|
55 Bài Sám Văn Phổ Thông
Tái Bản Lần Thứ 3, (Có Sửa Chữa Bổ Sung) Đồng Bổn biên tập - Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh - Phật Lịch 2541
Phần Thứ Nhứt Các Bài Sám Văn Phát Nguyện Và Hồi Hướng
1- SÁM HỐI PHÁT NGUYỆN (Sám hối nguyện I)
Đệ tử kính lạy Đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Thập phương chư Phật, Vô lượng Phật Pháp, Cùng Thánh Hiền Tăng, Đệ tử lâu đời lâu kiếp, Nghiệp chướng nặng nề, Tham giận kiêu căng, Si mê lầm lạc, Ngày nay nhờ Phật, Biết sự lỗi lầm, Thành tâm sám hối, Thề tránh điều dữ, Nguyện làm việc lành, Ngửa trông ơn Phật, Từ bi gia hộ : Thân không tật bệnh, Tâm không phiền não, Hằng ngày an vui tu tập, Phép Phật nhiệm mầu, Để mau ra khỏi luân hồi, Minh tâm kiến tánh, Trí tuệ sáng suốt, Thần thông tự tại, Đặng cứu độ các bậc tôn trưởng, Cha mẹ anh em, Thân bằng quyến thuộc, Cùng tất cả chúng sinh, Đồng thành Phật đạo.
- Là Bài tụng chính thức của Gia đình Phật tử. - Là Bài Sám hối chính thức của Hội Phật học Nam Việt. - Trích xuất từ "Nghi thức tụng niệm của GĐPT" do THPGTPHCM ấn hành 1990. 2- SÁM PHÁT NGUYỆN (I)
Một lòng quy kính, Phật A Di Đà, Thế giới Cực Lạc, Nguyện lấy hào quang, Trong sạch soi cho, Lấy thệ Từ bi, Mà nhiếp thọ cho, Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai, Vì đạo Bồ đề, Cầu sinh Tịnh độ. Phật xưa có thệ : “Nếu có chúng sinh Muốn sinh nước ta, Hết lòng tín nguyện, Cho đến mười niệm, Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác”. Do vì nhân duyên, Niệm hiệu Phật nầy, Được vào trong bể, Đại thệ Như Lai, Nhờ sức Từ bi, Các tội tiêu diệt, Căn lành tăng trưởng. Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết, Thân không bệnh khổ, Tâm không tham luyến, Ý không điên đảo, Như vào thiền định. Phật và Thánh chúng, Tay nâng kim đài, Cùng đến tiếp dẫn, Trong khoảng một niệm, Sinh về Cực Lạc, Sen nở thấy Phật, Liền nghe Phật thừa, Chóng mở Phật tuệ, Khắp độ chúng sinh, Trọn Bồ đề nguyện. Chúng sinh không số lượng, Thệ nguyện đều độ khắp. Phiền não không cùng tận, Thệ nguyện đều dứt sạch. Pháp môn không kể xiết, Thệ nguyện đều tu học. Phật đạo không gì hơn, Thệ nguyện được viên thành.
- Trích xuất từ "Nghi thức Tụng Niệm", Chùa Xá Lợi - Thành Hội Phật Giáo TPHCM ấn hành 1994. 3- SÁM PHÁT NGUYỆN QUY Y TAM BẢO (Sám phát nguyện II)
Đệ tử hôm nay quỳ trước điện, Chí tâm đảnh lễ đấng Từ Tôn, Đã bao phen sanh tử dập dồn, Trôi lăn mãi trong vòng lục đạo, Thế Tôn đã đinh ninh di giáo, Mà con còn đắm đuối mê say, Mắt ưa xem huyễn cảnh hằng ngày, Tai thích tiếng mật đường dua nịnh, Mũi quen ngửi mùi thơm bất tịnh, Lưỡi dệt thêu lắm chuyện gay go, Thân ham dùng gấm vóc sa sô, Ý mơ tưởng bao la vũ trụ, Bởi lục dục lòng tham không đủ, Lấp che mờ trí tuệ từ lâu, Hôm nay con giác ngộ hồi đầu, Xin sám hối phơi bày tỏ rõ, Nguyện tội ác từ nay lìa bỏ, Chuyển sáu căn ra khỏi lầm mê, Trước đài sen thành kính hướng về, Tịnh tâm ý quy y Tam Bảo, Phật giới cấm chuyên trì chu đáo, Dứt tận cùng cội rễ vô minh, Chí phàm phu tự lực khó thành, Cầu đức Phật từ bi gia hộ, Dầu phải chịu muôn ngàn gian khổ, Con dốc lòng vì đạo hy sinh, Nương từ quang tìm đến bảo thành, Đặng tự giác giác tha viên mãn.
- Trích xuất từ "Kinh Nhựt Tụng " Chùa Đại Giác ấn hành 1974 và 'Tuyển Tập các bài sám " bản in lụa - Các ban hộ niệm ấn hành 1989. - Bản đánh máy trong nghi thức tụng niệm của Chùa Già Lam - Gia Định 1981. 4- SÁM KHỂ THỦ NGHĨA (I)
Cúi đầu đảnh lễ, đấng Đại Từ Tôn, Tiếp dẫn chúng sinh về nước An lạc, Đệ tử phát nguyện, nguyện được vãng sanh, Xin nguyện Từ bi, xót thương gia hộ. Đệ tử khắp vì, Bốn ơn ba cõi, Pháp giới chúng sinh, Cầu đạo Bồ đề, Nhứt thừa vô thượng, Chuyên tâm trì niệm, A Di Đà Phật, Muôn đức Hồng danh, Cầu sinh Tịnh độ. Đệ tử phước cạn nghiệp sâu, Chướng dày huệ mỏng, Nhiễm tâm dễ khởi, Tịnh đức khó thành, Nay xin một lòng, Tin thành sám hối. Đệ tử trải bao số kiếp, Mê tâm bản tịnh, Phóng tham sân si, Nhiễm ố ba nghiệp, Vô lượng vô biên, Kết các oán nghiệp, Nguyện xin tiêu diệt. Đệ tử từ nay, Lập nguyện sâu bền, Xa lìa pháp ác, Thề chẳng tái phạm, Siêng tu Thánh đạo, Thề không thối đọa, Thề thành chánh giác, Thề độ chúng sinh. A Di Đà Phật, Lấy từ bi nguyện lực, Xin chứng giám cho, Xin thương tưởng cho, Xin gia hộ cho : Nguyện lúc thiền quán, Hay trong chiêm bao, Được thấy A Di Đà Phật, Thân vàng chói sáng, Được sanh A Di Đà Phật, Cõi nước Bảo nghiêm, Được ơn A Di Đà Phật, Cam lồ quán đảnh, Hào quang chiếu thân, Tay rờ đỉnh đầu, Y che thân thể, Khiến cho đệ tử, Tội chướng tiêu trừ, Căn lành tăng trưởng, Sạch dứt phiền não, Liền phá vô minh, Viên giác diệu tâm, Bỗng nhiên khai ngộ, Cảnh chơn tịch quang, Thường được hiện tiền. Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết, Thân không hết thảy Bệnh khổ ách nạn; Tâm không hết thảy Tham luyến mê hoặc; Các căn vui đẹp, Chánh niệm phân minh, Bỏ báo thân này, An như thiền định. A Di Đà Phật Cùng Quán Âm, Thế Chí, Các bậc Hiền Thánh, Phóng quang tiếp dẫn, Dìu dắt đề huề, Tràng phan lâu các, Hương lạ nhạc trời, Cảnh Phật Tây phương, Rõ bày trước mắt, Khiến cho chúng sinh, Kẻ thấy người nghe, Hoan hỉ cảm thán, Phát Bồ đề tâm. Đệ tử lúc ấy, Ngồi đài Kim Cang, Theo hầu sau Phật, Trong một khoảnh khắc, Sinh về Cực lạc, Giữa hoa sen xinh, Trong ao bảy báu, Sen nở thấy Phật, Thấy các Bồ Tát, Nghe dạy pháp mầu, Khiến chứng được quả, Vô sinh Pháp nhẫn. Ở trong giây phút, Thừa sự chư Phật, Thân được thọ ký, Thọ ký đã xong, Tam thân tứ trí, Ngũ nhãn lục thông, Trăm ngàn vô lượng, Đà la ni môn, Hết thảy công đức, Đều được thành tựu. Rồi sau đệ tử, Lòng nương An dưỡng, Trở lại Ta bà, Phân thân vô số, Cùng khắp mười phương, Thần lực tự tại, Không thể nghĩ nghì, Dùng các phương tiện, Độ thoát chúng sinh, Khiến lìa lòng nhiễm, Trở lại tánh chơn, Đồng sinh Tây phương, Chứng bậc bất thối. Đại nguyện như vậy, Thế giới không cùng, Chúng sinh không cùng, Nghiệp và phiền não, Hết thảy không cùng, Nguyện lực đệ tử, Cũng lại không cùng. Nay xin lễ Phật Phát nguyện tu trì Công đức khắp thí hữu tình, Rộng báo bốn ơn, Giúp cùng ba cõi, Pháp giới chúng sinh, Đồng viên chủng trí.
- Trích xuất xứ "Nghi thức tụng niệm" Chùa Xá Lợi Thành Hội Phật Giáo TPHCM ấn hành 1991. 5- SÁM HỐI NGUYỆN (II)
Cúi đầu làm lễ Như Lai, Chứng minh đệ tử ngày nay phát nguyền, Con xin đem dạ chí thiềng, Thành tâm sám hối nghiệp khiên đã làm, Bởi xưa chưa rõ dạ phàm, Nên chi kết tạo dây oan cõi trần, Gây ra tội lỗi vô ngần, Luân hồi trả quả lắm phần đớn đau, Vào sanh ra tử đã lâu, Dấn thân lao khổ gẫm âu khó lường, Xuống lên ba cõi sáu đường, Đền bù với những vết thương lỗi lầm, Trả vay vay trả trầm luân, Gian nan thống khổ vô ngần vô biên, Cũng vì nghiệp báo oan khiên, Do mình kết tạo triền miên nối đờøi, Nếu nay chẳng biết quy hồi, Ắt thời khó tránh qua đời kiếp sau, Vậy con thi lễ cúi đầu, Chí thành sám hối nguyện cầu ăn năn, Như xưa có phạm điều răn, Gây nên tội lỗi nhố nhăng đau lòng, Thì nay lòng dạ ân cần, Chuyên lo tu luyện chuộc phần tội xưa, Bao nhiêu nghiệp quấy xin chừa, Bao nhiêu điều thiện sớm trưa phụng hành, Ngày đêm giữ dạ sắt đinh, Trau dồi đạo đức sử kinh bền lòng, Nguyện thân ra khỏi bụi hồng, Muối dưa chay lạt nhiệt lòng say sưa, Tỉnh hồn chuông sớm mõ trưa, Nguyện tâm ra khỏi nắng mưa cõi trần, Xin nhờ Tam bảo ai lân, Từ bi hỷ xả thi ân dắt dìu, Nay con tỉnh biết mọi điều, Thế gian là khổ, nghiệp chiêu bởi mình, Từ nay nguyện dứt sự tình, Say sưa ảo ảnh mến hình mộng du, Bền lòng giữ chặt điều tu, Thề không sai lạc mặc dù gian nan, Chí tâm vững dạ bền gan, Nguyện không cảm kích thế gian mộng đời. Nguyện xa bể khổ chơi vơi, Nguyện thành Phật đạo đến nơi mãn nguyền, Nguyện cùng cắt đứt dây duyên, Nguyện rằng dứt khỏi oan khiên kéo dời. Lòng không say đắm sự đời, Chuyên cần tu niệm chẳng rời một khi, Dứt điều luyến ái mê si, Noi gương bác ái, từ bi trau lòng, Sửa tâm như đóa liên hồng, Luôn luôn trong sạch thoát vòng nhiễm ô, Chí thành miệng niệm Nam mô, Nguyện lòng con được tính vô hoàn toàn, Nguyện về nơi cõi Lạc bang, Nguyện cho ra khỏi những đàng tử sanh, Cúi nhờ chư Phật chứng minh, Bao lời sám hối con xin nguyện cầu.
- Trích "Tam Bảo Tôn Kinh" - Thích Ca Tự Sàigòn 1967. - Có đối chiếu lại với "Liên Hoàn Sám nguyện" của Thích Thiện Tâm - Sađéc 1992. 6- PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI (Sám hối nguyện III)
Đệ tử chúng con từ vô thỉ, Gây bao tội ác bởi lầm mê, Đắm trong sanh tử đã bao lần, Nay đến trước đài vô thượng giác; Biển trần khổ lâu đời luân lạc, Với sinh linh vô số điêu tàn, Sống u hoài trong kiếp lầm than, Con lạc lõng không nhìn phương hướng, Đoàn con dại, từ lâu vất vưởng, Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng, Xin hướng về núp bóng từ quang, Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước. Bao tội khổ trong đường ác trược, Vì tham, sân, si, mạn gây nên, Con hôm nay giữ trọn lời nguyền, Xin sám hối để lòng thanh thoát; Trí huệ quang minh như nhựt nguyệt, Từ bi vô lượng cứu quần sinh, Ôi ! Từ lâu ba chốn ngục hình, Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi, Theo gót Ngài vượt qua khổ ải, Nương thuyền từ vượt bể ái hà, Nhớ lời Ngài, “Bờ giác không xa Hành thập thiện cho đời tươi sáng, Bỏ việc ác, để đời quang đãng, Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân”. Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng, Con nguyện được sống đời rộng rãi, Con niệm Phật để lòng nhớ mãi, Hình bóng người cứu khổ chúng sanh, Để theo Ngài trên bước đường lành, Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ; Chúng con khổ, nguyền xin tự độ, Ngoài tham lam, sân hận ngập trời, Phá si mê, trí huệ tuyệt vời, Con nhớ đức Di Đà Lạc quốc, Phật A Di Đà thân kim sắc, Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào, Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc, Trong hào quang hóa vô số Phật, Vô số Bồ tát hiện ở trong, Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh, Chín phẩm sen vàng lên giải thoát, Quy mạng lễ A Di Đà Phật, Ở phương Tây thế giới an lành, Con nay xin phát nguyện vãng sanh, Cúi xin đức Từ bi tiếp độ.
- Trích xuất từ "Nghi thức tụng niệm " Chùa Xá Lợi ấn hành 1993. - Là bài tụng chính thức của Khóa Lễ Tịnh độ mỗi sáng chủ nhật của Hội Phật học Nam Việt. 7. SÁM PHÁT NGUYỆN (Sám phát nguyện III)
Chúng đệ tử hết lòng phát nguyện, Nguyện tu theo hạnh thiện tịnh nhơn, Dứt hết ba nghiệp ác nhơn, Bao nhiêu thiện nghiệp sanh lần lớn lên, Lòng cầu nguyện trang nghiêm thanh tịnh, Phước trí sanh quyết định hiện tiền, Nguyện Di Đà Phật cha hiền, Quan Âm, Thế Chí ái liên nhiếp lời, Thương con trẻ hiện thời tướng tốt, Phóng hào quang sáng suốt sạch trong, Thân tôi được chiếu suốt thông, Dứt rồi ba chướng sạch trong căn trần, Lòng cầu muốn hằng tu tịnh hạnh, Mong thân tâm đức Thánh thấm nhuần, Căn lành Tịnh độ giữ thuần, Chăm lòng niệm niệm chừng chừng không quên, Trong những giấc thùy miên mộng mị, Nguyện cho thường được thấy Tây thiên, Đủ điều tốt đẹp trang nghiêm, Vui ưng trong dạ, phỉ nguyền ước mong, Càng hăng hái sanh lòng tinh tấn, Nguyện đến khi xả tận báo thân, Giờ đà biết trước tỏ phân, Chướng duyên dứt sạch chẳng ngần ngại chi, Trí huệ sáng, niệm thì tăng trưởng, Không bịnh đau, hết vướng khổ phiền, Lòng không vọng tưởng đảo điên, Di Đà Phật hiện nghiểm nhiên sáng lòa, Theo bảo ngự hà sa Bồ Tát, Mắt trông ra khoái lạc vui mừng, Chỉ trong khoảnh khắc có chừng, Tức thời thoát được khỏi vòng trầm luân, Sanh về cõi muôn phần sung sướng, Về đến nơi tự tướng thấy liền, Mình sanh ngồi ở hoa sen, Hoa khai mong được Phật truyền thọ cho, Được thọ ký rồi lo nguyện cũ. Đem thân nầy tự tại hóa phân, Khắp trong cõi Phật vi trần, Thuận cơ các giống, tùy căn mỗi loài. Mở phương tiện làm hoài lợi lạc, Ích nhiêu nhiêu, Phật sát vô biên, Chúng sanh nhiều đến ức thiên, Thảy đều mở rộng tâm nguyên Bồ đề, Rồi rảnh khổ trọn bề thư thả, Chốn bể trần thảy cả bước qua, Đi về cõi Phật Di Đà, Là nơi Cực lạc vô ra thanh nhàn, Giữ một hạnh nguyện hằng như vậy, Niệm niệm hoài, giải đãi được đâu, Ngày nay mãi đến đời sau, Luôn luôn một niệm trước sau không ngừng, Con thề quyết đem thân trải khắp, Dứt nghiệp duyên tu tập tinh cần, Lại đem lòng miệng kính dâng, Chuyên làm Phật sự để hằng độ sanh.
- Trích "Kinh Di Đà Nghĩa và 36 bài sám hay" Thích Thiện Tâm- Sađéc 1961. 8. BÀI SÁM HỐI (Sám hối nguyện IV)
Trước bảo đài, chí thành phát nguyện, Khói mây lành Phật hiện chứng tri, Cúi đầu lạy đức Từ bi, Con xin sám hối ngày rày ăn năn, Xưa nay ô nhiễm bụi trần, Bởi thân, khẩu, ý bị màng vô minh.
1- Tạo ra các việc chẳng lành, Sát sanh hại vật chẳng tình xót thương, Giết ăn, hoặc bán không lường, Vì lòng tham lợi quên đường thiện nhơn, Giận vì nó phạm đến thân, Hoặc vì lợi ích, về ăn uống rày, Sớm, mai cho chí tối ngày, Bước chơn dậm chết, không hay cố lòng, Hoặc là đánh đập tưng bừng, Hoặc là giam nhốt, chẳng tường vật nhơn, Oan oan tương báo cõi trần, Trầm luân biển tối chịu phần khổ lao, Xét ra nhơn vật khác nào, Hại nhơn, nhơn hại mắc vào trả vay.
2- Lại thêm trộm sản cướp tài, Công người cực nhọc hằng ngày làm ra, Hoặc của thường trụ, thí gia, Của dân của nước khắp ra của người, Dầu cho một vật nhỏ nhoi, Không cho lén lấy, tội thời không xa, Lòng tham tính bảy lo ba, Mưu kia, kế nọ, lấy mà nuôi thân, Hoặc nuôi quyến thuộc xa gần, Làm cho người phải lắm lần than van.
3- Tà dâm tội trọng muôn ngàn, Liệu toan chước sách làm đàng chẳng ngay. Vợ con người phải lầm tay. Mất trinh thất tiết để tai tiếng đời, Xấu cha, hổ mẹ ôi thôi, Xa lìa chồng vợ, rã rời lứa đôi, Hình dâm mối dục không nguôi, Sa mê rồi đến như người thế gian, Thần dâm tư tưởng bàng hoàng, Chiêm bao tình tứ, sáu đường chơi vơi.
4- Vọng ngôn giả dối ngoài môi, Chuyện không nói có, có thời nói không, Dụng lời đâm thọc hai lòng, Phân chia quyến thuộc, vợ chồng anh em, Mắng nhiếc, chửi rủa pha gièm. Xóm làng cô bác chị em không chừa, Nói lời vô ích dây dưa, Nói lời hoa nguyệt, đẩy đưa đủ chiều.
5- Uống rượu sanh hại rất nhiều, Hăm ăn, mê ngủ, nói liều chẳng kiêng, Say sưa, ngã gió đi xiêu, Nằm bờ té bụi, như điên khác nào, Loạn tâm cuồng trí mòn hao, Ngu mê còn có chỗ nào biện phân !
6- Xan tham của cải, danh thân, Mong sang đoạt được, lại ưng hơn người.
7- Nết sân nóng giận không thôi, Toan làm hại chúng không nguôi trong lòng.
8- Si mê tin chạ chẳng phòng, Nghe đâu theo đó, không thông chánh tà, Chê bai Phật Pháp Tăng già, Quy y Tam bảo lòng tà chưa thôi.
9. Bởi lòng ái dục thúc thôi, Kiêu căng, ngã mạn, xem người không chi.
10. Lại thêm tật đố khinh khi, Ghét người tài giỏi, chê dè kẻ thua, Có ai tâng bốc thời ưa, Lên chưn, lớn giọng như vua trên đời. Xưng ra tội lỗi khúc nôi, Bởi vì vô ý phạm lời dạy răn, Hoặc sai kẻ khác làm xằng. Hoặc nghe, hoặc thấy lòng hằng hân hoan. Do nơi khẩu, ý cùng thân, Trong lòng tham ái, si, sân nên lầm, Lại từ kiếp trước xa xăm. Đến đời hiện tại, tối tăm đạo mầu, Bởi do chẳng rõ buổi đầu, Vô minh nên phải cuốn vào kéo xoay, Khác nào bè bị gió vay, Linh đinh mặt nước, lày quày khúc co, Xét con tội nghiệp dày to, Trải bao số kiếp ra vô sáu đường, Con nay sám hối tỏ tường, Tội xưa dứt hết, chẳng còn tăm hơi, Tội nay chừa bỏ lần hồi, Cải tà qui chánh, vun bồi thiện duyên, Kiên trì giới hạnh tinh chuyên, Thân tâm thanh tịnh, thoát miền trần gian, Bước ra cảnh khổ ba đàng, Thong dong tự tại, Niết bàn tiêu diêu, Độ luôn thất tổ thăng siêu, Duyên lành rồi cũng ít nhiều kết xây, Con xin hồi hướng từ đây, Chí thành lạy Phật khắp nơi đạo tràng. Cúi xin năm vóc đoan trang, Diệt lòng ngã mạn, tăng hoàn phước duyên, Chư Phật chứng lấy lời nguyền. Bốn loài ba cõi, các miền hữu vô, Thảy đều tội lỗi sạch khô, Dứt rồi nghiệp chướng ra lò lửa than, Sám hối, hối quá châu toàn Đến nơi Thánh quả không hoàn không lui.
