căn bản đều dứt. Tự tánh Như Lai vốn từ tuệ giác. Thuyết pháp tối thượng chỉ nẻo dẫn dường. (Chỉ ra) các nhân si, kém, độc, xấu bám chặt. Nẻo nghiệp thuận duyên, nhờ vào trí lực. Lực dụng thanh tịnh, ba độc chẳng sinh. Giữ, nghe, (theo) tự tánh, tâm mong đầy đủ. Ba thừa hóa độ, cùng đạt Niết-bàn. Chi phần chân thật, ĺa vọng trọn vẹn. Dòng thác phiền não (tạo ra) ba loại căn bản. Gốc đã dứt rồi, ngọn ngành đều bỏ. Kính tin chư Phật, giáo pháp thanh tịnh. Pháp như vậy (gọi) là chốn chánh giải thoát. Từ chỗ ưu não, chúng sinh hòa hợp. Nơi chốn nghiêm trang, nói pháp Đại thừa. Cầu nhân vi diệu, danh sắc vô tướng, xa ĺa tranh, nhiễm, viên mãn như vậy. Là cõi chúng sinh buông theo tham dục, phiền não điên đảo mặc sức dấy động. Nghĩa lợi thanh tịnh, thành tựu thích hợp, vô cùng tự tại. Các pháp vô ngã, chánh kiến thuận hợp. Si mê không bày, chúng sinh chứng đạt (chánh kiến, vô ngã). Thắng nghĩa vô tướng. Ǵn giữ vẹn toàn. Nhân diệu thiện tịnh, diệu dụng tùy thuận. Tự tánh trong lặng, chở che nghĩa lợi. Lực dụng bố thí, hành giải thanh tịnh, là gốc báo nhân, phước đức không mất. Các pháp hữu vi luôn luôn biến chuyển. Nghiệp nhân tự tại như A-la-hán. Hòa hợp tĩnh lặng, ứng hiện tùy thuận. Đạt tánh bản giác, dưỡng nuôi thích hợp. Ba nghiệp thanh tịnh, đạt nghĩa như như.

Hết Quyển 7

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 8

Trí tuệ thanh tịnh, ngã mạn không còn. Bạn lành giúp sức, dứt mọi điên đảo. Thắng nghĩa căn bản (là) đức hạnh tăng trưởng. Pháp tịnh gắng theo, tịch tĩnh tột bậc. Năng dứt dục, tham, an trụ tinh xá. Chi phần điên đảo, ý ĺa nhiễm, buộc, vọng tưởng. Diệu lý tịch tịnh, hằng mong chứng đắc, an trụ tĩnh lặng, thâm tâm như như. Đức hạnh thắng nghĩa, chân thật dứt tranh. Trí tuệ thiện tịnh, biến chuyển tự tại. Tự tánh như thị, vượt mọi phân biệt. Trí tuệ thắng nghĩa tùy thuận, khẩu hòa. Diệu lý tịch tĩnh, đức hạnh ung dung. Xa ĺa nơi chốn (là) nhân của bệnh hoạn. Tịnh diệu mong cầu (là nhằm đạt) ngọn nguồn không nhiễm, phiền não tự dừng, tịch tĩnh thuận hợp. Trí căn bản ấy tự thân chứng đắc. Chúng sinh vô biên, hóa độ tất cả. Điều phục thắng nghĩa, dứt thân khổ não. (Cùng với) nghiệp dữ, vọng tưởng, phiền não trói buộc. Đạt trí thanh tịnh, dứt mọi tạo tác. Tận cùng phiền não (là) xứ của tự tại. Thế gian biến hoại (là) h́nh tướng (của) tịch mặc. Phiền não buộc thế, khiến sắc uẩn sinh. Si, độn trói che, không nhân tự diệt. Cội rễ ngã mạn, phiền não, kiêu căn, phóng túng, mong đạt hằng tịnh, hạnh ấy viên mãn.

Chánh pháp tùy thuận, nâng niu tịch tĩnh, ác nhiễm không buộc. Chân thật sinh khởi, đạo đức chư Thiên. Mong cầu ĺa mọi gốc rễ phiền não. Đức hạnh chúng thiện (là) khẩu hòa thắng nghĩa. Dòng thác cuồn cuộn, hóa độ không cùng. Chúng “Cận sự nam” căn lành phát sinh. Các pháp giải thoát, tu tập tự tại. Ĺa vọng, gắn bó, hành giải gồm đủ.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh nghĩa thứ hai mươi.

Thắng nghĩa phát sinh, ĺa tham sân si. Dứt điên đảo, nhiễm. Lãnh hội đúng đắn mười hai phần pháp. Phẫn không (do) thể sinh.

Buông theo vọng, nhiễm. (Nên lại) mong đạt tánh (bị) buộc. Đó là thấu đạt ý nghĩa tùy thuận của bậc Bồ-tát.

Hàng đại hữu t́nh hành động thích hợp. Đại Bà-la-môn tộc họ đức hạnh. Tịch tĩnh hiện bày. Đức hạnh của vua hợp Tự tại thiên. Tuệ giác đích thực, thế gian chẳng có. H́nh tướng uy nghiêm, danh xưng tôn kính, đạo nghiệp tu hành. Bố thí tịnh diệu, đức độ thấu đạt. Tự tại ung dung. Trong lặng diệu dụng.

Gốc nghiệp dữ ấy thật là đáng sợ. Hành, giải gồm đủ, trừ diệt các nhiễm. Trí tuệ như (vật) phá bỏ nhiễm tranh. Gốc rễ đích thực (của) sức buộc (là) ngã kiến. (Ngã kiến ấy) tạo tác trọn đủ (cả) thiện tịnh, nhiễm buộc. Tự tánh chế ngự (chấp nhiễm) pháp lành tăng trưởng. (Đó là) tuệ trong biệt cảnh, tưởng của biến hành, an trụ nơi chúng sinh. Giáo pháp tịch tĩnh, tạo tác khế hợp. (Như) các bậc Thượng tọa, A-xà-lê mẫu mực. Đại thừa pháp khởi. Đúng nghĩa cứu cánh. Bố thí ái lạc. Cõi tánh thanh tịnh. Không còn tranh nhiễm. Trừ diệt phiền não, si độn (của loài) hữu t́nh. Thấu đạt tịch tĩnh, thắng nghĩa viên mãn. H́nh tướng thượng diệu. Xa ĺa trói buộc, quyết trừ độc hại. Tịch tĩnh căn bản, hóa độ, gánh vác. Đắm theo tham dục, hạnh của trói buộc. (Mọi) h́nh tướng biến động, tạng thức thâu chứa. (Tạng thức ấy) tạp nhiễm chỗ nương, chẳng thể hủy hoại. Thân xác, tự tánh, sắc tướng... nương tựa. Là cõi Bồ-tát diệu dụng tùy thuận. Giáo pháp tinh diệu (truyền dạy khắp) thành, ấp, xóm làng. Chúng sinh đúng là vật dụng (khéo) hòa hợp. Dẫn dắt các loài hữu t́nh quy thiện; nương tựa, chi phối, tu pháp Thập thiện. Cõi ý thanh tịnh, sạch bóng tham dục. Ba thừa hóa độ, mong đạt an trụ. Thanh văn, Duyên giác, Đại thừa (thích hợp với) ba chủng loại tánh. Tận cùng sắc tướng (là) xứ sở tịch tĩnh. Dẫn dắt muôn loài, nguyện đạt “tịch mặc”. Giáo pháp thanh tịnh, thông tỏ “tướng thông”. Vi diệu tịch tĩnh (các) chủng loại gồm đủ. Thánh quả Ba thừa, ngọn nguồn mong đạt. Dứt bỏ chế ngự (đạt tới) thanh tịnh an trụ. Gốc rễ tịch tĩnh (là) Thập thiện tịnh diệu. Mong đạt tột bậc (là) thắng hạnh ung dung. Cõi ý định nghiêm, người người dứt ác, phiền não chẳng sinh, ung dung, tĩnh lặng. Dẫn dạy gắng sức, dốc đạt tịch tĩnh. Vọng hành không dấy, vi diệu hiện theo. Tấn tu ái lạc, xa ĺa khổ đau. Nhân thắng không giảm, lực dụng tự tại. Phạm hạnh rộng khắp, trí diệu thanh tịnh. Gốc quả “vô học”. Ba loại ngã mạn tăng trưởng, chuyển biến. (Ngã mạn ấy) che phủ khắp chốn, chẳng còn tự tại. Bồ-tát ở nơi thế giới hữu t́nh, chuyên tu hạnh xả. Ngã mạn dứt bỏ, nơi chốn tùy thuận. Thành ấp xóm làng xây sửa, đổi thay; ăn uống thích hợp, đủ vẻ an lành, vô cùng trang nghiêm. Dứt bỏ, không còn dòng thác phiền não. Nghiệp nhân không nhiễm, che chở, hòa hợp. Tu theo thắng hạnh, trong lành như trăng. Tâm kia vô tận, dũng mãnh, vững chắc. Thiện diệu tôn sùng, giữ ǵn trọn đủ. Thiền định tịch tĩnh (là) cõi vật (dùng của) các loài. Rời nhiễm, buộc che, xa ĺa tai nạn. Lực dụng thật ấy (là) h́nh tướng căn bản. Điều khó (làm) hiện rõ, (chính là) diệu hạnh thù thắng. Trong sáng tươi đẹp, phước báo cõi trời. Ở cõi vương giả tịch nhiên an trụ. Là chốn vua ấy, mọi mối lo âu, sầu não đều vắng. An vui tăng thêm, chế ngự hý luận. Dòng giống, tướng mạo uy đẹp ít có. Nơi chốn tận cùng (là sự) thành tựu tột bậc. Tranh biện, hủy báng thảy đều dứt hết. Căn bản dốc tu (là nhằm đạt) tự tánh thiện diệu. Thắng nghĩa tăng trưởng, an lạc trọn thành. Làng xóm sung túc, đất nước đẹp giàu. Gốc từ nơi tâm.

Hăm hở tạo tác, đích thực (là) trói buộc. Thuận hợp tận cùng (là) h́nh tướng an trụ. Tự tánh thực hữu (là) tịch tĩnh viên mãn. Phụng tŕ chánh pháp, tán thán công đức (ấy). Cõi ý thuận hợp, rõ nghĩa trong lặng. Tăng trưởng si, mạn, chư Thiên xa lánh, là xứ quốc vương như hạnh Bồ-tát. Ba nghiệp dốc tu, b́nh đẳng giúp khắp. (Ba nghiệp) tạo phiền não, chướng, (cũng tạo) trí tuệ thanh tịnh. Giảng dạy Thập thiện, dứt tướng đảo điên. Nhân của ngã mạn, hướng cầu dứt bỏ. Hạnh (bậc) A-xà-lê thanh tịnh, nghiêm túc. Thế gian càng nhiều tranh biện, hý luận, càng thêm thấu đạt tự tánh tịch tĩnh. Chúng Thiên cõi tĩnh, sân phẫn đã dừng. Hai cõi Sắc, Vô sắc, sân hận dứt tuyệt, (nhưng) vẫn còn các pháp phiền não tạo buộc. Tuệ giác tự tánh, diệu dụng sung mãn. (Lực dụng ấy) lực nhỏ quán sự, quán lý mới thấu. Như lời Phật dạy: Tận cùng của tham, đến cõi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ hãy còn. Phải nhờ tuệ giác soi tỏ (mới có thể) ĺa bỏ, tham, si, mạn, kiến, đạo phẩm thứ chín, hướng quả mới đoạn, thành tâm (của các bậc) vô học. Vương giả xa ĺa (tham, si...). 

Bồ-tát phát sinh trí tuệ lực dụng. Ứng hiện tự tại, ĺa mọi trói buộc. Hủy hoại hết mực (chính là) chướng nhiễm tận cùng. Đúng lúc thế gian xuất hiện bậc Đại trượng phu. Như bậc mẹ hiền yêu thương đàn con. Nhân của chân thật: sắc tướng thanh tịnh, căn bản hòa thuận, điều phục đúng pháp. Hạnh tu viên mãn, không chướng, nhiễm, mạn. Điên đảo dứt sạch, đạt chánh giải thoát. Hành, giải thích ứng, mọi vọng xa ĺa. Thể tánh hữu t́nh tịch tĩnh, hòa hợp. Thắng nghĩa thanh tịnh (là) dứt bỏ ưu não. Căn trần thanh tịnh hòa hợp ngoại cảnh. Chân thật thuận hợp (là) nơi chốn trong lặng. Chúng sinh (được) giải thoát, trí tuệ vô biên. Như hạng nữ nhân, si độn cũng dứt. Bồ-tát chỉ dạy mọi nghiệp dữ (đều) chuyển. (Ví như) vương giả uy lớn, giáo lệnh tăng thêm. H́nh tướng tạo tác như trời trùm khắp. Ở chỗ nhàn nhã, sai khiến khắp nơi. Chuyển, trao, truyền, nhận, đạt tướng hòa hợp. Xa ĺa nhiễm, chướng là chốn quốc vương đùm bọc muôn dân. Trí lực gồm đủ, chỉ dạy chúng dân dứt bỏ tham ái. Chúng dân khắp nước ĺa mười hạnh ác, lui tới đền đài cung kính lễ bái. Đạt thắng nghĩa tánh, âu lo đều dứt. Ĺa bỏ trói buộc, thấu đạt thanh tịnh. Được an trụ tịnh diệu tịch tĩnh th́ mọi h́nh tướng tạo tác đói khát độc hại đều dừng. Hữu t́nh thế gian sinh khởi thù thắng. Tranh, nhiễm xa ĺa, thắng nghĩa thuận hợp. Hữu t́nh như thế (thích hợp) diễn nói chánh pháp. Thân, tâm thanh tịnh.

Thế gian đảo điên sinh chướng, mạn, nhiễm, buộc, che cùng tận, (khiến cho tự tánh) vi diệu cùng mờ. Ngã mạn lớn ấy hợp với pháp nhiễm. Thấu đạt như vậy.

Thế nào là bản tánh tối thượng, đức hạnh cao tột, bậc trời trong các cõi trời, phước đức tự tại, rốt ráo như thế?

Dòng thác điên đảo tất cả đều dứt. Giới luật tịnh diệu, tận trừ tất cả nhiễm, tranh, ngã mạn tăng dấy. Cứu cánh tận cùng như bóng theo h́nh. Phước đức trang nghiêm, thọ mạng tăng trưởng. Hành động mẫu mực, dạy dỗ muôn loài. Tự tánh hiện bày viên mãn như vậy. Hành, giải tịnh diệu, thương xót chúng sinh. Đạo nghiệp thanh tịnh, tự tánh chân thực. Tịch tĩnh tận cùng, tâm (bao trùm) cả trời người.

Thế nào là không có “tăng thượng mạn” ràng buộc ở đấy, chỉ có ái lạc tăng trưởng?

Bố thí thanh tịnh, tướng nhân tịch tĩnh, tĩnh lặng ĺa nhiễm. Bi nguyện rộng lớn, hạnh của mẹ hiền dạy dỗ con trẻ. Như vua giáo hóa muôn dân b́nh đẳng, (cả hạng) si độn đều giúp. Dân chúng đều theo chế độ của vua. Thắng hạnh Bồ-tát cùng tận, bao la. Không phiền não quấy, không giận dữ buộc. Dốc tu thiện diệu, lực dụng tự tại. Như lời vua dạy, tâm thực mênh mông. Si độn, chấp ngã, nhiễm, chướng càng tăng. Đường nghiệp sinh khởi, oan đối không cùng. Tạo nhân vi diệu, tánh nhiễm tự dừng. Tu thiện viên mãn, chi phần sung, đủ. Bố thí rộng khắp, đẩy lùi phiền não. Xa ĺa nơi chốn (phiền não). Thập thiện hạnh ấy, muôn dân an ổn, bày biện cúng dường. Dứt tận ngã mạn, tranh tạp, lửa phiền. Gốc các tánh tuệ, (là) nhân thắng (của) nghĩa lợi. Bồ-tát dẫn dạy diệu tuệ thanh tịnh, nghĩa lợi thù thắng, (như) mẹ hiền nuôi con, thương nhớ hết lòng. H́nh tướng nghiệp dữ nảy nở theo ý. Luận bàn khế hợp, b́nh đẳng tăng lên. Xa ĺa tai nạn. Là xứ bậc vua đúng hạnh Bồ-tát nuôi dạy muôn dân an nhiên tự tại.

Thế nào là thắng nghĩa phát sinh đạt được khẩu hòa?

Suy nghĩ hướng cầu phạm hạnh chư Thiên, dứt bỏ trói buộc. Tịch tĩnh tăng thêm, trí tuệ trọn đủ. Hành động tận cùng, (là) dốc lòng bố thí. Bồ-tát tịch tĩnh dẫn dạy chúng sinh. 

Thế nào là tai họa đích thực của cả tộc họ?

Gốc của phiền não khó thể xa ĺa. Chấp ngã thêm dày, chỉ thêm tranh, nhiễm. Giáo hóa chúng sinh dứt bỏ tạo nghiệp (dữ). Bồ-tát khéo răn, vua cũng dứt ác. Viếng thăm Thánh tích, thiện diệu phát khởi, ĺa bỏ giận hờn, ngôn ngữ tĩnh lặng, tăng giảm chẳng sinh. Cõi tuệ tận cùng, trừ nhân phiền não. Dạy dỗ, dưỡng nuôi khá dứt phẫn hận. Dứt trừ tột bậc (là) điều phục ngã mạn. Vua theo pháp lành, nạn phẫn đều dừng. Do chân thật sinh, tăng thêm pháp thiện. Gốc tu bố thí, nghĩa lợi như vậy. Phiền não cùng tận, nhân thắng tự tu, ĺa quả báo ác. Tai nạn như lửa đốt cháy căn lành. Lực dụng tự tại, đảm đang hóa độ. Dân chúng sùng thiện, tà hạnh chẳng theo. Tự tánh xa ĺa trói buộc, chấp ngã. Nhân của bố thí, gốc gắn (với) vô ngã. Tận cùng sinh, hữu (chính là) thuận hòa rạng rỡ. Phiền não tự dừng. H́nh tướng hòa hợp, gốc nghiệp dữ dứt. Gốc tánh chẳng sầu, sáng tươi hiện rõ. Diệu tuệ viên mãn, tư duy khó kịp. Chúng sinh giác ngộ thắng nghĩa như vậy. Ba độc xa ĺa, mong đạt gốc tĩnh. Cõi nước tịnh diệu tăng trưởng như thế. Dòng thác luân lưu dừng lặng, thuận hợp. Tướng trạng không thật, đức hạnh tăng trưởng, tịch tĩnh viên mãn, như lửa thiêu củi. Phiền não, si độn, khổ não tận cùng, dòng thác mênh mông (đạt quả vị) vô học hằng dứt. Dứt niệm chấp ngã, thắng nghĩa Như như, thành tựu tăng trưởng. Nghĩa lợi trong lặng, nghiệp dữ vốn không. Vô tướng thành tựu, chân thật không cầu. Chánh pháp khá trừ phiền não, hý luận. Thánh trí vô biên dứt hết trói buộc. Tự tại ung dung là gốc giải thoát. Nhân thắng hướng cầu, ĺa dứt cấu nhiễm. Phẫn, hận đổi thay do ta tạo tác. Thanh tịnh làm gốc, nghiệp tu bất thoái. Ĺa mọi vọng, nhiễm.

Thế nào là thắng nghĩa Như như, tịch mặc?

Chân thật tận cùng (là) dứt mọi sợ hãi. Vô ngã thắng nghĩa, lực dụng như trời. Ĺa “tăng thượng mạn”, chân thật không bờ. (Chân thật ấy) vượt quá ngôn thuyết, thường trụ, hằng hữu. Mọi nẻo oan báo, Thánh quả dứt trừ. Là cõi quốc vương đức lớn, tốt lành, tạo nhân bố thí, muôn dân quy phục. Ân Thánh rưới khắp, lực dụng bao trùm. Sắc tướng tùy thuận, thiện tịnh chế ngự. Tâm tu bố thí, hành hạnh Thập thiện. Mẫu mực nghiêm túc, an trụ thêm tăng. Dân chúng, xóm làng, gồm đủ thiện diệu, lực dụng trọn đủ, ĺa bỏ trói buộc. Thiện tĩnh (của) hữu t́nh (là) sinh nhân vô ngã. Bồ-tát giáo hóa, diễn nói chánh pháp. Các hạnh phiền, giận, xuôi theo đảo điên, đâu phải luận nghi của hàng chư Thiên. Thiếu pháp tịch tĩnh, chân lý ĺa xa. Hoạt động không ngừng, tranh, nhiễm cùng dứt. Tự tại hiện bày, tai nạn không thêm. Đấy là tịch tĩnh phương tiện tùy thuận.

Ngôn ngữ thiện tịnh, “Bổ-tát-đà-cát”.

Tâm tu Như Lai, hạnh sạch phiền, giận.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, nghĩa của Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh nghĩa quảng diễn thứ hai mươi mốt.

Vọng tưởng vốn không, h́nh tướng thanh tịnh, tên Bí Mật Tạng, đúng Đại trượng phu, hướng cầu nẻo thiện. Đó là tùy thuận lãnh hội ý nghĩa sâu xa của Bồ-tát.

Tích công đức lớn, trăm ngàn vạn loại. Nơi chốn rộng lớn, tận cùng như (cõi) không. Nước hiệu Vô ngã. Vua tên Tối Thắng. Công việc trị nước thảy đều vững vàng. Trí tuệ, phước đều viên mãn, an định. Nhớ tưởng tộc loại, giữ giới thanh tịnh. Bốn dân không bỏ, thù địch, hý luận, (do) Thánh lực đều dứt. Ḿnh không tham dục, đói khát chưa từng. Thánh đức chí công, thanh tịnh thuận hợp. Giáo lệnh đều khắp, tự tại trọn đủ, chân thật không mất. Đức hạnh rạng rỡ, hiểm nạn chẳng núng. Ngọn nguồn (của bậc) hữu học, mong đạt Thánh quả. Chúng sinh si mạn, cản bước tiến tu. Theo nhân cứu cánh là nhân thế gian. Nhiễm, tranh hủy diệt, thể tánh vô tận. Trời, Rồng, Qu, Thần trở thành nhân buộc. Thắng nghĩa bất thoái, nhân chẳng tạo được. Nhân diệu thanh tịnh, pháp mầu chân thật, tự tại thấu đạt, nhân phước thân tâm, nguồn ngọn cùng tận. Tịch tĩnh thuận hợp tiến thoái thân an. Bố thí thanh tịnh chân thật như thế. Phép giải thoát đúng, nghĩa lợi thuận hợp. Xa ĺa thanh sắc, tịch tĩnh phát sinh. Khuyên dạy thanh tịnh ĺa nghiệp đen tối. Đạt hạnh Như như, giống hoa sen trắng. Bụi nhơ sạch làu (là) cội rễ tịnh diệu. Nhân tĩnh chẳng có, tâm địa buộc ràng. Ĺa bỏ tâm nhiễm, rời hạnh thanh tịnh. Lửa phiền, đói khát, bức bách chúng sinh. Gốc rễ bị buộc, tịch tĩnh không còn. Cõi ý thành tựu, tự tánh sáng tỏ, tiến thoái an tĩnh. Phiền não đã sạch, nghiệp dữ cũng không. Điên đảo, kinh sợ, hạnh (vô) chế ngự. Hội nhập Thánh lực tĩnh trụ vô tận. Phiền não dứt hết (là) pháp giải thoát đúng. H́nh tướng trói buộc vốn thực không có. Thắng nghĩa không mất (là) đức hạnh tự tại. Tận cùng thiện tịnh (là) ngã mạn chẳng sinh. Giáo hóa (chúng sinh) thấu đạt thậm thâm vi diệu. Tu tập, điều phục thanh tịnh chân thật. Uy lực quốc vương tên gọi Phạm Tĩnh. Tịch tĩnh vô ngã, ca ngợi b́nh đẳng. Rời nhân điên đảo, đạo hạnh tươi đẹp. Xứ sở tịnh diệu, chân thật hiện bày. Căn bản vi diệu, tu hành thuận hợp. Nghiệp nhân tăng trưởng, thấu đạt Thập thiện. Phước đức tăng lên, chính nhờ pháp thiện. Ngôn ngữ dạy khuyên (là) gốc rễ trí tuệ. Tu hạnh bố thí, lực dụng viên mãn. Nhân của biến hóa, (là) phước nghiệp đích thực. Phước, tuệ thù thắng (là) phước báo (của) thuận thiện. (Phước báo) là cõi chẳng có hư hoại, (như) Thánh đức của vua, cõi bờ yên ổn, thảy không xáo trộn. An trụ thích hợp, vui sướng như (các cõi) trời. Thù thắng thấu đạt, tích phước làm nhân. Đạt hạnh phước báo (là) thân tâm tịnh diệu. Sắc tướng tùy thuận, lực dụng thành tựu. Nghe dạy chẳng sinh ngã mạn, si độn. Tranh nhiễm tự dứt, đạt đức tịch tĩnh. Tất cả chúng dân tu hạnh người, trời. Sùng nghiệp bố thí, rõ nghĩa tăng trưởng. Nghe dạy tu hành, nhân của phước lạc. Dứt bỏ đảo điên, xa ĺa che buộc. Thắng lợi đạt quả (là) phước báo như (các) cõi trời. Chánh hạnh dốc tu, yên vui thấu đạt (là) an tĩnh, trong lặng. Ngọn nguồn pháp tánh (là) tịch tĩnh “vô sinh”. Hành, giải gồm đủ, theo thân ứng thiện. Vi diệu chân thật, ĺa mọi trói buộc. Vọng tưởng không dấy, hóa độ muôn loài. An tĩnh khế hợp, dạy truyền thanh tịnh. Trí tuệ vô tướng chẳng thể nghĩ bàn. Mẫu mực bao trùm, ung dung tự tại. H́nh tướng che chở, động tĩnh cậy nương. Tạo tác trọn đủ, mong đạt nghĩa lợi. Gốc từ nhân thắng, biến hóa tận cùng. Xa ĺa mọi tướng, (đạt) tịch tĩnh Như như. Tam bảo an trụ vững bền, hằng hữu. Dòng thác phiền não Như Lai dứt tuyệt. Trong lặng như trăng h́nh dạng tròn đầy, thảy mọi chi phần (đều) an trụ tịnh diệu. Tự tại tạo nghiệp, nghiêm túc, mẫu mực. Nghiệp dữ bao đời, tâm tĩnh tự diệt. Giống như hoa sen, tịnh diệu đáng quý. Nhân diệu phát sinh, an lành cùng tận. Phép tắc sáng tỏ, âu lo đều dứt. Tâm thiện không vướng vọng tưởng cấu nhiễm. Tự tại viên mãn, đức hạnh tối thắng. Tạo tác hiện bày, biến chuyển không cùng. Năng dứt tham dục, (đạt) vô tướng viên mãn. Thể tánh Như Lai an nhiên thường trụ. Tu tập tịch tĩnh, tự tánh sáng tỏ. Năng ĺa bụi cáu, thiện tịnh hiện bày. Thiện chí không tĩnh, như trăng (đối với) kẻ mù. Thí tuy đem vui (nhưng) chưa đúng (là) giải thoát. Phiền não dứt hết, (mới là) tự tại chân thật. Tất cả vọng tưởng, nhiễm tranh đều diệt. Phiền não không quấy (là) an nhiên thắng nghĩa. Tạo tác nghĩa lợi (khiến cho) tự tánh vọng nhiễm. Hành, giải gồm đủ (đạt) thanh tịnh đích thực. Từ si độn, chướng, tạo tác h́nh ảnh về cõi bạo lực, phải nên ĺa bỏ. Thí chủ như vua cứu giúp khắp chốn. Bố thí b́nh đẳng như mây trùm khắp. Tu tập ung dung, thiện tĩnh hiện bày. Thế gian trọn nên đức hạnh bất thoái. Trong suốt, óng ánh là như băng tuyết. Thể bị nhiễm buộc, hành giải tu tịnh (để dứt). Theo h́nh bỏ nhân thật không thể có. Dốc tu thượng diệu, gốc từ Phật tánh (Phật tánh ấy) ví như trăng tròn, trong lặng, sáng tỏ. Phật lực năng dứt si độn, tranh, nhiễm. Thông tỏ thuận hợp (là) đạt cõi tận cùng. Xa ĺa bụi nhơ, ý không kiêu mạn. Gốc từ tu hành, thuận theo biến chuyển. Nơi chốn thanh tịnh (do) nhân bao đời. Như nhân (của) cõi trời thảy đều chân thật. Theo chốn độc hại, biết rõ (là) không trí. Tạo nghiệp luân lưu từ gốc điên đảo. Tam bảo an trụ không thể nghiêng ngã.

Tịch tĩnh trang nghiêm, an lạc tự tại. Điên đảo, nhiễm dứt (đạt) h́nh tướng b́nh đẳng. Tu tập dốc lòng, an ổn, tĩnh trụ. Dốc (tạo) nhân chuyển đổi, tự tại ắt đạt. Mười phương Như Lai, hằng dứt phiền não. Tâm tịnh làm gốc, nhân Thánh mới đạt. Năm uẩn thanh tịnh, thân tâm chân thật. Tự tánh thắng nghĩa trong lặng, vô niệm. Nhân lưu chuyển dứt, lực dụng thường tại. Nhân tạo (ra) kinh sợ, không chốn hiện lành. Là lúc cõi thế chân thật, thuận hợp. Cõi tánh thanh tịnh, an tĩnh vô biên. Niệm xứ, nhân duyên muôn thuở nên theo. Là chốn nhân ấy khế hợp, thanh tịnh. H́nh tướng lưu chuyển, định tuệ (vẫn) sáng tỏ. Quả báo thiện diệu, hòa hợp viên mãn. H́nh bóng hành xả, b́nh đẳng chân thật. Các mạn, phiền não, gốc rễ si độn; hủy, nhiễm tự tánh, (cần phải) tu nhân viên mãn. Lực dụng thắng nghĩa, tu tập thanh tịnh. Hành, giải gồm đủ (để) trừ diệt các nạn. Dứt nhân lưu chuyển, cõi thể thanh tịnh. Từ gốc thuận hợp, hành tướng an định. Dòng thác hiện hành, biến chuyển không ngừng. Nghiệp dữ rành rành, tự dưng tiêu hết. Thể tánh Niết-bàn (luôn) trong lặng, yên tĩnh. Thập thiện hợp nhất thanh tịnh vô biên. Sắc cuốn vô tận (tạo) điên đảo triền miên. (Cũng ví như) ta (có thể) tạo rất nhiều nhà cửa, điền sản. An tĩnh giáo hóa thân tộc không giảm. Nơi chốn vi diệu, khinh mạn chẳng còn. Nhận rõ trói buộc như thế (để) xa ĺa. Tu nhân thiện diệu, thuận hợp. Tận cùng thanh tịnh (là) khắp chốn tịch tĩnh. Tu học viên mãn (đạt) được hạnh thường hằng. Phương Nam có (cõi) trời không nhân buộc ngã. Dứt tránh thanh tịnh, dòng thác (cũng) lặng dừng. Phạm hạnh thắng nghĩa đích thực hiện bày. Sắc tướng tịnh diệu, đức hạnh vẹn toàn. Tự tánh an tĩnh, phước đức trùm khắp. Tu hạnh bố thí, bỉ ngã chẳng phân. Ĺa bỏ cấu nhiễm, điên đảo, ngã kiến. Vậy là lo sợ, họa, tranh thảy dứt. Tịnh diệu (của hàng) chư Thiên thí dụ nào hết. Tự tánh như thị, các pháp phát sinh. Chẳng ĺa nhân buộc, gốc (là) mười nẻo ác. Là chốn khao khát Bồ-tát thị hiện. Viên mãn thắng nghĩa (là) dứt mọi vọng, nhiễm.

Thế nào là đối với tai nạn, tịch tĩnh vẫn giữ?   

Là cõi khuyên dạy dồi dào như thế. Hành nhiễm điên đảo (cõi) trời ấy dứt trừ. An trụ tịnh mặc, cõi ý thấu suốt. Mẫu mực đúng thực, dứt nhân hý luận. Gốc không biến động, sắc tướng thanh tịnh.

Thế nào là tu tập theo lời Phật dạy?

Cứu cánh Đại thừa (là đạt đến) an trụ, tĩnh lặng. Toàn cõi phiền não (là sự) trói buộc thể tánh. Bốn loại thắng nghĩa giải bày trên hết. Nhân diệu thanh tịnh, dứt điên đảo, nhiễm. Chúng sinh cõi người lại nên xa ĺa. Biến chuyển tột bậc (là) quy kính Tam bảo. Rõ nghĩa cứu cánh mười phương Như Lai. Tịch mặc thành tựu, lực dụng vô biên. Tự tại vô cùng, chư Thiên hồi hướng. Thanh tịnh chân thật (là) nghĩa lợi Thánh nhân. Bản tánh như thị, an tĩnh, vi diệu. Nơi chốn giáo hóa mẫu mực như thế. Diệu dụng Như Lai hằng đoạn phiền não. Cội nguồn tâm tỏ là phẩm tối thượng. Tịch tịch thắng nghĩa (là) nghĩa “Như Lai tánh”, là cõi Bồ-tát thanh tịnh trong lành. Giới mốc hý luận không nhân (cũng) tự dứt. (Nếu còn tạo nhân th́ dù) giảm thiểu phần nghĩa, mong chẳng thể đạt. Nhân gây bệnh nạn, gốc (từ) mười đường nghiệp. Mọi người khắp chốn bố thí hạng kia (bệnh nạn). Ngã mạn lại dấy lần lượt dựa theo. Đói kém thậm tệ, mẫu mực nào còn! (Nhờ tu tập theo lời Phật dạy) Trong lặng viên mãn như trăng trời thu. Cầu tướng thân tâm thấu lý vô ngã. Tịch diệt hiện rõ (là) lực dụng tận cùng. Chúng nhân không (tạo) nhân, tộc họ tịch tĩnh. Tạo tác ở tâm, biến khắp muôn nẻo. (Nhờ đó mà) năng lực chưa bày, kiêu mạn (cũng) giảm bớt. Xa ĺa (phiền não) tức khắc đạt chốn tự tại. Khiêm cung không mạn, chẳng sợ lưu chuyển. Hành, giải chân thật, mong được lâu bền. Là chốn thấu đạt hòa hợp, tăng trưởng. H, thọ chuyển biến, ĺa điên đảo, nhiễm. Nơi chốn hành thí, thuận theo chánh pháp. Trí tuệ phát sinh ĺa bỏ nẻo dữ. Là cõi trượng phu rộng nghe khế hợp. Cõi ý hiện rõ, nhân thắng mở rộng. Đức hạnh hiển hiện, giáo hóa (bằng) sắc tướng. Thấu đạt nhân thắng, chư Thiên tùy thuận. Theo nhân cứu cánh, dốc tu như vậy. Thân tu bố thí, vật dụng viên mãn. nghiệp dữ rành rành, chuyển biến, dừng dứt. Ngọn nguồn thiện diệu, theo nhân thế nào? Tịch tĩnh chân thật, hành hóa ngàn lối. Chư Thiên thanh tịnh, trói buộc xa ĺa. Là nơi có vua tạo nghiệp mẫu mực. Dứt bỏ hý luận tự tại trọn nên. Tham dục tột mức (là) nghĩa lợi, tài sản. Nơi chốn thanh tịnh, thấu đạt chân thật. Cửa thiền tịnh diệu (là) b́nh đẳng tương hợp. Nghiệp tu dốc sức, h́nh tướng tăng lên. Là cõi trang nghiêm thi ân thù thắng, trong lành, tĩnh lặng. Ấm áp tươi đẹp, tịnh diệu đáng yêu. Cõi ý sáng suốt, ngọn nguồn thanh tịnh, rõ nghĩa bao la. Ở đây không còn khái niệm giới mốc.

Hành động như vậy, xa ĺa phóng dật. Thân tâm thuận hợp, theo hạnh Bồ-tát, gốc rễ tịch tĩnh (mới đạt) thượng diệu chân thật. Tánh giác viên mãn, xưa nay như vậy. Thanh tịnh, ĺa sợ, sở học mong đạt. Là chốn mong cầu theo nhân thù thắng. Bố thí, dẫn dắt, hóa độ quyến thuộc. Chỉ rõ thanh tịnh, dạy nghiệp dốc tu. Căn bản Thập thiện phát sinh là vậy. Tiêu trừ đói khát, cầu tánh Như Lai. Tu nhân tịnh diệu, sự nghiệp (lớn) viên thành.

Lực dụng thiện tịnh, hạnh đạt trùm khắp. Tự thể tư duy, gốc mọi biến chuyển. Xứ ĺa hý luận, đói khát cũng dứt. Thấu rõ buộc che, an nhiên chẳng động. Là cõi Bồ-tát tinh tấn chỉ dạy. Vi diệu thậm thâm, hành giả tự đạt, Nhân thắng thanh tịnh trong lặng, chân thật. Theo lời Phật dạy, khéo trừ đói khát. Tận cùng tự tại (là) ngọn nguồn vi diệu. Các hạnh xan tham, chúng sinh nên ĺa. Bốn loại thắng nghĩa, gồm đủ an lạc. Vọng nhiễm không bày, các mạn cũng lắng. Hiểu rõ ân nghĩa tột bậc (của) mẹ hiền. (Cũng như vậy) chúng sinh (phải) sớm biết cội rễ điên đảo. Si độn, ngã mạn, hý luận đều không. Hành, giải gồm đủ. Pháp của vương giả chúng sinh hiểu rõ. Thù thắng bố thí (là) b́nh đẳng (như) cõi Không. Bồ-tát trao dạy vâng theo tu tập. Tùy thuận bất thoái, mười lực Phật-đà. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Mẫu mực nghiêm túc. Đó là Đại thừa Đại Bát-niết-bàn. Nghĩa lợi chúng sinh tịch tĩnh là thế. Trí tuệ tự tánh (bậc) hữu học tu đạt. Phương tiện giáo hóa phiền não, nghiệp dữ. H́nh tướng (của nghiệp dữ, phiền não) mong dứt, rõ nghĩa chuyển đổi. Nhận rõ đúng thực (các thứ) tham dục, lỗi lầm.

Như Lai giảng dạy diệt trừ đau khổ.

Thế nào là ý nghĩa an lành như vầng trăng tròn?

Các thứ tai nạn gốc do tâm khởi. Nhân vốn chẳng đồng, phát sinh giới mốc. Các pháp chấp ngã, gốc là cấu nhiễm. Cõi ý bị buộc, tạo nghiệp không cùng. Bồ-đề Tát-đỏa nương theo lời dạy. Các pháp chẳng mất, khế hợp từ gốc. Bạn bè t́m cầu, nên theo trí tuệ. Thuận theo chánh pháp, nhân thắng tăng trưởng. Tâm tu bố thí, cứu độ muôn loài. Tu Thập thiện nghiệp, sinh kế chuyển đổi. Thuận theo Như Lai, tự tại, vi diệu. Tận cùng thượng diệu (là) xả thân tu thí. Giáo hóa chúng sinh, dứt mọi kiêu mạn. Trí tuệ viên mãn, vọng nhiễm xa ĺa.

Đức hạnh hiển hiện, tỏ ngộ chân thật. Thắng nghĩa tịch tĩnh, dứt mọi điên đảo. Rốt ráo tận cùng (là) rõ cõi vô ngã. Hạnh hóa độ ấy tĩnh trụ, thuận hợp. Vững tu tận cùng (là) lực dụng theo thiện. Thượng diệu tô điểm (là) tột bậc kỳ công. Trí tuệ tự tánh rốt ráo là thế. Theo nhân Thập thiện, tùy thuận tu tập. Phương tiện phát khởi, hồi hướng thanh tịnh. Cõi ý dứt mạn, cứu cánh chân thật. (Ví như) là chốn bệnh hoạn tận cùng. Không giảm, tự lo chữa trị. Lúc ấy khắp xứ dứt hết đói khát, sợ hãi. Nói năng thuận hợp, nhận thức rộng tầm. Thức thứ sáu ấy (ý thức) thanh tịnh, bất thoái. Tham dục, chấp ngã, cầu chẳng thể được (ý thức thanh tịnh). Chúng sinh lại tự (ḿnh) nhận rõ tai hoạn. Dòng thác phiền não thời thuận (lại) hiện bày. Thấu hiểu như vậy (để) tùy thuận (hoặc) xa ĺa. Bố thí thấu đạt, năng ĺa đói khát. Lực dụng tự tánh (là) trí tuệ thông tỏ. Ngôn ngữ phát sinh tùy theo tự thể. Diệu dụng tịch tĩnh, nghĩa như trăng tròn. Bố thí căn bản, nghĩa (là) dứt nhiễm tranh. Trong lặng thanh tịnh, nghĩa (là) không phiền não. Diệu hợp Thánh nhân (là) thắng nghĩa Như như. Thanh tịnh bao la (là) tự tánh rốt ráo. Đức hạnh tự tại, sức nhân là chính. (Ví như) là xứ ngu muội, trí tuệ biếng tu. Yếu kém từ gốc, lo sợ thập bội. Lại còn cho rằng: chúng sinh sinh hóa, nhân tịnh liền gặp, ĺa bỏ đói khát. Nhận rõ b́nh đẳng, tùy thuận mong đạt. Thắng nghĩa an lành lại nên tu tập. Theo lời Phật dạy khéo trừ đói khát. Lời vua dẫn dạy nơi chốn an lạc. An nhiên chẳng động (nhờ) tạo nhân chân thật. Nơi chốn nghĩa lợi, đều dứt. Thánh hiền dứt mạn, thông tỏ chân thật. Hành, giải gồm đủ, tự tại hiển hiện. Xe pháp tối thượng (là) thanh tịnh mẫu mực. Thông tỏ chánh pháp, xa ĺa vọng tưởng. Hành, giải đầy đủ, dạy bảo thanh tịnh, dứt trừ khổ não, rõ mười lực (của) Phật. Cõi thế chúng sinh, đảo điên trói buộc. Bố thí gắng tu, an trụ rốt ráo. Giáo pháp thanh tịnh lãnh hội đầy đủ. Khổ não không còn, chỉ toàn thanh tịnh. Nhận rõ gốc thí, riêng chốn vững tu. Đo lường thiện ác dựa vào nghiệp nhân. B́nh đẳng làm nền, tu tập tịnh diệu. Nhân đạt tận cùng (là) thấu lẽ vô tướng. Chi phần bố thí mà không thể hoại. Giới mốc bao đời (là) thanh tịnh, ung dung. Trong lặng thắng nghĩa (là) ngọn nguồn thông tỏ. Tu hạnh điều phục, đạt tướng chuyển đổi. Đích thực vô ngã, cõi quỷcũng biến đổi. Mong ĺa kinh sợ, xứ của mẹ hiền. Giảng dạy tu nhân, thanh tịnh thuận hợp. Ĺa bỏ nghiệp dữ nghĩa (là) không hủy hoại. Chế ngự các mạn, dẫn dắt ba cõi. Là chốn tự tại, gồm đủ xả, thí. Dòng thác phiền não, điên đảo vắng bặt. Tự tánh thông tỏ gốc mọi tai họa. Mong dứt tránh, nhiễm, ĺa đường tham ái. H́nh tướng tịch tĩnh, gốc của hòa hợp. Tạo tác “vô tướng”, Thánh hiền b́nh đẳng. Lành thay! Lành thay! Phước đức mênh mông; thấu tỏ (lời) khuyên dạy, đói khát xa ĺa. Chánh pháp vô thượng, tùy thuận gồm đủ. Chư Thiên thiện tịnh, trong lặng an lạc. Giáo hóa chúng sinh theo đường Thập thiện. Sửa trị như vua, kiêu mạn không dấy. Không nhân phiền não, yêu tin, giữ ǵn. Chẳng lúc nào rời (công việc) dưỡng, trị, an định.

