Số 0081
PHẬT NÓI KINH
PHÂN BIỆT THIỆN ÁC BÁO ỨNG
Hán dịch: Đời Tống, Tây thiên Trung Ấn Độ, Sa môn Thiên Tức Tai phụng chiếu
Việt dịch: Thích Chánh Lạc
---o0o---
Quyển Thượng
Tôi nghe như vầy:
Một thời Thế tôn ở vườn ông Cấp cô độc, rừng cây ông Kỳ đà, nước Xá vệ. Bấy giờ đức Thế tôn đúng giờ ăn, ôm bát mang y vào thành Xá vệ, thứ lớp khất thực. ngài đi đến nhà của trưởng giả Đâu-nễ-dă-tử Du-ca, đứng ở ngoài cửa. Bấy giờ trưởng giả Du ca có một con chó tên là Thương khư, nó thường đứng giữ cửa. Khi ấy trưởng giả thường dùng bát đồng đựng đầy đồ ăn ngon cho Thương khư ăn. Con chó thấy đức Thế tôn nó liền sân hận và sủa. Bấy giờ đức Thế tôn nói với con Thương khư:
–Ngươi do chưa biết tỉnh ngộ nên thấy ta mới sủa.
Ngài nói như vậy xong, con Thương khư chuyển từ ác tâm sanh ra sân hận, nó bỏ chỗ trước, đi đến ở dưới ṭa chiên đàn. Khi ấy trưởng giả Du ca đi ra khỏi nhà, ở ngoài cửa, thấy con chó ở dưới ṭa chiên đàn, trưởng giả hỏi:
–Người nào làm ngươi tức giận?
Con Thương khư im lặng. Bấy giờ trưởng giả Du ca lại hỏi:
–Này hiền tử, người nào làm Thương khư tức giận?
Thưa rằng:
–Sa môn Cù đàm đă đến đây, đứng ở trước cửa, con thấy rồi sủa, sa môn Cù đàm ấy nói như vầy: “Do ngươi chưa ngộ nên nay mới sủa”. Con nghe lời nói ấy rồi, tâm liền tức giận, đứng dậy bỏ chỗ ở cũ, đi đến ở dưới ṭa chiên đàn.
Bấy giờ Du ca nghe lời nói ấy rồi, hết sức tức giận, đi ra khỏi thành Xá vệ, đi đến vườn ông Cấp cô độc, rừng cây ông Kỳ-đà. Khi ấy đức Thế tôn cùng vô lượng trăm ngàn chư tỳ kheo trước sau đoanh vây ở ṭa của ngài để nghe thuyết pháp. Bấy giờ đức Thế tôn từ xa trông thấy trưởng giả Du ca đi lại, bảo các tỳ kheo rằng:
–Các ngươi có thấy Du ca trưởng giả từ xa đi đến chăng?
Các tỳ kheo thưa:
–Thưa vâng, chúng con đă thấy.
Đức Thế tôn bảo:
–Người con của trưởng giả này đang có tâm sân hận đối với đức Phật, sau khi mạng chung sẽ đọa vào trong địa ngục lớn nhanh như tên bắn vậy. V́ sao? V́ phân biệt kế chấp hư vọng, ta người, khởi ra phiền năo sân, hủy báng đức Phật, nó sẽ đọa vào các ác thú, thọ vô lượng khổ. Nó lại c̣n sanh tâm khinh mạn đối với ta, cũng như đối với tất cả chúng sanh.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo các tỳ kheo bằng bài kệ rằng:
“ Khởi ác tâm với Phật
Hủy báng, sanh khinh mạn
Vào trong địa ngục lớn
Thọ khổ vô cùng tận
Có các loại hữu t́nh
Với Đạo sư, tỳ kheo
Tạm thời sanh ác tâm
Mạng chung đọa địa ngục
Nếu đối với Như lai
Đều đọa trong ác đạo
Khởi tâm đại sân hận
Măi luân hồi thọ khổ”.
Bấy giờ Đâu nễ dă tử đi đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ dưới chân Phật, ở trước đức Thế tôn nói lên những lời nhu hoà, thiện tùy thuận, xưng tán đức Như -Lai. Nói như vậy rồi đứng qua một bên, bạch Thế tôn rằng:
–Thưa Thế tôn! Do nhân duyên ǵ mà ngài đến nhà tôi?
Đức Phật bảo trưởng giả Du ca rằng:
–Đă đúng giờ ăn, ta bèn mang y cầm bát vào thành Xá vệ, thứ lớp khất thực, cho đến nhà của ngươi th́ ta đứng nơi cửa. Bấy giờ con Thương khư đang đứng ở trước cửa, từ từ ăn đồ ăn đựng trong bát bằng đồng. Thương khư thấy ta đang đứng nơi cửa, mới thấy nó liền sủa, ta nói: “ Này Thương khư, do ngươi chưa ngộ, cớ ǵ mới thấy ta liền sủa?!”. Con chó nghe lời ấy liền sanh tâm sân hận, đi đến chỗ khác.
Bấy giờ trưởng giả bạch đức Thế tôn rằng:
–Con chó Thương khư này không biết kiếp trước nó như thế nào, cúi mong đức Phật diễn thuyết cho.
Đức Phật bảo:
–Thôi đi, đừng hỏi việc này. Nếu ngươi nghe việc này càng thêm ảo năo, không thể chịu nổi đâu.
Trưởng giả Du ca ba lần thưa đức Phật như vầy:
–Cúi mong đức Phật diễn thuyết việc này cho con, con rất muốn nghe.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo trưởng giả rằng:
–Nay ngươi hăy lắng nghe và khéo nhớ nghĩ, ta sẽ phân biệt, diễn thuyết cho nghe. Con chó ấy chính là thân của Đâu nễ dă, cha của ngươi đó. Ở trong đời quá khứ vọng chấp thân này, vô ngă chấp là ngă, xan tham, tật đố, không chịu bố thí, tham tiếc tiền của, không tin tam bảo, cho nên phải đọa vào loài súc sanh vậy. Nay con chó Thương khư này chính là cha của trưởng giả.
Trưởng giả Du ca lại bạch đức Thế tôn:
–Cha của con là Đâu nễ dă những ngày c̣n sống thường hay bố thí, thờ cúng thiên hỏa và các quỉ thần, như vậy thân của cha con nhất định phải được sanh lên trời Phạm, hưởng sự giàu có, sung sướng, v́ cớ ǵ lại đọa vào trong loài súc sanh vậy? Điều này thật khó tin!
Đức Phật bảo trưởng giả:
–Cha của ngươi là Đâu nễ dă, do sự phân biệt này vọng sanh kế chấp, không hành huệ xả, không tin Tam bảo, do nhơn duyên ấy phải đọa vào loài chó vậy.
Ngài lại bảo:
–Nay ta đă nói sợ ngươi không tin, vậy ngươi hăy trở về nhà hỏi con Thương khư (th́ rơ).
Bấy giờ trưởng giả chào đức Phật rồi trở về nhà. Đến nhà rồi, bảo con chó:
–Này Thương khư! Ngươi nếu thật là cha của ta tên là Đâu nễ dă, th́ này chó, ngươi hăy ngồi lên ṭa chiên đàn đi!
Trưởng giả lại nói.
–Này Thương khư! Nếu ngươi thật là cha của ta tên là Đâu nễ dă th́ hăy đến mâm đồng ăn món thịt này đi!
Sau khi con Khương khư ăn xong, trưởng giả lại bảo:
–Nếu ngươi thật là cha của ta, tên là Đâu nễ dă, vậy làm sao hăy hiển bày điều kỳ dị đi!
Bấy giờ con Thương khư nghe lời nói ấy rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ cũ, lấy mũi ngửi đất ở dưới ṭa chiên đàn, dùng chân bươi ra một cái hũ, bên trong chứa đầy b́nh bằng vàng, mâm bằng vàng và các loại tạp khí. Khi ấy trưởng giả Du ca thấy các thứ kim ngân châu báu hy hữu này liền sung sướng nhảy nhót, yêu thích những đồ được cất giấu này. Bấy giờ trưởng giả đi ra khỏi thành Xá vệ, đến chỗ đức Phật một ḷng quy y.