- In trong "Kinh A Di Đà nghĩa và 36 bài sám hay" Thích Thiện Tâm - Sađéc 1961. - Đối chiếu Liên Hoàn Sám nguyện - cùng tác giả . 9. SÁM QUI MẠNG DIỄN NGHĨA (I)
Qui mạng lễ bực thầy Điều Ngự, Trong mười phương bày tỏ pháp mầu, Diệu huyền tịch tịch thanh tao, Các ngài Tăng Thánh ngồi cao tam thừa, Chúng tứ quả lên bờ giải thoát, Xin từ bi thương xót tiếp lời : Bởi vì đệ tử chúng tôi, Mất đi chơn tánh, luống trôi mê dòng. Phiêu trầm mãi trong vòng sanh tử, Nhiễm tánh tham, lụy ở sắc, thinh, Thập triền, thập sử quanh mình, Nghiệp nhân hữu lậu tựu thành từ lâu. Vọng khởi tạo biết bao tội lỗi, Bởi sáu căn hiệp với sáu trần, Mê man bể khổ trầm luân, Trôi lăn trong chốn u thâm tà đồ. Coi ta trọng, khinh cho người rẻ, Luống công làm nhiều lẽ vạy ngay, Bao đời nghiệp chướng nặng dày, Dập dồn xiết kể những rày khiên vưu. Ngưỡng Tam Bảo đức từ bi xót, Thảy một lòng thành thật ăn năn, Năng nhơn cứu độ phàm gian, Bạn lành dìu dắt khỏi đàng tai ương. Thoát ra được ngoài nguồn phiền não, Lên bờ kia trực đáo Bồ đề, Nguyện cho hết thảy đời ni, Diên niên mạng vị, nhiêu phì phước cơ. Lại nguyện đến ngày giờ lai thế, Các cơ năng chủng trí linh miêu, Thảy đồng khai phát đều đều, Ngày càng tăng trưởng mỹ miều xuê xoang. Nguyện lại được sanh thường trong nước, Lúc trưởng thành gặp được minh sư, Mở lòng chánh tín đi tu, Xuất gia nhập đạo kể từ đồng chơn. Sáu căn được tinh thông lợi mẫn, Ba nghiệp đều hòa huỡn thục thuần, Lòng không nhiễm trước duyên trần, Giữ gìn phạm hạnh luyện hằng thân tâm. Những cấm giới chuyên cần trì chấp, Nghiệp trần không xâm nhập được mình, Oai nghi gìn giữ nghiêm minh Bò, bay các loại chẳng tình tổn thương, Hằng thư thả không vương bát nạn, Và tứ duyên đều đặng viên thành, Hiện tiền Bát nhã quang minh, Kiên trì tâm giác tiến tinh chẳng lùi. Đạo chánh pháp cần vui tu tập, Giáo đại thừa liễu đạt chơn không, Hoát khai lục độ các môn, Ba kỳ khổ hải kíp đồng vượt qua. Pháp tràng dựng gần xa mọi xứ, Nghi võng đều phá vỡ mấy trùng, Chúng ma khiếp sợ qui tùng, Tiếp thừa Tam Bảo xương long thạnh mầu. Mười phương Phật, theo hầu phụng sự, Không nhọc nhằn chuyên chú một lòng, Tu học hết thảy pháp môn, Dốc thâu chánh đại, đạt thông lý mầu. Quyết mở rộng dồi trau phước huệ, Khắp trần gian, lợi thế lạc sanh, Thần thông sáu phép hiển linh, Nguyện cho Phật quả viên minh kiếp nầy. Trong pháp giới mới quày trở lại, Chốn bụi hồng lui tới bước chân, Noi gương Quan Thế từ tâm, Phổ Hiền nguyện hải quyết làm học theo. Cõi nầy với bao nhiêu cõi khác, Tùy theo từng loại các hình thù, Sắc thân ứng hiện chẳng từ, Diễn bày pháp nhiệm, dương phô lý mầu. Nơi địa ngục âu sầu khổ thú, Khắp các đường ngạ quỷ u thâm, Phóng quang muôn trượng chiếu lâm, Hoặc là biến hiện, thông thần đến nơi. Khiến đều thấy tướng tôi hóa hiện, Cùng là nghe danh tiếng của tôi, Phát tâm chánh giác ra rồi, Thoát luôn khỏi chốn luân hồi khổ ưu. Bao ngục lửa, những lưu băng tuyết, Đều biến thành những miệt rừng hương, Những nơi ăn sắt uống đồng, Hóa thân Tịnh độ, sanh luôn Niết bàn. Nào những giống lông mang sừng đội, Cùng những người phụ trái hàm oan, Thảy đều dứt tận tân toan, Thấm nhuần lợi lạc, an nhàn thong dong. Đời tật dịch bệnh ròng trầm trệ, Chế thuốc thang điều trị khỏi ngay, Đói nghèo cơ cẩn những ngày, Hóa sanh cốc mễ cứu đời ấm no. Việc lợi ích dẫu to hay nhỏ, Đều sùng hưng làm thuở phước duyên, Oan thân bao kiếp triền miên, Bà con tộc thuộc hiện tiền hưởng chung. Ra khỏi chốn bốn dòng chìm đắm, Dứt ái triền trong vạn kiếp xưa, Nguyện cùng hàm thức sanh đồ, Đều nên đạo Phật mới vừa nguyện tôi. Hư không nọ có ngày cùng tận, Nguyện tôi nay cứ vẫn còn hoài, Các loài trí giác thanh bai, Vô tình đều được tròn bồi trí linh. Chúng đệ tử, đồng tình hết thảy, Quyết tu hành tập lấy thiện duyên, Noi gương Bồ tát Phổ Hiền, Y theo thập nguyện lòng chuyên tinh cần. Một là lạy sát trần tôn Phật, Nguyện một lòng bền chặt kính tin. Hai là xưng tụng tán kinh, Oai thần đức tánh quang minh vô cùng. Ba sắm đủ hoa hương tinh khiết, Phan cái đem la liệt cúng dường. Bốn con sám hối luôn luôn, Nguyện cho nghiệp chướng thường thường sạch trong. Năm vừa thể theo công đức chánh, Khắp muôn vàn Hiền Thánh thích ham. Sáu cầu đức Phật hải hàm, Pháp luân thường chuyển tánh phàm độ qua. Bảy con nguyện : Phật đà ai mẫn, Xót hữu tình, trụ chấn thùy quang. Tám con tu học thường thường, Đại thừa chánh giáo chơn tường liễu thông. Chín mở rộng tấm lòng bi bác, Thuận muôn loài dìu dắt chúng sanh. Mười đem tất cả công trình, Nguyện cho pháp giới hàm linh thanh nhàn. Nguyện con ở trong hàng đệ tử, Giờ lâm chung gần bỏ báo thân, Bảy ngày trước sẽ đến gần, Cùng sau giờ đó qua lần ba hôm. Tâm chẳng dấy trầm hôn điên đảo, Ý vững vàng chẳng não loạn chi, Thân không bệnh khổ vướng vi, Lòng không bận bịu mảy may ái triền. Giờ sắp đến thoạt tiên dự biết, Thân và tâm chi xiết vi mừng, Kiết tường mà bỏ báo thân, Hoặc là tọa thoát thâu thần qui sơn. Nguyện đức Phật hiện thân tướng hảo, Đức Quan Âm tọa bảo liên đài, Với cùng Thế Chí hai Ngài, Biết bao hóa Phật đông dày trước sau. Trăm ngàn vị Tỷ kheo tịnh hạnh, Hàng Thinh Văn bực thánh kính tôn, Các trời đông thật không lường, Hiện ra cung điện rõ ràng thất trân. Bưng bảo tọa kim cang bền chắc, Trên thinh không thiên nhạc réo mừng, Khắp nhà nồng nực mùi hương, Trong ngoài bảo cái tràng phan trùng trùng. Rủ tay xuống hết lòng tiếp dẫn, Khiến muôn loài đều đặng thấy nghe, Sanh lòng vui vẻ say mê, Tự nhiên phát nguyện Bồ đề lớn lao. Bèn dứt dữ hướng theo điều thiện, Bỏ bờ tà về bến chánh chơn, Cúi xin Phật bố từ vân, Từ bi quảng đại ai lân nhiếp lời. Xin chứng giám lời tôi sám hối, Cùng minh tri tôi nguyện thân nầy, Xưa kia tạo nghiệp ác dày, Trước do tham dục, sân, si khởi triền. Thân, khẩu, ý theo liền hành ác, Tôi nay đều một loạt sám răn, Nguyện khi hấp hối đến gần, Bao nhiêu chướng ngại sạch trơn nhẹ nhàng. Lại được thấy dung nhan của Phật, Liền được sanh về đất Lạc bang, Hư không còn có lúc tan, Thế gian các cõi chẳng toàn vẹn đâu. Đến muôn loại cơ cầu cũng dứt, Phiền não và nghiệp lực cũng tiêu, Nguyện con như núi không xiêu, Hằng còn mãi mãi không hao không chìm. Nguyện học hạnh Phổ Hiền thù thắng, Hồi hướng bao nhiêu thắng phước lành, Khắp nguyền pháp giới chúng sanh, Mau lên thuyền nguyện về thành Lạc bang. Lương duyên kết cùng tam thế Phật, Cùng các ngài Bồ Tát đại nhân, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Đồng đăng Bát Nhã bể trần thoát qua.
- Trích từ "Kinh Di Đà nghĩa và 36 bài sám hay " có đối chiếu lại với "Liên Hoàn Sám nguyện" cùng tác giả Thích Thiện Tâm sưu tầm - Sađéc 1961. - Trong cả hai bản in đều mất hai chữ ở câu 48, biên giả bổ sung cho đầy đủ ý nghĩa và niệm luật. 10. SÁM KHỂ THỦ NGHĨA (II)
Cúi đầu lạy đức Pháp vương, Độ sanh về cõi Tây phương an nhàn, Tôi nguyền cho được bước sang, Cúi xin thương xót rước mang tôi về. Nay đệ tử thành tâm phát nguyện Vì bốn ơn ba cõi hữu tình, Khắp trong pháp giới chúng sanh, Cầu trên chư Phật ơn lành ban ra. Nhứt thừa đại, thật là vô thượng, Đạo Bồ đề, vô lượng chơn truyền, Hồng danh vạn đức kết duyên, Di Đà chuyên niệm, Tây thiên nguyện về. Bởi nghiệp trọng, thêm bề phước kém, Chướng đã sâu, huệ thiển vơi vơi, Lại thêm lòng nhiễm dễ bồi, Mà còn đức tịnh khó thời đạt nên. Nay tôi ở hiện tiền các Phật, Gieo vóc nằêm sát đất chí thành, Tỏ bày một tấm chơn tình, Thiệt lòng sám hối tội mình những bao. Ta cùng với những nào các loại, Trải qua bao nhiêu kiếp mãi đến nay, Bổn tâm tịnh đã mê say, Buông lòng tham ố, sân, si đủ điều. Ba nghiệp nhiễm, biết bao dơ uế, Gây tội tình, nào kể cho xong. Nghiệp oan kết đã vô cùng Ngày nay cầu nguyện hai đường sạch trong. Từ nay đến hết, lòng khẩn thiết, Gắng xa lìa việc ác chẳng sanh, Cần tu thánh đạo cho thành, Dứt đường thối chuyển, quyết tình tiến lên. Bực chánh giác, nguyện nên đạo cả, Chốn mê đồ, độ cả chúng sanh, A Di Đà Phật chứng minh, Dùng Từ bi lực, thương tình hộ cho. Cầu khi ngủ, tưởng mơ thấp thoáng, Hay khi trong thiền quán lặng an, Thấy Di Đà Phật rõ ràng, Hiện ra đức tướng sắc vàng quang minh. Đặng vào chốn nước thành đẹp đẽ, Toàn thất trân đầy vẻ trang nghiêm, Nhờ ơn đức Phật oai thiêng, Nước cam lồ rưới lên trên đảnh nầy. Hào quang sáng phủ vây thân thể, Cánh tay vàng Phật để đầu tôi, Lấy y Phật đắp luôn hồi, Khiến cho chướng cũ dứt rồi còn chi. Thiện căn lớn, lại lìa phiền não, Gốc vô minh, mở tháo khỏi lòng, Tánh mầu viên giác khai thông, Tịch quang chơn cảnh được trông thấy liền. Lúc lâm chung gần viên thân báo, Biết ngày giờ sắp đáo nhơn duyên, Thân không ách nạn khổ phiền, Lòng không một chút mê huyền thích ham. Các căn đã hân hoan viên mãn, Lại rõ ràng niệm quán chánh chơn, Nhẹ nhàng bỏ khúc báo thân, Như vào thiền định vui mừng thảnh thơi. Vô Lượng Thọ, một ngôi pháp chủ, Quan Âm cùng Thế Chí hầu kề, Thánh Hiền đông đủ ê hề, Phóng quang dìu dắt đề huề tiếp tay. Trong lầu các phất bay phan phướn, Hương đượm nồng nhạc xướng thanh tao, Tây phương thánh cảnh đẹp sao ! Hiện ra trước mặt, xiết bao vui mừng. Khiến hết thảy muôn trùng sinh chúng, Đều được nghe, thấy đúng không sai, Vui mừng cảm kích khen hoài, Bồ đề tâm địa kịp thời phát ra. Trong lúc ấy còn ta vui vẻ, Cỡi kim đài, hầu kế Phật gia, Móng tay vừa khảy búng ra, Đã về Cực lạc, đến nhà Tây phương. Ao thất bảo chín từng sen nở, Liền hóa sanh ngồi ở phẩm trên, Hoa nở thấy Phật hiện tiền, Các ngài Bồ Tát luân phiên chào mừng. Nghe Phật thuyết vô cùng pháp diệu, Nhẫn vô sanh, liễu chứng tức thời, Chỉ trong một khoảnh khắc thôi, Vâng thờ chư Phật cầu Ngài dạy cho. Được thọ ký còn lo chi nữa, Bốn trí về cùng thửa ba thân, Hiện bày ngũ nhãn, lục thông, Tổng trì vô lượng trăm ngàn pháp môn. Nào xiết kể các công đức tánh, Đều chung qui muôn hạnh tựu thành, Rồi sau trở lại nguyện mình, Tánh nương an dưỡng, thân hoành trần ai. Trong thế giới khắp mười phương cõi, Phân thân này qua lại vô cùng, Lực thần tự tại không lường, Phương nầy chước nọ mở đường độ sanh. Khiến lìa hết các tình nhiễm trước, Bổn tâm mau lại được tịnh thanh, Tây phương cõi Phật đồng sanh, Vào nơi bất thối, đến thành biến tri. Lời đại nguyện, gắng ghi như vậy, Chúng sanh và thế giới đó đây, Nghiệp duyên phiền não đông thay, Thảy còn mãi mãi, nguyện nầy không phai. Nay lễ Phật, nguyện nầy chí quyết, Rán tu trì nhứt thiết đức công, Bốn ân, ba cõi trả xong, Đáp đến ơn nghĩa khắp trong hữu tình, Như Lai chủng trí viên thành.
- Trích xuất và đối chiếu bổ sung ba bản in: 1. Kinh A Di Đà nghĩa và 36 bài sám hay. 2. Tam Bảo Tôn Kinh. 3. Liên Hoàn sám nguyện. - Chưa biết tác giả diễn nôm. 11. SÁM NGÃ NIỆM (I)
Ta nghĩ lại từ bao kiếp trước, Mất tánh linh nên chuốc trần lao, Luân hồi, sanh tử ra vào, Thay hình đổi xác khổ sầu phải cam. Có phước dư, đặng làm người thế, Gặp nếp xưa mới dễ xuất gia, Cạo đầu mặc áo Cà sa, Nỡ nào phá giới lại mà hủy trai. Không xót thương giết loài sinh vật, Dưỡng thân nhơ, dùng chất tanh hôi, Buông lòng lừa gạt của người, Của trong Tam Bảo dùng thôi đủ chiều. Làm tà mị không điều nhàm chán, Say rượu chè đắm sắc mê man, Khi Phật, hủy Pháp, báng Tăng, Vong ơn cha mẹ, phụ phàng đệ huynh. Ép người tài, lòng sanh tật đố, Lời chuốt trau, khoe thuở tài mình, Khống vu để đạt lợi danh, Phân bua phải quấy, tranh giành người ta. Hằng làm dữ, tưởng tà mãi mãi, Lại khua môi, đánh lưỡi vang rân, Tụng kinh niệm Phật bần thần, Chớ mà việc thế hằng làm tinh chuyên. Ấy ngoài phô tướng thiền xảo trá, Lòng đảo điên, dối giả khinh người, Tu hành biếng nhác ngủ chơi, Xan than tật đố không hồi hổ ngươi. Có làm gì vốn lời vườn ruộng ? Vớt được thây trôi chốn bể chăng ? Không lo chút thiện cho thân, Dễ đâu thoát khỏi ba đàng khổ kia ! Cúi xin Phật Di Đà gia bị, Thánh hiền Tăng, Thế Chí, Quan Âm, Phóng quang soi tỏ chiếu lâm, Ngưỡng trông lượng cả ơn thâm cứu rày. Bao tội chướng, từ nay về trước, Những khiên vưu, ba nghiệp sáu căn, Viên thành một niệm hồi quang, Tội và pháp giới, tánh hoàn lặng không.
- Trích từ "Kinh Di Đà nghĩa và 36 bài sám hay " cùng với Liên Hoàn sám nguyện của Thích Thiện Tâm - Sa đéc 1961. - Có đối chiếu, bỏ bớt một chữ dư ở câu 33 "Cứ xin đức Phật Di Đà gia bị" Thành : “cúi xin Phật Di Đà gia bị"để khi tụng không bị trật nhịp và cho đúng qui tắc niêm luật (người soạn). 12. SÁM NGÃ NIỆM (II)
Nghĩ con trải tự kiếp nào, Chơn tâm mất hết trần lao khởi hoài, Đường sanh nẻo tử vãng lai, Thay hình đổi dạng gặp tai nạn liền, Chút lành nhờ có túc duyên, Làm người lại được pháp truyền xuất gia, Hình dung tuy giống Tăng già, Hủy trai phá giới tạo ra tội nhiều, Sát sanh hại vật đủ điều, Tham mùi huyết nhục tưng tiu xác phàm, Của người buông dạ tham lam, Của trong Tam Bảo dụng làm của riêng, Khởi tâm tà ác liền liền, Rượu ngon gái đẹp càng ghiền càng ưa, Khinh Tăng hủy báng Phật thừa, Mẹ cha thầy bạn, ơn xưa bạc tình, Khoe hay che lỗi của mình, Sự người tốt đẹp lại sanh chê gièm, Đường danh nẻo lợi đua tìm, Thị phi nhơn ngã móng niềm đấu tranh, Lòng xằng dạ quấy hằng sanh, Khinh phù tán loạn vọng tình khởi luôn, Sự đời siêng sắn luôn luôn, Sự mình tụng niệm ra tuồng giểu chơi, Bề ngoài đạo đức lòe đời, Mà trong ngã mạn khinh người dám ghê. Biếng lười chỉ thích ngủ nghê, Tham lam bỏn xẻn ai chê cũng lỳ, Gốc nhơ nơi ruộng ích chi, Thây trôi giữa biển mấy khi cửu đình ? Đã không chút phước đở mình, Trong ba đường ác, khổ hình phải sa. Ngửa mong đức Phật Di Đà, Quan Âm, Thế Chí hai tòa Thánh Tăng, Phóng quang soi xuống cõi trần, Thương mà cứu độ cho thân mạng nầy, Tội tình kiếp trước đến nay, Sáu căn ba nghiệp tội gì cũng vong, Tỏ lòng tội tánh trống không, Một màu pháp giới vốn đồng thanh quang.
- Trích từ sách đã dẫn như bài sám Ngã niệm I. - Chưa rõ xuất xứ của tác giả diễn nghĩa. 13. PHÁT NGUYỆN VÀ HỒI HƯỚNG (Sám Qui mạng diễn nghĩa II)
Qui mạng mười phương Vô Thượng Giác, Pháp mầu vi diệu khắp tuyên dương, Thánh Tăng bốn quả, tam thừa độ, Hiển hiện tay vàng nguyện xót thương, Ngược dòng chơn tánh từ lâu, Chúng con trôi nổi ở đầu sông mê, Biết đâu là chốn đường về ? Bập bềnh sóng nước không hề đoái lui, Nguyên nhân hữu lậu gây rồi, Bao nhiêu nghiệp chướng lâu đời tạo ra. Biết đâu nẻo chánh, đường tà? Oan khiên nghiệp báo thật là nặng sâu. Nay con khẩn thiết cúi đầu, Phơi bày sám hối khẩn cầu hồng ân, Lòng thành cầu đấng Năng nhân, Từ bi cứu vớt trầm luân mọi loài, Nguyện cùng Thiện hữu xa khơi, Cùng lên bờ giác, lìa nơi não phiền. Kiếp nầy xin nguyện xây thêm, Cao tòa phước đức, vững nền đạo tâm, Chờ mong đạo nghiệp vun trồng. Từ bi trí tuệ nẩy mầm tốt tươi, Kiếp sau xin được làm người, Sinh ra gặp Pháp, sống đời chân tu, Dắt dìu nhờ bậc minh sư, Nương nhờ chánh tín, hạnh từ xuất gia. Lục căn tam nghiệp thuần hòa, Không vương tục lụy theo đà thế nhân, Theo đường tấn đạo nghiêm thân, Giữ gìn phạm hạnh, nghiệp trần lánh xa, Uy nghi phong độ sáng lòa, Lòng từ hộ mạng, trước là vi sinh, Lại thêm đầy đủ duyên lành, Bao nhiêu tai nạn đều thành như không. Bồ đề nguyện quyết một lòng, Đài gương Bát Nhã chơn không hiện tiền, Nghiêm tầm đạo hạnh tinh chuyên, Đại thừa liễu ngộ chứng truyền chơn tâm. Thoát ngoài "kiếp hải" trầm luân, Hoằng khai lục độ hạnh môn cứu người, Pháp tràng dựng khắp nơi nơi, Lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không. Tà ma hàng phục đến cùng, Truyền đăng, Phật pháp nối dòng vô chung, Vâng làm Phật sự mười phương, Không vì lao nhọc nản lòng tinh chuyên. Bao nhiêu thâm pháp diệu huyền, Thảy đồng thông đạt, thoạt nhiên độ mình, Nguyền đem phước huệ độ sinh. Chứng nên Phật quả, hoàn thành pháp thân, Tùy căn ứng hiện cõi trần, Phân thân vô số, độ dần chúng sanh, Nước Từ rưới khắp nhơn thiên, Mênh mông biển rộng lời nguyền độ tha. Khắp hòa thế giới gần xa, Diễn dương diệu pháp, trước là hiện thân, Những nơi khổ thú trầm luân, Hòa quang chiếu diệu, báo thân đẹp lành, Chỉ cần thấy dạng nghe danh, Bao loài thoát khỏi cực hình đớn đau. Phát lời nguyện ước cao siêu, Muôn ngàn khổ địa thảy đều tiêu tan, Bao nhiêu nghiệp trái hàm oan, Bao nhiêu đau khổ trong hàng súc sinh, Đều nhờ Phật lực anh linh, Sương tan núi biếc, bình minh rạng ngời. Thuốc thang cứu giúp mọi người, Áo cơm cứu giúp cho đời bần dân. Bao nhiêu lợi ích hưng sùng, An vui thực hiện trong vùng trầm luân, Bao nhiêu quyến thuộc, oan thân, Cũng nguyền vượt biển trần gian nổi chìm, Xa lìa ái nhiễm triền miên, Đoạn trừ những mối phược triền thân tâm, Vun trồng đạo nghiệp thiện nhân, Cũng bao loài khác, pháp thân hướng về. Hư không dù có chuyển di, Nguyện ta cũng chẳng có hề lung lay, Nguyện cầu vạn pháp bản lai, Hoàn thành trí nguyện, vững cây Bồ-đề.
- Trích từ "39 Bài Sám nghĩa " đối chiếu lại với "Liên hoàn sám nguyện" của Thích Thiện Tâm sưu tầm - Sađéc 1961. - Chưa rõ tác giả diễn nghĩa. - Tựa của Bài sám này theo Sa-môn Thích Thiện Tâm "Phát nguyện và Hồi hướng ". Tôn trọng bậc đi trước nên biên giả tôi giữ nguyên, chỉ chú thích thêm đây là bài "Sám Qui mạng diễn nghĩa " số hai, để các vị tụng đọc biết đây là bài diễn Nôm từ bài Qui mạng chữ Hán của Ngài Di Sơn Thiền sư bên Trung Quốc. Số hai là cách đánh số thống kê thứ tự các bài sám Qui mạng trong các dị bản.
