Số 0050
PHẬT NÓI KINH THỌ TUẾ
Hán dịch: Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ.
Việt dịch: Thích Chánh Lạc
--- o0o ---
Nghe như vầy: “Một thời Bà Già Bà ở tại vườn trúc Ca Lan Đà, nước La Duyệt Kỳ, cùng đông đủ chúng đại Tỳ kheo để thọ tuế”.
Bấy giờ tôn giả Đại Mục Kiền Liên bảo các Tỳ kheo: “Này chư hiền! Vị Tỳ kheo Thọ Tuế thỉnh nguyện: “Xin các tôn giả nói với tôi, dạy dỗ tôi, giáo giới tôi, thương tưởng tôi”. Đó là lư do thứ nhất. V́ sao vậy ? Này chư hiền! Hoặc có người ương ngạnh, khó dạy bảo, cùng câu hội với pháp ác, th́ vị phạm hạnh không thể nói, cũng không giáo thọ, cũng không giáo giới, cũng không thương tưởng kẻ ấy. Đó là loại người thứ nhất.
Này chư hiền, thế nào là kẻ ương ngạnh, khó dạy bảo, dù cùng câu hội với vị phạm hạnh, nhưng vẫn không được vị phạm hạnh nói chuyện, vẫn không dạy bảo, cũng không giáo giới, cũng không thương tưởng kẻ ấy. Đó là loại người thứ nhất. Này chư hiền, hoặc có một người t́m cầu cái ác cùng câu hội với ác. Này chư hiền, ta bảo kẻ ấy cùng câu hội với ác, đó là pháp ương ngạnh, khó dạy bảo. Cũng như thế, bị nhiễm dục, sân hận, xan tham, tật đố, không xả, dối láo, dua nịnh, huyền ảo, không hổ, không thẹn, ôm hận, nói lời uất hận, mắng lại Tỳ kheo khiển trách ḿnh, nói cho mọi người biết vị Tỳ kheo đă chỉ trích ḿnh, chê bai lời nói của Tỳ kheo chỉ trích ḿnh. Tất cả lời lẽ đều nói lăng ngoài đề để tránh né, ôm ấp ḷng phẫn nộ mà rộng câu hội với ác tri thức, ác bằng hữu, không biết ơn, không báo ơn, đền ơn. Này chư hiền, những người không biết ơn, không báo đền, đó là những kẻ ngang ngược, khó dạy. Do đó, này chư hiền, người có tánh ngang ngược, khó dạy th́ dù câu hội với các vị Phạm hạnh, th́ các vị ấy cũng không nói chuyện, không dạy dỗ, không khiển trách, không thương nhớ. Đó là hạng người thứ nhất.
Này chư hiền, Tỳ kheo nên tự suy nghĩ. Này chư hiền, nếu ai có t́m cầu cái ác (dục) cùng câu hội với ác (dục) th́ ta không thương người đó. Nếu ta có ác dục, cùng câu hội với ác dục th́ người ấy cũng không thương ta. Tỳ kheo hăy quán sát như vậy, đừng có ác dục, nên học như vậy. Cũng như thế, ai bị nhiễm dục, sân hận, xan tham, tật đố, không xả bỏ, dối láo, dua nịnh, hư huyễn, không hổ, không thẹn, ôm ḷng sân hận, miệng nói lời sân kết, mắng lại Tỳ kheo khiển trách ḿnh, chê bai lời nói của Tỳ kheo khiển trách ḿnh. Tất cả lời nói đều ngoài đề để tránh né, ôm ḷng sân hận, rộng câu hội với ác tri thức và ác bằng hữu, không biết ơn, không báo đền. Này chư hiền, nếu ai vong ơn, không báo ơn, th́ ta không thương người ấy, và nếu ta vong ân, không báo ân th́ người ấy cũng không thương ta. Tỳ kheo hăy quán sát như vậy. Đừng là kẻ không báo ơn, nên học như vậy.