Khi ấy đức Thế tôn cùng vô lượng trăm ngàn chúng tỳ kheo ở trước ṭa đang thuyết pháp. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các tỳ kheo:
–Các ngươi có thấy trưởng gia Anh Vơ, con của Đâu nễ dă từ xa đi đến không?
Các tỳ kheo thưa:
–Thưa vâng, chúng con đă thấy.
Đức Phật nói:
–Này tỳ kheo, nay trưởng giả này nếu thân ta mạng chung th́ như buông gánh nặng xuống, liền sanh lên trời, do v́ người ấy đang hoan hỷ, phấn khởi, phát tâm chân thật đối với ta, cho nên được quả báo như vậy.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo các tỳ kheo mà nói tụng rằng:
“Đây là một hữu t́nh
Phát tâm muốn thấy ta
Mạng chung sanh lên trời
Như buông xả gánh nặng
Đối với Thầy thuyết pháp
Như Lai và tỳ kheo
Tạm thời tâm hoan hỷ
Quả báo cũng như vậy”
Bấy giờ đức Thế tôn đă nói kệ này rồi, khi ấy trưởng giả Du ca đi đến chỗ đức Phật, Đầu mặt lạy dưới chân ngài, vô cùng hoan hỷ, hết lời xưng tán, khen ngợi là điều chưa từng có. Nói như vậy xong, ông đứng qua một bên. Bấy giờ đức Thế tôn bảo Du ca rằng:
–Con chó Thương khư này quả thật là cha của ngươi?
Trưởng giả thưa:
–Đúng vậy, Thưa Thế tôn, như lời đức Phật đă nói chân thật không hư dối, tất cả những điều nghi hoặc của con đều đă đoạn trừ.
Khi ấy trưởng giả Du ca thưa đức Thế tôn rằng:
–Tất cả loài hữu t́nh chết yểu, sống lâu, có bệnh, không bệnh đoan nghiêm, xấu xí, sanh nhà hào quư, đê tiện, thông minh, ngu độn, mềm mại, thô lỗ... Các việc ấy không giống nhau. Vậy nhân quả thiện ác báo ứng như thế nào?.
Đức Phật bảo Du ca trưởng giả tử rằng:
–Lành thay! Lành thay! Ngươi hăy lắng nghe và khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho: Tất cả hữu t́nh tạo nghiệp, tu nhân thiện ác không giống nhau, cho nên mới có sự báo ứng sang hèn, trên dưới, chủng tộc cao, thấp, sai biệt khác nhau. Nay ta lược nói những việc như vậy. Nếu phân biệt rộng răi th́ nghĩa ấy hết sức thâm sâu.
Bấy giờ trưởng giả lại thưa đức Phật rằng:
–Cúi mong đức Phật diễn thuyết cho con nghe!
Bấy giờ đức Phật bảo trưởng giả rằng:
–Ngươi hăy lắng nghe! Tất cả hữu t́nh tạo các thứ nghiệp, khởi ra các thứ hoặc. Nghiệp của chúng sanh có đen có trắng quả báo phân ra có thiện có ác. Hắc nghiệp thọ quả báo nơi tam đồ, bạch nghiệp nhất định cảm quả báo nhân thiên. Lại nữa, nghiệp có phân hạng, mạng sống có ngắn dài. Lại nữa, bổ đặc già la có nghiệp, nhiều bệnh, ít bệnh, đoan nghiêm, xấu xí, hoặc lại có nghiệp bổ đặc già la, Phú quư, bần cùng, thông minh trí huệ, căn cơ đần độn, ngu si ám muội, hoặc lại có nghiệp bổ đặc già la, sanh ba đường ác, hoặc lại có nghiệp sanh ở dục giới, nhân thiên, cho đến trời Hữu đảnh, hoặc lại có nghiệp bổ đặc già la đi xa và gần, hoặc lại có nghiệp bổ đặc già la mong cầu không toại, hoặc lại có nghiệp không cầu mà tự đến, hoặc lại có nghiệp bổ đặc già la thành tựu khó hay dễ, thành công hay không thành công, hoặc lại có nghiệp bổ đặc già la thọ mạng viên măn ở trong địa ngục hay yểu mạng, nhẹ nặng không đồng, hoặc lại có nghiệp bổ đặc già la phú quư bần cùng, hoặc trước hoặc sau không nhất định, hoặc lại có nghiệp bổ đặc già la phú quư bần cùng ưa thích bố thí hay keo kiết không nhất định, hoặc lại có nghiệp bổ đặc già la thọ mạng dài ngắn không nhất định, hoặc lại có nghiệp bổ đặc già la thân tâm vui vẻ hay bị khổ năo không nhất định, hoặc lại có nghiệp bổ đặc già la h́nh dáng đoan nghiêm, sáng mát đáng yêu, hay bị xấu xí, thô lỗ, đáng ghét, hoặc lại có nghiệp bổ đặc già la các căn đầy đủ hay không đầy đủ.
Bấy giờ đức Phật bảo con của trưởng giả rằng:
-Có mười thiện nghiệp cần phải tu tập, c̣n mười ác nghiệp ngươi hăy nên đoạn trừ.
Bấy giờ trưởng giả bạch đức Phật:
–Thưa Thế tôn, hữu t́nh bị chết yểu là do nghiệp ǵ mà bị như vậy?
Đức Phật bảo con của trưởng giả rằng:
–Do sát sanh nên bị như vậy.
Lại nữa, nghiệp sát có mười loại:
1. Tự tay giết.
2. Khuyên người khác giết.
3. Thấy giết th́ hoan hỷ.
4. Tùy hỷ việc giết.
5. Giết bào thai.
6. Khuyên trục thai cho chết.
7. Oán thù mà giết.
8. Giết bằng cách đoạn nam căn.
9. Bằng phương tiện giết.
10. Sai người giết.
Mười thứ như vậy đưa đến quả báo chết yểu.
Lại nghiệp như thế nào mà được quả báo trường thọ? Có mười loại nghiệp. Những ǵ là mười?:
1. Xa ĺa việc tự tay giết.
2. Xa ĺa việc khuyên bảo người giết.
3. Xa ĺa sự hoan hỷ khi (thấy) giết.
4. Xa ĺa việc tùy hỷ giết.
5. Cứu người h́nh ngục bị giết.
6. Phóng sanh mạng.
7. Bố thí sự không sợ cho kẻ khác.
8. Thương xót vỗ về người bệnh.
9. Bố thí đồ ăn uống.
10. Cúng dường tràng phan, đèn đuốc.
Mười nghiệp như vậy đưa đến quả báo trường thọ.
Lại nghiệp như thế nào mà bị đến quả báo nhiều bệnh? Có mười loại nghiệp. Những ǵ là mười?
1. Tự hủy hoại loài hữu t́nh.
2. Khuyên người khác hủy hoại.
3. Tùy hỷ sự hủy hoại.
4. Tán thán sự hủy hoại.
5. Bất hiếu với cha mẹ.
6. Kết nhiều oán xưa.
7. Làm thuốc do tâm độc hại.
8. Keo kiết sự ăn uống.
9. Khinh chê ngạo mạn đối với thánh hiền.
10. Hủy báng pháp sư.
Mười loại như vậy bị quả báo có nhiều bệnh.
Lại nữa, nghiệp như thế nào mà được quả báo ít bệnh? Có mười loại nghiệp. Những ǵ là mười?
1. Không gây tổn hại hữu t́nh.
2. Khuyên người đừng làm tổn hại.
3. Không tùy hỷ sự làm tổn hại.
4. Không tán thán sự tổn hại.
5. Xa ĺa việc vui sướng làm tổn hại.
6. Hiếu dưỡng cha mẹ.
7. Tôn trọng sư trưởng.
8. Không kết oán xưa.
9. Bố thí chúng Tăng được an lạc.
10. Bố thí thuốc men, ẩm thực.
Mười loại như vậy được quả báo ít bệnh.
Lại nữa, nghiệp như thế nào mà bị quả báo xấu xí? Có mười loại nghiệp. Những ǵ là mười?
