佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

LUẬN KIM CƯƠNG TIÊN

Tác giả: Luận sư Kim Cương Tiên

Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi

Việt dịch: Nguyên Huệ

-o0o-

QUYỂN 10

 

Trang Chủ

Kinh Điển

Đại Tạng Kinh

Thần Chú

Hình Ảnh

Liên Lạc

 

Số 1512

LUẬN KIM CƯƠNG TIÊN 10 Quyển

Quyển 1

Quyển 2

Quyển 3

Quyển 4

Quyển 5

Quyển 6

Quyển 7

Quyển 8

Quyển 9

Quyển 10

 

16. Nầy Tôn giả Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam, thiện nữ đem Tam thiên đại thiên thế giới nghiền nhỏ thành vi trần v.v…: Một đoạn kinh nầy là đoạn văn kinh thứ 16 trong Phần Đoạn trừ nghi.

+ Sở dĩ có sự nối tiếp: Là v́ để đáp lại nghi vấn ở trên.

Nghi vấn nói: Nếu Ứng Phật có đến, đi, c̣n hai Phật Pháp Báo th́ không có đến, đi, như vậy ba Phật ấy cùng với mười phương chư Phật, lúc đoạn trừ hết mọi phiền năo, thành tựu đạo quả, ở trong pháp giới chân như, là một xứ trụ hay là khác xứ trụ, kết hợp với tánh chân như của tất cả chúng sinh, là một hay là khác, là nhiều, là ít? Đây cũng là sự nghi vấn đă có trong phần kinh ở trước.

Trong kệ của Luận nơi đoạn trên đă tạo đầu mối sinh khởi tóm lược phần kinh ấy, nêu lên Hỏi – Đáp, viết:

Ở nơi pháp giới ấy

Phi một cũng phi khác.

Đoạn kinh nầy sắp giải thích đầy đủ về nghĩa một, khác, nhiều ít của nghi vấn kia, nên dẫn thí dụ về vi trần của Tam thiên thế giới nơi kinh để đáp. Đây là làm rơ: Nghiền nát Tam thiên đại thiên thế giới thành vi trần cực nhỏ, là trần không có sắc hương vị xúc. Như nay, nhân ánh sáng mặt trời mà thấy những hạt bụi li ti trong cửa sổ, đấy là thô trần. Tách thô trần ấy làm ba trăm phần, mới gọi là vi trần. Vi trần nầy, hàng phàm phu, Nhị thừa không thấy được. Lại, đấy cũng chưa là tế trần. Khiến tạo trần không sắc, vị v.v… Tức vi trần ấy không sắc, vị, h́nh trạng, cũng không có bốn phương, trên dưới, số lượng tuy nhiều, nhưng không thể nói là một xứ trụ, khác xứ trụ, hợp làm một, để so sánh với ba Phật cùng với chư Phật trong mười phương cũng nhiều vô lượng.

Nhưng chư Phật nầy tuy nhiều, lúc đoạn trừ hết các thứ phiền năo, ở trong pháp giới chân như không thể nói là một (đồng) là khác (dị), cũng không thể nói là một xứ trụ, là khác xứ trụ. Về tánh tịnh giải thoát, Phật tánh nơi chúng sinh, căn cứ theo chúng sinh tuy nhiều, nhưng trong lư của chân như xưa nay b́nh đẳng, cũng không thể nói là một, khác, nhiều, ít.

V́ nhằm giải thích nghi ấy, nên phần tiếp theo là nêu rơ.

+ Dùng Tam thiên thế giới vi trần: Đây là nêu lên số lượng Tam thiên thế giới vi trần cực nhỏ.

+ Lại đem số lượng vi trần thế giới như vậy: Đây gọi là tế vi trần làm thế giới, cảnh giới ấy là nói về tánh, nên một trần ấy là dựa vào thế giới mà biện luận, cũng gọi làthế giới, cũng gọi là vi trần.

+ Nghiền nát làm vi trần: Là lại nghiền nát vi trần cực nhỏ thành vi trần không có sắc hương vị xúc.