Phần Thứ Hai Các Bài Sám Văn Tán Thán Phật Thánh Hiền Tăng
14. SÁM TỤNG PHẬT XUẤT GIA (I) (Mùng tám tháng hai)
Kính lạy Bồ Tát Tất Đạt Đa, Tánh đức từ bi hằng biểu lộ, Trải bao cuộc du hành mục đỗ, ( ) Xót sinh linh kiếp số trầm luân, Cảnh sinh, già, đau, chết, gian truân, Luống chịu khổ không ngừng gây khổ. Mê chấp tánh tham, si, tật đố, Mãi cùng nhau vầy ổ oan gia, Nợ tuần hoàn vay trả không xa, Trong sáu đạo trùng phùng quanh quẩn. Bồ Tát dũ Bà tâm lân mẫn ( ), Quyết hy sinh độ tận hữu tình, Đoạn ái ân phú quí riêng mình, Chọn điệu sống quang minh vô trụ ( ), Tìm hạnh phúc lâu dài đầy đủ, Cùng quần sinh hưởng thú yên lành, Gặp tuần trăng giữa lúc đêm thanh, Rời cung cấm băng thành tìm đạo. Hiếu tình đặt ra ngoài quyền sáo ( ), Mở lòng thương đại tạo bao la ( ), Chiếc thân vui bạn với yên hà ( ), Theo tiếng gọi lòng từ giục nhắc. Lên yên ngựa cùng tôi Xa Nặc, Lướt bụi hồng hướng nẻo rừng xanh, Non sông gấm vóc thiên thành, Cỏ hoa hớn hở bao quanh đón chào. A Nô Ma sóng vỗ rạt rào, Hy Mã Lạp tuyết ngời lóng lánh, Nơi đánh dấu bước đường lên Thánh, Dừng vó câu thả gánh tang bồng ( ), Gởi lời về tâu trước bệ rồng, Cầu vương phụ giải lòng trông đợi. Rừng khổ hạnh lần dò bước tới, Xét hành nhơn lầm lỗi nhiều phương, Bởi người chưa rõ lý chơn thường, Hạnh kỳ đặc hồi đầu vô ích ( ). Tạm dời gót trên đường điểu tích ( ), Tìm tận nơi tịch mịch thiên nhiên, Trọn sáu năm núi Tuyết tham thiền, Kham chịu cảnh màn trời chiếu đất ; Đầy ba đức cõi lòng chơn tịnh( ), Không ngại ngùng thú dữ ma thiêng. Công đức vừa đầy đủ nhơn duyên, Trên Pháp tọa Bồ đề chứng quả. Hóa độ khắp đại thiên thiên hạ, Muôn loài đều một dạ ghi ơn. Chúng con nay phát nguyện tu nhơn, Nhờ tắm gội từ vân pháp vũ. Trước bảo điện trì kinh niệm chú, Kỷ niệm ngày lịch sử thiêng liêng, Cúi xin Phật, Pháp, Thánh, Hiền, Gia hộ chóng tiêu trừ nghiêp chướng. Ngưỡng mộ đấng Pháp vương vô thượng, Nhứt tâm đồng đảnh lễ quy y. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (30 lần) Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. (3 lần) Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.(3 lần) Nam Mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
- Trích bản in trong “Nghi thức tụng niệm” chùa Xá Lợi ấn hành 1993. - Có một dị bản khác và hơn 3 câu trong “Nghi thức tụng niệm” chùa Đại Giác ấn hành 1974. 15. SÁM TỤNG PHẬT KHÁNH ĐẢN (I) (Rằm tháng tư)
Đệ tử hôm nay, Gặp ngày Khánh đản, Một dạ vui mừng, Cúi đầu đảnh lễ Thập phương Tam thế, Điều Ngự Như Lai, Cùng Thánh, Hiền, Tăng. Chúng con cùng pháp giới chúng sanh Bởi thiếu nhơn lành, Thảy đều sa đọa; Tham sân chấp ngã, Quên hẳn đường về, Tình ái si mê, Tù trong lục đạo, Trăm dây phiền não, Nghiệp báo không cùng, Nay nhờ Phật Tổ Năng Nhân, Dủ lòng lân mẫn, Không nỡ sinh linh thiếu phước, Nặng kiếp luân hồi, Đêm dài tăm tối, Đuốc tuệ rạng soi. Nguyện cứu muôn loài, Pháp dùng phương tiện. Ta bà thị hiện. Thích chủng thọ sinh. Thánh Ma Gia mộng ứng điềm lành, Vua Tịnh Phạn phước sinh con thảo. Ba mươi hai tướng tốt, Vừa mười chín tuổi xuân, Lòng từ ái cực thuần, Chí xuất trần quá mạnh. Ngai vàng quyết tránh, Tìm lối xuất gia, Sáu năm khổ hạnh rừng già, Bảy thất nghiêm tinh thiền tọa. Chứng thành đạo quả, Hàng phục ma binh, Ba cõi đều dậy tiếng hoan nghênh, Muôn vật thảy nhờ ơn tế độ. Chúng con nguyền, Dứt bỏ dục tình ngoan cố, Học đòi đức tánh quang minh. Cúi xin Phật Tổ giám thành, Từ bi gia hộ. Chúng con cùng pháp giới chúng sanh Chóng thành đạo cả. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.(30 lần) Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. (3 lần) Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. (3 lần) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.(3 lần) Nam mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
- Bài in trong “Kinh Nhựt Tụng”. Sen vàng xuất bản - Thành Hội Phật giáo TP. HCM tái bản 1994. - Đối chiếu trong "Nghi thức tụng niêm” chùa Xá Lợi Thành Hội Phật Giáo TP. HCM ấn hành 1993. 16. SÁM TỤNG VU LAN (I) (Rằm tháng bảy )
Đệ tử chúng con, Vâng lời Phật dạy, Ngày rằm tháng bảy, Gặp hội Vu Lan, Phạm vũ huy hoàng, Đốt hương đảnh lễ. Mười phương Tam thế, Phật, Pháp, Thánh Hiền, Noi gương đức Mục Kiền Liên, Nguyện làm con thảo. Lòng càng áo não, Nhớ nghĩa thân sinh, Con đến trưởng thành, Mẹ dày gian khổ, Ba năm nhũ bộ, Chín tháng cưu mang. Không ngớt lo toan, Quên ăn bỏ ngủ, Ấm no đầy đủ, Cậy có công cha, Chẳng quản yếu già, Sanh nhai lam lũ. Quyết cùng hoàn vũ, Phấn đấu nuôi con, Giáo dục vuông tròn, Đem đường học đạo. Đệ tử ơn sâu chưa báo, Hổ phận kém hèn, Giờ này quỳ trước đài sen, Chí thành cung kính, Đạo tràng thanh tịnh, Tăng bảo trang nghiêm. Hoặc thừa tự tứ, Hoặc hiện tham thiền, Đầy đủ thiện duyên, Dủ lòng lân mẫn, Hộ niệm cho : Bảy kiếp cha mẹ chúng con, Đượm nhuần mưa pháp. Còn tại thế : Thân tâm yên ổn, Phát nguyện tu trì. Đã qua đời : Ác đạo xa lìa, Chóng thành Phật quả. Ngửa trông các đức Như Lai, Khắp cõi hư không, Từ bi gia hộ. Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát. (3 lần)
- Bài in trong hầu hết kinh Nhựt tụng và Nghi thức tụng niệm ở miền Trung và miền Nam. Được Giáo Hội công nhận là bài tụng chính thức trong Lễ Vu Lan và trong nghi thức Gia đình Phật tử (1964). - Trích từ Kinh Diễn nghĩa của Tổ Huệ Đăng soạn. Tổ đình Thiên Thai Bà Rịa ấn hành 1967. 17. SÁM TỤNG PHẬT THÀNH ĐẠO (I) (Mùng tám tháng chạp)
Hào quang chiếu diệu. Sáng tỏ mười phương, Ngộ lý chơn thường, Phá màn hôn ám. Đệ tử lòng thành bài sám, Trước điện dâng hoa, Cúng dường Phật Tổ Thích Ca, Ba ngôi thường trú. Đệ tử chúng con, Nhân lành chưa đủ, Nghiệp báo theo hoài. Nay nhờ Văn Phật Như Lai, Giáng trần cứu độ, Sáu năm khổ hạnh, Bảy thất tham thiền, Ma oán dẹp yên, Thần long che chở, Tâm quang rực rỡ. Chứng lục thần thông. Lộ chiếu minh tinh, Đạo thành Chánh giác, Trời, người hoan lạc, Dậy tiếng hoan hô. Năm mươi năm hóa độ, Ba trăm hội đàm kinh, Cứu phàm ngu thoát khỏi mê đồ, Tiếp Hiền Thánh siêu sinh Tịnh độ Muôn đời xưng tán, Vạn đức hồng danh, Đệ tử chí thành, Lễ bày kỷ niệm. Tâm hương phụng hiến, Gọi chút báo ân, Ngửa trông Vô thượng Pháp vương Từ bi gia hộ. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.(30 lần) Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.(3 lần) Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.(3 lần) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.(3 lần) Nam mô Đạo Tràng Hội Thượng Bồ Tát.(3 lần)
- Trích trong "Nghi thức tụng niệm" Chùa Xá lợi Thành hội Phật giáo TPHCM ấn hành 1994, và trong "Liên Hoàn sám nguyện " của Thích Thiện Tâm. Sađéc 1961. 18. SÁM TỤNG PHẬT NIẾT BÀN (I) (Rằm tháng hai)
Đệ tử nay một lòng thành kính, Giờ phút này quì giữa Đạo tràng. Kỷ niệm ngày Phật Bát Niết Bàn, Trên đất Ấn thành Câu Thi cũ. Bốn bộ chúng tổ thành đầy đủ, Khắp Nhân Thiên hóa độ chu chuân. Chấp thuận lời cầu thỉnh Ba Tuần, Xả tuổi thọ trước kỳ ba tháng, Thần thông tạm trụ nơi thân mạng, Pháp yếu cần Di giáo Tôn đồ, Đại Tập đường hội họp Bí sô, Nhắc nhở lại các phần đạo phẩm, Khuyên tinh tấn thời thường suy gẫm, Chớ mảy may lười biếng buông lung, Liền phóng quang chiếu diệu lạ lùng, Khai thị trước nhân duyên diệt độ. Đều ba cõi Nhân Thiên thống khổ, Tiếc thương tràn huyết lệ thành mưa, Sự tình hai nghìn rưỡi năm xưa, Giở Di giáo Niết bàn đọc lại. Cảm động quá, lòng con tê tái, Tưởng tượng nhìn trạng thái Sa la, Giữa hàng cây Song thọ Diêm đà. Trên ngọn tháp nghiêng mình Từ Phụ. Khắp đại chúng mặt mày ủ rủ, Khóc than vật vã cực bi ai, Thế Tôn khuyên nén bớt tình hoài, Nhìn đạo lý vô thường sự vật, Đừng chấp trước huyễn thân còn mất, Hãy nương theo giới luật tu trì, Phật diệt còn Pháp đó quy y, Tinh nhất hẳn tới kỳ giải thoát. Kiến giải có gì chưa dứt khoát, Chóng nêu lên, cầu quyết tân nghi, Nhập Niết bàn đã sắp tới thì, Thời khắc đúng như khi thành Đạo. Nghe phó chúc lòng càng áo não, Trăm mắt nhìn thấu đạo Kim Thân, Chi tiết ngưng giao động lần lần, Như Lai đã chứng vui tịch diệt. Bốn chúng thảy nghẹn ngào mến tiếc, Khác nào đàn con mất mẹ hiền, Thụy linh ứng khắp Đại thiên, Tu Di nghiêng ngã đất liền động rung ! Phạm Vương, Đế Thích, Thiên Cung, Tung hoa trổi nhạc không trung cúng dường. Chúng con phúc bạc vận ương, Sinh xa đời Phật, thiếu phương tiện lành, Thiết tha cầu chứng vô sanh, Giới hương biểu lộ, tấc thành cúng dâng, Cúi xin Vô Thượng Năng Nhân. Từ bi gia hộ. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.(3 lần )
- Trích từ "Liên Hoàn sám nguyện" trang 196-199 - Thích Thiện Tâm - Sa đéc 1961, và trong kinh Nhựt Tụng chùa Đại Giác Saigòn 1974. 19. SÁM DI LẶC (I)
Đức Di Lặc ứng vào hiền kiếp, Phật thứ năm kế tiếp ra đời ( ), Thích Ca Phật Tổ nối ngôi, Thay quyền giáo hóa về thời đương lai. Chưa tới kỳ nên Ngài còn ở, Đâu Suất cung rực rỡ huy hoàng, Hóa thân trong khắp mười phương, Phương tiện thuyết pháp chỉ đàng chúng sanh. Nếu ai sẵn niệm lành tưởng Phật, Ngài tùy duyên tới mật độ cho, Từ bi Ngài vẫn hằng lo, Chúng sanh mê muội bởi do si lầm. Nên ứng tích Song lâm một kiếp, Phó Đại Sĩ ấy biệt hiệu Ngài, Đem toàn chánh pháp an bày, Quyền xảo phương tiện, thuyết khai độ đời. Lương Võ Đế nhằm thời trị quốc, Ngài nhiều phen rời bước tới thăm, Giải đáp chánh pháp diệu âm, Khiến được toàn quốc ân cần lo tu. Ngài từ bi chẳng từ lao khổ, Thường chuyển sanh, hóa độ chúng sanh, Nhà Lương, Phụng hóa, châu Minh, Bố Đại Hòa thượng ứng hình nhơn gian. Trán đã nhăn, lại mang bụng lớn, Thân no tròn, miệng chớm cười hoài, Thường ngày dạo bước khoan thai, Mang theo túi vải vừa dài vừa to. Nếu ai tưởng dâng cho một vật, Mở túi ra Ngài cất vào trong, An nhàn tự tại thong dong, Châu du khắp chốn một lòng độ sanh. Trong tịnh trí hiện hình lục tặc, Cứ đeo theo níu chọc ghẹo Ngài, Từ bi phổ cập muôn loài, Như tình phụ tử chẳng sai chút nào. Công đức ấy thật cao vòi vọi, Mong độ sanh thoát khỏi nhơn thiên, Người nào ăn ở nhơn hiền, Tu hành chơn chánh, Ngài liền độ cho. Độ đời sau chót hằng lo Dắt dìu mạt pháp qua đò sông mê, Chúng sanh nam nữ đồng về, Long Hoa hội thượng giác mê chỉ rành. Chúng con niệm đức Hồng danh, Di Lặc tôn Phật, chí thành kỉnh dâng. Nam mô Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật. (3 lần)
- Trích Kinh Nhựt Tụng - Chùa Đại Giác ấn hành - Sài gòn 1974. - Ở bản cũ thiếu mất 6 câu chót, nay bổ sung lại cho đầy đủ. (Biên giả) 20. SÁM THÍCH CA (Sám tán Bổn sư I)
Cúi đầu làm lễ Bổn Sư, Thập phương Điều Ngự điển từ lưu danh, Lòng thành thương xót chúng sanh, Trầm luân khổ hải chẳng đành ngó lơ. Phương tiện Ngài mới tùy cơ, Giáng sanh trần thế một giờ chẳng sai, Cung vua Tịnh Phạn đầu thai, Xuống làm Thái Tử mượn hài hóa thân. Sĩ Đạt Ta hiệu thánh nhân, Nối dòng họ Thích an dân trị vì, Ma Gia hoàng mẫu tới kỳ, Sanh Ngài bảy bữa liền đi chầu trời. Dưỡng dục ủy thác có nơi, Cho bà Di Mẫu thường thời trông nom, Thiều quang thắm thoát tiêu mòn, Năm mười chín tuổi vợ con đàng hoàng. Lầu son gác tía cao sang, Thế mà Ngài chẳng có màng chút chi, Một hôm bốn cửa dạo đi, Xem thấy tứ khổ lòng thì hoang mang, Lui gót trở lại đền vàng, Xin cùng Hoàng phụ tầm đàng xuất gia. Thương con chẳng nỡ rời xa, Dỗ khuyên ngăn đón ở nhà mà tu, Ngài tính không nên chù chừ, Một đêm lén trốn giã từ vợ con, Đi thẳng một mạch lên non, Sáu năm khổ hạnh thân mòn biết bao. Trí huệ sáng suốt thâm cao, Nhưng hình thể yếu tài nào đứng đi, Suy nghĩ rốt ráo một khi, Ngài liền xuất định tức thì đi ra. Xóm làng khất thực dạo qua, Bồi thân dưỡng thể nương mà công phu, Bồ đề tại gốc ngồi tu, Đại định bốn chín ngày thu nhứt thời, Đạo mầu liễu ngộ tuyệt vời, Quyết lòng độ chúng luân hồi thoát ra. Bốn chín năm ở Ta bà, Đem toàn chánh pháp nói ra độ đời, Đi cùng khắp thảy nơi nơi, Tùy duyên hóa độ đầy vơi chẳng màng, Thường dân tới bực quan sang, Cũng đều độ hết, sẵn sàng như nhau. Dắt dìu kẻ trước người sau, Tu theo Tịnh độ ngõ hầu rước qua, Cực lạc cõi ấy cao xa, Mười muôn ức cảnh Di Đà pháp vương. Từ bi đã sẵn lòng thương, Tiếp dẫn về đấy chỉ đường tu thêm, Sen vàng chín phẩm ở trên. Hào quang rực rỡ tứ biên sáng lòa. Nhắc khi truyền giáo Ta bà, Ngài hằng thệ nguyện thiết tha những lời: Ta nay phát nguyện độ đời, Chẳng cầu phước báu cùng thời chi riêng, Thương vì sanh chúng vô biên, Trầm luân khổ hải, đảo điên nhiều bề. Phát tâm tối thượng Bồ đề, Nguyện cùng muôn loại, đề huề một khi, Giác ngộ thành Phật oai nghi, Khắp trong pháp giới tức thì trang nghiêm. Như được trọn vẹn lời nguyền, Niết bàn tịch diệt bình yên ta về, Xét suy cũng một lời thề, Từ bi bác ái mọi bề cao sâu. Tức tâm tức Phật nhiệm mầu, Muốn được giải thoát lời cầu đâu xa, Tìm ngay trong tánh của ta, Hành theo hạnh nguyện Thích Ca chalành. Cúi xin Giáo chủ hồng danh Từ bi chứng giám tâm thành ngưỡng mong. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Ở bản in lần thứ nhứt và thứ hai, bài sám Thích Ca nguyên trong quyển "Tam Bảo Tôn Kinh" của Thích Ca Tự ấn hành, Gia Định 1968. Đoạn cuối bài sám gồm cả thảy 14 câu có lẽ không phải nguyên bản, chắc do người sau soạn lại theo ý mình. Nay chúng tôi tìm được một dị bản với đoạn cuối nói đúng ý nghĩa bài sám gồm cả thảy 20 câu (nhiều hơn bài cũ bốn câu). Nên xin được sửa lại cho đúng nguyên tác để tránh nhầm lẫn sau này. - Trích bản in trong "Nghi Thức Tụng Niệm" của chùa Đại Giác ấn hành - Sàigon 1974. Trang 337 đến trang 339. - Chưa rõ xuất xứ trước tác. 21. SÁM DI ĐÀ (Sám tán Di Đà I)
Muốn đi có một đường nầy, Nhứt tâm niệm Phật khó gì thoát ra, Vậy khuyên phải niệm Di Đà, Hồng danh sáu chữ thật là rất cao. Hay trừ tám vạn trần lao, Tham thiền quán tưởng pháp nào cũng thua, Di Đà xưa cũng làm vua, Bỏ ngôi bỏ nước vô chùa mà tu, Xét ra từ kiếp đã lâu, Hiệu là Pháp Tạng Tỷ kheo đó mà. Trong khi Ngài mới xuất gia, Bốn mươi tám nguyện phát ra một lần. Nguyện nào cũng lắm oai thần, Nguyện nào cũng trọng về phần độ sanh, Vì thương thế giới bất bình, Nên chi đầu Phật mà đành bỏ ngôi, Thầy là Bảo Tạng Như Lai, Bạn là Bảo Hải tức ngài Thích Ca. Thích Ca nguyện độ Ta bà, Di Đà nguyện mở cửa nhà Lạc bang, Mở ao chín phẩm sen vàng, Xây thành bá bảo đồ đàng thất trân. Lưu ly quả đất sáng ngần, Lầu châu cát ngọc mười phần trang nghiêm. Hoa trời rưới cả ngày đêm, Có cây rất báu có chim rất kỳ, Lạ lùng cái cảnh phương Tây, Mười phương cõi Phật cảnh nào cũng thua. Phong quang vui vẻ bốn mùa, Nước reo pháp Phật gió khua nhạc trời. Di Đà có thệ một lời, Mở ra cõi ấy tiếp người vãng sanh, Mười phương ai phát lòng lành, Nhất tâm mà niệm hồng danh của Ngài. Hằng ngày trong lúc hôm mai, Niệm từ mười tiếng đến vài ba trăm, Khi đi, khi đứng, khi nằm, Chuyên trì niệm Phật, lòng chăm phát nguyền. Nguyện sanh về cõi bảo liên, Là nơi Cực lạc ở miền Tây phương, Đến khi thọ mạng vô thường, Thì Ngài phóng ngọn hào quang rước liền. Biết bao phước đức nhơn duyên, Đã về Cực lạc còn phiền não chi, Sự vui trời cũng chẳng bì, Đêm đêm thong thả ngày ngày vui chơi. Sống lâu kiếp kiếp đời đời, Không già không chết không dời đi đâu.
- Bài do Tổ Huệ Đăng chùa Thiên Thai Bà Rịa trước tác- Được in và sử dụng trong hầu hết kinh Nhựt Tụng. - Trích từ "Kinh Tam Bảo Diễn nghĩa " của Tổ Đình Thiên Thai ấn hành 1994. 22. SÁM CHUẨN ĐỀ (Sám tụng chư Bồ tát I)
Chuẩn Đề Vương phép mầu linh hiển, Kim thân Ngài biến hiện nhiều tay, Tả biên hữu dực đủ đầy, Mỗi bên xuất hiện chín tay đàng hoàng. Cứ mỗi tay đều mang bảo vật, Để trừ tà cứu vớt chúng sanh, Từ bi Ngài sẵn lòng lành, Muốn độ muôn loại đắc thành quả cao. Ngài chứng quả ở vào quá khứ, Chưa chuyển sanh xuống trụ nhơn gian, Riêng nơi cõi Phật nghiêm trang, Chưởng quản chốn ấy an nhàn thảnh thơi. Ngài xem thấy người đời khổ sở, Lòng từ bi chẳng nỡ bỏ qua, Sự thương rộng lớn chan hòa, Như lòng người mẹ thật thà thương con. Bởi vì thế suy tôn Phật mẫu, Thất Cu Chi ấy báu hiệu Ngài, Đà La Ni kinh thuyết khai, Cầu cho hết thảy trong ngoài thế gian. Đều tỉnh ngộ hân hoan tu tập, Để mau mau vượt cấp kim giai, Chú thần linh hiển ít bài, Pháp môn quán tưởng của Ngài thật hay. Thương chúng sanh quá đầy phiền não, Lập pháp mầu chánh đạo độ tha, Thiện tín, xuất gia, tại gia, Tín tâm tưởng niệm, ắt là độ ngay. Phải trai giới hằng ngày soi xét, Cứ mỗi đêm y phép tham thiền, Hành giả tăng ích phước điền, Bổn tâm thanh tịnh nghiệp duyên tiêu mòn. Thường tin tưởng lòng son kiên cố, Công tu hành tiến bộ chẳng sai, Ba la mật địa quả bày, Bồ đề chánh giác kim đài thưởng công. Nam mô Thất Câu Chi Phật Mẫu Đại Thánh Chuẩn Đề Vương Bồ Tát.