1. Luôn khởi tâm phẫn nộ.
2. Buông lung tâm ngạo mạn.
3. Không hiếu thuận cha mẹ.
4. Luôn luôn buông lung tâm tham si.
5. Hủy báng hiền thánh.
6. Xâm đoạt, cưỡng bức.
7. Ăn trộm ánh sáng (dầu đèn) của Phật.
8. Cười giỡn trên sự xấu xí của người khác.
9. Hủy hoại ánh sáng của đức Phật.
10. Làm việc phi phạm hạnh.
Do mười thứ như vậy nên bị quả báo xấu xí.
Lại nữa, do nghiệp ǵ mà được quả báo trang nghiêm? Có mười loại nghiệp. Mười nghiệp ấy như thế nào?
1. Tu từ bi, nhẫn nhục.
2. Bố thí pháp của Phật.
3. Quét dọn chùa tháp.
4. Trang nghiêm tu sửa tinh xá.
5. Trang nghiêm tượng Phật.
6. Hiếu dưỡng cha mẹ.
7. Tin kính, tôn trọng Thánh hiền.
8. Khiêm cung, xa ĺa sự ngạo mạn.
9. Phạm hạnh không sứt mẻ.
10. Xa ĺa tâm tổn hại.
Như vậy, do mười thứ này được quả báo trang nghiêm.
Lại nữa, do nghiệp ǵ mà bị sanh vào ḍng họ ti tiện? Có mười loại nghiệp, mười loại ấy như thế nào?:
1. Tham ái sanh lợi, không tu bố thí.
2. Ganh ghét v́ sự vinh hoa của người khác.
3. Khinh chê hủy báng cha mẹ.
4. Không tuân lời pháp sư.
5. Hủy báng bậc hiền thiện.
6. Thân cận bạn ác.
7. Khuyên người khác làm ác.
8. Phá hoại điều thiện của kẻ khác.
9. Mua bán kinh tượng.
10. Không tin tam bảo.
Do mười nghiệp như vậy bị quả báo ti tiện.
Lại nữa, do nghiệp ǵ mà được quả báo sanh vào nhà hào quư giàu có? Có mười loại nghiệp. Những ǵ là mười?
1. Xa ĺa tâm ganh ghét, vui mừng thấy danh lợi của người khác.
2. Tôn trọng cha mẹ.
3. Tin kính, tôn sùng Pháp sư.
4. Phát tâm bồ đề.
5. Bố thí dù lọng cho đức Phật.
6. Tu sửa trang nghiêm chùa tháp.
7. Sám hối nghiệp ác.
8. Rộng tu hạnh bố thí.
9. Khuyên người khác tu tập thiện.
10. Tin kính, tôn sùng tam bảo.
Do mười thứ như vậy nên được quả báo hào quư.
Lại nữa, do nghiệp ǵ bị quả báo gian ác ở nhân gian? Có mười loại nghiệp. Những ǵ là mười loại?
1. Buông lung tâm ngă mạn.
2. Khinh mạn cha mẹ.
3. Khinh mạn sa-môn.
4. Khinh mạn bà la môn.
5. Khinh chê hủy báng bậc hiền thiện.
6. Khinh mạn người trong thân tộc.
7. Không tin nhân quả.
8. Ghét bỏ tự thân.
9. Hiềm ghét kẻ khác.
10. Không tin Tam bảo.
Do mười thứ như vậy bị quả báo ác ở nhân gian.
Lại nữa, do nghiệp ǵ mà được quả báo thù thắng ở nhân gian? Có mười loại nghiệp, mười loại ấy là ǵ?
1. Khiêm cung, xa ĺa ngạo mạn.
2. Tôn trọng cha mẹ.
3. Tôn trọng sa-môn.
4. Tin kính, tôn sùng bà la môn.
5. Yêu thương, giúp đỡ người thân tộc.
6. Tôn trọng bậc hiền thánh.
7. Tu hành 10 điều thiện.
8. Không khinh mạn bổ đặc già la.
9. Tôn trọng vị Pháp sư.
10. Tin một cách vững chắc ngôi tam bảo.
Do mười thứ như vậy nên được quả báo thù thắng ở nhân gian.
Lại nữa, do nghiệp ǵ mà bị quả báo cô đơn nghèo khổ? Có mười loại nghiệp. Mười loại ấy là ǵ?
1. Luôn luôn trộm cướp.
2. Khuyên người khác trộm cướp.
3. Khen ngợi sự trộm cướp.
4. Tùy hỷ sự trộm cướp.
5. Hủy báng cha mẹ.
6. Hủy báng thánh hiền.
7. Làm chướng ngại người khác bố thí.
8. Ganh ghét khi thấy danh lợi của kẻ khác.
9. Keo kiết tiền của.
10. Khinh khi, hủy báng tam bảo, muốn tam bảo thường đói khát.
Do mười loại như vậy nên bị quả báo cô đơn nghèo khổ.
Lại nữa, do nghiệp ǵ mà được quả báo có phước đức lớn? Có mười loại nghiệp, mười loại ấy là ǵ?:
1. Xa ĺa trộm cướp.
2. Xa ĺa việc khuyên người trộm cướp.
3. Xa ĺa việc tùy hỷ trộm cắp.
4. Hiếu dưỡng cha mẹ.
5. Tin kính, tôn sùng thánh hiền.
6. Vui mừng thấy danh lợi của người khác.
7. Rộng làm việc bố thí.
8. Không ganh ghét danh lợi của kẻ khác.
9. Không tiếc tài bảo, thương xót kẻ cô đơn bần cùng.
10. Cúng dường tam bảo.
Do mười thứ như vậy nên được quả báo có phước đức lớn.
Lại nữa, do nghiệp ǵ mà bị quả báo ngu độn? Có mười loại nghiệp. 10 nghiệp đó là ǵ?
1. Bổ đặc già la này không tin sa-môn, cũng không thân cận sa-môn.
2. Không tin bà la môn.
3. Không tin pháp sư, cũng chẳng thân cận.
4. Cất giấu giáo pháp, không truyền dạy.
5. Xoi bói những điều xấu của pháp sư.
6. Xa ĺa chánh pháp.
7. Đoạn diệt thiện pháp.
8. Hủy báng bậc hiền trí.
9. Học tập điều phi pháp.
10. Hủy báng chánh kiến, xưng dương tà kiến.
Do mười pháp như vậy cho nên bị quả báo ngu độn.
Lại nữa, do nghiệp ǵ mà được quả báo có trí huệ lớn? Có mười loại pháp, 10 pháp ấy là ǵ?
1. Bổ đặc già la này thân cận sa-môn, thâm tín cầu pháp.
2. Tin bà la môn.
3. Thân cận pháp sư, cầu hiểu được nghĩa sâu kín.
4. Tôn trọng tam bảo.
5. Xa ĺa kẻ ngu si.
6. Không hủy báng pháp sư.
7. Cầu được trí huệ sâu rộng.
8. Truyền pháp lợi sanh khiến cho chánh pháp không bị đoạn diệt.
9. Xa ĺa điều phi pháp.
10. Xưng dương chánh kiến, xa ĺa các tà kiến.
Do mười pháp như vậy cho nên được quả báo có trí huệ lớn.
Lại nữa, do nghiệp ǵ mà bị quả báo địa ngục? Có mười loại pháp, mười pháp ấy là ǵ?
1. Thân nghiệp bất thiện.
2. Khẩu nghiệp bất thiện.
3. Ư nghiệp bất thiện.
4. Hằng khởi lên thân kiến.
5. Hằng khởi lên biên kiến.
6. Tà kiến không dứt.
7. Làm ác không ngừng.
8. Dâm dục, tà hạnh.
9. Hủy báng Thánh hiền.
10. Hoại diệt chánh pháp.
Do mười nghiệp như vậy nên bị quả báo địa ngục.
Lại nữa, do nghiệp ǵ mà bị quả báo súc sanh? Có mười loại nghiệp. Những ǵ là mười?
1. Thân nghiệp làm ác bậc trung.
2. Ngữ nghiệp làm ác bậc trung.
3. Ư nghiệp làm ác bậc trung.