+ A-tăng-kỳ: Là nêu rơ không phải chỉ nghiền nát Tam thiên đại thiên thế giới thành vi trần, mà cũng nghiền nát A-tăng-kỳ thế giới thành vi trần. Cũng được gọi là vi trần không sắc vị, không thể tính đếm, nên gọi là A-tăng-kỳ.

+ Nầy Tôn giả Tu-bồ-đề! Ư của Tôn giả thế nào? Số lượng vi trần ấy nên cho là nhiều chăng?: Là làm rơ số lượng thế giới “được nghiền nát” ấy đă rộng lớn, nên Đức Phật hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: Theo ư địa của Tôn giả tư duy, xét tính, cho số lượng vi trần ấy là nhiều chăng?

Tôn giả Tu-bồ-đề hiểu ư của Như Lai, đáp: Số lượng vi trần đó là rất nhiều, bạch Đức Thế Tôn!

Đây là biện minh Đức Như Lai vừa rồi đă nói về số vi trần kia là rất nhiều, tuy nhiều nhưng do không có sắc hương vị xúc, h́nh trạng, phương sở, nên không bị ngăn ngại, tức không thể nói một xứ trụ, khác xứ trụ, hợp làm một, dùng dụ cho mười phương chư Phật cũng rất nhiều, vô lượng. Mười phương chư Phật ấy, nếu căn cứ theo “Hành giả” mà nói, một Hành giả tự làm một Phật, Hành giả đă nhiều, nên Phật cũng nhiều. Chư Phật ấy, căn cứ theo Hành giả, đă nhiều, không thể nói là một. Hai chướng đă hoàn toàn dứt hết, đạt Pháp thân b́nh đẳng không có sai biệt, nên không thể nói là khác. Về số lượng vi trần được nghiền nát, là trần không sắc vị, tuy rất nhiều, nhưng không có h́nh trạng, không có sắc vị, cũng không có sáu phương, nên không thể nói là một xứ. Dụ cho mười phương chư Phật, lúc đoạn trừ hai bộ, hội nhập với pháp giới chân như, không có h́nh tướng ngăn ngại, cũng không có phương sở, nên không thể nói là một xứ trụ, là khác xứ trụ.

Tôn giả Tu-bồ-đề hiểu ư của Phật, nên đă cung kính đáp như trên.

Trong chúngngười nhân đấy sinh nghi: Trước đă nói nghiền nát vi trần làm hư không, không có sáu phương, h́nh trạng. Lại nói: Số lượng vi trần đó là rất nhiều. Hai lời ấy do đâu trái nhau? V́ thế viết là: V́ sao? Tức đáp: Nếu các vi trần ấy là thật có, th́ Phật tức không nói là vi trần. Đây là biện minh: Nếu các vi trần thật có sáu phương, h́nh trạng, sắc hương vị xúc chẳng không, th́ Phật tức không giả thiết nói nghiền nát vi trần cực nhỏ thành vi trần không sắc, vị.

Lại có nghi vấn: Nếu vi trần nầy, thể là không, không sắc vị, là không thật, v́ sao Đức Như Lai nói là vi trần? V́ Đức Như Lai nói là vi trần, nên biết rơ vi trần là thật, chẳng không. Do đấy nêu: V́ sao? Tức đáp: Phật nói các vi trần, tức không phải các vi trần: Đây là làm rơ, Như Lai đă dựa vào thế đế để bàn, nói về các vi trần hư vọng, nên viết: Phật nói là vi trần. Nhưng chúng vi trần ấy là hư vọng, không thật, xưa nay vắng lặng, nên viết: Tức chẳng phải là vi trần.

Vi trần nầy đă là hư vọng, th́ đâu có thật trần để có thể nêu bày? Thế nên Đức Phật nói chúng vi trần. Do đó, nên ở trên Như Lai nói trần không sắc hương vị xúc, không h́nh trạng, tức nói nơi không trần là trần. Cũng có thể nói: V́ vậy Đức Phật nói chẳng phải là chúng vi trần. Đây là nhân nơi sự không để làm rơ nhân duyên nơi thể của pháp là không.