- Trích "Liên Hoàn Sám nguyện" - Thích Thiện Tâm Sađéc 1961. - Đối chiếu "Nghi thức Tụng Niệm" - Thích Thiện Huệ Sàigon 1974. 23. SÁM QUAN ÂM (Sám tụng Quán Âm I)
Cơn sóng gió nổi trôi chiếc bách, Một mình ta vừa lách vừa bơi, Chơi vơi mấy độ chơi vơi, Vào trong sáu nẻo ra nơi bốn đường. Nầy Phật tử lục phương tế độ, Dụng sắc thân dạy dỗ người mê, Ấy là gió thổi mây về, Nước chao sóng dậy tư bề một phen. Đạo cao cả tập rèn diệu lý, Nước hương thơm miều mỹ tòa son. Ví như thể mẹ tìm con, Cảm thông ứng hiệp khai môn khắp cùng, Vì lẽ đó ta dùng Quán Thế, Bố thí nầy một thể ban ra, Thí thân nào có nại hà, Phải duyên ta thí để mà độ sanh. Chư Bồ Tát thường hành lục độ, Cơ duyên nầy nhiều thuở bố vi, Hễ ai có phước duyên thì, Niệm tâm vừa khởi các Ngài độ cho. Thừa Phật ấy nào đo nào lượng, Biết mấy đời đã hưởng đặc ân, Đã đành là sự thí thân, Thí tài, thí pháp cũng cần như nhau. Tài, pháp thí còn sâu còn rộng, Tài cho ra chẳng mộng chẳng nương, Đã cho thì chớ có tường, Thọ thì chớ nghĩ sự thường vốn không. Lòng bác ái cố công rèn đúc, Dắt người lên đến bực thăng bằng, Bao nhiêu cũng đủ, ta hằng, Chăm lo hành đạo vớt thăng luân hồi. Từ quá khứ các đời Bồ Tát, Chư Phật đều một loạt hóa sanh, Ra đời độ chúng hữu tình, Dìu ra nhà lửa đến thành Pháp vương. Nhơn duyên ấy lập phương khai thị, Phật tử nầy cố chí học theo, Thường hành Bồ Tát ráng chèo, Lìa từ thấp quả lần trèo lên cao. Thinh Văn bỏ, nhập vào Bồ Tát, Lấy nhơn duyên khai thác đạo mầu, Nay câu lục độ ráng trau, Pháp môn chỉ có bấy nhiêu đó mà. Một thừa Phật không ba không bốn, Bởi trí căn minh, độn mà ra, Tựu trung có một, một là, Phật thừa Bồ Tát ráng mà hành theo. Trong kinh nói đủ chiều muôn hạnh, Đủ sắc thân tướng tánh quang minh, Đủ thần thông lực tám ngành. Chung qui tánh kiến tâm minh tựu thành. Bồ-đề thọ, vốn mình không thọ, Giống hữu tình tuy có mà không, Có nhơn duyên mới hiệp đồng, Hiểu trong chơn thể tỏ tường bổn lai. Phật tức tâm, tâm ta có Phật, Tâm tức Phật, Phật ở nơi lòng, Nhẹ nhàng rửa sạch bụi hồng, Trau câu mô Phật thì lòng mới nguôi. Tâm tánh ấy mau chùi cho sạch, Gội bụi trần học cách thiền gia, Từ bi độ chúng hà sa, Nguy nan cứ dạ Ta bà lại qua. Quan Âm Phật Ta bà dạo khắp, Tìm nạn tại cứu cấp sanh linh, Ấy là lục độ trau mình, Ra ân bố thí dẹp tình phân chia. Thuyền Bát nhã nối tia nhựt nguyệt, Tam tạng kinh giải hết lục trần, Phá tan xiềng xích ái ân, Lo câu lục tự chuyên cần độ ta. Đạo cảm ứng Phật ta dung hợp, Nghĩa dung thông chỉ một không hai, Bóng hình hình bóng là ai, Trăng trong nước tịnh không sai bóng lòng. Trên liên tọa chín tầng hé nở, Tấm lòng thành một thuở hóa sanh, Sanh làm Phật, Phật độ sanh, Nhành dương nước tịnh anh linh độ đời. Phật Di Đà là người phàm tục, Đức Thích Ca vốn bực vương gia, Quan Âm cũng chỉ người ta, Thế Chí vốn là một kẻ đầu thai. Phật Hiền Thánh không ai thoát khỏi, Ở kiếp người đi đến Niết bàn. An tức tịnh, tịnh là an, Hiểu trong tâm trí thấy tràng hạt sen. Khắp lục đạo người chen kẻ lấn, Biển trầm luân mê tánh cho vui, Kìa lầu các, nọ cao ngôi, Ba hơi kết cuộc khó thời mang theo. Gây tội ác ngặt nghèo phải thọ, Trách đất trời sao ở bất công, Hỡi ai ghi lấy làm lòng, Trau câu niệm Phật để hòng độ thân. Ao thất bảo trân châu mã não, Cửu liên hoa ngôi báu dành đây, Muốn ra khỏi kiếp đọa đày, Ráng công tu luyện có ngày hóa sanh. Đừng mến tiếc Nam thành thế giới, Cõi Diêm phù tội lỗi mê tân, Cố công tham cứu học lần, Di Đà miệng niệm chuyên cần chớ sai. Trên Phật Thánh độ tai qua khỏi, Dưới phàm trần hết nỗi khổ luân, Ráng niệm, niệm bất ly thân, Sông mê thoát đặng hóa thân độ đời. Ma Ha Bát Nhã qua thời, Bước lên bờ giác thảnh thơi an nhàn.
- Trích từ "Tam Bảo Tôn Kinh" Thích Ca Tự Sàigòn 1967. - Đối chiếu sửa chữa lại với bản in "Liên hoàn sám nguyện" Thích Thiện Tâm - Sađéc 1961. 24. SÁM QUAN ÂM. (Sám tụng Quan Âm II)
Quan Thế Âm oai thần lồng lộng, Khắp thế gian đều trọng danh ngài, Chúng sanh hết thảy ai ai, Khi nào gặp nạn niệm Ngài liền qua. Bởi người thế gần xa ngưỡng mộ, Quan Thế Âm cứu khổ độ sanh, Nếu ai có một niệm lành, Hễ Ngài nghe tiếng ứng danh tới liền. Dù bịnh trọng liên miên khổ cực, Niệm danh Ngài lập tức khỏi ngay, Bao nhiêu tai nàn hằng ngày, Chí tâm niệm tới danh Ngài cũng qua. Vô lượng kiếp Ta bà thế giới, Ngài giáng sanh xuống cõi dương gian, Hóa thân công chúa đoan trang, Diệu Trang Vương ngự ngai vàng vua cha. Diệu Thanh ấy chính là chị cả, Sau cũng tu chứng quả Văn Thù, Diệu Âm chị thứ cũng tu, Phổ Hiền chứng Thánh đền bù công lao. Trọn một nhà được vào cảnh Phật, Lòng từ bi chơn chất đáng ghi, Tuổi nhỏ trí cả ai bì, Dốc lòng mộ đạo quyết thì đi tu. Trọn chín năm chẳng từ lao khổ, Mong công thành cứu độ chúng sanh, Thời kỳ trai giới tu hành, Tại động Hương Tích bắc thành ViệtNam.( ) Một cảnh tiên mây lam che phủ, Có cam tuyền, thạch nhũ bao quanh, Cảnh tốt dành cho người lành, Kim Đồng Ngọc Nữ ứng danh theo hầu. Dưới bệ ngọc chia nhau sớm tối, Chầu hai bên không lỗi đạo thầy, Luôn luôn chân chánh thẳng ngay, Hành theo ý chỉ của thầy ban ra. Quan Thế Âm danh là Tự Tại, Khắp tam thiên qua lại dạo chơi, Từ bi Ngài muốn độ đời, Mười hai đại nguyện thiệt thời cao xa. Nguyện nào cũng đều là rốt ráo, Chuyên tâm về chánh đạo độ tha, Biển Nam Hải, núi Phổ Đà,( ) Trụ ở nơi ấy cũng là Hương Sơn. Trong một phẩm Phổ Môn thị hiện, Đức Như Lai thuật chuyện khen Ngài, Oai thần linh hiển không hai, Tầm thinh cứu khổ chẳng nài công phu. Nếu có kẻ muốn tu cư sĩ, Hay cùng là tùy ý muốn chi, Ngài liền ứng hiện tức thì, Tới nơi dìu dắt cấp kỳ độ cho. Hay có kẻ qua đò mắc nạn, Cùng bao nhiêu tai nạn dọc đường, Chí thành đốt nén tâm hương, Vừa niệm danh hiệu tai ương qua liền. Những chuyện ấy hiển nhiên đều thấy, Đức Như Lai truyền dạy chẳng sai, Chúng ta chớ có quản nài, Một lòng ngưỡng mộ cầu Ngài độ cho. Trong khổ hải đò Từ vẫn đợi, Vớt chúng sanh đưa tới Lạc bang, Chín từng sen báu đài vàng, Di Đà thọ ký rõ ràng thảnh thơi. Từ bi cứu khổ độ đời, Tầm thinh giải nạn đến nơi an lành. Nam mô Tầm thinh Cứu khổ Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
- Bản in ở tuyển tập trong 2 lần xuất bản trước thiếu 2 câu chót - Có bổ sung đính chính hoàn chỉnh, sau khi đối chiếu so sánh lại từ 2 bản : “Tam Bảo Tôn Kinh” của Thích Ca Tự 1968 và “Kinh Nhựt tụng” của chùa Đại Giác 1974. 25. SÁM THẾ CHÍ (Sám tụng chư Bồ Tát II)
Đại Thế Chí thường hay hỷ xả, Lòng Từ bi thấu cả tam đồ, Phật tử như có nhiễm ô, Lỡ lầm có tội đọa vô ba đường. Ngài liền tới hiển dương Phật pháp, Khuyên ăn năn cải ác qui chơn, Hồi đầu hướng thiện nhứt tâm, Từ bi hỷ xả ân cần độ cho. Ngài để tâm hằng lo muôn loại, Vì vô minh vướng phải luân hồi, Trong vòng nhân quả đời đời, Ác sa địa ngục, phước thời nhơn thiên. Bởi vì thuở sanh tiền một kiếp, Vị hoàng hai tên thiệt Ni Ma, Vô Tránh Niệm hiệu vua cha, Ăn ở phước đức cả nhà đều tu. Nhờ Bảo Hải ngôn từ chơn Thánh, Khuyên cúng dường lập hạnh Bồ đề, Ngài nghe như tỉnh giấc mê, Trước Phật Bảo Tạng đề huề thưa qua. Nay con quyết lập ra đại nguyện, Xin chứng minh những chuyện con cầu: Từ nay vô lượng kiếp sau, Hành theo thập thiện, mưu hầu độ sanh. Bồ Tát đạo chuyên hành mãi mãi, Cốt dắt dìu muôn loại hữu tình, Tu hành chơn chánh tấn tinh, Đều thành Phật quả đinh ninh lời nguyền. Đức Bảo Tạng Ngài liền thọ ký: Cõi trang nghiêm quản trị sau nầy, Thiện Trụ Trân Bảo Như Lai, Trải vô lượng kiếp hiệu Ngài như trên. Hiện bây giờ ở bên Cực lạc, Cảnh Tây phương đẳng giác thường chầu, Di Đà giáo chủ đứng đầu, Trợ dương chánh pháp ngõ hầu tiếp sanh. Ngài vẫn sẵn niệm lành độ chúng, Hễ ai ai trì tụng tu hành, Tùy duyên hiển hiện ứng danh, Mê tân dắt khỏi, giác thành đưa lên. Nam Mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát.
- Trích đối chiếu trong hai bản : "Tam Bảo Tôn Kinh" Thích Ca Tự - Gia Định 1968 và "Kinh Nhựt Tụng " Chùa Đại Giác - Sàigon 1974. 26. SÁM ĐỊA TẠNG (Sám tụng chư Bồ Tát III)
Địa Tang Vương lập nhiều đại nguyện, Đã trải bao biến chuyển tăng kỳ, Phân thân khắp chốn dạo đi, Quyết lòng độ chúng thoát thì trầm luân. Nếu còn kẻ lưng chừng khổ não, Ngài chẳng đành chứng đạo Bồ đề, Trong mười cửa ngục gớm ghê, Còn thấy tù tội chưa hề trống không. Ngài thệ nguyện chẳng mong chứng Phật, Lòng từ bi mới thật rộng sâu, Mong chúng sanh trình độ cao, Hiểu sâu đạo cả, công lao tu hành. Tới khi ấy lợi danh phủi sạch, Khắp nơi nơi thanh bạch thái bình, Như Lai nói Địa Tạng kinh, Cung trời Đao Lợi, công trình Ngài tu. Vô lượng kiếp hiền từ có một, Trải bao đời chỉ cốt tu nhân, Làm thân trai, gái, vua, dân, Kiếp nào Ngài cũng ân cần lợi tha. Có kiếp hóa Bà la môn nữ, Dốc một lòng khuyên nhủ mẹ già, Sau khi chết xuống Diêm la, Thương xót cầu Phật hiệu là Giác Hoa. ( ) Tấm lòng thành cũng hòa cảm Phật, Nên chỉ đường cứu vớt tội căn, Quang Mục, Trưởng giả hóa thân, Kiếp nào Ngài cũng giữ phần hiếu nhân. Đời nhà Tấn, muôn dân an lạc, Hiệu Vĩnh Huy, Ngài thác sanh ra, Thánh trào cung điện Tân La, Tên Ngài Kiều Giác, chính là họ Kim. Hăm bốn tuổi quyết tìm đạo cả, Núi Cửu Hoa tĩnh tọa tu thân, Bảy lăm năm lánh bụi trần, Vừa chín chín tuổi chứng phần quả cao. Trong thời ấy Cát Hào họ Mẫn, Cứ mỗi năm một bận trai đàn, Tới kỳ cúng Phật cầu an, Ông đều sửa lễ đoan trang thỉnh Ngài. Xuống chứng đàn trai Tăng rực rỡ, Đem phép mầu hóa độ chúng sanh, Mẫn Công có một trai lành, Đạo Minh tên hiệu ứng danh theo Ngài. Hai mươi năm chẳng nài công khó, Nên người mau tỏ rõ đạo mầu, Quy y con trước cha sau, Cả hai chứng quả, theo hầu hai bên. Kiếp chót Ngài như trên đã kể, Thiệt vẻ vang cho kẻ tu hành, Một trăm mười chín hưởng sanh ( ), Nhập diệt ba chục, tháng lành mạnh thu( ). Bởi nhiều kiếp công tu rốt ráo, Ngài đắc thành thánh đạo hiển dương, Phong đại thánh Địa Tạng Vương, U minh giáo chủ, dẫn đường độ sanh. Dưới địa ngục, U thành một cõi, Nhờ đức Ngài bớt khỏi cực hình, Biết bao tù tội chúng sinh, Ăn năn sám hối tụng kinh tu hành. Cung Đao Lợi xướng danh Địa Tạng, Đức Như Lai khai giảng cho Ngài, Tới đời tượng, mạt trần ai, Thay cầm chánh pháp an bài độ sanh. Đợi tới kỳ giáng sanh Di Lặc, Ấy là ngày công đắc viên thành, Thiệt là hiển hiển linh linh, Phân thân mười cõi biến hình dạo chơi. Nếu có kẻ tưởng trời niệm Phật, Tùy duyên lành, Ngài mật độ cho, Sông mê dìu dắt qua đò, Tới nơi bến giác tự do thanh nhàn. Tay cầm tích trượng châu vàng Động tan cửa ngục cứu toàn chúng sanh Thành tâm tưởng niệm hiệu danh Hiện thân cảm ứng ngục thành tiêu tan Nam Mô Minh vương Cứu khổ Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.
- Có đối chiếu và bổ sung thêm bốn câu chót - Trích từ hai bản in (sách đã dẫn) 27. SÁM MỤC LIÊN. (Sám tụng Vu Lan II)
Con quỳ lạy Phật Thích Ca, Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên, Lòng con mộ đạo tu hiền, Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay, Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày, Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành, Lục thông đầy đủ nên danh, Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công, Đền ơn cho bú ẵm bồng, Liền dùng đạo nhãn xem vòng thế gian, Thấy vong mẹ khổ muôn ngàn, Ốm gầy đói khát trong đàng quỉ ma, Mục Liên kêu mẹ khóc la, Đau lòng thương mẹ đọa sa Diêm Đình. Thanh Đề nhìn thấy con mình, Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công, Con ơi! Mẹ đói trong lòng, Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than, Vội vàng trở lại thế gian, Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng. Và cơm vô miệng nửa chừng, Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than, Mục Liên xem thấy kinh hoàng, Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình. Mẹ ơi ! Niệm Phật độ mình, Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già. Thích Ca đức Phật phân qua, Mẹ ngươi tội nặng đọa sa nghiệp hành, Ta truyền cứu tế pháp lành, Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền. Cầu cho phụ mẫu hiện tiền, Lục thân quyến thuộc bình yên điều hòa, Bảy đời phụ mẫu đã qua, Về trời hưởng phước sáng lòa hào quang, Vui chơi thong thả thanh nhàn, Ngày rằm tháng bảy lập đàn trai Tăng, Sắm cơm trăm món đồ ăn, Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng, Chiếu giường, bồn nước, mùng màn, Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm, Những đồ vật quí bông thơm, Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh. Cúng dường Tam bảo cầu kinh, Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang, Cầu cho thí chủ trai đàn, Tâm lành thiền định vái van chúc nguyền, Thanh Đề khổ ách hết liền, Ngày rằm tháng bảy thành tiên về trời. Noi gương hiếu thảo đời đời, Xót thương phụ mẫu hiện thời nuôi con, Nhai cơm cho bú hao mòn, Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng, Trời cao đất rộng mênh mông, Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn. Tu hành báo tứ trọng ân, Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành, Mục Liên đại hiếu tu hành, Báo ân phụ mẫu nên danh độ đời.
Phần Thứ Ba Các Bài Sám Văn Cầu An, Cầu Siêu Và Tịnh Độ
28. SÁM CẦU AN (I)
Con quỳ lạy Phật chứng minh, Hai hàng Phật tử tụng kinh cầu nguyền, Cầu cho thí chủ hiện tiền, Nội gia quyến thuộc bình yên điều hòa, Thọ trường hưởng phước nhàn ca, Phổ Môn kinh tụng trong nhà thảnh thơi. Quan Âm phò hộ vui chơi, Mười hai câu nguyện độ đời nên danh, Thiện nam tín nữ lòng thành, Ăn chay niệm Phật làm lành vái van. Quan Âm xem xét thế gian, trầm, Mau mau niệm Phật Quan Âm, Tai qua nạn khỏi định tâm sáng lòa, Đương cơn lửa cháy đốt ta, Niệm danh Bồ Tát hóa ra sen vàng. Gió Đông đi biển chìm thuyền, Niệm danh Bồ Tát sóng tan hết liền. Tà ma quỉ báo khùng điên, Niệm danh Bồ Tát mạnh liền khôn ngoan. Vào rừng cọp rắn nghinh ngang, Niệm danh Bồ Tát nó càng chạy xa. Tội tù ngục tối khảo tra, Quan Âm tưởng niệm thả ra nhẹ nhàng. Bị trù bị ếm mê mang, Quan Âm niệm niệm vái van tịnh bình. Quan Âm thọ ký làm tin, Tùy duyên thuyết pháp độ mình hết mê. Nương theo Bồ Tát trở về, Thấy mình ngồi gốc Bồ đề giống in, Tay cầm bầu nước tịnh bình, Tay cầm nhành liễu quang minh thân vàng, Cam lồ rưới khắp thế gian, Tốt tươi mát mẻ mười phương thanh nhàn. Quan Âm cứu hết tai nàn, Độ đời an lạc mười phương thái bình, Quan Âm điểm đạo độ mình, Quan Âm Bồ Tát chứng minh độ đời.
- Trích từ "Kinh Nhựt Tụng" Nhà in Sen Vàng - Sài gòn 1970 và "39 bài sám nghĩa " của Thích Thiện Tâm - Sađéc 1961. 29. SÁM CẦU SIÊU (I)
Trên bảo tọa khói hương nghi ngút, Tấm lòng thành nhiệt huyết từ đây, Mây lành năm sắc phủ vây, Chở che nhơn loại lắm thay oan hồn. Vẫn biết chữ “tử qui, sanh ký”, Người trần ai, ai dễ sống lâu, Nhưng vì nghĩa nặng ơn sâu, Thương tình đồng loại với nhau một giòng. Bất cứ là kẻ Âu người Á, Giống da nào cũng loại sanh linh, Đạn rơi súng nổ thình lình, Nỡ đem toàn thể tan tành thịt xương. Đệ tử tôi hết lòng cầu khẩn, Xin Phật từ cứu độ vong linh, Ngưỡng nhờ lượng Thánh cao minh, Xót thương đoái tưởng phù sanh khốn nàn. Sanh bất hạnh nhằm thời mạt pháp, Chịu trăm bề khốn khổ xiết bao, Sống thời vất vả lao đao, Thác không toàn thể thây giao tử thần. Bơm rơi xuống tan xương nát thịt, Đạn bay ngang phách lạc hồn kinh, Sẵn lòng khấn vái đinh ninh, Hồn nương mây bạc linh đinh cõi ngoài. Xin kíp đến qui y Tam Bảo, Nước nhành dương rửa sạch lòng trần, Gội nhuần đức Phật thâm ân, Bao nhiêu tội chướng cũng lần đặng tiêu. Dạ chí thiết cúi đầu bệ ngọc, Chí ân cần siêu độ vong linh, Trời cao bể rộng mông mênh, Bao la vạn tượng hồn linh an nhàn. Nay hết lúc lầm than khổ sở, Kíp trở về Cực lạc Tây phương, Ta nay hưởng phước Lạc bang, Tiêu diêu cực điểm ngày ngàn thảnh thơi. Xin nhắc nhở ai ơi nghe lấy, Ráng gìn lòng giữ vững đạo tâm, Đức nhuần mầu nhiệm huyền thâm, Mặc dù sanh tử thân tâm lẽ thường. Kiếp nhân sanh là đường tạo hóa, Nẻo luân hồi khứ khứ lai lai, Hữu tình hữu hoại đổi thay, Sắc không không sắc mới hay vô thường. Dầu tài sắc trăm năm cũng thế, Kiếp phù sanh há dễ sống lâu, Vong hồn ơi hỡi lo âu, Rán lo kinh kệ ngõ hầu siêu thăng.
Trích và đối chiếu từ hai bản "39 bài Sám nghĩa" và "Tam Bảo Tôn Kinh " (Sđd). Có sửa chữa lại cho đúng hơn lần in trước. 30. SÁM CẦU SIÊU (II)
Xây mặt đến Tây phương Cực lạc, Lạy đức Thầy tiếp bạt chúng sanh, Mong Thầy thương đến vong linh, Độ về Cực lạc nên danh sen vàng. Ví dầu vong lắm nghiệp oan, Nhờ ơn đức Phật thoát nàn thọ sanh, Bởi hồn nghiệp trọng phước khinh, Chướng đầy huệ mỏng, phàm tình tối tăm. Chết đi sống lại xoay vần, Ở trong nhà lửa lắm lần đổi thay, Chấp thân chấp ngã thiệt dày, Tham, sân, si muội hằng ngày chẳng lơi. Sát sanh hại vật giết người, Tà dâm, trộm cắp, lời sai, rượu ghiền. Gièm pha, thêu dệt, đảo điên, Kiêu căng, tật đố lại thêm kiến tà, Khinh khi Tam Bảo người ta, Lờn thầy, cãi mẹ, nghịch cha, bất bình. Dấn thân vào chốn lợi danh, Tạo nhơn kết quả gây thành oan gia, Nay dầu hồn có xuất ra, Nghiệp nào báo nấy chịu qua cực hình. Nay tôi phát nguyện chí thành, Trước ngôi Tam Bảo gieo bền lòng ngay, Mở gan trải dạ tỏ bày, Hết lòng sám hối hồn rày nhờ nương. Nguyện hồn giải hết oan ương, Từ đời kiếp trước không lường đến nay, Hết cơn mê tối dại ngây, Sân, si cũng dứt, nhớ lời dạy khuyên. Tịnh thanh ba nghiệp thuần nhiên, Nước cam lồ sái sạch liền còn đâu, Ví dầu tội nghiệp chất đầu, Nguồn ân bể ái thảm sầu cạn không. Ngửa trông đức Phật bao dung, Tội mòn nghiệp hết thoát vòng khổ ba, Nguyện cầu Từ phụ Di Đà. Đem lòng quảng đại độ mà hồn lên, Hồn đà dứt hết nghiệp duyên, Phát ra chánh niệm tinh chuyên vững vàng, Hồn huờn giác tánh rõ ràng, Thấy Di Đà Phật hào quang rạng mình. Cầu hồn sắc tướng quang minh, Thấy Di Đà Phật tâm tình vui an, Nguyện hồn về cảnh Lạc bang, Thấy Di Đà Phật tòa vàng nói kinh. Hào quang Phật chiếu thanh minh, Tay vàng rờ đảnh, nước lành thanh lương, Tánh linh mầu nhiệm tỏ tường, Mau nghe chánh pháp dứt đường trần lao. Tòa sen rực rỡ trong ao, Đỏ, vàng, xanh, trắng tuôn hào quang ra, Hồn ngồi chểm chệ xem hoa, Phật cùng Bồ Tát hằng hà nhóm đông. Hồn nghe pháp nhiệm tỏ lòng, Chứng vô sanh nhẫn chơn tông thượng thiền, Chỉ trong giây phút thành duyên, Tam thân, tứ trí tánh thiêng nhớ hoài. Sáu thông, năm mắt, hiện lai, Bao nhiêu công đức đủ đầy huyên thuyên, Hồn về cõi Phật ở yên, Cũng nên để bước độ duyên Ta bà, Thần thông biến hóa phân ra, Mười phương độ hết người mà trầm luân.