4. Khởi sanh nhiều ḷng tham.
5. Khởi sanh nhiều ḷng sân.
6. Khởi sanh nhiều ḷng si.
7. Bố thí phi pháp.
8. Cấm chú yểm thuật.
9. Hủy hoại phạm hạnh của Bồ tát.
10. Khởi ra thường kiến, biên kiến, cho rằng “người chết trở lại thành người”.
Do mười nghiệp như vậy nên bị quả báo súc sanh.
Lại nữa, do nghiệp ǵ mà bị quả báo ngạ quỷ? Có mười loại nghiệp. mười loại nghiệp ấy là ǵ?
1. Thân ác nghiệp nhẹ.
2. Khẩu ác nghiệp nhẹ.
3. Ư ác nghiệp nhẹ.
4. Tham tiếc tài vật không chịu bố thí.
5. Khởi ra đại tà kiến hủy báng nhân quả của Phật.
6. Ngạo mạn, tự thị, khinh khi, hủy báng kẻ hiền lương.
7. Làm chướng ngại người khác bố thí.
8. Không thương xót kẻ đói khát.
9. Tham tiếc đồ ẩm thực, không bố thí cho Phật, Tăng.
10. Người khác được danh lợi th́ phương tiện làm cho ly cách.
Do mười nghiệp như vậy nên bị quả báo ngạ quỉ.
Lại nữa, do nghiệp ǵ được quả báo làm người? Có mười loại nghiệp. Mười nghiệp ấy là ǵ?
1. Xa ĺa sát sanh.
2. Xa ĺa sự không cho mà lấy.
3. Xa ĺa việc phi phạm hạnh.
4. Xa ĺa lời nói hư dối.
5. Xa ĺa lời nói tạp uế.
6. Không nói lời ly gián.
7. Xa ĺa lời nói thô ác.
8. Xa ĺa việc uống rượu, ăn thịt.
9. Xa ĺa sự si ám.
10. Xa ĺa tà kiến, vững tin tam bảo.
Do tu mười nghiệp nhẹ như vậy nên được quả báo làm người.
Lại nữa, do tu nghiệp ǵ mà được sanh cơi Dục thiên? Do tu mười thiện nghiệp được sanh cơi trời ấy. Lại do tu nghiệp ǵ mà được sanh cơi trời Sắc giới? Do tu mười định thiện mà được sanh cơi trời ấy. Lại do tu nghiệp ǵ, mà được sanh cơi Tứ Vô sắc giới? Do tu tập tam ma bát đố làm nhơn mà được sanh cơi trời ấy. Những ǵ là tứ? Xa ĺa tất cả sắc, là vô biên không tưởng. Lại nữa, do tu định ấy trừ phục được chướng ngại, sau khi mạng chung được sanh lên Không vô biên xứ, xa ĺa thô thức và tế thức hiện tiền, tạo ra Vô biên tưởng, trừ phục được chướng ngại. Lại do tu định ấy nên đời sau được sanh cơi trời ấy. Xa ĺa chướng ngại ấy, lại tu định kia, sau khi mạng chung được sanh lên cơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Lại nữa, do tu tập nghiệp ǵ không sanh vào Vô gián? Do tu các thiện nghiệp, hồi hướng mong cầu, quyết định được sanh trong cơi thiện, không nhập vào vô gián.
Lại nữa, do tu nghiệp ǵ mà cảm được quả ǵ? Nếu tu thiện nghiệp th́ cảm quả báo đáng yêu, nếu tạo ác nghiệp th́ cảm quả báo đáng ghét. Nếu xa ĺa thiện và bất thiện nghiệp này th́ trọn không thể có quả báo đáng yêu hay đáng ghét ǵ cả. Thí như người gái hiền nhưng có người chồng đi buôn ở xa, đă lâu mà chưa về nhà th́ làm ǵ cô ấy có con?!
Lại nữa, do nghiệp ǵ mà không có quả báo? Do đă tạo ác nghiệp rồi hồi tâm phát lồ, tỉnh ngộ, trách ḿnh trước chẳng suy nghĩ, tâm nghĩ miệng nói, tác ư chuyên chú măi măi sám hối. Nghiệp ấy tuy đă tạo rồi nhưng không thọ quả báo. Đối với thiện nghiệp cũng lại như vậy.
Lại nữa, do nghiệp ǵ mà được thân tâm viên măn? Do tu tập hạnh nhẫn nhục nên được thân tướng viên măn. Do tu tập pháp nghe rồi suy nghĩ nên được tâm viên măn. Tu tập nghiệp này chắc chắn đạt được quả báo như vậy.
Lại do nghiệp ǵ mà sau khi tu tập không bị tán thất? Nếu có thiện nghiệp đă làm không hối hận, không phiền trách, không nhiễu năo, cũng không cho là không, không nói điều đúng điều sai, mà không xa ĺa, cũng không náo động, tạo hạnh như vậy, tu tập nghiệp này trọn chẳng hao mất, chắc chắn phải thọ quả báo.
Lại do nghiệp ǵ mà không có quả báo? Do tu nghiệp vô kư nên không có quả báo.
Lại do tu nghiệp ǵ mà bổ đặc già la thọ mạng ở địa ngục nhưng không thoát được? Đó là có một bổ đặc già la đă tạo nghiệp rồi nhưng không hối hận, cũng không hiềm trách. Lại không bác bỏ vô tâm không sầu năo, không nói điều phải điều trái, cũng không có náo động, làm việc làm như vậy nên biết được sanh lên cảnh trời. Làm tất cả nghiệp bổ đặc già la sanh trong địa ngục, trọn cả tuổi thọ mà không thoát khỏi.
Lại do nghiệp ǵ mà có bổ đặc già la ở trong địa ngục không trọn tuổi thọ? Đó là do một bổ đặc già la tạo nghiệp kia rồi, nhưng không hối cải, phiền năo tự hoại, rồi tỉnh ngộ những điều sai quấy ở trước nên xa ĺa nghiệp ấy mà không náo động. Làm việc làm như vậy nên bổ đặc già la này đă tạo nghiệp ấy rồi sanh trong địa ngục nhưng không hết tuổi thọ.
Lại do nghiệp ǵ mà có bổ đặc già la sanh trong địa ngục liền được mạng chung? Đó là có một bổ đặc già la đă tạo nghiệp kia rồi, hối hận, khinh tháo, nói rằng: “Bác không có”, giải trừ, xa ĺa phiền năo châm chích, không thể yêu thích, ta không tạo ra nữa, như vua A xà thế đă tạo tội giết cha rồi hối lỗi phát lồ: “ Con tạo ác nghiệp, con phải tự thọ quả báo, nay đối diện với đức Phật, sám hối giải bày lỗi trước”. Đức Phật thương nhà vua, bảo vua hăy quán tánh của tội từ duyên huyễn mà có, rơ ràng là không thể có. Cho nên bổ đặc già la này ở trong địa ngục liền được mạng chung.
Lại do nghiệp ǵ mà có bổ đặc già la trước được vui sướng, sau khi bị khổ năo? Đó là có một bổ đặc già la ban đầu thực hành bố thí, yêu thích, hoan hỷ, nhưng bố thí rồi tâm lại hối tiếc, cho nên bổ đặc già la ấy sanh ở nhân gian vào nhà thượng chủng tộc, vàng bạc châu báu, voi, ngựa, xe cộ, tất cả đều đầy đủ. Cha mẹ, vợ con, quan dân, tri thức đầy đủ không thiếu, cho đến kho tàng cũng lại như vậy. Cho nên khi được quả báo, trước được vui sướng, sau bị khổ năo.
Lại do nghiệp ǵ mà có bổ đặc già la trước bị nghèo khổ, sau được vui sướng? Đó là có một bổ đặc già la do nhân đời trước dùng tâm hạ phẩm bố thí chút ít. Bố thí rồi tâm không hối tiếc, sau lại hoan hỷ, cho nên bổ đặc già la này sanh làm người trong chủng tộc thấp hèn, ăn uống, châu báu, tất cả đều thiếu thốn, cũng không được tự tại. Về sau dần dần tài vật được Tăng trưởng rộng lớn, cho đến có vô số của cải không thiếu vật ǵ. Cho nên bổ đặc già la này sau khi được quả th́ trước bị nghèo khổ, sau được vui sướng.