* Thế Tôn! Như Lai nói Tam thiên đại thiên thế giới tức chẳng phải thế giới: Đó là vừa nêu rơ dụ về vi trần, căn cứ theo chỗ cực nhỏ mà nói. Đây nói Tam thiên thế giới là dựa theo trần để nói. Nhưng lại có nghi: Ở trên Đức Phật nói về vi trần cực nhỏ, Thể của chúng là không thật, do đấy là không. Nhưng chính do vi trần cực nhỏ tạo thành thế giới thô. Nếu vi trần cực nhỏ không thật, th́ do đâu có vật thô như Tam thiên thế giới v.v… nầy? Thế giới thô ấy đă là do vi trần cực nhỏ tạo thành, nếu vi trần cực nhỏ là không, th́ do đâu mắt trông thấy vật thô như Tam thiên thế giới v.v… là có? Do vật thô có, nên biết rơ vi trần cực nhỏ cũng có. V́ vậy đáp: Như Lai nói Tam thiên đại thiên thế giới tức chẳng phải là thế giới. Tức nêu rơ: Như Lai nói giả như Tam thiên thế giới thành một thế giới. Nếu có một thế giới không do cái khác tạo thành, th́ có thể có thế giới là thật. Nhưng không một thế giới nào không do cái khác tạo thành, v́ vậy là không thật. Do không thật nên viết: Như Lai nói Tam thiên thế giới tức chẳng phải thế giới. V́ vi trần cực nhỏ ấy đă là không, nên biết rơ Tam thiên thế giới cũng là hư giả không thật. Thế nên Đức Phật nói Tam thiên thế giới: Là nhằm làm rơ: Nếu có một thế giới là thật, không phải là hư vọng, th́ Đức Phật tức không giả nói Tam thiên thế giới. Đức Phật đă nói: Thâu gồm Tam thiên thế giới làm một thế giới, nên biết là hư giả, không thật.

+ V́ sao? Tức có người nhân đấy sinh niệm nghi: Nếu vi trần, thế giới, hai thứ đều là không thật, th́ Như Lai v́ sao nói vi trần tích tập nên thế giới thành, vi trần tan ră nên thế giới hoại. Do nơi Thánh ngôn ấy để chứng nghiệm, nên biết vi trần là thật, thế sao nói là không? Do vậy nên viết: V́ sao? Tức đáp: Nếu thế giới thật có, tức là một hợp tướng.

+ Ở đây, nói thế giới: Tức gọi vi trần là thế giới, biện minh v́ sao Tam thiên thế giới là không thật. Nếu vi trần thế giới là thật, th́ bốn phương vi trần tụ lại, tức kết hợp sâu xa là một hợp tướng, làm một thế giới, không thể phân biệt, không nên có tên gọi là Tam thiên. Nhưng đă có tên gọi Tam thiên, nên biết có thể thành vi trần thế giới, là hư vọng, không thật.

Do vi trần ấy hư vọng, không thật, tức thể là không, không có h́nh trạng, nên đến đi qua lại không chướng ngại, cho đến núi Thiết-vi cũng không cùng ngăn ngại. Theo lư mà nói, phương Đông, vô vi đến đi không chướng, không ngại. Phương Tây, cho đến các phương Nam, Bắc, trên dưới cả sáu phương, vi trần đến đi đều không chướng, không ngại. Vi trần đó đă không cùng chướng ngại, cũng không có tướng tụ tập, hoàn toàn là không, chẳng có h́nh trạng, cho đến núi Tu-di cũng không thể thấy. Theo đấy nghiệm biết, thế giới hữu vi chớ hỏi về thô tế, đều là hư vọng không thật, xưa nay vắng lặng. Dựa nơi vọng t́nh của người đời mà nói có thế giới. Đây là làm rơ, thể của pháp nhân duyên xưa nay là không.

Nhân đấy sinh nghi, nêu vấn nạn: Nếu một hợp tướngtướng thật, th́ v́ sao Đức Như Lai nói: Hợp Tam thiên thế giới làm một hợp tướng? Nên đáp: Như Lai nói một hợp tướng, là dựa vào tên gọi của thế đế, dụng trong pháp hư vọng để nói một hợp tướng. Tức không phải là một hợp tướng: Là xét về lư mà nói, không có một thế giới kết hợp sâu xa là một hợp, không nhờ vào Tam thiên mà thành, nên nói: Tức chẳng phải là một hợp tướng.