Trích từ "Kinh Di Đà Nghĩa và 36 bài sám hay" đối chiếu lại với "Liên Hoàn sám nguyện " Thích Thiện Tâm - Sađéc 1961. 31. SÁM CẦU SIÊU (III)
Đạo tràng nghi ngút khói hương, Mười phương chư Phật xót thương muônngàn, Phật đài cao tột nghiêm trang, Chúng con Phật tử hai hàng cầu siêu. Cầu cho vong giả nghiệp tiêu, Dứt điều oan báo, đủ điều phước duyên. Cầu trên chư Phật hiện tiền, Độ cho vong giả về miền Lạc bang. Ví dầu vong lắm nghiệp oan, Nhờ ơn chư Phật dứt đàng tử sinh, Vô thường chi phối thình lình, Làm cho người thế hồn kinh phách tà. Mong cầu đức Phật Di Đà, Phóng ra một ngọn chói lòa hào quang. Trong khi tiếp dẫn rõ ràng, Dắt hồn ra khỏi sáu đường nghiệp nhân. Quán Âm Bồ Tát hóa thân, Tay cầm nhành liễu tay bưng kim đài, Theo cùng Thế Chí các Ngài, Thảy đều tiếp độ lên ngai sen vàng. Sẵn sàng bảo cái tràng phan, Có mùi hương lạ có đàng ngọc xây, Các trời đứng sẵn trên mây, Nghe rền thiên nhạc đi ngay một đường. Hồn về đến cõi Tây phương, Thấy ao thất bảo với hương ngũ phần, Lưu ly quả đất sáng ngần, Nước ao bát đức xoay vần chảy quanh. Thất trân có bảy lớp thành, Bảy hàng cây báu bảy vành lưới châu, Nào là ngân các kim lâu, Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe. Nghe rồi tỏ đạo Bồ đề, Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê hết liền. Được sanh về chín phẩm sen, Nghiệp oan dứt sạch, nhơn duyên sẵn tròn. Di Đà thương xót độ con, Con đà gặp mẹ chẳng còn lo chi, Thất trân báu vật thiếu gì, Dùng cơm hương tích, mặc thì áo châu, An vui giải thoát không sầu, Không già, không chết có đâu luân hồi. Tánh xưa nay đã tỏ rồi, Gương xưa cũng đã hết hồi trần ô, Tu hành chẳng đợi kiếp mô, Bỏ tà theo chánh dứt đồ quỷ ma. Hồn về Cực lạc liên hoa, Phật cùng Bồ Tát hằng hà quá đông. Hồn nghe pháp nhiệm tỏ lòng, Ngộ luôn sáu pháp thần thông nhớ hoài. Lòng trong trí sáng ai ai, Phước duyên công đức phép tài tự nhiên. Hồn về Cực lạc ở yên, Sau rồi trở lại hóa duyên Ta bà. Thần thông biến hóa hiện ra, Mười phương cứu độ, trẻ già vãng sanh. Nguyện hồn về cõi Lạc thành, Hoa sen chín phẩm nêu danh tỏ tường, Trọn lành hưởng cảnh Tây phương, Tội tiêu nghiệp dứt kiết tường thanh lương. Di Đà giáo chủ Tây phương, Độ vong hồn đặng lên đường Lạc bang.
- Trích từ "39 Bài sám nghĩa" và đối chiếu sửa chữa bổ sung từ "Kinh Nhựt Tụng" chùa Đại Giác - Sài gòn 1974. 32. SÁM PHẬT TỔ (Sám tán Di Đà II)
Cúi đầu làm lễ Tây phương, Cha lành bốn bể dẫn đường cho con, Một lòng gìn giữ vuông tròn, Sân, si nghiệp chướng nay con nguyện chừa. Rèn lòng kinh kệ sớm trưa, Nguyện con ra khỏi nắng mưa cõi trần, Ngưỡng cầu đức Phật thi ân, Đoái thương đệ tử trong trần sớm lên. Nay con trai giới giữ bền, Nguyện về Cực lạc làm nên độ người. Từ đời vô thỉ mấy mươi, Bởi chưng mê muội lánh mười việc nhơn. Muôn trông đức Phật điểm đơn, Thọ truyền đệ tử dứt cơn não phiền, Bền lòng tới chốn Tây thiên, Cầu về Cực lạc thanh liên đời đời, Quyết lòng mỏi mệt chẳng rời, Giữ gìn đạo đức việc đời bỏ đi. Cúi xin Phật Tổ từ bi, Dắt dìu con trẻ liên trì thẳng qua, Bởi vì mê muội sai ngoa, Quên trong chơn tánh vào ra luân hồi. Quyết lòng học tập trau dồi, Nguyện làm nên đạo đền bồi bốn ơn, Dốc lòng niệm Phật chẳng sờn, Về nơi Tịnh độ chỉ đờn làm nên. Con nay tình nguyện xông lên, Cúi gieo năm vóc dạ bền thiết tha, Ngưỡng cầu đức Phật Di Đà, Dắt dìu đệ tử vượt qua cõi trần. Từ rày khuya sớm ân cần, Chướng dày thệ dứt lánh lần đường xưa. Cho dầu nghiệp cũ dây dưa, Nguyện con ra khỏi nắng mưa cõi đời. Thệ con nên Phật mới thôi, Cứu vòng đọa lạc mới hồi tịnh bang, Nguyện lên chín phẩm sen vàng, Độ loài mọt mạy muôn ngàn thảnh thơi. Như con gần có qua đời, Nguyện cầu Phật Tổ tới nơi tiếp về, Ở trong ba cõi đắm mê, Lộn vào nhiều kiếp chớ hề thở than. Ngưỡng trông đức Phật mở mang, Đoái thương đệ tử muôn ngàn xuống lên, Nguyện về Cực lạc vững bền, Liên hoa phụ mẫu cõi trên thanh nhàn.
- Trích đối chiếu sửa chữa bổ sung từ ba bản in : Tam Bảo Tôn Kinh, Kinh Nhựt Tụng chùa Đại Giác, Liên Hoàn Sám nguyện (sđd). - Chưa biết xuất xứ trước tác. 33. SÁM NIỆM PHẬT (Sám tán Di Đà III)
Một lòng giữ niệm Di Đà, Hồng danh sáu chữ thật là rất cao, Năng trừ tám vạn trần lao, Người đời nên sớm hồi đầu mới hay. Khuyên ai xin chớ mê say, Tịnh tâm niệm Phật việc gì cũng an, Niệm Phật tội nghiệp tiêu tan, Muôn tai ngàn họa khỏi mang vào mình. Niệm Phật mở trí cao minh, Bao nhiêu hôn chướng chẳng sinh vào lòng. Niệm Phật cứu đặng tổ tông, Khỏi nơi biển khổ thoát vòng sông mê. Niệm Phật thân tộc đề huề Một nhà sum hợp chẳng hề ghét nhau. Niệm Phật khỏi khổ khỏi đau, Bao nhiêu tật bịnh mau mau hết liền. Niệm Phật có phước có duyên, Tấn tài tấn lợi bình yên cửa nhà. Niệm Phật trừ đặng tà ma, Yêu tinh quỉ quái lánh xa ngàn trùng. Niệm Phật năng khử độc trùng, Các loài ác thú hóa hung làm hiền. Niệm Phật hết khùng hết điên. Có gương trí huệ có đàng quang minh. Niệm Phật khỏi sự bất bình, Sự người chẳng nhớ sự tình chẳng ưa. Niệm Phật cứu số long đong, No cơm ấm áo thung dung mãn đời. Niệm Phật cảm động khắp nơi, Ai ai cũng mến người người đều thương. Niệm Phật sanh dạ hiền lương, Từ bi thì có, bạo cường thì không. Niệm Phật trời cũng thương lòng, Thường thường ủng hộ cả trong đêm ngày. Niệm Phật thần cũng kính vì, Thường hay trợ niệm trong khi đứng ngồi. Niệm Phật lòng chẳng bồi hồi, Như cây không gió nhánh chồi chẳng rung. Niệm Phật khỏi sự hãi hùng, Gian tà đạo tặc chẳng chung tới nhà. Niệm Phật giấc ngủ an hòa, Chiêm bao không có niệm tà đều không. Niệm Phật oan trái trả xong, Nợ trần kiếp trước hết mong hết đòi. Niệm Phật trăm việc xong xuôi, Dầu sanh dầu tử cũng vui tấm lòng. Niệm Phật hết sự đèo bồng, Chẳng ham tài lợi bỏ vòng công danh. Niệm Phật uế nhiễm chẳng sanh, Cái gương tâm tánh như vành trăng thu. Niệm Phật lòng có sở cầu, Muốn tu thời đặng dễ đâu sai lầm. Niệm Phật huờn đặng chơn tâm, Bao nhiêu nghiệp cảm tiêu trầm biển khơi. Niệm Phật chắc sống trọn đời, Khỏi vòng nước lửa khỏi nơi hung tàn. Niệm Phật thân thể bình an, Khỏi vương ách nạn chết oan trên đời. Niệm Phật bổ đức các nơi, Phá tan địa ngục rã rời ma quân. Niệm Phật, Phật phóng hào quang, Các ông hóa Phật ngồi ngang trên đầu. Niệm Phật, Phật chẳng bỏ đâu, Niệm đâu Phật đó phải cầu chi xa. Niệm Phật chắc Phật rước ta, Tây phương đã sẵn một tòa bông sen. Niệm Phật phải niệm cho chuyên, Thì bông sen ấy liền liền tốt tươi. Niệm Phật niệm niệm không rời, Tinh thần đã sớm dạo chơi liên trì. Niệm Phật lơ láo ích chi, Sen kia khô héo khó mà tốt tươi. Niệm Phật cần phải kỉnh thành, Giữ cho thanh tịnh trong mình lục căn. Niệm Phật như nước với trăng, Nước trong trăng tỏ, nước nhăn trăng lờ. Niệm Phật có lắm huyền cơ, Miễn đừng đem dạ nghi ngờ là xong. Niệm Phật giữ một tấm lòng, Di Đà oai đức minh mông biển trời. Đức Phật biến hóa khắp nơi, Thương người cứu vớt những người trầm luân. Chí tâm niệm Phật tinh cần, Lâm chung hậu nhựt trọn phần vãng sanh.
- Trích đối chiếu, sửa chữa lại từ bốn bản in : Kinh Nhựt Tụng chùa Đại Giác, Tam Bảo Tôn Kinh, 39 bài sám nghĩa, Liên Hoàn Sám nguyện (sđd ) - Chưa rõ xuất xứ của người trước tác. 34. SÁM ĐẠI TỪ (Thập phương diễn nghĩa I)
Mười phương cõi Phật hằng sa, Pháp vương thứ nhứt Di Đà lớn thay, Cảm oai đức Phật cao dày, Ao sen chím phẩm độ nay phàm tình. Tôi tin có Phật gởi mình, Một bề lánh dữ theo lành mà thôi, Phước lành bằng chút mảy chồi, Gắng làm cho trọn lòng tôi không rời. Nguyện đồng niệm Phật mỗi người, Cầu cho cảm ứng theo thời hiện ra, Mãn duyên thấy Phật Di Đà, Tây phương chói rạng sáng lòa mắt tôi. Kẻ nghe người thấy tiếc ôi, Rủ nhau tin tưởng lần hồi tu theo, Tỏ đường sanh tử các điều, Y như Phật dạy, dắt dìu chúng sanh. Dứt lòng phiền não mê tình, Không lường pháp nhiệm nguyện hành học tu, Thệ nguyện độ hết phàm phu, Đều nên đạo Phật ngao du độ đời. Lòng này chẳng dám lộng khơi. Hư không mòn hết nguyện tôi còn hoài, Nguyện cho cây, cỏ, đá, chai, Bò, bay, máy, cựa, các loài thung dung, MỘT là nguyện Phật thần thông, Chứng minh đệ tử thành công lâu dài. HAI là nguyện lạy Như Lai, Cầu cho già trẻ gái trai làm lành. BA là phát nguyện chí thành, Cúng dường Tam Bảo tứ sanh khỏi nàn. BỐN là nguyện dứt nghiệp oan, Vượt qua biển khổ ba đường thoát qua, NĂM là nguyện học Thiền na, Bạn lành nương cậy thầy tà lánh xa. SÁU là nguyện Phật nói ra, Xoay vần chánh pháp khắp tòa đặng nghe. BẢY là nguyện Phật chở che, Ở lâu dạy bảo người nghe tỏ lòng. TÁM là nguyện bạn ở chung, Những lời Phật dạy học cùng với nhau. CHÍN là nguyện trước nhớ sau, Thuận theo thế tục dám đâu trái lời. MƯỜI là nguyện khắp trong đời, Quay mình bước tới thẳng dời Lạc bang. Tôn sư diễn nghĩa ít hàng, Cầu cho bá tánh Tây phương mau về.
- Bài sám của Tổ Đại Từ trước tác- Chưa rõ xuất xứ của Tổ - Được in trong hầu hết các kinh Nhựt Tụng từ xưa đến nay - Là bài sám Thập phương nghĩa, biên giả đặt cho mã số thống kê trong các dị bản là I. 35. SÁM TỪ VÂN (Sám Nhứt tâm nghĩa I)
Một lòng mỏi mệt không nài, Cầu về Cực lạc ngồi đài liên hoa, Cha lành vốn thiệt Di Đà, Soi hào quang tịnh chói lòa thân con. Thẩm sâu ơn Phật hằng còn, Con nay chánh niệm lòng son một bề, Nguyện làm nên đạo Bồ đề, phương. Phật xưa lời thệ tỏ tường, Bốn mươi tám nguyện dẫn đường chúng sanh, Thề rằng ai phát lòng lành, Nước ta báu vật để dành các ngươi. Thiện nam tín nữ mỗi người, Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra, Ta không rước ở nước ta, Thệ không làm Phật chắc là không sai. Bởi vì tin tưởng Như Lai, Có duyên tưởng Phật sống dai vô cùng. Lời thề biển rộng mênh mông, Nhờ nương đức Phật thoát vòng trần lao. Tội mòn như đá mài dao, Phước lành thêm lớn càng cao càng dày. Cầu cho con thác biết ngày, Biết giờ, biết khắc biết rày tánh linh. Cầu cho bịnh khổ khỏi mình, Lòng không tríu mến chuyện tình thế gian. Cầu cho thần thức nhẹ nhàng, In như thiền định họ Bàng thuở xưa. Đài vàng tay Phật bưng chờ, Các ông Bồ Tát bây giờ đứng trông. Rước con thiệt đã nên đông, Nội trong giây phút thảy đồng về Tây. Xem trong cõi Phật tốt thay, Hoa sen đua nở tánh nay sạch trần. Hội nầy thấy Phật chơn thân, Đặng nghe pháp nhiệm tâm thần sáng trưng. Quyết tu độ chúng phàm nhân, Đủ lời thệ nguyện Phật ân rộng dài, Phật thệ chắc thật không sai. Cầu về Tịnh độ ai ai tin lòng, Nguyện về Tịnh độ một nhà, Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình. Hoa nở rồi biết tánh linh, Các ông Bồ Tát bạn lành với ta.
- Bài sám này của Tổ Từ Vân ở Cao Lãnh, trước tác, nên có tên gọi là Sám Từ Vân. - Bài được sử dụng ở hầu hết các kinh sách - Là bài Sám Nhứt tâm nghĩa. Biên giả cho mã số thống kê là I. 36. SÁM THẬP PHƯƠNG (II)
Mười phương chư Phật ba đời, Di Đà bực nhứt chẳng rời quần sanh, Sen vàng chín phẩm sẵn dành, Oai linh đức cả đã đành vô biên. Nay con dưng tấm lòng thiền, Qui y với Phật sám liền tội căn, Phước lành con có chi chăng, Ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây. Nguyện cùng với bạn tu đây, Tùy thời cảm ứng hiện nay điềm lành. Biết giờ biết khắc rõ rành, Lâm chung tận mặt cảnh lành Tây phương. Thấy nghe chánh niệm hơn thường, Vãng sanh lạc quốc đồng nương hoa vàng, Hoa nở thấy Phật rõ ràng, Thoát vòng sanh tử độ an muôn loài. Phiền não vô biên thệ dứt trừ, Pháp môn tu học chẳng còn dư, Chúng sanh nguyện độ bờ kia đến, Phật đạo cùng nhau chứng trí như. Hư không cõi nọ dẫu cùng, Nguyện trên còn mãi chẳng cùn, chẳng thiên. Không tình cùng với đồng nguyền, Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành. Nay con lại nguyện tu hành, Phổ Hiền nguyện lớn sẵn dành mười môn. Một là nguyện lạy Thế Tôn, Hiện thân trước Phật hết lòng kính tin. Hai khen Phật đức rộng thinh, Lời hay tiếng tốt tận tình ngợi ca, Ba thời sắm đủ hương hoa, Tràng phan bảo cái dâng ra cúng dường. Bốn vì mê chấp lầm đường, Tham sân nghiệp chướng con thường sám luôn. Năm suy công đức vàn muôn, Của phàm của thánh con đồng vui ưa. Sáu khi Phật chứng thượng thừa, Pháp mầu con thỉnh đã vừa truyền trao. Bảy lòng chẳng chút lãng xao, Cầu xin chư Phật chớ vào Vô dư. Tám thường tu học Đại thừa, Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con. Chín thề chẳng dám mỏi mòn, Dắt dìu muôn loại đều tròn pháp thân. Mười đem tất cả công huân, Mọi loài cùng hưởng khắp trần cùng vui. Mười điều nguyện lớn nguyện rồi, Nguyện về Cực lạc nguyện ngồi tòa sen.
- Bài sám Thập phương diễn nghĩa này chưa rõ xuất xứ - chỉ biết được sử dụng trong hầu hết kinh Nhật Tụng miền Trung và miền Nam. Có thể do hai Ngài : Tổ Bích Liên hoặc Tổ Huệ Đăng trước tác? - Theo thứ lớp sắp đặt, Biên giả cho mã số diễn nghĩa là II. 37. SÁM THẬP PHƯƠNG (III)
Thập phương diễn nghĩa một trương, Ai dùng thời chép để thường tụng kinh. Tụng rồi quỳ trước Phật đình, Âm thanh tán thán độ mình nhiều phương, Phật truyền khắp hết mười phương, Thấy trong ba cõi cảm thương vô cùng. Chín từng hoa nở đơm bông, Các hàng Phật tử phụng rồng xung quanh. Con nay sám tán hiệu danh, Mãn duyên thời đặng chẳng thành lẽ đâu, Tấm lòng chí quyết kính cầu, Trước thời tưởng Phật sau hầu về Tây. Muốn cho trả đặng ơn dày, Phải toan thẳng đến tầm Thầy cầu duyên. Bổn sư là Phật hiện tiền, Đạo làm đệ tử cầu nguyền hỏi han, Nhờ Thầy chỉ dẫn Tây phang. Thành công đắc quả biết đàng mà đi, Bồ đề là đạo từ bi. Liễu đường sanh tử hết nghi tấm lòng, Chớ đừng trễ nải long đong, Dứt tâm phiền não chứa lòng pháp môn. Di Đà đức Phật Thế Tôn, Từ bi độ chúng không môn thẳng vào. Lời Phật như thể non cao, Ai mà theo Phật khỏi vào Diêm La. Trời cao đất rộng hằng sa, Hư không mòn hết nguyện ta còn hoài. Một là lạy Phật hôm nay, Các vì chư Phật kim đài chứng tri. Hai là thọ phái quy y, Thích Ca Văn Phật Mâu Ni độ đời. Ba là tín nhiệm Phật trời, Chúa tôi phải đạo đáng nơi cúng dường. Bốn là lạy Phật mười phương, Xin cho nghiệp chướng tai ương lánh mình. Năm là các vị thần linh, Vui cười cả thảy quỉ tinh yêu tà. Sáu là với huyễn thân ta, Linh hồn theo Phật liên hoa hiền tiền. Bảy là lạy Phật ở yên, Dứt đường sanh tử lưu truyền hưng long. Tám là Phật ở nơi trong, Phàm tình chẳng thấy, dẫy đầy Phật đâu. Chín là tỏ đặng pháp mầu, Trường sanh bất tử độ đời chúng sanh. Mười là bỏ dữ làm lành, Khắp trong sa giới quốc thành đặng an. Tôn sư diễn nghĩa ít hàng, Cầu cho bá tánh Tây phương mau về.