Này chư hiền, nếu Tỳ kheo không thỉnh cầu các Tỳ kheo rằng: “Xin các vị nói với tôi, dạy dỗ tôi, khiển trách tôi, thương tưởng tôi”. Đó là một hạng người. V́ sao ? Này chư hiền, hoặc có một người dễ bảo, cùng câu hội với giáo pháp nên các vị đồng phạm hạnh nói chuyện, dạy dỗ, khiển trách và thương nhớ người ấy. Người ấy là số một vậy. V́ sao ? Này chư hiền, người dễ dạy bảo, cùng câu hội với giáo pháp, mà được các vị đồng phạm hạnh nói chuyện, dạy dỗ, khiển trách, thương yêu. Người đó là số một. Này chư hiền, hoặc có một người không có t́m cầu cái ác (dục), không câu hội cùng ác. Này chư hiền, kẻ ấy v́ không có ác dục, không câu hội với ác dục, th́ đó là pháp dễ dạy bảo. Cũng như thế, không bị nhiễm dục, không sân hận, không xan tham, tật đố, không dối láo, dua nịnh, hư huyễn, biết hỗ, biết thẹn, không ôm ḷng giận, miệng không nói lời hận kết, không mắng lại Tỳ kheo khiển trách ḿnh, không nói với mọi người về Tỳ kheo khiển trách ḿnh, không phỉ báng lời nói của Tỳ kheo chỉ trích ḿnh, không nói ngoài lề để tránh né, không san hận mà lại rộn răi, không ở chung với ác tri thức cùng ác bạn hữu, không vô ơn mà nhớ ơn. Này chư hiền, v́ người ấy cùng tương ưng với giáo pháp. Đó là này chư hiền, kẻ dễ dạy bảo cùng tương ưng với giáo pháp. Cho nên được các vị đồng phạm hạnh nói chuyện, dạy dỗ, khiển trách và thương nhớ. Kẻ ấy là người số một.
Này chư hiền, Tỳ kheo nên tự suy xét. Này chư hiền, nếu ai không có ác dục, không câu hội với ác dục th́ ta thương người đó, và nếu ta không có ác dục, không câu hội với ác dục, th́ người đó cũng thương ta. Tỳ kheo nên quán như vậy, không nên ác dục, nên học như vậy. Không nên ác dục, nên học như vậy. Cũng như thế, không bị nhiễm dục, không sân hận, không xan tham, tật đố, không xả bỏ, không dối láo, dua nịnh, biết hỗ, biết thẹn, không sân kết, miệng không nói lời sân kết, không mắng lại Tỳ kheo khiển trách ḿnh, không nói với mọi người vị Tỳ kheo khiển trách ḿnh, không phỉ báng lời nói vị Tỳ kheo khiển trách ḿnh. Tất cả lời nói đều không nói ngoài lề để tránh né, không sân hận mà rộng răi, không câu hội với ác tri thức và ác bạn hữu, không quên ơn mà nhớ báo đền. Này chư hiền, nếu người nào không quên ơn, nhớ báo đền th́ ta thương yêu người đó. Nếu ta không quên ơn, nhớ báo đền th́ người đó cũng thương yêu ta. Tỳ kheo nên quán sát như vậy. Hăy không quên ơn, nhớ báo đền, nên học như vậy.
Này chư hiền, nếu Tỳ kheo quán sát như vậy: “Ta đang có các dục, cùng tương ưng với ác dục, hay không có ác dục, không tương ưng với ác dục th́ chắc chắn có nhiều lợi ích”. Này chư hiền, nếu Tỳ kheo quán sát mà biết được ta đang có ác dục, cùng tương ưng với ác dục th́ kẻ ấy sẽ không hoan hỷ. Do đó kẻ ấy mong cầu đoạn trừ dục. Này chư hiền, nếu Tỳ kheo lúc quán sát mà biết ta hiện không có ác dục, không tương ưng với ác dục th́ kẻ ấy liền vui mừng thấy ḿnh được thanh tịnh, trong sạch đang hành động trong cảnh giới của đức Phật . Thấy vậy rồi vui mừng mà tu hành.