Thế nào là chúng sinh (đạt được) tịch tĩnh, tại nơi chốn ấy bố thí thù thắng, chân thật?

Tịch tĩnh vô ngã (như) vua khéo (tạo sự) b́nh đẳng. Đói khát không còn, kiêu mạn chẳng dấy. Là cõi sung mãn, thù thắng, giải thoát. Vương tạo nhân chính, muôn việc tốt lành. Hành, giải đầy đủ, ngợi khen theo thiện. Cứu giúp muôn loài, nhân diệu thể hiện. Tu hạnh nguyện lớn, trừ bỏ vọng tưởng, trí tuệ chân thật như thế cùng sinh. Bố thí ngàn loài, (bậc) Hiền thiện trên hết. Sức mẹ hiền ấy phát triển muôn đời. Chân ngã không bị quả báo chi phối.

Dòng thác phiền não, Phật-đà hằng dứt.

Chứng đắc Thập địa, rõ tánh Như Lai. Xa ĺa nẻo dữ, tịch tĩnh vô biên. (Như) Vua theo nhân thắng, khắp chốn thuận theo. Gốc không hý luận (mới) chân thật bố thí. Hành, giải gồm đủ, là chốn tự tại. Trong lặng, an nhiên chính là giải thoát. Lực dụng tu thí, thích ứng từ gốc. Chúng sinh không (tạo) nhân (bố thí), cơm áo đâu dư. Dốc tu bố thí, phương tiện đủ đầy. (Bậc) vô học dứt bỏ (mọi) ngã mạn, si độn. Trói buộc xa ĺa (đạt được) thanh tịnh thuận hợp. Như cõi quốc vương trí tuệ viên mãn. Theo nhân cứu cánh, Tam bảo an trụ. Tăng thêm cúng dường, sắc diệu (càng) rực rỡ. Tự tại gồm đủ, ngôn ngữ hiện bày. Từ chốn thanh tịnh, cõi pháp hòa hợp. Mười lực Như Lai, làm sao đạt được? Tạo tác chân thật, khế hợp Như như. Thấu lời Phật dạy, bố thí gồm đủ. Nhân gốc tịnh diệu, điên đảo lặng dừng. Khéo tu điều phục, hành theo mẫu mực. Là chốn đa văn, tịch tĩnh, (các) chi phần (đều) trọn đủ. Dốc tu thượng diệu, mong đạt b́nh đẳng. Chế ngự kiêu phóng, trừ diệt phiền não, nhân tạo (ra) bệnh nạn. Chấp ngã, nhiễm cấu không nhân (nên chẳng) hiện hành. (Như vị) Quốc vương thấu rõ bao lớp lỗi lầm. Tự theo phép tắc dứt bỏ (mọi) tai nạn.

Hết Quyển 8

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 9

Cầu chân thật ấy, không tu mà đạt. Điên đảo tận cùng tạo thành nghiệp dữ. Vắng thiếu nhân lành, kiêu mạn càng dày. Quán pháp vô ngã, ĺa bỏ tất cả.

Là chốn cửa thiền tịch tĩnh, tự tại. Bố thí tuy nhiều, rốt (lại là nhằm) dứt hý luận. Thanh tịnh trùm khắp thế giới chúng sinh. (Bậc) Thanh văn còn chuyển (lên) Đại thừa (mới hoàn toàn) an trụ. Trí tuệ tối thắng, bao la như (cõi) không. Vi diệu sâu xa, nhân hành thuận hợp. Thông tỏ tận cùng, diệu dụng vô biên. Tánh vô (như cõi) hư không, muôn vật tùy thuận. Tham ái, điên đảo (làm cho) tự tánh ngửa nghiêng. Tự tánh (ấy) lại tỏ, thấu đạt thành thật (như vị) quốc vương thi ân, dốc tu thanh tịnh. Châu báu vô biên (là) tịnh diệu bất thoái. An tĩnh đích thực, hý luận đâu còn. Hành, giải (theo) nhân thắng, thanh tịnh hiện bày. Vương giả thấu rõ thiện diệu hòa hợp. Cõi nước (của) vua ấy an tĩnh, b́nh đẳng (như) mẹ hiền vui sướng, vô cùng hòa hợp. Là cõi Bồ-tát tu tập vô tướng. Hành động như vậy, mong đạt thù thắng, lại không hao tổn.

Ung dung tự tại (là) nghĩa tánh Như Lai. Vương giả nương tựa, (Như Lai tánh) an định, dừng lặng. H́nh tướng giáo pháp tăng trưởng khắp nơi. Dứt bỏ tận cùng (mọi) nghiệp dữ, cấu nhiễm, che buộc, hý luận. Vô số các ma chẳng thể phá hoại.

Thấu tỏ thu nhóm (là) nghĩa b́nh đẳng. Nghiệp dữ tự tạo, bệnh nạn càng tăng. Nhân quả chẳng tường, buông theo tham dục. Lực dụng tự phô chẳng rõ ngọn nguồn. Ba độc cấu uế lấn quấy tự tại. Chẳng rõ điên đảo (làm cho sợ hãi). Xa ĺa các mạn, nương cõi b́nh đẳng. Bố thí phương tiện, phiền não không còn. Từ bỏ phóng dật (đạt được) tịch tĩnh, tự tại. Giác pháp tăng trưởng (là) xứ của an vui. Thấu triệt cái hại (của) si độn, ngã mạn. Ngọn nguồn pháp tánh Như như, vô tận. Thật tánh trọn nên, tận cùng ấy (Như như) đạt. Là nơi (nhận ra) ngã mạn, phóng dật là giả (trá). Hiểu rõ (lời) dạy khuyên, dốc theo bố thí. Các hạnh (bố thí) chân thật (nhằm tới) ba loài xấu yếu. Thanh tịnh, xa ĺa. H́nh tướng đạt được. Nhà cửa yên tĩnh. Quần sinh hiện bày. Nhân lành chẳng mất. Tu tập thanh tịnh. Xa ĺa điên đảo.

Thế nào là tu tập diệt trừ nghiệp dữ?

Nhận rõ như thế, an trụ bất thoái. Nhân hành gồm đủ, tỏ ngộ như thật. Mong đạt tận cùng gốc rễ (của) h́nh tướng. Bậc Đại Bồ-tát phát sinh lời ấy. Phép tắc của vua rộng lớn, chân thật. Ổn định sửa trị khắp cõi là chính. Dứt trừ bệnh nạn, bố thí đói khát. Ngôn ngữ hiện rõ (đói, bệnh) thiện tịnh xa ĺa. Xứ sở giảm bớt cấu nhiễm trói buộc. Diệu dụng Thánh hiền dứt bỏ các mạn. Lực dụng bố thí thanh tịnh tận cùng. Những thiện tịnh ấy (của bố thí) giải trừ đói khát. Mọi thời, khắp chốn, nhân ấy nên tu. Đói khổ càng nhiều (càng) bố thí đúng mức. Ngôn ngữ phát sinh rời bỏ vọng tưởng. Mẫu mực dốc tu, thanh tịnh vô tận. Yêu thích Thập thiện, tịch tĩnh phát sinh. Xứ của tịnh diệu biến khắp như vậy. Mong đạt đế lý, gồm đủ tự tại. Chúng sinh tạo nhân, phương tiện tu sùng.

Thế nào chúng sinh hành giải tự tại?

Vương giả gồm đủ (các) nhân thù thắng, lớn lao, rõ dường hành đạo. Tự tánh dứt buộc, chân thật như thế. Tăng thêm phương tiện, biết rõ khẩu hòa. Tròn một do-tuần dốc tu thắng tích. Nhân tịnh tịnh diệu, chân thật ắt đạt. (Nhân tịnh ấy) trong sáng, ấm ấp, tịch tĩnh tận cùng. Nơi chốn tạo tác nhân thắng thiện diệu. H́nh tướng đáng yêu, chân thật vô biên. Tự tánh ung dung, tự tại thù thắng. Là chốn vương giả cứu giúp đói khát. Lời thật ngợi khen khế hợp, đúng phần. Dứt sạch nghiệp dữ, tướng mạo không mất. Tận cùng dục lạc (là) thông tỏ cõi tánh. Theo nhân thắng diệu, lực đủ chuyển đổi. Thuận hợp tột bậc (là các) h́nh tướng bố thí. Ĺa xa tai nạn, dốc tu chóng thành. Gánh vác rộng khắp, ngôn ngữ hòa thuận. Tu tập tịch tĩnh (đạt) phước báo thắng nghĩa. Ngôn ngữ thanh tịnh như thế (có khả năng) dứt bỏ mọi nhân đói khổ. Chân lý hiện bày, phát sinh (việc) dẫn dạy. Thiên chủ Đế Thích ngôn ngữ thành thật. Thập thiện như vậy (là) nhân thắng rốt ráo. Thức thứ sáu −ý thức− xa ĺa nhiễm ác. Bố thí mong đạt ngôn ngữ thượng diệu. Nhân thắng căn bản (của) thể tánh (là) bất thoái. “Vô tánh” là ǵ? Tận cùng (của) thật ấy. Thiện pháp chân thật chẳng sinh hủy hoại. Hướng cầu Thánh đạo chân lý gốc tịch.

Thế nào là phương tiện để nhận biết, thấu suốt?

Xứ sở vua rộng lớn, tịch tĩnh. Giáo lệnh sửa trị thành tựu như vậy. Hiện bày, chuyển biến, cứu giúp không cùng. Ngôn thuyết tột bậc, khéo dứt đói khát.

Thế nào là điều trọng yếu ở chốn thế gian? 

Cõi bờ tạo dựng, muôn dân yên tĩnh. Chánh pháp vững truyền, Tam bảo an trụ, căn bản hành động an định như vậy. Giác ngộ nhân (của tánh), ĺa mọi sợ hãi. Ái lạc trói buộc (làm) đổi thay nơi chốn. Tận cùng tự tại (là) thông tỏ nhân hành. Là cõi tánh giác trí tuệ thông suốt. Chân đế hiển hiện, tham dục sạch làu. Nhân tánh chuyển biến, dứt hết đói khát. Tự tánh tĩnh trụ, chế ngự bạo lực. Luật nghi khá tuân, giới đức thanh tịnh. Lực dụng nên nương, rõ nghĩa hoan h. Bậc vua nổi danh, mong không thể được. Tận cùng ngã mạn (là) chúng sinh (mãi) trôi theo mười nẻo bất thiện. Bố thí như vậy khắp cõi do-tuần. Chúng sinh thấu đạt dứt bỏ ngã mạn. Chúng sinh cầu học, ĺa sợ sinh vui. Thuyết pháp khắp cõi, dẫn dắt hữu t́nh. Tâm của chúng sinh nhận rõ nghĩa lợi. Lực dụng mong đạt, gắng diệt tham dục. Mong cầu thuận hợp, tánh ngã ĺa tham (dục). Đức hạnh tối thượng: chúng sinh chỗ dựa. Ý không phẫn, hận, tịch mặc là vậy. Bố thí chúng sinh các pháp đức hạnh. Tánh ĺa sân hận, tự tại là hạnh. Nơi chốn tu tập không còn điên đảo. Gốc của tai nạn chính do tranh tụng, hý luận. Phật pháp thanh tịnh, khế hợp mọi chiều, rõ nghĩa ích lợi. Thắng nghĩa an lành, thanh tịnh tối thượng. Mong đạt dứt sạch vọng tưởng, nghiệp dữ. Đức hạnh vi diệu đạt được là thế. Lực dụng quán chiếu, thấu đạt chân thật. Giữ ǵn nghĩa lợi, giả trá chẳng sinh. Hòa thuận tăng thêm, xứ của tự tại. Bố thí tăng trưởng, cõi ý thanh tịnh. Xa ĺa bệnh nạn, hòa hợp hiển hiện. Các cõi trời ấy thảy đều hộ tŕ. Nương giữ tịnh diệu, hiện bày vô ngã. Đức hạnh hòa hợp, tánh giác thông tỏ. Cõi tánh tham ái, giải thoát nào đạt. Không nhân vọng tưởng (để) tạo nên chuyển lưu. Thanh tịnh chân thật hiện rõ như thế. Nhận rõ pháp thí (là) nhân của thù thắng. Thể tánh thiện diệu, pháp vốn tĩnh lặng. Ái lạc thượng diệu, gốc từ ba thiện. Rõ nghĩa an lành (là) tịch tĩnh trùm khắp. Quan sát chúng sinh (nào) đói khát, tai họa. Là cõi quốc vương, lực dụng dốc tu. Chân thật không mạn, yêu dưỡng trọn đủ. Phiền não không dấy, nên rất xa ĺa. Gốc của đói kém. Rõ là hoại tánh. Là chốn Bồ-tát gốc sạch cấu nhiễm. Mong đạt ngọn nguồn vi diệu (của) ba thiện. Xa ĺa tận cùng h́nh bóng đói khát. Gốc rễ thuận hợp (là) thanh lịch đích thật. Nhân thắng Thập thiện, chư Thiên trọn đủ. Dòng thác phiền não nhận rõ, dứt trừ. Tạo tác h́nh tướng, tham dục không mất. Tu hạnh bố thí, gốc của giáo pháp. Tận diệt điên đảo, tâm ý chuyên tu. Gốc của chư Thiên: tạo nhân bố thí, chân thật tận cùng, đó là tăng trưởng. Tướng mạo tươi sáng, đúng (bậc) Đại trượng phu. An trụ nghiêm mật thuận hòa như thế. Tịch tĩnh đạt được, yên vững chẳng lay. Nhân diệu thanh tịnh phát sinh vô ngã. Dung mạo bạn lành trọn đủ như vậy. Lực dụng tạo tác nghĩa lợi thành tựu. Phước báo nhiều đời tận cùng xứ sở. Tạo nhân Thập thiện, dốc tu như vậy. Dung mạo ôn hòa, hạnh của Bồ-tát. Cõi ý đạt được thanh tịnh viên mãn. Diệu dụng Bồ-tát bố thí trang nghiêm. Giới mốc thảy vượt, cấu nhiễm đều sạch. Thường trụ, hằng hữu, chân thật trùm khắp. Trượng phu (còn vướng) hý luận, tham dục còn dấy. Gốc của tạo nghiệp (tham dục dẫn tới) chốn đầy nghiệp dữ. Trí tuệ chúng sinh thấu rõ, trừ diệt. Đó thực là điều Bồ-tát ĺa bỏ. 

Thế nào là h́nh tướng ung dung viên mãn?

Quan sát nơi chốn khác biệt như thế. Hiểu rõ (bao thứ) nhiễm buộc, sợ hãi (ở) thế gian. Thấu suốt nơi chốn, ĺa bỏ (các) nhân ấy. Thấu đạt lời (chỉ) dạy, dứt tuyệt nhân buộc. (Bậc) Hữu học nên ĺa nhân của thế gian. Tự tánh thanh tịnh, trí tuệ chứng đạt. Theo (lời) thầy khuyên dạy, chúng sinh thêm trí. Thế gian dốc tu, tạo nhân rộng lớn. Ba thừa giáo hóa, cùng về Phật tánh. Bóng h́nh biến đổi thảy đều không thật. Tham đắm phiền não, thanh tịnh mất nhân. Hàng chúng xuất gia, xem (kẻ) ấy (là) vô trí. Phiền não, tội lỗi, Như Lai hằng dứt. Đức hạnh thâm diệu (do từ) nhân thắng thanh tịnh. Hành, giải (theo) phước đức, tùy lúc thuận ly. Chúng sinh điên đảo, tham đắm phương tiện. Sân hận dứt hết, đạt được nâng đỡ (của Bồ-tát). Là chốn nên rõ, nghĩa lợi thế gian (tạo nên) thành lũy chấp ngã. Nhận rõ nơi chốn chuyển biến thuận hợp. Vương giả giữ nước, tai nạn chẳng còn. Hành, giải gồm đủ, thông suốt khắp cõi. Xem xét thấu đạt, đức hạnh chân thật. Cõi nước của vua miền xa khó đến. Dung mạo thù thắng, tai nạn đều không. Tự tánh Niết-bàn, giải thoát hiện rõ. Bố thí chân thật (là) hạnh mật ĺa vọng. Nơi chốn khế hợp tu tập tối thượng. Hướng đến tận cùng (là) tự tánh thanh tịnh. Tà hạnh chẳng tu, hòa thuận viên mãn. Nương tựa thanh tịnh, tiếp cận ngọn nguồn. Đức hạnh cùng tận (là) b́nh đẳng chân thực. Đạt gốc nhân thắng, hạnh mật thuận hòa. Ái lạc thanh tịnh, tịch nhiên không mất. Bồ-tát tự tại, tăng trưởng tận cùng. Tạo nhân căn bản, bố thí thấu đạt.

Thế nào là Thánh đạo an lành tăng trưởng?

Thấu rõ thắng hạnh, ngã mạn chẳng sinh. Món ngon đầy đủ, yêu dưỡng vô cùng. H́nh tướng rốt không, tận cùng như thị.

Thế nào là bố thí thanh tịnh, mẫu mực thuận hợp?

Nơi chốn tịch tĩnh, thông tỏ mọi lẽ. Là cõi trí tuệ vô tướng thật bày. Tu tập tịch tĩnh, dứt mọi hoạn nạn. Đạo hạnh Bồ-tát trí tuệ chân thật. Chúng sinh ĺa vọng, mọi tai nạn sạch. Tự tánh thâm diệu, phiền não đâu còn. Hạnh thí thấu suốt, lực dụng hòa hợp. Đức hạnh gồm đủ, cấu nhiễm biến đổi. (Như) mẹ hiền yêu dưỡng; vô cùng rỡ ràng. Tự tại tĩnh lặng (là) lực dụng tận cùng. Chi phần (của) giáo pháp trong lặng hiện rõ. (Như) chế độ của vua, cõi xa yên định. Nhân gốc Bồ-tát nghiêm túc ĺa bỏ (phiền não). Tứ quả Thanh văn thắng nghĩa viên mãn. Chư Thiên ái lạc, giáo pháp phát huy. Dung mạo ít có, vui mừng, an định. Tịch tĩnh không tranh, trong lành như trăng. Ĺa bỏ nhân tranh, chân thật vững tu. Mong nguyện hòa hợp, phước đức gồm trí. Giáo pháp căn bản, chư Thiên nương theo. Thương xót chúng sinh luân lưu ch́m đắm. Là cõi tham dục điên đảo vô cùng. Thánh pháp gồm đủ, nhân nhiễm đều dứt. Hành, giải đầy đủ, tinh cầu chánh pháp. Tùy thuận bố thí tức là tự tại. Thâm diệu tột bậc, ma chẳng thể hoại. Quốc vương mến mộ, khắp chốn tịch tĩnh. Tạo tác nghiêm túc, chuyển biến tự tại. Ngọn nguồn nghiệp dữ thảy đều dứt sạch. Là cõi trí tuệ xa ĺa dòng thác: bao loại điên đảo, nhiễm buộc, các mạn. Chi phần Bồ-tát tu tập tịch tĩnh. Tâm ý lặng dừng đạt nhân không mất. Tánh không vốn tịnh, an tĩnh tự tại. Cõi người gánh vác như bậc mẹ hiền. Phiền não tận diệt, tự tại đúng tên.

Là chốn quốc vương năng trị tham dục, sân hận, ngu si, khinh mạn các loại. Muôn loài, quyến thuộc dứt mọi đói khát. Tự tánh Bồ-tát thanh tịnh phát huy. Thân tâm chúng sinh đạt được chân thật. Vương giả tu sùng nghiệp gốc như thế. Nghiệp dữ ấy do vọng tưởng trói buộc. Mười loại căn bản (của) dòng thác phiền não. Bố thí b́nh đẳng hành động phát huy. Chân thật, không tranh, lực dụng trọn đủ. Cõi tánh thanh tịnh, trang nghiêm tốt đẹp. Thấu đạt cõi tánh, nhân (của) bậc hữu học. Ngọn nguồn giới luật bao la bày hiện. Tùy thuận, phát huy, chuyển biến, an định. Căn bản Thập thiện tánh vốn hằng có. Hoạn nạn, tham dục chuyển đổi không vướng. Dốc tu hạnh thí, chân thật hợp phần. Hý luận như thế gốc do thiếu tuệ. Chế ngự tai nạn, thâm nhập tĩnh lặng. Nhận biết, thấu rõ gốc rễ (của) phóng dật. Là xứ Bồ-tát dạy pháp Vô thượng.

Thế nào là phiền não ở cõi ý khó đoạn?

Mong cầu không thật, tạo tác vô cùng. Như mẹ nuôi con luôn luôn bảo, giữ. (Giúp cho) chúng sinh thấu tỏ các pháp tịch tĩnh. Lực dụng vô ngã (là) sức nhân bạn lành. Tịch tĩnh phát huy, dứt mọi lo sợ. Mười loại pháp thiện (tu tập, đem lại) tự tại tận cùng. Ngăn nẻo bất tịnh, ngôn ngữ (thêm) dồi dào. Dốc lòng tu tập, khắp chốn khắp nơi. Tạo nhân vô biên, mong chẳng thể thấy. Tự tánh chân thật, rõ nghiệp bao đời. Dứt bỏ kiêu mạn, tùy thuận khá đạt. Chúng sinh điên đảo, chỉ dạy thanh tịnh, trí tuệ thông tỏ: Xiết bao công phu, chúng sinh thấu đạt, dứt nhiễm tận cùng. Nhân của ái lạc, thuận theo dòng chuyển. Chúng sinh nhận rõ phiền não, lỗi lầm. Là chốn quốc vương thi ân dân chúng. An trụ (trong) biến động, mong đạt tịch tĩnh. Trí tuệ thông tỏ, hướng cầu giải thoát. Dung mạo dốc tu thiền định, trí tuệ. Bồ-tát dứt bỏ trói buộc như vậy. Bố thí chúng sinh nghĩa lợi chân thật. Hành, giải gồm đủ, tự tại thể hiện. Lành thay hạnh xả! Tu tập, xa ĺa. Bậc Đại Bồ-tát chỉ dạy dẫn dắt. Là lúc quốc vương cùng với chúng dân an vui bố thí, dốc lòng tu tập. Châu báu, kho tàng một thời bỏ hết. Là cõi chúng sinh kiêu dật như vậy. Trong khoảng tịch tĩnh, không nhân phiền não. An trụ rốt ráo. Nhận rõ bố thí, chẳng cầu h́nh tướng. Tĩnh lặng không chao, như trăng trong sáng. Tâm thiện xa ĺa dòng thác phiền não. Nghiệp dữ, các mạn không thể dấy thêm. Quan sát vọng tưởng (tỏ được) gốc thường chẳng sinh. Nơi chốn tịch tĩnh, (là) tự tánh đúng thực. Nhiễm ác, trói buộc, gồm đủ h́nh tướng. Như vậy, (là) chúng sinh mang lấy sắc tướng. Xa ĺa nhân nhiễm, thanh tịnh hiện bày. Nghĩa lợi vui sướng h́nh tướng lộ rõ. Quả báo thế gian, trọn nên trừ nghiệp. (Các quả báo như) sinh kế đói khát, điên đảo, ngạo mạn. Mong thảy xa ĺa, hoạn nạn cũng dứt. Điên đảo hợp phần (là do) tạo tác (từ) bao đời. H́nh tướng trói buộc, biến đổi dứt sạch. Bố thí thù thắng mong đạt thanh tịnh. Tu tập tánh từ, nhân thiện hòa hợp. Khắp chốn giữ ǵn (tránh) tai họa, bụi nhơ. Hướng tiến tu học (là nhằm) diệt sạch phiền não. Bụi bặm không xua, thanh tịnh nào đạt. Giá như nghiệp dữ lại sinh tận cùng. Gốc rễ rộng lớn, nhân của cùng tận. Ham thích tu thí, hướng cầu thanh tịnh. Chỉ dạy chúng sinh, tùy thuận giữ ǵn. Quốc vương vững tu, xứ sở rộng khắp. Hữu t́nh thế gian gốc theo tam thiện (là) không tham, không sân, không si. Là gốc thiện của tự tánh ung dung. Tà kiến, nghiệp dữ thật sự không còn. Thương dẫn muôn loài (ra khỏi) tội lỗi, điên đảo. Thuận theo tịch mặc bao la là thế. Tam bảo an trụ, hành động thuận hợp. Thiếu trí vững tu, mong cầu sân hận. Xứ sở thành ấp: Xóm Thánh làng thân. Tạo nhân thanh tịnh, h́nh tướng hiện bày. Ở nơi già-lam, thiền định tịch tĩnh. Tự tánh hữu t́nh chuyển biến, an định. Tứ thiền căn bản, năm dục đều dứt. B́nh đẳng thành tựu, gốc của an lạc. Chân thật tận cùng (là) nghiệp dữ chuyển đổi. Dứt mọi h́nh tướng đói khát, bụi cấu. Thập thiện phát huy, chốn ấy, (đói khát, phiền não) không còn. Hành động thích ứng, si mạn đều dứt. Thâm diệu, dứt sợ, tịch tĩnh hiện bày. Mong cầu an định, thấy rõ nhân gốc. Công dụng Thập thiện dứt trừ trói buộc.

Thế nào là h́nh tướng chân thật chẳng mất?

Bố thí thanh tịnh (là) nghiệp nhân hành động. Chân thật thắng nghĩa (là) vật dụng thích ứng. Thâm diệu thành tựu, tự tại khế hợp. Tạo nghiệp hý luận (làm) đảo điên tự tánh. Tâm hướng Bồ-đề, thắng nghĩa viên mãn. Hành thí hợp phần mong đạt tịch tĩnh. Căn bản tĩnh trụ, biến chuyển tự đạt. Tu thí đầy đủ (bậc) hữu học (đạt được) thanh tịnh. Tôn tạo tranh tượng hết lòng thể hiện. Căn bản tất thảy tu thí tận cùng. An lạc từ trước (làm) tăng trưởng an định. Trong cảnh thanh tịnh, dứt nhân nghiệp dữ. Hành, giải hợp nhất.

Thế nào là h́nh tướng ngã mạn tận cùng?

Tự tánh xưa nay nhiều loài thấu đạt. Các nghiệp quá khứ, an lạc thảy cầu. Xa ĺa đói khát phước đức thuận hợp. Gốc rễ không phân, ngọn ngành có khác. Bố thí (nhằm dứt) tham dục, điên đảo trói buộc. Dòng thác phiền não hiện hành như vậy. Tu thí tự tại, tiêu trừ hý luận. Nghiệp thiện đạt được, thắng lợi viên mãn. Năng lực tinh tấn dứt mạn, si độn. Xứ sở chuyển đổi, hành động lại thêm. Thế gian an lạc, yên định đích thực. Nhận thức sáng tỏ, thuận hợp là vậy. Hành, giải gồm đủ, thù thắng vô cùng. Chi phần chân thật, linh động hòa hợp. Nền tảng Phật pháp chính là vô tướng. Quốc vương trị nước, gốc pháp chân thật. Tu tập thuận hợp, mẫu mực hiện bày. Thấu đạt thanh tịnh, chế ngự là chính. Hướng tới dứt trừ điên đảo, nghiệp dữ. Dòng thác phiền não không ngoài căn, tùy. Trí tuệ phát sinh (từ) hòa hợp tột bậc. Xa ĺa (phiền não) mong đạt tĩnh lặng, thuận hợp. Lãnh thổ của vua tịch tĩnh tận cùng. Hiểu biết hành động, ĺa mọi tai nạn. Là cõi Bồ-tát thấu tỏ, thuận hợp. Ngăn chặn tất cả các pháp bất tịnh. Hữu t́nh thấy rõ, an lạc tăng thêm. Tham dục của vua thật là không bờ. Nhân điên đảo ấy hốt nhiên dứt hết. Nuôi dưỡng muôn loài, mong cầu Thánh đức. Trong ngoài tịch tĩnh, theo thời nhận biết. Hành động phát huy, gốc từ mẫu mực. Là chốn Bồ-tát như hạnh mẹ hiền. Thông tỏ đúng phần, dứt bỏ điên đảo. Quan sát tăng thêm, chế ngự tất cả. Hành, giải hướng tới thắng nghĩa thanh tịnh. Thân tâm không nhân, căn bản khế lý. Chế ngự điên đảo, tự tánh hiện bày. Gốc của an định do từ bố thí. Phước đức rốt ráo, tự tại an tĩnh. Vô ngã, thanh tịnh, tăng thêm ái lạc. Tự tánh thông tỏ cội rễ dòng thác. (Cùng với) đói khát, hoạn nạn, h́nh tướng hý luận. Si độn, các mạn chấm dứt, tịch tĩnh tận cùng. Như sư tử vương nuôi dưỡng đủ đầy. H́nh tướng đầy đủ, nơi chốn dứt sợ. Tự tánh thích ứng tạo nhân vi diệu. Cung kính cúng dường, thiện diệu chuyển biến.

Thế nào là nhân thắng tăng trưởng thực sự?

Trí tuệ tịnh diệu, tịch tĩnh chế ngự (phiền não). Xa ĺa ngôn thuyết, nơi chốn tùy thuận.

Thế nào là thắng nghĩa chuyển biến thuận hợp?

(Đạt) nhân thắng thanh tịnh, tánh phiền chẳng sinh. Tịnh diệu như thế. Bồ-tát chỉ dạy, tự tại hiện bày. Ngôn ngữ khế hợp, thuyết pháp độ khắp. Vương giả làm sao sửa trị khắp cõi? Tự tánh quan sát pháp thiện không tranh. Nhân diệu thanh tịnh rõ nghĩa dưỡng nuôi. Chân lý thuận hợp, căn bản gồm đủ. Tự tánh hòa hợp, thân tâm an lạc. Nơi của nuôi dưỡng (an lạc là) tu tập vô bờ. Hiểu biết thấu đạt, hướng cầu chân thật. Tuệ giác đạt được tối thượng tận cùng. Thánh pháp thanh tịnh, dứt buộc như vậy. Ngọn nguồn gồm đủ hý luận không quấy. Tự tánh thanh tịnh, phiền não hằng dứt. Các pháp (của) tự tánh (là) gốc mọi lưu chuyển (dẫn đến) si độn, các mạn, kiêu, phóng dấy khắp. Gốc mọi tai họa vốn là tĩnh lặng. Chúng sinh đuổi theo bóng h́nh không thật. Bồ-tát phải dốc chỉ dạy (lý) tối thượng. (Giúp) tự tánh nhận ra nghiệp dữ, đói khổ. (Nhận ra) là chốn phiền não chồng chất từ trước. Nghĩa lợi rộng lớn (là làm cho) chúng sinh (được) thanh tịnh. Tạo nhân bố thí (đạt) tĩnh lặng thiện diệu. Chúng sinh tỏ ngộ theo nhân Bồ-tát. Thập thiện phát khởi, an trụ không chao. Giáo pháp gồm đức, bản lai vốn không. Bản tánh tùy thuận hiện bày có khác. Thâm diệu phát huy, nhân thắng là thế. Yên vững an định.

Thế nào là thân tâm tịch tĩnh trọn đủ?

Tu tập chân thật, vô úy thành tựu. Tự tại tận cùng (là) thắng nghĩa vô sinh. Như vậy là Bồ-tát đạt được quả vị A-la-hán thanh tịnh, chẳng động. Xoay chiều dòng thác điên đảo phiền não. Dứt nhân vọng động, hoạn nạn cũng dừng. Quan sát chúng sinh, bố thí thanh tịnh. Diệu dụng giải thoát (là) tịch tĩnh thắng nghĩa. Là lúc dạy khuyên dốc tu tự tại.

Chấp ngã rộng lớn không cùng là thế: Cội rễ nơi sinh (của) dòng thác phiền não. Lại phải hành động (để) dứt bỏ, xa ĺa. Quan sát rõ lẽ, thấu tỏ đúng phần. 

Thế nào là chúng sinh chế ngự tự tánh?

Hành động ung dung, đúng phần, lâu dài. Tự tánh căn bản, tịch tĩnh như (cõi) không. Quan sát ḿnh, người, thanh tịnh cùng lợi. Là chốn tùy thuận, thù thắng tột bậc. Đủ sức thực hành, trọn thêm vô úy. Đó là Đại thừa giác ngộ, giải thoát, tạo nhân giáo hóa, ví như hoa sen mọc lên từ bùn. Thanh tịnh thắng nghĩa (là) cội rễ (để) chế ngự. Tạo nhân tu thí, đạt được thiện lợi. Tướng gốc (của) nghiệp dữ (là do) chẳng chịu thi ân. Tỏ ngộ cấu uế, thanh tịnh không khác. Tăng thêm chế ngự, b́nh đẳng gồm đủ. Tự tánh thắng nghĩa, không phân bỉ thử. Gốc của tai họa hiện hành rõ ràng. Thuận theo trí tịnh mong đạt được như vậy. (Nhận rõ) tự tánh tịch tĩnh, phiền não nhiễm, buộc. Thân tâm thanh tịnh, dứt mọi biến chuyển. Bố thí mong đạt lực dụng thích ứng. Quan sát vô tận tất cả chúng sinh. Tùy thuận mong đạt nhân tánh tối thượng. Tự tánh vốn không (có) các mạn si độn. Bố thí vô tướng, dứt sạch (mạn, độn), chuyên tu. Thuyết pháp chân thật, năng dứt thắng dục.

Thế nào là chư Thiên ngôn ngữ chân thật?

(Theo) nhân thắng căn bản, tu tập thuận hòa. Hạnh thí vô biên (là) pháp đàn căn bản. Xa ĺa dục lạc, nghĩa lợi thêm tu. Dứt trừ vọng tưởng, gốc không si mạn. Hành, giải gồm đủ, hạnh tu tinh tấn. Nhân thắng bất thoái (là) gốc rễ (của) người trời. Thuận theo thắng nghĩa thêm tu bố thí. Nhân của chân thật (là) gốc mọi thành tựu. Tạo nhân thí, mong thanh tịnh trùm khắp. Các pháp thâm diệu, dẫn dắt chúng sinh. Tu tập bố thí, bí ngữ khế hợp. Phát huy tịch tĩnh, dứt mọi tham dục. Hành, giải gồm đủ (đạt) nhân thắng thanh tịnh. Làm chủ mọi nhân, tự tại là vậy. Hành động phát huy (đạt) chân thật thắng nghĩa. Tất thảy tai nạn tự nhiên lặng dừng. Xa ĺa tất cả cấu nhiễm, trói buộc. (Cùng với) phiền não, si độn biến chuyển khắp chốn. Là cõi chúng sinh tịch tĩnh tận cùng. Lực dụng tự tại thuận theo bản tánh. Nhân buộc, cấu nhiễm, hợp nhất gồm đủ. Chúng sinh tỏ ngộ dứt bỏ hý luận. (Cùng với) Nơi chốn tai họa, tu tập hiền thiện thắng nghĩa. Tự tánh chân thật, bố thí thanh tịnh, (đạt) lực dụng tận cùng (là) tự tại tịch mặc. Chúng sinh khắp chốn tạo nghiệp điên đảo. Sinh tử trôi lăn rõ nghĩa ngu si. Xa ĺa chấp ngã (mới) thông đạt tận cùng. (Từ) căn, tùy (phiền não) tạo tác, nghiệp dữ hiện bày. Xứ sở điều hòa, như (cõi) không vô ngại. Cơm áo cao sang, ĺa bỏ không màng. Đạo pháp thanh tịnh, hàm nghĩa giáo hóa. Nói rõ (các) mối lo, tự tánh hiển hiện. Các pháp tịch tĩnh, mong đạt tự tại. Tu thí thanh tịnh, bố thí khế hợp. Ĺa gốc vọng tưởng, thuận hòa trọn đủ. Tịch tĩnh như vậy, đạt nghĩa thâm diệu. Cơm áo dồi dào (càng rõ) lời nói chỉ dạy. Bố thí dẫn dắt, tăng thêm tịch tĩnh. Tỏ ngộ chân thật h́nh tướng như (cõi) không. (Là) Hành tướng căn bản (của bậc) Thánh giả tu học (hoàn tất). Giải thoát đúng nghĩa, b́nh đẳng như vậy. Gốc rễ cấu nhiễm, hý luận đều dứt. Thắng nghĩa phát khởi, tướng nhân thích ứng. Nghiệp tạo lâu đời (cũng được) thanh tịnh tận cùng. Dứt (bỏ) các mạn, độn, dấy thêm (hoặc) đã có. Cuốn theo dòng thác, tịch tĩnh nào còn. Nẻo nghiệp (của) bốn loài hiện sống theo sau nghiệp cũ (một cách) bất định. Như vậy tự tại (hiện có) gồm đủ tất cả tạo tác từ trước. Tạo nghiệp bố thí (đạt) thanh tịnh tận cùng. (Như) lúc lạnh gặp lửa đủ nghĩa thù thắng. Là cõi chân thật căn bản thuận hợp. Xa ĺa nghiệp cũ, thân tâm hòa hợp. Đường nghiệp căn bản (là) tu tập nhân thắng. Chư Thiên đạt vui yên ổn, tịnh diệu. Nhân của khổ thọ tạm thời không dấy. Dục lạc tự tại (chư Thiên) làm tăng si, mạn. Ấy là ĺa bỏ nghiệp dụng xa xưa. Chúng sinh bố thí thiện tịnh thuận hợp, phiền não tự dứt. Cõi ý dứt bỏ (các) nghiệp tạo đời trước. Hợp phần vô biên, kẻ giỏi nhận trước. Như vậy các bậc tu học (hoàn tất) đạt được thanh tịnh trùm khắp, an trụ rốt ráo. (Mọi) cấu nhiễm trói buộc từ xưa đều sạch. Không nhân lo phiền, thân tâm thanh tịnh. Dẫn dạy chúng sinh ý chuộng tu thí. Thế gian thông tỏ thanh tịnh, tịch tĩnh.

Thế nào là loại ngã mạn, si mê?

Dục trong tâm sở mong dứt trói buộc. Nơi nương thanh tịnh (của) các cõi chư Thiên. Hạnh thí thông tỏ, trọn tịnh, thù thắng. Rộng nghe Thánh đạo, thấu rõ thuận hòa. Tu tập nghiêm túc, phép tắc thích ứng. An lạc tận cùng, cao thấp b́nh đẳng. Quả báo như vậy (là) đúng theo giáo pháp. Gieo nhân bố thí, dung nghi thanh tịnh, đức hạnh trọn đủ tạo nghiệp an tĩnh. Chế ngự các mạn, si độn chẳng sinh. Thế gian đủ sức đạt nhân ĺa bỏ (các mạn si độn). Dục lạc tột bậc (là) thực hành chân thật. H́nh tướng thanh tịnh, chư Thiên không sánh. Xa ĺa tai nạn.

Thế nào là nhân thắng sạch hết cấu nhiễm?

Tu hạnh bố thí các mạn đều dứt. Chúng sinh tận cùng, hướng cầu đạo Vô thượng. Trí tuệ phát sinh thông suốt giáo pháp. Hợp phần thanh tịnh, thảy đều chân thật. Hiểu rõ nghĩa lợi, tịch tĩnh trọn đủ. Thuận theo nhân thắng dứt bỏ các mạn. Tự tánh thiện diệu, nơi chốn tươi đẹp. Giáo pháp thù thắng, hành giải gồm đủ. Tỏ ngộ, bất thoái, bố thí hết lòng. Lành thay lực dụng thù thắng (của) hành, giải! Kiêu, phóng dấy tràn, hợp phần đều mất. Nhận thức vấn nạn, phép tắc hiện bày. Nhân hành hòa thuận, bố thí thích ứng. Chế ngự, dứt bỏ (mọi) h́nh tướng (của) quả khổ. Chúng sinh thanh tịnh, đói khát không còn. Xa ĺa sợ hãi, chân thật là thế. Nghiệp dữ đã dứt, bỉ thử lặng dừng. Các pháp Ba thừa (là) thắng pháp thế gian. Tăng thêm bố thí, si mạn không bày.

Thế nào là bàn luận tranh biện, nghiên cứu thấu đáo về tánh tướng?

Chân lý thành tựu (là) vui thích căn bản. Cấu nhiễm, buộc thể, gốc từ chấp ngã. Chi phần điên đảo (là) si độn của tâm. Cấu nhiễm ở đấy nơi trú vốn không, chuyển biến sao có (được)? Tánh của Như Lai tối tôn tối thượng. Ví như đề hồ các vị thượng hạng. Nhân thí thanh tịnh, nghĩa lợi thuận hợp. Nghĩa của giới luật (là) ngôn ngữ thiện tịnh. Là lúc quốc vương lực dụng tự tại. Xứ sở rộng lớn, ân thí khắp nơi. Mẫu mực dốc tu, phép tắc nghiêm túc. Tạo tác như vậy (đem lại) lợi ích thiết thực. Bản tánh vốn không, ngôn ngữ thâm diệu. Tạo tác, lưu chuyển, tánh là vô thường. Mẹ hiền ân dưỡng, chi phần viên mãn. tịch tĩnh thắng nghĩa điều phục ngôn ngữ. Tự tánh thành tựu, hiện hành thế gian. Lành thay trí tuệ! Không vướng hý luận, lời vua chỉ rõ. Nhân không bị hoại, xa ĺa thường−đoạn. Chánh pháp vô biên, rõ nghĩa giáo hóa.

Thế nào là không mạn, thuận hợp tột bậc? Rộng nghe gồm đủ, căn bản kiến tánh.