- Bài sám Thập phương diễn nghĩa nầy do Tổ Huệ Đăng trước tác - Theo lời xác nhận của Hòa thượng Pháp Lan chùa Khánh Hưng TPHCM. Vào khoảng năm - 1930 tại chùa Thiên Thai - Bà Rịa. - Biên giả cho mã số diễn nghĩa là III. 38. SÁM CHÂU HOẰNG (Sám Tán Di Đà IV)
Châu Hoằng thầy hiệu Liên Trì, Làm văn phát nguyện chỉ qui một đường. Cúi đầu làm lễ Tây phương, Tịnh bang giáo chủ pháp vương Di Đà. Độ người vượt khỏi ái hà, Dắt ra hầm lửa nhảy ra nghi thành. Tôi nay phát nguyện vãng sanh, Nguyện về Cực lạc nêu danh sen vàng. Ngưỡng trông vòi vọi đạo tràng, Dủ lòng thương xót mà mang tôi về. Tôi thường ba cõi đắm mê, Bốn ơn càng trọng lo bề cứu nhau, Tưởng gì đời lắm thảm sầu, Quyết lòng nên đạo, độ sau luân hồi. Không trên một bực mà thôi, Sáng trưng đường lối không nơi nào bì. Nên tôi lòng gắn dạ ghi, Chuyên cần niệm Phật không khi nào rời. Phật là bực cả khắp trời, Cứu người thoát tử độ đời vô sanh. Còn lo nghiệp trọng phước khinh, Phước dầy huệ mỏng phàm tình tối tăm. Còn lo lòng nhiễm dễ lầm, Duyên trên chưa sạch tánh thần khó nên. Tôi nay tình nguyện khởi lên, Cúi gieo năm vóc thiệt bền lòng ngay, Mở gan trải dạ tỏ bày, Chí thành sám hối trong ngày Phật thương. Chúng tôi nhiều kiếp oan ương, Từ đời thuở trước không lường đến nay. Bởi vì mê tối dại ngây, Sân si quen nết cãi thầy dạy khuyên. Ví như ba nghiệp đảo điên, Dầu cho nước biển rửa liền sạch đâu. Than ôi tội nghiệp lấp đầu, Nguồn ân biển ái thẳm sâu vô cùng. Ngửa trông đức Phật bao dung, Tội mòn nghiệp hết sạch không buổi nầy. Quyết lòng niệm Phật ăn chay, Chí tâm thề nguyện từ rày đến sau. Ví dầu tôi có ở đâu, Lánh xa bạn dữ chẳng hầu tựa nương, Gắng tu đạo Phật giữ thường, Thề không thối chuyển mắc đường thai sanh, Nguyện sao tu luyện mau thành, Đặng mà cứu độ phàm tình thoát ra. Cha lành là Phật Di Đà, Đem lòng quảng đại để mà độ tôi. Đoái thương mấy đoạn khúc nôi, Chứng tri đệ tử luân hồi oan khiên, Cầu cho giấc ngủ rõ ràng. Thấy Di Đà Phật hào quang rạng mình, Cầu cho sắc tướng quang minh. Thấy Di Đà Phật tâm tình đặng an, Nguyện cầu lên cảnh Lạc bang, Thấy Di Đà Phật trên đàn giảng kinh, Cam lồ Phật rưới đầy mình, Hào quang Phật chiếu thanh minh tâm thần, Cầu cho y Phật đắp thân. Tay vàng Phật đỡ thoa lần đầu tôi, Cầu cho chướng trước dứt chồi. Gốc lành thêm lớn vun bồi tốt tươi, Cho tôi sạch hết việc đời, Trong lòng thanh tịnh như người Tây phương. Tánh linh mầu nhiệm tỏ tường, Mau nghe chánh pháp như gương trên đài, Mầu huyền thanh tịnh khoan thai, Tịnh quang cõi Phật thấy hoài không ngơi. Như tôi gần có qua đời, Khiến cho linh tánh đặng tôi biết liền, Đừng cho bịnh khổ vào thân, Tử an sanh thuận như thần bao xưa, Đừng cho trìu mến dây dưa, Đừng cho Thánh Phật long thơ Tống trào. Sáu căn đừng có lao xao, Rõ ràng chánh niệm như sao bắc thần, Hết rồi một đoạn báo thân, Vào trong thiền định xuất thần Tây qui, Ngó gần thấy Phật A Di, Quan Âm, Thế Chí trụ trì trước ta, Các ông Thánh chúng hằng sa, Tuôn hào quang xuống chói lòa rước tôi, Duỗi tay xuống tiếp một hồi. Lầu đài cờ phướn đông thôi quá chừng, Nhạc trời tấu trổi vang lừng, Mùi nhang thơm ngát vui ưng tấm lòng, Tây phương cõi Phật thung dung, Rõ ràng trước mắt hiện ra cõi này, Kẻ nghe người thấy vui thay, Khiến cho ai nấy liền ngày phát tâm. Tưởng người chánh tín tưởng thầm Bước vô đạo Phật khỏi hầm lửa thiêu, Vui thay cõi Phật tiêu diêu, Ai theo Phật rước cao siêu liên đài. Vung tay về chốn kim giai, Trong hồ thất bảo hiện ngay liên bào, Tòa sen rực rỡ trong ao Đỏ, xanh, vàng, trắng tuôn hào quang ra, Tôi ngồi chểm chệ trong hoa, Phật cùng Bồ Tát hằng hà nhóm đông, Tôi nghe pháp nhiệm tỏ lòng, Chứng vô sanh nhẫn chơn tông thượng thiền, Chỉ trong giây phút thành duyên, Vẳng nghe chư Phật dạy truyền pháp âm, Đặng nhờ thọ ký ấn tâm, Dạy rồi linh tánh bao năm nhớ hoài, Ba thân bốn trí lâu dài, Sáu thông năm mắt chuyện ai cũng tường, Đà la thần chú nhiều phương, Pháp nào cũng biết như gương soi lành, Bao nhiêu công đức chứng minh, Nhớ ghi gồm đủ như kinh Phật truyền, Mình đã cõi Phật ở yên, Nhớ lời thệ trước độ duyên Ta bà, Thần thông biến hóa thân ta, Khắp mười phương thảy hiện ra phép mầu, Từ bi phước đức thâm sâu, Có duyên hóa độ đâu đâu vâng lời, Khắp trong cả thảy nhiều nơi, Cũng đều độ hết người đời trầm luân Khiến cho lòng tịnh quen lân, Dứt tình ái dục lưu phần thiện lương. Dắt người về đến Tây phương, Vào hàng bất thối náu nương bạn lành, Lòng tôi thệ độ chúng sanh, Rộng như biển cả cũng dường hư không, Hằng hà thế giới đều thông, Chúng sanh phiền não độ đồng sạch trơn, Nếu mà còn để nhơn nhơn, Nguyện tôi không hết như đờn dứt dây, Phật thường chứng lễ nguyện nầy, Tu trì công đức độ ngay hữu tình, Bốn ơn đền đáp phân minh, Ba đường cứu vớt siêu sanh cõi mầu, Nguyện chung thế giới ba ngàn, Vẹn tràn một trí vào ban Phật đài. Nguyện về Cực lạc một nhà, Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình, Hoa nở rồi biết tánh linh, Các ông Bồ Tát bạn lành với ta, Huệ Lưu diễn nghĩa chép ra, Ai tu Tịnh độ học mà sám chung.
- Trích từ "Kinh Di Đà nghĩa và 36 sám hay" và đối chiếu với kinh Tam Bảo của Thích Ca tự - Sàigon 1967. - Có đối chiiếu với các dị bản khác- Nguyên tác của Tổ Châu Hoằng - Liên Trì Đại sư - Tổ Huệ Lưu chùa Huê Nghiêm Thủ Đức diễn nghĩa. 39. SÁM HỒI ĐẦU (Sám phát nguyện IV)
Cúi đầu làm lễ Chí Tôn, Quì trước Phật điện thần hôn mỗi ngày, Chúng con xin chút tỏ bày, Nguyện làm Phật tử đời này tu thân, Khắp trong sáu thú xoay vần, Luân hồi mãi mãi nhiều lần khốn thay, Con nay quyết chí tìm thầy, Tầm phương giải thoát buổi này đặng an, Tây phương Phật phóng hào quang, Chứng minh đệ tử ba ngàn đại thiên, Tinh thần một đấng thiêng liêng, Vì chúng ngũ trược liên miên cõi trần, Sanh sanh tử tử mấy lần, Quyết lòng theo Phật phải cần sửa sang. Tam qui ngũ giới rõ ràng, Sa di thập giới buộc ràng cho tinh, Cầu xin Phật Tổ chứng minh, Ngưỡng trên lượng cả cúi xin hộ trì, Lòng an thành thật chỉ qui, Quyết về Cực lạc liên trì tịnh bang. Thân người vì khổ buộc ràng, Sanh lão bịnh tử mơ màng chiêm bao, Hy sinh nhứt thiết sang giàu, Náu nương Phật pháp đặng vào phẩm cao, Cuộc đời nhiều nổi lao đao, Nếu lầm hoàn cảnh càng đau tấc lòng, Sanh không hề tử dã không, Gian tâm xâu xé lòng mong sống đời, Có khi vật đổi sao dời, Ngọc vàng châu báu để đời người sau, Ai ơi thức tỉnh cho mau, Kíp mong giải thoát khỏi vào trầm luân. Phù sanh lắm nổi gian truân, Có thân phải lụy vì chưng sắc tài, Từ đây kinh kệ hôm mai, Dứt lòng phiền não dồi mài thân tâm, Cầu xin hiểu lý thậm thâm, Pháp môn vô lượng khó lầm sai ngoa, Chúng con ngưỡng vọng Thích Ca, Cha lành ba cõi Ta bà độ sinh, Cầu xin tế độ viên thành, Thuyền từ bửu phiệt tu hành đặng lên. Ngưỡng nhờ lượng thánh ơn trên, Quần sanh thống khổ sanh nên đạo mầu, Con nay hết dạ khẩn cầu, Di Đà tiếp dẫn ngõ hầu siêu thăng. Từ nay kíp phải ăn năn, Tội đời vô thỉ cũng hằng đặng tiêu, Sen vàng chín phẩm tiêu diêu, Bảo y ngọc thực mỹ miều thiếu chi. Sanh linh từ dục hành vi, Chiến tranh tràn sát thây thi ngất trời, Tham sân ích kỷ suốt đời, Gây nên thảm họa thây phơi dinh hoàn, Cực điểm thống khổ lầm than, Vì chưng ngũ trược cưu mang tấc lòng. Hy vọng thế giới tây đông, Tu nhơn tích đức hầu mong thái bình, Cầu cho nhơn loại an ninh, Nghiêu thiên Thuấn nhựt thái hòa vạn an. Ta bà Tịnh độ nhứt bang, Nhơn sanh hạnh phúc hoàn toàn hưởng chung, Tinh thần vật chất thung dung, Thoát ra khổ hải đặng vào Lạc bang, Chúng con chúc nguyện ít hàng, Cầu cho toàn thể Tây phương mau về.
- Trích từ "Tam Bảo Tôn Kinh" (sđd) đối chiếu sửa chữa lại qua "Liên Hoàn Sám Nguyện" và kinh Nhựt Tụng chùa Đại Giác (sđd). - Có tên tựa khác là Sám cúi đầu (Tam Bảo Tôn Kinh). 40. SÁM THỌ KÝ (Sám tán Di Đà V)
Một lòng niệm Phật Di Đà, Kinh tâm bạch tự mở ra độ đời, Ấn tâm thọ ký hiện thời, Kim ngôn phú chúc khắp nơi đắc thành, Ăn chay niệm Phật làm lành, Từ bi hỉ xả tu hành gắng công, Nghe danh thấy tánh tỏ thông, Bổn lai diện mục Phật lòng chẳng xa, Định tâm thấy Phật lòng ta, Tây phương cõi Phật Di Đà phân minh, Quan Âm thần lực oai linh, Hóa thân thọ ký cầm bình nước bông, Cam lồ rưới khắp giáp vòng, Chúng sanh mát mẻ vui lòng hiền lương, Mở khai tâm pháp tỏ tường, Tịnh lòng thấy Phật mười phương độ mình, Chơn truyền bổn thể tánh linh, Tam thân vô tướng vô hình sống lâu, Không thương không ghét không sầu Không tham không giận có đâu luân hồi, Việc đời muôn việc thôi thôi, Sắc tài danh lợi phủi rồi không không, Các hàng chư Phật không lòng, Con nay đệ tử cũng đồng quy y, Nương theo đức Phật từ bi, Mãn duyên theo Phật tức thì phóng quang, Về nơi Cực lạc Tây phương Hoa khai kiến Phật hào quang sáng lòa. Thường thường thấy đức Di Đà, Hai hàng tứ chúng lục hòa sáng trong, Thấy ông Bồ Tát quá đông, Lóng nghe Phật thuyết vui lòng mở khai, Minh tâm kiến tánh Như Lai, Pháp thân thanh tịnh sống dai đời đời. Tiêu diêu tự tại thảnh thơi, Bình an vô sự vui chơi thanh nhàn, Tốt thay cõi Phật nghiêm trang, Nhà lầu bằng ngọc đất vàng khắp nơi, Đêm ngày nghe pháp sáu thời, Chim linh thuyết pháp đúng giờ siêng năng, Người nghe tỏ ngộ siêu thăng, An lòng niệm Phật, Pháp, Tăng tịnh bình, Thích Ca giảng đạo độ mình, Thích Ca từ phụ chứng minh độ đời.
- Trích từ "Kinh Di Đà nghĩa và 36 bài sám hay" (sđd) và đối chiếu lại với "Liên Hoàn Sám nguyện" (sđd). 41. SÁM CẦU SIÊU CÚNG MẸ (Sám báo hiếu I)
Mẹ ôi con rất đau lòng, Nhớ thương từ mẫu bế bồng nuôi con, Công lao khó nhọc mỏi mòn, Tanh hôi giặt rửa vì con ốm gầy, Con đau mẹ chạy thuốc thầy, Vái van chùa miếu đủ đầy cầu xin, Than ôi cốt nhục thâm tình, Biết sao trả đặng mẹ mình dày công. Bây giờ nhìn cảnh đau lòng, Mẹ đã về chốn non bồng xa chơi, Bỏ con lặn hụp biển khơi, Sống trong khổ não lụy rơi chan hòa, Biết đâu tìm kiếm mẹ già, Nhìn lên hương án trong nhà quạnh hiu, Cháu con thơ dại chít chiu, Như gà mất mẹ chạy kêu lạc đàn, Lòng con thương nhớ thở than, Cơm dưng ba bát vái van mẹ về, Cổ bàn dọn cúng ê chề, Nhìn sao chẳng thấy mẹ về uống ăn, Mẹ về vãng cảnh chị Hằng, Chúng con cúng giỗ làm văn tế ruồi. Nhắc thôi đau khổ ngậm ngùi, Nhớ thương từ mẫu sụt sùi lệ sa, Thành tâm thiết lễ trai gia, Một lòng cầu Phật Di Đà độ vong, Nguyện cầu Địa Tạng thương lòng, Cứu độ hồn mẹ thoát vòng oan khiên, Cầu Ngài Tôn giả Mục Liên, Ban cho Diệu pháp, Phật truyền lục thông, Xin Ngài thương xót gắng công, Cứu độ phụ mẫu tổ tông thoát nàn, Khỏi nơi địa ngục khóc than, Về nơi Cực lạc sen vàng điểm tên. Nguyện cầu phụ mẫu sớm lên, Liên hoa cửu phẩm nêu tên đời đời, Ở nơi Cực Lạc vui chơi, Hộ trì tang quyến thảnh thơi an nhàn, Nam mô Tịnh độ Lạc bang, Độ vong hồn đặng Tây phương mau về. Nam mô Siêu Lạc Độ Bồ Tát Ma Ha Tát.
- Trích Kinh Nhựt Tụng chùa Đại Giác - trang 335-336 Sài gòn 1974 - Thuộc về Sám tụng sử dụng trong kỳ siêu hoặc cúng vong. 42. SÁM BÁO HIẾU MẪU THÂN (Sám báo hiếu II)
Báo ân nghĩa trọng vô biên, Huyên đường nay đã huỳnh tuyền xa chơi, Dương trần con chịu mồ côi, Hai mươi bốn thảo chưa bồi dưỡng sinh, Nhớ câu đất rộng trời dài, Sông sâu bể thẳm non đoài cách xa, Mẹ hiền khuất dạng trong nhà, Bỏ con thơ dại vào ra một mình, Đau lòng vì nỗi tử sinh, Nhớ thương từ mẫu dứt tình biệt ly, Cháu con sầu thảm ai bi, Ra vào chẳng thấy dung nghi hàng ngày, Trời cao đất thẳm có hay, Mẹ con xa cách càng cay càng phiền, Con còn vui sống triền miên, Mất mẹ gan ruột đảo điên muôn phần, Than ôi, từ mẫu thâm ân, Biết đâu tìm kiếm phân vân đêm ngày. Nhớ ơn cúc dục cao dày, Bây giờ chỉ thấy linh đài lạnh tanh, Sớm khuya lặng lẽ một mình, Vắng sau quạnh trước bóng hình mẫu thân, Dưỡng sanh non biển sánh bằng, Cưu mang mười tháng dạ hằng lo âu, Nhiều khi am tự khấn cầu, Cho con mạnh khỏe ngày sau nối dòng, Khi con vừa mới lọt lòng, Ba năm bú mớm ẵm bồng trên tay, Mẹ cha vất vả đêm ngày, Trông con mau lớn chẳng nài công lao, Nhứt là những lúc ốm đau, Mẹ cha khổ cực không sao nghĩ bàn, Thuốc thang luống chịu cơ hàn, Thấy con mạnh khỏe hân hoan vui mừng, Khuyên con ăn ở có chừng, Nào là trai gái giữ thuần nết na, Dạy con khắp hết việc nhà, Mẫu từ, Tử hiếu thuận hòa nên danh, Bây giờ nhìn nấm mồ xanh, Mộ đầy cỏ mọc chung quanh bịt bùng, Về nhà thấy dạng chân dung, Đèn hương khói tỏa nhớ cùng mẫu thân, Nhớ mẹ đau khổ muôn phần, Tìm đâu gặp đặng mẫu thân dễ dàng, Lòng con thương nhớ khóc than, Cơm dưng ba bát vái van mẹ dùng, Làm sao trả thảo báo ân, Đôi hàng châu lụy tuôn dòng thở than, Đêm thâu giấc mộng mơ màng, Giựt mình thức giấc bàng hoàng năm canh, Mẹ đà về chốn Diêm thành, Bỏ con dương thế cam đành xót xa, Ruột đau từ đoạn thiết tha, Nhớ thương từ mẫu lệ sa khôn cầm, Năm canh con trẻ đang nằm, Áo khô nước mắt ướt dầm như mưa, Hồn về chín suối xa đưa, Diêm la quỷ sứ ngưu lừa gớm ghê, Suối vàng cũng gọi là quê, Ai ai không khỏi đọa về khổ thân, Làm con báo hiếu chuyên cần, Nguyện cầu Phật Tổ oai thần cứu ra. Ngày nay thiết lễ trai gia (ma chay), Lòng thành cầu Phật Di Đà chứng minh, Quan Âm, Thế Chí đồng thinh, Đức Ngài Địa Tạng độ hình mẫu thân, Hà sa chư Phật Long thần, Phóng quang tiếp dẫn mẫu thân thượng trình, Hương hồn về chốn Phật đình, Sen vàng chín phẩm hóa hình ngồi trong, Ngồi trên phẩm báu hư không, Nương theo chơn Phật thong dong Lạc thành, Mẹ đã về cõi vô sanh, Tội tiêu nghiệp dứt quả lành muôn năm. Lạy cầu chư Phật từ tâm, Di Đà thọ ký hồn âm trọn lành, Nguyện hồn về chốn Lạc thành, Chứng ngôi bất thối vô sanh đời đời, Cầu cho hồn đặng thảnh thơi, Hộ trì tang quyến đến nơi đạo tràng, Tụng kinh lễ Phật cầu an, Phát tâm tu niệm Lạc bang mau về.
- Trích đối chiếu bổ sung từ hai bản "Liên hoàn sám Nguyện" và "Kinh Nhựt Tụng chùa Đại Giác (Sđd). - Ơû bản in Liên Hoàn Sám Nguyện thiếu mất bốn câu từ 43 đến 46 và bản in tuyển tập 55 bài Sám phổ thông trước căn cứ vào đây nên cũng thiếu. Nay bổ sung từ bản của kinh Nhựt Tụng chùa Đại Giác cho đủ với nguyên tác. 43. SÁM BÁO HIẾU PHỤ THÂN (Sám báo hiếu III)
Thành tâm báo hiếu con quỳ, Phụ thân nay đã biệt ly dương trần, Con chưa đáp được mười ân, Mà nay cha đã qua phần còn đâu ! Nhắc thôi thêm thảm thêm sầu, Làm con chưa trọn được câu sanh thành. Từ nay cha đã khuất hình, Trước sau vắng vẻ gia đình quanh hiu, Bỏ con thơ dại chít chiu, Đâu còn như sống mà kêu con về. Công lao khó nhọc nhiều bề, Đêm ngày lo lắng nặng nề vì con, Ba năm nuôi dưỡng hao mòn, Chăm nom nuôi trẻ đâu còn rảnh rang. Lắm lần cầu nguyện vái van, Cho con khôn lớn nên đàng công danh, Rồi nay con được trưởng thành, Chưa hề báo đáp công sanh phần nào, Sanh thành dưỡng dục cù lao, Gia đình gánh nặng làm sao an nhàn, Sợ con lêu lõng sa đàng, Sợ vì bịnh hoạn lại càng lo âu, Cha không lên gác xuống lầu, Bỏ con vất vả đồng sâu nắng hè, Cha không xuống ngựa lên xe, Bỏ con đói rách chịu bề lang thang, Cha không dư dả bạc vàng, Bỏ con khốn khổ cơ hàn lều tranh, Nuôi con dạy dỗ học hành, Miễn cho con đặng trưởng thành nên danh. Thương con cha bỏ sao đành, Nay vì số phận cha đành biệt ly, Nhỏ còn thơ dại biết chi, Lớn khôn mới rõ cha thì dày công. Từ nay hết đợi hết trông, Thi hài cha gởi ra đồng cỏ xanh. Về thăm đâu thấy dạng hình, Bàn hương vắng vẻ đèn xanh nhang tàn. Lòng con thương nhớ thở than, Cơm dâng ba bát vái van cha về. Chứng cho con cháu đồng quỳ, Nguyện cha về chốn liên trì Lạc bang. Thành tâm con lập trai đàn, Nhờ ơn Phật Tổ chứng đàn khai kinh. Con cầu chư Phật chứng minh, Địa Tạng Bồ Tát thương tình độ vong. Con nay cầu nguyệân hết lòng, Cầu cho từ phụ thoát vòng khổ luân. Mới là đáp được thâm ân, Ơn cao như núi nghĩa gần biển sâu, Thành tâm khấn nguyện cúi đầu, Từ bi tiếp dẫn xin cầu vãng sanh, Nguyện cho hồn đặng an lành, Đồng về Cực lạc đồng sanh sen vàng. Nam mô Tịnh độ Lạc bang, Độ vong hồn đặng Tây phang mau về.
- Trích đối chiếu bổ sung từ hai bản : "Kinh Nhựt Tụng chùa Đại Giác" và "Liên Hoàn Sám Nguyện" (sđd).