Lại do nghiệp ǵ mà có bổ đặc già la trước được vui sướng, sau cũng vui sướng? Đó là có một bổ đặc già la khi chưa bố thí hoan hỷ muốn bố thí. Bố thí rồi hoan hỷ, trước sau không hối tiếc. bổ đặc già la này sanh làm người trong nhà giàu có, chủng tộc cao sang, cha mẹ vợ con, quan dân thân hữu viên măn cụ túc, kho tàng châu báu voi, ngựa, trâu, dê, chó... đến vườn rừng, ruộng nhà chẳng thiếu thứ ǵ, tự do thọ dụng. Cho nên bổ đặc già la này trước được vui sướng, sau cũng vui sướng.
Lại do nghiệp ǵ mà có bổ đặc già la trước không vui sướng, sau cũng không vui sướng, mà thường bị khổ năo? Đó là có một bổ đặc già la trước không có tâm bố thí, cũng không có bạn hữu tốt khuyên làm bố thí. Đă không có tín tâm, tham tiếc châu báu, từ đầu đến cuối chẳng bố thí một tơ hào nào. Cho nên bổ đặc già la đó nếu sanh làm người, ở trong chủng tộc thấp hèn, bần cùng, khốn khổ, tài bảo, ẩm thực, ruộng nhà, của cải cho đến quyến thuộc tất cả đều thiếu, trước đă không được vui sướng, sau cũng không được vui sướng. Cho nên bổ đặc già la này trước bị khổ năo, sau cũng bị khổ năo.
Lại do nghiệp ǵ mà có bổ đặc già la được đại phú quư mà lại tham tiếc tiền của, không có bố thí cho ai, dù rất ít? Đó là có một bổ đặc già la trong đời quá khứ có hướng về ngôi Tam bảo, đă từng bố thí nhưng không từng phát nguyện ở đời vị lai lại tu hạnh bố thí, cho nên bổ đặc già la này sau khi mạng chung, hoặc sanh ở nhơn gian được đại phú quư, được sanh vào đại chủng tộc có nhiều châu báu, voi ngựa, nô tỳ, trâu dê, ruộng nhà cũng rất nhiều, tự do thọ dụng. Nhưng lại đối với tài vật của ḿnh th́ tham tiếc, yêu mến bảo hộ, không làm bố thí, cho nên bổ đặc già la này giàu có, nhiều tiền của, tham lam tiếc của, cũng không có tín tâm.
Lại do nghiệp ǵ mà bổ đặc già la một đời nghèo khổ mà lại ưa thích bố thí? Đó là có một bổ đặc già la trong đời quá khứ đối với thắng xứ của Tam bảo đă từng tu hạnh bố thí, lại c̣n phát nguyện: cho đến đời vị lai tâm bố thí vẫn không dứt, sau khi mạng chung sanh ở nhân thiên, qua lại thọ phước. Người ấy về sau phước hết, lại sanh ở nhân gian, dù bần cùng nhưng thích bố thí. Cho nên bổ đặc già la này dù bần cùng nhưng ưa thích bố thí, tín tâm không đoạn.
Lại do nghiệp ǵ mà có bổ đặc già la một đời nghèo khổ mà lại tham lam keo kiết, không có bố thí, dù cho rất ít? Đó là có một bổ đặc già la trong đời quá khứ không gặp thiện hữu, lại c̣n ngu si không tin nhân quả, đối với bố thí ba la mật dù cho chút ít cũng không làm, cho nên bổ đặc già la ấy sau khi mạng chung sanh ở nhân gian, vào chủng tộc bần cùng, tiền của đồ ăn uống, ruộng vườn, của cải, tất cả đều bị thiếu thốn. V́ vậy bổ đặc già la này bần cùng, khốn khổ, không thích bố thí.
Lại do nghiệp ǵ mà cả thân lẫn tâm đều được vui sướng, giống như Luân vương, lại ưa làm phước? Đó là có một bổ đặc già la trong đời quá khứ tu giới không sát sanh, bố thí sự vô uư cho kẻ khác, lại c̣n phát nguyện: tâm bố thí không mê muội, cho nên hữu t́nh này sau khi mạng chung sanh ở nhân gian được cả thân lẫn tâm đều được khoái lạc, thường thích bố thí.
Lại do nghiệp ǵ mà có bổ đặc già la cả thân lẫn tâm đều vui sướng như một cụ già việc nhà đă giải quyết xong hết, không c̣n bận tâm việc ǵ? Đó là một bổ đặc già la trong đời quá khứ bố thí sự vô úy cho kẻ khác, không làm tổn hại hữu t́nh mà không phát nguyện thù thắng, cho nên bổ đặc già la ấy sau khi mạng chung sanh ở nhân gian được cả thân lẫn tâm đều được khoái lạc, không chịu tu phước.
Quyển Thượng Hết
PHẬT NÓI KINH
PHÂN BIỆT THIỆN ÁC BÁO ỨNG
Hán dịch: Đời Tống, Tây thiên Trung Ấn Độ, Sa môn Thiên Tức Tai phụng chiếu
Việt dịch: Thích Chánh Lạc
---o0o---
Quyển Hạ
Lại do nghiệp ǵ mà có bổ đặc già la, hoặc thân và tâm đều không khoái lạc, lại không tu phước? Đó là có một hữu t́nh trong đời quá khứ làm nhiễu loạn chúng sanh, làm cho sợ sệt, lại không có tín tâm, không phát nguyện lành. Cho nên bổ đặc già la này sau khi mạng chung sanh trong loài người, cả thân lẫn tâm đều bị bất an, lại có nhiều ngu ám nên không tu hạnh bố thí.
Tại sau có bổ đặc già la ở nhân gian th́ bị chết yểu, nhưng sống lâu dài trong tam đồ? Đó là một bổ đặc già là quá khứ tu nhân, đời này thọ quả lành ít, đời sau thọ quả dữ nhiều, cho nên bổ đặc già la này sanh ở nhân gian bị chết yểu, đời sau sanh vào địa ngục, ngạ quỷ và A-tố-ra th́ thọ mạng lại lâu dài.
Tại sao có bổ đặc già la ở tam đồ thọ mạng ngắn nhưng ở cơi người th́ thọ mạng lâu dài? Đó là có một bổ đặc già la tu nhân ở quá khứ, đời này thọ nghiệp ác ít, đời sau thọ nghiệp thiện nhiều, cho nên bổ đặc già la này ở tam đồ th́ thọ mạng ngắn ngủi, đời sau sanh ở nhân gian th́ thọ mạng lại lâu dài.
Tại sao có bổ đặc già la sanh ở nhân gian và ở tam đồ thọ mạng đều ngắn ngủi? Đó là có một bổ đặc già la tu nhân ở quá khứ, ở đời này và đời sau thọ nghiệp thiện, ác đều ít, cho nên bổ đặc già la này ở trong loài người và ở tam đồ thọ mạng đều ngắn ngủi.
Tại sao có bổ đặc già la khi mạng đă tận th́ phiền năo cũng tận? Tại sao có bổ đặc già la phiền năo đă tận mà thọ mạng không tận? Đó là người được Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, quyết định tánh và bất quyết định A la hán.
Lại do nghiệp ǵ mà có bổ đặc già la tuy sanh ở ác thú mà h́nh sắc thân thể đoan nghiêm thù diệu, ai thấy cũng hoan hỷ? ai cũng yêu thích? Đó là có một bổ đặc già la trong đời quá khứ tu tập hạnh nhẫn nhục, nhưng v́ phá tịnh giới của Phật nên đọa vào ác thú thọ thân h́nh khác, được h́nh sắc đoan nghiêm, mềm mại, cụ túc, ai thấy cũng hoan hỷ.
Lại do nghiệp ǵ mà có bổ đặc già la sanh ở trong ác thú mà thân h́nh thô rít, h́nh sắc xấu xí, ai thấy cũng không ưa? Đó là do bổ đặc già la này ở đời quá khứ tâm nhiều sân hận, không tu nhẫn nhục, đă phá tịnh giới của Phật lại không phát lồ. Cho nên sau khi mạng chung sanh trong loài khác, h́nh sắc xấu xí, thân thể thô lậu, các căn bị sứt mẻ, hôi thối dẫy đầy, si mê ám muội, ai thấy cũng không hoan hỷ.