Hết Quyển 9

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 10

Nhân thắng hợp phần, cõi gốc Như như. Thập thiện dốc tu, ĺa dòng lưu chuyển. Nhận thức căn bản, hành giải gồm đủ. Tự tánh chân thật, trí tuệ thanh tịnh. Thấu đạt h́nh tướng, tu tập, giáo hóa. Giải thoát đúng nghĩa, hướng cầu khó đạt. Nơi chốn tịch nhiên, an tĩnh vô biên (giải thoát). Tỳ-kheo căn bản xa ĺa trói buộc. Tạo nhân bố thí viên mãn, an định. Trí tuệ tăng trưởng, thấu suốt vô úy. Bố thí thanh tịnh, nhân thắng không giảm. Diệu dụng đạt được (là) phiền não lặng dừng. Thánh nhân tu học (hoàn tất) căn, tùy (phiền não) hằng dứt. Bốn loại (Thánh quả) dòng thác tập khí vẫn còn. Chúng sinh thế gian (bị) vô minh che lấp. Gốc rễ trói buộc (là từ) ý t́nh buông lung. Tiềm lực tự tại, thiếu hạnh từ, nhẫn. Dòng thác cuồn cuộn, trói che khó rời. Phước lạc quả báo liên miên như vậy. Biết rõ buộc ấy, hý luận là gốc. Chứng đắc giải thoát, mong đạt tịch tĩnh. Thật ấy, (giải thoát) bất thoái, thấu trọn. Thủy, hỏa, phong, tai phát sinh dữ dội. Biết rõ tham, si, sân hận dua theo. Pháp tánh vốn tịch, trong lặng, vô sinh. Tự tánh chuyển biến, tạo (các) pháp hữu vi. Hữu t́nh thế gian, bốn loài theo nghiệp. Sinh, hiện, mất còn, trước sau chẳng định. Vi diệu sâu xa thuận theo vô tướng. Giới luật tŕ - phạm chân thật phát sinh. Tánh của Như Lai thường trụ, hằng hữu. Giữ giới thanh tịnh, tự tánh trong lành. Chúng sinh hoạn nạn, tâm Từ thể hiện. Cõi ý phát sinh, an nhiên, thông tỏ. Các pháp giải thoát, có nhân mới đạt. Hạnh bất phóng dật, chư Thiên nên tu. Nhân tạo an lạc (chư Thiên) gốc rễ (là) tam thiện. Cõi tánh hành động điên đảo chẳng sinh. Phép tắc nghiêm minh, tịnh diệu đáng quý. Thông tỏ tận cùng (là) lực dụng rốt ráo. H́nh tướng tu thí, phát sinh đầy đủ. Tạo tượng dốc tu, phước duyên vững chắc. Ý trọn tịch tĩnh, thông tỏ, thấu đạt. Tam bảo an trụ, không hề chuyển lay. Ĺa pháp điên đảo, rõ gốc thắng nghĩa. Tánh vốn tĩnh trụ, phiền não chẳng sinh. Chấp ngã dấy tăng, gốc rễ (của) phiền não. Thánh lực vô biên, năng ĺa (mọi) tạo nghiệp. Không tham, sân, si, gốc của ba thiện. Điên đảo, các mạn không thể phát sinh. (Bậc) hữu học tĩnh trụ, hiện hành chẳng dấy (các mạn, điên đảo). Lực tự tại ấy (từ) giới đức thanh tịnh. Thấu đạt càng tăng, hòa hợp, khéo trụ. Tịch tĩnh bao la, Tam bảo hội đủ. Chín phẩm trí tuệ, hướng cầu vô tướng. Chư Thiên vui sướng (vẫn) tấn tu mong đạt (trí tuệ vô tướng). Năng dứt tham dục, thuyết pháp chân thật. Không tạo nhân hành, chủng tử chẳng sinh, ĺa mọi quả báo. Công đức thắng pháp diệu dụng như vậy. Điên đảo, trói buộc thuận nghịch đều dứt. Mong cầu biến khắp nơi chốn cùng tận. Nhân hành đức nghiệp viên mãn như thế. Quả báo hiện bày, h́nh bóng trăm loại. Xóm làng, nhà ruộng sung túc vô cùng. Giáo pháp thanh tịnh (đem lại) lợi ích an lạc. Chân như, tự tánh, bản lai thường tĩnh. Không thủ, không xả, an tĩnh trong lặng. Ba thừa Thánh nhân đều là bạn lành. Tâm bị trói buộc, thực do vọng tưởng. Cõi tánh thanh tịnh, tự tại hiện bày. Xa ĺa (mọi) khuôn khổ (của) dòng thác điên đảo. Hành động tiếp nối, dốc tu chân thật. Tận cùng tột bậc (là) tâm được giải thoát. Thanh tịnh, thâm diệu, dừng lặng, Như như. Bất khả tư nghị, vượt mọi h́nh tướng. Nghĩa chân thật ấy, cứu cánh (là) vô ngã. Vương giả nhận thức chỉ dạy như vậy. Chánh pháp an trụ, b́nh đẳng không hai, đạo hạnh viên mãn, tĩnh lặng, không sợ. (Các loài) hữu t́nh, phi t́nh, tánh vốn thường tịch. Giải thoát vô sinh, (các pháp) hữu vi gắng bỏ. Ngã mạn, hý luận thảy đều chuyển biến. Năng dứt tham dục khắp chốn tận cùng. Dốc tu chân thật nghiêm túc như thế. Bậc Đại trượng phu thù thắng nhiều kiếp (tu). Tạo nghiệp pháp thiện thành tựu vô biên. (Là loại) hữu t́nh (có) trí tuệ công năng vô tận.

Thế nào là bậc mẹ hiền nuôi dưỡng chân thật?

Vọng nhiễm nhiều đời (cũng) chuyển thành thanh tịnh. Thâm diệu, chân thật rốt ráo như vậy. (Bậc) giác ngộ bất thoái, thắng nghĩa viên mãn. Tỳ-ni giới luật, chúng sinh nên nhận. Phật dạy căn bản: cõi thật viên mãn. Mọi thứ tà kiến mê mờ chẳng sinh. Tự tánh tĩnh trụ, tâm lặng hòa hợp. Thắng nghĩa phát sinh, tà kiến chẳng dấy. Dứt bỏ mây mờ, hướng cầu b́nh đẳng.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, Tôn giả hộ quốc bản sinh nghĩa quảng diễn thứ hai mươi hai cùng hai mươi ba hợp lại.

Chấp ngã, thọ khổ, điên đảo thật sự, thắng nghĩa Như như tác dụng hiện bày. Đó là tùy thuận, thấu đạt nghĩa lợi hạnh Bồ-tát ấy trí tuệ thù thắng.

Tự tánh các loài an tĩnh, ung dung. Hết lòng tôn tượng mong đạt phước báo. An cư tịch tĩnh, tâm mờ dứt sạch. Nơi chốn nghiêm đẹp, bụi bặm đều hết. Hai mươi hai gốc (phẩm) thiện pháp Dục (rõ) nghĩa. Thiện ác hiện rõ như bóng theo h́nh. Đó là nghĩa đạt được, chứ không phải nghĩa không đạt được.

Xứ sở của vua thịnh vượng, an ổn. Dứt bỏ, diệt các nhiễm ác thâm căn. Giáo hóa muôn loài gồm đủ h́nh tướng. Thật ấy khó đạt. Phép tắc nghiêm minh. Phiền não dấy lên, rõ nghĩa dòng thác. H́nh bóng tạo nghiệp, quả báo gồm đủ. Tự tánh thông tỏ, oán đối nào còn. Xa ĺa điên đảo hiện hành rộng khắp. Lực dụng bố thí khế hợp nơi chốn. Nhớ nghĩ lời Phật, tôn kính vô cùng. Tướng trí tuệ ấy (Phật) đạt đến vô tận. Đại thừa b́nh đẳng, hóa độ là chính. Tham ái trói buộc cả hạnh từ bi. Lực dụng tự tại chuyển đổi tất cả. Giới đức thanh tịnh, phép tắc theo đúng. Thân tâm thượng diệu trong sáng như ngọc. H́nh tướng phù hợp, sự nghiệp thù thắng. Bồ-tát khế hợp, động tĩnh khá nương. Là cõi b́nh đẳng, bỉ ngã là một. Lực dụng phát sinh, quả báo thành tựu. (Như) mẹ hiền yêu quý, khắp chốn thuận theo. Điên đảo, các mạn tràn dấy khắp loài. Hiện hành buộc thể năng sinh hý luận. Thọ mạng chung cuộc trong ngoài đều khắp. Là chốn trượng phu xa ĺa hý luận, Cứu cánh (của) chúng sinh gắn liền trói buộc. Dòng thác phiền não lôi cuốn chẳng sinh. Tấn tu Phật đạo, phước đức bền vững. (Các loài) ngã mạn, chấp trước điên đảo, khắp chốn. Thanh tịnh thắng nghĩa phát sinh, trừ dứt. Chân thường hợp nhất, thấu đạt không ngừng. Ĺa bỏ che buộc, cõi ý thanh tịnh. Dứt sạch hoạn nạn, vọng tưởng, phỉ báng. Thù thắng tịnh diệu, bỉ ngã dung thông. Mười loại phiền não căn bản chẳng dấy. Trói buộc, biến khắp (phiền não) chế ngự, quyết dứt.

Thế nào là tâm si hủy diệt thể lực?

Nhận lấy ác báo uy lực tự hết. Phân biệt chấp ngã, chứng (quả) Thánh mới trừ. Các mạn nhờ có chánh kiến loại bỏ. Si độn, hý luận không nhân dấy khởi. Phát huy Thập thiện thế gian tùy thuận. Giới mốc (của) mạng ấy làm tăng chấp trước. Vọng tưởng phân biệt, quyết định chịu quả. Rừng cây phá chặt, như (cõi) không vô biên. Nhận quả thích hợp, yêu thích phần lợi. Thân mang ngã mạn, gốc càng nặng thêm. Thân quả phù hợp cũng như h́nh bóng. Tịch nhiên vô ngại, như (cõi) không bao la. Tham ái phát sinh, quả báo trong nhân. Pháp lành không tu, làm sao chứng quả? Tịch tĩnh như (cõi) không, bao la khắp chốn. Nhân thiện sinh khởi, quả báo thuận theo. Tự tánh thanh tịnh, điên đảo dừng lặng. H́nh, tiếng, thiện xảo tạo dựng Phật sự. Thọ mạng đúng phần, khó mà lẫn tránh. Giáo hóa tự tha thâm diệu, lớn lao. Ngã chấp tăng mạnh, b́nh đẳng khó đạt. Hướng cầu thắng nghĩa viên mãn như vậy. Đức hạnh hữu t́nh (là) vui hòa khéo tu. Thanh tịnh, trong lặng, sâu xa gắng đạt. 

Thế nào là tâm pháp, chân như là tánh? 

An trụ, b́nh đẳng đúng phần khắp chốn. Thắng nghĩa viên mãn, dứt mọi tạo nghiệp. Mười loại đường nghiệp đều do tâm khởi. Gốc rễ mờ tối, che thể (là) do si. Tưởng hợp, ngăn che, vương, sở (tâm) đều có. Ngã mạn phân chia đến bảy − chín loại. Dòng thác căn tùy (phiền não), Như Lai hằng dứt. Bố thí văn nghĩa (pháp thí), đó là Đại thừa. Phật, Pháp, Tăng bảo rốt ráo an định. Thiện ác hai tướng, đối xứng (h́nh) lập nên. Thông tỏ đúng phần dài lâu khó đạt. Nhân (để) đạt cõi trời do nhờ sức thiện. Nơi chốn an trụ, giữ ǵn cẩn mật. Hóa độ tận chúng cùng theo tam thừa. Nhận rõ bạn lành, tăng thêm thắng lực. Chấp ngã dứt trừ, hòa hợp một loại. Thắng nghĩa hiện rõ, trói buộc chẳng sinh. Hành, giải gồm đủ, gánh vác Thánh lực. Tánh của Như Lai tức chánh biến tri. Thân tướng tịnh diệu, tâm lặng an trụ. Trí tuệ viên mãn, giác ngộ, an nhiên. Thắng nghĩa Niết-bàn (là) bỉ ngã đều dứt. Trí lực hợp nhất, si độn (đều) không còn. Trí tuệ thâm diệu, xua sạch vô minh. (Bậc) Đại trượng phu ấy đạt chân thắng nghĩa. Hướng đạt vô tướng, tự tại chỉ tịch. Tu hạnh bố thí, đầy đủ, viên mãn. Nhân hóa độ ấy ĺa bỏ trói buộc. Là cõi b́nh đẳng, diệu dụng thành tựu. Điên đảo rộng khắp, tạo nhân chẳng sinh. Tùy thuận cung kính, hạnh tu trọn đủ. Thắng nghĩa thượng diệu, phát huy như thế. (Như) Rừng che cỏ tốt, nghiệp dữ xa ĺa. Đạt tướng trí tuệ tỏ ngộ thâm diệu. Nhân thắng phát khởi tự tại vô biên. Nhân Thập thiện hiện hành khắp thế gian. Ý (bậc) Đại trượng phu viên mãn, khế hợp. Tạo nhân chín địa, tu tập thuận hợp. Hành điên đảo ấy thảy nên dứt trừ. (Cùng với) Ngã mạn si độn (che) thể tánh chân thật. Sắc tướng tịnh diệu phát sinh trọn đủ. Tham dục trùm khắp, sức dấy vô tận. Không (tạo) nhân dứt trừ, sinh tử mãi buộc. Buông theo phiền não mất chí trượng phu. Không tin lời Phật, đúng (là) hạng phàm phu. Mong đạt đúng phần (thật ra chỉ là) điên đảo cùng tận. Nghiệp ác dấy tạo, trói buộc trôi lăn. Nhân tánh thanh tịnh, dứt trừ, ĺa bỏ (nghiệp ác), là chốn trượng phu dốc tu thắng nghiệp. Khắp mọi nơi chốn an tĩnh, yên định. Bao lớp nhiễm, buộc (bị) trừ diệt chẳng sinh. Chúng sinh cõi người tạo phước thù thắng, Thực hiện là chính. Chế độ trị nước là điều tối thượng. Sắc tướng nghiêm đẹp, kỳ vĩ, khó sánh. Nơi chốn thanh tịnh, an tĩnh, yên định. Tự tánh trong lặng, tên gọi thêm rõ. Chướng ngại to lớn (của) chúng sinh không còn. Thắng nghĩa phát khởi, thương dẫn muôn loài. Thực hiện bất thoái, Phật lực hộ tŕ. Vững tu tận cùng, rõ nghĩa thường trụ. Oán kết cùng gặp, gắng sức tùy thuận. Dứt bỏ tham dục, hướng cầu Thánh nhân. Là cõi Bồ-tát bi nguyện nên gắn (bó). Thể bị mạn dấy, khó mà chế ngự. Chín phẩm, khắp cõi vượt chấp (về) lý, sự. Tự tánh nhận ra điên đảo vô tận. Vô minh, si che, tịch tĩnh khó sinh. Trói cuộn kiếp tằm dễ đâu ĺa bỏ. Tạo tác chân thật, dốc tu từ gốc. Tất cả (các) hành tướng (đều) mong đạt thọ mạng. Bậc Đại trượng phu giáo hóa chúng sinh. Nương ở tự tánh Như như b́nh đẳng. Thân tâm (là) chỗ nương căn bản (của) thức tánh. Phát sinh thắng nghĩa là tánh tối thượng. Hóa độ thích hợp (là) việc làm (của bậc) trượng phu. Nơi chốn tịch tĩnh, ĺa mọi tham dục. Mười phương thanh tịnh, quả Giác viên thành. Vọng động bao đời, phân ra sở - năng. Nhân thắng như vậy (do) nhiều kiếp tu tập. Diệu dụng thanh trí, nhân quả có khác. Hành động thù thắng (là) cứu khổ ban vui. Dẫn dạy muôn loài kính tin Tam bảo. Si, mạn như thế, chấp ngã là gốc. Đủ sức thực hiện (mọi) h́nh tướng (chấp ngã) dứt tuyệt. Tự thể mong đạt chuyển biến như vậy. Di thể các loài lưu chuyển (nhưng) chẳng mất. Đúng phần cùng tận, sạch nhơ đều có. Nhân của thiện tịnh hàm chứa nghĩa lợi. Chân thật hướng cầu, thấu đạt phép tắc. Tự tại, an nhiên không còn điên đảo. Là cõi ngã mạn theo hướng tăng dấy. Hý luận câu kết chẳng lúc nào dừng. Nhân thắng (của) chúng sinh không thể ĺa bỏ. Tạo tác nghĩa lợi (là) nhân của pháp thí. Muôn loài khổ não, hủy hoại thân phần. (Tạo ra) điên đảo tận cùng, khó mà xa ĺa. Hạnh thí viên mãn, bao la, vô tướng. Giới đức thanh tịnh, rõ nẻo phạm tŕ. Tận cùng dứt ác (là) phiền não năng ĺa. Là cõi Bồ-tát tự tánh thanh tịnh. Hạnh ấy hiện bày, siêng tu thắng nghĩa, giáo hóa muôn loài, thật hạnh trượng phu. Phương tiện bố thí, dốc tu thiện tịnh. Chư Phật hộ niệm nhân lành đều trọn. Pháp tượng tôn thờ, khế hợp là vậy. Khắp nơi an tĩnh, b́nh đẳng như (cõi) không. Năng dứt tham dục, làm nhân phạm hạnh. Tự tu hạnh thí, nhân duyên rốt ráo. Trói buộc vô tận là nghĩa (của) dòng thác. H́nh tướng biến chuyển, mắt luôn nhớ, ghi. Dứt mọi ác kiến, thắng nghĩa viên mãn. Ngọn nguồn chân thật, tự đạt nơi ḿnh. Ân mẹ lớn lao là nghĩa vô cùng. Tà kiến chẳng sinh, thảy đều chân thật. Căn bản giới luật (là) bày rõ mẫu mực. Cõi tĩnh an lạc, vắng bặt tham dục. Chúng sinh khắp cõi mong dứt hý luận. Khéo dứt phiền não, đúng bậc Trượng phu. Là (bậc) đại hữu t́nh, lực dụng đích thật. H́nh tướng b́nh đẳng khiến tâm an trụ. 

Tịch tĩnh là gốc, vọng tưởng chăng mong, tự tại hiện rõ, đó là an nhiên. H́nh, bóng gốc, ngọn, nghĩa lợi như thế. Hý luận dứt sạnh, chân thật hiển hiện.

Thế nào là gốc của mọi điên đảo? 

Tu hạnh cấu nhiễm (dẫn tới) ngã chấp vô biên. Bản tánh Như như làm thế nào (dứt) sợ? Thân phần ốm đói, bố thí năng ĺa. Đạt nơi chốn ấy (bản tánh Như như) vững tu là chính. Hành động biến khắp, gánh vác vô tận. Vi diệu sâu xa rõ nét vô tướng. Vật dụng trọn nên tự tại gồm đủ. Xứ sở tươi đẹp, thanh tịnh trên hết. Nghiêm đẹp, tịnh diệu cho đến khắp nơi. Giáo pháp thanh tịnh, khéo hiện, tĩnh lặng. Tu nhân phạm hạnh, dung mạo hiện rõ. Như sư tử vương uy nghi vượt bậc. Dung mạo đẹp đẽ, tươi sáng, oai nghiêm. Tâm gốc trong lặng, an nhiên, an tịnh. Gốc rễ si ám (là do) thiếu nhân tuệ giải. Các pháp điên đảo (khiến) chánh trí chẳng sinh. Hành, giải gồm đủ, tâm bi ĺa bỏ (điên đảo). Trói buộc (từ) vô thỉ, (nên) tham đắm sắc thân. Giới luật tịnh diệu dứt trừ điên đảo. Tạo nhân thù thắng dốc tu tối thượng. Thể vô biểu sắc, tŕ, phạm (gọi) là giới. Hữu t́nh tham ái bùng dậy nơi thân. (Trôi theo) dòng thác kiêu phóng cuồng dật lớp lớp. Tạo nghiệp điên đảo (phải có) phép tắc (giới luật) dừng dứt. Nơi chốn thanh tịnh, hành động chân thật. Tướng b́nh đẳng ấy căn bản an trụ. Mong được thấu đạt vô−hữu đúng phần. Đất nước khắp cõi tịch tĩnh an nhiên. Giữ giới trong lành (như) rừng che cỏ tốt. Giới đức không thiếu, hợp nhất thanh tịnh. Thắng nghĩa phép tắc trọn đủ.

Thế nào là nhân hành của mười pháp thiện?

Sắc tướng tăng trưởng tận cùng như vậy. Dung mạo thù thắng, tự tại vô tận. Tươi sáng, oai đẹp, hành giải viên mãn. Bố thí đầy đủ thân tâm thuận hợp. Phiền não chẳng sinh, tươi trong (như) ngọc quý. Mong đạt lực dụng, thực hiện trọn đủ. Là cõi bao la (của) thể tánh tự tại. Công đức bố thí (đem lại) tịch tĩnh nghiêm túc. Tự tánh (đạt) trí tuệ, dứt mọi khổ não. Tự tánh tư duy, ba nghiệp thuần thục. Tạo nhân thù thắng, mọi vọng tưởng dứt. Si độn, ngã mạn tạo nghiệp hý luận. Hành động thượng dẫn, mong đạt viên mãn. Phẫn nộ tận cùng, chỉ dạy dứt bỏ. Sở nguyện trượng phu b́nh đẳng không lệch. Thuận theo nương giữ tận cùng nơi bậc thầy truyền dạy. Dứt bỏ hý luận, hành giải mong đạt. Tánh bậc Hiền thánh, nghĩa (là) dứt luân lưu.

Thế nào là cung kính biết trọn, tự tại thể hiện như vậy?

Tự tánh thanh tịnh cứu giúp b́nh đẳng. Cõi gốc nổi bật (của) hai loại trọng chướng. (Cùng với) Dòng thác phiền não, nghiệp dữ hằng đoạn. Kim cang, vô gián (là sự) tạp nhiễm tận cùng. (Các pháp) hữu lậu đều được tự tánh hóa độ. Gốc của tam thừa, trí tuệ quyết đạt. Cấu nhiễm theo ác (là) thế gian phàm phu. (Nhưng từ trong) điên đảo cấu uế, lực dụng phát sinh. Diệt trừ trói buộc, cành lá tươi tốt. Gốc rễ vững chắc dùng đấy (làm) thí dụ.

Hết Quyển 10

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 11

Cội nguồn tự tánh trí tuệ thông tỏ. H́nh tướng thêm rõ, tĩnh trụ không não. Trong lặng, an lạc, rõ nghĩa giải thoát. Cõi ác đầy dẫy điên đảo, chấp ngã. Ưu khổ lan rộng, phiền não khó trừ. Cội rễ tai nạn, h́nh tướng khó định. Dòng thác phiền não, Như Lai hằng dứt. Nhân tự tánh ấy hiện bày khắp chốn. Thuận theo nghĩa lợi, căn bản gồm đủ. Lực dụng hóa độ mong đạt vô tận. Thảy đều tăng thêm tiến đến ích lợi. Cõi ý thông tỏ, dứt hết hý luận, phiền não, điên đảo dứt bỏ đúng phần. Nhân thiện Ba thừa dẫn dắt muôn loài. Pháp tánh chư Phật trong lặng, thanh tịnh. Tri kiến chân thật, các mạn không dấy. Tịch tĩnh thấu suốt các nẻo chướng ngại. Ngọn nguồn cõi mạn, giáo hóa dứt trừ. Trói buộc lắm loại, khuyên dạy chế ngự. Nơi cõi hữu t́nh, tùy thuận sinh khởi. Siêng năng quán tâm (đạt) thần túc thanh tịnh. Sám hối tội lỗi, thân tâm khinh an. Trí tuệ Phật đạo thông tỏ ba tánh. Cứu cánh chân thật (là) trí tuệ giác ngộ. Thắng nghĩa Như như, diệu giác tròn đầy. Thấu đạt chân tịnh (là) Ma-ha Bát-nhã. Phật, Đại trượng phu chế ngự muôn loài. Tịch tĩnh nương tựa, thích ứng rõ nghĩa. Phật đạo thanh tịnh, tột (là) Như Lai tánh. Trí tuệ thông tỏ tận cùng mọi lẽ. Nẻo ác tích tụ, lành thay gắng ĺa! Thắng nghĩa thuận hợp, nghiệp tịnh viên mãn. Ĺa bỏ trói buộc, sạch nhân khổ não. Thật ấy (sạch nhân khổ) mong đạt, quả báo không vướng. Trượng phu nhận rõ cội rễ điên đảo. Buông theo điên đảo (là) tà hạnh tận cùng, Gắn bó (với) gốc thiện tu học là vậy. Trói buộc tận cùng tự xem (như) nhà ruộng (tài sản). Là chốn chúng sinh phải nên bố thí. Quả báo (do) nghiệp ác (phải đi) ngược dòng mới dứt. Mười triền (của) năm cõi (ngăn che), tu phạm hạnh ĺa. Hành, giải rộng khắp (là) lực dụng tự tánh. Ĺa bỏ nghiệp dữ (đạt) sắc tướng thượng diệu. Tâm không h́nh chất, Niết-bàn vô tướng, hý luận mạn buộc (nhờ) văn, tu dứt trừ. Thân phần chân thật, hương thơm bay xa. Thông tỏ tăng thêm khắp mọi nơi chốn. Thảy mọi y báo (cũng đều) rõ chính như vậy. Mười nẻo thiện ấy, tịnh tuệ thông tỏ. Hành tướng cõi người, nơi chốn thù thắng. Sắc thể tột bậc, không thể hủy hoại. Khéo dạy chúng sinh tu thí viên mãn. Cõi ý khế hợp, thù thắng bất thoái. Phiền não, si mạn, oán đối dấy lên. Gồm cả trói buộc, chế ngự xa ĺa. Là chốn cung kính thuận theo vương giả. Gốc tu thắng hạnh, ĺa cõi xấu ác. Giáo hóa viên mãn tận cùng các chốn. Chín địa vô tướng, tùy chỗ chứng thuyết. Mười nẻo đường nghiệp, trí tuệ thông suốt. Cõi tánh chân thật b́nh đẳng, tận cùng. Thắng nghĩa tối tôn là pháp vô vi. Xa ĺa si, mạn, hành động phát huy. Oan đối, điên đảo, số loại hàng trăm. Dòng thác dấy lên, chủng (tử) hiện (hành) vô tận.

Thế nào là hữu t́nh ĺa quả báo ngạ qu?

Điên đảo, ngã mạn trói buộc triền miên, Cội rễ tịch tĩnh hợp ĺa tùy lúc. Bố thí vô tướng mong đạt chân thật. Thuận theo b́nh đẳng, phước báo tăng trưởng. Sinh loại cõi người, vương giả trên hết.

Thế nào là gốc rễ các loại ngã mạn?

Trói buộc liên tục, chịu lấy khổ não. Trí tuệ yêu thích, ngôn ngữ diễn bày. Tự tánh tịch tĩnh (như) dứt bỏ độc dược. Nhân của bạn lành mong cầu khế hợp. Yêu thương, nuôi dưỡng, nơi chốn thù thắng. Xa ĺa tạo nghiệp bao thứ đảo điên. Sân hận diễn lời, quả báo gồm đủ. Bạn lành giúp đỡ, hành giải gắng công. Mong dứt phiền não, tự tại thuận hợp. Tự tánh tỏ ngộ cội rễ chân thật. Tu tập (nhờ) bạn bè, ngu yếu chuyển đổi. Nhân thắng viên mãn, bản tánh như thị. Thắng nghĩa phát sinh (là) cội rễ (của) giáo hóa. Tham trong phiền não cùng sinh ngã mạn. Bạn lành khéo giúp, nhân tịnh phát khởi. Nơi chốn đến, đi, bụi bặm dứt sạch. Bố thí rộng khắp, (đạt) thanh tịnh chân thật. Trói buộc trừ bỏ, dốc tu thêm tăng. Thắng hạnh phát sinh, an lạc chuyển khắp. Nhân duyên thiện diệu, đức nghiệp hợp ý. Ái lạc tĩnh trụ, ĺa bỏ nhân nhiễm. Mười loại pháp thiện chuyển biến tận cùng. Bạn bè điên đảo, tự tánh đều dứt. Tự tánh thành tựu, chân thật trọn nên. Phật đạo giải thoát, chứng tánh chân như. Thắng nghĩa chân như, (là) chân thật viên mãn. (Ví như cõi) Trời ấy dứt khổ, như thật tận cùng. Tận cùng thù thắng, (là) hóa độ muôn loài. Giới pháp thanh tịnh, viên mãn vô tận. Trí lực Như Lai viên mãn bao la. Thuyết pháp chân thật, giới mốc vô cùng.

Thế nào là giáo hóa?

Phật là bạn lành. Nghiệp thiện vô lậu mười loại viên mãn.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, Tôn giả Trang nghiêm hộ quốc bản sinh nghĩa thứ hai mươi bốn

Hợp nhất, tăng trưởng, nghĩa tánh Như Lai. Bi nguyện như vậy dốc tu vô tận. Đó là thấu đạt lời Bồ-tát dạy.

Thế nào là mong đạt h́nh tướng tịch tĩnh?

Thắng nghĩa cõi người (là đạt) cội rễ chân thật. Cõi tánh lớp lớp, căn bản theo loài. Ba loại vi diệu chế ngự ba nghiệp. H́nh tướng nhiều loại như thể rừng che. Tu nhân thanh tịnh, thân phần tự tại. Đạo Phật b́nh đẳng, giống như cõi không. Lực dụng tạo tác chuyển biến không cùng. (Phiền não ví như) đất sinh độc dược, phước lực khá trừ. Chúng sinh tạo nhân b́nh đẳng viên mãn. Chi phần tạo tác thượng diệu tịch tĩnh. Giáo pháp từ bi cứu giúp muôn loài. Hành, giải tăng trưởng, tâm tu thanh tịnh. Ba loại bất thoái (là) gốc mọi chân thật. (Như) Mẹ hiền dạy trao dứt bỏ hý luận. Trí tuệ thông tỏ, nhận rõ tham dục. Hòa hợp như vậy, phiền não chướng diệt. Khắp mọi nơi chốn tu hạnh điều phục. Chúng sinh cõi người tâm cầu khó đạt. Thuận theo điên đảo, si độn trói buộc. Chế ngự, dẫn dắt thường xuyên gắng sức. Nhận rõ hý luận lớp lớp câu kết. Là chỗ tu thí, điều chân thật ấy, độc (dược) vọng (tưởng) không hại. Tất cả Phật tánh sáng tỏ không hai. Giải thoát đúng nghĩa, nghĩa lợi thuận hợp. Pháp lành thuận tịnh, hành giả nên gắng sức. Ngã mạn, tham, buộc, bất thiện che lấp: thân tâm, năm uẩn, tự tánh thanh tịnh. Thánh hiền thông tỏ, không tạo điên đảo. Thân thể thù thắng, ý vui tự tại. Cõi nước tươi đẹp, vô cùng trang nghiêm. Cõi chúng sinh rộng, tươi đẹp, như (cõi) trời. Nhân thắng phát sinh (đạt) tự tại vô biên. Tĩnh trụ chế ngự ngã mạn, si độn. Thân tướng càng lớn, chấp ngã càng gắn. Mức độ cao thấp phân thượng, trung, hạ. Là chốn Bồ-tát (tạo ra) h́nh tướng thanh tịnh. Tu tập tự tại. Nghĩa lợi thắng thừa. Thanh tịnh thuận hợp.

Như vua đủ sức sửa trị thù thắng. Thường không thay đổi. Tạo nhân tịch tĩnh, gánh vác cõi xa. Mong dứt hý luận, diệt hết ô tạp. Nơi chốn lần lượt phát khởi tịnh diệu. Tâm ý vui thích, an định vững vàng. Che chở muôn dân như mây phủ khắp. Lực dụng bố thí (đem lại) h́nh tướng hòa hợp. Là nơi b́nh đẳng, mọi vật quân phân. Lực lượng tự tại từ một biến khắp. Dứt sạch bụi nhơ, diệu dụng thông tỏ. Nơi chốn giáo hóa mong dứt kinh sợ. H́nh tướng hợp nhất thành tựu nghiêm túc. Trí tuệ bao la, dưỡng nuôi gồm đủ. Là chốn thanh tịnh, hành giải tự tại. Xa ĺa điên đảo, tịch tĩnh tăng trưởng. Dòng thác sâu hiểm, sức cuốn rộng khắp. Chế ngự buộc che, ngăn dứt tăng dấy. Ái lạc đúng phần, mong đạt tịch tĩnh. Ý dấy kiêu, phóng, nẻo thiện mịt mờ. Bốn tướng phiền não chuyển biến cùng tận. Như vua tự tại, chế độ viên mãn. Là cõi Bồ-tát như (cõi) không, vô ngại.

Thế nào là thanh tướng lớn nhỏ ngăn ngại?

Thanh tịnh bố thí. Vương giả thành thật. Tâm Từ phát khởi, tinh thô chuyển đổi. Tịch tĩnh thắng nghĩa (là) an nhiên, yên tịnh. Thân, ngữ, ý tạo mười loại thiện, ác. Phân biệt đúng phần khắp mọi nơi chốn. Ba tánh giác ngộ (như) mẹ hiền nuôi con. Khéo biết tánh hạnh, cơm áo của con. Cũng như vị vua khéo trị cõi nước.

Thế nào là cõi tâm dứt ác, hý luận?

Sắc tướng tươi đẹp hòa hợp đáng yêu. Tai nạn chẳng có, hủy hoại chẳng sinh. Như gốc vô tướng, lực dụng hòa hợp. Năng dứt tham dục, sân hận, ngu si. Thuyết pháp chân thật, thuận theo tu học. Rõ nẻo sinh tử (trong) ba cõi chín địa. Biến đổi, qua lại, hơn kém không định. B́nh đẳng, tịch tĩnh dứt các si mạn.

Thế nào là ba tranh, gốc của tham, sân, si?

Tạo nhân tranh cãi, chịu quả bần cùng. Tạo ngôn ngữ ấy phải nên tu tập. Thân tâm tự tại, gánh vác đúng thực. Trí tuệ thanh tịnh tỏ rõ Đại thừa. Các pháp cứu cánh diệu giác viên mãn. Đúng phần lâu dài, trải ba đại kiếp. Ruộng tâm tu thí, xứ an, tự tại. Hành, giải gồm đủ, rõ phiền não chướng. Nơi chốn thực hiện an tĩnh viên mãn. Tâm thường tuệ thí, h́nh tướng thân thuộc. Bản lai bất sinh, chẳng hề bị buộc. Tạo tác vật dụng thù diệu đáng quý, quy ngưỡng Thánh hiền, thượng diệu viên mãn. Thiên chủ Đế Thích, trí tuệ thù thắng. Tỏ rõ các loài (hữu t́nh) tâm hành các pháp. Như Lai ứng hiện diệu dụng bao la. Thắng nghĩa thâm diệu (là) thanh tịnh thuận hợp. Sắc tướng viên mãn, thọ mạng ổn định. Phiền não, dục tham ưu khổ chẳng dừng. Xa ĺa si mạn, dốc tu tịnh diệu. Hý luận trọn nên (tạo) buộc che cùng tận. Khiến tâm bị hãm nơi hầm hố sâu. Nhâïn lấy cảnh khổ, nung đốt chẳng dừng. Dòng thác phiền não bủa vây cõi ý. Tự thể tươi lành, sắc tướng tịnh diệu. Thảy đều phát sinh khắp mọi nơi chốn. Lực dụng thuận hợp, sở học viên mãn. Phát khởi hướng cầu đạt “Vô sinh nhẫn”. T́m tòi rộng khắp, thù thắng cùng tận. Hóa độ b́nh đẳng, thanh tịnh gồm đủ. Dứt bỏ ngã mạn, bố thí chân thật. Thân, ngữ, ý hành phát khởi bố thí. Mười nẻo nghiệp ấy, tự tại tận cùng. Thuận hòa gồm đủ, thanh tịnh thêm tăng. Thánh trí thông tỏ giới mốc hữu vô. H́nh tướng dài, ngắn rõ lẽ vô ngại. Gánh vác, bố thí, dứt điên đảo, mạn. Chủ tể tự tại, thể hiện khắp chốn. Ý thức hòa hợp gồm đủ ngã mạn. Gốc ấy (Mạn) buộc thể, các mạn lấp tánh. Có đủ si độn, điên đảo bỉ thử. Nhớ nghĩ thân, oán không lúc nào dừng. Khổ não, tội lỗi câu kết khó ĺa. Phát khởi biến chuyển, tăng trưởng khắp cõi. Tự tánh Như Lai trí tỏ, thanh tịnh. Hành, giải chân thật, dẫn dạy muôn loài. Bố thí tịnh diệu vô biên xứ sở. Ĺa bỏ, không (tạo) nhân dòng thác điên đảo. (Như) cõi nước (của) vua rộng, phép tắc nghiêm ngặt, Dung mạo thù thắng, thanh tịnh đáng yêu. Suy nghĩ, hành động như mẹ nuôi con. Tỏ ngộ chân thật, vi diệu sâu xa. Khiêm cung, thuận theo hạnh của cõi người. Nơi ở tự tại, tạo nhân tịnh hạnh. Sân hận tận cùng (là) chỗ đắm (của) kẻ ngu. Ba loại dòng thác, tham sân si (là) gốc. Thánh quả tối thượng y bát chẳng rời. Tự tánh thể hiện, đạo nghiệp thù thắng. Tánh như thành tựu, diệu lực phát sinh. Chân thật tận cùng, nơi chốn hợp ý. Tâm pháp hướng đạt, tỏ ngộ nhờ trí (tuệ), là chốn vương giả Thánh đức an định. Cõi nước an tĩnh dứt nhân hý luận. Nghĩa lý thích hợp, nhân thắng phát huy. Hủy diệt nơi chốn mạn, nhiễm, oan đối. Bố thí mong đạt thắng nghĩa tư duy. Suy kiệt (là) tên gọi (của) tạo tác sân hận. Ngã, ngã sở, nhận thức, suy t́m (đều) điên đảo, (phải nhờ) tịch tĩnh điều phục chế ngự.

Thế nào là đúng lúc chủ thể ngạc nhiên nhận ra các nét phong phú, sắc bén, yếu kém của hý luận do ngã mạn tạo tác?

Dòng thác như thế rõ nghĩa nổi ch́m. Nhân bố thí ấy cứu giúp nghèo khổ. Thiền định dứt trừ điên đảo cấu uế. Điều phục kiêu, phóng, bỉ ngã tự tại. Lực dụng thanh tịnh, hý luận không thể (dấy lên). Thắng giáo thanh tịnh dứt hết oán độc. Tu học hướng tiến mong đạt như vậy. Tánh của Như Lai thông tỏ viên mãn. Phiền não, điên đảo ngăn che tự tánh (chúng sinh). Cội rễ như thế (là từ) vô thỉ nhiều kiếp. Tánh sạch phiền não, chân thật như (cõi) không. Thanh tịnh chỉ dạy, hiểu biết chế ngự các mạn, kiêu, phóng. Tịnh thức “bất sinh” là tự tánh biến chuyển. Cõi dữ, ngu muội, chẳng nên hướng cầu. Thuận theo nhiễm, tranh, nhân buộc tăng thêm. Cõi người si độn, Thánh trí khó sinh. Giới hạnh thanh tịnh, giáo hóa thù thắng. Hành động hòa hợp, gốc của hạnh thí. Chân thật trọn đủ, lực dụng tự tại. Trí tuệ phát sinh, dứt sợ, chẳng mất. Cõi điên đảo ấy, giới luật chế ngự. Tối thượng, không mất, điều phục, thực hiện. Thân phần thuận theo nghĩa lợi lớn lao. Tánh của phiền não dấy tăng đều dứt. Căn bản nhân thắng, tự tại thuận hợp. Ham thích bố thí, h́nh tướng không mất. Nhân phiền não kia tạo nên chấp trước. Như bậc đại vương trị nước không minh. Sợ hãi thực sự, gốc của nhiễm, vọng. Tự tại, vô ngã, đủ lực thực hiện. Tu hạnh tịch tĩnh, nhân gốc bao đời. Thân phần chấp trước, thật khó cởi mở. Chân thật, b́nh đẳng, lưu chuyển không hoại. Cõi pháp nên h́nh, buộc che chúng sinh. Hý luận cấu uế, quấy lấp cõi sinh, nơi chốn chẳng có. Vô minh dấy khởi, chuyển biến lắm đường.

Diệu dụng Phật đạo thanh tịnh tự tại, là chốn vương giả Thánh đức phát huy. Tự tánh trí tuệ luôn luôn tỏa chiếu. Như ong tạo mật, cùng giúp nên công. Thánh trí thông tỏ, tịch tĩnh viên mãn. Ngôn ngữ phát sinh an lành, thuần khiết. Chúng sinh như thế (đủ cả) tịch tĩnh, nhiễm ô. Ngã chấp sâu dày (khiến) hữu t́nh sinh sợ. Gốc ý b́nh đẳng, hành nhân bố thí. Cứu cánh tận cùng (là) điều phục khắp chốn. Thế nào là công dụng h́nh tướng tăng thêm?

Phương tiện hợp phần, thù thắng phát khởi. Nhân tánh vô biên lực dụng vô ngại. Tự tánh cõi ý vượt quá ngôn ngữ. Diện mạo biến động, mừng giận thay nhau. Nhân hành mong đạt, xưa nay như thế. Bồ-tát tự tại, hành theo giới luật. Dẫn dạy tạo nhân, phát sinh cùng tận. Chi phần (của) thể tánh gồm năm loại thức. Tánh duyên nhân gần, không ĺa quả báo. Các chi chẳng mất, nhân tánh hòa hợp. Thông tỏ chân thật, tự tánh là thế. Đức hạnh ung dung, nghĩa (là) nhân tùy thuận. Thể tánh mờ tối, gốc do tâm nhiễm chi phần thanh tịnh, (tánh) vô phú, vô ký. Đó là tóm gọn về cõi ý, tự tánh, tám thức là thể, mười hai xứ phải nên điều phục.

Thế nào là các thứ nghĩa lợi đáng quý?

Tự tánh phát khởi tinh tấn tu tập. Trí đạt thông tỏ (là) gốc rễ của sự hóa độ. Tâm dấy si độn (tạo) dòng thác buộc che. Chấp ngã, cấu uế, nhiễm ô nêu rõ. Tu tập bố thí, thấu đạt tướng mạo. Tâm dấy ngã mạn trói buộc chúng sinh. Gốc thật (của) chấp ngã (là) không tu bố thí. Ba thừa giáo hóa, tự tại trùm khắp.

Thế nào là lành thay thông tỏ mọi lẽ?

Nhân của thâm diệu dứt sạch khổ não. Thuận hợp thắng nghĩa, gốc rễ tánh bày. Sân hận trùm khắp, tuệ giác khó sinh. Phạm hạnh năng ĺa, nhân buộc bệnh hoạn.

Thế nào là tai chướng, điên đảo hiện bày?

Thế gian đạt được tự tánh thượng diệu. Phước nghiệp cõi trời, lực dụng thiện tịnh. Hành, giải gồm đủ năm uẩn, danh sắc. H́nh tướng thù thắng, tạo tác vô tận. Thanh tịnh điều phục, nghĩa lợi khéo bày. Lành thay tỏ ngộ thậm thâm vi diệu. Chế ngự thích đáng (các) hành tướng ngã chấp. Nhân thắng thành tựu, đạt quả vị Phật. Phước đức giải thoát, xuất thế trên hết. Cõi tánh tịnh diệu, căn bản (là) vô úy. Nhận thức thông đạt, Phật pháp thắng diệu. Thân tâm thanh tịnh, hành giải đủ lực. Ngoại cảnh thay đổi, lưu chuyển không mất. Trí tuệ sung mãn, tịch tĩnh vô sinh. Sám hối dứt nhiễm, điều phục là vậy. Các cõi trời ấy tịnh diệu hợp nhất. Nghiêm đẹp, chân thật tăng trưởng thuận hợp. Bi nguyện như vậy bao la vô tận. Nghĩa căn bản ấy viên mãn, thường trụ. Như Lai vi diệu viên mãn vô tận. Thánh quả Thanh văn giải thoát sinh tử. Cõi ý thanh tịnh, mười pháp tu học (hoàn tất). Thắng nghĩa phát sinh, hướng đạt cứu cánh. Hạnh của Bồ-tát, vi diệu sâu xa. Chúng sinh còn đủ các phiền não, chướng. Si độn, ngã mạn, hạnh của cõi người. Lực dụng chân thật tỏ ngộ, ĺa bỏ. Phiền não ngăn thể (tánh) rõ loại căn − tùy (phiền não). Hai mươi sáu pháp, Ba thừa cùng dứt.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, Tôn giả Trang nghiêm hộ quốc bản sinh nghĩa thứ hai mươi lăm.