+ Đức Phật nói: Nầy Tu-bồ-đề! Một hợp tướng tức là không thể nói: Nêu rơ pháp hữu vi hư vọng không thật. Không có một thế giới kết hợp sâu xa thành một hợp tướng, là thật, mà có thể nói. Nên nói: Tức là không thể nói.

Nhân đấy lại sinh nghi: Nếu cho thế giới là một hợp tướng không thật, mà chúng sinh không nên thấy, lại không nên thọ dụng. Nhưng nay hiện thấy có thế giới ấy với nhà cửa, y phục nơi khí thế gian được thọ dụng. Đă có thọ dụng đó, nên biết rơ thế giới thô là thật. Thế giới thô đă là thật, nên vi trần cực nhỏ cũng thật, sao có thể nói vi trần thế giới thô tế đều là hư vọng không thật? Nên kinh đáp: Song v́ người của hàng phàm phu tham chấp về sự ấy. Nêu rơ hàng phàm phu do nhân duyên chấp giữ tướng điên đảo, nên ở trong sự hư giả chấp cho là thật, không phải cho thế giới thô là tánh thật. Nhưng chỗ tạo thành thế giới thô đă là không thật, nên biết rơ vi trần cực nhỏ cũng là hư giả. V́ sao? Tức nhân phàm phu nêu trước đă tham chấp nơi sự ấy, nhân đó lại sinh nghi: Nếu hàng phàm phu tại tâm điên đảo, nên chấp giữ vi trần thế giới thô tế với sự hữu vi hư giả, vọng cho là thật. Như Lai không có tâm điên đảo chấp giữ tướng, sao nói có vi trần thế giới, do đâu Như Lai lại nói: Ta thấy vi trần cùng thế giới. Nếu Như Lai nói “Ta thấy”, th́ chỗ Ta thấy là ngă sở, riêng khác với trong ngoài.

Lại, do đâu Như Lai lại nói vốn có các kiến chấp như ngă, nhân, chúng sinh v.v…, sau quán ngă, pháp, thể là không, nên đạt được thắng giải về hai thứ vô ngă, mới đoạn trừ các Hoặc như ngă, nhân v.v…, gọi là đắc đạo. Do Như Lai đă nói như thế, theo đấy chứng nghiệm, tức biết rơ vi trần thế giới với các pháp thô tế là thật có, chẳng phải là hư vọng, nên không.

Do có nghi vấn như vậy, nên viết: V́ sao?

+ Đức Phật hiện sắp giải đáp nghĩa nầy, nên hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: Nếu có người nói: Phật cũng nói các kiến chấp về ngă, nhân, chúng sinh, thọ giả v.v…, th́ ư của Tôn giả thế nào? Người ấy nói như thế là chánh ngữ chăng?: Đây là làm rơ Đức Phật đă hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: Nếu có người dùng chỗ nghi như trước, để nghi, cho là Phật nói như vầy: Vốn thật có ngă, pháp, sau quán về ngă, pháp ấy, đạt được thắng giải về không ngă pháp, loại trừ hai kiến chấp, đắc không ngă không pháp, gọi là đắc đạo. Người ấy nói như vậy đối nơi lư là chánh ngữ chăng? Tôn giả Tu-bồ-đề thưa: Không là chánh ngữ, bạch Đức Thế Tôn! Là làm rơ: Chỗ nói của người nghi vừa rồi là không đúng lư, không hợp với ư Phật, nên thưa là không phải.

+ V́ sao? Bạch Đức Thế Tôn! V́ Như Lai nói các kiến chấp về ngă, nhân, chúng sinh, thọ giả, tức không phải là kiến chấp về ngă, nhân, chúng sinh, thọ giả: Là giải thích câu: Do đâu người nầy đă nói như thế là không hợp lư, không chánh ngữ? Tức nêu rơ: Người của hai Thừa cho vốn thật có các kiến về ngă, ngă sở như ngă, nhân, chúng sinh, thọ giả. Sau quán hai thứ ngă sở ấy, là không, nên có thể đoạn trừ kiến chấp về ngă, nhân v.v… ấy, gọi là Ta chứng đắc thắng giải về vô ngă. Cho đấy là thắng giải chân thật.