Lại nữa, ác nghiệp bị quả báo như thế nào? Do nhân sát sanh nên bị thọ mạng, sắc lực đều không đầy đủ. Do nhân trộm cắp nên bị sương, mưa đá, sâu trùng, đói khát, hạn hán. Do nhân tà dục nên bị quả báo bên ngoài nhiều trần cấu, vợ không trinh thuận. Do nhân hư vọng nên bị quả báo hôi thối ô danh, người đều hiềm ghét. Do nhân ly gián nên bị quả báo quyến thuộc bất ḥa, tật bệnh triền miên. Do nhân nói thô ác nên bị quả báo xúc chạm vật cứng nhám, kết quả không đẹp. Do nhân tạp uế nên bị quả báo rừng cây gai góc, vườn tược tiêu điều. Do nhân tham ái nên bị quả báo kho tàng ít ỏi. Do nhân sân hận nên bị quả báo mùi vị cay đắng, dung mạo xấu ác. Do nhân ngu si nên bị quả báo sắc bên ngoài không sạch, bị hư hao. Do tạo mười nghiệp bất thiện nên bị như vậy.
Tu mười thiện nghiệp được quả báo ǵ? –Xa ĺa việc giết hại, thọ mạng và y báo đều được đầy đủ. Xa ĺa trộm cắp th́ đói khát, gió, mưa đá, sâu trùng, các tai hoạn đều được xa ĺa. Nhân không có tà dâm th́ tiếng tốt đồn khắp, xa ĺa trấn cấu. Nhân không vọng ngữ, miệng thường thơm sạch. Nhân không ly gián nên quyến thuộc được ḥa thuận xa ĺa cao thấp, sấm sét, sương, mưa đá. Nhân không có thô ác nên quả ngọt, tốt đẹp, xa ĺa cứng nhám. Nhân không có tạp uế nên rừng cây, vườn tược xa ĺa gai góc, tất cả đều tươi nhuận. Nhân không có tham ái nên kho lẫm được sung măn, đầy đủ. Nhân không có sân hận nên thân tướng được tṛn đầy, các căn không có khuyết tật. Nhân không có tà kiến nên tín tâm không đoạn, được tối thượng, thơm, đẹp đầy đủ. Do tu mười thiện nghiệp nên được quả báo như vậy.
Lại nữa, làm mười điều ác có mười quả báo. Những ǵ là mười? Sát sanh có mười quả báo:
1. Oan gia ngày càng nhiều
2. Ai thấy kẻ ấy cũng không hoan hỷ.
3. Hữu t́nh sợ sệt.
4. Hằng chịu sự khổ năo.
5. Thường nghĩ đến việc giết.
6. Nằm mộng thấy sầu khổ.
7. Lúc lâm chung bị hối hận.
8. Thọ mạng ngắn ngủi.
9. Tâm thức bị ngu muội.
10. Khi chết đọa vào địa ngục.
Lại nữa, trộm cắp quả báo có mười thứ. Những ǵ là mười?
1. Kết thêm oan gia đời trước.
2. Luôn luôn nghi ngờ nghĩ ngợi.
3. Bị bạn ác theo đuổi.
4. Bạn lành lánh xa.
5. Phá tịnh giới của Phật.
6. Bị phép vua trích phạt.
7. Buông lung phóng dật.
8. Măi măi sầu lo.
9. Không được tự do.
10. Chết đọa địa ngục.
Lại nữa, tà dục quả báo có mười thứ. Những ǵ là mười?:
1. Dục tâm bừng cháy.
2. Thê thiếp không trinh lương.
3. Tăng trưởng sự bất thiện.
4. Thiện pháp bị tiêu diệt.
5. Nam nữ phóng túng.
6. Tài sản âm thần tiêu tán.
7. Tâm nhiều nghi ngờ nghĩ ngợi.
8. Xa ĺa bạn lành.
9. Bị thân tộc không tin tưởng.
10. Mạng chung bị đọa vào tam đồ.
Lại nữa, vọng ngữ quả báo có mười thứ. Những ǵ là mười?
1. Hơi trong miệng thường hôi thối.
2. Kẻ ngay thẳng xa lánh.
3. Người nịnh nọt quanh co ngày càng nhiều.
4. Gần gũi kẻ phi nhân.
5. Dù có nói thật cũng không ai tin.
6. Trí huệ ít dần.
7. Tiếng tăm không thật.
8. Không nói lời thành thật.
9. Ưa nói chuyện thị phi.
10. Thân chết sanh vào ác đạo.
Lại nữa, uống rượu có ba mươi sáu lỗi, những lỗi ấy như thế nào?
1. Tài sản bị tản thất.
2. Hiện tại có nhiều bệnh tật.
3. Nhân ưa thích đấu tranh.
4. Tăng trưởng sự giết hại.
5. Tăng trưởng sự sân hận.
6. Phần nhiều không toại ư.
7. Trí huệ kém dần.
8. Phước đức không Tăng.
9. Phước đức hao giảm.
10. Phơi bày sự bí mật.
11. Sự nghiệp không thành.
12. Tăng nhiều sự ưu khổ.
13. Các căn bị ám muội.
14. Làm hủy nhục cha mẹ.
15. Không kính bậc sa-môn.
16. Không tin bà la môn.
17. Không tôn kính Phật.
18. Không kính Tăng, pháp.
19. Thân cận bạn ác.
20. Xa lánh bạn lành.
21. Bỏ bê việc ăn uống.
22. Thân h́nh (lơa lồ) không kín đáo.
23. Dâm dục hẫy hừng.
24. Mọi người không thích.
25. Tăng thêm sự cười chê.
26. Cha mẹ không vui.
27. Quyến thuộc chê bỏ.
28. Chấp nhận điều phi pháp.
29. Xa ĺa chánh pháp.
30. Không kính bậc hiền thiện.
31. Vi phạm điều tội ác.
32. Xa ĺa sự viên tịch.
33. Điên cuồng ngày càng nặng.
34. Thân tâm tán loạn.
35. Làm ác, phóng dật.
36. Thân hoại mạng chung đọa vào đại địa ngục, thọ khổ vô cùng tận.
Bấy giờ đức Phật bảo trưởng giả Du ca rằng:
–Nếu lại có người đối với tháp của Như Lai mà chấp tay cung kính, có mười công đức. Những ǵ là mười?:
1. Sanh vào nhà đại quư tộc.
2. Có nhiều sắc đẹp.
3. H́nh tướng khoẻ mạnh khả ái.
4. Tứ sự được dồi dào.
5. Trân bảo thật nhiều.
6. Tiếng tốt đồn khắp.
7. Tín căn thâm sâu.
8. Sự nhớ nghĩ rộng lớn.
9. Trí huệ nhạy bén cùng khắp.
10. Nghề nghiệp rộng lớn.
Như vậy, này trưởng giả! Nếu lại có người chắp tay cung kính tháp của Như Lai, được những công đức như vậy.
Nếu lại có người đối với tháp của Như Lai mà chấp tay lễ bái, được mười công đức. Những ǵ là mười?
1. Ngôn từ nhu nhuyến.
2. Trí huệ siêu quần.
3. Người trời đều hoan hỷ.
4. Phước đức rộng lớn.
5. Cùng ở với người hiền thiện.
6. Được tôn quư tự tại.
7. Hằng được gặp Phật.
8. Được thân cận với Bồ tát.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch. Công đức như vậy do lễ bái tháp của Phật mà có được.
Nếu lại có người lau bụi bặm tháp của Phật được mười công đức. Những ǵ là mười?:
1. Sắc tướng tṛn đầy.
2. Thân thể ngay thẳng.
3. Âm thanh vi diệu.
4. Xa ĺa ba độc.
5. Đi đường không bị chông gai.
6. Được chủng tộc tối thượng.
7. Được tôn sùng, quư trọng, tự tại
8. Mạng chung được sanh lên trời.
9. Thân thể không có cấu nhiễm.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy do lau chùi bụi tháp của Phật mà được.
