Phẩm Như Lai Danh Hiệu
Thứ bảy
Lúc bấy giờ đức
Thế-Tôn ở nước Ma-Kiệt-Đề, trong đạo-tràng bồ-đề, sơ-thỉ thành chánh-giác, nơi
điện Phổ-Quang-Minh, ngồi trên ṭa Liên-Hoa-tạng-sư-tử, diệu-ngộ đều viên măn,
tuyệt hẳn hai hạnh, đạt pháp vô-tướng, an-trụ nơi chỗ trụ của chư Phật, được
Phật b́nh đẳng, đến chỗ vô-chướng, chỗ làm vô-ngại, đứng nơi bất-tư-ngh́, thấy
khắp tam-thế.
Cùng với mười
phật-sát vi-trần-số chư Bồ-Tát câu hội, tất cả đều là bực nhứt-sanh-bổ-xứ, từ
phương khác đồng vân tập đến, đều khéo quan-sát chúng-sanh-giới, pháp-giới,
thế-giới, niết-bàn-giới, các nghiệp quả báo, tâm-hành thứ đệ, tất cả văn nghĩa
thế-gian, xuất thế-gian, hữu-vi-trần, vô-vi, quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, những
pháp như vậy đều khéo quan-sát cả.
Chư Bồ-Tát nghĩ
rằng : nếu đức Thế-Tôn có ḷng mẫn niệm chúng tôi, xin tùy theo sự ưa thích mà
khai thị những điều :
Phật-sát,
phật-trụ, phật-sát trang-nghiêm, phật-pháp-tánh, phật-sát thanh-tịnh,
phật-thuyết-pháp, phật-sát thể-tánh, phật oai-đức, phật-sát thành-tựu, phật đại
bồ-đề.
Như chư Phật
Thế-Tôn trong thập phương thế-giới, v́ thành tựu tất cả Bồ-Tát, v́ khiến
chủng-tánh Như-Lai không dứt, v́ cứu hộ tất cả chúng-sanh, v́ khiến chúng-sanh
ĺa tất cả phiền-năo, v́ rơ tất cả công-hạnh, v́ diễn thuyết các pháp, v́ dứt
trừ tất cả tạp-nhiễm, v́ dứt hẳn tất cả lưới nghi, v́ trừ bỏ tất cả tham vọng,
v́ hoại diệt tất cả chỗ ái-trước, mà diễn nói thập-trụ, thập-hạnh, thập
hồi-hướng, thập-tạng, thập-địa, thập-nguyện, thập-định, thập-thông, thập-đảnh
của Bồ-Tát. Và cũng diễn nói Như-Lai địa, Như-Lai cảnh-giới, Như-Lai thần-lực,
Như-Lai vô-úy, Như-Lai tam-muội, Như-Lai thần-thông, Như-Lai tự-tại. Như-Lai
vô-ngại, nhăn-nhĩ-tỷ-thiệt-thân-ư của Như-Lai, Như-Lai biện-tài, Như-Lai
trí-huệ, Như-Lai tối-thắng.
Mong đức Thế-Tôn
cũng v́ chúng tôi mà diễn thuyết cho !
Lúc đó đức
Thế-Tôn rơ tâm niệm của chư Bồ-Tát, đều tùy theo từng loại mà v́ họ hiện
thần-thông.
Sau khi đức Phật
hiện thần-thông, phương đông, quá mười phật-sát-vi-trần-số thế-giới, có
thế-giới hiệu Kim-Sắc, Phật hiệu Bất-Động-Trí, nơi đó có Bồ-Tát tên
Văn-Thù-Sư-Lợi, cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến đây lễ Phật, rồi
hóa hiện ṭa liên-hoa-tạng-sư-tử ở phía đông mà ngồi kiết-già trên đó.
Phương nam, quá
mười phật-sát vi-trần-số thế-giới có thế-giới Diệu-Sắc, Phật hiệu Vô-Ngại-Trí,
có Bồ-Tát Giác-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số chư Bồ-Tát đồng đến đây lễ
Phật, rồi hóa hiện ṭa liên-hoa-tạng-sư-tử ở phía nam mà ngồi kiết-già trên đó.
