Phẩm Tứ Thánh Đế
Thứ tám
Lúc bấy giờ,
Văn-Thù-Sư-Lợi Đại Bồ-Tát bảo chư Bồ-Tát rằng : 'Chư Phật tử ! Khổ Thánh-Đế,
trong cơi Ta-Bà này, hoặc gọi là tội, là bức ngặt, là biến dị, là phan duyên, là
nhóm, là đâm, là căn tựa, là hư dối, là chỗ nhọt ghẻ, là kẻ ngu-si.
Chư Phật-tử !
Khổ-Tập Thánh-Đế, cơi Ta-Bà này, hoặc gọi là trói buộc, là diệt hoại, là ái
trước, là vọng-niệm, là thú-nhập, là quyết-định, là lưới, là hí luận, là
tùy-hành, là gốc điên đảo.
Chư Phật-tử !
Khổ-Diệt Thánh-Đế, cơi Ta-Bà này, hoặc gọi là Vô-tránh, là ly-trần, là
tịch-tịnh, là vô tướng, là vô-một, là vô-tự-tánh, là vô chướng ngại, là diệt,
là thể chơn-thật, là trụ tự-tánh.
Chư Phật-tử !
Khổ-Diệt-Đạo Thánh-Đế, cơi Ta-Bà này, hoặc gọi là Nhứt-Thừa, là thú-tịch, là
đạo-dẫn, là cứu-cánh vô-phân-biệt, là b́nh-đẳng, là xả-đảm, là vô-sở-thú, là
tùy-thánh-ư, là tiên-nhơn-lành, là thập-tạng.
Chư Phật-tử ! Nơi
cơi Ta-Bà này nói về tứ thánh-đế có bốn trăm ức mười ngàn danh-từ, theo tâm ư của
chúng-sanh khiến họ được điều-phục.
Chư Phật-tử ! Như
cơi Ta-Bà này nói về khổ thánh-đế, trong thế-giới Mật-Huấn hoặc gọi là
doanh-cầu-căn, là bất-xuất-ly, là hệ-phược-bổn, là làm điều không nên làm, là
khắp tranh đấu, là phân tích đều vô-lực, là chỗ để tựa, là cực khổ, là
tháo-động, là h́nh-trạng-vật.
Chư Phật-tử ! Về
khổ-tập-thánh-đế, trong thế-giới Mật-Huấn, hoặc gọi là thuận sanh-tử, là nhiễm
trước, là đốt cháy, là lưu chuyển, là gốc bại hoại, là mối hữu-lậu, là ác hạnh,
là ái-trước, là nguồn bịnh, là phân số.
Chư Phật-tử ! Về
Khổ-diệt thánh-đế, trong thế-giới Mật-Huấn, hoặc gọi là đệ-nhất-nghĩa, là
xuất-ly, là tán-thán, là an-ổn, là thiện thú-nhập, là điều-phục, là nhứt phần,
là vô tội, là ly tham, là quyết định.
Chư Phật-tử ! Về
khổ-diệt-đạo thánh-đế, trong thế-giới Mật-Huấn hoặc gọi là mănh tướng, là
thượng hạnh, là siêu xuất, là hữu phương-tiện, là b́nh-đẳng-nhăn, là ly biên,
là liễu ngộ, là nhiếp thủ, là tối-thắng-nhăn, là quán-phương.
Chư Phật-tử ! Về
tứ thánh-đế, ở thế-giới Mật-Huấn có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy
tâm ư của chúng-sanh để khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Về
khổ thánh-đế, ở thế-giới Tối-Thắng, hoặc gọi là khủng bố, là phần đoạn, là
khả-yểm-ố, là phải thừa-sự, là biến dị, là chiếu-dẫn-oan, là hay khi đoạt, là
khó cộng-sự, là vọng phân biệt, là có thế lực.