Nếu có người bố thí dù lọng cho tháp của Như lai được mười thứ công đức. Những ǵ là mười?:
1. Xa ĺa sự nhiệt năo.
2. Tâm không tán loạn.
3. Làm chủ thế gian.
4. Nghề nghiệp rộng lớn.
5. Phước đức vô lượng.
6. Được làm vua Chuyển luân.
7. Thân tướng tṛn đầy
8. Xa ĺa tam đồ.
9. Mạng chung sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy do cúng thí dù lọng cho tháp của Phật mà được.
Nếu hoặc có người bố thí chuông, linh cho tháp của Phật, được mười thứ công đức? Những ǵ là mười?
1. Đoan nghiêm không thể so sánh được.
2. Diệu âm thật đáng ưa thích.
3. Tiếng như chim Ca-lăng
4. Ngôn từ nhu nhuyến.
5. Ai thấy cũng hoan hỷ.
6. Được sự đa văn như ngài A-Nan.
7. Tôn quư tự tại.
8. Tiếng tốt đồn xa.
9. Qua lại thiên cung.
10. Cứu cánh được viên tịch.
Công đức như vậy do bố thí chuông, linh cho tháp của Phật mà được quả báo thù thắng.
Nếu lại có người bố thí tràng phan cho tháp của Như Lai có mười công đức. Những ǵ là mười?
1. H́nh dung ngay thẳng, được trường thọ, tṛn đầy.
2. Thế gian ân trọng.
3. Tín căn kiên cố.
4. Hiếu dưỡng cha mẹ.
5. Thân hữu quyến thuộc thật nhiều.
6. Được khen ngợi có tiếng tốt.
7. Sắc tướng đoan nghiêm.
8. Ai thấy cũng hoan hỷ.
9. Sanh nhà thượng tộc, phú quư, tự tại, được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy do bố thí tràng phan cho tháp của Phật mà được.
Nếu có người dâng cúng y phục cho tháp của Như lai được mười hai thứ công đức thù diệu. Những ǵ là mười hai?
1. Thân thể ngay thẳng.
2. Ai thấy cũng hoan hỷ.
3. Phước tướng sáng láng.
4. Sắc tướng vi diệu.
5. Sắc h́nh đẹp không thể so sánh.
6. Thân không có trần cấu.
7. Y phục sạch đẹp.
8. Ngọa cụ mềm mại.
9. Được đại tự tại.
10. Mạng chung được sanh lên trời.
11. Ai thấy cũng đều kính yêu.
12. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy do dâng cúng y phục cho tháp của Phật mà được.
Nếu lại co người cúng dường hoa cho tháp của Như Lai có mười công đức. Những ǵ là mười?
1. Sắc tướng đẹp như hoa
2. Thế gian không thể so sánh.
3. Tỷ căn không hư hoại.
4. Thân không xú uế.
5. Diệu hương thanh tịnh.
6. Văng sanh 10 phương tịnh độ, được thấy Phật.
7. Hương giữ giới thơm phức.
8. Thế gian ân trọng, được đại pháp lạc.
9. Được sanh lên trời tự tại.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy do dùng hoa cúng dường tháp xá lợi của Phật mà được.
Lại nếu có người dùng tóc trải ra để dâng cúng tháp Như Lai, được mười thứ công đức. Những ǵ là mười?
1. Nhân sắc mềm mại thù diệu.
2. Thân không hôi thối.
3. H́nh thể thanh tịnh.
4. Sanh về mười phương cơi Phật.
5. Hương giới thơm phức.
6. Hằng nghe diệu hương.
7. Quyến thuộc được viên măn.
8. Các căn vui thích.
9. Sanh lên trời tự tại.
10. Mau chứng Niết-bàn.
Công đức như vậy là do dâng cúng tóc nơi tháp Như Lai mà được.
Nếu lại có người bố thí đèn cúng dường tháp xá lợi của Phật, được mười công đức. Những ǵ là mười?
1. Được nhục nhăn thanh tịnh.
2. Được thiên nhăn thanh tịnh.
3. Xa ĺa tam độc.
4. Được các thiện pháp.
5. Thông minh trí tuệ.
6. Xa ĺa ngu si.
7. Không đọa vào tam đồ tối tăm.
8. Được tôn quư tự tại.
9. Qua lại các cơi trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do cúng dường đèn cho tháp xá lợi của Phật.
Nếu lại có người bố thí hương hoa cúng dường tháp của Như Lai được mười công đức. Những ǵ là mười?
1. Tỷ căn được thanh tịnh.
2. Thân không có hôi thối.
3. Thân sạch, có mùi thơm vi diệu.
4. H́nh tướng đoan nghiêm.
5. Được thế gian cung kính.
6. Ưa pháp và nghe nhiều.
7. Được tôn quư tự tại.
8. Tiếng tốt đồn khắp.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Mười thứ công đức như vậy là do bố thí hương hoa cúng dường tháp xá lợi của đức Như Lai.
Nếu lại có người dùng âm nhạc vi diệu cúng đường tháp của Phật được mười thứ công đức thù thắng vi diệu. Những ǵ là mười?
1. Thân tướng đoan nghiêm.
2. Ai thấy cũng hoan hỷ.
3. Được âm thanh vi diệu.
4. Ngôn từ ḥa thuận.
5. Thân thể thích nghi.
6. Xa ĺa sự sân hận
7. Được sự đa văn của ngài Khánh Hỷ.
8. Được tôn sùng, tôn quư, tự tại.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do dùng âm nhạc vi diệu cúng dường tháp của Phật.
Nếu lại có người hoan hỷ tán thán tháp của Như lai được mười tám thứ công đức thắng diệu. Những ǵ là mười tám?
1. Chủng tộc tôn quư, cao thượng.
2. H́nh tướng đoan nghiêm.
3. Thân thể ngay thẳng đầy đặn.
4. Ai thấy, nghe thấy cũng đều hoan hỷ.
5. Tiền của vô lượng.
6. Quyến thuộc rộng lớn.
7. Không bị mất mát, hư hoại.
8. Được tôn quư tự tại.
9. Thường sanh về cơi Phật.
10. Tiếng tăm đồn xa.
11. Đức tốt được tán tụng.
12. Tứ sự được dồi dào.
13. Người trời đều cúng dường.
14. Được làm Chuyển luân vương.
15. Thọ mạng được lâu dài.
16. Thân thể cứng chắc như kim cang.
17. Mạng chung được sanh lên trời.
18. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do hoan hỷ tán thán tháp xá lợi của Phật.
Nếu lại có người bố thí giường ṭa cho Phật được mười thứ công đức. Những ǵ là mười?
1. Đức nghiệp được tôn trọng.
2. Được thế gian khen ngợi.
3. Tay chân có nhiều sức mạnh.
4. Danh xưng dù xa cũng nghe.
5. Đức tốt được ca tụng.
6. An ḥa vui thích.
7. Được ngồi ṭa của Chuyển luân vương, kẻ hầu hạ thật nhiều.
8. Ai thấy cũng hoan hỷ
9. Được sanh lên trời Tự tại, đầy đủ phước tướng.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do cúng thí giường ṭa cho Phật mà được quả báo thù thắng ấy.
Nếu lại có người bố thí giày dép cúng dường Tăng chúng của Phật, được mười công đức. Những ǵ là mười?
1. Oai nghi mô phạm.
2. Voi ngựa không thiếu.
3. Hành đạo dơng kiện.
4. Thân không mệt mỏi.
5. Chân đi không tổn hại.
6. Xa ĺa gai góc, cát sỏi.
7. Được thần túc thông.
8. Tôi tớ đông đảo.
9. Sanh lên trời Tự tại.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do bố thí giày dép cho tỳ kheo chúng của Phật.
Nếu lại có người bỏ 10 vật vào b́nh bát cúng thí cho Phật và Tăng, được mười thứ công đức. Những ǵ là mười?
1. H́nh sắc sáng rạng.
2. Đồ đựng đầy đủ, tùy ư thọ dụng.
3. Không bị các sự đói khát.
4. Ngọc báu thật nhiều.
5. Xa ĺa đường ác.
6. Nhân thiên đều hoan hỷ.
7. Phước tướng tṛn đầy.
8. Được tôn quư tự tại.