Phương tây, quá
mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Liên-Hoa-Sắc, Phật hiệu
Diệt-Ám-Trí, có Bồ-Tát Tài-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến
đây lễ Phật, rồi hóa hiện ṭa Liên-hoa-tạng sư-tử ở phía tây mà ngồi kiết-già
trên đó.
Phương bắc, mười
phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Chiêm-Bặc-Hoa-Sắc, Phật hiệu
Oai-Nghi-Trí, có Bồ-Tát Nhựt-Bửu-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng
đến đây lễ Phật, rồi hóa hiện ṭa Liên-hoa-tạng-sư-tử ở phía bắc mà ngồi
kiết-già trên đó.
Phương đông-bắc,
quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Ưu-Bát-La-Hoa-Sắc, Phật hiệu
Minh-Trí-Tướng, có Bồ-Tát Công-Đức-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát
đồng đến đây lễ Phật, rồi hóa hiện ṭa Liên-hoa-tạng sư-tử ở phía đông-bắc mà
ngồi kiết-già trên đó.
Phương đông-nam,
quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Kim-Sắc, Phật hiệu
Cứu-Cánh-Trí, có Bồ-Tát Mục-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến
đây lễ Phật, rồi hóa hiện ṭa Liên-hoa-tạng-sư-tử ở phía đông-nam mà ngồi
kiết-già trên đó.
Phương tây-nam,
quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Bửu-Sắc, Phật hiệu
Tối-Thắng-Trí, có Bồ-Tát Tinh-Tấn-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng
đến đây lễ Phật, rồi hóa hiện ṭa Liên-hoa-tạng sư-tử ở phía tây-nam mà ngồi
kiết-già trên đó.
Phương tây-bắc,
quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Kim-Cang-Sắc, Phật hiệu
Tự-Tại-Trí, có Bồ-Tát Pháp-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến
đây lễ Phật, rồi hóa hiện ṭa Liên-hoa-tạng sư-tử ở phía tây-bắc mà ngồi
kiết-già trên đó.
Hạ phương, quá mười
phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Pha-Lê-Sắc, Phật hiệu Pham-Trí, có
Bồ-Tát Trí-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến đây lễ Phật, rồi
hóa hiện ṭa Liên-hoa-tạng sư-tử ở hạ-phương mà ngồi kiết-già trên đó.
Thượng phương,
quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới B́nh-Đẳng-Sắc, Phật hiệu
Quan-Sát-Trí, có Bồ-Tát Hiền-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến
đây lễ Phật, rồi hóa hiện ṭa Liên-hoa-tạng-sư-tử ở thượng phương mà ngồi
kiết-già trên đó.
Bấy giờ,
Văn-Thù-Sư-Lợi Đại Bồ-Tát thừa thừa oai-lực của Phật quan-sát tất cả chúng-hội
Bồ-Tát mà nói rằng : 'Chư Bồ-Tát này rất hi hữu'.
Chư Phật-tử !
Phật quốc-độ chẳng thể nghĩ bàn. Phật trụ, phật-sát trang-nghiêm, Phật
pháp-tánh, phật-sát thanh-tịnh, Phật thuyết-pháp, Phật xuất-hiện, phật-sát
thành-tựu, Phật vô-thượng bồ-đề đều chẳng thể nghĩ bàn.
Tại sao thế ?
Chư Phật-tử ! Tất
cả chư Phật trong mười phương biết rằng chúng-sanh ưa thích không đồng, nên tùy
chỗ thích nghi mà thuyết pháp điều-phục họ, nhẫn đến khắp pháp-giới,
hư-không-giới.
Chư Phật-tử ! Đức
Như-Lai nơi thế-giới Ta-Bà này, trong những tứ châu thiên hạ, thị hiện nhiều
thân, nhiều hiệu, nhiều sắc tướng, nhiều dài ngắn, nhiều tuổi thọ, nhiều xứ sở,
nhiều căn, nhiều chỗ sanh, nhiều tiếng lời, nhiều quan-sát, khiến chúng sanh
đều thấy biết khác nhau.