Chư Phật-tử ! Về
khổ-tập thánh-đế, ở thế-giới Tối-Thắng, hoặc gọi là bại-hoại, là si-căn, là
đại-oan, là dao bén, là dứt mùi vị, là cừu-thù, là chẳng phải vật của ḿnh, là
ác-đạo-dẫn, là thêm đen tối, là hư lợi lành.
Chư Phật-tử ! Về
khổ-diệt thánh-đế, ở thế-giới Tối-Thắng, hoặc gọi là đại-nghĩa, là nhiêu-ích,
là nghĩa-trung-nghĩa, là vô-lượng, là chỗ phải thấy, là ly phân-biệt, là
tối-thượng-điều-phục, là thường-b́nh-đẳng, là khả-đồng-trụ, là vô-vị.
Chư Phật-tử ! Về khổ-diệt-đạo
thánh-đế, ở thế-giới Tối-Thắng, hoặc gọi là hay đốt cháy, là tối-thượng-phẩm,
là quyết-định, là vô-năng-phá, là thâm-phương-tiện, là xuất-ly, là bất-hạ-liệt,
là thông-đạt, là giải-thoát-tánh, là năng-độ-thoát.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Tối-Thắng, về tứ thánh-đế, có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy,
tùy tâm ư chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Ly-Cấu, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là hối-hận, là tư-đải, là
triển-chuyển, là trụ-thành, là nhứt-vị, là phi-pháp, là cư-trạch, là chỗ
vọng-trước, là thấy hư-vọng, là không có số.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Ly-Cấu, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là vật không thật, là chỉ có lời
nói, là chẳng trong trắng, là sanh-địa, là chấp-thủ, là bỉ-tiện, là
tăng-trưởng, là gánh nặng, là hay sanh, là thô rắn.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Ly-Cấu, vể khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là vô đẳng-đẳng, là khắp trừ
sạch, là ly-cấu, là tối-thắng-căn, là xưng hội, là không tư-đăi, là diệt-hoặc,
là tối-thượng, là tất-cánh, là phá-noăn.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Ly-Cấu, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là vật kiên cố, là
phương-tiện-phần, là giải-thoát-bổn, là bổn-tánh-thật, là chẳng thể chê mắng,
là rất thanh-tịnh, là mé hữu-lậu, là toàn nhận gởi, là làm rốt-ráo, là tịnh
phân biệt.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Ly-Cấu, tứ thánh-đế, có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm
ư chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở
Phong-Dật thế-giới, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là chỗ ái-nhiễm, là gốc hiểm hại,
là phần biển hữu lậu, là chứa nhóm lên, là gốc sai biệt, là tăng trưởng, là
sanh-diệt, là chướng-ngại, là cây đao gươm, là số làm thành.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Phong-Dật, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là đáng ghét, là danh-tự, là
vô-tận, là phân số, là chẳng đáng ưa, là hay chụp cắn, là vật thô bỉ, là ái
trước, là khí cụ, là dao động.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Phong-Dật, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là dứt tương-tục, là
khai-hiển, là vô-văn-tự, là vô-sở-tu, là vô-sở-kiến, là vô-sở-tác, là
tịch-diệt, là đă đốt sạch, là xả-trọng-đảm, là đă trừ hoại.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Phong-Dật, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là hạnh tịch-diệt, là
hạnh xuất-ly, là siêng tu-chứng, là đi an ổn, là vô-lượng-thọ, là khéo rơ biết,
là đạo cứu-cánh, là khó tu-tập, là đến bờ kia, là vô-năng thắng.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Phong-Dật, về tứ thánh-đế, có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy,
tùy tâm chúng-sanh, khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Nhiếp-Thủ, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là hay cướp dựt, là bạn chẳng
lành, là nhiều khủng bố, là những hí-luận, là địa ngục tánh, là không thật
nghĩa, là gánh tham dục, là gốc sâu nặng, là tùy tâm chuyển, là bổn trống rỗng.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Nhiếp-Thủ, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là tham trước, là ác thành
biện, là quá-ác, là tốc-tật, là hay chấp-thủ, là tưởng, là có quả, là
vô-khả-thuyết, là vô-khả-thủ, là lưu-chuyển.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Nhiếp-Thủ, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là bất-thối-chuyển, là
ly-ngôn-thuyết, là vô-tướng-trạng, là khả-hân-lạc, là kiên-cố, là thượng-diệu,
là ly-si, là diệt-tận, là viễn-ác, là xuất-ly.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Nhiếp-Thủ, về khổ-diệt đạo thánh-đế, hoặc gọi là ly-ngôn, là vô-tránh,
là giáo-đạo, là thiện-hồi-hướng, là đại-thiện-xảo, là sai-biệt phương tiện, là
như hư-không, là tịch-tịnh-hạnh, là thắng-trí, là năng-liễu-nghĩa.