Hết Quyển 11

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 12

Vọng tưởng cấu nhiễm, khổ não buộc che cùng tận như cõi không. Đó là tùy thuận thấu đạt theo nhân Bồ-tát.

Thế nào là h́nh tướng các bậc Thanh văn, Duyên giác còn mong đạt, nên gọi là “động chuyển”?

Tột bậc Đại thừa (là) an định, vô động. Niết-bàn hiện bày: thanh tịnh, tịch mặc. Tánh thiện không nhiễm, viên mãn tuyệt đối. Lực dụng đạt được (là) nhân diệu “vô tác”. Tâm cảnh hòa hợp, uyển chuyển vô biên. Gốc trí tuệ sinh lực dụng bao la. 

Phật tánh hiện bày, hằng dứt (cõi) vô gián. Phàm tánh đã dứt. Hành, giải thiện diệu, rõ nghĩa dứt sợ. Thâu giữ mọi mối, văn nghĩa bao la. Nhân Thánh tận cùng, dứt mọi hý luận. Giữ ǵn nghĩa lợi như Sư tử vương. Thanh tịnh vô cấu đạt phước người, trời. Thắng nghĩa chân thật mênh mông, hòa thuận. Rực rỡ, bất thoái, chế ngự, dứt bỏ (phiền não, hý luận). Thượng diệu, thanh tịnh viên mãn đáng yêu; dung mạo (được) Đế Thích cung kính, tôn sùng. 

Thế nào là hành động phát sinh, chuyển biến?

Thanh tịnh, xa ĺa như mây phủ che. Dung mạo tịch tĩnh, vô cấu tăng trưởng. Chân lý hợp ý, gốc của tự tại. Tự tánh rốt ráo, lực dụng trượng phu. Đất nước yên lành, dứt mười hạnh ác. Sắc tướng quý giá, tạo tác thắng dụng. Như Tứ thần túc tột bậc. Tự tánh thông tỏ dưỡng nuôi chân thật. 

Nơi chốn tham dục, tâm Bi yêu giúp. Thân tâm thông suốt, dứt trừ vọng tưởng. Hành tướng trói buộc, lưu chuyển không dừng. Trí tuệ thể tánh, chi phần thù thắng. Tất cả bệnh nạn, nhận rõ thật hư. Xứ sở điều hòa, tận cùng nguồn ngọn. Năng lực dốc tu (đạt) diệu dụng tịch tĩnh. Dòng thác pháp nhiễm, Thánh trí năng trừ. Quả vị bất lai, các cõi hết nhân: Trói buộc nhiễm tánh, lực dụng tĩnh lặng. Chế ngự hý luận (cùng) gốc rễ điên đảo. Nhãn thức duyên sắc, ý thức và thức (thứ) tám. Ba thức cùng thời đều có duyên dụng (với sắc: cảnh). Tự tánh thanh tịnh (là) nhân của dẫn dạy. Nhận rõ tộc họ, cung kính cúng dường. Là chốn dốc tu hợp phần rộng khắp. Tạo nhân đủ lực (diệt) chướng, nhiễm, điên đảo. Tạo nhân tịnh diệu, hóa độ trọn đủ. Công hạnh bố thí, mong đạt Đại thừa. Đúng bậc trượng phu: hành động cùng tận. Lực dụng phát khởi, thấu đạt thanh tịnh. Nơi chốn thanh tịnh, hạnh thí viên mãn. Cứu cánh độ sinh (là) cứu giúp hòa hợp. Xa ĺa các tướng, cõi tánh thêm tăng. Hướng tới hoan lạc, hành động (dễ rơi vào) điên đảo. H́nh tướng tận cùng (là) mẹ hiền yêu dưỡng (con). Bố thí gồm đủ danh, tướng các loại. Chế ngự, dốc tu, rõ nghĩa bất thoái. Hành thí b́nh đẳng, thuận hợp thêm tăng. Là chốn Bồ-tát hướng cầu chân thật. Bi nguyện tu tập. Kinh, giáo thành tựu. Nhân tướng thù thắng (là) bố thí b́nh đẳng. Thông tỏ phép tắc, tự tại tịch tĩnh. Độc hại hiện bày, si độn đều đủ. Thắng nghĩa tột bậc (là) thực hiện thanh tịnh. Hành, giải bất thoái, (nhận) rõ gốc tai họa. Thông tỏ, chế ngự các thứ nhiễm, vọng. Nhân không (theo đúng) mẫu mực, (cũng như) thành ấp (bị) hủy hoại. Cõi xa khó tới, tâm linh (cũng) như vậy. Sinh loại cõi người, điên đảo si độn. Các mạn (cùng với) mười pháp hòa hợp sinh khởi. Thể chân thật ấy, hý luận tạo nhiễm. Tự tánh chấp ngã, tâm dấy hý luận. Khắp chốn tạo nhân, khế hợp tận cùng. Thông tỏ cùng tận, hướng đạt tinh diệu. Bụi bặm trói buộc, Phật đạo trừ diệt. Nơi chốn an tĩnh, dưỡng nuôi thành thật. Tự tánh thấu đạt, ngôn ngữ phát sinh. Hữu t́nh ái dục, chi phần ô nhiễm. điên đảo si mạn chấp ngã đều có. Cõi ý thuận hợp, thanh tịnh hiện hành. Hướng cầu hý luận, dòng thác thêm mạnh. Nghiệp dữ, cấu uế, nơi chốn không bày. Năng ĺa nhiễm buộc, h́nh tướng tĩnh lặng. Ý pháp khế hợp, tạo tác giảm, tăng. Hóa độ đúng thực (là) thanh tịnh thuận hợp. Cõi quỷhiện bày cũng không tồn tại. Khổ não, lầm lỗi, (do) tự buộc không mở. Thắng nghĩa b́nh đẳng, không nhân sao đạt. Thấu suốt tận cùng mọi nẻo dục lạc. Là chốn mọi người siêng tu Thánh đạo. Thấu rõ hành tướng trói buộc dấy thêm. Gánh vác việc lớn, hướng đạt nhân thắng. Cứu cánh viên mãn (là) thắng nghĩa phát sinh. Hành thí b́nh đẳng, lực dụng thông tỏ. Hóa độ quần mê dẫn về nẻo thật. Các pháp bị nhiễm gốc từ ngã mạn. Tham ái dục lạc quấy động tự tại. Bậc thầy mẫu mực chỉ dạy rõ lời. H́nh tướng thanh tịnh vô biên như vậy. Tạo tác ở đây (thanh tịnh) nhân (của) mọi hành nghiệp. Hóa độ chúng sinh dứt mọi hoạn nạn. Điên đảo hý luận, hữu t́nh chế ngự. Tự tại ít dục nhận rõ tánh nhiễm. Xa ĺa ái buộc (đạt) b́nh đẳng chân thật. Thánh quả tối thắng (là) nghiêm tịnh hiện hành. Nguồn ngọn hòa hợp, tạp nhiễm đều sạch. Diệu dụng tự tánh, nghịch cảnh thành thuận. Là xứ Bồ-tát cõi tánh thanh tịnh. Giảng giải phát khởi tận cùng khắp chốn. Tâm không sắc tướng thông tỏ tột bậc. Nhân thắng thành tựu, tín ngưỡng nên gắn (bó). Tự tánh tri kiến sinh khởi tận cùng. H́nh tướng b́nh đẳng. (Là) hành động thuận hợp. “Vô úy” gồm đủ (là) đức hạnh (của) chúng sinh. Nơi chốn vững tu, thuận theo chân thật. Cội rễ thanh tịnh, tĩnh lặng, “bất sinh”. Tự tại (trong) biến chuyển, thậm thâm khó đạt. Hữu t́nh hành giải đầy đủ gốc tịch (tĩnh của ḿnh). Trí tuệ chứng đạt tịnh diệu thuần khiết. Tận cùng bố thí (nhằm đạt) sắc tướng ít dục. Chi phần tạo nghiệp, hợp nhất bất thoái. Thuận theo hành, giải, bố thí ban vui. Bố thí khắp chốn, đức hạnh trọn đủ. Điều phục nhân hành mong đạt cứu cánh. Ĺa bỏ độn, buộc phải có bạn lành. Lực dụng tạo tác (lấy) chi phần làm gốc. Hý luận dấy khởi, trói buộc tự tại. Chính nơi hý luận, tu thí dứt nhiễm. Cõi ý chân thật, chân lý mới hiện. Buông theo dòng thác, điên đảo trùm khắp. Chế ngự tâm hành, thảy để tu tập. Tỳ-nại-da pháp, Tŕ, Phạm đầy đủ. Thông tỏ tịch tĩnh, nhân gốc mọi pháp. Bồ-tát mong đạt ái lạc hợp ý. Chi phần năm loại (bố thí) phước báo ứng hợp. Nơi chốn khế hợp phát sinh thấu đạt. Chấp ngã dấy tranh (cãi), phóng túng sinh mạng. Bậc đại hữu t́nh tự tại, điều phục. Tịch tĩnh “vô sinh”, điều phục mong đạt. Trí thanh tịnh rõ: Bỉ thử không thật. Chỉ dạy thanh tịnh chân thật, thâm diệu. Diễn bày, chỉ bảo tịch tĩnh cùng tận. Thân, ngữ, ý hành theo mười nẻo nghiệp. Tịch tĩnh phát sinh. Thảy điều mong đạt nhân hành b́nh đẳng, Ngọn nguồn thấu đạt, công dụng rạng rỡ. Như Sư tử vương yên định. Thân phần viên mãn, phép tắc thanh tịnh. Từ gốc thành thật (đạt) thù thắng vô tận. Giáo pháp thanh tịnh, điều phục chín loài. Làng xóm, xứ sở, nơi nơi (đều) áp dụng. Tạo nhân rộng lớn, (đạt) cơm áo sung túc. Nhân thắng tịnh diệu, tánh giác viên mãn. Chế ngự hiện hành, thù thắng phát sinh. Thông tỏ cõi tánh, ĺa bỏ hý luận. Diệu lực của Phật: Quả báo b́nh đẳng. Ái lạc thù diệu (là) tịch tĩnh vô tranh. Tạo nghiệp thuần hậu (đạt) an lành thù thắng. Thân (khẩu, ý) cùng mười hạnh (là những) phương tiện khéo léo (để thực hành). Từ thuận hợp ấy, bố thí mong cầu tu tập rộng khắp. Căn bản thiện diệu (đạt) thâm diệu tối thượng. Thù diệu tận cùng, không ngoài cõi trời. Ngọc quý như ý. Hướng tới tịch tĩnh. Ĺa chốn huyên náo, trói buộc, gốc rễ (của) dòng thác phiền não. Là xứ quốc vương nhận thức rõ ràng. An trụ tĩnh lặng, yêu mến muôn loài. Sửa trị cõi bờ, an lạc không dứt. Vật quý đánh yêu, chính là dạy (điều) thiện. Chế ngự bỉ ngã, thọ nhận từ thầy. Tự tánh b́nh đẳng (thể hiện) khắp mọi nơi chốn. Tiến tu thành thật, tạo nhân thù thắng. Hành động tự tại, phép tắc từ (nơi) ta. Tĩnh trụ vô tranh, dứt nhân dục lạc. Tâm như họa sĩ, tạo tác không cùng. Nhận thức thấu đạt rốt ráo (đều) nương tâm. Pháp diệu Thập thiện, chúng sinh (phải) t́m học. Quốc vương thực hành đều khắp viên mãn. tĩnh lặng dẫn dạy đêm ngày không dừng. Là chốn trượng phu dứt mọi tranh, độn. Lớp lớp kính tin dốc sức thấu đạt. Đồng nữ mong cầu (dứt) điên đảo khổ não. Niệm niệm tương tục, chúng sinh chuyển biến. Tạo tác dứt nhiễm, dồi dào lắm loại. Hành động si độn (do) tham ái không cùng. H́nh tướng ngã mạn, phiền não nương nhau. Gốc của chấp ngã tương hợp thành trăm.

Thế nào là đức hạnh hợp phần tròn lặng?

Tùy thuận, dốc tu bờ giác hiện bày. Chi phần tạo tác, lực dụng tăng trưởng. Thuận theo nghĩa lợi, dục lạc càng nhiều. Thấu đạt nhân tịnh (đem lại) lợi ích thế gian. Lành thay tự tánh, bố thí là nhân. Cứu giúp chúng sinh dứt mọi đói khát. Thấu đạt tịch tĩnh, thông tỏ ngọn nguồn. Hành, giải viên mãn, dứt điên đảo, nhiễm. Như h́nh tướng tham, hướng mong dứt sạch. Đạt được h́nh tướng vô tánh bao la. Nương tựa bạn lành, cõi tánh rộng mở. Ĺa bỏ tăng trưởng tranh nhiễm, tự tánh sáng tỏ. Hành ấy viên mãn, an lạc thuận theo. Chi phần thuận hợp, gốc của thế gian. Trí tuệ tịch tĩnh, nhận rõ trói buộc. Thắng nghĩa lớn lao, ghi nhớ tận cùng. Hành động phát sinh, như thể đánh địch. Trời, người tĩnh trụ, lực dụng tự tại, dẫn dạy thanh tịnh, gốc là điều phục. Trí tuệ thông tỏ, bố thí thuận hợp. Mong đạt hiện bày (là) hành mười loại thiện. Quốc vương khéo dạy: chúng sinh tham dục. Lễ bái Thánh hiền, an lạc tự tại. Hành mười loại thiện, (đạt) thâm diệu chân thật. Thuận theo nơi chốn, h́nh tướng thêm hại. Thân phần sung đủ, thắng hạnh viên mãn. Hạnh lành gắng tu, ngày đêm không quản. Nơi chốn trượng phu dứt hạnh ngã mạn. Phật đạo thù thắng, chân thật phát sinh. Điều phục các loài, ngọn nguồn viên mãn. B́nh đẳng dứt tranh, thân tướng dũng lực. Đạt tánh Tam bảo tịch nhiên, an tĩnh. Nam tử kính tin, lễ bái phụng thờ. Vương giả tự tại, chúng dân mến mộ. Phật đạo phát sinh, dứt sạch kiêu, dật. Cung kính, tùy thuận, hướng đạt tịch tĩnh, là chốn trượng phu thù thắng phát khởi. Ở chốn tự tại, hành hạnh thế gian. Nương tựa Thập thiện, đạt trí chân thật. Tịnh diệu chư Thiên (là) an tĩnh thắng nghĩa. Trời người chuyển hợp, nẻo thiện định rõ. Nơi dòng thác ấy, kiêu mạn chẳng còn. Thân, ngữ, ý hành tu mười hạnh thiện. Ĺa chướng, phiền não, dứt vọng tưởng, tranh (cùng) buộc, che. Tạo tác cội rễ tịch tĩnh. Nhân hành thanh tịnh (đạt) tịch tĩnh chân thật. Tự tánh (của bậc) hữu học hành thiện thế gian. Ngã chấp hý luận trói buộc h́nh tướng. Dốc tu tịch tĩnh, quả báo rõ thông, là lúc quốc vương hành mười nẻo thiện. Cõi nước yên tĩnh, dứt hết hý luận, phép tắc nghiêm túc, sửa trị chúng dân. Buộc che tận cùng, như mây mù khắp. Giới mốc càng tăng, dung mạo thêm rạng. H́nh tướng quý giá ở nơi ta. Hạnh thí phát sinh. Thân (ngữ, ý) cũng mười loại dốc sức tu thí. Thông tỏ chân thật, thù thắng, thượng diệu. Dứt các mạn, nhiễm, phá trừ ngã chấp. Tham ái tận cùng (là) nhân duyên (của) hý luận. Tự tánh tạo tác, vô tranh mong bày. Si mạn trói buộc phát sinh vọng tưởng. Là cõi Bồ-tát thấu lẽ b́nh đẳng. Thấu đạt tận cùng tộc loại chân thật. Dẫn dạy b́nh đẳng hợp phần viên mãn. Tu tập tịch tĩnh, trí tuệ tỏ ngộ. Giữ ǵn thêm gắng, chế ngự các vọng. Tỏ ngộ chân lý đúng nẻo Đại thừa. Gốc tự tánh bày, ý pháp thuận hợp. Chúng sinh cõi người, lực dụng dẫn dắt. Thanh tịnh trùm khắp, rõ chốn thù thắng. Si độn ngã mạn gồm đủ từ gốc. Vương giả xuất chúng, diệu dụng vô biên. Nhân thật rốt ráo, tu thí rộng khắp. Cội rễ đúng phần, thông tỏ cùng tận. Tịch tĩnh thắng nghĩa. Lực nhân thiện diệu. Che buộc chẳng sinh, phiền não tự diệt.

Thế nào là hướng đạt bố thí hóa độ?

Là chốn quốc vương đất nước yên ổn. Đủ sức gánh vác, chúng dân thuần phục. Trăm loài cùng sống, sinh khởi tự nhiên. Nơi chốn trượng phu tịch tĩnh an trụ. Tu chấp hạnh xan là chốn chẳng thật.

Dòng thác thực kia gốc gồm mười loại. Cầu hạnh Bồ-đề đúng Đại trượng phu. Trí tuệ thâm diệu, tỏ theo lời Phật. Si mạn đều ĺa, chân thật như vậy. (Xa ĺa tất cả) điên đảo nhiễm ô, nơi sinh phiền não. “Đồng nữ” bị buộc, khiến mẹ lo lắng. Dạy bảo nghiêm minh, chế ngự nghĩa lợi. Hiểu biết tăng thêm, thấu đạt viên mãn. Chấp ngã thêm dày, phiền não tăng nhân. Thân tâm xa ĺa mọi thứ điên đảo. Là chốn quốc vương pháp luật thượng tôn. Dung mạo năng lực trùm khắp như vậy. Phát sinh chân thật, thâm diệu, rốt ráo. Ngôn ngữ sâu xa, nghĩa lợi hợp ý. Xa ĺa nhân ác, dứt hết tham dục. Bố thí ấy là thắng nghĩa b́nh đẳng. Tu tập thấu đạt, mong cầu thuận hợp. Chấp ngã cấu uế, tịch tĩnh chẳng sợ. Thuận theo cõi người, tranh biện thuận hợp. Ngã kiến như vậy (gồm cả) nhiễm tạp, tịch mặc. Bồ-đề Tát-đỏa, ngôn ngữ chế ngự. Bậc Thánh tu học (hoàn tất) chứng lý tịch diệt. Xa ĺa tạo nhân (xấu), hành động (theo) chân lý. Mong dứt nghiệp dữ, dứt sạch tranh nhiễm. Ngôn ngữ dẫn dạy, nhân nhiễm đều diệt. Thêm vô số nhân, dứt vô biên nhiễm. Yên vui nơi con, tâm nghi đều dứt.

Thế nào là tu tập tịch tĩnh chân thật?

Nhân ấy phát sinh, trừ tất cả mạn. Dứt trọn nhiễm, tranh. Tĩnh trụ thể hiện. Phương tiện phát khởi, phải cần đủ nhân. Nơi chốn yên lành, nên mong đến đó. Là xứ “ba loại”, khiến tâm dứt tranh (cãi). Tĩnh trụ, dứt hết biên kiến tổn giảm. Ngôn thuyết phát sinh nghiêm túc, khế hợp. Tự tánh tịnh diệu nương tựa Phật đạo. Trượng phu chỉ dạy ngọn nguồn mọi cõi. Chi phần gồm đủ, độc hại đều sạch. Lực dụng tự tại hành hóa vô biên, là chốn quốc vương dốc tu cõi thắng. Sắc tướng nghiêm đẹp, lực dụng vững chải. Tĩnh trụ tận cùng, pháp luật trùm khắp. Trong lặng thuận hợp, mẹ yêu là thế. Tạo tác sắc tướng, cung kính ngưỡng mộ. Hành giả thông tỏ, nơi chốn thù thắng. Thọ mạng ngắn dài theo nghiệp đã tạo. Giáo thừa nêu rõ mà vẫn chung đường. Là xứ Bồ-tát bi nguyện rộng lớn. Hóa độ muôn loài mười phần viên mãn. Thể sạch ngã mạn, đầy nhân bố thí. Nơi chốn tĩnh lặng, lãnh hội ngôn thuyết. H́nh tướng bao la, lời vua chỉ rõ. Cõi trời thượng diệu, độc hại thảy ĺa. Căn bản an trụ, hý luận chẳng còn. Nhân ấy chân thật, thắng nghĩa phát sinh. Nhân tánh tịch tĩnh, lực dụng dồi dào. Giáo pháp mẫu mực, tấn tu bất thoái. Đủ nhân tịnh diệu, dứt nghiệp khổ sở. Diệu lực tự tại, gồm đủ cõi người. Tham dục ngã mạn dẫn (tới) quả điên đảo. Thanh tịnh hiện bày, xứ ổn, an lạc. Luôn luôn nhớ nghĩ, phát sinh, tăng trưởng. Năng lực tự tại, cõi ý hài hòa. Tộc loại mong đạt nhân tịnh chỗ nương. Trí tuệ thanh tịnh, buộc, tranh dứt trọn. Là cõi quốc vương, pháp lệnh thuận hợp. Phép tắc mẫu mực cứu giúp muôn dân. Tu tập tối thượng viên mãn, hòa thuận. Thông tỏ thắng nghĩa, dứt các loại mạn. Tận diệt chấp ngã thấu lời Phật dạy. Lành thay! Lành thay! Phước đức rộng khắp. Thắng nghĩa thanh tịnh, gốc mọi tạo tác. Tùy thuận chúng sinh, đức hạnh dốc tu. Tu tập nhân thắng, lực dụng hóa độ. Mong đạt thanh tịnh. Dứt tướng chấp ngã. Thấu rõ Thập thiện chân thật, tịch mặc. Hành hạnh bố thí, đạt chân nghĩa lợi. Cõi nước tịch tĩnh, khắp chốn thuận hợp. Cõi vua rộng lớn, dẫn dạy khéo bày. Vương giả rõ là (bậc) trí tuệ chân thật. Nhân tịnh an trụ trước mọi chuyển, hoại. Ý thức thanh tịnh hòa hợp, giải thoát. Là cõi quốc vương chí tôn, chí kính. Dẫn dạy muôn loài, Thánh lực uy nghiêm. Sắc tướng chúng sinh không cùng một loại. Thắng nghĩa tăng trưởng mong đạt chân thật. Cội rễ trùm khắp như Sư tử vương. H́nh thần đáng sợ. Vi diệu sâu xa, ĺa mọi lưu chuyển. Năm cõi, tự tánh, các pháp viên mãn. Các pháp cõi người, quả Phật đạt được. Tận cùng hý luận, thuận − ĺa tùy lúc. Căn bản tịch tĩnh, chỗ nương của lực dụng. Tu hạnh Bồ-tát, trí tuệ chân thật. Thắng nghĩa gồm đủ. Tâm vọng chẳng sinh. Xứ sở an tĩnh. Giáo hóa chúng sinh. Công hạnh bày biện. Thắng pháp vô biên, hướng cầu khế hợp. Phép tắc mẫu mực, Ba thừa nêu rõ. Như bậc đại vương, chân thật thuận hợp, chỉ dạy chân lý. Hướng đạt trí giải, “danh” không thể đạt. Tâm pháp vốn tịnh. Tuệ giải hòa hợp. Thanh tịnh bất thoái. Cõi ý thông tỏ. Hành lẽ Như như. Thắng nghĩa các pháp, gốc trí tuệ đạt. Căn bản đức hạnh, hành giải gồm đủ. Tâm hiện tinh thuần, đắc “vô sở ngại”. Nhân thắng hòa thuận, nghiệp dữ dứt trừ. Lực dụng tự tại, phát tâm tu tập. Hành nhân độc đáo, ái lạc phát khởi. Thanh tịnh hiện khắp, thông tỏ, tùy thuận. Vô tướng hiện bày, bỉ thử không phân. Tĩnh lặng, trong lành, giải thoát, không sinh. Đạt được tự tại, gốc mọi mẫu mực. An định như núi, gánh vác đủ lực. Hóa độ chúng sinh, đạt đến cứu cánh. H́nh tướng rạng rỡ. Tạo nhân tu tập. Hướng cầu vô tận. Ĺa mọi nơi chốn. Đức hạnh dốc tu. Lành thay hành hóa.

Chấp ngã như thế bủa vây tự tánh. Ĺa bỏ chân thật, chẳng cầu bố thí. Nhân thắng thân tâm, căn bản sinh khởi. Lời vua khen ngợi. Là chốn vương giả gánh vác b́nh đẳng. Thông tỏ tận cùng tất cả sự thật. Dòng thác các pháp điên đảo chẳng còn. Giáo hóa tận cùng, sạch mọi vọng tưởng.

Bồ-tát hành thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh nghĩa thứ hai mươi sáu.

Chúng sinh sân hận, lưu chuyển xa ĺa. Đó là thấu đạt lời Bồ-tát dạy.

Hạnh thắng an lành, trí tuệ thông tỏ. Tự tánh các loài (đều) theo lẽ báo ứng. Lực dụng công năng gốc rễ lắm thứ. Các bậc hữu học đều dựa cõi nhân. Thân tâm thanh tịnh là gốc (của) tự tánh. Thọ dụng theo nghiệp, quả báo nhiều loại. Thắng hạnh phát khởi, tu thí viên mãn. Tự tánh trong lành, lực dụng thấu đạt. Cõi tánh nhiều loài, căn bản (là) Thánh chúng. Phật pháp tịnh diệu, hướng đạt phạm hạnh. Diệu dụng bố thí, xứ sở tự tại. Hý luận phát sinh, thiện tịnh dứt trừ. Phép tắc căn bản, thanh tịnh trùm khắp. Phiền não hý luận, thuận hợp hiện bày. Nhân thắng tận cùng (là) thắng nghĩa hiện rõ. Cội rễ tĩnh trụ tồn tại như (cõi) không. Lực dụng thật ấy, tự tại bất thoái. Thánh chúng hòa hợp tận cùng như mây. Tạo tác trọn đủ, ngã mạn chẳng dấy. Tạo nhân vô tướng, nhận quả thù thắng. Điên đảo, nhiễm, mạn, thảy đều chẳng sinh. Phước báo tự tại, hương thơm bay khắp. Tịch tĩnh như (cõi) không, đúng nghĩa giải thoát. Hóa độ căn bản, thành tựu phước đức. Biến hóa tự tại. An lạc như vậy.

Thế nào là thông tỏ thắng dụng (của) nhân thiện?

Làng xóm, nơi chốn, khắp chỗ hướng cầu. Thảy đều dứt chướng, tăng trưởng như (cõi) không. Thắng nghĩa bất thoái, thâm diệu khó đạt. Là cõi Bồ-tát hành hóa dài lâu. Thuận theo Thập thiện, tự tánh hiện bày. Gốc rễ tự tánh, phiền não chẳng sinh. Ngã kiến, chấp trước, nhiễm chướng tự khởi. Quả báo theo h́nh thể không ĺa bỏ. Cũng lại là nơi tâm ấy tu tập. Dẫn dạy tịch tĩnh, h́nh tướng viên tịnh. Dung mạo đoan chính, lực dụng lớn lao. Phước báo thọ nhận tăng thêm không giảm. Nghiệp thiện phát huy, hương thơm bay xa. Phát sinh bố thí b́nh đẳng viên mãn. Dốc tu tịnh diệu, thắng nghĩa khế hợp. Thuận theo quá khứ, nhân mạn chẳng sinh. Thấu đạt thù thắng, ĺa xa ngu muội. Bỉ thử chân thật (là) thắng nghĩa thiện tịnh. Tu thí vô ngã, gốc mọi h́nh tướng. Tạo tác oán đối, thắng định chẳng sinh. Xa ĺa tranh, nhiễm, (đạt) b́nh đẳng trang nghiêm. Bất sinh gồm đủ. Nhân gốc hý luận. Tịch nhiên hiện bày. Giới đức như vậy, an tĩnh hòa hợp. Nhân phẫn tạo tranh, nghiêm túc ĺa bỏ. Tâm tịnh phát khởi, hợp phần khắp cõi. Tự tánh chân thật, rốt ráo tận cùng. H́nh tướng dốc tu, thân thể nhận báo. Tướng nhân biến động, bạo lực sinh khởi. Rõ ràng trong sáng, báo ứng trọn đủ. Tu tập tăng thêm, tịnh diệu đáng quý. Trong lành, tươi đẹp, chẳng hề giảm bớt. Mong đạt tự tại, dốc tu bố thí. Sắc tướng không tỏ, thật nhân trí tuệ. Là cõi có vua, quả báo hợp ý. Nơi chốn trang nghiêm, thanh tịnh tự tại. Thấu suốt cõi xa như mắt cùng nh́n. Mong đạt phép tắc, thuận hợp chân thật. Sắc tướng hướng tới, tạo nghiệp thích hợp. Ứng báo từ xưa, thành tựu hiện tại. Bỉ ngã chuyển đổi, tham si tự dứt. Là chốn trí giải tự thân đạt được. Thông tỏ hữu vô, sinh tâm bất thoái. Tự tại tu thí, dứt bỏ tham buộc. Phiền não như dòng (nước) xói mòn cuộc sống. Tự tha giáo hóa như phép tắc vua. Nhận thức thấu suốt thảy đều đúng thực. Nơi chốn tịch tĩnh, tuệ giác tỏ ngộ. Ngôn ngữ lan rộng, lực dụng phát sinh. Bỉ thử tuy xa như cùng đối mặt. Nơi chốn tùy thuận lâu bền, trọn vẹn. Thân thể thù thắng diệt sạch đảo điên. Tu tập thông suốt, tĩnh trụ hiện bày. Bờ giác rỡ ràng thâm diệu, tĩnh lặng. Dứt trừ tham ái, phát khởi bất thoái. Phiền não giảm thiểu, tịnh diệu thêm tỏ. Tự tánh sạch nhiễm, khế hợp hiển hiện. Tỏ ngộ chân thật, lực dụng lớn lao. Tướng năm uẩn đạt, tùy thuận trọn nên. Dòng thác chuyển đổi, tịch tĩnh phát khởi. Sâu xa vi diệu, vốn không h́nh tướng. Tự tánh tùy thuận, gốc vốn tĩnh trụ. Vọng tưởng tạo tác câu nhiễm, tai họa. Lực dụng gánh vác rời bỏ phiền não. Nhân tướng chi phần đạt được ung dung. Rõ lẽ tùy thuận, thắng hạnh gắng làm. Hướng cầu lạc chốn, tướng điên đảo sinh. Phiền não như mây phủ trùm tự tánh. Trừ tận tai nạn, tịnh diệu bày rõ. Thập thiện gắng theo (đạt) tự tánh chân thật. Thế gian mạn dấy (nhưng) vương giả tự tại. Vọng tưởng dấy khắp (là) gốc mọi trói buộc. Tu tập thêm tăng, quả báo chuyển đổi. Hương giới thơm lừng, tỏ ngộ viên mãn. Vương giả dung mạo oai nghiêm như thế. Phước báo tột bậc, thế gian khó sánh. Tự tánh b́nh đẳng, hành theo Thập thiện. Phước đức viên mãn, vô cùng tôn sùng. Là chốn vương giả phép tắc đều khắp. Thánh lực trên hết cứu độ muôn loài. Trí giải thông tỏ, muôn dân tin cậy. Giáo lệnh b́nh đẳng, thảy đều an tĩnh. Là (bậc) Đại trượng phu cõi nước quý giá. Là chốn có vua, hành giải gồm đủ. Thánh lực an định, dứt điên đảo, tranh. Đất nước đói nghèo (là) điều chưa từng có. Tam bảo an trụ, gắng sức thi hành. Lực dụng tịnh diệu, thấu đạt khế hợp. Là chốn Bồ-tát căn bản hành hóa. Lực dụng hơn hẳn, tịch tĩnh viên mãn. Cõi ý ung dung dứt mọi trói buộc. Thắng nghĩa phát huy, tịch mặc khắp chốn. Tạo tác thuận hợp, b́nh đẳng lan khắp. Lực dụng sinh sôi, tịch tĩnh cùng tận. Si độn, hý luận hốt nhiên dứt sạch. Mẹ hiền yên vui chuyển khắp không dừng. Đói khát không còn, thảy được an lạc. Bi nguyện rộng khắp, hướng đạt vô tận. Chấp ngã chẳng sinh, cõi tâm chân thật. Tự tánh ưu việt (là) tự tại tận cùng. Nơi chốn chúng sinh thù thắng, hòa thuận. Trí căn bản ấy chứng “bất khả đắc”. Lực dụng thân tâm tịch tĩnh như (cõi) không. H́nh tướng hòa hợp, ngọn nguồn thâm diệu. Là cõi tánh uẩn tích tụ, tạo tác. Điên đảo tận cùng, cấu nhiễm hết mực. Tự tánh chúng sinh gốc là tinh tấn. H́nh tướng vô ngã, phát sinh như thế. Gánh vác cùng tận, tác dụng hợp nhất. Tĩnh lặng vô ngôn, sạch mọi vướng bận. Gốc rễ vô tướng đâu dễ lộ bày. Thuận hợp phát huy mong dứt hý luận. Tướng thân tĩnh trụ. Chi phần thù thắng, vô ngã tự bày. Cõi biến chuyển ấy (bậc) hữu học hướng đạt. Ý dốc tu tập, tai họa dứt hết. Phát sinh dốc tu, tăng trưởng không mất. H́nh tướng tạo được (là) nơi chốn tận cùng. Tánh vốn tịch tĩnh, mẫu mực trùm khắp. Nương dựa tịnh diệu, dung mạo trọn nên. Tánh tự thể hiện thâm diệu, không kiêu. Tánh uẩn tích tụ, tăng thêm cùng tận. Ngã mạn choáng hết tạo nên tánh phàm. Dốc hướng tịch tĩnh, mầm thiện phát sinh. Bậc đại hữu t́nh, tâm tạo an trụ. Tu thí b́nh đẳng, tịch tĩnh như (cõi) không. Vô tướng tĩnh trụ, dứt mọi kinh sợ. Tĩnh lặng như (cõi) không, xưa nay “vô tướng”. Tự tánh nhớ nghĩ, quy ngưỡng, tôn sùng. Dạy bảo như vậy, hiệp nhất thuận hợp, là chốn mong đạt vật quý xuất hiện. Phật đạo phát huy tận diệt vọng tưởng. Bố thí chân thật, tĩnh lặng vô tác. Ba thừa quá độ cùng về bến giác. Tự tại chân thật (là) tịch tĩnh “bất sinh”. Sức tướng an nhiên, lực dụng dốc tu. Đêm ngày sáu thời giáo hóa không ngớt. Dứt bỏ phiền não, tâm tu hòa hợp. Thánh trí vương giả xem xét khắp cõi. Sinh linh muôn loài chẳng hề từ bỏ. Tâm sinh giải thoát, lời Phật dạy rõ. Bố thí không kiêu, cứu cánh tịnh diệu.

Trí Phật b́nh đẳng.

Thế nào là lại sinh vào hàng hữu lậu?

Là xứ có vua cứu giúp nghèo khó. Tham ái trói buộc, tu hạnh cấu nhiễm. Thân tâm chưa dứt hết mọi điên đảo. Tạo tác như vậy, xứ sở, (thêm) bất ổn. Thấu đạt viên mãn, tu hạnh chân chính. Sắc tướng thượng diệu, oán đối lặng dừng. Ý dứt ngã mạn. H́nh bóng của tâm. Tạo nhân dẫn dạy. Tâm vốn bao la. Bạn lành giúp sức. Tự tánh phát sinh. Dạy trao bày rõ. Thắng nghĩa hòa hợp. Xa ĺa chấp ngã, là nơi đất nước tu hạnh thanh tịnh. Lực dụng bố thí, tự tại như trời. Dứt mọi hý luận, Thánh lực hiển lộ. Diệu dụng sinh khởi, kiêu mạn tận trừ. Tâm thiện (vốn) khó bày, hướng cầu ắt đạt. Tĩnh trụ hòa hợp, ĺa tham, sân, si. Cội rễ thắng nghĩa, sạch hý luận, buộc. B́nh đẳng, tự tại, thấu đạt viên mãn. Chấp ngã chẳng sinh, thâm diệu là vậy. Cứu cánh cõi người, vua là tột bậc. Tướng mạo viên mãn (do) nhiều kiếp tu tập. Gốc lời Phật dạy (là) giải thoát chúng sinh. Thọ mạng ngắn dài do ở tạo nghiệp. Chỗ tựa kính tu. Chuyên tŕ tu tập, bố thí hết mực. Chúng sinh hướng cầu ĺa bỏ oán độc. Tu hạnh bố thí, lực dụng thấu đạt. Sắc tướng chân thật, nguyện lực tu tŕ. Dứt nhân h́nh tướng, si độn lộ diện. Các loài như vậy trói buộc khó ĺa, là chốn Bồ-tát đạt trí chân thật. Dẫn dắt chúng sinh khỏi nạn đói khát. Bố thí tùy thuận, mong đạt giới đức. Hằng dứt hý luận. Đạt được trí giải. Dốc tu hạnh thí, phiền não chẳng sinh. Tạo nhân trí tuệ. Chúng sinh si độn (bị) trói buộc dọc ngang. Phiền não như thế không thể xa ĺa. Như vị quốc vương gánh vác đất nước. Pháp lệnh b́nh đẳng thường không hề bỏ. Muôn loài dấy mạn (phải) chế ngự, nghiêm trị. Từ (bi) trí (tuệ) cùng sinh, thấu đạt thích hợp. Lệnh ban ba lượt, đề ra đúng lúc. Phép tắc nghiêm minh, việc không tái phát. Dứt bỏ nghĩa lợi, mong cầu chẳng sinh. Xa ĺa chấp ngã, thân tâm thư thái. Tướng ấy hợp phần, điều lợi tự đạt. Bồ-tát chỉ dạy an tĩnh phát huy. Vương giả như vậy, quyền uy trùm khắp. Sửa trị cõi bờ, khắp chốn theo giúp. Dứt nhân độc hại, thù thắng vô biên. Chấp ngã, nhiễm diệt, khổ não không sinh. Vọng, nhiễm, đói khát như thế (là) phải dứt. Ngã mạn đích thực, ái buộc liền có. Phép tắc thông tỏ, cõi bờ ổn định. Hữu t́nh giữ tâm tĩnh trụ, dứt mạn. Tự tánh tâm định, thân thể sung mãn. Dòng thác phiền não không nơi phát sinh. Ý thiếu cung kính, ngã mạn dẫy đầy. Giới hạnh không nghiêm, sợ hãi chẳng dứt. Thông tỏ tự tánh bản lai chân thật. Bố thí hợp phần lâu dài không mất. Tự tánh tu học, hành hạnh bất thoái. Ý khởi tu tập, dưỡng nuôi mầm thiện. Tịch tĩnh, tự tín, gốc của đạo hạnh. Bố thí tự tu xưa nay vô tướng. Tướng uẩn tịnh diệu, hướng cầu khế hợp. Tự tánh giải thoát, ví như đề hồ. Thắng nghĩa b́nh đẳng, tịch tĩnh là gốc. Xa ĺa tranh, nhiễm, an tĩnh hiện bày. Tài sản vô úy khắp chốn hiển hiện. Phát huy thanh tịnh, chân thật thuận hợp. Chấp ngã không bày, hý luận tự diệt.

Thế nào là tịch tĩnh ĺa ngã, ngã pháp? 

Như xứ có vua hành hóa tịnh diệu. Biên phương an ổn, cứu giúp b́nh đẳng. Xứ sở ổn định, muôn loài an lạc. Cội rễ đúng phần, quy kính lời Phật. Xa ĺa chấp ngã thành thật trọn đủ. Cõi ý thanh tịnh rốt ráo như (hư) không. Ýù pháp như vậy phát sinh b́nh đẳng. Đức hạnh vô úy, dốc tu đạt được. Bồ-tát chỉ dạy yêu dưỡng thân thể. Nơi ḿnh dứt sạch hết mọi điên đảo. Xa ĺa chấp ngã. Thắng nghĩa tận cùng (là) tướng không bị hoại. Dứt bỏ kiêu mạn, hành giải đầy đủ. Pháp tánh nhân Thánh (là) cội rễ giải thoát. Sân hận dấy khắp, tĩnh − tranh (cãi) không dừng. Thanh tịnh biến khắp năng diệt tham dục. Cõi học tự tin, thông tỏ vô ngã. Tạo tác chân thật ĺa xa nhiễm tạp. Cơm áo sung túc, ngôn ngữ hợp thời. H́nh tướng chuyển biến rốt ráo như vậy. Mẹ hiền dạy bảo, ḱm chế ắt đạt. Dứt hết vọng tưởng, khổ não, lỗi lầm. Diệt trừ phiền não, an lạc gấp bội. Hý luận không còn, thanh tịnh mong đạt. Phước đức tự tại thù thắng vô cùng. Nhiều đời phát sinh tạo nghiệp không tranh. Mọi nẻo si, mạn. (Nhờ) thiền định dứt bỏ. Tạo ra vật dụng cúng dường Tam bảo. Nhân tu Thánh lực, trí tuệ trùm khắp.

Hết Quyển 12

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 13

Đức hạnh chân thật thiện tịnh như thế. Dứt tướng nhiễm buộc, đạt được an lạc. Thắng nghĩa b́nh đẳng cùng tột như vậy. Phát sinh bố thí tĩnh lặng trọn đủ. Tu nhân thắng nghĩa, lực dụng thù thắng. Dứt bỏ phiền não, diệu dụng tự tại. Tự tại khế hợp, tạo hạnh thâm diệu. Nhân tu rạng rỡ, thân tâm chẳng hoại. Hành theo Thập thiện, phiền não đều diệt. Tự tánh thanh tịnh, lực dụng năng giữ. Các pháp đúng phần, thuận theo tịch tĩnh. Vương giả dốc tu, đạo đức trùm khắp. Tu hạnh bố thí, lực dụng hòa hợp. Cứu cánh thiện tịnh (là) thấu đạt dứt ác. Năng hóa độ khắp, an lạc thảy được. Ngôn ngữ thanh tịnh gốc từ (bậc) vương giả. Phật pháp yên tĩnh, nghĩa lợi rõ ràng. Dẫn dạy trọn nên, lực dụng thuận hợp, thanh tịnh viên mãn. Hữu t́nh thù thắng, chấp ngã chẳng sinh. Vua khéo dẫn dạy. Tùy thuận như vậy, bất thoái hiện bày. Năng lực, sở học, giáo hóa hướng đạt.