Chư Phật-tử ! Đức
Như-Lai ở trong tứ châu thiên hạ này, hoặc hiệu Nhứt-Thiết-Nghĩa-Thành, hoặc
hiệu Viên-Măn-Nguyệt, hoặc hiệu Sư-Tửu-Hống, hoặc hiệu Thích-Ca-Mâu-Ni, hoặc
hiệu Đệ-Nhất-Tiên, hoặc hiệu Tỳ-Lô-Giá-Na, hoặc hiệu Cù-Đàm-Thị, hoặc hiệu
Đại-Sa-Môn, hoặc hiệu Tối-Thắng, hoặc hiệu Đạo-Sư, có mười ngàn hiệu như vậy,
khiến chúng-sanh thấy biết riêng khác.
Chư Phật-tử !
Phương đông của tứ thiên hạ này, có thế-giới tên Thiện-Hộ-Đức. Như-Lai ở tại
thế-giới đó, hoặc hiệu Kim-Cang, hoặc hiệu Tự-Tại, hoặc hiệu Hữu-Trí-Huệ, hoặc
hiệu Nan-Thắng, hoặc hiệu Vân-Vương, hoặc hiệu Vô-Tránh, hoặc hiệu Năng-Vi-Chủ,
hoặc hiệu Tâm-Hoan-Hỉ, hoặc hiệu Vô-Giữ-Đẳng, hoặc hiệu Đoạn-Ngôn-Luận, có mười
ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết riêng khác.
Chư Phật-tử !
Phương nam của tứ thiên hạ này, có thế-giới tên Nan-Nhẫn. Ủức Như-Lai ở
thế-giới đó hoặc tên Đế-Thích, hoặc hiệu Bửu-Xưng, hoặc hiệu Ly-Cấu, hoặc hiệu
Thật-Ngữ, hoặc hiệu Năng-Điều-Phục, hoặc hiệu Cụ-Túc-Hỉ, hoặc hiệu
Đại-Danh-Xưng, hoặc hiệu Năng-Lợi-Ích, hoặc hiệu Vô-Biên, hoặc hiệu Tối-Thắng,
có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết riêng khác.
Chư Phật-tử !
Phương tây của tứ thiên hạ này, có thế-giới tên Thân-Huệ. Đức Như-Lai ở
thế-giới đó hoặc hiệu Thủy-Thiên, hoặc hiệu Hỉ-Kiến, hoặc hiệu Tối-Thắng-Vương,
hoặc hiệu Chơn-Thiệt-Huệ, hoặc hiệu Đáo-Cứu-Cánh, hoặc hiệu Hoan-Hỉ, hoặc hiệu
Pháp-Huệ, hoặc hiệu Sở-Tác-Dĩ-Biện, hoặc hiệu Thiện-Trụ, có mười ngàn hiệu như
vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết khác nhau.
Chư Phật-tử !
Phương bắc của tứ thiên hạ này có thế-giới tên Hữu-Sư-Tử. Đức Như-Lai ở
thế-giới đó hoặc hiệu Đại-Mâu-Ni, hoặc hiệu Khổ-Hạnh, hoặc hiệu Thế-Sở-Tôn,
hoặc hiệu Tối-Thắng-Điền, hoặc hiệu Nhứt-Thiết-Trí, hoặc hiệu Thiện-Ư, hoặc
hiệu Thanh-Tịnh, hoặc hiệu Kề-La-Bạt-Na, hoặc hiệu Tối-Thượng-Thí, hoặc hiệu
Khổ-Hạnh-Đắc, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết khác
nhau.
Chư Phật-tử !