9. Hằng được sanh lên các cơi trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do cúng đồ đựng nên được quả báo ấy.
Nếu lại có người lấy cơm chay cúng dường Phật và chúng Tăng có mười công đức; những ǵ là mười?
1. Thọ mạng lâu dài.
2. H́nh sắc đầy đặn tṛn trịa.
3. Tay chân có sức lực.
4. Kư ức không quên (trí nhớ tốt)
5. Trí huệ biện tài.
6. Ai thấy cũng hoan hỷ.
7. Có nhiều châu báu.
8. Dù ở cơi người hay ở cơi trời vẫn được tự tại.
9. Sau khi chết được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Mười món công đức thù thắng như vậy là do cúng cơm chay cho Phật và chúng Tăng.
Nếu lại có người dùng voi, ngựa, xe cộ cúng thí cho Phật và chúng Tăng có mười công đức. Những ǵ là mười?
1. Tướng của bàn chân mềm mại.
2. Có oai nghi không sứt mẻ.
3. Thân thể không mệt mỏi.
4. An lạc không bệnh.
5. Oan gia xa ĺa.
6. Thần túc tự tại.
7. Có nhiều tôi tớ.
8. Có phước tướng của nhân thiên, ai thấy cũng hoan hỷ.
9. Sau khi chết được sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do dùng xe cộ, voi ngựa cúng thí cho Phật và chúng Tăng.
Nếu lại có người tu sửa pḥng thất, nhà cửa, cung điện cúng thí cho Phật và chúng Tăng có nhiều công đức. Hành tướng của công đức ấy như thế nào?
¯ Hằng xa ĺa sợ sệt.
¯ Thân tâm an lạc.
¯ Được ngọa cụ mềm mại tối diệu.
¯ Y phục trang nghiêm, thân thể hương thơm thanh tịnh.
¯ Ở nhân gian hay thiên thượng được ngũ dục tự tại.
¯ Làm sát đế lợi, bà la môn đại tánh chủng tộc.
¯ Và trưởng giả, cư sĩ, tể quan, thương chủ, làng xóm, thành ấp, quốc vương, đại thần, tùy nguyện được đầy đủ, tất cả đều thành tựu.
¯ Nếu làm Chuyển luân thánh vương, tùy theo sức lực (thống nhiếp) một châu, hai châu, cho đến bốn châu nhà vua giáo hóa tự tại.
¯ Nếu ở Lục dục chư thiên, Tứ vương Đao lợi, cho đến Tha hóa Tự tại, mọi ư nguyện đều thành tựu, tùy ư sanh ra.
Nếu lại có người do phước lực đời trước đối với các cơi trời Sắc giới, Phạm chúng, Phạm phụ, cho đến cơi trời Sắc cứu cánh, đều được thành tựu ư nguyện sanh ở các cơi ấy.
Nếu lại có người đối với cơi Vô sắc giới, Không vô biên xứ, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều được thành tựu, hoặc đối với quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn và A la hán, Duyên giác, cho đến Vô thượng Bồ đề, tùy ư đều cũng được thành tựu. Công đức như vậy sai biệt vô lượng. Nhân sửa pḥng nhà, cung điện, lầu gác, cúng thí cho Phật và Tăng mà được quả báo như vậy.
Nếu lại có người dùng thuốc thang, đồ uống mỹ diệu Cúng Phật và Tăng được mười thứ công đức. Những ǵ là mười thú?
1. Các căn được viên măn.
2. Thanh tịnh tươi sạch.
3. Trán rộng ngay thẳng.
4. Dung mạo vui vẻ.
5. H́nh sắc sáng rạng.
6. Phước đức tṛn đầy.
7. Không bị đói khát.
8. Xa ĺa ba ác đạo.
9. Được sanh lên trời Tự tại
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do bố thí thuốc thang, đồ uống mỹ diệu cho Phật và chúng Tăng mà được.
Nếu lại có người theo Phật xuất gia có mười công đức. Những ǵ là mười?
1. Xa ĺa nhà vợ.
2. Dù nhiễm dục vẫn không tham đắm.
3. Yêu thích sự tịch tịnh.
4. Chư Phật hoan hỷ.
5. Xa ĺa tà ma.
6. Gần Phật nghe pháp.
7. Xa ĺa ba đường ác.
8. Chư thiên kính yêu.
9. Mạng chung được sanh lên trời.
10. Mau chứng tịch tịnh.
Mười thứ công đức như vậy là nhờ theo Phật xuất gia mà được.
Nếu có tỳ kheo ở trong rừng hoang tịch tịnh có mười thứ công đức Những ǵ là mười?
1. Xa ĺa sự huyên náo ồn ào.
2. Thanh tịnh thơm sạch.
3. Thành tựu thiền định.
4. Được chư Phật thương tưởng.
5. Không bị nửa chừng chết yểu.
6. Được đa văn, tổng tŕ.
7. Thành tựu Xa ma tha vĩ bát xá na (chỉ và quán).
8. Phiền năo không khởi.
9. Mạng chung sanh lên trời.
10. Mau chứng viên tịch.
Công đức như vậy là do tỳ kheo tu hành ở trong rừng vắng mà được.
Nếu có tỳ kheo ôm bát khất thực có mười thứ công đức. Những ǵ là mười thứ?
1. Oai nghi không sứt mẻ.
2. Thành thục hữu t́nh.
3. Xa ĺa tâm ngă mạn.
4. Không tham danh lợi.
5. Phước điền cùng khắp.
6. Chư Phật hoan hỷ.
7. Làm hưng thạnh tam bảo.
8. Phạm hạnh tṛn đầy, bỏ ư nghĩ thấp hèn.
9. Mạng chung sanh lên trời.
10. Rốt ráo viên tịch
Công đức như vậy là do thường ôm bát khất thực mà được.
Nếu có tỳ kheo ôm bát khất thực, xa ĺa mười thứ hắc ám, được mười thứ công đức như vầy. Những ǵ là mười?
1. Biết rơ việc ra vào xóm làng có ích hay không có ích.
2. Biết rơ gia đ́nh ḍng họ lúc đi đến có ích hay không có ích.
3. Biết rơ thuyết pháp có ích hay không có ích.
4. Biết rơ thân cận A-xà-lê, Ḥa thượng có ích hay không có ích.
5. Biết rơ dùng tâm từ bi giáo hóa lợi lạc chúng sanh có ích hay không có ích.
6. Biết rơ sự thân cận hay xa ĺa có ích hay không có ích.
7. Biết rơ tập học ba món giới, định, tuệ có ích hay không có ích.
8. Biết rơ đàn na tín thí bố thí y có ích hay không có ích.
9. Biết rơ ôm bát vào đường hẻm có ích hay không có ích.
10. Biết rơ thọ dụng ngọa cụ, thuốc thang cho đến lúc chết rồi có ích hay không có ích.
Do biết rơ như vậy được mười thứ quả báo thù thắng như vậy.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo con của trưởng giả Du ca rằng:
–Nghiệp nhân, nghiệp sanh, nghiệp nhân, nghiệp diệt, nghiệp có trước, sau, dẫn nghiệp, măn nghiệp sai biệt cho nên quả báo mới có cao, thấp, ngu trí cách biệt.
Khi đức Phật nói pháp này, lúc ấy trưởng giả Du ca bạch Phật
–Thưa Thế tôn, trong ḍng họ Ô bá tắc ca và trong tất cả các ḍng họ Sát-đế-lợi, Bà la môn ở nước Xá vệ này, nghe pháp này hoan hỷ, nhớ nghĩ và thọ tŕ. Quyến thuộc của chúng con đều rất yêu thích, măi măi được an lạc, lợi ích cho ḿnh và cho người không cùng tận.
Đức Phật dạy:
–Lành thay! Lành thay! Này trưởng giả Du ca, đúng như lời ngươi nói.
Đức Thế tôn nói lời ấy xong, trưởng giả Du ca, con của Đâu nễ dă và các Bí sô, vô lượng trăm ngàn người và không phải người v. v... hoan hỷ, phấn khởi, lạy Phật rồi lui ra.
Quyển Hạ Hết
|