Này chư hiền, thí như người có mắt cầm cái gương sáng tự soi mặt ḿnh. Này chư hiền, người có mắt ấy sẽ tự thấy mặt ḿnh dơ dáy nên trong ḷng không vui, kẻ ấy muốn rửa sạch chất dơ. Này chư hiền, nếu người có mắt ấy không thấy mặt ḿnh có vết dơ, kẻ ấy liền vui mừng thấy ḿnh được thanh tịnh. Kẻ ấy tự thấy như vậy rồi vui mừng mà thực hành. Này chư hiền, cũng như vậy Tỳ kheo quán sát mà biết ḿnh có ác dục, cùng câu hội với ác dục, kẻ ấy mong cầu đoạn trừ dục. Này chư hiền, Tỳ kheo quán sát mà biết ḿnh không có ác dục, không câu hội với ác dục, kẻ ấy liền vui mừng thấy ḿnh được trong sạch, thanh tịnh, đang ở trong cảnh giới của đức Phật. Thấy vậy rồi vui mừng mà thực hành.
Cũng như vậy bị nhiễm dục hay không nhiễm dục; cũng vậy có sân hận hay không có sân hận; cũng vậy có xan tham tật đố không xả, hay không có xan tham tật đố, không xả; cũng vậy có dua nịnh dối trá hay không có dua nịnh dối trá; cũng như vậy có sự không hỗ, không thẹn hay biết hỗ biết thẹn; cũng vậy có hận kết, để miệng nói lời hận kết hay không có hận kết để miệng nói lời hận kết. Mắng lại Tỳ kheo khiển trách ḿnh hay không mắng lại Tỳ kheo khiển trách ḿnh ? Nói với mọi người về Tỳ kheo khiển trách ḿnh hay không đem nói cho mọi người Tỳ kheo khiển trách ḿnh ? Phỉ báng lời nói vị Tỳ kheo khiển trách ḿnh hay không phỉ báng Tỳ kheo chỉ trích ? Tất cả lời lẽ đều nói ngoài lề để tránh né hay không dùng những lời lẽ nói ngoài lề để tránh né ? Có sân hận hay không sân hận ? Giao kết với ác tri thức cùng ác bạn hữu hay không giao kết với ác tri thức cùng các bạn hữu ? Không biết ơn, không báo ơn hay biết ơn, báo ơn ? Này chư hiền, Tỳ kheo quán sát biết rằng: “Ta là kẻ không biết ơn, không biết báo ơn”. Kẻ ấy trong ḷng không vui, liền mong muốn đoạn trừ.
Này chư hiền, nếu Tỳ kheo quán sát biết rằng: “Ta là kẻ không vong ơn biết báo ơn”. Kẻ ấy liền vui mừng thấy ḿnh trong sạch thanh tịnh, đang đi trong cảng giới của Phật Thế tôn, thấy như vậy rồi liền vui thích thực hành.
Này chư hiền, như người có mắt tự thấy mặt ḿnh có bụi dơ, kẻ ấy liền không vui và mong muốn rửa sạch. Này chư hiền, nếu người ấy không thấy mặt ḿnh có bụi dơ liền vui mừng là ḿnh được thanh tịnh. Tự thấy như vậy th́ vui thích mà tu hành. Cũng vậy, này chư hiền, Tỳ kheo quán sát và biết được ḿnh là kẻ vong ân, không báo ân, kẻ ấy liền không hoan hỷ, liền có ư muốn trừ bỏ. Này chư hiền, nếu Tỳ kheo quán biết là ta không phải là kẻ vong ân, không báo ân, kẻ ấy liền vui mừng cho rằng ḿnh trong sạch thanh tịnh đang đi trong cảnh giới của Phật Thế tôn. Do tự thấy như vậy rồi vui thích tu hành, do vui thích tu hành nên được hoan hỷ, do hoan hỷ nên thân tín hành, do thân tín hành nên biết an lạc, do an lạc nên định ư, do định ư nên biết như chơn, thấy như chơn; do thấy biết như chơn cho nên được nhàm chán xa ĺa (?), nhờ nhàm chán xa ĺa nên được vô nhiễm, do vô nhiễm nên được giải thoát, do giải thoát nên giải thoát tri kiến, biết như thật rằng: “Sanh đă hết, phạm hạnh đă thành, việc đáng làm đă làm xong, không c̣n tái sanh”.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói như vậy, các Tỳ kheo nghe tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói xong, hoan hỷ vui mừng.
PHẬT NÓI KINH THỌ TUẾ
|