Thế nào là đạt được nhân thiện diệu?

Tự tín, tu tập (đạt) cứu cánh Ba thừa. Trời ấy sân hận, chân thật cùng tụ. Lực dụng (của) chướng, nhiễm, tùy thuận tận cùng. Thế gian như vậy sinh khởi trói buộc. Trời (ở cõi) Dục, chúng sinh căn bản đều có. Thân tâm tịnh diệu nghĩa lợi khế hợp. Hữu t́nh thù thắng, như hạnh căn bản. Thắng nghĩa chân thật (là) phước đức vô biên. Thánh lực Như Lai ngọn nguồn viên mãn. Tạo tác chân thật, dứt trừ pháp ác. Bi nguyện trọn vẹn, vương giả giáo lệnh, vật dụng như vậy. Người, trời cung kính. Trí tuệ hiện bày. Phép tắc Thánh lực. 

Trí tuệ ấy làm thế nào phát khởi hướng đạt?

Dốc tu như vậy trí tỏ chân thật.

Bồ-tát hành thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh nghĩa thứ hai mươi bảy.

Thanh tịnh chân thật dứt sạch tranh nhiễm. Rộng lớn tận cùng (là) tướng khổ, độc hiện. Đó là thấu đạt lời Bồ-tát dạy. 

Thế nào là hướng đạt dứt hết phiền não?

Si mạn thuận hợp, tham dục mất nghĩa. Cứu cánh (của) hữu t́nh (là) tịch tĩnh cùng tận. Pháp tham, sân, si cội rễ (là) mê lầm. Từ gốc bất thiện, các mạn, phiền não duyên nhau mà sinh, nhận lấy bao thứ khổ não. Cội rễ “vô úy” là thắng nghĩa tận cùng. Tham, mạn (do) nhân duyên (tạo ra), tự tánh (vốn) chân thật. Chúng sinh tạo tác (tham, mạn) dứt bỏ, chẳng sinh. Các pháp thanh tịnh, sạch hết cấu nhiễm. Thấu rõ điên đảo độc hại, không dấy. Nhân của đói khát (là) báo của phiền não. Buông theo đảo điên (do) giới hạnh chưa nghiêm. Thấu đạt nghĩa lợi, dứt bỏ (điên đảo) chẳng sinh. Các mạn, phiền não, cùng buộc nhau dấy. Từ, nhẫn, bố thí, cứu cánh viên mãn. Không nhân mà đạt. Sắc tướng vốn không, tu “bất khả đắc”. Hằng dứt dòng thác, hạnh nhẫn trọn nên. Thế gian vô thường. Giác tánh thông đạt. Tự tại diệu dụng, trí tuệ sáng tỏ. Xa ĺa h́nh tướng, tĩnh lặng thành tựu. Tự thể tịch tĩnh, thanh tịnh hiện bày. Cung kính tối thượng, thông tỏ thù thắng. Đức hạnh từ, nhẫn (là) tận cùng giải thoát. Thân tâm (của) tự tánh, tướng bị hủy hoại. Nghiệp tạo cả đời, giới, nhẫn là trên hết, lực dụng giải thoát. Chủng tử thức tánh, thắng nghĩa chân thật, thuận hợp. Si độn, che buộc mênh mông đều dứt. Nơi tu thí ấy ngôn ngữ tịch tĩnh.

Thế nào là ĺa bỏ các pháp hữu học?

Là xứ rộng tu các pháp vô ngã. Tu tập các hạnh, không phân bỉ, thử. H́nh tướng tối thượng (là) phước báo dưỡng nuôi. Như sen mới nở, hương thơm lan khắp. Thanh tịnh không nhiễu, bụi bặm thảy không. Khắp chốn trong nước dứt hẳn bạo lực. Diệt tướng kiêu mạn, hạnh chánh tận cùng. Vật dụng b́nh đẳng, bỉ thử không phân. Cõi ý biến chuyển (tạo) h́nh tướng chi phần. Tự tánh dứt mạn, nghĩa lợi hết lo. Tự tại phát sinh (như) chư Thiên, (các bậc) hữu học. Tịnh diệu không kiêu, phiền não chẳng sinh. Thông tỏ h́nh tướng. Ngôn ngữ tăng thêm. Thấu đạt thành thật. Cội rễ nghiệp dữ. Đủ sức gánh vác.

Thế nào là thân tướng chân thật thông tỏ, tùy thuận biến chuyển, tu tập viên mãn? 

Là xứ quốc vương dốc lòng bố thí. Hành, giải gồm đủ, h́nh tướng dốc tu. Hý luận b́nh đẳng, hoạn nạn chuyển đổi. Trí tuệ tăng trưởng phát sinh dẫn dạy. Nơi chốn tịch tĩnh, hướng đạt chân thật. Năng lực khắp cõi, phép tắc phát huy. Bố thí tận cùng, tâm cảnh hòa hợp. Cung kính thiện thí, tăng trưởng viên mãn. Lực dụng vô tướng, tạo tác tiếp khởi. H́nh tướng thù diệu, cõi nước gồm đủ. Hướng đạt tối thượng, hành giải học hỏi, dốc tu theo nhân rộng khắp. Cõi ấy không nhiễm, hành giải càng tăng. Tánh của Như Lai là tự tánh tịch mặc. B́nh đẳng trang nghiêm, sạch tướng điên đảo. Thân tâm tối thượng, tịnh diệu tinh khiết. Dốc tu Thập thiện, phiền não chuyển đổi. Cõi ý đúng phần, thảy đều tịch tĩnh. Dòng thác phiền não, ĺa bỏ từ gốc. Đi đứng trang nghiêm, ái lạc tịch tĩnh. Ba trí căn bản thù thắng, trong lành. Sắc tướng tự tại, lực dụng tu thí. Xứ sở dứt mạn, hành giải gồm đủ. H́nh tướng căn bản phát sinh, chuyển đổi. Tăng trưởng hưởng đạt ĺa bỏ tham ái. Hành đúng Thập thiện, dứt trừ cấu nhiễm. Nuôi dưỡng thuận hòa, diệt hết lo sợ. Chấp ngã lại sinh, kéo theo phiền não. Tu tập phát khởi, thanh tịnh tăng thêm. Tịch tĩnh phát sinh (là) phước đức chân thật. Dòng thác kết hợp (với) cội rễ điên đảo. H́nh tướng phép tắc (là) thanh tịnh hiện bày. Các mạn như vậy (đã) hủy hoại tự tánh. Dốc tu thanh tịnh, đức hạnh xa ĺa (các mạn). Thân tâm mẫu mực, chân thật phát sinh. Tham dục, đói khát (trở thành) nơi của tịch tĩnh. Nơi chốn, chi phần tùy thuận trọn đủ. Hầm hố hiện bày (trở thành nơi) dưỡng nuôi đầy đủ. An lành biến khắp, trí tuệ thông tỏ nơi chốn mạn dấy. Tịch tĩnh trùm khắp, gốc mọi lực dụng, là cõi trong lành, tịnh diệu cùng tận. Biết rõ cõi, loài, ngã mạn chẳng sinh. Tịch tĩnh tăng trưởng, nhiễm cấu đều dứt. Dẫn dạy, hóa độ theo đúng Thập thiện. Như cõi quỷđói do tạo nghiệp dữ. Gốc thiện tài bồi, hành giải thêm rõ. H́nh tướng b́nh đẳng, an trụ thấu đạt. Điên đảo, cấu uế hết chốn dựa nương. Thấu rõ, xa ĺa si độn, chướng nhiễm. Nương tựa tu tập, hướng đạt tự tại. Thuận theo cội rễ chân thật biến chuyển. Sắc tướng thanh tịnh, căn bản thuận hợp. Ân dưỡng phát sinh hiển bày rộng khắp. Hành, giải, giáo hóa (là) ngọn nguồn ái lạc. Tham dục, điên đảo, tự tánh hiện bày. Tạo tác hý luận, dứt quả thù thắng. Trói buộc tăng thêm, h́nh tướng mất hết. H́nh tướng chuyển đổi, rốt ráo đều dứt. Nuôi dưỡng ái lạc, tất nhiễm, hý luận. Phiền não, điên đảo làm tăng chướng nhiễm. Là xứ ồn tạp, chúng sinh chấp ngã. Tạo tác nghiệp nhân các mạn điên đảo. Vương hành khéo dạy hành giải gồm đủ. Tịch tĩnh an tịnh, hạnh nhiễm hiện bày. Phiền não dấy tràn, thảy nên xa ĺa, cả nơi nhiễm buộc. Tuệ thông ba tánh, cùng ý hòa hợp. Dòng thác tạo tác, Tuệ nhiễm thêm tăng. Lực dụng biến khắp, tự tại đúng thực. Hành uẩn chuyển biến, đâu phải bất sinh. Thắng nghĩa dứt ác (là) thấu đạt b́nh đẳng. Dòng thác như thế (nên) tăng tu (để) xa ĺa. Thấu đạt, hiện bày, tận cùng mọi ngã. Cõi ý nhiễm buộc, chân thật dứt trừ. Thông tỏ Thập thiện, cứu cánh hiện bày. Hăm hở bố thí, thanh tịnh thêm tăng. Lực dụng thiền định (là) ngọn nguồn tịch mặc. Bố thí thích hợp, khổ độc đều dứt. Căn bản gánh vác, (là) diệt tận chướng, nhiễm. Diệu dụng giáo pháp thâm diệu, bất thoái. Tận cùng Thập thiện (là) dứt nghiệp súc sinh. Như nơi có vua là vị nữ nhân. Tu hạnh Thập thiện (đạt) thắng nghĩa chân thật. Chúng sinh cõi trời tăng thêm sắc tướng. Căn bản giới luật (là) thanh tịnh chân thật. Ý diệu tu tập, thanh tịnh phát sinh. Cõi trời tu thí (đạt) ái lạc chân thật. Dẫn dắt chúng sinh thêm đạt trí tuệ. Cõi ý tu tập, thông tỏ dần tăng. Tâm thể thù thắng, năng lực trọn đủ. Xa ĺa nữ nhân, thanh tịnh phát sinh. Thấu suốt nghĩa lợi, nhân thắng an lạc. Nhận thức tận cùng, lực dụng tăng trưởng. Thâm diệu, bất thoái, tùy thuận chẳng mất. Chi phần tự tánh (là) ngọn nguồn cội ý. Nghiệp thiện gọi mời, dốc tu chân thật. Xa ĺa phóng dật, thanh tịnh hiện hành. Tướng thiện đạo hạnh (là) thân tâm hòa hợp. Chỉ dạy thù thắng, hướng đạt nghĩa lợi. Điên đảo, cấu nhiễm dục lạc khó tu. Tịch tĩnh tạo được, trong lành biến khắp. Nhớ nghĩ thiện chí, bất thoái phát sinh. Đức nghiệp bố thí, giới hạnh tăng trưởng. Thắng nghĩa tăng thêm, đức đạt rốt ráo. Thánh nhân thanh tịnh, hóa độ hòa hợp. H́nh tướng viên tịnh, giải thoát thêm rõ. Lực dụng sắc thể, thù thắng chẳng mất, an trụ khế hợp. Tu tập như vậy, thuận hợp tận cùng. Lớp lớp lực dụng, đạo hạnh quán xuyến. Tu tập b́nh đẳng (là) cội rễ vô tướng. Tự tánh tịch tĩnh, tạo nhân chân thật. Đức hạnh có (thể) chuyển, hòa hợp, xa ĺa. Hướng tiến theo Phật, ngọn nguồn (là) vô ngã. Hữu học thâm diệu (là) tăng trưởng tu nhân. Dòng thác ổn định, phiền não dấy khắp. Sắc thể gốc sinh, tâm cũng gốc khởi. Thông tỏ tướng không, hướng đạt (lẽ) vô, như. Tạo nghiệp tịch tĩnh (là) chỗ nương thắng nghĩa. Ngọn nguồn “bất sinh” hy vọng khó đạt. Nương tựa vô tướng (là) đúng nghĩa giải thoát. Tạo nhân “vô tác” (đạt) lực dụng thù thắng. Không thể hủy hoại. H́nh tướng giáo hóa (là) thông tỏ, thuận hợp. Căn bản như thị, bất sinh rạng rỡ. Lực dụng bất thoái. Chân thật nương mạn, tịnh diệu ắt dừng. Thiền định hiện bày: cõi ý tịch tĩnh. Thấu đạt (các mối) sợ hãi, thế gian (có thể) dứt được. Hạnh nhẫn vô cùng thù thắng như vậy, (có thể diệt trừ) nhân gốc phiền não. Lực dụng thông tỏ, tự tánh hóa độ. Thấu đạt h́nh tướng, dưỡng nuôi ái lạc. Phước đức tự tánh, chuyển biến rốt ráo. Nơi chốn tận cùng thảy đều ĺa bỏ (giải thoát). Hướng cầu hiện bày thắng nghĩa phước nghiệp. Dứt hành đảo điên, tu nhân gánh vác. Tự tánh thanh tịnh, xứ của tịch tĩnh. Phước nghiệp thành tựu, ĺa dòng luân lưu. Dòng thác hiện bày, tạo tác cùng tận. Hòa hợp tiến tu, thanh tịnh viên mãn. Tác dụng (của) phiền não (làm) điên đảo sự thật. Lực dụng bố thí (đạt) trí tuệ khắp chốn. Chúng sinh phiền não, trí định chẳng sinh. Đức hạnh căn bản (là) lực dụng gánh vác. Tu tập nhớ nghĩ (đến) nghĩa lợi thế gian. Hành động b́nh đẳng, lực dụng cùng tận. Lực dụng hữu t́nh (là) bạo lực, đảo điên. Căn bản bố thí (đạt) h́nh tướng thù thắng. Tu hạnh từ, nhẫn (đạt) nghĩa lợi tịch tĩnh. Sám hối thanh tịnh, thông đạt giáo pháp. Thâm diệu giữ ǵn, tóm kết trí tuệ. Tự tánh b́nh đẳng, quý chuộng dốc tu. Tự tánh trang nghiêm, lực dụng tịnh diệu. Giáo pháp tạo nhân vô cùng thù thắng. Giải thoát an tĩnh, ĺa mọi đói khát. Thảy mọi tạo nghiệp, cũng đều dứt hết. Nơi chốn nhân nhiễm, kiêu, mạn đều diệt. Giáo pháp thanh tịnh, tạo nhân b́nh đẳng, là chốn vương giả hành hạnh bố thí. Phật quả tịnh diệu, mong cầu, bất thoái. Bậc Thiện nam tử dốc tu bố thí. Giáo hóa cõi trời, tu hạnh giải thoát, tịch tĩnh như vậy. Thù thắng đúng phần, ái lạc cùng tận. Thù diệu chư Thiên tận cùng như thế. Chân thật phát khởi, tịch tĩnh dứt mạn. An tịnh thắng nghĩa (là) dứt bỏ hành tướng. Lực dụng vương giả, thanh tịnh như trời. Thông tỏ nơi chốn, gốc rễ tận cùng. Sắc tướng thanh tịnh, căn bản hiện rõ. Thấu rõ mười loại phiền não, hoạn nạn. Xứ sở chân thật, lực dụng khế hợp. Cõi tánh như lọng phủ che căn bản. Nơi chốn đầy những hầm hố, nghiệp dữ. Xa ĺa hý luận, tu thí tự tại. Hướng tới tịnh diệu, khế hợp tăng trưởng. Tùy thuận biến chuyển. Lực dụng thông tỏ, thảy đều tinh tấn. Vô ngã, dứt nhiễm, tâm thể thanh tịnh. Căn bản lực dụng tạo tướng thù thắng. Dứt bỏ xa ĺa hạnh tham cùng tận. Thực hiện tịch tĩnh, bạn lành thuận theo. Tự tánh thanh tịnh, dẫn dạy si, mạn. Vương giả dứt mọi cội rễ trói buộc, điên đảo nhiều kiếp. Hiện bày, thuận theo dứt mọi phiền não. Nhớ nghĩ hữu t́nh si độn không ngớt. Tịch tĩnh chân thật phát sinh, biến khắp. Điên đảo cấu nhiễm vô biên như (cõi) không. Si mạn tạo tác biến chuyển không ngừng. Phiền não, nhiễm chướng tạo tác điên đảo. Giáo pháp thanh tịnh, tịch nhiên dứt hết (phiền não, chướng nhiễm). Tạo nghiệp chân thật trừ mọi đảo điên. Chi phần tham ái là thể căn bản. Dòng thác vọng nhiễm dấy tăng pháp nhiễm. Lực dụng tạo nghiệp (là) h́nh tướng nhiễm, chướng. Chấp ngã làm gốc. Thánh quả mới đoạn. Trí căn bản dứt (chấp ngã) ngộ lẽ tam thừa. Diệt sạch mọi hoặc, rốt ráo chẳng sinh, xa ĺa tận cùng. Tịch tĩnh đúng thật, thuận hợp như (cõi) không. Tu học mở tâm, cõi ý tự tại, thân tướng viên mãn. Tánh bị che lấp, si độn trói buộc tạo hạnh cấu nhiễm. Chư Thiên dốc tu (đạt) tự tại như vậy. Phiền não buộc thể, nhiễm ấy làm tánh. Căn bản tuệ nhiễm, phát sinh chấp ngã. Phát sinh, hiện bày nhân tịnh (của) hữu t́nh. Như giáo lệnh vua, lực dụng vững chắc. Nương ở thanh tịnh, ĺa mọi si mạn. Thế gian tu thiện tận cùng như thế.

Thế nào là tự tánh thọ mạng an trụ, vật dụng chân thật?

Nghĩa chân thật ấy (là) tánh không điên đảo. Kiêu mạn dứt hết, thanh tịnh tận cùng. Nhân tánh hành động, tạo ra thiện tịnh.

Thế nào là tu tập bố thí thù thắng?

Từ gốc ngã mạn, kiêu, dật phát sinh. Thắng nghĩa biến chuyển độc đáo hiện bày. Thông tỏ hướng đạt chân thật viên mãn. Cõi ý trang nghiêm. Vương giả lệnh mật. Tự tánh căn bản rốt ráo tận cùng. Tâm tịnh thù thắng, chân thật bố thí. Tu tập thanh tịnh (là) h́nh tướng tự tánh. Khắp chốn phát sinh lực dụng tu tập. Hành, giải gồm đủ, tu (hạnh) xuất thế gian.

Thế nào là chi phần thanh tịnh hiện bày?

Cội nguồn hữu vô thâm diệu như vậy. Chế độ vương giả thấu rõ muôn loài. Tịnh giới chứa nhóm, thảy đều phát sinh. Kiêu, mạn, bỉ thử, đích thực (là) sân hận. H́nh tướng (bị) trói buộc (là) nơi chốn hý luận. Trời, người đủ sức phát sinh tu tập. Thể tánh tăng trưởng, tạo nghiệp ĺa bỏ (phiền não, hý luận). Thông tỏ thù thắng, dứt bỏ tai nạn. Gốc buộc gồm đủ nhiễm vọng, si độn, hý luận (được) b́nh đẳng (th́) nhiễm, buộc (được) thông tỏ. Nhân thắng cõi trời (là) tịnh diệu đúng phần. Hành nhẫn tận cùng, Phật đã chỉ dạy. Tự tánh (bị) trói buộc (là) chướng của phiền não. (Như) vương xuất giáo lệnh, Thánh trí thông tỏ. Dốc tu như vậy tăng trưởng tận cùng. Gốc rễ các mạn (làm) tăng thêm điên đảo. Tánh của Như Lai chân thật, vô ngã. Cội nguồn tĩnh lặng, dứt hết nghiệp dữ. Tự tại sâu xa, lực dụng thuận hợp. Thể tánh tận trừ dòng thác phiền não. (Cũng như) thông tỏ tội lỗi nhiều đời (của) nữ nhân. H́nh tướng tận cùng (là) thân tâm điên đảo. Chi phần ngã mạn (là) điên đảo (về) hữu, vô. Vâng theo lời Phật dốc lòng bố thí. Thắng nghĩa đến ấy (là) chúng sinh dứt ác. Tự tánh lại thêm nhân thắng căn bản. Dứt nhiễm (của) chi ái, danh sắc hết nơi. Thâm diệu tịch tĩnh, tướng của trời, người. Diệt trừ si độn, mạn, nhiễm tà mị. Buộc ấy hằng dứt, thâm tâm an nhiên. Mười loại gốc nhiễm, bậc Thánh diệt sạch, là chốn trời, người dứt tận cấu nhiễm, sân hận chẳng sinh, tạo tác hiện bày. Nhân thắng tịch tĩnh (là) thông tỏ “vô úy”. Vương giả thể hiện gánh vác cõi xa. Sắc tướng tự tại, đi đứng ung dung. Thể tánh thanh tịnh, tà ma thảy ĺa. Thấu rõ nữ nhân (là) gốc ngăn nẻo thiện. Là chốn trời, người hợp phần chân thật. Sân hận không dấy, tạo tác tịch tĩnh. Hý luận dứt hết (là) tướng nhân thanh tịnh. Quốc vương gánh vác công việc trị dân. Chân lý hiện khắp, năm uẩn khế hợp. Xa ĺa cấu nhiễm, tu tập tăng trưởng. Vận dụng căn bản, tự tại hiện bày. Theo nhân tự tại h́nh tướng chân thật. Không ngớt nghĩ nhớ lực dụng bỉ thử. Cội nguồn sợ hãi (là) thắng nghĩa mất ngôi. Phải nên dứt bỏ mọi gốc nghiệp dữ. Cấu nhiễm trùm khắp, tướng không bị hoại. Nhiều vua cùng hiện, phép tắc hiện bày. Như vậy là các cõi trời “tam tai” hãy còn. (Ở) trời Đệ tứ thiền ba họa (lớn) mới dứt. Thấu rõ dòng thác, thiện tịnh sinh khởi. Các cõi (trong) tam giới: sân có một pháp, phẫn có bảy pháp, trung tùy hai pháp. Nơi cõi Dục giới, siểm, cuống hai pháp. Dưới cõi địa thứ nh́, căn bản chín pháp. Tiểu tùy có kiêu. Đại tùy tám pháp. Thông tỏ tận cùng, thấu suốt ba cõi. Chi phần dốc tu, tạo tác thanh tịnh. Lực dụng căn bản, mong dứt nghiệp dữ, là chốn Bồ-tát lực nhẫn viên mãn. Lực dụng thanh tịnh, chân thật hiện hành. Hành, giải gồm đủ, giáo hóa hòa hợp. Cội rễ si mạn (do) sắc tướng mong cầu. Giới pháp nêu rõ, tu tập viên mãn. Thanh tịnh sạch nhiễm, lực dụng nhân thắng. Bi nguyện tăng lên, ngã mạn thảy diệt. Hướng tới, thuận theo lời Như Lai dạy. Tự tánh phước đức (là) thanh tịnh thuận hợp. Hòa hợp tận cùng (là) thông tỏ phiền não. Cõi, loài thiện ác. Nhớ nghĩ bạn lành. Khổ não như vậy. Thắng tâm khó phát. Hành, giải thêm tăng. Trói buộc chuyển biến. Gốc sinh hữu t́nh (là) tham dục kiêu dật. Tạo nhân tịch tĩnh, tăng trưởng tự bày. Tâm thiện dứt trừ bao lớp phiền não. Nhiễm, ác chẳng sinh, tự tánh ĺa bỏ. Nhân diệu thân tâm (là) năm uẩn sung mãn. Cội rễ thanh tịnh, tĩnh lặng thuận hợp. Tự tánh thanh tịnh, lực dụng chẳng mất. Dạy bảo chỉ rõ mong dứt nghiệp dữ. Sắc thân là (chỗ) nương, chúng sinh nhận nghiệp. (Bậc) hữu học tấn tu, nghiệp ấy cũng dứt. Cội rễ tự tánh (là) thân tâm tịch tĩnh. Giáo pháp thắng nghĩa tu hạnh vô ngã. Pháp lớn nghĩa lợi (là) thanh tịnh thù thắng. Ĺa mọi buộc nhiễm, khế hợp thông tỏ. Tu thí đúng phần, (là) hóa độ muôn loài. H́nh tướng thù thắng. Tịch tĩnh chân thật. Quả A-la-hán, dứt mọi tạo nghiệp. (Cùng) nơi chốn bỉ thử, sắc tướng tăng thêm. Hành, giải hướng đạt, tịch tĩnh cúng dường. Tướng thắng nghĩa ấy, cung kính viên mãn. Hành động dứt nhiễm, nghĩa lợi tận cùng. Tu chốn thanh tịnh, hành hạnh bố thí. Tự tánh bao la, nơi chốn cùng tận. Ba cội rễ nhiễm là tham, sân, si. Hóa khắp cõi, thanh tịnh tận cùng. Rõ mọi ưu khổ, hữu t́nh gắng tu. Không hạnh ô nhiễm, nhân của trời, người. Là chốn thù thắng, bố thí chân thực. Mẹ hiền như vậy, yêu mến dưỡng nuôi. Khắp mọi nơi chốn dốc lòng sám hối. Đức nghiệp chân thật, gánh vác viên mãn. Thuận theo tịch tĩnh như vật tỏa hương. H́nh tướng tăng trưởng, hướng đạt cứu cánh. Ĺa bỏ nhiễm, vọng, hành tướng lại thêm. Tự tại hướng đạt, dứt sạch cấu nhiễm. Gốc là vô ngã, tướng sinh đều dứt. Thấu đạt tịch tĩnh, diệt hết các mạn. Tánh phiền não ấy, (và) điên đảo, si độn, gốc vốn biến chuyển. Chỉ hành bố thí, tự thể dấy tranh (hý luận). Tạo tác nghiệp dữ, thuận theo cấu nhiễm. Sắc tướng (bị) nhiễm buộc, mong đạt chân thật. Phiền não, hý luận cần thấu (rõ) hành tướng. Tu hành tự tại (dứt) vọng, nhiễm trói buộc. Gánh vác thuận hợp, mong dứt cấu nhiễm. Nơi chốn thanh tịnh, phiền não lặng dừng. Dòng thác dấy khởi, chuyển biến trùm khắp. Ở nơi cõi trời, nghĩa lợi đáng quý. Bồ-tát giáo hóa chỉ dạy thấu đạt. Bậc đại quốc vương, bố thí sinh mạng. Tu tập bất thoái. Tham ái lớn ấy trói buộc khó ĺa. Ĺa hạnh thanh tịnh, chế ngự thiếu lực. Tạo tác hướng cầu về lẽ vô hữu. Phát khởi tu hành. Cung kính chân thật, hạnh ấy dứt nhiễm. Tạo nhân căn bản, dốc tu (theo) Như Lai. Bỉ thử đúng phần, si độn tự dứt. An lạc, tịch mặc, tùy thuận, hiện hành. Cõi Phật chân thật, tịch tĩnh hiển hiện. Đức hạnh hòa hợp, nhiễm chướng đều dứt. Sám hối dốc lòng, nghiệp gốc không dấy. Tịnh nghiệp trong lành, hữu t́nh tu tập. Là cõi vương giả tịnh diệu tăng thêm. Căn bản thuận hợp, sửa trị đúng mức. Dốc tu hiện bày, hướng cầu tối thượng. Bố thí phát huy dứt sạch mọi nhiễm. Tùy thuận mong dứt tham dục, điên đảo. Tự tánh hiện bày, tạo tác nhân gốc. Nghĩa lợi nhiễm, tranh, gồm đủ tai nạn. Dứt bỏ vọng nhiễm, chấp ngã chẳng sinh. Thâm diệu tối thượng hợp nhất, phát huy. Thảy đều tu thí, cội rễ chân thật. Tạo tác, trói che, căn bản nhiễm buộc. Khuyên dạy, chỉ rõ, thanh tịnh là gốc, yên tĩnh trong lành, tâm đạt an lạc. Phiền não vô bờ, khổ sở vô tận. Là chốn si, mạn, Bồ-tát hành hóa. Thông tỏ tận cùng cái hại (của) nhân nhiễm. Hành theo thiện tịnh, khỏi nghiệp ba đường (dữ). Tùy thuận chân thật, hướng đạt chánh pháp. Tâm bị nhiễm ác, hành tướng không dừng. Là chốn vương giả thông thạo trị nước. Căn bản vô tướng, giảng dạy như vậy. Hướng cầu chân thật, cõi ý hiện bày. Ngã kiến trùm khắp, tuệ giác năng dứt, mong đạt đúng phần. Bồ-tát chân lý, trí tuệ vô tận. Tự tánh dốc tu, lớp lớp chân thật. Nghĩa lợi như vậy, theo lời Phật dạy, là chốn chân thật, thấu rõ b́nh đẳng. Ngọn nguồn cõi ý thanh tịnh tột bậc. Xa ĺa trói buộc, hành động chuyển biến. Gốc điên đảo ấy, nghiệp dữ, cấu nhiễm. Buộc che tăng dấy, tu hành dứt trừ. Thực hiện gồm đủ, thân tướng viên mãn. Thuận theo tâm tịnh, thông tỏ khắp chốn. Bóng h́nh bỉ thử đều có. Thanh tịnh thuận hòa, tâm ấy chân thật. Đói khát, hủy hoại hòa hợp khổ não. Các pháp si, mạn thuận hợp hiện bày. Pháp nhiễm điên đảo bao trùm như (cõi) không. Bi nguyện vĩ đại, thanh tịnh ĺa bỏ (điên đảo, si mạn...) trói buộc lực mạnh (làm) điên đảo tự tánh. Phiền não tạo nghiệp lớp lớp tận cùng. Sân hận như lửa đốt bùng hý luận. Thắng nghĩa tạo lực dứt trừ phiền não. H́nh tướng, nơi chốn ung dung cùng tận.

Căn bản đúng phần hủy giảm chấp ngã. Lực dụng tịch tĩnh, thanh, tướng viên mãn. Tự tánh rạng rỡ (là) h́nh tướng căn bản. Hóa độ rộng khắp, lực dụng mong đạt. Theo nhân b́nh đẳng vọng tưởng đều diệt. Gốc vốn tịch tĩnh. Vương giả trí giải, tăng trưởng gắng đạt. Tự tánh thông tỏ, chân thật hơn hẳn. Trí lực trùm khắp, chuyển biến mọi nơi. H́nh tướng “vô úy” thấu tỏ kiêu dật. Phiền não dấy tăng, thanh tịnh dứt trừ. Tịch tĩnh thù thắng, gánh vác tất cả. Bậc Thánh thâm diệu, thanh tịnh, b́nh đẳng. Nhiễm vọng đều diệt, hý luận sao (lại) không? Cội rễ tận cùng trói buộc như thế, phiền não nhân nhiễm, tĩnh lặng diệt sạch. Thanh tịnh như vậy, sắc tướng tăng tiến. Tự tánh vận động, chân thật hiện bày. Sắc tướng thanh tịnh, dung mạo chuyển đổi. Quả vị La-hán diệt hết chấp ngã. Pháp tịch mặc ấy hiện hành, lành thay: diệt cội rễ nhiễm, là chốn thanh tịnh. Điều phục chúng sinh, phải nương thiện giáo. Tánh ngã tận cùng, mạn lấp tự tại. Gốc bị đảo điên, do không bố thí. Thâm diệu viên mãn, sắc tướng hợp ý. Chân thật như thế, dứt hết vọng nhiễm.

Thế nào là mẫu mực tâm thiện như cõi không?

Như vương tịch tĩnh bao trùm khắp cõi. Sinh tử, nghiệp dữ, phiền não hiện hành. Tu tập thực hiện mong đạt tịch tĩnh. Đúng phần rộng khắp, dốc tu tận cùng. H́nh tướng các pháp, sắc tướng là gốc. Thắng nghĩa thuận hợp mong cầu hiện bày. Thuận theo khổ não, dứt nhân an lạc. Chịu quả báo dài trong các cõi ác. Kiêu, dật vô cùng, năng diệt sắc tướng. Vương giả tạo nhân, nhận báo chư Thiên. Tất cả tướng sinh ngã là gốc rễ. Tạo tác thanh tịnh, dứt sạch si độn. Tội lỗi phát khởi điên đảo, vô thường. Khổ não, hý luận tất cả cùng dấy. Tự tánh sinh khởi, kính mộ đúng phần. Tâm của các loài chuyển biến, ĺa bỏ. (Hý luận, điên đảo...) gắn với tâm ấy là bậc xuất gia.

Dốc diệt chấp ngã (là) hạnh nguyện căn bản.

Thế nào là kiêu mạn hý luận vô tận?

Tự tánh căn bản hướng đạt thanh tịnh. Tịch tĩnh như vậy, thuận theo b́nh đẳng. Hành, giải gồm đủ, cõi học viên mãn. Địa ngục vô gián xử tội đúng kiếp. Khổ sở không dứt, biết lúc nào rời? Trời kia thanh tịnh, thượng diệu, chân thật. Sắc tướng trùm khắp, phước đức vô tận. Đức hạnh tăng trưởng viên mãn tận cùng. Xứ sở thù thắng, hạnh nhẫn tu tập. Bố thí hết mực, mong đạt nghĩa lợi. Thù thắng, sung túc, dốc tu hạnh Thí ba-la-mật.

Thế nào là gốc rễ tham cầu bất biến?

Thắng nghĩa như vậy tu tập hướng đạt. Ý tu bố thí theo mười nghiệp thiện.

Bồ-tát hành thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh nghĩa thứ hai mươi tám.

Tà kiến không nhiễm, lực dụng thắng nghĩa thực hiện. Cõi học vốn không, thuận theo chánh kiến xa ĺa che buộc. Đó là tùy thuận thấu đạt chân thật lời dạy Bồ-tát. 

Thế nào là h́nh tướng tận cùng của phước đức?

Không có chân thật, (mọi) gánh vác (chỉ là) điên đảo. Giữ giới thanh tịnh, phước báo (theo) nghiệp tu. Các bậc phạm hạnh thông tỏ vô ngã. Gốc điên đảo ấy, h́nh tướng hiện rõ. Bố thí rộng khắp, thiền định trọn nên. Phạm hạnh an lạc, nghĩa lợi tăng trưởng. Thông tỏ tịnh diệu, bi nguyện viên mãn. Cõi ý phát khởi tu hạnh tế độ. Nơi chốn thuận hợp, an lạc hòa khắp. Phóng dật vô độ, hành nhiễm trói buộc. Thiền định an lạc, thế gian khó tạo. Sắc tướng chân thật, thuận hợp không mất. Tạo tác nhân diệu, nương tựa thù thắng. Tu tập hướng đạt, lắng nghe, suy xét. Thương dẫn rộng khắp, ngã chấp đâu còn. Tịch tĩnh tận cùng xua tan khổ não. Si độn dấy bày, bất an không dứt. Dục giới tham sân, pháp nhiễm tăng trưởng. Tạo nhân căn bản gốc đạt mười loại. Vương giả Thánh ý, (là) cội rễ bạn lành. Cõi ý viên mãn, nhân khởi tận cùng, dứt nghiệp phiền não. Kẻ theo tà kiến, tạo gốc điên đảo. Chấp ngã là gốc tận cùng (của) thế gian. Tạo tác thanh tịnh, nghiệp thiện tăng thêm. Bờ giác phát tâm (đạt đến) phước báo như vậy. Các pháp thiền định, lực dụng cứu cánh (là) tịch tĩnh thù thắng. Căn bản giữ giới, tăng thêm bố thí. Tu tướng thắng nghĩa, dứt mọi đói khát. Cấu nhiễm hết mực (là) quên mất ân thầy. Mê lầm không rõ, Bậc Vô Thượng Đẳng Giác, Chánh pháp thanh tịnh, tạo nhân viên mãn, tâm vốn chân thật thắng nghĩa.

Thế nào là tịch tĩnh?

H́nh tướng chánh nghĩa, xứ sở không tà. Lực dụng tịch tĩnh, cứu cánh (của) nhiều loài. Thanh tịnh viên mãn (là) an lạc tận cùng. Nghiệp dụng tịnh diệu, an lạc hiển hiện. Lực dụng nổi bật, hướng đạt tối thượng. Chân thật tăng trưởng, thuận hợp hiện bày. Nơi ấy thanh tịnh, thấu đạt (mọi) sợ hãi. Dứt bỏ hành ác, điều phục phiền não. Cõi trời b́nh đẳng là chốn rộng lớn. Nhận thức, năng lực đều đạt chân thật. Chẳng hướng cầu tâm, phiền, mạn, vọng dấy,  Thế nào là không tạo nhân nghĩa lợi thế gian?

Hành động sinh theo chủ thể bị buộc. Nơi chốn thông tỏ, thảy đều dứt mạn. Dưỡng nuôi si, mạn, quấy nhiễu càng tăng. Phạm thế b́nh đẳng. Là cõi có vua, phước đức trang nghiêm. Ví như đống lửa cháy sáng rực rỡ. Lực dụng (của) nhân gốc, chuyển biến tự tại, mạn (cũng) không buộc được.

Thế nào là các chúng thanh tịnh vô biên?

Dòng thác phiền não biến chuyển tùy tiện. Các mạn sinh tướng dấy thêm, lan rộng. Gốc diệu tịch tĩnh, nhận rõ ĺa bỏ (mạn, phiền não). Tướng điên đảo sinh, lây lan khắp cõi. (Từ) xứ sở các mạn hý luận phát sinh. Ngôn ngữ dạy trao, hành động trừ diệt. Chứa nhóm chân thật viên mãn tận cùng. Ngôn ngữ sinh khởi, cứu cánh thêm tỏ. Nhân nhiễm nghiệp dữ, phiền não buộc gốc. Tướng quang minh, danh hiệu Lô-xá-na. Lời Bồ-tát dạy: Ba nghiệp thù thắng, hữu t́nh (đạt) tịch tĩnh. Dứt hết đói khổ, giới mốc mênh mông. Tâm đầy tham sân, b́nh đẳng vắng bóng. Chúng sinh (cõi) Phạm thế, ở cõi Tứ thiền, vọng tưởng hướng cầu chư Thiên chưa dứt. Ngôn ngữ ở đấy, b́nh đẳng tự tại. Vương giả cõi ấy thù thắng, ái lạc. Giới mốc bao la, hợp nhất tu tập. Nơi chốn hợp phần, nhân hành phát khởi. Cõi ý phong phú, dứt sạch nhiễm tranh. Sắc tướng thêm tỏ, ngôn ngữ tịch tĩnh. Tự tánh thành tựu, nhận ra si mạn. Điên đảo cấu nhiễm (như) độc dược khó trừ. Tự tánh tĩnh lặng mong dứt ngã mạn. Phiền não, nhiễm độc, gốc từ chấp ngã. 

Thế nào là mắt hướng về phía trước?

Lời Bồ-tát dạy: Sắc tướng nhiễm buộc, ngăn cản tịnh giới. Gốc tu ngã tướng, chân thật (bị) buộc, che, thanh tịnh đâu còn. Hành động chấp ngã (do) gốc tự tánh mất. Vương hành thiện giáo, phước quả, thành tựu, giáo lệnh phát khởi. 

Thế nào là hạnh bố thí mong đạt chân thật, ngôn ngữ phạm hạnh viên mãn, ở thế gian giảng dạy thanh tịnh, như bậc đại vương giáo hóa thắng nghĩa nơi thế gian?

Thế nào là ngọn nguồn lại thêm tăng trưởng cùng tận?

Như lời Phật dạy. H́nh tướng thượng diệu như (vị) đại quốc vương thi ân khắp cõi, ngôn ngữ sửa trị đất nước. Mười loại việc thiện, sắc tướng chuyển biến. Tịch tĩnh viên mãn thù thắng vô tận. Như trăng sáng hiện, đám sao nhỏ (bị) mờ. Thánh trí phát khởi, cấu nhiễm tự diệt. Chướng ngại chẳng sinh, thế gian viên mãn. Đầy đủ như vậy. Nhân thắng hướng đạt, thông tỏ nơi sinh. B́nh đẳng tận cùng (là) thiền định hòa hợp. Chi phần, bỉ thử chuyển biến viên mãn.

Hết Quyển 13

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 14

Hóa độ khắp chốn mong đạt chân thật. Điều phục thế gian, thí tánh viên mãn. Nhân Thánh tịch tĩnh gánh vác chân thực. Quả giác tận cùng muôn thuở dốc tu. Trí tuệ mong đạt khắp loài khắp chốn. Xa ĺa gốc nhiễm, tịch tĩnh hữu vô. Bốn uẩn thuộc danh (thọ, tưởng, hành, thức), danh chất khó đạt. Dòng thác thế gian biến chuyển không ngừng. Tự tánh thắng nghĩa ngọn nguồn vô biên. Bản trí đạt được, mắt không thể thấy. Tịch tĩnh, vô tác trùm khắp mọi nơi. Thành tựu đúng phần phát sinh b́nh đẳng. Tự tánh tri kiến, thắng nghĩa tăng trưởng. Hành, giải gồm đủ, lực dụng phát khởi. Nơi chốn thế gian, cõi Sắc (là) trên hết. Cõi Đệ tứ thiền, tam tai (mới) ĺa hẳn. Hạnh của bậc Thánh tĩnh trụ hòa hợp. Thiện hạnh dốc tu, đạt được thanh tịnh. Quả báo trọn nên (từ) nhân thắng công đức. Cõi học hành động, nẻo tu đức hạnh. Dốc tu thượng diệu, biến khắp thế gian. Hóa độ đạt được thiện lợi viên mãn. Gốc rễ biến chuyển, chân thật tăng trưởng. Chế ngự điên đảo, hạnh thí phát sinh. Hành, giải hướng cầu, nghiệp gốc thành tựu. Dòng thác tâm pháp, gốc do vọng động. Chánh kiến phát sinh, tịch tĩnh viên mãn. Thuận theo giáo pháp, tu tập thanh tịnh. Gốc tánh (của) thân tâm, năm uẩn là thể. Thuận theo Thập thiện, tu tập tối thượng. Tướng nhân đúng phần, tỏ rõ phiền não. H́nh tướng cấu nhiễm (là) gốc mọi nghiệp dữ. Tu đạt giải thoát, nơi chốn tịch tĩnh. Mười hai nẻo sinh thu gọn (vào) trăm loại. Như mặt trời chiếu, tươi sáng đáng yêu. (Cũng) Như cõi nước kia, quốc vương thánh thiện. Giáo hóa b́nh đẳng, nghiệp dữ dứt hết. Tạo nghiệp nơi ấy (đạt) thiện tịnh, xa ĺa (nghiệp dữ), là cõi quốc vương chân chánh, dứt tà. Trong ngoài sửa trị, Thánh trí như thần. Tâm không vọng tưởng, tánh giác tăng trưởng. Hành, giải rộng khắp, thuyết giảng tối thượng (mọi) vấn nạn thế gian. H́nh tướng cõi thế, điên đảo trói buộc. Năng lực tự tại, nhân không bày hiện. Ĺa bỏ nhân sợ, mong đạt tận cùng. Điên đảo, si độn (trở thành) nơi chốn tu tập. Kiếp họa “phong tai” (dữ dội đến nỗi) cõi đại thiên (cũng bị) hoại. Là cõi Bồ-tát vi diệu tăng thượng. Nơi chốn (được) chế ngự, tịch tĩnh viên mãn. Chi phần tà kiến diệt trừ tất cả. Ngôn ngữ phát sinh luận bàn (về lẽ) tối thượng. Lực dụng như vậy gốc ở thanh tịnh. Cõi ý hứng khởi, tự tại gắng bày. H́nh tướng phước đức, thân tâm hòa hợp. Hạnh thí thâm diệu hướng tiến cùng tận. Cội rễ tịch tĩnh đạt được thắng nghĩa. (Quả vị) Chánh giác bất thoái, phát sinh, tăng thượng. Tu tập thù thắng dứt trừ bệnh hoạn. Dòng thác nhiễm ác gốc từ hý luận. Lực dụng hiện bày, biến chuyển khắp chốn. Tự tánh an nhiên, tu hạnh tịch tĩnh. Vô ngã sâu xa dứt mọi hý luận. Gốc tánh “vô úy”, thinh sắc không nhiễm. Hướng cầu phiền não, nẻo thiện không hợp. Gốc nhận thức nhiễm, tạo nhân phiền não. H́nh tướng tự tại, mong diệt điên đảo. Nghiệp dụng tự tánh, gốc khởi nơi tâm. Cội rễ nhiễm chướng phát sinh ngàn loại. Hý luận hiện bày (nên) xa ĺa, dứt bỏ. Như mặt trăng tròn, mây che đâu sáng? Ngọn nguồn Thánh trí sạch nhiễm, thường hằng. Tự tại dứt buộc, phép tắc tăng thêm. Tinh tấn càng tăng, phiền não càng giảm. Thắng nghĩa bất thoái, dứt sạch tham dục. Tự tại hòa hợp, thanh tịnh tận cùng. Tu hạnh tịch tĩnh, nhân ấy chân thật. Phiền não bao đời, Như Lai hằng dứt. Ngã kiến, biên chấp, tham mạn dấy theo. Thân tâm hợp nhất, dốc sức tu tập. Tu thí giảm trừ nhân của bệnh tham. Lực dụng tự tánh (làm) chuyển dòng nghiệp dữ. (Như) hý luận dấy tăng (trở) thành chốn dốc tu. Sắc tướng hữu t́nh không thể ĺa bỏ. Phật pháp thanh tịnh, năng ĺa chướng, nhiễm. Như lửa cháy rực, thế mạnh khó dừng. Tịch tĩnh gốc tu, sợ hãi không buộc. Hóa độ tận cùng, tu hạnh giải thoát. Tịch tĩnh, xa ĺa, dứt mọi h́nh tướng. Hành, giải gồm đủ, dạy bảo mẫu mực. Mong dứt nhiễm, tranh. Lực dụng thù thắng, hành thí thấu đạt. Trừ gốc rễ mạn. Tự tánh tạo tác, thảy đều phát sinh. Ĺa bỏ phiền não, ưu khổ, sợ hãi. 