Phần Thứ Tư Các Bài Sám Văn Khuyến Tu Cảnh Tỉnh
44. SÁM THÁI BÌNH (Cầu nguyện thái bình I)
Gieo mình trước tọa liên đài, Chí thành đảo cáo bi ai nguyện cầu, Lòng vì khắp hết năm châu, Thay cho thiên hạ toàn cầu nhơn dân. Nguyện mười phương Phật ai lân, Chín trời tạo hóa thánh thần oai linh, Đoái thương ngũ trược chúng sanh, Cõi trần kiếp sát đao binh tai nàn, Cùng người ngổ nghịch bạo tàn, Trái ngang phép nước gây đàng chiến tranh, Mưu sâu chước độc sẵn dành, Phá tan bờ cõi cuộc thành thiên công, Giết người máu chảy thành sông, Thây trôi mặt biển xương chồng khắp nơi, Uế oan hơi mịt khắp trời, Chết thời tàn tệ sống thời chẳng an, Tới đâu cửa nát nhà tan, Đất bằng thành thị, gò hoang lầu đài, Lẫy lừng đấu trí đua tài, Của đời chẳng tiếc đồng loài chẳng thương, Làm cho thiên hạ nhiễu nhương, Đón ngăn bốn bể tuyệt đường sanh nhai, Dân lành giết hại hoài hoài, Thây che mặt biển nước phai màu hồng, Xiết bao tai nạn chập chồng, Dưới sông đã hại trên đồng cũng âu, Họa gieo khắp hết hoàn cầu, Tiếng than như sấm hơi sầu như mây, Oán thay cho đến cỏ cây, Thảy đều thọ hại chầy ngày thảm thương, Thấy đời tai nạn phi thường, Phút liền động niệm cảm thương cho đời. Lòng thành chúc tụng hôm mai, Phần hương đảo cáo nguyện mười điều ra: Một là nguyện đức Di Đà, Cầu xin xuống phước an hòa khắp nơi, Văn minh bình đẳng độ đời, Dân an lạc nghiệp nơi nơi thái hòa, Hai là nguyện đức Thích Ca, Chuyển đời ly loạn hóa ra thái bình, Mở mang vận thái văn minh, Vật người thơ thới nhơn tình trung lương, Ba là nguyện Chuẩn Đề Vương, Thần thông dẹp hết chiến trường bốnphương, Độ người ngổ nghịch bạo cường, Bỏ tà về chánh một đường thiện tâm. Bốn là nguyện đức Quan Âm, Độ người oán trọng thù thâm thuận hòa, Độ đời tai nạn xảy qua, Cùng người tật bịnh đều là an thuyên. Năm là nguyện đức Phổ Hiền, Độ người chấp chánh giữ quyền an dân, Bốn phương tương ái tương thân, Đồng tuân phép nước thảo thân kính nhường. Sáu là nguyện Địa Tạng Vương, Độ người siêu lạc bốn phương đặng về, Cùng là người thác tư bề, Hồn linh độ hết đồng về Tây phương. Bảy là nguyện Tứ Thiên Vương, Thái bình đem lại như Đường, Nghiêu xưa. Bốn mùa thuận tiết gió mưa, Nhơn phong, vật thụ, trẻ già hân hoan, Tám là nguyện với Tam Quan, Khiến người đạo tặc hung hoang về lành, Bốn phương hải yến hà thanh, Nhà sanh con thảo nước sanh tôi hiền. Chín là nguyện đức Hoàng Thiên, Hộ cho thế giới dứt liền đao binh, Á Âu như đệ như huynh, Tương thân tương ái hòa bình giao liên. Mười là nguyện các Thánh Hiền, Cầm cân tội phước phân minh chỉ đàng, Tiêu trừ tất cả tai nàn, Dứt cơn khói lửa độ an dân lành. Mười điều phát nguyện chí thành, Cầu cho bá tánh tu hành thiện duyên, Tâm thành đảo cáo chư Thiên, Cầu xin giáng phước xuống miền Nam bang. Tiêu trừ tất cả tai nàn, Quan hiền, đức chánh, trị an nước nhà, Bốn mùa mưa thuận gió hòa, Dân an quốc thới trẻ già khương ninh, Trai thời học thuật xảo tinh, Bá công Bá nghệ văn minh anh hùng, Gái thời đức hạnh nữ công, Tài năng mỹ thuật sánh đồng trượng phu, Người người tâm chánh thân tu, Hưng nhơn hưng nhượng đức phù minh tân, Chánh chơn bố đức thi ân, Lập đời thạnh trị lê dân thái bình, Rày mừng gặp hội minh tinh, Nguyện cho thiên hạ khương ninh thọ trường.
- Bài do Tổ Huệ Đăng chùa Thiên Thai - Bà Rịa trước tác khoảng năm 1930. Trích trong kinh Tam Bảo diễn nghĩa của Tổ đình Thiên Thai ấn hành 1994. - So với bản in trước của tuyển tập, có sửa chữa lại rất nhiều. 45. SÁM TỊNH ĐỘ (Sám phát nguyện IV)
Qui mạng lễ Từ Tôn ba cõi, Thệ làm Tăng độ giới hữu hình, Chúng con nay kính bày trình, Trải bao nhiêu kiếp chịu mình trầm luân. Bởi tham dục và sân, si ái, Do vô minh vọng khởi tưởng mơ, Lâm vào địa ngục tam đồ, Kết xoay thân thuộc chắc bồ oan gia. Lòng chưa tín chưa nghe Phật pháp, Thánh Tăng và trí thức khó gần, Mẹ cha sư trưởng trọng ân, Sanh thành dưỡng dục dạy răn nên người. Ơn dưỡng dục, còn thì chưa đáp, Mang ơn sâu thế phát qui y, Từ bi thọ được thân nay, Thân tâm nhuần gội ơn dầy biết bao. Nay xét lại hồi nào vô thỉ, Gốc tội dầy tự ấy tạo ra, Trước ngôi Đại giác ba toà, Con nay rũ sạch hết mà trần duyên. Cầu tâm địa hốt nhiên khai phát, Được phước may, gặp Phật pháp môn, Minh sư gặp được sớm hơn, Khai thông trí huệ, chướng hôn sạch liền. Con chí quyết tham thiền học đạo, Dùng giới hạnh, nhuận báo sắc thân, Mai chiều công khóa rõ phân, Thân tâm chuyên chú trầm luân dứt lìa. Đời sau ra những khi sanh lại, Mỗi kiếp đều nguyện phải làm người, Hoặc làm Tăng lữ mà thôi, Diễn bày mở nói khắp nơi Đại thừa. Trong khổ hải thuyền từ quyết chống, Nguyện vớt lên hết giống hàm linh, Bao nhiêu các loại hữu tình, Con nguyện độ hết đồng sanh đồng về. Về Lạc quốc cực kỳ sung sướng, Chốn bảo trì liên thượng hóa sanh, Đến nơi bất thối tựu thành, Phật ân đền đáp mới đành dạ con. Nguyện độ hết đến ngôi chánh giác, Chủng trí đồng chứng đắc hoàn toàn, Chúng sanh còn hãy chang chang, Nguyện con còn hãy chưa hoàn chưa xong.
- Trích "Kinh Di Đà nghĩa và 36 bài sám hay". Sa môn Thích Thiện Tâm - Sa đéc 1961. 46. KỆ VÔ THƯỜNG (Cảnh tỉnh vô thường I)
Nhớ lời Phật Tổ dạy rằng : Đời người chớp nhoáng như lằn điển quang, Thân người giả hợp rồi tan, Lao xao bọt nước mơ màng chiêm bao, Nặng mang những nghiệp trần lao, Loanh quanh ba cõi lao xao sáu đường. Đã sanh trong cõi vô thường, Thì ai thoát khỏi con đường tử sanh, Bầu trời lồng lộng cao xanh, Xoay mưa trở nắng tan tành gió mây, Mênh mông đất nước trời dài, Còn đâu bể thẳm luân đầy chiều mai. Kể từ vô thỉ vị lai, Đến đời mạt pháp là ngày nay đây, Biết bao tan xác rã thây, Biết bao những nấm mả loài mồ hoang. Phật xưa trượng sáu mình vàng, Mãn viên còn phải Niết bàn báo thân. Tiên gia như Lý đại quân, Đến ngày vô hóa hình thần cũng tan, Tam hoàng Ngũ đế Thánh nhân, Nào ai giữ được sắc thân đời đời. Phật, Tiên, Hiền, Thánh, vật, người, Non sông biến đổi đất trời tiêu tan. Than ôi, cuộc thế ngỡ ngàng, Não nùng chết khổ, lỡ làng sống vui, Nếu ba hơi thở tắt rồi, Mưa tuôn, cỏ lợp đất vùi nắng phơi. Than ôi giấc mộng muôn đời ! Biết bao nhiêu khách đọa đày say vui. Hỡi vong ơi ! Hỡi hồn ơi ! Bao nhiêu nợ thế trả rồi thời thôi, Rửa lòng cho sạch trần ai, Rời câu dục lạc miếng mồi lợi danh, Tránh xa cái cửa tử sanh, Thoát nơi tham ái khỏi thành sân si, Bước vào trong cửa từ bi, Nương theo chơn Phật trở về liên bang. Khỏi đường sống chết xoay lăn, Khỏi đường khổ thống khỏi thân tội tình, Liên bang là nước hóa sanh, Có ao tám đức có sen năm màu, Có giường ngọc có mành châu, Có thành thất bảo có lầu thất trân, Sáu thời thiên nhạc rền vang, Màu sen chói lọi mùi hương nực nồng, Tốt thay thế giới vàng ròng, Bảy hàng bảo thọ chín trùng liên hoa. Đạo sư là Phật Di Đà, Mình vàng rực rỡ chói lòa hào quang, Hằng ngày thuyết pháp rền vang, Tiếp người niệm Phật dẫn đường thiện duyên. Hỡi ôi ! Hồn có linh thiêng, Phát tâm niệm Phật mà nguyền vãng sanh, Thành lòng Phật một nguyện lành, Hoa sen rày đã nên danh tánh rồi. Căn lành lợi phúc vun bồi, Nương thuyền lục độ mà hồi hương qua, Mãn duyên sen nở một tòa, Rước hồn có Phật Di Đà phóng quang, Rước về đến cảnh Lạc bang, Sống lâu vô lượng dứt đàng tử sanh.
- Trích từ "Tuyển tập các bài sám" - Các Ban Hộ Niệm - Bản in lụa, năm 1989 tại TPHCM. - Chưa biết được xuất xứ và trước tác. 47. SÁM THẢO LƯ (Sám hồi tâm I)
Chốn thảo lư an cư dưỡng tánh, Dốc một lòng nhập thánh siêu phàm, Sắc tài danh lợi chẳng ham, Thị phi phủi sạch, luận đàm mặc ai, Tuyết ban mai lâu dài chi đó, Thân người đời nào có bao lâu, Nhộn nhàng trong cuộc bể dâu, Xuân xanh mới đó bạc đầu rồi đây. Ba vạn sáu ngàn ngày công khó, Chia phần đem cho đó một hòm, Của tiền để lại nhi tôn, Bao nhiêu tội lỗi phần hồn lãnh riêng. Chốn cửu tuyền khác miền dương thế, Quỉ ngưu đầu chẳng nể chẳng kiêng, Tội hành nghiệp cảm liền liền, Muôn phần thảm độc ghê phen đoạn trường. Rất thảm thương là đường sanh tử, Dám khuyên người ngó thử lại coi, Thân như pháo đã châm ngòi, Nổ vang một tiếng rồi coi thế nào. Tiếc công lao biết bao xiết kể, Sự đáo đầu cũng thế mà thôi. Trăm năm sự nghiệp phủi rồi, Minh minh biển khổ luân hồi cực thân. Lửa hồng trần rần cháy dậy, Người say mê thấy vậy phải kêu, Tỉnh tâm xét lại mấy điều, Kíp tu đạo đức sau siêu linh hồn. Sự dại khôn chẳng cần khôn dại, Trước lỗi lầm sau phải ăn năn, Biển sâu nước khỏa cũng bằng, Mây tan gió tịnh, bóng trăng sáng lòa. Cõi Ta bà có tòa Cực lạc, Giòng sông mê, biển giác chẳng xa, Y theo giáo pháp Thích Ca, Tự nhiên bổn tánh Di Đà phóng quang. Đã gặp đàng chưa toan dời bước, Còn tiếc chi chơn bước lờ đờ, Khuyên đừng đem dạ tưởng mơ, Trăm năm cuộc thế như cờ bị vây. Rút gươm huệ dứt dây tham ái, Kíp tìm thầy cầu phái qui y. Kiên trì ngũ giới tam quy, Mở lòng từ nhẫn sân si phải chừa.
- Trích "Kinh Tam Bảo diễn nghĩa" Tổ đình Thiên Thai - Bà Rịa ấn hành 1967. - Bài do Tổ Huệ Đăng, trước tác vào khoảng năm 1930 tại núi Thiên Thai - Bà Rịa. - Bài nầy còn có các tên gọi khác như : * Sám Hồi tâm - (Tam Bảo Tôn Kinh - Thích Ca Tự). * Sám Hồi tâm Hướng thiện (Kinh Nhựt Tụng - Chùa Đại Giác). 48. VĂN KHUYẾN TU (I)
Vóc bào ảnh lắm người yêu tiếc, Yêu tiếc thân cho thiệt vì thân, Cuộc vui những ước vô ngần, Nào hay vui vẫn là nhân chác sầu ! Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ, Chất huyễn hư giọt lộ lồng hoa, Đôi mươi trẻ, chín mươi già, Số phần yểu thọ khó qua vô thường. Dép dưới giường, lên giường vội biệt, Sống ngày nay, dễ biết ngày mai? Mạng người hô hấp kinh thay ! Nghĩ cơn vĩnh biệt tuyền đài mà đau. Xót duyên kiếp vì sao ngắn ngủi? Chấp thân chi để tủi cho thân, Da bao những thịt xương gân, Xác nầy dường thể đống phân sạch gì ? Tóc, răng, móng khác chi đất bợn, Mũi, dãi, đàm nên tởm xiết bao ! Bên ngoài rệp đút muỗi đeo, Bên trong sán, lãi lẫn vào nhớp chưa ? Nỗi nóng bức ngày trưa tiết hạ, Cơn lạnh lùng, đêm giá trời đông, Xét thân nhơ khổ vô cùng, Dứt lòng tham luyến, khởi lòng thoát ly. Trách người thế mê chi lắm nhẽ, Sánh phong lưu phô vẻ y quan, Kẻ khờ cũng học đài trang, Để lòng điên đảo theo đàng sắc thanh. Đầu xương sọ cài trâm thắt lụa, Đãy da hôi ướp xạ xông hương, Khéo đòi nhung gấm phô trương, Chỉ tuồng che lớp vô thường hôi tanh. Những mảng tưởng ngày xanh muôn tuổi, Lắm cơ mưu đeo đuổi yên hoa, Ngờ đâu tai điếc, mắt lòa, Diêm Vương sắp rước đến tòa U minh. Làn tóc bạc đưa tin quỉ sứ, Gốc răng long điềm chỉ qui âm, Càng tài, càng sắc, càng dâm, Càng thêm đọa lạc càng lầm mà thôi. Cuộc hành lạc một thời thương tiếc, Nẻo luân hồi muôn kiếp đắng cay, Đến khi sắp xuống diêm đài, Thịt xương đau nhức, chân tay rụng rời. Vợ lưu luyến đầy vơi giọt lệ, Con thảm thương kể lể khóc than, Dù cho quyến thuộc trăm ngàn, Có ai thay thế cho chàng được chăng ? Kẻ sống ở nặng quằn gánh tủi, Người chết đi dong ruổi phách hồn, Đường âm mờ tựa đêm hôm, Trông ra quạnh quẽ bồn chồn thảm thê. Nại hà đến lạnh tê gió lốc, Quỉ môn sang ghê gốc tiếng thương, Bảy ngày lìa quá cõi dương, Âm ty đã trải trăm đường hỏi tra. Tòa quan xử thét la chẳng vị, Ngục tốt hờm tay chủy, tay xoa, Đài gương nghiệp cảnh sáng lòa. Soi tường thiện ác chối qua được nào. Người nhân đức cho vào cửa phước, Kẻ hung hoang giải trước hình ty, Đọa đày khổ sở xiết chi, Mới hay nhân quả mấy khi sai lầm. Rừng đao kiếm bao năm hết tội, Kiếp sừng lông nhiều nỗi đa mang, Trả đền cho dứt nghiệp oan, Mới mong thoát khỏi con đàng long đong. Dù ai có to lòng, lớn mật, Mặc chàng hay báng Phật khinh Tăng, Chẳng qua đối trước Diêm quân, Cúi đầu co gối chịu phần xử tra. Hồn phách đã xa chơi âm giới, Thi hài còn ở cõi dương gian, Có tiền mua lớp áo quan, Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh lùng. Chất da thịt sẽ cùng tan rã. Tấm hình hài lần hóa tanh hôi, Chỉ trong chầy sớm mà thôi, Chầy năm bảy tháng sớm thời ít hôm. Nét kiều diễm chập chờn xuân mộng, Kiếp tài hoa hình bóng bạch vân, Khi xưa tài sắc mười phân, Mà nay một nắm cô phần lạnh tanh. Thời oanh liệt hùng anh đâu tá, Cuộc ái ân hư giả còn chi, Phất phơ cành liễu xanh rì, Giấy tiền treo đó dường ghi mối sầu. Bóng chiều rũ xuống mầu cỏ biếc, Bia mồ trơ một chiếc vắng không, Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng, Đời người đến thế là xong một đời ! Ví chẳng biết tìm nơi giải thoát, Nương về ngôi Chánh giác qui y, Luân hồi hẳn dứt có khi, Bên trời Bát Nhã còn chi lo phiền. Lối ma quỉ đừng riêng mưu sống, Đất từ bi gieo giống hoa Đàm, Giữ lòng thiện, dứt lòng tham, Gái, trai, Tăng, tục đều kham tu hành. Rõ cảnh mộng chớ quanh đường mộng, Biết miền chơn, kíp chóng tu chơn, Dần dà tính thiệt so hơn, Tuổi xuân qua mất để hờn về sau. Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm, Chín phẩm đài sen chiếm ngôi vinh, Chớ nên mình phụ lấy mình, Trách sao Diêm lão vô tình chẳng dung. Bỏ điều ác xin làm theo thiện, Chừa lỗi xưa tu tiến đường sau, Lại vì quyến thuộc bảo nhau, Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì. Khiến mỗi kẻ đồng qui bến giác, Cho mọi người đều thoát sông mê, Dù trong lao khổ dám nề, Đài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin... Nguyền xin dốc tưởng tin lời Thánh. Dám để cho rỗi rảnh ưu du, Kiếp nầy chẳng gắng chuyên tu, Còn e kiếp khác công phu lỡ làng.
- Trích "kinh Nhựt Tụng Sen Vàng" ấn bản - Chùa Ấn Quang 1968. Đối chiếu "Liên Hoàn Sám nguyện" Sa Môn Thích Thiện Tâm - Sa Đéc 1961. 49. VĂN KHUYẾN TU (II)
Từ vô thỉ một màu thanh tịnh, Vẫn bao la chẳng bến chẳng bờ, Không, không, dơ sạch, sạch dơ, Không tăng, không giảm hư vô không bằng. Lạc một bước sa chân mang hổ, Phải vô minh lắm độ truân chuyên, Vào ra lục đạo triền miên, Làm thân tứ loại thảm phiền biết bao. Gây tội ác càng cao càng nặng, Núi Thiết vi khó đặng thoát ra, Ở trong khắp hết Ta bà, Mang thân thọ khổ kể mà sao xong. Thế có kẻ theo dòng bể khổ, Cho rằng vui mà nỡ đắm say, Một mai thân đã đến ngày, Ôi thôi ! Hồn biết giờ nầy đi đâu ? Hoặc địa ngục, hoặc đầu thai thú, A tu la, ngạ quỉ chăng là, Ngục hình thọ khổ kêu la, Súc sanh đày đọa, Tu la ưu phiền. Lũ ngạ quỉ huyên thuyên vô số, Chịu đói hoài lửa đỏ tứ tung, Xung quanh những cảnh não nùng, Lâm ly thống thiết khôn cùng xót xa. May gặp lúc người ta để bước, Chốn trần gian mà lướt chông gai, Kẻ mê đắm đuối hướt hài, Mãn rồi thế cuộc hình hài ra tro. Còn kẻ trí tò mò xét nghĩ, Cái thân nầy có tí nào vui, Trải qua một cuộc tới lui, Lưng còm gối mỏi xa trời gần hang. Để mắt ngó gò hoang nghĩa địa, Cỏ xanh rì mai mỉa người đời, Kẻ giàu người khó khác thôi, Mãn phần rồi cũng về nơi chốn nầy. Kẻ sang trọng với người hèn hạ, Ba tấc hơi mồ mả chung đây, Người già người trẻ bằng nay, Cũng đồng gởi xác ra ngoài gò hoang. Kìa phụ nữ nọ chàng nam tử, Lúc chung qui đều ngự cỏ xanh, Kẻ đui người điếc lưu manh, Hồn qui dị lộ gởi mình hang sâu. Kẻ vương bá công hầu tể tướng; Lâm trận đồ cũng mượn gò kia, Ai ôi ! Nghĩ kỹ ai bi ! Cái thân không thiệt, hồn đi nơi nào ? Sực tỉnh lại mau mau tu tập, Kíp qui y Phật, Pháp cùng Tăng, Hôm mai giới luật ân cần, Chuyên câu niệm Phật độ thân cho rồi. Kìa Cực lạc là nơi an dưỡng, Đất lưu ly vô lượng khiết tinh, Có ao thất bảo quang minh, Có sen chín phẩm lớn kình bánh xe. Lại thất bảo ngỏa nguê đẹp đẽ, Nước bát công sạch sẽ tinh vi, Bảy hàng cây báu lưu ly, Lan can bảy lớp ma ni sáng ngời. Chim nói pháp hôm mai êm dịu, Hoa trên không nhiêu nhiểu khắp cùng, Khắp trong một sát độ trung, Dị hương thanh nhạc vui mừng thảnh thơi. Nơi bảo tọa một tòa vương pháp, A Di Đà nói pháp thuyết kinh, Trang nghiêm vô lượng quang minh, Hào quang sáng chói ba thành mười phương. Đại Thế Chí pháp vương chi tử, Tọa liên đài một chữ tiếp sanh, Tay cầm sen trắng thanh thanh, Bước đi thế giới rung rinh ba ngàn. Quan Thế Âm nghiêm trang tự tại, Chấp tịnh bình tay sái cam lồ, Hóa thân khắp cõi hư vô, Độ loài tam giới tam đồ vãng sanh. Kẻ học Phật hiểu rành chơn lý, Phật tức tâm lý sự tỏ tường, Tâm là tịnh, khó nghĩ lường, Di Đà Cực lạc tìm phương độ rồi. Khá suy xét ngộ rồi sẽ thấy, Rán công phu chớ cậy tài cao, Phải hành lục độ dồi trau, Nhứt tâm trì niệm rồi sau đắc thành. Tín, hạnh, nguyện thi hành hằng bữa, Gắng ghi luôn trau thửa tấc lòng, Bồ đề nảy nhánh đơm bông. Lên thuyền Bát nhã hội đồng pháp thân. Khá ghi lời thuyết chánh chân !
- Trích đối chiếu bổ sung từ ba bản : * Kinh Nhựt Tụng Sen Vàng - Chùa Ấn Quang 1968. * Tam Bảo Tôn Kinh - Thích Ca Tự Sàigon 1967. * Liên Hoàn Sám nguyện - Sa Đéc 1961. 50. SÁM HỒNG TRẦN (Cảnh tỉnh vô thường II)
Cõi hồng trần gởi thân trăm tuổi, Kiếp phù sanh thay đổi mấy lần, Có thân nên khổ vì thân, Bởi xưa chơn tánh niệm lần say mê. Nhơn vô minh vọng tình nhiễm trước, Thọ, tưởng, hành, ý thức nghiệp duyên, Luân hồi sanh tử lộn quanh, Ra vào ba cõi xuống lên sáu đường. Đời dĩ vãng Tam hoàng, Ngũ đế, Khó toan phương cõi thế thọ trường, Những là diệu dược Thần Nông, Dễ đâu cứu hết mạng vong số người. Thuốc linh đơn tài y Biển Thước, Cũng nan điều hết được bịnh nhơn. Hữu hình, hữu hoại là thân, Có đâu sống mãi ngàn năm trên đời. Trường danh lợi lăng xăng lui tới, Án công hầu sớm tối đua chen, Sang giàu nghèo khổ lộn xen, Chung qui rồi cũng một phen tan tành. Oai lẫy lừng vua Tần Hoàng Thủy, Tiếng anh hùng cái thế Hạng Vương, Quyết lòng thâu đoạt giang sơn, Dè đâu ý định sao hơn mạng trời. Chẳng lâu đời mạng Tần ngắn ngủi, Sông Ô giang Hạng Võ bỏ mình, Hớn trào Hàn Tín công nghìn, Tề Vương đại ấn dễ mang đặng nào ? Họ Thạch giàu của bao xiết kể, Mà bây giờ còn để lại đâu ? Tuổi Nhan Hồi băm hai yểu số, Sống tám trăm Bành Tổ mạng trường, Xanh mày với tóc bạc sương, Sống lâu thác yểu, một đường khác chi. Mùi tục lụy đắng cay mấy nỗi, Bả đỉnh chung nhiều nỗi nhọc lòng, So tài đấu trí dại khôn, Công danh, phú quí mộng hồn hoàn lương. Cảnh vô thường tang thương biến đổi. Người lẽ đâu sớm tối an nhàn, Sanh giả không, tử giả không, Mấy ai trăm tuổi uổng công lo đời. Còn chút hơi ai ơi nghĩ lại, Muôn việc đời cả thảy đừng mong, Vắng đi ba tấc hơi lòng, Bao nhiêu sự nghiệp còn trông chút gì ? Dẫu của tiền vạn thiên chất chứa, Bực vương hầu khanh tướng vinh huê, Ơn thâm nghĩa trọng tận tình, Đem ra chuộc thế mạng mình được chăng ? Có chi bằng tầm phương tế độ, Niệm Di Đà giác ngộ thiện tâm, Đạo là vô thượng thậm thâm, Nếu không sớm gặp kiếm tầm dễ chi ? Xét thân nầy một khi gặp gỡ, Để mất rồi muôn thuở khó toan, Kiếp người sanh giữa trần gian, Nhờ nơi chưởng đặng thiện căn lâu đời. Vậy mấy lời hôm nay tỉnh giấc, Nguyện vong hồn khoái lạc siêu sanh, Bao nhiêu những việc tiền trình, Bây giờ thôi cũng phải đành hoàn không. Một khoảnh đồng bặt tăm chôn xác, Ôi đành cho đất cát lấp vùi, Biệt ly là cảnh ngậm ngùi, Bi tâm thán biệt nấm mồ ngàn thu. Bóng trăng lu, nhìn đầu ác xế, Tháng ngày qua quạnh quẽ mộ phần, Gió mưa, nắng tuyết bao lần, Cổ kim lai vãng tử sanh một đàng. Cõi dinh hoàn, trần gian chung cảnh, Kiếp luân hồi không rảnh thoát ly, Mong nhờ pháp lực hộ trì, Xả mê tùng giác tiêu diêu lạc thành. Nguyện vãng sanh về miền Cực lạc, Dứt hết liền ác nghiệp trần lao, Liên hoa chín phẩm đặng vào, Trường xuân tự tại tiêu dao hưởng nhàn.
