Số 0027
PHẬT NÓI KINH THẤT TRI
Hán dịch:Đời Ngô, nước Nguyệt Chi Tam Tạng Pháp sư Chi Khiêm.
Việt dịch: Thích Chánh Lạc
--- o0o ---
Nghe như vầy:
Đức Phật du hóa tại rừng cây Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc, thành Xá Vệ. Đức Phật bảo các Tỳ kheo, hăy nghe những lời giáo huấn từ đức Phật: “Có bảy pháp hướng đạo đệ tử, làm cho đời này được an ổn vui vẻ, đa hạnh, tinh tấn pháp quán khiến cho sự tu tập được cứu cánh. Những ǵ là bảy pháp?
1. Tri pháp.
2. Tri nghĩa
3. Tri thời.
4. Tri tiết.
5. Tự tri.
6. Tri chúng.
7. Tri nhân.
Này các Tỳ kheo, sao gọi là Tri pháp? Đó có thể hiểu mười hai bộ kinh:
1. Văn.
2. Ca
3. Thuyết
4. Tụng
5. Thí dụ
6. Bổn khởi kư
7. Sự giải
8. Sanh truyện
9. Quảng bác
10. Tự nhiên
11. Hành
12. Chương cú.
Đó là Tri pháp. Không hiểu mười hai bộ kinh là không Tri pháp.
Sao gọi là Tri nghĩa? Tất cả điều nói trong kinh pháp đều phải hiểu rơ ư nghĩa, đó là Tri nghĩa. Tất cả những điều nói ra đều không hiểu ư nghĩa, đó là không Tri nghĩa.
Sao gọi là Tri thời? Biết lúc này có thể dùng tịch diệt tưởng, lúc này không dùng Thọ hành tưởng, lúc này có thể dùng Thận hộ tưởng, đó là Tri thời. Không hiểu thời thích hợp để hành động, đó là không Tri thời.
Sao gọi là Tri tiết? Có thể ăn uống ít, làm đại tiểu tiện lợi, được tiêu hóa, có thể điều tiết sự ra vào, ngồi đứng, đi bộ, nằm, thức, nói, im phải kiểm thúc, soi xét. Đó là Tri tiết. Không tự kiểm thúc soi xét là không Tri tiết.
Sao gọi là Tự tri? Tự biết thân ḿnh, ư ḿnh, biết mức độ nhiều ít về Trí, về Giới, về Văn, về Thí, về Huệ, về Giải, chỗ đạt được, chỗ đă thâm nhập hoặc sâu, cạn, dày, mỏng mọi việc đều phải tự biết. Đó là Tự tri. Không biết ư ḿnh thâm nhập mức độ nhiều ít, đó là không Tự tri.
Sao gọi là Tri chúng? Có thể biết chúng này hoặc chúng quân tử, hoặc chúng Lư gia, hoặc chúng Phạm chí, hoặc Sa môn, hoặc có lúc đến các chúng ấy, nên ngồi, nên đứng, nên nói hay nên im, phải biết tùy thời tùy nghi. Đó là Tri chúng. Không biết tùy thời tùy nghi đối với các chúng kia là không Tri chúng.
Sao gọi là Tri nhân? Như có hai người, một người tin đạo, một người không tin đạo. Người tin đạo th́ đáng khen ngợi, c̣n người không có ḷng tin th́ không đáng khen ngợi. Người tin đạo cũng có hai hạng: một người th́ đến đạo tràng, thích Sa môn, một người th́ không thường đến đạo tràng, trí biết sơ lược về Sa môn. Người thường đến th́ đáng khen ngợi, người không thường đến th́ không đáng khen ngợi. Người thường đến đạo tràng có hai loại: một người th́ ái kính Sa môn, một người th́ không ái kính Sa môn. Người ái kính th́ đáng khen ngợi, người không ái kính th́ không đáng khen ngợi. Người ái kính cũng có hai loại: một người th́ gần gũi để học tập với Sa môn, một người th́ không thân cận để học tập với Sa môn. Người thân cận học tập th́ đáng khen ngợi, người không thân cận học tập th́ không đáng khen ngợi. Người thân cận học tập cũng có hai loại: một người th́ thích hỏi kinh pháp, một người th́ không thích hỏi kinh pháp. Người thích hỏi th́ đáng khen ngợi, người không thích hỏi th́ không đáng khen ngợi. Người thích hỏi cũng có hai loại: một người th́ lắng tai nghe, một người th́ không lắng tai nghe. Người lắng tai nghe th́ đáng khen ngợi, người không lắng tai nghe th́ không đáng khen ngợi. Người lắng tai nghe cũng có hai loại: một người nghe pháp rồi thọ tŕ, một người th́ nghe pháp rồi mà không thọ tŕ. Người nghe pháp rồi thọ tŕ th́ đáng khen ngợi, người không thọ tŕ th́ không đáng khen ngợi. Người thọ tŕ cũng có hai loại: một người nghe rồi suy tư nghĩa lư, một người nghe rồi không suy tư nghĩa lư. Người nghe mà suy tư nghĩa lư th́ đáng khen ngợi, người nghe mà không suy tư nghĩa lư th́ không đáng khen ngợi. Người nghe pháp mà suy tư nghĩa lư có hai loại: một người thuận theo kinh hiểu nghĩa, thọ pháp, thuận theo pháp mà an lập, một người th́ không thuận theo kinh hiểu nghĩa, không thọ pháp, không thuận theo pháp mà an lập. Người thuận theo kinh hiểu nghĩa th́ đáng khen ngợi, người không thuận theo kinh hiểu nghĩa th́ không đáng khen ngợi. Người thuận theo kinh hiểu nghĩa có hai loại: một người chỉ tự an lạc cho ḿnh mà không an lạc cho người khác, không an lạc cho nhiều người, không thương tưởng thế gian, không lợi cho thiên hạ; một người th́ có thể tự làm an lạc cho ḿnh, cũng làm an lạc cho người khác, an lạc cho mọi người trong thiên hạ, thương xót thế gian, lợi lạc an ổn nhơn thiên.
Này các Tỳ kheo, nên phân biệt và biết: người mà tự an lạc cho chính ḿnh, có thể làm an lạc cho người khác, an lạc cho nhiều người trong thiên hạ, thương xót thế gian, lợi lạc an ổn cho thiên hạ, đó là người tối thượng, tối trưởng, tối tôn, rất tôn quư. Thí như từ ḅ sữa mà thành lạc, từ lạc làm thành tô, từ tô làm thành đề hồ. Đề hồ là tối thượng. Người như vậy là người ở giữa người, là bậc có hành động trên hết, có hành động tôn quư, có hành động rất tôn quư, là bậc tối thắng, là bậc có bổn nguyện tối vô thượng vậy.
Này các Tỳ kheo ! Có thể thấy hai loại người ấy th́ người sau là trí là cao; có thể phân biệt thấy người này là thiện, người này là vượt hơn. Đó là biết người.
Đức Phật nói như vậy xong, các Tỳ kheo đều hoan hỷ tin vâng.
PHẬT NÓI KINH THẤT TRI
|