Thế nào là hạnh thí dốc tu khắp chốn?

Chế ngự mọi chốn, chân thật tận cùng. Mong đạt thắng nghĩa vô ngại như (hư) không. Trí tuệ sáng tỏ, lực dụng viên mãn. Tạo nhân dứt phiền, cứu cánh thanh tịnh. Danh sắc rực rỡ như Ca-tỳ-la. Tu tập như vậy, tự tại vô cùng. Chúng Thánh hòa hợp (là) thắng nghĩa b́nh đẳng.

Thế nào là tâm pháp không có h́nh chất?

Các pháp nhóm, khởi, không hề trừ bỏ. Tướng nhân khổ thọ, cấu nhiễm là gốc. Điên đảo trói buộc ưu khổ không bờ. Hóa độ thuận hợp, tăng trưởng tạo nghiệp (lành). Dòng thác chướng nhiễm dấy khởi ra sao? (Như) ngọn lửa cháy rực sức mạnh khó ngăn. Chân thật vô biên, b́nh đẳng còn mãi. Trong lặng hiện bày, an định biến khắp. Cội rễ hý luận, thể hư (nhưng) báo thật. Tạo nghiệp tận cùng thế mạnh khó dứt. Si độn dấy tăng, gồm đủ sợ hãi. Điên đảo như vậy dấy khởi tận cùng. An tĩnh, yên định, điên đảo lắng sạch. Sĩ phu thêm tu, lực dụng rạng rỡ. Mọi điên đảo nhiễm, hạnh mật dứt trừ. Tự tánh thù thắng, tiến tu khắp cõi. Tự tánh điều phục, thượng diệu phát sinh. Lực dụng thanh tịnh, phước báo viên mãn.

Thế nào là hướng đạt ĺa ác tu thiện?

Hưng phát hăm hở (nhằm đạt) cứu cánh tận cùng. Các loại thắng hạnh (là) dốc tu bố thí. Cội rễ phát sinh thắng nghĩa tự tánh. Tu hạnh giáo hóa (làm) mẫu mực thế gian. Dứt hành lưu chuyển, tịch tĩnh hướng đạt. Giải thoát dứt buộc, không phải (là) hủy diệt.

Thế nào là dứt sạch hý luận, gốc trí tuệ thêm rõ? Chi phần hữu t́nh hợp nhất tạo được.

Thế nào là phân chia h́nh tướng của tâm khó đạt?

Bốn uẩn thuộc danh, danh (vốn) không sắc tướng. Hạnh nhẫn tận cùng, gốc là tĩnh trụ. Trong lặng thanh tịnh, tươi lành, chẳng bợn. Tự tánh thắng nghĩa nguồn ngọn (là) bất sinh. Hiện bày (từ) vô thỉ, ĺa mọi trói buộc. H́nh tướng chẳng sinh, lực dụng tùy thuận. Hành khổ não ấy, tấn tu dứt trừ. Xa ĺa hủy hoại, nơi chốn tịch tĩnh. H́nh tướng rực rỡ, biến khắp, viên mãn. Nhân khổ không còn, an tĩnh giữ vững. Lực dụng phát huy, h́nh tướng ít có. An tĩnh thù thắng (là) khắp cõi tĩnh lặng. Mừng vui, hứng khởi, ý hợp dốc tu. Vận dụng phát huy, tự tại thuận hợp.

Thế nào là gốc tĩnh dứt sạch mọi tướng sinh diệt?

Thế nào là dứt nhiễm cùng mê cả lý và sự?

Thắng nghĩa trí tuệ căn bản có khả năng dứt sạch mọi điên đảo tận cùng.

Thế nào là cõi tánh?

Năm uẩn sung mãn, thân tâm phong phú. Tươi lành trọn đủ, giáo hóa dốc sức. An tĩnh trong lặng tấn tu thuận hợp. Tịnh diệu khó lường, rõ nghĩa mười lực. Sắc tướng thanh tịnh trong lặng tươi lành. Thể sắc trong sáng, đằm thắm như ngọc. Phép tắc như vậy an lạc tột bậc. Đạt được hòa hợp, tịnh diệu tăng trưởng. Hành thí đầy đủ trong ngoài không bỏ. Điên đảo, ưu thọ thảy đều không bày. Tâm ấy (điên đảo) là gốc sinh ra hý luận. Như vậy tên gọi “hóa sinh” (là) không hợp. Trí tuệ thâm diệu chư Thiên ngưỡng mộ. Lành thay phước đức hiện hành tỏ rạng, là chốn mong đạt lực dụng tĩnh trụ. Tự tại gánh vác viên mãn tận cùng. Tri kiến như vậy, nhân tu thí đạt. Năm loại sung mãn (là) sắc, thanh, hương, vị… Đất, nước, lửa, gió (là) cảnh của xúc trần. Trói buộc lực nặng (là) tham ái, khó ĺa. Không tạo nhân thí (là) chỗ buộc (của) ngã mạn. Thường dẫn chế ngự, thanh tịnh phát sinh. Như thế gọi là đạt được tịnh thí. Quả khổ đã dứt, thắng nghĩa đạt khắp. Tùy thuận đạt được cứu cánh Đại thừa. Cả việc mong đạt thọ mạng cùng tận. Thắng lợi thu được chính nhờ bố thí. Ngọn nguồn tịch tĩnh (là) dứt sạch ngã mạn. Hóa độ hữu t́nh, rõ nghĩa thù thắng. Tịch tĩnh không (có) chốn (là) gốc mọi nghiệp dữ. Cõi thí tịnh diệu, chứng đắc Thánh quả. “Hại” trong tiểu tùy (phiền não) kết cùng ngã mạn. Trượng phu si độn, mạn nhiễm dấy tràn. Lực dụng tự tánh diệt sạch các mạn (ấy). Điên đảo bám rễ từ (gốc) tranh, phiền não. Tự tánh hữu t́nh, an tĩnh chế ngự. Bệnh nạn trói buộc hủy hoại sắc lực. Nhân thắng phát khởi, chế ngự, ĺa bỏ (bệnh nạn). Tu hạnh tịch tĩnh là gốc (của) tĩnh trụ. Bố thí thanh tịnh, dứt bỏ tham si, là chốn vương giả Thánh trí ngự khắp. Sửa trị, giúp khắp, tai họa chẳng sinh. Sự thật thấu đạt, tà nịnh tự diệt. Thuận theo giáo lệnh chẳng phải quấy phá. Thánh lực điều phục (bao) sợ hãi (ở) thế gian. Lực dụng căn bản thù thắng hiện bày. Tu tập tăng thêm, giáo hóa muôn loài. Mong cầu xa ĺa, dứt mọi sợ hãi.

Thế nào là căn bản hành giải gồm đủ?

Tự tín tăng trưởng, nghĩa lợi cùng đạt. Nhân thắng vận dụng, chân thật hiện rõ. Lực dụng tăng lên, gốc là Thập thiện. Thí ấy không mất, lành thay chỗ đạt! Bờ cõi đảm đang, muôn loài an tĩnh. Lực tự tại ấy kết cùng chấp ngã. Chúng sinh dốc chí tấn tu hạnh thí. Hý luận nhiễm ác hiện rõ, (phải nên) xa ĺa. Lực dụng chế ngự, tu theo Thánh đạo. Nhân thắng trí tuệ tạo từ nhiều kiếp. Là chốn Bồ-tát cõi ấy tu khắp. (Từ) vô thỉ kiếp xa từng biết Phật pháp. Thọ dụng thắng nghĩa (là) vật dùng căn bản. “Sát trần” tự tánh, thức gốc thâu chứa. Tu học như vậy, thiện trụ hiện bày. Tu hạnh tịch tĩnh, h́nh bóng chuyển đổi. Ĺa mọi chấp ngã, hý luận (có từ) vô thỉ. Hành hạnh bố thí, thanh tịnh thuận hợp. Ba nghiệp sám hối (đạt) thiện tịnh an tĩnh. An trụ tĩnh lặng, dứt pháp lưu chuyển. Tuệ thông đạt khắp dẫn dắt hữu t́nh. Điều phục tăng thêm, tịch tĩnh cùng tận. Nhân thiện phát sinh, lực dụng tỏ rạng. Xa ĺa cội rễ điên đảo trói buộc. Cõi ý chân thật hành mười loại thiện. Tu hạnh tối thượng, nơi chốn thông tỏ. Giải thoát đúng nghĩa, gốc là thanh tịnh. Nhận ra phiền não, xưa nay (vốn) tịch tĩnh. Hữu t́nh hành theo mười thiện tịnh diệu. Mọi thứ che buộc (thảy đều) an tĩnh, trong lặng. Tâm của chư Thiên gốc vốn thanh tịnh. Sắc tướng tươi đẹp, đạo hạnh quyết tu. Chướng nghiệp dứt sạch, hành giải tăng lên. Thế gian an lạc, cõi tánh không mất. H́nh tướng, nơi chốn điều phục là gốc. Lực dụng chân thật, dứt nhân điên đảo. Chỉ dạy Thập thiện (là) thanh tịnh thù thắng. H́nh tướng tự tại, phước đức vô tận. Hữu t́nh thêm tu, ý đạt trí tuệ. Nhân thắng tịnh diệu, điều phục nghĩa lợi. Đệ lục ý thức trong lặng hơn hết. Tự tánh chân thật, các loại mạn dứt. Tiến tu như vậy đức hạnh là chính. Không nhiễm bạo lực, dứt mọi phiền não. Tiến theo đường trước phước nghiệp an tĩnh. Gốc mọi giáo hóa (là) dứt niệm phiền não. Trong lành, thanh tịnh, phiền não chẳng sinh. Thực hiện thấu đạt nghĩa lợi hữu t́nh. Tạo nhân điên đảo, nhiễm ác trói buộc. Xa ĺa bụi bặm, thanh tịnh chỉ dạy. Ý thiện chân thật hiện hành chẳng mất. Tu tập an tĩnh, ngu muội thông tỏ. Ngôn ngữ, giáo hành khế hợp chẳng hoại. Căn bản thiệt tướng (là) thanh tịnh yên lành. Thắng nghĩa chân lý (là) mong đạt trong lặng.

Thế nào là thực hiện giáo hóa thiện diệu?

Thuận theo thanh tịnh, tu hạnh tối thượng. Điều phục nghĩa lợi, vô ngã tận cùng. Vương giả phép tắc nghiêm túc hiện bày. Chấp ngã rộng lớn vô cùng như vậy. Trí tuệ không đạt vốn do phiền não. Xuôi thuận (th́) tham sinh, nghịch ý (th́) sân dấy. Hai mươi sáu hoặc là nhân (của) chấp ngã. Dứt trừ gốc rễ, cành ngọn mất theo, là chốn giả khởi lợi thắng nghĩa. Vật dụng cõi bờ đây đó an tĩnh. Mười loại nẻo nghiệp buộc che chẳng có. Hoạn nạn thấu rõ, lầm lạc dứt hết. H́nh tướng trời ấy tịch tĩnh kiến điên đảo. Hành, giải tùy thuận, an tĩnh hiện bày. Tri kiến căn bản rõ mọi trói buộc. Mẫu mực viên mãn thuận hòa như thế. Điên đảo phát khởi, điều phục dứt bỏ. Thấu đạt các pháp thắng nghĩa là vậy. Hành, giải đầy đủ, b́nh đẳng phát sinh. Lực dụng sinh khởi đạt được “vô úy”. Tịnh diệu ung dung, thể hiện như thế. Danh (là) gốc bốn uẩn, chỗ nương của sắc. Thành tâm sám hối (đạt) thanh tịnh viên mãn. Ba thừa hóa độ, cùng đến bờ giác. Tội sám trọn đủ, tĩnh trụ tu tŕ. Cõi trời an lạc, thanh tịnh ắt đạt. Hướng cầu thuận hợp thanh tịnh chân thật.

Bồ-tát hành thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh nghĩa thứ hai mươi chín.

Nhân thí viên mãn, báo dứt đói khát. H́nh tướng tươi đẹp, tự tánh tăng lên. Đó là tùy thuận thấu đạt các hạnh Bồ-tát. Năng lực hợp phần. Dưỡng nuôi h́nh tướng (là) căn bản phước đức. Tạo nghiệp tận cùng. Thảy đều như vậy. Lực dụng tăng trưởng. Tiến lui thích ứng, chân thật khéo bày. Không ngoài lợi ích, ba thiện căn bản. Chỗ dựa hơn hẳn. Nhân thắng bố thí, thân tướng trang nghiêm. Cõi ý hòa hợp thật sự như vậy. Hành, giải sâu xa, tịnh diệu khế hợp. Nương tựa thân tướng uy nghiêm trùm khắp. Nơi chốn tịnh diệu tươi đẹp đều thua. Bốn uẩn sung mãn, sắc tướng trong sáng. B́nh đẳng vô úy tiến thoái thông tỏ. Uẩn hợp nhân thắng, thức gốc tự chứng. Sắc tướng, thân thể thảy đều như vậy. Lực dụng tăng trưởng, gánh vác tận cùng, là chốn tâm tịnh bố thí làm gốc. Bậc Đại Bồ-tát yêu thích nơi ấy. Lực dụng thông tỏ, thấu đạt thanh tướng. Tâm tịnh thật ấy năng dứt tham dục. Thắng hạnh thanh tịnh, thắng lực tấn tu. Nơi chốn không đổi, chuyển biến vô ngại.

Thế nào là thiền định tịch tĩnh điều phục?

Diệu dụng Phật đạo bao la như thế. Tịch tĩnh tăng lên, thông tỏ mọi lẽ. Viên mãn tận cùng, ĺa xa phiền não. Chúng sinh cùng tận không ngoài sáu đường. Trí tuệ thành tựu nhờ vào tịch mặc. Nhân thiện chuyển biến hiện bày như thế. Ĺa mọi dứt nhiễm, giải thoát hòa hợp.

Thế nào là thanh tướng thấu đạt nghĩa lợi?

Thánh lực vô lượng, trí tuệ suy cầu. Ma-ha Tát-đỏa là đại hữu t́nh. Hành, giải b́nh đẳng, thương dẫn hóa độ. Dứt trừ nhiễm độn, hòa hợp tịch tĩnh. Chỉ dạy chân thật, si mau diệt sạch. Chế ngự độc khổ, thắng nghĩa thuận hợp. Thanh tướng thiện diệu phát sinh thương xót. Cõi ý lắng dục, (là) bậc đại hữu t́nh. Phát nguyện gánh vác tận cùng tất cả. Ngọn nguồn thâm diệu, nhân thắng chẳng mất. Cội rễ hữu t́nh ngu si điên đảo. Làng xóm, nơi chốn cõi xa khó tới. Bảy chúng hữu t́nh cần cậy Thập thiện. Sinh sôi hủy diệt rõ nghĩa muôn loài. Hành thí thấu đạt viên mãn cùng tận. Gánh vác đầy đủ rõ nghĩa rộng lớn. Điều phục hữu t́nh, nghĩa lợi thù thắng. Thực hiện tốt đẹp, bụi bặm không nhiễm. Lực dụng nhân thắng vô ngại như (hư) không. Nhân hành xưa nay thanh tịnh, giải thoát. Phạm hạnh trùm khắp, đói khổ dứt trừ. Nhận thức, chế ngự tinh nghiêm, thiết thực. Hành, giải đủ lực, tịnh thí mong đạt. Cõi ý chân thật, chứa nhóm thuận hợp. Tạo nhân rộng khắp, thấu đạt viên mãn. Giáo hóa chúng sinh ĺa bỏ chướng nhiễm, độc hại xua sạch, thắng nghĩa viên mãn. Thấu đạt tịch tĩnh, ĺa bỏ nhân buộc. Giáo hóa thanh tịnh, thâm diệu hợp nhất. Là chốn Bồ-tát hiện rõ, các chúng thanh tịnh hướng đạt. Hành, giải đầy đủ, tự tại dứt mạn. Như vậy là dứt (mọi) trói buộc biến khắp. Thù thắng tăng thêm, căn bản hướng đạt. Chỉ dạy thanh tịnh, dứt trừ hý luận. Tu tập thương dẫn, thắng nghĩa vận dụng.

Thế nào là đạt được? Thế nào là hướng cầu? 

Bố thí tùy thuận, thanh tịnh hiện bày. Tịch tĩnh viên mãn, ngã pháp đều dứt. Ưu khổ phiền não thiện tịnh đều ĺa.

Thế nào là pháp tịnh tổn giảm không nhân?

Là chốn trượng phu, hướng đến chân thật. Thuận theo danh tướng chế ngự hý luận. Bố thí hành khắp, dứt nhân tham dục.

Thế nào là hóa sinh biến chuyển hơn hết?

Tươi đẹp, tịnh diệu, nhân của thí giới. Đạt được, tăng lên, tự tin vô cùng. Thắng nghĩa tịch tĩnh (là) an tĩnh hiện bày. Dứt tất cả mọi nghiệp dữ, độc hại. Tự tánh bản lai thanh tịnh, thâm diệu. Cõi học tận cùng (là) tịch tĩnh, chế ngự. Căn bản tự tánh (là) nhân thiện hiện rõ. Lực dụng chân lý (là) phát huy tri kiến. Hý luận, ngã buộc, (là) h́nh tướng phàm phu. Điên đảo mong cầu bản lai tự tánh. Trói buộc, chấp ngã (là) nhân của phiền não, là chốn ngôn ngữ hữu t́nh phát khởi. Là xứ v́ sao muôn loài ĺa bỏ? Số ấy đến ngàn, sợ hãi không dứt. Trí tuệ chỉ rõ, thanh tịnh phát sinh. Nhân của trói buộc, khổ não, không mất. Bố thí khắp chốn b́nh đẳng như (hư) không. Tấn tu như vậy đạt được thù thắng. Chế ngự không ngừng phiền não, hý luận. Theo trí căn bản phát khởi vô biên. Muôn loài mến mộ, nương cậy như thế. H́nh bóng trùm khắp là (bậc) đại hữu t́nh. Thương mến muôn loài sầu khổ không dứt. B́nh đẳng thuận theo, điều phục chúng sinh. Loạn động không dấy, dạy bảo như vậy. Ngôn ngữ tịch tĩnh ĺa bỏ si, mạn. Phép tắc bày rõ, vật dụng đáng quý. Lành thay, vô úy! Chẳng bỏ chúng sinh. Thù thắng điều phục, giáo hóa khế hợp. Dòng thác pháp nhiễm nung đốt tận cùng. Nhân nhiễm hủy hoại lực dụng an tĩnh. Ngã mạn dấy tăng, thắng nghĩa dừng dứt. Tu hạnh hòa hợp, an trụ, vô ngại. Tu tập hướng đạt nhân thắng tự tại. Nơi chốn thiện diệu không nên ĺa bỏ. Bố thí tận cùng dứt chốn hý luận, là nơi chân thật dốc tu thuận hợp. Tướng Đại trượng phu thương dẫn muôn loài. Sáng tỏ, an trụ, suy nghĩ, dẫn dắt, cực nạn cứu giúp. Xứ sở như vậy tai nạn tăng thêm. Tăng trưởng viên mãn, lực dụng vô ngại. Ái lạc đổi dời không mong an trụ. Không tu tịnh hạnh, cấu nhiễm chiếm chỗ.

Thế nào là bệnh hoạn, nghiệp dữ đích thực?

Lực dụng tịch tĩnh, thâm diệu dứt trừ.

Thế nào là điên đảo, si độn nhân dày?

Trói buộc thêm vòng, ngăn che nào giảm. Gốc của phiền não không do nghiêng ngửa. Các mạn, si mê dấy tăng khó diệt. Trói buộc khó dứt, phải dựa Thánh lực. H́nh tướng nhiễm buộc che lấp không dừng. Tĩnh trụ nên gắng, dẫn dạy, dốc tu. Hành động xấu ác, lực dụng khó chuyển. Chướng nặng, việc sâu thật khó sám hối. Khổ sở như vậy, nghiệp xấu trọn nên. Tĩnh lặng thuận hợp, an trụ tu tŕ. Trừ diệt đói khổ thắng nghĩa viên mãn. Dẫn dắt, gánh vác muôn loài nhiều kiếp. Diệu dụng Phật đạo vô biên như vậy. Chủng tử, hiện hành pháp sinh đúng nơi. Giáo pháp thanh tịnh hướng cầu ắt đạt. Thắng nghĩa viên mãn, tĩnh trụ ung dung. Lực dụng tịch tĩnh (là) căn bản điều phục. Cuốn theo dòng thác thực sự (là) luân lưu.

Chi phần bệnh nạn nhận rõ (là) không thật. Bố thí chúng sinh đạt được an tĩnh. Ý định thông tỏ chi phần h́nh thể. Chốn dứt điên đảo, nghĩa lợi đáng quý. An trụ pháp thiện. Tự tại hòa hợp. Chấp ngã thêm sâu, khổ não chồng chất. Tạo nghiệp thanh tịnh năng diệt tham dục. Thấu đạt đúng phần, chân lý xuất hiện. Dứt nhân sợ hãi, nhớ nghĩ nên gắng. Đủ sức gánh vác (đạt) thanh tịnh căn bản. Phiền não chúng sinh tu pháp nào ĺa? Tự tánh tu tập phước đức rất lớn. Tận cùng như vậy gốc ở thắng nghĩa. Thương yêu chúng sinh lấy đó làm mẫu. Thắng nghĩa không mất, chỗ nương (của) chúng sinh. Cõi ý chân thật (là) gốc mọi h́nh tướng. B́nh đẳng điều phục khắp mọi nơi chốn. Xứ sở (đang bị) tàn phá (b́nh đẳng) không thể hiện bày. Nơi ở chẳng an, tâm bị vướng mắc. Định tuệ phát sinh, chỗ nương (của) tự tại. H́nh bóng biến chuyển, pháp tánh thường trụ. Phàm Thánh b́nh đẳng, thế gian nương đấy. Dốc tu tận cùng đạt được “vô pháp”. Công đức vô biên hằng hà sa số. Buông theo ái dục không đạt nẻo thiện. Lành thay, nơi chốn, h́nh tướng nhiều loại. Tu tập thiện diệu, vô niệm (là) ở đấy. Gánh vác luôn nhớ, cứu khổ không dừng. Linh động, thích ứng, mong đạt điều ấy, là chốn thương dẫn phát khởi rộng khắp. Tâm hứng chân thật, tự tại, tịch tĩnh. Phạm hạnh phát huy, năng dứt phiền não. Tạo nghiệp tận cùng, gốc Sát-đế-lợi. Dốc tu như vậy, lực dụng bất thoái. Công năng Thập thiện muôn loài quý trọng. Bày biện, cấp đủ, vi diệu khó đạt. Dứt mọi trói buộc cấu nhiễm hý luận. Gốc là pháp tánh chân thật đáng quý. Như sen (mọc) từ bùn, (hoa) tươi thơm vi diệu. Trong lành tĩnh lặng chút bụi không vướng. Bố thí mong đạt tươi đẹp như thế. Dứt hết (các) pháp buộc điên đảo, nghiệp dữ. Chướng nhiễm, chấp ngã, tác dụng (của chúng) khó ngăn. Nhân thắng thiện tịnh (là) diệu dụng chân thật. Thân tâm tĩnh lặng, phiền não liền dứt. Vọng nhiễm, ngã mạn, (chỉ làm) mê muội sâu dày. Tuệ nhiễm biến khắp trói buộc chân thật. Nhân nhiễm không dứt, h́nh tướng điên đảo. Hý luận dấy tràn trói buộc tự tại. Chỉ dạy tận cùng (là) dứt bỏ tạo nghiệp. Nghiệp tạo xa gần, quả báo tuần tự. Phật đạo hưng lên, nghiệp ác đều dứt. Hành, giải đủ đầy, chúng sinh b́nh đẳng. Thanh tịnh thù thắng khắp mọi nơi chốn. 

Căn bản Phật đạo (là) diệt trừ chướng nhiễm (cùng) phát khởi nhân tịnh, thông tỏ chân thật. Tấn tu diệt mọi phiền não, hý luận. Giải thoát chướng nhiễm tự tín tăng thêm. Điên đảo tăng dấy, hý luận sinh theo. Thắng nghĩa chân lý phát sinh, truyền dạy.

Thế nào là tịnh thí vật dụng sung mãn?

Căn bản thắng nghĩa (là) hoan lạc, tự tại. Phạm hạnh thanh tịnh, ngã mạn chẳng sinh. Năng ĺa chướng nhiễm tu đạt giải thoát. Phước báo chúng sinh. Gốc là tịnh thí. Nhân thắng chư Thiên thông tỏ tịnh diệu. Chân thật, thâm diệu, thường tịnh tận cùng. Các pháp thế gian thảy đều sinh diệt. Tự tánh thanh tịnh trong tĩnh như vậy. Chấp ngã sâu dày, sở chấp vô biên. Lửa phiền, hý luận, chướng nhiễm khó trị. Thân thể chịu khổ, toan tính không dừng. Giữ chặt tạp nhiễm, chẳng biết ân thầy. Thù thắng sinh khởi, thuận hợp đích thực. Như mây phủ khắp nhiệt não chẳng sinh. Chế ngự ĺa bỏ, tấn tu như vậy. Thắng thừa chân thật, vứt bỏ nhiễm vọng. Lực dụng thù thắng (là) chi phần nghĩa lợi. Dứt trừ cấu nhiễm, thắng hạnh tấn tu. Thiện diệu không dục, thanh tịnh hiện bày. Cõi ý chế ngự, phát sinh bố thí. Điên đảo diệt hết, hòa hợp hiện bày. Tự tánh khế hợp thông tỏ thắng nghĩa. Cõi trời tạm dứt mọi cấu nhiễm buộc che. Tự tánh “vô úy”, tịch tĩnh tận cùng. Ĺa xa phiền não, thấu đạt đúng thực. Lực dụng tăng trưởng, giáo hóa đúng phần. Bố thí bao đời lớp lớp nhiễm, tịnh. Tu hạnh không tinh, quả thọ lẫn lộn. Tu tŕ tịch tĩnh, quả báo cõi thiện. Lực dụng tự tại chân thật viên mãn. Tu thiện thuận hợp, ích lợi thích ứng. Vô tư tĩnh lặng Như như, chẳng hoại. Mong cầu điên đảo, gốc của nghiệp dữ. Buộc che đáng sợ, ch́m đắm khó rời. Xan tham dấy dữ, thân oán không ngừng. H́nh tướng giải thoát như sen rã cánh... Lực dụng tăng trưởng (đạt) thanh tịnh thù thắng. Hành uẩn phát triển, rõ nghĩa chuyển biến. Hương giới thiện diệu thơm lừng đáng mến. Nơi chốn tu sùng nghiêm đẹp thêm mãi. Chỉ dạy tu tập, mong đạt thanh tịnh. Tu hạnh bỉ ngã, điên đảo trói buộc, (và) hòa hợp, tự tại, tịch tĩnh đều mất. Tâm tịnh vững tu, cơm áo sung mãn. Lực dụng chế ngự, nhân thiện hiện bày. Pháp thiện thanh tịnh (là) cội rễ tự tánh. Nuôi dưỡng đúng phần, phước báo thù thắng. Hành, giải gồm đủ (đạt) thắng nghĩa “vô úy”. Cõi nước tịch tĩnh, khắp nơi lặng dừng. Tự tánh bố thí, xan tham đều ĺa. Tự tín tịnh diệu đạt được như vậy. Trong mười hành thiện, bố thí là gốc. Thứ lớp phát sinh cùng đến bờ giác, là cõi trượng phu mong dứt hý luận... Sợ hãi hạnh ác, chân thật phát khởi. Ý nghĩa đúng phần hợp nhất một mối. Hành động như vậy (đạt) h́nh tướng tịch tĩnh. Chấp ngã rộng khắp gốc là phiền não. Thân thể chẳng bền, tự tánh (mới là) cứu cánh. Đạt được quả giác tận cùng, vô thượng. Pháp tánh tĩnh lặng, vượt mọi t́m cầu. Dẫn dắt gánh vác thích hợp muôn loài. Chỉ dạy thượng diệu, chân thật, thù thắng. Cõi ấy tận cùng, thanh tịnh tự tại. Sắc tướng tươi lành, “vô úy” viên mãn. An lành thượng diệu, xa ĺa tạo nghiệp. Lực dụng hướng đạt pháp tánh (như) hư không. Ĺa mọi sợ hãi, theo mười nẻo nghiệp (thiện).

Thế nào là xứ tự tại tự tín?

Cội rễ phước nghiệp. Chân thật thuận hợp. Lời Phật rộng dạy. Như pháp tĩnh trụ. Dứt bỏ phiền tạp. Hý luận cấu nhiễm dựa sắc làm gốc. Các pháp tịch tĩnh, nghĩa (là) dứt phiền não. Dạy dỗ thuận hợp, thiện tịnh là nhân. Không hành xấu ác, diệt nhiễm, điên đảo. Thanh tịnh bố thí, cứu giúp như vậy. Giáo hóa b́nh đẳng, hợp nhất, ĺa tướng. Tạo tác mong đạt chân thật hiện rõ. Phép tắc điều phục, lực dụng tự tại. Cõi trời cao xa hợp phần như thế. H́nh tướng thanh tịnh, trong sáng như trăng. Dứt bỏ điên đảo, trọn nên thắng nghĩa. Hiện bày, biến chuyển như (hư) không chẳng hoại. Điều phục tuệ nhiễm tận cùng như vậy. Gốc cõi trời ấy tịnh diệu biến khắp. Thiện tịnh thâm diệu, dứt các tướng mạn. Chân thật không mất, thấu đạt tăng thêm. Thường hành hạnh thí, thuận hợp tận cùng. (Ví như) độc được, tranh tạp (cũng) trở thành thanh tịnh. Vọng nhiễm tận cùng (là) nơi chốn sợ hãi. Như liếm mật (ở) đao. Hý luận dấy tăng, cội rễ chuyển biến. Diệu thiện trừ diệt, cõi nước an trụ. Hành, giải gồm đủ, h́nh tướng hợp nhất. Sắc tướng tĩnh lặng, thanh tịnh tăng lên. Thắng nghĩa thuận hợp ĺa bỏ đúng phần. Thông tỏ h́nh tướng nghiệp dữ nhiều đời. Đói kém bức bách, cơm áo thiếu hụt. Nhân thiện tịnh diệu (của) hữu t́nh tăng thêm. Tịch tĩnh hiện bày, thi hành yên lặng. Lực dụng thiện diệu thù thắng biến khắp. Bệnh hoạn hiện rõ, dứt rồi lại thêm. Điên đảo sợ hãi, ưu khổ chồng chất. Hoạn nạn bất kỳ, khởi dứt liên tục. Dòng thác phiền não dấy, diệt, lại sinh. Lực dụng bố thí dốc lòng không tiếc.

Thế nào là răn dạy bó buộc tu học?

Lực dụng gánh vác dứt trừ sợ hãi. Cội rễ vọng nhiễm phiền não lại tăng. Ham đắm sắc tướng, tham lam không dứt. Đức hạnh dốc tu, nhân thắng đáng quý. Tự tánh chẳng mất, ĺa bỏ ba độc. Phát sinh bố thí, đến trọn bờ giác. Dạy dỗ thanh tịnh, lành thay nghĩa lợi. Buộc che (như) dòng nước, h́nh tướng thảy không. Chấp ngã dấy lên làm gốc phiền não. Tu thí thiện diệu, dứt tạo nghiệp ấy. Tạo nhân thanh tịnh, lực dụng sung mãn. Thắng nghĩa căn bản phát sinh tịch tĩnh. Đói khổ thực sự (do) không tu hạnh thí. Giữ giới thêm vững, tôn quý bội phần. Hành từ tạo được phước báo thù thắng. Chúng sinh dốc tu, cúng dường đúng phần. Hạnh mật tiến tu, tạo tác chân thật. Là cõi lực dụng tịnh diệu tận cùng. Dòng thác như vậy (là) dứt trừ thuận nẻo. Thấu đạt diệt sạch hý luận trói buộc. Ngã mạn, khinh khi, ngạo, buông dật dấy khắp. Hý luận, nghiệp dữ, điều phục, dứt bỏ. Tịch tĩnh phát sinh, cõi ý sung mãn. Sửa trị, thực hành các tướng đều mất. Lực dụng chân thật diệt trừ phiền não. Thân tâm chúng sinh phước đức riêng báo. Tĩnh lặng ĺa xa ngã pháp vọng nhiễm. Diệt dứt tham dục, nhiễm vọng cùng tiêu. Thân tâm thanh tịnh, lực dụng cùng tận. Chấp ngã, si mạn nhờ đấy dứt trừ. Tùy thuận ái lạc, cứu cánh b́nh đẳng. Xóm làng sung túc, thanh tịnh thù thắng. Tự tánh tăng lên, hóa độ khắp chốn. Nhân tịch tĩnh bày, dứt tướng lưu chuyển. Nghĩa lợi không vướng (là) nơi sinh thù thắng. Thân tướng tham dục, phải nên sửa bỏ. Dòng thác dấy tràn, sức cuốn trùm khắp. Dẫn dắt, giáo hóa sám hối tội cũ. Dạy bảo như vậy, hóa độ dễ đạt. Tu hạnh bố thí nên dốc cúng dường. Hành, giải gồm đủ (về lẽ) thâm diệu chân thật. Dòng thác biến động đáng sợ như thế, là chốn chúng sinh mong đạt cùng tận. Cấu nhiễm, chân thật, hý luận khắp chốn. Gấp tu hạnh thí xua trừ kinh sợ. Tu tập chân thật, ái lạc thuận theo. Điên đảo, cấu nhiễm, sợ hãi thảy dứt. Chúng sinh dời chuyển không ngoài sáu nẻo. Trói buộc, trôi nổi, h́nh tướng hiện rõ. Tu nhân Thập thiện, thọ báo trời, người. Cõi ấy đúng phần, hiện bày hóa độ. Nhân tướng (ở cõi) trời ấy, thắng nghĩa không mất. Tự tánh phiền não, ưu khổ phát sinh. Gốc buộc chấp ngã, trói che chồng chất. Thông tỏ như vậy, thanh tịnh điều phục. Lực dụng Như Lai viên mãn tột bậc. Tu tập hiền thiện, thấu đạt công đức. Bố thí tận cùng thắng nghĩa viên mãn. Tự tánh thông tỏ, hiền thiện như vậy. Phép tắc hướng đạt thù thắng vô cùng. Thiện tịnh chế ngự điên đảo, kinh sợ. Tu thí hưng phát, tịch tĩnh, sung túc. Như Lai là nghĩa thâm diệu tối thượng. Thuận hợp viên mãn, ĺa mọi h́nh bóng. Dòng thác chuyển biến, đúng lời Phật dạy. Phân biệt, nhận rõ, hóa độ b́nh đẳng. Tấn tu tăng thêm, tạo nghiệp “vô úy”. Si độn, điên đảo, dốc tu trừ sạch. Xứ thanh tịnh ấy tu hạnh chân thật. Tấn tu Thập thiện, nghĩa lợi tự tại. Thần túc tịnh diệu dồi dào như thế. Hương tuệ thanh tịnh đạt được thường hữu.

Hết Quyển 14

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 15

Bồ-tát hành thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh nghĩa thứ ba mươi.

Nhân thắng Bồ-đề, nghĩa thí phát sinh. Tuệ giác thanh tịnh, tịch mặc gắn bó. Gốc tu thanh tịnh, hạnh nhẫn (là) mẫu mực. Phạm hạnh chế ngự. Hóa độ tam tai. Gắn với Thập thiện. Thắng định hướng đạt, an lành phát sinh. Xóm làng đúng phần, thông tỏ b́nh đẳng. Nơi chốn thù thắng thông suốt, thấu đạt. Đó là thấu đạt chân thật lời dạy của Bồ-tát.

Cội nguồn phước đức (là) h́nh tướng tận cùng. Lực dụng thắng nghĩa từ gốc “vô sinh”. Chỉ dạy đạo đức thanh tịnh viên mãn. Chấp ngã tạo nghiệp, tham ái sinh theo. Trí tuệ b́nh đẳng an lành độ khắp. Xấu ác chẳng sinh, thanh tịnh giải thoát. Hành đạo chân thật, dứt hết lo sợ. Cội rễ nhiễm, tranh, tham ái khó bỏ. Thân, ngữ, ý sinh theo mười nẻo nghiệp. Tịch tĩnh phát huy, trừ sạch nhiễm, vọng. Trăng tròn trong lành chiếu sáng như vậy. Ngã mạn bất kỳ, tác dụng tận cùng. Hành, giải gồm đủ, thiện tĩnh hiện bày. Thắng nghĩa nhãn căn phát sinh “kiến dụng”. H́nh tướng thế gian thể tánh không bền. Nhân gốc của mạn thảy đều không thật. Thắng nghĩa phát sinh diệt hết đói khổ. Bệnh, não, duyên (với) nhân h́nh tướng kinh sợ. Biến động kỳ lạ cũng đều giả hợp. Giới luật thanh tịnh, thấu đạt chân thật. Các mạn duyên nhau thuận theo sinh dấy. Tai nạn phát sinh nhân nhiễm lưu truyền. (Là) cội rễ (mọi) tạo tác, (chỉ) thắng thừa mới dứt. Bố thí tăng lên, hành giải dốc đạt. Trói buộc điên đảo (từ) sức quấy (của) cấu nhiễm. Thanh tịnh, an tĩnh khắp chốn khó đạt. Trăng tròn trên không, tối tăm chiếu khắp. Xa ĺa bụi cáu, tự tại hiện bày. Cứu cánh thế gian, hư ảo chẳng bền. Pháp (của) bậc Hiền thánh dẫn dắt chúng sinh. Nơi chốn sinh khởi an tĩnh thật sự. Dốc của trói buộc, chuyển biến đổi dời. Tự tánh dứt tranh (là) ái lạc bậc nhất. Sùng kính, ngưỡng mộ chẳng nhiễm hại tánh. Thù thắng tăng trưởng, phát sinh dẫn dắt.

Thế nào là xứ ngã, ngã tiếp nối?

Tự tánh hòa hợp, tâm pháp buộc che. H́nh tướng chân thật, lực dụng đều dứt. Cõi ý không trí, nhân thắng chẳng sinh. vọng tưởng cấu nhiễm, lửa dữ bừng dậy. Tự tánh nhiễm tạp, gốc do hý luận. Tham dục trọn nên (là) h́nh tướng hoạn nạn. Đổi dời, lấy bỏ chủng tánh chẳng định. Theo mồi giữ pháp, được vật mạng tiêu. Kinh sợ buộc nhân, dẫn tới điên đảo. An lạc hiện bày, thù thắng sung mãn. Cõi ý thanh tịnh, vọng nhiễm chẳng sinh. Phiền não trói buộc, khéo tu điều phục. Năng lực giáo hóa, tăng thêm khắp nẻo. Nhân duyên chấp ngã, Phật đạo năng trừ. Dốc tu dứt nhiễm, nghĩa lợi tịnh diệu. Bố thí tận cùng, dốc tu chân thật. Ý phát nhân thắng, gốc mọi gánh vác... Điều phục khắp chốn, hành giải thuận hợp. Tâm pháp thù thắng, tham ái không hiện. Tạo tác nghiệp dữ, chướng nạn chất chồng, chướng nhiễm trần sa, vi tế khó đoạn. Cõi Phi tưởng thứ chín, cùng gần với Thánh. Nơi chốn cứu cánh, nhân Thánh mới dứt. H́nh tướng chuyển đổi, sức lực đều mất. Tướng danh sắc ấy, vật dụng gắng tu. Nơi chốn (đầy) sợ hãi, tự tại không thể (có). Náo tĩnh khắp cõi, phạm hạnh dứt trừ. Phiền não chuyển biến dẫn tới tạo nghiệp. Dòng thác nhiễm ác, điên đảo cùng sinh. Trói buộc thật sự, mong được dứt trừ. Bậc đại hữu t́nh, tùy thuận tấn tu. Phước đức thắng nghĩa phát sinh, khế hợp. Tạo tác nghiệp dữ, chấp ngã làm nhân. Cõi ý tăng trưởng, mạn dấy nhiều loại. Đúng phần như vậy, phạm hạnh dứt trừ. Thực hiện thấu đạt, quả lợi thanh tịnh. Nhân thắng chân thật, tự tại phát sinh. Phiền não che lấp thắng nghĩa tự tánh. Thông tỏ đúng thực xứ nhân thắng nghĩa. Nhận rõ tận cùng phóng dật buông thả. Thông tỏ độc hại hủy hoại h́nh tướng. Tịch tĩnh tận cùng, trí tuệ phát sinh. Xa ĺa nhiễm tạp, bố thí thanh tịnh. Làng xóm nơi chốn biến chuyển bao đời, là chốn ĺa bỏ hết mọi khổ độc. Bốn uẩn (thuộc) danh, danh gồm thu (cả) nhiễm tịnh. Lực dụng tăng lên, phát huy, mong đạt. Cõi trời, chúng sinh, tu thí tịnh diệu. Xa ĺa chướng nhiễm, cứu cánh chân thật. Tạo tác xấu ác, hý luận dấy thêm. Hành thí thanh tịnh, tấn tu viên mãn. Tuệ giải tăng thêm, lực dụng thuận theo. Tinh tấn bố thí (tạo) năng lực gánh vác. (Xem) công đức (là) cứu cánh, giáo hóa giảm bớt (ý nghĩa). Tận cùng như thế dừng ở nơi ấy. Tấn tu điều phục trói buộc, sợ hãi. Thâm diệu khế hợp, dấu ấn trọn đủ. Xứ sở chẳng mất, phát huy vô biên. Xa ĺa sợ hãi (tăng) năng lực tướng thiện. Đúng phần dài lâu, đạt phước báo (cõi) trời. Tự tánh thanh tịnh, lực dụng cùng tận. Là xứ dòng thác, dấy tăng hủy diệt. Tùy thuận chế ngự, thực hiện cứu cánh.