Phương đông bắc của tứ thiên hạ này có thế-giới tên Diệu-Quan-Sát. Đức Như-Lai
ở thế-giới đó hoặc hiệu Điều-Phục-Ma, hoặc hiệu Thành-Tựu, hoặc hiệu Tức-Diệt,
hoặc hiệu Hiền-Thiên, hoặc hiệu Ly-Tham, hoặc hiệu Thắng-Huệ, hoặc hiệu
Tâm-B́nh-Đẳng, hoặc hiệu Vô-Năng-Thắng, hoặc hiệu Trí-Huệ-Âm, hoặc hiệu
Nan-Xuất-Hiện, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết khác
nhau.
Chư Phật-tử !
Phương đông nam của thứ thiên hạ này có thế-giới tên Hỉ-Lạc. Đức Như-Lai ở
thế-giới đó hoặc hiệu Quang-Diệm-Tụ, hoặc hiệu Biến-Tri, hoặc hiệu Bí-Mật, hoặc
hiệu Giải-Thoát, hoặc hiệu Tánh-An-Trụ, hoặc hiệu Như-Pháp-Hành, hoặc hiệu
Tịnh-Nhăn-Vương, hoặc hiệu Đại-Dũng-Kiện, hoặc hiệu Tinh-Tấn-Lực, có mười ngàn
hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết khác nhau.
Chư Phật-tử !
Phương tây nam của tứ thiên hạ này có thế-giới tên Thậm-Kiên-Lao. Đức Như-Lai ở
thế-giới đó hoặc hiệu An-Trụ, hoặc hiệu Trí-Vương, hoặc hiệu Viên-Măn, hoặc
hiệu Bất-Động, hoặc hiệu Diệu-Nhăn, hoặc hiệu Đảnh-Vương, hoặc hiệu Tự-Tại-Âm,
hoặc hiệu Nhứt-Thiết-Thí, hoặc hiệu Tŕ-Chúng-Tiên, hoặc hiệu Thắng-Tu-Di, có
mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết khác nhau.
Chư Phật-tử !
Phương tây bắc của tứ thiên này có thế-giới tên Diệu-Địa. Đức Như-Lai ở đó hoặc
hiệu Phổ-Biến, hoặc hiệu Quang-Diệm, hoặc hiệu Ma-Ni-Kế, hoặc hiệu Khả-Ức-Niệm,
hoặc hiệu Vô-Thượng-Nghĩa, hoặc hiệu Thường-Hỉ-Lạc, hoặc hiệu Tánh-Thanh-Tịnh,
hoặc hiệu Viên-Măn-Quang, hoặc hiệu Tu-Tư, hoặc hiệu Trụ-Bổn, có mười ngàn hiệu
như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Hạ
phương của tứ thiên-hạ này có thế-giới tên Diệm-Huệ. Đức Như-Lai ở đó hoặc hiệu
là Tập-Thiện-Căn, hoặc hiệu Sư-Tử-Tướng, hoặc hiệu Mănh-Lợi-Huệ, hoặc hiệu
Kim-Sắc-Diệm, hoặc hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Thức, hoặc hiệu Cứu-Cánh-Âm, hoặc hiệu
Tác-Lợi-Ích, hoặc hiệu Đáo-Cứu-Cánh, hoặc hiệu Chơn-Thiệt-Thiên, hoặc hiệu
Phổ-Biến-Thắng, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết sai
khác.
Chư Phật-tử !
Thượng phương của tứ thiên hạ này có thế-giới tên Nhựt-Tŕ-Địa, Đức Như-Lai ở
đó, hoặc hiệu Hữu-Trí-Huệ, hoặc hiệu Thanh-Tịnh-Diện, hoặc hiệu Giác-Huệ, hoặc
hiệu Thượng-Thủ, hoặc hiệu Hạnh-Trang-Nghiêm, hoặc hiệu Phát-Hoan-Hỉ, hoặc hiệu
Ư-Thành-Măn, hoặc hiệu Như-Thạch-Hỏa, hoặc hiệu Tŕ-Giới, hoặc hiệu Nhứt-Đạo,
có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Cơi
Ta-Bà này có trăm ức tứ châu thiên hạ. Đức Như-Lai ở đây có tất cả trăm vạn ức
danh hiệu, khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử !
Phương đông của cơi Ta-Bà này, có thế-giới tên Mật-Huấn. Đức Như-Lai ở đó hoặc
hiệu B́nh-Đẳng, hoặc hiệu Thù-Thắng, hoặc hiệu An-Ủy, hoặc hiệu Khai-Hiểu-Ư,
hoặc hiệu Văn-Huệ, hoặc hiệu Chơn-Thiệt-Ngữ, hoặc hiệu Đắc-Tự-Tại, hoặc hiệu
Tối-Thăng-Thân, hoặc hiệu Đại-Dũng-Mănh, hoặc hiệu Vô-Đẳng-Trí, có trăm vạn ức
hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử !
Phương nam của cơi Ta-Bà này có thế-giới tên Phong-Dật. Đức Như-Lai ở đó hoặc
hiệu Bổn-Tánh, hoặc hiệu Cần-Ư, hoặc hiệu Vô-Thượng-Tôn, hoặc hiệu Đại-Trí-Cự,
hoặc hiệu Vô-Sở-Y, hoặc hiệu Quang-Minh-Tạng, hoặc hiệu Trí-Huệ-Tạng, hoặc hiệu
Phước-Đức-Tạng, hoặc hiệu Thiên-Trung-Thiên, hoặc hiệu Đại-Tự-Tại, có trăm vạn
ức hiệu như vậy khiến chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử !
Phương tây của cơi Ta-Bà này có thế-giới tên Ly-Cấu. Đức Như-Lai ở đó hoặc hiệu
Ư-Thành, hoặc hiệu Tri-Đạo, hoặc hiệu An-Trụ-Bổn, hoặc hiệu Năng-Giải-Phược,
hoặc hiệu Thông-Đạt-Nghĩa, hoặc hiệu Nhạo-Phân-Biệt, hoặc hiệu Tối-Thắng-Kiến,
hoặc hiệu Điều-Phục-Hạnh, hoặc hiệu Chúng-Khổ-Hạnh, hoặc hiệu Cụ-Túc-Lực, có
trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử !
Phương bắc của cơi Ta-Bà này có thế-giới tên Phong-Lạc. Đức Như-Lai ở đó hoặc
hiệu Chiêm-Bặc-Hoa-Sắc, hoặc hiệu Nhựt-Tạng, hoặc hiệu Thiện-Trụ, hoặc hiệu
Hiện-Thần-Thông, hoặc hiệu Tánh-Siêu-Mại, hoặc hiệu Huệ-Nhựt, hoặc hiệu
Vô-Ngại, hoặc hiệu Như-Nguyệt-Hiện, hoặc hiệu Tấn-Tật-Phong, hoặc hiệu
Thanh-Tịnh-Thân, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai
khác.
Chư Phật-tử !
Phương đông bắc của cơi Ta-Bà này có thế-giới tên Nhiếp-Thủ. Đức Như-Lai ở đó
hoặc hiệu Vĩnh-Ly-Khổ, hoặc hiệu Phổ-Giải-Thoát, hoặc hiệu Ly-Thế-Gian, hoặc
hiệu Vô-Ngại-Địa, hoặc hiệu Đại-Phục-Tạng, hoặc hiệu Giải-Thoát-Trí, hoặc hiệu
Quá-Khứ-Tạng, hoặc hiệu Bửu-Quang-Minh, hoặc hiệu Tịnh-Tín-Tạng, hoặc hiệu
Tâm-Bất-Động, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai
khác.
Chư Phật-tử !
Phương đông nam của cơi Ta-Bà này có thế-giới tên Nhiêu-Ích. Đức Như-Lai ở đó
hoặc hiệu Hiện-Quang-Minh, hoặc hiệu Tận-Trí, hoặc hiệu Mỹ-Âm, hoặc hiệu
Thắng-Căn, hoặc hiệu Trang-Nghiêm-Cái, hoặc hiệu Tinh-Tấn-Căn, hoặc hiệu
Đáo-Phân-Biệt-Bỉ-Ngạn, hoặc hiệu Thắng-Định, hoặc hiệu Giản-Ngôn-Từ, hoặc hiệu
Trí-Huệ-Hải, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử !
Phương tây nam của cơi Ta-Bà này có thế-giới tên Tiển-Thiểu. Đức Như-Lai ở đó
hoặc hiệu Mâu-Ni-Chủ, hoặc hiệu Cụ-Chúng-Bửu, hoặc hiệu Thế-Giải-Thoát, hoặc
hiệu Biến-Tri-Căn, hoặc hiệu Thắng-Ngôn-Từ, hoặc hiệu Minh-Liễu-Kiến, hoặc hiệu
Căn-Tự-Tại, hoặc hiệu Đại-Tiên-Sư, hoặc hiệu Khai-Đạo-Nghiệp, hoặc hiệu
Kim-Cang-Sư-Tử, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai
khác.
Chư Phật-tử !
Phương tây bắc của thế-giới Ta-Bà này có thế-giới tên Hoan-Hỉ. Đức Như-Lai ở đó
hoặc hiệu Diệu-Hoa-Tụ, hoặc hiệu Chiên-Đàn-Cái, hoặc hiệu Liên-Hoa-Tạng, hoặc
hiệu Siêu-Việt-Chư-Pháp, hoặc hiệu Pháp-Bửu, hoặc hiệu Phục-Xuất-Sanh, hoặc
hiệu Quảng-Đại-Nhăn, hoặc hiệu Hữu-Thiện-Pháp, hoặc hiệu Chuyên-Niệm-Pháp, hoặc
hiệu Vơng-Tạng, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai
khác.
Chư Phật-tử ! Hạ
phương của cơi Ta-Bà này có thế-giới tên Quan-Thược. Đức Như-Lai ở đó hoặc hiệu
Phát-Khởi-Diệm, hoặc hiệu Điều-Phục-Độc, hoặc hiệu Đế-Thích-Cung, hoặc hiệu
Vô-Thường-Sở, hoặc hiệu Giác-Ngự-Bổn, hoặc hiệu Đoạn-Tăng-Trưởng, hoặc hiệu
Đại-Tốc-Tật, hoặc hiệu Thường-Lạc-Thí, hoặc hiệu Phân-Biệt-Đạo, hoặc hiệu
Ṭi-Phục-Tràng, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai
khác.
Chư Phật-tử !
Thượng phương cũa cơi Ta-Bà này có thế-giới tên Chấn-Âm. Đức Như-Lai ở đó hoặc
hiệu Dũng-Mănh-Tràng, hoặc hiệu Vô-Lượng-Bửu, hoặc hiệu Lạc-Đại-Thí, hoặc hiệu
Thiên-Quang, hoặc hiệu Cát-Hưng, hoặc hiệu Siêu-Cảnh-Giới, hoặc hiệu
Nhứt-Thiết-Chủ, hoặc hiệu Bất-Thối-Luân, hoặc hiệu Ly-Chúng-Ác, hoặc hiệu
Nhứt-Thiết-Trí, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai
khác.
Chư Phật-tử !
Mười phương quanh cơi Ta-Bà này mỗi phương đều có trăm ngàn ức vô-số, vô-lượng,
vô-biên, vô-đẳng, bất-khả-sổ, bất-khả-xưng, bất-khả-tư, bất-khả-lượng,
bất-khả-thuyết thế-giới, tận pháp-giới, hư-không-giới, trong đó danh hiệu của
Như-Lai đều không đồng.
Như thuở xa xưa,
lúc đức Như-Lai c̣n là Bồ-Tát, do nhiều thứ đàm luận, nhiều thứ ngôn-ngữ, nhiều
thứ âm-thinh, nhiều thứ nghiệp, nhiều thứ báo, nhiều thứ xứ-sở, nhiều thứ
phương tiện, nhiều thứ căn, nhiều thứ tín giải, nhiều thứ địa-vị mà được thành
thục, cũng khiến các chúng-sanh thấy biết như vậy nên v́ họ thuyết pháp.
*****