+ Nếu cho Như Lai cũng nói như thế, cho đấy là chân thật, th́ lời nói ấy không phải là nói đúng. Nhưng chư Phật, Như Lai, hiểu rơ tất cả pháp xưa nay là vắng lặng, hăy c̣n không có ngă pháp để có thể dứt trừ, huống hồ là có kiến chấp của ngă pháp hai không có thể c̣n giữ, nên nói: Tức chẳng phải là các kiến chấp về ngă, nhân, chúng sinh, thọ giả.

Kiến về vô ngă v.v… nầy, đối với Thanh-văn là thắng giải, đối với Bồ-tát là chướng ngại (?). Nay nêu rơ Phật nói cần quán xét ngă pháp xưa nay là không, rốt ráo vắng lặng, không có ngă pháp có thể không, cho đến phiền năo xưa nay cũng tịch tĩnh, nên không có phiền năo có thể đoạn. Không đồng với hai Thừa, thấy vốn có ngă, có pháp, nay thắng giải về hai không mới đoạn trừ Hoặc đó, gọi là đắc đạo.

+ Đó gọi là chẳng phải ngă kiến, nhân kiến v.v…: Là cùng tóm kết về hai không của ngă, pháp.

Người của hai Thừa, thấy rơ ngă không, đạt được thắng giải về không ngă, nhân v.v…, cho là chân thật, nên nói: Đó gọi là chẳng phải ngă kiến, nhân kiến v.v…

+ Cũng có thể nói: Đó gọi là các kiến chấp về ngă, nhân, chúng sinh, thọ giả: Là làm rơ như trên đă nói, tức hiểu biết rơ về ngă cùng với pháp cổ kim trong lặng, xưa nay không sinh, hiện thấy chân như b́nh đẳng, chứng đắc Bồ-đề nơi Nhẫn vô sinh của Địa thứ nhất, cho đến Bồ-đề Vô thượng của quả Phật, không đồng với Tiểu thừa, giữ lấy kiến không ngă, không pháp, cho là chân đạo. Phật nói như thế, nên viết: Đó gọi là Phật nói các kiến chấp về ngă, nhân, chúng sinh v.v… là hư vọng, không thật. Làm rơ: Đó gọi là kiến hư vọng về không vô ngă, nhân. Nhân đấy lại sinh nghi vấn: Nếu giữ lấy kiến không ngă, không pháp, không phải là đắc đạo, th́ quán những pháp nào, khởi những tâm nào, chứng những pháp nào, gọi là đắc đạo? Nên đáp: Nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, đối với tất cả pháp, nên nhận biết như thế v.v… Đây là dùng trí chứng đắc của Địa thứ nhất làm tâm Bồ-đề, biện minh ở nơi nghĩa nào để khuyên người: Nếu muốn chứng đắc đạo chân thật từ Địa thứ nhất trở lên, th́ ở trong vật hữu vi thô tế có ngă pháp, không ngă, không pháp, hư vọng, nên sinh tri, kiến, tin như thế.

+ Tri như thế: Là làm rơ, người trước trụ, do trí nơi văn tuệ, nơi năm minh luận của thế gian, phảng phất mà nhận biết.

+ Kiến như thế: Là làm rơ, người trên trụ, đạt được trí kiến đệ nhất nghĩa xuất thế gian.

+ Tin như thế: Là nêu rơ về hai người trước, đều dựa vào vô lượng công đức của Tam-muội làm chỗ tin tưởng.

Đây là biện minh về người đó do dùng Tam-muội hai trí ấy, nên thấy chân như, Phật tánh, dứt trừ mọi sự vướng mắc của tất cả pháp có không nêu trên.

+ Như thế, không trụ nơi pháp tướng: Đă ở trong pháp hữu vi hư vọng, sinh tri kiến, tin hiểu, nên không chấp trước.