Thế nào là mong đạt tịnh diệu cõi trời?

Nơi chốn bố thí tăng thêm trói buộc. Giáo hóa chân thật, cấu nhiễm không thể (dấy). Tự tánh thuận hợp hành giải phong phú. Xứ sở thanh tịnh, an ổn, tịch tĩnh. Lực dụng chúng sinh thực hành thuận hợp. Ngọn nguồn hợp nhất, lành thay Bồ-tát. Gồm đủ tịnh diệu, b́nh đẳng chẳng đổi. Tịnh thí thuận hợp, Bồ-tát nhân dày. Tự tánh chúng sinh tăng thêm tu thí. Tánh như chế ngự điên đảo, sợ hãi. Tu tập thắng nghĩa, tịch tĩnh sung mãn. Nhiễm ác, khổ độc, si độn dứt trừ. Bố thí cứu giúp b́nh đẳng như vậy. Chúng sinh cõi người, tự tánh chuyển biến. Hữu t́nh đông đảo, gánh vác không ngớt. Là cõi cứu cánh tịch tĩnh an định. Kẻ dữ dốc tu thắng thừa là chính. Thực hiện tự tại, bốn uẩn khó lường. Thanh tịnh phát sinh, lực dụng tăng trưởng. Dốc tu đúng phần, quả lợi không mất. Quốc vương tối thắng tịch tĩnh chân thật. Trí tuệ phát sinh hành giải hóa độ. Tạo nhân khế hợp, chế ngự mong đạt. Vương giả thượng diệu phước đức thù thắng. Phiền não tận cùng, người, trời cùng bỏ. Hữu t́nh, cõi trời thấu đạt như vậy. Tự tánh thanh tịnh, Bồ-tát vỗ về. Giới luật thanh tịnh nhiều đời như thế. Nơi chốn phiền não phát khởi từ bi. Chế ngự tăng thêm, nhân buộc nghiêng đổ. Dứt trừ các mạn, tuệ giải thanh tịnh. H́nh bóng biến đổi, tưởng tượng thêm sợ. Tịnh thí tăng thêm ái lạc như vậy. Chân lý tĩnh lặng dứt hành điên đảo. Ngôn ngữ phát sinh, giáo hóa muôn loài. Trói buộc cấu nhiễm, giáo hóa chuyển đổi. Không tu hạnh thí, tạo nhân ngã mạn. H́nh tướng tự tánh, kinh sợ nhân pháp.

Thế nào là chướng nhiễm dứt hành tịch tĩnh?

Lực dụng hý luận tạo tác chấp ngã. Như vậy tịch tĩnh thâm diệu chẳng còn. Là chốn hữu t́nh tu hạnh thanh tịnh. Nghiệp nhân thù thắng, cung kính thuận hợp. Hữu t́nh thuận theo thanh tịnh tận cùng. Tự tại thuận hợp phát sinh tu tập. Ngôn ngữ kiêu dật tăng hạnh dối trá. Tự tánh hướng đạt ĺa dòng lưu chuyển. Đó là tạo tác nhân hành thanh tịnh. Tự tánh sợ sệt nhiễm buộc như vậy. Ĺa bỏ ngôn ngữ (kiêu dật) chân thật tăng thêm. Khổ độc, si độn, điên đảo dứt hết. Ĺa bỏ ngã nhiễm, h́nh tướng phong phú. Nuôi dưỡng Phật đạo, dứt trừ chướng nhiễm. Tịnh diệu chân thật nhiều kiếp tạo thành. Hý luận dấy lên, phát sinh khắp chốn. Hành, giải gồm đủ, hữu t́nh tự tại. Phép tắc chế ngự, năng dứt che buộc. Thuận hợp rộng khắp viên mãn tận cùng. Xứ ấy mong đạt thắng nghĩa phát sinh. Giữ ǵn tịch tĩnh, h́nh tướng hiện bày. Tạo nghiệp hủy hoại, lực dụng chẳng sinh. Cõi si độn nhiễm luôn buộc chặt thể. Chân lý phát sinh là nghĩa giải thoát. Cội rễ thù thắng (là) tĩnh trụ tận cùng. Lực dụng tự tánh (là) ngọn nguồn thâm diệu. Là chốn mong đạt dứt nhân chấp ngã. Trói buộc tận cùng, bỉ thử là gốc.

Thế nào là điên đảo hý luận sinh khởi? Thế nào là chi phần b́nh đẳng, tịch tĩnh?

Thanh tướng không mất (là) công cụ giải bày. Đó chính là gốc nhân tướng tịch tĩnh. Cội rễ nhiễm chướng, trí khởi liền diệt. Ngọn nguồn tạo nghiệp (là) mười loại hạnh ác. Bồ-tát chế ngự khắp mọi điên đảo. Nghiệp dữ chúng sinh phát khởi như thế. Nhân thắng đúng phần, tạo tác cùng tận. Thanh tịnh Như như, không (phải) là tích nhóm. Dòng thác dấy tăng trói buộc sắc tướng. Chúng sinh tham dật (chỉ) buông thả tánh t́nh. H́nh tướng chẳng hoại, chân thật tăng thêm. Uy lực quốc vương (khiến) hý luận không (tái) diễn. Ba tánh tạo nhân, lực dụng có (thể) đổi. Cõi học mong đạt, tham dục thuận theo. Vọng nhiễm hợp nhất phát sinh là thế. Dòng thác tăng dấy, dứt bỏ nghĩa lợi. Bố thí phát sinh lực dụng gánh vác. Lực dụng b́nh đẳng hiện bày, phát triển. H́nh tướng “vô úy”, trượng phu hội đủ. Nhiễm ác tăng dấy, hậu quả không lường. Tướng thắng nghĩa đó phát sinh khắp chốn. Nhân thí phát sinh giáo hóa rộng khắp. Tự tánh dứt sạch cấu nhiễm tận cùng. H́nh tướng điên đảo dứt hết khó được. Xa ĺa cấu nhiễm, h́nh tướng viên mãn. Chấp trước bỉ thử (là) tai nạn cả đời. Nghĩa lợi khế hợp, an tĩnh hiện rõ. Bồ-tát điều phục năng lực b́nh đẳng. Thắng nghĩa phát sinh, các mạn chẳng dấy. Chân lý Như như dứt sạch tai họa. Là chốn Bồ-tát lời thiện dẫn dạy. Thâm diệu tăng thêm, giáo hóa thanh tịnh. Phạm hạnh “vô úy”, tịch tĩnh chân thật. Cội rễ lực dụng hoạn nạn đều diệt. Giáo hóa, bố thí, thuận theo chánh niệm. Diệt trừ si, mạn (đạt) cội nguồn chân thật. Lời khéo dẫn dạy tịch mặc tịnh diệu. Nhân tịnh thù thắng, thấu đạt b́nh đẳng.

Thế nào là nơi chốn hành động, như mây thanh tịnh phủ che các loài?

Tu học dứt trừ điên đảo cấu nhiễm, chướng ngại hý luận. Tự tánh chế ngự cội rễ điên đảo, hướng đạt tịch tĩnh. H́nh tướng hữu t́nh chuyển biến như thế. Ĺa bỏ nghiệp dữ, ưu khổ, nhiệt não. Dung mạo đoan chánh, thấu đạt thuận hòa. Là chốn hành giải bố thí thuận hợp. Bồ-tát dẫn dắt chúng sinh thêm tăng. Ngôn ngữ dẫn dạy, tai nạn dứt hết. Phiền não mê thông, thô trọng như vậy. Công đức theo nhân tăng thêm tự tại. Là chốn hữu t́nh hợp nhất đầy đủ. Si mạn tăng dấy biến khắp như (cõi) không. Nghĩa lợi thuận hợp hành giải phát sinh. Nhân hành tăng trưởng, tự tín như thế. Nơi chốn ái lạc, điên đảo hý luận. Đói khát tận cùng hủy hoại tự tánh. Chế ngự thuận theo thanh tịnh, tịch tĩnh. Tham đắm ái lạc, điên đảo tận cùng. Tĩnh trụ đạt được, nhớ nghĩ chúng sinh. Bồ-đề Tát-đỏa khéo dạy như vậy. Dứt pháp điên đảo, trừ nẻo hý luận. Thanh tịnh điều phục, an trụ tự tại. Tự tánh hành giải ghi nhớ rõ ràng. Tịch tĩnh tịnh diệu là gốc (mọi) phép tắc. Chúng sinh an tĩnh nhận lãnh giáo pháp. Nhân thắng bố thí (là) nhớ nghĩa chúng sinh. Cội rễ chấp ngã (làm) phát khởi tạp nhiễm. Thắng lực hành thí tịch tĩnh thành tựu. Tạo nhân thượng diệu, b́nh đẳng phát sinh. Hợp phần đầy đủ, tu tập viên mãn. Lời nói tự tin, tạp nhiễm giảm bớt. Thắng nghĩa thuận hợp, hý luận chẳng sinh. Hợp phần cùng tận, dòng thác phát sinh. Nhân tịnh diệu ấy tánh ĺa tranh, nhiễm. Thanh tịnh thuần nhất, tai họa thảy dứt. Tu hạnh bất thoái, tịch tĩnh Như như. H́nh tướng kiêu dật, lực dụng phiền tạp. Nhân tánh thanh tịnh, lưu chuyển thuận hợp. Hữu t́nh thông tỏ, tăng trưởng, xa ĺa. Ngôn ngữ chỉ dạy chúng sinh thực hiện. Dốc tu thêm nữa mong đạt thanh tịnh.

Thế nào là nghĩa lợi vô ngã phát sinh?

Ngôn ngữ dạy truyền, thực hành căn bản. Tăng trưởng tận cùng (là) tịch tĩnh phát khởi. Ĺa bỏ nghiệp dữ, nơi chốn an lạc. Tự tánh trí tuệ mong đạt an lành.

Thế nào là thanh tịnh nghiêm túc dứt nhiễm?

Điên đảo vô biên, Bồ-tát dẫn dạy.

Thế nào là thí lớn phước nhiều như vậy?

Thắng dụng tạo tác, làng xóm tịch tĩnh. Dẫn dắt muôn loài hướng đạt quả Phật. Hành sợ hãi ấy, giới mốc như (hư) không. Hóa độ thông tỏ an lạc tăng trưởng. Ái lạc thuận hợp phát sinh các tướng. Hý luận dứt trừ, thực hành chân thật. Tánh như đạt được, nghĩa (là) không chuyển đổi. Sợ hãi tận cùng, gốc mọi trói buộc. Thân tâm năm uẩn, sắc uẩn chứa nhóm. Thọ, tưởng, hành, thức vô chất khó tường. Gốc buộc làm nhân, sinh nghĩa (cho là) chân thật. Tịch tĩnh điều phục, hành thí khắp chốn. Tịnh trụ tự tại, dứt sạch các mạn. Hành, giải gồm đủ, ngọn nguồn hiện rõ. Xa ĺa ba độc, cấu nhiễm đều hết.

Thế nào là căn bản hành động tận cùng?

Giảng dạy về thể, cứu cánh như vậy. Đói khổ thực sự, bi nguyện giúp khắp. Lực dụng cõi ý, gốc của tấn tu. Tạo nhân thắng diệt nghiệp dữ, cấu nhiễm. Dòng thác phát dấy si độn, hý luận. Giáo hóa chúng sinh trọn nên như thế. Tướng sinh thực sự (là) diện mạo quả báo. Nhân thắng tăng trưởng (là) xứ sở tĩnh trụ.

Thế nào là căn bản tự tánh hợp phần?

Nơi chốn như núi hiểm trở đáng sợ. Là cõi Bồ-tát hành thí chân thật. Hữu t́nh si mê nhiều không kể xiết. Lực dụng hợp phần, chân thực cùng tận.

Thế nào là pháp tánh thắng nghĩa tịch tĩnh?

Bố thí tùy thuận, pháp của an lạc.

Thế nào là lực dụng thanh tịnh tấn tu?

Không pháp đảo điên, si chướng mạn (cũng) không. Tinh tấn cúng dường Thập thiện tăng trăm. Vương tộc hưng thịnh, việc thiện sùng tín. Tâm pháp thanh tịnh, tuệ giải chân thật. Bồ-tát chỉ dạy (về) cội rễ tai họa. Nhân hành chuyển biến, bỉ thử tự tại. Giáo pháp thanh tịnh, trí tuệ điều phục. Tự tánh hữu t́nh, thâm diệu phát sinh. Tâm tịnh hòa hợp, thanh tịnh giải thoát. Là chốn Bồ-tát tiếp độ chúng sinh. Tự tánh chứng đắc, thấu đạt xa ĺa. Thông tỏ các mạn, tịch tĩnh tăng lên. Phạm hạnh phát huy, lo sợ hòa thuận. Si mạn tăng dấy, tịch tĩnh điều phục. Hữu t́nh thực hiện lời thiện tăng thêm, tạo nhân thắng hạnh, lực dụng ái lạc. Theo nhân điều phục, tạo nhân thắng nghĩa. Chúng sinh đa văn nghĩa lợi tăng trưởng. Phạm hạnh hòa thuận phấn khởi cúng dường. Là chốn tự tánh chân thật thuận hợp. Tu thí tịnh diệu, gốc mọi trí tuệ. Tùy thuận dứt sạch điên đảo cấu nhiễm. Dẫn dạy tăng thêm tịch tĩnh, vô úy. Lành thay đề hồ, hơn hẳn các vị. Trí tuệ hợp phần bao la cùng tận. Lành thay h́nh tướng thù thắng khắp cõi. Cúng dường vô biên mong đạt tịch tĩnh. Ngôn ngữ thù thắng tịnh diệu hiện bày. Sợ hãi phát sinh (cần) an tĩnh sám hối. Thanh tịnh an nhiên điều phục căn bản. Ngọn nguồn tự tánh cầu chẳng thể được. Nghĩa lợi b́nh đẳng (là) tịch tĩnh chân thật. Tiến tu cùng tận, tự tánh hiện bày. Mong đạt thanh tịnh, an tĩnh thù thắng. Các nhân hoạn nạn, điên đảo dứt sạch. Mong cầu dứt mọi quả báo hủy hoại. Bồ-tát dẫn dạy dứt mọi hoạn nạn. Lặng dừng (mọi) tạo tác nhiễm ác, hý luận. Mong đạt tăng thêm gánh vác, xa ĺa. Nghèo, bệnh, cấu nhiễm tất cả chẳng còn. Vô úy trừ hết (mọi) tạo nghiệp si độn. Lực dụng hữu t́nh thấu đạt thù thắng. Thuận theo chân thật, thanh tịnh bày khắp. Thanh tịnh bao la biến khắp mọi nẻo. Tự tánh chân như nguồn ngọn “bất sinh”. Tịnh diệu hiện hành thuận hợp tự tại. Tạo nhân thù thắng (là) nơi chốn không hoại. Bố thí thanh tịnh (là) tu nhân thuận hợp. Tĩnh lặng an nhiên, dứt hết phiền não. Thiện tịnh hòa hợp, hành giải đủ đầy. Thắng nghĩa căn bản ĺa tất cả vọng. Nhân duyên bạn lành dốc tu không đổi. Lực dụng rộng khắp, chướng nhiễm chẳng sinh. Tịch tĩnh thù thắng (là) ngọn nguồn tịnh diệu. Lực dụng chân thật dẫn dắt muôn loài. Tuệ giải thù thắng (là) năng lực tối thượng (có thể chuyển) tham dục, sân hận, ngu si (thành) thiện tịnh. Trí tuệ chân thật, cứu cánh tự tại. Mong đạt thực hiện rộng khắp mọi nơi. Tự tại thích ứng đạt đến viên mãn. H́nh tướng theo nhân, hành giải thuận hợp. Thể tánh như (hư) không (ĺa mọi) trói buộc cấu nhiễm. Tự tánh an trụ, giáo hóa dốc tu. Chúng sinh tạo nhân, bố thí là gốc. Luận vấn thấu đáo, trí tuệ thêm tịnh. Hành uẩn biến chuyển rõ nghĩa vô thường. Vọng tưởng đích thực (sinh ra) phiền não trọng chướng. (Cùng) tất cả nghiệp dữ bùng dấy chẳng dừng. Theo nhân lưu chuyển, tâm trong tự dứt. Lực dụng mẫu mực, hành giải viên mãn. Nghĩa lợi thù thắng bỉ thử hòa hợp. Si độn chướng nhiễm (tạo) ngôn ngữ phân biệt. Hành tướng buộc che, Phật giáo dứt trừ. Thuận theo thắng tướng, thanh tịnh là gốc. H́nh bóng biến đổi, nhận rõ (là) không thật. Đạo hạnh vô úy mong cầu thấu đạt. Nhân của tịnh diệu đạt được viên mãn. Lực dụng tận cùng, an tịnh như núi. Năng lực hòa hợp, cúng dường mong đạt. Giáo pháp khế hợp, hành thí là gốc. Nghiệp dữ, cấu uế, vọng tưởng sinh khởi. Tạo nhân tịnh diệu, dứt lòng lưu chuyển. Tự tánh đức nghiệp, chuyển đổi an định. Tùy thuận, tiến hướng, cấu nhiễm chẳng sinh. Nhân duyên dẫn dạy phát khởi thuận hợp. Ngôn ngữ ĺa lỗi mọi vật đều đạt. Chân tánh Như như vượt mọi không−hữu. Lực dụng gánh vác, tự tại phát sinh. Lùi tiến như thế, ba cõi lại sinh. Tịnh diệu tận cùng, dứt sạch si độn. Là chốn thuận hợp, gốc trí tuệ khởi. Dòng thác phiền não rốt cuộc (cũng) diệt theo. Dốc tu rộng khắp, thần túc chẳng mất. Nhân thắng thường tịch (là) hành “vô úy thí”. Điên đảo chẳng còn, tự tại viên mãn. Tôn kính sư trưởng, nghĩa lợi an tĩnh. Nơi chốn rộng lớn rõ ràng như thế. Mong dứt hý luận, tịnh diệu không hoại. Là chốn tham dục hiện bày lắm mối. Cội rễ che buộc thảy đều dứt hết. Tuệ giải biến khắp, nhiễm buộc đều sạch. Tu thí chân thật (là) h́nh tướng tịnh diệu. Nghĩa lợi thuận hợp, an tĩnh như non. Gốc đạt lực dụng, tu tập phạm hạnh. Diệt hết si độn, đạt hạnh căn bản. Thiện tĩnh hòa hợp (là) ngọn nguồn trí dụng. Trí đạt chân như, lý hợp thần lực. Chúng sinh bố thí, rõ nghĩa phát sinh. Tự tánh thông tỏ, ngôn ngữ tinh thuần. Thân phần thanh tịnh, danh sắc thù thắng. Là Đại trượng phu dứt mọi tạo nghiệp. Tu tập b́nh đẳng, tuệ giải rộng khắp. Lực dụng viên mãn, hòa hợp khắp cõi. Dứt mọi buộc che, phước đức tự tại. Xa ĺa chướng nhiễm, các mạn chẳng sinh. Trí giải thông tỏ, lực dụng mong đạt. Tu thiện hiện bày, thần túc chuyển biến. Bồ-đề Tát-đỏa lời thiện dẫn dắt. Thắng nghĩa tận cùng, chư Thiên cung kính. Đói khổ hằng dứt, phiền não sạch làu. Tạo nhân tăng thượng thông tỏ phân biệt. Nghĩa lợi thù thắng; hành, giải gồm đủ. Khéo dứt chướng nhiễm, tu tập thuận hợp. Thật Đại trượng phu! “Hai loại” trùm khắp. Gốc vốn không nhiễm, tịnh diệu phát sinh. Ĺa xa h́nh tướng, tu hạnh tận cùng (giải thoát) Thiện tịnh tăng thêm, tu tập thiện trụ. Xa ĺa dòng thác, dứt bỏ hý luận, tạo nghiệp giải thoát. Cõi trời chân thật, thân tướng nghiêm đẹp. Nhân thắng thanh tịnh, lực dụng sung mãn. Như vậy dứt hết các nhân cõi ác. Tri kiến bao la, tùy thuận là thế. Năng trừ cội rễ phiền não chướng, buộc. Thuận theo lực dụng thông tỏ mọi lẽ. Thân tướng mong đạt lực dụng biến khắp. Buông theo thế gian (là) gốc mọi tai họa. Nghĩa lợi bố thí không cầu phúc báo. Mọi nỗi oán đối mong được dứt trừ. Tạo nhân cõi trời, hành thí trước hết. Trí tuệ thông tỏ (là) bậc đại hữu t́nh. Ngã mạn bừng dấy, phạm hạnh trừ diệt. Tu tập thiện tịnh, tỏ ngộ vô tướng. Tâm hành lớp lớp, chẳng nguyện vẫn đạt. Dốc tu thuận hòa, tịch tĩnh bày rõ. Tự tánh hiện bày (rõ) chấp ngã nương nhiễm. Chúng sinh thực hành, tướng ấy chẳng mất. Tự tánh nhận ra dòng thác trói buộc. Lành thay chân thật! Nơi chốn hợp phần, thanh tịnh vô biên. Hành thí chân thật an tĩnh hiện bày. Nghĩa lợi hòa hợp, dứt tranh như thế. Là chốn Bồ-tát tự tại b́nh đẳng, cứu vật đều khắp. Tự tánh thông tỏ, chỉ dạy b́nh đẳng. Trước sau một nẻo, dứt mọi yêu ghét. Thù thắng hiện bày, cúng dường trên hết. Cứu độ muôn loài không hề ĺa bỏ. Ngã kiến đúng phần, bỉ thử đều mất. Nhận rõ kiêu dật, nghiêm túc trừ diệt. Đúng là Phật dạy. Mong đạt thanh tịnh, dứt mọi h́nh tướng. Chúng sinh cõi ác, chỉ tạo hủy hoại. Thân trước tàn dứt, thân sau lại khởi. Cùng Phật xa xưa đồng thời mà được. Bồ-đề Tátđỏa khuyên dạy rõ lời. Tạo tác như vậy, nghĩa lợi chân thật. Dứt ác là chính. Gốc các pháp nhiễm, chấp ngã đứng đầu. T́nh thuận sinh tham, t́nh trái sân dấy. Khoảng giữa si hiện. Sinh tiếp là “hoặc” gồm hai mươi sáu loại. Nhân tánh mà có nhiễm chướng, tạo tác điên đảo, vọng tưởng suy t́m. Đủ cả các loại phiền não cấu nhiễm. Thật là chí loài, giả là lập dùng, là chốn gốc của lực dụng bố thí.

Thế nào là hóa sinh dẫn dạy nêu lên?

Nghiệp thiện thù thắng “hóa sinh” chư Thiên. Tạo nghiệp cực ác “hóa sinh” địa ngục. Từ không chợt có. Trong cõi sinh, các thể loại như nhau. Gốc cõi tử, các thể loại có sự khác biệt. Cõi sinh và tử nương thức gốc lập. Sinh tử một niệm như lời Phật dạy. Pháp có khuôn phép, xứ có nhiễm tịnh. Tuệ tỏ hướng đạt, hành giải gồm đủ. Chấp ngã chẳng sinh, phiền não cũng dứt. Dốc đạt thiện đạo, tịnh pháp liền sinh. Nhân của thù thắng phát sinh hợp chốn. Gốc không tâm thí, quả nhận thậm tệ. Tịch tĩnh vô vi (là) ngọn nguồn thắng nghĩa. Bồ-tát vô úy bạn lành dẫn độ. Tự tánh bản lai, thường xuyên dẫn dắt. An lạc dứt mạn, tấn tu như vậy. Phép tắc nghiêm túc, nương tựa tĩnh trụ. Các mạn tăng dấy, ngôn ngữ đều dứt. B́nh đẳng thuận hòa, hướng đạt an tĩnh. Vương giả giáo lệnh khế hợp khắp chốn. Chúng sinh hành tham, nên thành nẻo nghiệp. Bồ-tát dẫn dạy thiện nghiệp thanh tịnh. Thực hành tự tại tâm không vướng mắc. Hiện, sinh đều thuận luôn làm chủ nghiệp. Nên gọi bốn loài, thọ báo tuần tự. Ba thừa hóa độ cùng đạt bờ giác. Bờ bến người, trời đạt được (đều) bỏ lại. Ba thừa không đồng, cứu cánh đều đạt. Năng cầu chí quyết, ngày hết ắt thành. Cứu cánh tột cùng là đến bờ giác. Vượt mọi sinh diệt cùng mọi lưu chuyển. Cũng khởi luân hồi. Đó là bờ giác. Pháp thiện tự tánh là pháp (thiện trong) tâm sở. Pháp thiện tương ưng thông cả (tâm) vương, (tâm) sở. Bỉ thử tăng trưởng (là) nhân của tận cùng. Tuệ giải thông tỏ nêu rõ cứu cánh. Tự tánh thông tỏ thấu đạt ái lạc. Vương giả phát huy, hữu t́nh hướng đến. Tu tập thấu đạt yên tĩnh an lạc. Các pháp dục lạc, tham ái là gốc. Pháp thiện cùng khởi hợp với tinh tấn. Dục thông ba tánh cùng nhiễm, chẳng nhiễm.

Giáo pháp Phật dạy: Đức hạnh nhiều loại, không ngoài lợi vật. Công của thấu đạt là ở trí tuệ. H́nh tướng trang nghiêm tươi đẹp hơn hết. Tất cả tự tánh chuyển biến đúng thật. Phước đức trí tuệ tịnh diệu đáng yêu. Tạo nên nơi chốn tịnh diệu thuần khiết.

Thế nào là giải thoát dứt sạch phiền não? 

Phật đạo hưng lên, tối tăm đều dứt. Tịch tĩnh thù thắng, hóa độ, chuyển đổi. Phiền não cấu nhiễm không thể hủy hoại. Là cõi trí hiện, ám chướng đều tan. Thanh tịnh thuận hợp, cao xa hướng đạt. Nghiệp dữ, hý luận, giáo thừa thảy dứt. Diệt mọi trói buộc cấu uế, bệnh hoạn. Tham, sân, si độc, gốc của điên đảo. Trí tuệ chân thật, chúng sinh khó đạt. Hướng đạt tịch tĩnh, không hề dao động. Bồ-tát chỉ dạy, khắp mọi nơi chốn. Lực dụng dốc tu, tai nạn chẳng sinh. An trụ b́nh đẳng, đó là vô úy. Nghĩa lợi viên mãn, tu hạnh thanh tịnh. Dứt mọi điên đảo, thế gian thành tựu. Siêng tu bố thí, ngã mạn chẳng dấy. Thắng nghiệp thanh tịnh, phép tắc sung mãn. Dứt trừ tham dục. Thế gian đói khổ không giúp mà được. Ở nơi cõi trời cũng có nghèo, bệnh. Chư Thiên Dục giới hãy còn sát hại. Đế Thích, Tu-la sân hận mà dứt. Tham dục ưu khổ, cõi dục đủ cả. Chết sống theo nghiệp, tất cả đều chịu. Chuyển biến đúng phần, nghĩa lợi thích hợp. Lực dụng thanh tịnh giáo hóa nghiêm túc. Hành gốc bố thí, dứt mọi vọng nhiễm.

Thế nào là chi tử, xả thức thứ tám? Thế nào là chi sinh, sinh thức thứ tám? 

Chỉ ở thức này, sinh tử kiến lập. Từ các thức còn lại, thể chẳng lập chi. Có nơi cho là “tịnh tùy chuyển môn”. Hành, giải tăng lên, gốc của nhân thiện. Chân thật, an lành rõ nguồn ưu khổ. Tịch tĩnh tiến tu, hành giải ít có. Danh sắc, năm uẩn, hóa độ chân thật. Bố thí vô ngã khế hợp như vậy. Đức hạnh an tĩnh, trăm phước trang nghiêm. Mong đạt thiện diệu tịch tĩnh “vô sinh”. Không thể hủy, diệt, chẳng hề lưu chuyển. Hướng đạt, “vô úy”, gánh vác tăng trưởng. Bố thí chân thực, lực dụng dốc tu. Thắng nghĩa phát huy, gắng sức tạo thành. Các nẻo oán đối thấu đạt, ĺa bỏ. Sinh diệt gốc tĩnh, thanh tịnh Như như. Chi phần chuyển biến, niệm niệm nối nhau. Các pháp tự tánh chẳng hề được, mất. Bồ-tát khai thị dẫn dạy như vậy. Thiền định tịch tĩnh vượt mọi tư duy. An tĩnh như (hư) không, dứt mọi sân hận. Nhận rõ sân hận bùng lên như lửa. Bản lai thuận hợp, tịch diệt là vậy. Hành động phàm phu, bố thí là chính. Tu tập thuận hợp, nhân ĺa cấu uế. Tịnh diệu chân thật, dứt tướng si độn. Tu tập hướng đạt lực dụng các tướng. Gắng tu dứt trừ phiền não, hý luận. Ngu độn, các mạn trói buộc câu kết. Tinh tấn hướng đạt tất cả tướng (tạo) nhân. Thắng hạnh hữu t́nh, tự lợi, lợi tha. Cội rễ thuận hợp, trời người quy ngưỡng. Tự tánh an trụ, tu tŕ thuận hạnh. Bồ-đề Tát-đỏa hành hóa ý vui. Các pháp giáo hóa lợi tha là việc (chính). Lực dụng b́nh đẳng, ngưỡng mộ kính tu. Cội nguồn giáo pháp thanh tịnh Như như. Từ sâu đến rõ thực hành là gốc. Thắng nghĩa tịch tĩnh chỉ nương Phật pháp. Tu hạnh tịnh diệu, an trụ thù thắng. Phiền não sinh khởi, gốc của nghiệp dữ. Nhãn căn thu sắc gốc vốn không buộc. Lực dụng thanh tịnh tịch nhiên thông tỏ. Tánh như bất sinh, có từ vô thỉ. Nhân duyên trong lặng, chẳng pháp nào ĺa. Lý không thể suy, đâu thể hướng t́m. Pháp không lưu chuyển, thể tánh “phi hữu”. Chân tánh Niết-bàn thể cũng “phi hữu”. Vi diệu thậm thâm, trong lặng an tĩnh. Bồ-đề Tát-đỏa theo đấy giữ tâm. Nung trộn chẳng động, lắng đọng trong lặng. Pháp vốn thường trụ, dạy dỗ rõ vậy. Tự tha giảm mất, tánh phiền não hiện. Bậc Đại Bồ-tát tiếp dẫn nơi ấy. Các pháp tối thượng vượt mọi tăng giảm. Quả vị mong đạt tức đến bờ giác. Thông tỏ giáo hành, phát sinh (tâm) bất thoái. Theo đấy tấn tu (đạt) h́nh tướng thắng diệu. Giáo hóa, dẫn dắt hoạn nạn chúng sinh. Thấu đạt giáo pháp diệu lý thù thắng. Dứt mọi bụi cáu, đạt hạnh thanh tịnh. Ĺa khỏi quả báo hướng đạt tam thừa. Bồ-tát thấu suốt tất cả muôn loài. Là xứ Bồ-tát tu hạnh căn bản. Trí tuệ quán chiếu tỏ lẽ “vô sinh”. Từ bỏ mê lầm vui đạt giải thoát. Xua dần phiền não theo pháp tiệm tu. Mầm đạo nẩy rộ, chướng nhiễm đều lặng. Hý luận chẳng dấy (đạt) cứu cánh chân thật. Dạy trao hạnh thí Phật từng nêu rõ. Thấu nẻo tri túc, tham ái nào sinh. Nơi chốn chân thật tu thiện chứng đạt. Cội rễ nhiễm diệt, dốc tu chánh hạnh. Lời Bồ-tát dạy. Xa ĺa mọi nhiễm. Hý luận dấy tràn nơi chốn điên đảo. Trí tuệ suy t́m, bỏ điều vô nghĩa. Chánh pháp nêu bày tận cùng chân thật. Thuận theo tâm tịnh phát huy nguồn ngọn. Nhân của tịnh diệu, chỗ nương của đức. Thánh nhân dạy rõ, chúng sinh cùng theo. Phạm hạnh diệt trừ thảy mọi trói buộc. Bồ-tát dẫn dạy, ái ngữ tỏ bày. Hóa độ muôn loài tu hạnh tịnh diệu. Hành thí bao la viên mãn vô ngại. Vật dùng thành trước (tiên), sức của Thiên đế. Tu tập thắng pháp tăng trưởng, chuyển biến. Là cõi tạo nhân hóa hiện cảm ứng. Sức buộc dấy khởi, sinh tử trôi lăn. Nơi ấy Bồ-tát tùy duyên hóa độ. Tâm ý thanh tịnh, dốc lòng tu tập. H́nh tướng tĩnh lặng bố thí chân thật. Dẫn dạy phát huy từ không biến khắp. Hành nghiệp thù thắng bốn phương cùng cảm. Hành thí tăng trưởng hiện bày khắp cõi. Là chốn Bồ-tát hành hóa tự tại. Gốc rễ chấp ngã (là) chẳng tin giáo pháp. Vận dụng, chuyển đổi đều từ sức ḿnh. Thân phần chúng sinh giữ bỏ tùy sức (ḿnh). Hữu t́nh (bị) trói buộc do theo đường quấy. Quyết chí dốc tâm mong cầu sám hối. Không (tạo) nhân biến chuyển, tức th́ đạt được. Cõi ý dứt sạch tất cả vọng niệm. Nhân duyên thanh tịnh luôn được “hộ niệm”. Bạo lực, điềm dữ, Phật lực năng trừ. Nơi chốn thanh tịnh, hoạn nạn chẳng sinh. Bồ-tát dẫn dạy, căn lành tiếp nối. H́nh tướng chẳng hoại, lực của phước báo. Dứt trừ hý luận, lực dụng tự tại. Hành thí thông tỏ, nhân của thù thắng. Tự tánh thanh tịnh, gốc mọi an nhiên. Bồ-đề Tát-đỏa dốc lời dẫn dạy. Dứt nhân sợ hãi quả báo chân thật. Dựa theo sức nhân, thông tỏ báo ứng. Ảnh hưởng cùng hợp, tu học càng gắng. Thân tâm dứt buộc, vào nẻo cõi người. Ngũ giới Tam quy mong đạt cùng tận. Theo nhân tối thượng, hiện hành thuận hợp. Bốn loài hiện tại, thọ báo bất định.

Nghĩa lợi đời trước (tạo ra) bốn loại bố thí. Như đã nêu rõ, trói buộc (vốn) tận cùng. Chúng sinh làm sao tu hành dứt trừ? 

Nhân duyên phạm tĩnh, thiện tịnh hiện bày. Bồ-tát dạy rõ nên tu (bố) thí, (giữ) giới. Lực dụng cõi trời dứt mọi sợ hãi. Là cõi Bồ-tát hành hóa thích ứng. Tu tập thuận hợp, hạnh của chân thật.

Thế nào là tịch tĩnh dứt mọi phiền não?

Hành động điên đảo, thắng nghĩa chẳng sinh. Vương giả nơi người, phước đức như trời. Ngôn ngữ giáo lệnh bốn phương thuận theo. Chế độ, phép tắc nghiêm túc thích hợp. Thông tỏ Thánh nghĩa, thù diệu viên mãn. “Bất hại” (tâm sở) trong thiện, lấy Bi làm thể. Chánh đổ, sân dấy, quấy nhiễu hữu t́nh. Trong số hằng trăm thiện bị nhiễm (là) chính. Chi phần tự tánh (là) tánh A-lại-đa. (Thức ấy) lấy tam giới, năm cõi, bốn loài làm thể. Tất cả các pháp đều nương (ở) pháp ấy. Pháp của thức ấy gồm cả thiện ác. Tánh là “vô ký” không thọ nhận quả. Bậc Đại Bồ-tát theo giáo nên dạy. Bốn quả La-hán tiếp nhận ở đấy. Các pháp an lạc (do) nhân bố thí (mà) được. Hóa độ muôn loài đạt đến giải thoát. 

Thế nào là tánh chất không thật, chẳng bền của thể tánh?

Bố thí tùy thuận cứu giúp đói khổ. Phát huy cõi ý. Tự tánh thông tỏ, gốc chẳng hoại diệt. “Bất sinh” là ǵ? Pháp thể nương duyên, không nhân chẳng hiện. Quả bố thí ấy đạt tướng thù thắng. Chân thật bao la, vô ngã (là) hơn hết. Hành lẽ tối thượng chí dốc chẳng ngừng. Sắc tướng thiện tịnh, giữ giới ắt đạt. Thân muốn chuyển dời, bệnh tật hủy hoại. Thông suốt chi phần tánh không bền chắc. Nhân duyên tĩnh lặng (rõ lẽ) tồn tại tạm thời. Các pháp vô lậu chuyển biến vô tận. Đường nẻo cõi người tâm thu tất thảy. Tướng lạ, lực lớn, thân tâm suy, tối. Danh sắc hủy hoại tự tánh chân thật. An lạc sung mãn như gió thổi đuốc. Tự tánh Niết-bàn tỏ ngộ viên mãn.

Thế nào là oán đối hiện tiền lúc sắp chết?

Tâm ý dứt nhân, do đâu sinh khởi? Thiên chủ Đế Thích thông tỏ thiện ác. Nghĩa lợi giáo, thừa chẳng phải hư bày. Tạo tác mong đạt ngọn nguồn nghĩa lý. Cứu cánh tự tánh nghĩa (là) đạt giải thoát. Tùy thuận thế gian, nghĩa (là) chẳng bền vững.

Hết Quyển 15

[^]

LUẬN BỒ-TÁT BẢN SINH MAN

Tác giả: Bồ-tát Thánh Dũng

Hán Dịch: Đời Tống, Đại Sư Thiệu Đức, Huệ Tuân

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 16

Trí lực vô thượng, ái lạc mong cầu. Giáo hóa chúng sinh (đạt đến) bờ giác thù thắng. Ý thức −thức thứ sáu− năng tu trí đạo. Bố thí khế hợp, đạt hạnh căn bản. Là chốn chế độ phép tắc rốt ráo. Tu pháp bố thí thấu lẽ “vong tướng”. Các uẩn thanh tịnh, trí lực thù thắng. Hữu t́nh giác ngộ, thần túc vô ngại. Hành, giải đầy đủ, lực dụng viên mãn. Phước duyên theo đạo (là) thắng hạnh tột bậc. Pháp thí viên mãn, tịch tĩnh thông tỏ. Bạo lực trói buộc cảnh giới hữu t́nh. Mong cầu phát khởi bốn hạng phạm hạnh. Nhân duyên các loài dứt mọi trói buộc. Tạo nhân phiền não, hành động thuận theo. Đạo sư mẫu mực chỉ bày nẻo tịnh. Chứng đắc giới luật, dạy trao kẻ khác. Bốn hạng đạo sư lực dụng tự tại. Không thể hủy hoại. Đời người mạng dứt, bỏ “bảy chi giới”. Tu tập lại tiếp, trí giải thù thắng. Nghiệp nhân thông tỏ, tịch tĩnh trùm khắp. Hành nhiễm trói buộc phúc chốc dứt hết. Tĩnh lặng ĺa mọi nhân duyên khổ độc. Các pháp ngã mạn, thanh tịnh diệt trừ. Là chốn Bồ-đề Tát-đỏa dẫn dạy. Thấu đạt nghĩa lợi, chân thật hiện bày. Tu tập mong đạt các hạnh tịch tĩnh. Tạo nhân tịnh diệu phát khởi khế hợp. Nhận thức thông đạt mẫu mực thiện tịnh. Dòng thác phiền não sức cuốn rộng khắp. Thắng nghĩa bất thoái (là) thông tỏ, ĺa bỏ (phiền não). Ngọn nguồn tịnh diệu đúng nghĩa giải thoát. Các hàng chư Thiên, Đế Thích hiện theo. Tĩnh trụ dứt nhiễm, thanh tịnh an lạc. Phiền chính chẳng sinh, nghĩa (là) dứt tạo nghiệp. Diệt trừ náo động nghĩa (là) dứt hý luận. Chế ngự thân tâm đó là an tĩnh. Hữu t́nh không thật, bốn đại giả hợp. Hư ảo khó lường, chẳng thể so dụ. Bọt bèo tụ nổi, ảo ảnh tiếng vang. Trăng nước, bóng gương, tơ giăng đầu gió. Lời Phật dạy bảo. Dễ ĺa khó giữ, ra còn vào mất. Tĩnh trụ dốc tu các pháp giải thoát. Khí tiết nghiêm túc tĩnh lặng tinh thuần. Đức hạnh như thế an nhiên hiện rõ.

“Thiện nam tử, Bố thí thượng diệu: thành, nước, vợ con, cho đến thân ḿnh; thể ấy là như tánh, “bất khả” hoặc là “vô bất khả”.” Lại dạy: “Thắng nghĩa phát sinh, ý đạt như vậy”. Thông tỏ pháp duyên, tu hạnh vô tận. Trí tuệ thấu đạt thắng pháp Như như. Chấp ngã như vậy tuệ bị vướng nhiễm. Chỉ tự tánh dứt, tuệ thoát khỏi nhiễm. Nghiệp khởi phân biệt cũng tự tánh đoạn. Thuộc tướng tâm sở còn lại cũng đoạn. Thấu đạt chánh pháp, tánh dứt si độn. Đạo hành b́nh đẳng, lực đủ gánh vác. Diệu lý giáo pháp thanh tịnh thù thắng. Hành, giải thiện tịnh diệu dụng khó lường. An nhiên tụ tập (đạt) thanh tịnh như thị.