Chư Phật-tử ! Về
tứ thánh-đế, ở Nhiếp-Thủ thế-giới có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy
tâm ư của chúng-sanh, khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Nhiêu-Ích, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là trọng-đảm, là chẳng bền, là
như giặc, là lăo tử, là ái-sở-thành, là lưu chuyển, là mệt nhọc, là
tướng-trạng-ác, là sanh trưởng, là dao bén.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Nhiêu-Ích, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là bại hoại, là hỗn-trược, là
thối thất, là vô lực, là táng-thất, là oai-vi-trần, là bất ḥa hợp, là sở tác,
là thủ, là ư-dục.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Nhiêu-Ích, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là xuất ngục, là chơn thật,
là ly nạn, là phúc hộ, là ly ác, là tùy thuận, là căn bổn, là xả-nhơn, là vô
vi, là không tương tục.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Nhiêu-Ích, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là đạt-vô-sở-hữu, là
nhứt-thiết-ấn, là tam-muội-tạng, là đắc-quang-minh, là bấtt-thối-pháp, là
năng-tận-hữu, là quảng-đại-lộ, là năng điều-phục, là hữu an-ổn, là gốc bất lưu
chuyển.
Chư Phật-tử ! Về
tứ thánh-đế, ở thế-giới Nhiêu-Ích, có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy,
tùy tâm ư của chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Tiển-Thiểu, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là hiểm-lạc-dục, là chỗ
hệ-phược, là tà-hạnh, là tùy-thọ, là vô-tâm-sĩ, là tham-dục-căn, là
hằng-hà-lưu, là thường phá hoại, là tánh khói lửa, là nhiều ưu năo.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Tiển-Thiểu, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là quảng-địa, là năng-thú,
là viễn-huệ, là lưu-nạn, là khủng-bố, là phóng-dật, là nhiếp-thú, là trước-xứ,
là trạch-chủ, là liên-phược.
Chư Phật-tử ! Ở
Tiển-Thiểu thế-giới, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là sung-măn, là bất-tử, là
vô-ngă, là tự-tánh, là phận-biệt-tận, là an-lạc-trụ, là vô-hạn-lượng, là đoạn
luân chuyển, là tuyệt-hành-xứ, là bất nhị.
Chư Phật-tử ! Ở
Tiển-Thiểu thế-giới, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là đại quang-minh, là
diễn-thuyết hải, là giản-trạch-nghĩa, là ḥa-hiệp-pháp, là ly-thủ-trước, là
đoạn tương-tục, là quảng-đại-lộ, là b́nh đẳng nhơn, là tịnh phương tiện, là
tối-thắng-kiến.
Chư Phật-tử ! Về
tứ thánh-đế, ở Tiển-Thiểu thế-giới có bốn trăm ức mười ngàn danh hiệu như vậy,
tùy tâm ư của chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Hoan-Hỉ, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là lưu-chuyển, là xuất sanh, là
thất lợi, là nhiễm trước, là trọng đảm, là sai biệt, là nội hiểm, là tập hội,
là ác xá trạch, là khổ-năo-tánh.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Hoan-Hỉ, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là địa, là phương tiện, là phi
thời, là phi-thật-pháp, là vô-để, là nhiếp-thủ, là ly giới, là phiền-năo-pháp,
là hiếp-liệt-kiến, là cấu-tụ.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Hoan-Hỉ, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là phá-y-chỉ, là
bất-phóng-dật, là chơn thật, là b́nh đẳng, là thiện tịnh, là vô bịnh, là vô
khúc, là vô tướng, là tự tại, là vô sanh.