+ V́ sao?: Tức hoặc có người nghe nói Bồ-tát không trụ nơi tướng của pháp, liền nghi, cho là Bồ-tát ở trong pháp thế gian, pháp xuất thế gian thảy đều không trụ, nên viết là: V́ sao?

Đức Phật đáp: Nầy Tu-bồ-đề! Gọi là tướng của pháp, tướng của pháp ấy, Như Lai nói tức phi tướng của pháp.

+ Ở trên nói tướng của pháp: Là nói tướng của nẻo có không nơi pháp hữu vi như sắc v.v… của thế gian. Sau nói tướng của pháptướng của pháp vô vi nơi chân như xuất thế gian.

+ Như Lai nói tức phi tướng của pháp: Là nêu rơ Như Lai nói về tướng của pháp hữu vi nơi thế gian, không phải là tướng của pháp vô vi nơi chân như xuất thế gian. Tướng của pháp chân như xuất thế gian, tức không phải là tướng của pháp có không hư vọng nơi thế gian.

+ Đó gọi là tướng của pháp: Như thế chẳng phải là tướng của pháp hữu vi hữu lậu thế gian, tức là tướng của pháp vô vi nơi chân như xuất thế gian. Cũng được gọi là tướng của pháp hữu vi nơi thế gian.

+ Trên nói không trụ nơi tướng của pháp: Tức chỉ không trụ nơi tướng có, không của pháp hữu vi thế gian. Không phải là không trụ nơi tướng của pháp vô vi xuất thế gian. Đâu có thể nghe nói không trụ nơi tướng của pháp, liền cho là trong tướng của pháp hữu vi, vô vi, thế gian, xuất thế gian đều không trụ.

Từ đây trở lên là kinh đă giải thích nghi vấn đối với: “Ở nơi pháp giới ấy, phi một cũng phi khác” trong kệ trước.

* Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có Bồ-tát đem bảy thứ báu đầy khắp trong vô lượng A-tăng-kỳ thế giới để bố thí: Trên đây đă có nghi: Nơi dụ về vi trần ở đoạn trên đă biện biệt về ba Phật chẳng một (đồng) chẳng khác (dị). Tuy đă làm rơ về ba Phật, nhưng căn cứ theo văn kinh trên, chỉ nên có hai, không nên có ba. V́ sao nơi đoạn thứ 6 ở trước, nói: Thích-ca Mâu-ni phi Phật, cũng phi thuyết pháp. Tiếp theo là phần kinh trước lại nói: Hóa Phật có đến đi, để giáo hóa chúng sinh, cúng dường th́ được phước. Rơ ràng là trước sau cùng trái nhau. Nay nghi, chưa biết ứng thân định rơ là Phật, hay là không phải là Phật? Nếu là Phật, th́ cúng dường cho ứng Phật nầy, phước đức có được, so với hai Phật là đồng, hay là có sai biệt? Hóa Phật thuyết giảng kinh pháp, đó là chánh pháp hay không phải là chánh pháp. Nếu thọ nhận pháp do Ứng Phật thuyết giảng, th́ lợi ích đạt được, so với công đức của việc thọ tŕ giáo pháp của Báo Phật nêu giảng là đồng hay có sai khác? Kẻ có tâm ác hủy báng, làm tổn hại Phật ấy, th́ tội như thế nào?

Nhằm đáp lại, Ứng Phật là Phật, kinh giáo được nêu giảng là chánh pháp, cúng dường, thọ tŕ được phước đức, đồng với hai Phật trước. Kẻ có tâm ác hủy báng, mắc tội cũng như thế, nên dẫn thí dụ ấy. Dùng bảy thứ báu đầy khắp trong A-tăng-kỳ thế giới để bố thí, so sánh không bằng có người, đối với Ứng Phật phát tâm Bồ-đề, thọ tŕ Kinh Bát-nhă do Ứng Phật thuyết giảng, dù chỉ một bài kệ bốn câu, cho đến v́ người khác diễn nói, th́ phước đức có được hơn hẳn trường hợp trước vô lượng A-tăng-kỳ lần.