Thế nào là bản trí chân thật chứng như?

Trí tuệ như thị cùng cảnh tương hợp. Vượt mọi tư duy ngôn từ khái niệm. Tự tánh như vậy, đạt “vô sở đắc”. Hạnh đạt an ổn, thích thú, tự tại. Cõi ý không nhiễm, thân tâm thư thái. Chân thật trong lành, chút bụi không vướng. Phát sinh hướng đến đại bi thường tịch.

Bồ-tát bố thí lực dụng biến khắp, Tôn giả hộ quốc bản sinh nghĩa thứ ba mươi mốt.

Dung mạo vương giả hy hữu, xuất chúng. Truyền dạy muôn loài giữ ǵn gốc đạo. Vật của đời mong, ý không vướng mắc. Đó là tùy thuận thấu đạt Bồ-tát căn bản chân thật, h́nh tướng Thế Tôn. Bệnh hoạn già chết tương khổ, sao gọi trói buộc, oán đối điên đảo khổ não ý sầu tương ứng. Làm sao ĺa bỏ? Chúng sinh thế gian chấp ngã sâu dày. Nguyện lực đại bi chẳng hề xa lánh. Hý luận phiền não, gốc mọi sợ hãi. Lành thay, chúng sinh vui tham không bỏ. Phiền não đói khát, khổ cực khó thoát. Cõi thế lúc nào (có được) hạnh phúc thực sự? Cõi học đổi đời t́m đâu an lạc? Sinh khởi tích tụ hủy hoại diệt vong. Keo tham đói khát, nghèo bệnh khó dứt. Ngã mạn kiêu căng khinh thường mọi vật. Dẫn dắt b́nh đẳng cùng đến chốn an. Phước đức lớn lao tộc họ hòa hợp. Thông tỏ chứa nhóm ứng dụng trong đời. Nhận ra hư ảo chẳng chút chân thật. Tổ tiên tộc họ nối tiếp mà có. Nghèo bệnh, an lạc hai việc chẳng đều. An lành sinh khởi, thắng nghĩa trọn vẹn. Thiện tịnh thuận hợp từ gốc vô úy. Diệu dụng giác ngộ hiển hiện rạng rỡ. Vốn có (từ) vô thỉ, mong cầu nơi nào? Phép tắc tăng trưởng viên mãn tận cùng. Ngọn nguồn lực dụng Như như tự tại. Lực dụng bố thí trừ diệt nhiễm buộc. Hành, giải gồm đủ, h́nh tướng hiện bày. Tu hạnh căn bản, tịnh trụ bất thoái. Vắng lặng tịch tĩnh, giáo hóa thật sự. Mây Từ phủ khắp, ngã mạn đâu còn. Lực dụng tự tánh diệt sạch trói buộc. Nguồn ngọn Như như chuyển biến khắp chốn. Si độn điên đảo, chấp ngã trói buộc. Dốc tu thanh tịnh, dứt điên đảo nhiễm. Thành ấp rộng lớn, sản vật sung mãn. Tịnh diệu thù thắng, hý luận dứt bặt. Dốc theo hạnh thí thế gian thêm ích. Thắng sự an lành, chi phần phong phú. H́nh tướng căn bản tu hạnh hòa hợp. Chủ − khách thuận hợp, tuần tự phát sinh. Đúng nghĩa giải thoát, nghĩa phần đều diệt. Chân thật hữu vô, chuyển đổi bất định. Từ gốc chấp ngã các mạn phát sinh. Hóa độ chân thật, nghĩa lợi vô tận. Dốc tu giác ngộ vật dụng cúng dường. Lực mạnh trói buộc, biển khổ khó ĺa. Đạt đến “kiến đạo”, mọi phân biệt (đều) dứt. Tu hạnh trí tuệ, dứt nẻo luân hồi. Năm uẩn danh sắc cũng đều giải thoát. Cứu cánh quả Phật, nhân phần sung mãn. Bậc Vô Thượng Giác, giáo hóa viên mãn. Nghiệp thiện trải qua ba vô số kiếp. Chút vết tất trừ, mảnh thiện không bỏ. Là bậc Bồ-tát tấn tu căn bản. Thể tánh tự tại, phước đức thù thắng. Cội rễ nhân thắng (là) lực dụng thực sự. Dứt hết tham sân theo hạnh người, trời. Siêng tu bố thí nhân của phước lạc. Giới hạnh trọn vẹn là bậc tôn quý. H́nh tướng lực dụng sung mãn, khiêm cung. An tĩnh, ung dung, bụi nhơ chẳng bợn. Tôn quý đức nghiệp, muôn loài nương tựa. Như mây phủ khắp, các cõi trời, người. Tịch tĩnh vô ngôn thanh tịnh tột bậc. Pháp tịnh thành tựu, thâm diệu chân thật. Thuận theo tham dục mong đạt thắng quả. Tự tánh thông tỏ lực dụng chân thật, đạt “bất khả đắc”, “vô bất khả đắc”. Thông tỏ thanh tịnh ngọn nguồn ái lạc. Nhân thắng thanh tịnh nghĩa (là) không suy giảm. “Bất khả đắc hữu” rõ nẻo “biến kế”. Các pháp hữu vi chẳng dựa duyên, thời (gọi là) “bất khả đắc hữu”. Duyên thời thích hợp là “bất khả đắc vô”. Bậc được tôn quý, phước đức bao trùm là Đại Bồ-tát. Độc dược điên đảo tụ hợp hiện bày. Tu nhân chân thật, dứt trừ ngã mạn. Nương lực tri thiện tự tại tiến tu. Tĩnh trụ an lạc. Xa ĺa các pháp phiền não, cấu nhiễm tinh thô. Dòng thác điên đảo lớp lớp tai nạn khổ đau. Các pháp khế hợp rốt ráo phong phú. Trí giải thông đạt thuận theo biến động. Thắng sự lớp lớp (là) căn bản vô tranh. Các pháp chuyển biến tạo tác b́nh đẳng. Tiến tu h́nh tướng (là) hạnh của tham ái. Tự tánh tu tập (là) nhân tướng thanh tịnh. Sức buộc dấy khắp (là) cội rễ ưu khổ. Bố thí cứu giúp bao kẻ nghèo bệnh. Nhân bỏn sẻn đạt là họa (của) tự tánh. Độc hại bùng dấy, dứt hạnh thanh tịnh. Ngăn buộc đạt được, nơi chốn thuận theo. Ý thức − thức thứ sáu − cầu t́m chân thật. Tạo nhân lớp lớp quyết dứt tham dục. Mười loại hạnh ác lôi cuốn tất cả. Các hạnh bố thí dốc tu rốt ráo. Nhãn căn thông tỏ, tạo nghiệp thù diệu. Phước đức tiến tu cứu giúp bao loài. Pháp thiện phát triển hòa hợp vô ngã. Hành động thực sự phá mọi ngăn che. Thông tỏ chân thật là đường (của) Tập đế.

H́nh tướng buộc che, chướng nhiễm phát sinh. Cõi ý vọng đọng theo các pháp nhiễm. Pháp thể tự tánh chuyển biến viên mãn. Nhớ nghĩ quá khứ theo nhân hành động. Tạo mọi điên đảo (từ) lỗi lầm hý luận. Xứ sở hữu t́nh gốc đầy cấu nhiễm. Cứu cánh bố thí gắng trừ nghiệp dữ. Lực dụng cõi tánh thanh tịnh như vậy. Theo đúng mẫu mực, an lành thù thắng. Phép tắc như thế (là) nơi chốn thanh tịnh. Tự tánh tịch tĩnh (là) đạo hạnh các pháp. Thông tỏ rộng khắp, nghĩa lợi thuận theo. Suy t́m chấp ngã, nơi chốn tận cùng. Tạo nhân thanh tịnh ngọn nguồn hợp nhất. Thắng nghĩa lưu chuyển (là) mong đạt thuận hợp. Lực dụng tịnh diệu, nhân quả biến khắp. Tâm phần sợ sệt (tạo) nghĩ ngợi ưu phiền. Phạm hạnh chư Thiên trùm khắp, viên mãn. Kinh sợ hủy hoại thân phần hữu t́nh. Như mây che khắp, khô cằn nhuần thắm. Nơi chốn an cư, loài loài tươi đẹp. Tu hạnh b́nh đẳng, bố thí rọâng khắp. Dứt trừ (mọi) độc hại khổ não (của) chúng sinh. Đạt được phước báo thù diệu chân thật. Ĺa mọi chướng nhiễm, điên đảo, oán kết. Dẫn dạy tăng lên, công đức tịnh diệu. Hữu t́nh tu tập nhân thắng thanh tịnh. Tu hạnh bố thí trừ chướng keo kiệt. H́nh tướng như mây dứt trừ lửa não. Xa ĺa điên đảo (là) tịnh diệu chân thật. Mẫu mực tự tánh (là) an lạc vô úy. Phước báo sung mãn, chi phần thù diệu. Hành động mong đạt dứt bỏ hý luận. Dốc tu tĩnh trụ, dung mạo thư thái. Ĺa dứt phiền não, bạo lực chẳng sinh, hành động rốt ráo chân thật tận cùng. Tùy thuận trừ diệt điên đảo tham dục. Ĺa bỏ chướng nhiễm, giải thoát sinh tử. H́nh tướng chuyển biến, sát-na thảy sạch. Thông tỏ nơi (tạo) nhân, cảm ứng vô tận. Vô ngã, an tĩnh, thâm diệu viên mãn. Mong đạt thanh tịnh tự tại tận cùng. Tịch tĩnh dứt nhiễm, ý pháp tương hợp. Tự tánh dứt trừ nghĩa lợi hữu lậu. Thế gian muôn loài, là vật ít có. Ẩn giấu không tường, hốt nhiên quên hẳn. Thuận theo chấp ngã, nuối tiếc không rời. Trói buộc nhiều lớp sâu dày khó mở. Độc hại đã sâu. Trăm việc đều bỏ. Tịch tĩnh như vậy phiền não chẳng sinh. Chủ thể thanh tịnh, trí tuệ thông tỏ. Trừ dứt cấu nhiễm, nơi chốn tịch tĩnh. Tạo tác chân thật từ gốc h́nh tướng. Kiêu dật dấy mạnh, nhận thức thuận theo. Phiền não phủ che phát sinh trói buộc. Ý dấy ngã mạn, thắng nghĩa không còn. Tuệ giải tương hợp, dứt hết điên đảo. Bóng ấy (điên đảo) hữu t́nh thật khó ĺa bỏ. Quả báo thiện ác cùng theo cũng thế. Hành, giải như vậy là gốc thanh tịnh. Tịnh thí phát sinh các pháp thâm diệu. Của cải tuy nhiều, chẳng chịu bố thí. Cõi ý xan tham chứa nhóm khó dứt. Thương kính chẳng bày, chủ thể gây tạo. Hành, giải chân thật, lực dụng phát sinh. Nhân thật tự tại, trừ mọi buộc che. Họ hàng không hợp quấy nhiễu tư lợi. Bố thí chúng sinh ái lạc, tuệ, xả.

Thế nào là tu nhân cứu giúp cấp thời?

Lo buồn gặp lúc, tâm ý khó an. Quả báo thọ nhận từ nhân đời trước. Nhận rõ thiện ác ảnh hưởng không ngoa. Là chốn làm sao dứt trừ phiền tạp? Trừ hết hoạn nạn, thấu đạt tận cùng. “Tăng thượng nhân” ấy dứt trừ nghèo, bệnh. Tịch tĩnh đúng thực, lỗi lầm đâu còn.

Bồ-tát giáo hóa rũ lời chỉ dạy. Đói khát như thế rốt ráo chẳng còn.

Thế nào là tự tánh chẳng thích hý luận?

Bỉ ngã b́nh đẳng, nghĩa lợi đều khắp. Nơi chốn chẳng hoại, dứt mọi lưu chuyển. Phạm hạnh thuận hợp (là) cội nguồn thắng nghĩa. Nhân thắng Như như, gốc mọi tự tín. Ba tánh chẳng thường. Trí tuệ chẳng định. Chi “hữu” phát khởi gốc từ tham ái. Tăm tối như vậy tà chánh khó phân. Lực dụng thiện tịnh rõ ràng hiển nhiên. Thanh tịnh thuận hợp, xa ĺa sợ hãi. Thắng nghĩa dứt sợ, tánh như tận cùng. Sắc uẩn dễ nhận, bốn uẩn (kia) khó phân. Nơi chốn chân thật (là) căn bản đạt được. Phiền não cấu nhiễm, hý luận tận cùng. Ngọn nguồn tối thượng (là) bố thí trọn vẹn. Thấu đạt giáo pháp nghĩa lợi khắp cõi. H́nh tướng nghiệp dữ chẳng thể hủy hoại. Tu thí tự tại, tịch tĩnh thuận hợp. Xa ĺa cội nguồn các pháp điên đảo. Thắng nghĩa thuận diệu, sung mãn tận cùng. Diệu lực Phật pháp thông tỏ hữu t́nh. Căn bản phong phú dẫn dắt muôn loài. Gốc tu hạnh thí, tịch tĩnh dốc tu. Tạo tác tự tại, thắng hạnh phát sinh. Tịnh diệu tận cùng ĺa xa độc hại. Lực dụng diệt trừ oán thù trói buộc. Tự tánh thí, xả, phép tắc tịnh diệu. Tu tập chân thật tối thượng tận cùng. Tự tánh hiện bày, vận động, dừng lặng. Phước đức cảm ứng danh sắc, năm uẩn. Phiền não, đói khổ khó thể ĺa bỏ. Khổ độc sinh khởi trói buộc vô tận. Các pháp tâm sở cùng tâm tương hợp. Thực hiện cứu giúp nghèo khó bao loài. Hành, giải khế hợp (là) gốc rễ hạnh thí. Thiện diệu trừ độc, tâm hành an ổn. Thể tánh thanh tịnh như tánh dứt tranh. Thiện diệu tự tại, lực dụng sư tử. H́nh tướng thù thắng sung mãn, đáng yêu. Tiến thoái thích ứng học tập đúng pháp. Tu tập thấu đạt lực dụng tự tin. Hành, giải thắng nghĩa, hạnh thực phát sinh. Bố thí thuận hợp tự tánh an tĩnh. Sắc tướng trong lặng vận động thù diệu. Năng lực tạo tác thế gian ít có. Lớn lao nghiêm đẹp thanh tịnh hơn hẳn. Oan gia khó dứt, theo Phật ắt trừ. Lực dụng thuận hợp thắng nghĩa tự hiện. Căn bản hướng tới tịch tĩnh trọn vẹn. Ngã mạn tận cùng lý lầm khó dứt. Thắng pháp dẫn dắt, lực dụng vượt bậc. Tự tánh thanh tịnh chân lý thuận theo. Tánh phẫn phát khởi, bất thiện bùng đốt, như lửa khó dập. Bày biện cúng dường tịch tĩnh tự tại. Si độn ngã mạn là chốn nhơ đục. Trung gian thuận hợp, cứu cánh đạt được. Tạo tác vô tận, bố thí tự tại. Ngã mạn dấy khắp. Thắng nghĩa chân thật. Tự tại trong lành, hướng đạt thanh tịnh. Bố thí tận cùng khắp mọi nơi chốn. Phạm hạnh dứt trừ độc hại nghiệp dữ. Hạnh mật năng diệt phiền não si độn. Gánh vác căn bản Phật lực hộ tŕ. Rửa sạch cấu nhiễm rốt ráo cùng tột. Tộc loại tu thí phủ khắp như mây. Cội nguồn thanh tịnh chân thật viên mãn. Nhân thắng nghĩa ấy đạt lực “vô úy”. Thịnh trị ẩn tàng an nhiên phát sinh. Theo nhân trong lặng khắp mọi nơi chốn.

Vi diệu sâu xa chính là giải thoát. Gốc muôn loài khởi đó là tự tánh. Kim cương bền chắc năng diệt phiền não. Nguồn ngọn thanh tịnh hợp nhất, xa ĺa. Thắng lực tự tại nghĩa (là) dứt lưu chuyển. Y dứt suy t́m, đạt được tĩnh trụ. Bố thí vô biên dừng mọi tư duy. Tiến tới thích ứng tịch tĩnh hòa hợp. Giải thoát sinh tử (là) dứt sạch phiền não. Vương giả hộ quốc (là) muôn loài yên ổn. Thắng nghĩa sung mãn (là) tịch tĩnh trọn vẹn. Gốc dấy thuận hợp dứt mọi tác dụng. Sao sáng an nhiên (rõ) nghĩa dứt biến chuyển. Thắng sự chẳng mất, thành tựu, tăng trưởng. Căn bản chân thật, việc thêm rạng rỡ. Ĺa bỏ chân lý là nẻo nghiệp dữ. Hạnh đại trí tuệ xua bao (lớp) dối trá.

Chuyển (biến) cho là dứt nỗi lo kẻ ngu. Hành động hăng hái là gốc (của) hữu t́nh. Tu bố thí khắp giáo hóa (hàng) tối tăm. Độc hại trùm khắp hữu t́nh khó bỏ. Ngôn ngữ thâm diệu, chân thật thành tựu. Tiến lui hòa hợp cung kính vô cùng. Thức cùng năm loại, quả báo rõ rệt. Nghiệp thiện (và) bất thiện thân sơ chẳng luận. Điên đảo cấu nhiễm phát sinh thêm dữ. Dốc theo nẻo sáng, cuộc sống an lành. Diệu dụng hóa độ, tự tánh là thực. Gắng tu thiện tịnh xua trừ si độn. Căn bản chỉ dạy (là) khiến thiện phát sinh. Đạt được tĩnh trụ, thắng pháp tự chứng. “Hạnh vị” biến khắp, dần đạt quả Thánh. Tự tánh sáng tỏ lớp lớp thâm diệu. Lực dụng tươi đẹp, rực rỡ thù thắng. Tự tánh đạt được, nhân gốc tự tín. Bản tánh viên mãn, bỉ thử sung mãn. Thanh tịnh thuận hợp, nguồn cội hiện bày. Rõ mọi giả hợp, tánh dứt chấp ngã. Tu hạnh tịnh diệu (là) nhân của thực tại. Gốc luôn thường trụ, tỏ ngộ giải thoát. Phạm hạnh mong đạt, tịch nhiên an trụ. Oan báo đã dứt, nghiêm túc xa ĺa. Kính ngưỡng pháp tạng, nhiệm mầu vi diệu. Giáo pháp thù thắng, hóa độ diệu dụng. Giáo lệnh của vua (là) chốn đầy oai đức. Muôn dân khắp cõi cùng về quy ngưỡng. Pháp lệnh nghiêm minh, muôn loài như một. Thánh đức sửa trị, người vật sung túc. Oán thù tuy có, rốt lại chẳng lo. Hóa độ muôn vật đầy đủ không sót. Khắp mọi nơi chốn đều nương thọ giáo. Nước ấy do đâu tịch tĩnh vô cùng. Bồ-tát mở lời sâu xa quý giá.

Thế nào là nơi chốn thuận hợp hiện bày?

Các pháp khế cơ cứu giúp khắp chốn. Dứt mọi dối trá, đạo hạnh dốc tu. An ổn khắp nơi, muôn người cũng vậy. Giáo hóa hưng thịnh, an lạc vô cùng. Thắng nghĩa dừng lặng, an tĩnh như trời. Thanh tịnh bao trùm, cứu giúp đều khắp. Tu trị b́nh đẳng thảy đều đúng pháp. Hành động phát huy ngày một viên mãn Mọi thứ chướng nạn thảy đều dứt sạch. Thông tỏ ngọn nguồn tộc loại tranh nhiễm. Cõi tâm tự tại, mọi việc hòa hợp. Nghiệp ác đã thành, rất khó chuyển đổi. (ví như) bạn bè đông đảo rất khó xa ĺa. Phiền não tranh quấy sức không dừng nổi. Dứt bỏ tạo nghiệp (ác) thắng hạnh dốc tu. Tu theo Phật pháp, hành hạnh “chỉ tức”. Nương pháp chân tịnh, ĺa chướng, phiền não. H́nh tướng tự tánh thể như hư không. Hư không bao la gồm thâu muôn vật. Gốc pháp vô ngã, thanh tịnh tịch nhiên. Giáo hạnh phát sinh, sâu xa vô tận. Hành động tu học (theo) các pháp tịch tĩnh. Khắp chốn an tĩnh, vô úy như vậy. Dốc tu h́nh tướng (chỉ đạt) điên đảo, nhiễm tranh. Phải nên tu tập thanh tịnh chân thật. Thấu đạt hòa hợp như thể hư không. Thù thắng trùm khắp b́nh đẳng thuận theo. Hành động tùy thuận ba loại bản trí. Một đời hại vật, vương giả sám hối. Tâm đạt đúng cõi, thuận tập thù thắng. Rõ lời bỉ thử, tự tánh thảy ĺa. Thế gian nuôi dưỡng si độn tận cùng. Phạm hạnh thanh tịnh thế gian không mất. Quốc vương đáng yêu mong đạt bố thí. Nghĩa chứa thâm diệu vượt mọi bến bờ. Hay thật chẳng theo, cột chặt với đời. Nhớ nghĩ tử khổ, phải nên ĺa bỏ. Tịch tĩnh như vậy hướng đạt việc thiện. Nên gấp ĺa bỏ khổ não hoạn nạn. Ghi nhớ thuận theo đất nước giàu đẹp.

Thế nào là hạnh Như như phát sinh?

Nơi chốn cấu nhiễm thảy đều thanh tịnh. Nhớ nghĩ dứt trừ các tướng bụi cáu. Ngọn nguồn tịch tĩnh hoạt động như vậy. Trượng phu thảy đều dứt bỏ hý luận. Muôn dân vui hòa thế gian an tĩnh. Thư thái, an lạc gắn bó với đạo. Cội nguồn thắng nghĩa tận cùng là thế.

Bồ-tát hành thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh nghĩa thứ ba mươi hai.

Gánh vác chân thật, thù thắng tận cùng. Tự tánh thanh tịnh (là) ngọn nguồn (mọi) h́nh tướng. Lực dụng theo nhân, quả đạt nhiều loại. Đó là tùy thuận thấu đạt hành tướng Bồ-tát.

Thù thắng thuận hợp khắp mọi nơi chốn. Lực dụng dứt buộc phát sinh trọn đủ. Cội nguồn hành động (là) hành không chuyển biến. Nhân tịnh chẳng sinh, h́nh tướng khó đạt. Phải nên nhớ nghĩ nhận rõ phiền não. Nhân pháp sinh khởi, cứu cánh hiện bày. Ĺa mọi chướng ngại. Giáo pháp thanh tịnh, thức tánh thuận theo. Tự tánh thông tỏ (là) lực dụng trí tuệ. Cội rễ (mọi) biến chuyển, bố thí làm đầu. Tâm hành thương dẫn, tự tánh thù thắng. Tạo nghiệp thanh tịnh (là) lực của tự tại. Đó là lực dụng chân thật, tánh như (là) “bất sinh”, dốc tu thiện hạnh. Tư duy nghiệp thiện (dứt) phiền não trói buộc. Phật-đà dạy rõ: Quả báo luôn tăng. Nhận thức thấu đáo. Bỉ, thử thắng hạnh. Nhớ nghĩ Phật pháp tạo nghiệp thanh tịnh. Cõi, loài nhận rõ các pháp trói buộc. Nghiệp ác tạo thật, quả dữ đâu sai. Nhớ nghĩ lời Phật (dạy) sao chẳng từ bỏ? Tịnh diệu chân thật, nẻo đến tất rõ. Chân lý hiện rõ (là) nơi chốn “bất sinh”. H́nh tướng thanh tịnh bất động như núi. Quả khổ dấy lên, Mạt-na cùng sinh. Chỗ nương thuận theo. Rõ nghĩa tương hỗ. Dòng thác nhiễm tánh cùng ý thức hợp. Sinh theo thứ lớp, nhận báo tổng − biệt. Nhân gốc mong đạt tạo tác vô, tĩnh. Mười nẻo thiện riêng thành ra trăm loại. Giáo hóa tu thí nhiều kiếp lâu dài. Lực dụng thiện tịnh xa ĺa nhiễm buộc. Gốc sinh tạo tác không nhân chẳng thành. Như như thêm rõ (là) thực tại chân thật. Thân tướng thiện diệu nhớ nghĩ bao la. Tịch tĩnh hiện rõ, dứt, nghĩ không dừng. Thiền định thanh tịnh, tự tại hiển hiện. Bậc đại hữu t́nh dốc tâm thực hành. Tự tánh gốc tu, năng lực thù thắng. Tự tại tăng trưởng (là) nơi nương (của) h́nh tướng. Thắng nghĩa vô úy (là) an tĩnh viên mãn. Diệu dụng nhĩ căn (là) nơi chốn vô ngại. Tĩnh trụ bao la trong lặng hiện bày. Thanh tịnh phát huy, dứt mọi gốc sợ. Phật đạo giải thoát dứt sạch si độn. Hành thí chẳng mất, tạo tác chuyển bền. Hòa hợp chẳng quên, năng lực ghi nhớ. Đạo hạnh phát sinh, thanh tịnh tối thượng. Nhân thắng biến chuyển (là) h́nh bóng thượng diệu. Hóa độ b́nh đẳng, thường tịnh thuận hợp. Bố thí tịnh diệu, an ổn khắp chốn. Công hạnh nhân thắng khắp chốn đều đạt. Tu tập thuận theo các hạnh Bồ-tát. Hành thí vô biên khắp cõi chúng sinh. Rõ lợi thắng diệu tôn quý vô úy. Ở nơi vô ngã yêu kính trong lặng. Năng lực tự tánh hành hạnh bất thoái. Thấu đạt cùng tận, ĺa mọi hữu vô. Quả khổ không mất, chân thật phát sinh. H́nh tướng vốn không, an tĩnh, yên định. Tự tánh trong lặng quả đạt viên mãn. Bản trí b́nh đẳng, sự lý gồm đủ. Niết-bàn mong đạt, lợi lạc sung mãn. Tận cùng chẳng mất (th́) ngã mạn chẳng sinh. Bản trí tịch tĩnh thuận theo gốc cũ. Tạo tác trọn vẹn, lực dụng thanh tịnh. Gốc sinh điên đảo nơi chốn tăng thêm. Tu tập bố thí, vô hữu đúng phần. Lực dụng tự tánh tịnh diệu thù thắng. Nhân tu phạm hạnh phước báo cõi trời. Binh mạnh tịnh diệu, diệt trừ phiền não. Tự tánh chẳng mất (như) kim cương năng dứt (tất cả phiền não). Tu thí thanh tịnh mong diệt si độn. Dốc tu như vậy, hạnh đạt cứu cánh. Chân thật dứt nhiễm (là) nơi chốn b́nh đẳng. Lực dụng gồm đủ, tăng trưởng (thiện) xa ĺa (ác). Tu tập thù thắng (là) cứu cánh tự tánh.

Thế nào là đạt được gốc thật tịnh diệu?

Lực dụng hiện hành, cõi ngã chẳng tăng. Thanh tịnh tự tại, dứt sạch nhiễm ác.

Thế nào là chẳng tu tạo đền đài?

Quả báo chẳng tinh, nghèo đói nhận chịu. Lưu chuyển chẳng bền, đổi dời rơi rụng. Đức hạnh gắng đạt, an lạc thuận theo. Thân thể chi phần nguyên vẹn không mất. Phước đức không bỏ, quả báo trọn nên. Là chốn Bồ-tát an tĩnh dẫn dạy. Chân thật tự tại, thể tánh “vô cầu”. Chủ thể vô úy: tối thắng vô tận. Tự tánh chẳng mất, lực dụng phát sinh. Tu hạnh đàn-na, công dụng đầy đủ. Tất cả đó là theo hạnh Bồ-tát. Phạm hạnh an trụ (là) gốc của “vô tu”. Trói buộc, họa, nạn, tĩnh lặng dứt sạch. Thượng diệu tiến tu, quả Phật mong đạt. Tâm hưng lực đủ, tinh tấn như vậy. Ĺa nhiễm đạt được viên mãn tận cùng. Xa ĺa che buộc, đức hạnh thuận hợp. H́nh tướng xem xét, thắng lực gắng tu. Điên đảo hợp phần, đạo hạnh thiếu vắng. Ái lạc khế hợp, đâu phải hư bày. Nêu rõ hữu vô, đúng (là) mưa pháp lớn. Cứu cánh tối thượng (là) ĺa hết các pháp. Thắng thiện dứt tranh thuận theo sở cầu. Cội rễ không bày, chỉ theo cành, ngọn. Thánh nhân rũ (lòng) dạy, việc nêu khế hợp. Phiền não che buộc là hạnh hữu lậu. Cấu nhiễm biến khắp đều không thể được. Hạnh bậc Trượng phu (thuộc) chủng tộc thù thắng. Thường tịch, an định, vượt mọi ngôn từ. Ǵn giữ tâm thường (như) châu báu chẳng hoại. Tánh vốn lưu chuyển, dứt mọi tác dụng. Trí giải tỏ ngộ tánh vốn Như như. Tu nhân ảnh hưởng nghiệp báu như vậy. Bồ-tát từ bi dốc lời chỉ dạy. Nhận rõ chân thật dắt dẫn mọi nẻo. Lực dụng thanh tịnh, cấu nhiễm không thể (dấy). Khắp chốn an lạc không thể so, ví. Thắng nghĩa thanh tịnh (là) tự tánh hiện bày. Sám hối trọn nên, thanh tịnh như trời. Ngôn thuyết ĺa (mọi) tướng thắng nghĩa, cấu nhiễm. Ngọn nguồn thắng dụng là “bất khả thuyết”. Tự tánh của ngã cũng “bất khả thuyết”. “Bản sinh” thường nghĩa là nghĩa chân thật. Mọi tạo tác ấy, hạnh đạt tùy thuận. Ngã kiến suy t́m là hành điên đảo. Dòng thác nhiễm hiện, phân biệt cùng sinh. Ngôn ngữ tịch tĩnh, gánh vác đích thực. Hành theo thanh tịnh, rõ nghĩa hữu t́nh. Hóa độ muôn loài vượt qua sinh tử. Lành thay thực hiện, trừ dứt nghèo khổ. Năng lực thâm diệu vượt quá ngôn từ. Mọi ái lạc ấy ngôn thuyết thêm rõ. Nơi chốn tịch tĩnh (là điều) mong muốn không dừng. Tâm dụng thù thắng, bố thí đều khắp. Thân phần tươi đẹp, nơi chốn thuận hợp. Thánh lực ung dung (là) thắng nghĩa “vô úy”. Tánh ấy thanh tịnh là sự vô cấu. Lực dụng hành giải (là) các pháp biến khắp. Tự tánh giảm sút, b́nh đẳng chẳng thành. Giới đức năng trừ sạch mọi cấu nhiễm. Đức hạnh cõi trời quý trọng chân thật. Quả báo cõi ác cũng đều không dối. Nghiệp thiện (và) bất thiện (nghiệp) công lực như nhau. Hạnh nhẫn thế nào, khổ nhọc không thoái? Gặp cảnh trái ngang, trí bền không khuất. Nóng lạnh bức bách an nhiên chịu đựng. Hạnh của phàm phu (th́) phơi bày hiện rõ. H́nh tướng trí tuệ tạo tác thanh tịnh. Cõi ác lại hiện, quả báo nhận đủ.

Bồ-tát hành thí, Tôn giả Trang Nghiêm hôï quốc bản sinh nghĩa thứ ba mươi ba.

Dòng thác điên đảo (là) nhân sinh (ra) ngã mạn. Đó là phần gốc (của) ý thức − thức thứ sáu. Bồ-tát làm sao hợp phần lâu dài. Muốn chứng quả lớn, nhân ít khó thành. Tu vạn hạnh nhân đạt quả vô biên. Bồ-đề, Niết-bàn không thể nghĩ bàn. Tu hạnh tinh tấn, đại bi viên mãn.

Thế nào là hợp phần?

Chướng ngại tinh thô như (cõi) không khó ĺa. Ba “căn bản trí”, tám “hậu đắc trí” mới (có thể) dứt trừ, đạt quả tự tại. Pháp, Báo, Hóa thân hành giải đầy đủ. Giáo pháp thanh tịnh (là) gốc mọi lực dụng. Quả vị Thanh văn (đạt) thắng nghĩa chân thật. Tánh định “trọn vẹn” thân trí tịch diệt. Tánh trở về tâm, vào thân chuyển biến. Thuận theo Đại thừa đạt quả vị Phật. Phật pháp phạm hạnh hóa độ viên mãn. Bậc đại hữu t́nh tự − tha lợi trọn. Nơi thân hữu t́nh Phật tánh gồm đủ. (Dù là) hạng phàm hoặc Thánh, thượng trí hạ căn (cũng đều có) tự tánh chung ấy muôn kiếp thường tại. Là cõi tâm − pháp thiện không thể mất. Nên muốn tùy thuận theo bậc Đại nhân, b́nh đẳng cứu giúp đều khắp mọi cõi. Đạt hạnh tinh tấn gánh vác thù thắng. Tánh bị che buộc, gốc từ chấp ngã. Nơi chốn xóm làng yên tĩnh, hòa thuận. Không hạnh thanh tịnh, cấu nhiễm lây tràn. Bi nguyện độ dẫn (là) nơi chốn b́nh đẳng. Cõi ý viên mãn hết lòng lợi vật. Vua trong một nước lời lành dẫn dạy. Dân chúng khắp cõi thuận theo như gió. Lực dụng quốc chủ tùy thuận thù thắng. Tự tại đích thực thanh tịnh tận cùng. Nơi chốn tạo tác nghiêm đẹp hơn hẳn. Hành, giải gồm đủ, thân tâm khinh an. Tự tánh hiện bày nhân thắng sung mãn. Phiền não (ở) cõi trời tạo nên sát hại. Lực dụng bạn lành (là) Ba thừa dẫn dắt. Cứu cánh tự tánh chân thật an lạc. Như sư tử vương uy nghi tự tin. Mong đạt lãnh hội hành giải đầy đủ. Tự tánh thanh tịnh là nghĩa giải thoát. Lực dụng gốc tánh (tạo) h́nh tướng phong phú. Tâm trong chẳng xao (là) tĩnh mặc vô tưởng. Oan gia xưa cũ tiếp xúc hiện tiền. Dốc tu thắng thiện ĺa bỏ bạo nạn. Do từ nợ (kiếp) trước, phước tội nặng nhẹ. Chi phần oan gia, hữu t́nh tự khởi. Tự tánh thông tỏ, dứt trừ phiền não. Phải nhờ tha lực. Hý luận dấy càn tạo tác độc hại. Ngôn thuyết từ gốc chuyển phần tăng trưởng. Diệu lực tự tại đạt “bất khả đắc”. Chân thật Như như dứt mọi tạo nghiệp. Bồ-tát hành hóa không cầu phước báo. H́nh tướng thuận hợp, b́nh đẳng phát huy. Tu tập căn bản tịch tĩnh thắng diệu. Phiền tạp hý luận trói buộc khắp chốn. Tự tại đúng phần (là) nơi chốn an tĩnh. H́nh tướng thù thắng gốc mọi chuyển biển. Tịch tĩnh hướng đạt (là) nơi che (cho) hành động. Thảy đều chân thật dứt sạch độc hại. Hý luận phát khởi, từ gốc si độn. Nhân thắng phước tăng thảy được thuận hợp. Từ chốn tĩnh lặng, thực hiện đều khắp. Nhân tịnh hòa hợp nảy nở mọi cõi. B́nh đẳng thành tựu, thông tỏ hiện bày. Dứt tham, sân, si, (là sự) thực hành tột bậc. Khổ thọ chuyển biến, trí tuệ tăng trưởng. Tự tánh an tĩnh, ái lạc hiện bày. Nơi của bố thí, nghiệp báo chẳng sai. Thông tỏ nghĩa “như” (là) tự tánh vô ngã. Cứu cánh khế hợp thanh tịnh như (hư) không. Thiền định tịch tĩnh diệt hết khổ não. Tự tánh thông tỏ, thân tâm an định. Mong (tạo) nghiệp thù thắng (đạt) ái lạc thượng diệu. Hành, giải nương theo thanh tịnh an lạc. Thể bậc Bồ-tát vui hòa đầm ấm. B́nh đẳng tột bậc (là) thắng nghĩa an tĩnh. Ngôn ngữ mật hạnh diệu dụng khó bàn. Tánh như khế hợp chân thật đáng quý. Là chốn dốc tu, lực dụng tăng trưởng. Thù thắng phát sinh.

Thế nào là bản tánh vô cùng tôn kính?

Mới sinh liền đủ, thảy đều trọn vẹn, thật tánh đều khắp, thể có hơn kém. Thông tỏ chân thật, tạo nhân ắt đạt. Thể tánh thượng diệu nơi người thù thắng. Lui tiến xác định, mười phần sáng tỏ. Chỗ dùng b́nh đẳng gốc mọi hành thí. Các hạnh phát sinh mười loại giới nhẫn.

Ý lạc tịch tĩnh, tạo tác chân thật. Tĩnh trụ không bày, vọng nhiễm dấy khởi. Đạt “bất khả đắc” (tức là) dứt mọi h́nh tướng. Cõi tánh đạt được thân tướng thuận theo. Nương tựa tịch tĩnh, dứt mọi biến động. Chuyển biến thảy dừng, hữu vô đều vượt. Hành tướng chân ngôn “Bất khả tư nghị”. Công đức tŕ giới là nhân tôn quý. Diệu lực thiền định (là) đường vào Phật quả. Hòa hợp b́nh đẳng, xa ĺa tạo nghiệp. Trói buộc cũng trừ. Là chốn Bồ-tát hết lời ca ngợi. Tịnh hạnh giáo hóa thông tỏ thù thắng. Nguồn ngọn tận cùng đều “bất khả đắc”. Hành tướng trí tuệ thông tỏ chân thật. Lực dụng phước đức biến khắp mọi chốn. Lực dụng thắng nghĩa, công của Thiên đế. Là chốn tu tập h́nh bóng b́nh đẳng. Tụ tánh hướng đạt phước lộc sung mãn. Cõi ý thanh tịnh (là) gốc mọi phạm hạnh. Cứu cánh thuận hợp tăng trưởng viên mãn. Tâm hành bố thí, thắng nghĩa phát sinh. H́nh tướng tịnh diệu đời khen ít có. Tu hạnh Bồ-tát mọi người chiêm ngưỡng. Mẹ hiền tự tại, h́nh tướng phát huy. Bố thí tịch tĩnh, nguồn ngọn như (hư) không. Nghiệp dữ phát sinh, diệu lực năng trị, khế hợp như vậy. Ý đạt thanh tịnh, thảy đều chân thật. Chân chánh tu tập (đạt) trí tuệ giải thoát. Là chốn Bồ-tát dứt sạch khổ quả. Vượt mọi thí dụ. Diệt hết phiền não, trói buộc năm uẩn. Tu hạnh thanh tịnh. Danh sắc năm uẩn thu giữ tất cả. Dứt chướng phiền não (cùng) dòng thác tranh, nhiễm. Tự tánh phát sinh tu hạnh tịch tĩnh. Là chốn hóa độ bố thí tăng thêm, trí tuệ phát sinh. Gốc sạch nhiễm buộc, đúng phần thuận hợp. Cõi trời tịch tĩnh tạo tác chân thật. Lực dụng căn bản (là) tịnh diệu dứt cấu. (Cùng) ngã chấp, hoặc gốc, độn nhiễm, tham si. Trói buộc gắng diệt, quyết đạt tự tại. Lực dụng bố thí, h́nh tướng mong đạt. Thắng nghĩa phước báo sung mãn, khác thường. H́nh tướng thanh tịnh (là) nơi chốn tĩnh lặng. Nhân thắng chân thật rõ nghĩa hành giải. Là cõi Bồ-tát dứt nghiệp si độn. Thuận theo sinh tử dẫn dắt muôn loài. Cõi trời, hữu t́nh nên nhân thuận hợp. Bậc Thánh hành động dốc thập nghiệp thiện. Hành hóa “vô tướng” đạt nghĩa hòa hợp. Tu hạnh thắng diệu dứt nẻo chuyển lưu. Thù thắng phát sinh, tịch tĩnh sung mãn. Tự tại thù thắng, (vượt) chấp tướng bỉ ngã. Tự tánh chân thật (dứt mọi) điên đảo che buộc. Phật tánh Như như, bản trí thuận hợp. “Hậu đắc” duyên như, “biến ảnh” đạt được. Nhân quả khác chỗ dù thân hay không. Pháp tánh viên mãn nguồn ngọn như thế. Hữu vi gọi (là) Tạng, vô vi (gọi) là Pháp thân. Hành động tận cùng, chuyên đạt “pháp thể”. Tùy thuận hiện bày, tái hiện, ĺa bỏ. Hành thí “vô úy” nghĩa lợi phát sinh. H́nh tướng xưa nay phát khởi tạo tác. Bố thí phân biệt, tâm thắng chẳng theo. Ruộng phước chân thật, thù thắng vô tướng. Bản tánh bố thí dứt sạch mọi tướng. Gốc là vô tánh, chẳng thể tự cầu. Xa ĺa tham dục (đạt) thanh tịnh tối thắng. Đạo hạnh thắng diệu an lành tận cùng. Tánh như mong đạt ngộ “bất khả đắc”. T́m vào cửa chân (là) “vô khả”, “vô bất khả”. Tự tánh diễn lời nương danh − cú − văn. Danh − cú – văn giả (hợp) “ngôn thuyên” nào thật. Cội nguồn là “bất sinh”, dưỡng nuôi hành giải. Là cõi thường tịch, an tĩnh không hoại. Trời, người thanh tịnh, dứt hết kinh sợ. Lành thay tự tánh, phong phú chẳng hư. Chân thật tối thượng hiện bày thuận hợp. H́nh tướng thuận hòa, tánh tịnh viên mãn. Lực dụng bố thí, gốc mọi phước đức. Nhân của mẹ hiền, tộc vọng là chính. Mong đạt tịch tĩnh, phiền não chẳng sinh. Bỉ thử thù thắng lại thêm kính hợp. Nhân duyên phước đức nơi cõi trời ấy. Lành thay tự tánh thuận hợp tròn đầy! Thông tỏ tánh uẩn, thật tướng sinh khởi. Thắng nghĩa phát sinh dứt tướng biến chuyển. Sám hối như vậy diệt hết lỗi lầm. Phiền não chồng chất sự − lý mê chấp. Lợi độn thông tỏ phẩm số trên hết. Như vậy căn − tùy (phiền não) phân biệt cùng sinh. Nơi chốn, thời, đoạn, luận bàn đã rõ. Thứ lớp pháp số, thắng lực hướng đạt. Hiền thiện viên mãn, chân thật tu tập. Tu tập hiền thiện ngọn nguồn như vậy. Vi diệu sâu xa là hạnh căn bản. 

Bồ-tát hành thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh nghĩa thứ ba mươi bốn.

Đó là Bồ-tát tu hành thắng hạnh.

Hết Quyển 16

 

 

 


-- --MỤC-LỤC-- --

-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Uploaded / Updated on 2024-10-14

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0