Chư Phật-tử ! Ở
thế-giới Hoan-Hỉ, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là nhập thắng-giới, là
đoạn tập, là siêu-đẳng-loại, là quảng đại tánh, là phân biệt tận, là thần lực
đạo, là chúng phương tiện, là chánh niệm hạnh, là thường tịch lộ, là
nhiếp-giải-thoát.
Chư Phật-tử ! Về
nhiếp-thánh-đế, ở Hoan-Hỉ thế-giới có bốn trăm ức mười ngàn danh hiệu như vậy,
tùy tâm ư của chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở
Quan-Thược thế-giới, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là bại hoại tướng, là như
phố-khí, là ngă sở thành, là chư-thú-thân, là sát lưu chuyển, là chúng ác môn, là
tánh khổ, là khả-khí-xả, là vô vị, là lai khứ.
Chư Phật-tử ! Ở
Quan-Thược thế-giới, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là hành, là phẩn độc, là ḥa
hiệp, là thọ chi, là ngă tâm, là tạp độc, là hư xưng, là oai-vị, là nhiệt-năo,
là kinh hăi.
Chư Phật-tử ! Ở
Quan-Thược thế-giới, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là vô tích tập, là bất khả
đắc, là diệu dược, là bất khả hoại, là vô trước, là vô lượng, là quảng đại, là
giác phần, là ly nhiễm, là vô chướng ngại.
Chư Phật-tử ! Ở
Quan-Thược thế-giới, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là an ổn hạnh, là ly
dục, là cứu cánh thật, là nhập nghĩa, là tánh cứu cánh, là tịnh hiện, là nhiếp
niệm, là thu giải thoát, là cứu tế, là thắng hạnh.
Chư Phật-tử ! Về
tứ thánh-đế, ở Quan-Thược thế-giới có bốn trăm ức mười ngàn danh hiệu như vậy,
tùy tâm ư của chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở
Chấn-Âm thế-giới, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là dấu-lỗi, là thế-gian, là sở y,
là ngạo mạn, là tánh nhiễm trước, là ḍng chảy mau, là chẳng vui được, là che
dấu, là mau diệt, là khó điều.
Chư Phật-tử ! Ở
Chấn-Âm thế-giới, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là cần chế phục, là tâm thú, là
năng phược, là tùy niệm khởi, là đến hậu biên, là cộng ḥa hiệp, là phân biệt,
là môn, là phiêu động, là ẩn che.
Chư Phật-tử ! Ở
Chấn-Âm thế-giới, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là vô y xứ, là bất khả thủ,
chuyển hườn, là ly tránh, là tiểu, là đại, là thiện tịnh, là vô tận, là quảng
bác, là vô đẳng giá.
Chư Phật-tử ! Ở
Chấn-Âm thế-giới, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là quan sát, là năng tồi
địch, là liễu tri ấn, là năng nhập tánh, là nan địch đối, là vô hạn nghĩa, là
năng nhập trí, là ḥa hiệp đạo, là hằng bất động, là thù thắng nghĩa.
Chư Phật-tử ! Về
tứ thánh-đế, ở Chấn-Âm thế-giới có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy
tâm ư của chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Như
cơi Ta-Bà này nói tứ thánh-đế có bốn trăm ức mười ngàn danh hiệu, cũng vậy,
mười phương tất cả vô-lượng, vô-biên, bất-khả-thuyết thế-giới, tận pháp-giới
hư-không-giới, trong mỗi thế-giới nói tứ thánh-đế đều có bốn trăm ức mười ngàn
danh từ, tùy tâm ư của chúng-sanh khiến họ được điều-phục.
*****