- Trích "Kinh Di Đà Nghĩa và 36 bài sám hay" - Sa môn Thich Thiện Tâm sưu tầm - Sa đéc 1961. Và Kinh Nhựt tụng Sen Vàng, chùa Ấn Quang 1968. 51. BÀI TỐNG TÁNG (Cảnh tỉnh vô thường III)
Cuộc hồng trần xoay vần quá ngán, Kiếp phù sanh tụ tán mấy lăm hồi, Người đời có biết chăng ôi ! Thân người tuy có, có rồi hoàn không. Chiêm bao khéo khuấy lạ lùng, Mơ màng trong một giấc nồng mà chi, Làm cho buồn bã thế ni, Hôm qua còn đó bữa nay đâu rồi. Khi nào đứng đứng ngồi ngồi, Bây giờ thiêm thiếp như chồi cây khô, Khi nào du lịch giang hồ, Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài. Khi nào lược giắt trâm cài, Bây giờ gởi xác ra ngoài gò hoang, Khi nào trau ngọc chuốt vàng, Bây giờ một nắm xương tàn lạnh tanh, Khi nào mắt đẹp mày thanh, Bây giờ thấy dạng thấy hình là đâu. Khi nào lên các xuống lầu, Bây giờ một nắm cỏ sầu xanh xanh, Khi nào liệt liệt oanh oanh, Bây giờ một trận tan tành gió mưa, Khi nào ngựa lọc xe lừa, Bây giờ mây rước trăng đưa mơ màng, Khi nào ra trướng vào màn, Bây giờ nhà cửa xóm làng cách xa, Khi nào mẹ mẹ cha cha, Bây giờ bóng núi khuất xa muôn trùng, Khi nào vợ vợ chồng chồng, Bây giờ trăng khuyết còn mong chi tròn, Khi nào cháu cháu con con, Bây giờ hai ngã nước non xa vời, Khi nào cốt nhục vẹn mười, Bây giờ lá héo nhành tươi vui gì, Khi nào bạn hữu sum vầy, Bây giờ chén rượu cuộc kỳ vắng thiu. Cái thân như tấc bóng chiều, Như chùm bọt nước phập phều ngoài khơi, Xưa ông Bành Tổ sống đời, Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu, Sang mà đến bực công hầu, Giàu mà đến bực mấy lâu Thạch Sùng, Nghèo mà đói khát lạnh lùng, Khổ mà tóc cháy da phồng trần ai, Phù du sớm tối một mai, Giàu sang cũng thác xạt xài cũng vong. Thông minh tài trí anh hùng, Ngu si dại dột cũng chung một gò, Biển trần nhiều nỗi gay go, Mau mau nhẹ gót qua đò sông mê, Sự đời nên chán nên chê, Tầm nơi giải thoát mà về mới khôn. Vong hồn ơi hỡi vong hồn ! Cuộc đời nay biển mai cồn tỉnh chưa ? Tỉnh rồi một giấc say sưa, Sẽ xin niệm Phật mà đưa hồn về. Hồn về Cực lạc nước kia, Cho xa hang quỉ mà lìa kiếp ma. Nhờ ơn đức Phật Di Đà, Phóng ra một ngọn chói lòa hào quang, Trong khi tiếp dẫn rõ ràng, Dắt hồn ra khỏi sáu đàng nghiệp nhân, Quan Âm Bồ Tát vui mừng, Tay cầm nhành liễu tay bưng kim đài, Với cùng Thế Chí các Ngài, Cũng đều khuyến thỉnh bên ngai sen vàng. Có bảo cái có tràng phan, Có mùi hương lạ có đàng ngọc xây, Có trời các cõi truy tùy, Có đờn, có trống, rước đi một đường, Rước về đến cảnh Tây phương, Có ao thất bảo có hương ngũ phần, Lưu ly có đất sáng ngần, Ma ni có nước trong tần chảy quanh, Thất trân có bảy lớp thành, Bảy hàng cây báu, bảy vành lưới châu, Có ngân các, có kim lầu, Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe. Nghe rồi tỏ đạo Bồ đề, Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt liền, Đã sanh về chín phẩm sen, Mấy tai cũng sẩy mấy duyên cũng tròn. Phật như thể mẹ tìm con, Con mà gặp mẹ lại còn lo chi, Lầu vàng đài báu thiếu gì, Ăn thì cơm ngọc, mặc thì áo châu, Không ơn, không oán, không sầu, Không già, không chết có đâu luân hồi. Tánh xưa nay đã tỏ rồi, Gương xưa nay đã lau chùi trần ô. Tu hành phải đợi kiếp mô, Nguồn tình biển ái đã khô bao giờ, Lựa là phải ngộ thiền cơ, Mà đèn trí huệ dễ lờ đi đâu, Mấy lời hộ niệm trước sau, Nguyện cho thành Phật mau mau nữa mà, Phân thân ra khỏi Ta bà, Từ bi tiếp độ những là chúng sanh.
- Trích từ "Liên Hoàn Sám Nguyện" - Sa môn Thích Thiện Tâm sưu tầm - Sa đéc 1961. - Đối chiếu lại và sửa chữa từ "Tam Bảo Tôn Kinh" Thích Ca Tự Sàigòn 1967. 52. ĐƯỜNG VỀ TỊNH ĐỘ (Khuyến tu III)
Dật dờ trong cảnh phong ba, Canh già vừa trổi, tỉnh ra giấc nồng, Chợt nhìn Nam, Bắc, Tây, Đông, Ngẩn ngơ cuộc thế, đau lòng thiết tha, Nguyện cùng Phật tử chúng ta, Kết tình liên lạc thuận hòa với nhau, Muốn cho đoàn thể thanh cao, Một lòng thù tạc, trước sau trọn niềm. Thôi đừng đem dạ kỵ hiềm, Chớ phân giai cấp, để tìm đường chơn, Cũng đừng tính thiệt so hơn, Giúp nhau tận lực trong cơn tai nàn. Như là tuần tự, khổ tang, Cùng là bịnh hoạn, thuốc thang nuôi giùm. Đó là như mở gông cùm, Trên đời chưa có cái giùm nào hơn. Tùy theo phương tiện làm ơn, Chẳng nên thái quá, e lờn mối tâm, Chẳng cần tiền chục bạc trăm, Chị em dư dả đậu năm ba tiền, Nghèo thì công cán thay phiên, Giúp nhau giữa lúc cảnh duyên âu sầu. Tu hành lấy đó làm đầu, Muốn lên đường cả, bước đầu từ đây, Giàu nghèo đừng vị đừng tây, Tập lòng bình đẳng sớm chầy phải nên, Biết nhau đạo lý đừng quên, Con đường chánh đại dẫn lên một lần, Công tâm một mực phải cần, Đừng riêng tâm niệm kẻ gần, người xa. Chị em tỷ ở trong nhà, Nhìn nhau như một mẹ cha đó mà, Thương nhau như tấm ruột rà, Buông lòng chấp nhứt dung tha lỗi lầm. Đừng xen cái nét tư tâm, Tránh đường tam độc, để tầm cửa không. Quét lần lòng sạch bụi hồng, Sát con ma nghiệp, nuôi lòng từ bi, Quày đầu tỉnh giấc vô tri, Mới hay thế sự cái gì cũng sai, Lẽ thì nuôi sống qua ngày, Của tiền thân thể đoái hòa làm chi? Biết rằng : "Sanh ký tử qui", Cái thân hưởng tạm thác thì phủi trơn, Bình sanh luống tính thiệt hơn, Mãn danh rồi lợi, quên cơn đọa đày, Tội căn có trả bởi vay, Lòng thương tự nghĩ, để xoay vần hoài. Từ đời vô thỉ đến nay, Tâm hồn mê lạc, đắm say lờ đờ, Như con chích mẹ bơ vơ, Lạc căn mất bổn thẩn thơ cõi trần, Cũng vì mê chấp căn thân, Quên nơi bổn tánh lần lần tới nay, Không hay đây cảnh đọa đày, Chim lồng cá chậu có ai biết là, Tưởng cho thong thả Ta bà, Nay hay bị khép dưới đà hỏa khanh, Luống theo ả lợi chàng danh, Làm cho chìm nổi lẫn quanh sáu đường. Than ôi ! nhiều kiếp khôn lường, Thay hình đổi xác trong trường tử sanh. Khiến nên vùi lấp căn lành, Hết chìm rồi nổi đã đành lội bơi, Trông nhìn biển khổ vơi vơi, Ngán ôi cái bước của đời trần hiêu. Chừng nào tội nghiệp được tiêu, Thấy trong cảnh vật lắm điều bi ai, Có chi gái sắc trai tài, Đến ngày rồi cũng ra ngoài gò hoang, Anh hùng tài trí khôn ngoan, Vô thường đến dắt khó gàn khó ngăn, Trâm cài lượt giắt lăng xăng, Hết ba hơi thở cũng phăng xuống mồ. Áo quần thân thể điểm tô, Khuất ba tấc đất thấy mồ cỏ xanh, Lời khôn tiếng khéo dẫu lanh, Dứt rồi hơi nóng chẳng thành là ai. Huyễn thân giả dối không sai, Tang điền thương hải, mấy ai xét cùng, Từ đây nghe trống đại hùng, Trời Nam inh ỏi tiếng thùng dội vang. Chúng ta tỉnh giấc mơ màng, Thấy đường Tịnh độ rõ ràng bổn nguyên, Cùng nhau muốn trổ bông duyên, Mau gieo trái phước cho liền hôm nay, Vun bồi căn tánh tháng ngày, Dưỡng lòng thanh tịnh, dẹp loài vọng ma. Dốc lòng niệm Phật Di Đà, Pháp môn Tịnh độ Thích Ca chỉ rành, Các loài muốn được vãng sanh, A Di Đà Phật niệm rành đừng xao, Người đời vô hạn thấp cao, Bực nào niệm Phật trước sau cũng thành. Miễn là cải dữ theo lành, Lấp ngơ miệng thế, thả quanh tiếng phàm. Hỉ, nộ, ái, ố đừng cam, Chánh, tà phải xét, thánh, phàm phân minh, Dư công lễ Phật tụng kinh, Lập bàn thờ Phật, kỉnh tin mỗi nhà, Bằng không cứ niệm Di Đà, Nằm, ngồi, đi, đứng, miễn là đừng phai. Bao nhiêu tội nghiệp từ ngày, Hội này cứ niệm Phật hoài phải tiêu; Lập công bồi đức ít nhiều, Tùy theo phương tiện phải chìu sức nhau, Lòng thành ý tịnh một màu, A DI ĐÀ PHẬT làu làu trong tâm, Pháp môn Tịnh độ thậm thâm, Tín tâm phải liệu, đừng lầm không nên. Liên đài cửu phẩm muốn lên, Bao nhiêu Phật dạy lòng bền thì xong. Đừng nghe nhiều phái nhiều tông, Rày đây mai đó, khó mong đến bờ. Nếu là còn bước sơ cơ, Cứ nương thiện hữu, trước lờ sau minh, Một đường chánh niệm thinh thinh, Con ma nghiệp chướng khó rình bên ta. Dày công niệm Phật Di Đà, Đến ngày rồi sẽ liên hoa hóa hình, Vậy thì lớn nhỏ bạn mình, Đem thân cầu đạo, mặc tình thị phi. Cùng nhau thủ phận tam qui, Thế gian mặc kẻ chẳng bì nữa chi, Để mình nương bóng A Di, Xuống thuyền đại nguyện kịp thì bạn ta. Tu hành giữ đạo tại gia, Uống ăn đạm bạc, miễn qua tháng ngày, Che thân quần áo bề ngoài, Miễn cho lành lẽ, sơ xài cũng xong. Để mà cầu đạo ở trong, Ngoài thân ngoài cảnh đèo bồng lắm chi, Gát ngoài hai chữ thị phi, Nhuộm tâm đạo đức cho y một màu, Xét trước rồi lại xem sau, Lỡ nhau lầm lạc hồi nào thì thôi, Biết mình cải ác đã rồi. Hễ là tùng thiện cứ bồi đạo tâm, Đạo tâm muốn giữ cho nhằm, Giàu nghèo tự lẽ, đừng tham leo chuyền, Yên tâm thủ phận tùy duyên, Nhơn nào quả nấy, tiền khiên tự mình, Phải cần tham học cho minh, Đừng vì nghèo khó bất bình không nên. Còn như giàu có bực trên, Cũng đừng vì đó mà quên đạo hằng. Một lòng như sợi chỉ giăng, ngời, Thương nhau dìu dắt đừng rời, Theo ra cho khỏi cửa đời thế gian, Sau rồi đến cảnh Lạc bang, Chị em lớn nhỏ bạn vàng đủ nhau. Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát.
- Trích từ "Liên Hoàn Sám Nguyện" - Sa môn Thích Thiện Tâm sưu tầm - Sa đéc 1961. 53. SÁM TU LÀ CỘI PHÚC (Khuyến tu IV)
Chữ rằng công đức vô lường, Thập phương chư Phật thường thường độ sanh, Ai ơi gắng chí tu hành, Để sau đến bực vô sanh mà nhờ, Người đời sớm biết tri cơ, Gương lu vì bụi, trăng lờ vì mây, Chở che nhờ đức cao dày, Dẫu tu cho mấy chẳng tày tu tâm. Đường mê xin chớ bước lầm, Não phiền cũng bởi thân tâm của mình Chớ nên hại vật sát sanh, Tu nhơn tích đức mới thành phẩm cao, Cuộc đời như giấc chiêm bao, Công danh phú quý khác nào lửa diêm, Phật Tiên xưa cũng người phàm, Tỉnh thời làm Phật, mê làm chúng sanh, Nhớ xưa Vương Khải, Thạch Sùng, Dẫu cho ngàn tứ muôn chung một thời, Của đời trả lại cho đời, Giàu sang mà khỏi luân hồi đặng chăng ? Đổi thay máy tạo không ngừng, Bức tranh vân cẩu mấy từng xa xa, Khuyên đừng trách lẫn trời già, Đáo đầu thiện ác chánh tà khác nhau, Quả nhơn chẳng trước thời sau, Gẫm cơn báo ứng chậm mau mấy hồi, Người đời nghĩ đó mà coi, Giờ không toan liệu sau rồi làm sao ? Khuyên đừng nại chút công lao, Nhắm chừng bờ giác tầm vào tận nơi, Tâm minh vốn đã sẵn rồi, Ở trong mình có, há ngoài đâu xa. Trừ nghiệp chướng giải oan gia, Trì trai niệm Phật ấy là công phu, Tháng ngày thấm thoát phù du, Bóng qua cửa sổ dễ hầu trở lui. Thiện căn trước đã tài bồi, Đèn khêu mới sáng, ngọc dồi mới xinh, Tránh vòng lục dục thất tình, Ấy là khỏi lưới vô minh vướng nhầm. Rõ ràng phước tội tại tâm, Mình là mình chịu không lầm mảy may, Máu tham tràn khắp xưa nay, Lợi danh biết mấy cho đầy lòng ai, Chớ ham chen lấn đua bơi, Cũng đừng ỷ sức cậy tài là xong, Dương trần biết mến trăng trong, Người sa vào chốn bụi hồng làm chi ? Hãy theo chánh lý mà suy, Xét cho thấu đáo vô vi đạo thường. Tu hành sớm tối lo lường, Đừng ham những cảnh vô thường thế gian, Cho hay hoa nở cũng tàn, Pháo mà kêu lớn càng tan xác nhiều. Chi bằng tìm chốn tiêu diêu, Nương theo cõi Phật khỏi điều thị phi, Gìn lòng hai chữ từ bi, Sớm trừ vọng niệm hiểu kỳ tử sanh, A Di Đà Phật chứng minh, Chí tâm quy mạng phù sanh chẳng cầu. Căn lành phước huệ trồng sâu, Rõ thông mùi đạo nhiệm mầu lắm thay. Hoa sen thượng phẩm cao dầy, Tây phương Tịnh độ định ngày vãng sanh, Ai ơi gắng chí tu hành, Cho mau kết quả quốc thành thẳng qua, Chúng con phát nguyện thiết tha, Cầu về Cực lạc Di Đà phóng quang.
- Trích đối chiếu bổ sung, sửa chữa từ ba bản : - 39 bài sám nghĩa. - Tam Bảo Tôn Kinh. - Kinh Nhựt Tụng chùa Đại Giác (sđd). - Có thay đổi hẳn một câu so với bản in trước của Tuyển tập, căn cứ theo bản của Tam Bảo Tôn Kinh : "Gìn lòng hai chữ Từ Bi". Khác với trước là : "Dồn lòng niệm Phật A Di". Bởi vì câu sau tiếp theo đã có ý như trên : "A Di Đà Phật chứng minh". Đây là sửa lại theo một bản đã có, không phải soạn lại (người soạn.). 54. PHẬT TỬ TẠI GIA (Khuyến tu V)
Quý thay Phật tử tại gia, Nam xưng Bà tắc, nữ là Bà di, Dốc lòng tin quy y Tam Bảo, Chí thành theo chính đạo Từ bi, Tham lam, hờn giận, ngu si, Ba thứ độc ấy tránh đi chớ gần. Giữ trọn vẹn hiếu nhân sau trước, Để báo đền công đức tứ ân, Ơn cha mẹ muôn phần trọng đại, Ơn nước nhà rộng rãi bao la, Ơn quần chúng giúp đỡ ta, Ơn thầy ơn bạn đều là cao sâu. Trong gia đình cùng nhau thực hiện, Cha mẹ hiền con cháu hiếu trung, Anh em thân thích vợ chồng, Như nước với sữa vui chung thuận hòa, Từ ý nghĩ cùng là lời nói, Việc làm nên xét lại hai ba, Những điều độc ác phải xa, Chuyên tu phúc tuệ để mà độ thân. Bao điều hay ân cần khuyên nhủ, Cho mọi người theo đó cùng tu, Mong sao khắp cả hoàn cầu, Không còn người ác chẳng đâu lo phiền. Khỏi nghe tiếng kêu rên thảm khốc, Hết hẳn người than khóc đau thương, Tội kia phúc nọ đôi đường, Dở hay tốt xấu như gương soi mình. Hơi trông thấy tâm mình tự rõ, Đau khổ thì nhăn nhó hiện ra, Khi vui vẻ lúc an hòa, Mặt như hoa nở trăng đà tròn xoe. Nhân đã tạo quả kia tất kết, Tự tâm mình suy xét hiểu ngay, Dở hay, hay dở, dở hay, Dở hay bao cũng tâm này mà ra, Muốn khỏi tội phải xa lánh ác, Cầu phúc cần bồi đắp thiện căn, Muốn ăn quả phải trồng nhân, Nhân nào quả ấy chẳng phần nào sai. Người sinh ở đời này hưởng thụ, Phúc tội mình gây đủ từ xưa, Mỗi người mỗi cảnh khác xa, Nhìn xem nét mặt đúng là không sai. Suy gẫm khắp đông tây kim cổ, Không người nào giống cả như nhau, Chính vì ngay lúc ban đầu, Không ai nghĩ đúng như nhau một chiều. Gây thiện ác mọi điều không giống, Hưởng thụ nay thành cũng khác nhau, Người không suy trước nghĩ sau, Qua trăm năm dễ tìm đâu ra mình, Bao của cải cũng đành vất bỏ, Bao người thân còn có ai nhìn, Riêng mình theo với nghiệp duyên, Vào sinh ra tử trong miền trầm luân. Nay may đã được gần Phật pháp, Quy y rồi cận phát tâm tu, Tháng ngày cố gắng công phu, Mở mang phúc tuệ sao cho vẹn toàn, Suốt đời đời cần chuyên ra sức, Dốc lòng thành tích đức tu nhân, Làm ăn chân chính kiệm cần.
- Trích trong "Gia đình Giáo dục" Sa môn Trí Hải soạn - Chùa Quán Sứ Hà Nội ấn hành 1956. - Bài do Tổ Trí Hải trước tác. Được dùng làm Già kể hạnh ở các khi đi hội lễ hằng năm. 55. BÁT NHÃ TÂM KINH (I)
Tâm trí huệ thinh thinh rộng lớn, Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần Làu làu một tánh thiên chân, Bao trùm muôn loại chẳng phân Thánh phàm. Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt, Cõi bờ kia một bước đến nơi, Trải lòng tròn đủ xưa nay, Công thành quả chứng tỏ bày đích đang. Hàng Bồ Tát danh Quan Tự Tại, Khi tham thiền vô ngại đến trong, Thẩm vào trí tuệ mở thông, Soi thấy năm uẩn đều không có gì, Độ tất cả không chi khổ ách, Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra, Sắc, Không chung ở một nhà, Không chẳng khác Sắc, Sắc nào khác không, Ấy Sắc tướng cũng đồng Không tướng, Không tướng y như tượng Sắc kia, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, phân chia, Cũng lại như vậy, tổng về chân không. Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó, Các pháp kia tướng nọ luống trơn, Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn, Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm, Cớ ấy nên cõi trên không giới, Thể làu làu vô ngại thường chân, Vốn không ngũ uẩn ấm thân, Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không. Thấy rỗng không mà không nhãn giới, Biết hoàn toàn thức giới cũng không, Tánh không sáng suốt đại đồng, Vô minh chẳng có mựa hòng hết chi, Vẫn không có thân gì già chết, Huống chi là hết chết già sao ? Tứ đế cũng chẳng có nào, Không chi là trí có nào đắc chi. Do vô sở đắc ly tất cả, Nhơn pháp kia đều xả nhị không, Vận lòng trí huệ linh thông, Bờ kia mau đến tâm không ngại gì. Không quái ngại có chi khủng bố ? Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên, Tâm không rốt ráo chư duyên, Niết bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn. Tam thế Phật, y đàng Bát nhã, Đáo Bồ đề chứng quả chánh nhơn, Cho hay Bát nhã là hơn, Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về. Thiệt thần chú linh tri đại lực, Thiệt thần chú đúng bực quang minh, Ấy chú tối thượng oai linh, Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần. Trừ tất cả nguyên nhân các khổ, Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư, Thiên nhiên chơn thiệt bất hư, Án lam Thần chú Chơn như thuyết rằng: "Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha". (3 lần)
- Bản dịch của Tổ Huệ Đăng - Chùa Thiên Thai Bà Rịa - Trích từ Kinh Tam Bảo Diễn nghĩa - Tổ đình Thiên Thai ấn hành 1967.
|