Nghi trên là nghi vấn chung về Ứng Phật, nay trong kinh do đâu chỉ nói thọ tŕ kinh pháp do Ứng Phật nêu giảng được phước đức nhiều, không nói cúng dường Ứng Phật đạt được công đức nhiều? V́ thọ tŕ kinh pháp do Ứng Phật giảng nói đạt được phước đức vô lượng, tức biết cúng dường Ứng Phật được phước đức cũng rất nhiều, nên không nói riêng.

Nghi vấn nêu: Nếu cúng dường kinh giáo do Ứng Phật giảng nói, so với Chân Phật là không khác, v́ sao Ứng Phật ấy ở đời, giáo hóa thuyết pháp, nhưng không được gọi là Ứng Phật thuyết pháp? Nên kinh nêu câu hỏi: V́ sao v́ người khác diễn nói, mà không gọi là giảng nói? Tức nêu rơ lúc Ứng Phật thuyết pháp, tự nói: Ta từ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp đến giờ, rộng tu muôn hạnh, nay mới thành tựu quả Phật, đầy đủ tướng hảo cùng các công đức. Mà không nói: Ta là Hóa Phật. Nếu tự nói Ta là Hóa Phật, th́ chúng sinh liền cho là người huyễn hóa, hoặc đấy là những quỷ thần ǵ, bèn không sinh kính tin, không thọ nhận giáo pháp được nêu giảng kia. Tâm đă không tin, không thọ nhận giáo pháp ấy, nên không được lợi ích, do không tin là hóa Phật, có nhiều lợi ích. Đó gọi là người thuyết giảng. Ứng Phật nầy từ nơi chân xứ hiện đến, nhưng không gọi là ứng hóa, nên cúng dường, thọ tŕ, phước đức có được, so với Chân Phật không khác. Đó gọi là sự nêu giảng của Ứng Phật là chánh thuyết.

Luận dùng 6 kệ để giải thích đoạn kinh nầy:

+ Kệ thứ 1: Nêu dụ về vi trần, tạo ư hỏi đáp, giải thích nghi trong đoạn kinh trước:

(Thế giới làm vi trần

Dụ ấy nêu nghĩa kia

Vi trần nghiền làm bột

Hiển bày phiền năo hết).

+ Kệ thứ 2: Nêu rơ vi trần không sắc vị h́nh trạng, nên không một không khác. Chư Phật cũng thế, phiền năodứt hết, nên chẳng một chẳng khác:

(Phi tụ tập nên tập

Phi chỉ là một dụ

Xứ tụ tập phi kia

Phi đây, dụ sai biệt).

+ Kệ thứ 3: Hai câu trên nêu rơ hàng phàm phu không hiểu pháp hữu vi là không, theo tên gọi chấp trước. Hai câu sau nối kết vào kệ thứ tư:

(Chỉ tùy theo âm thanh

Phàm phu chấp điên đảo

Phi không hai đắc đạo

Xa ĺa nơi ngă, pháp).

+ Kệ thứ 4: Có một kệ rưỡi (Kể cả hai câu sau của kệ thứ ba), biện minh chung về chư Phật Bồ-tát không chỉ chứng đắc thắng giải về không ngă không pháp, nên gọi là đắc đạo:

(Kiến ngă tức chẳng thấy

Thấy hư vọng không thật

Đây là chướng vi tế

Thấy chân như xa ĺa).

+ Kệ thứ 5: Hai câu trên nêu ra hai loại Bồ-tát, trí có thể hiểu rơ. Hai câu sau nêu rơ cúng dường hóa Phật so với Chân Phật không khác:

(Hai trí cùng Tam-muội

Như thế được xa ĺa

Hóa thân thị hiện phước

Phi vô phước vô tận.

+ Kệ thứ 6: Làm rơ Ứng Phật giảng nói pháp là chánh thuyết:

(Chư Phật lúc thuyết pháp

Không nói là hóa thân

Do không nói như thế

V́ vậy là nói đúng).

* Kệ thứ 1 viết: Thế giới làm vi trần v.v…: Là giải thích phần trong kinh: Thiện nam, thiện nữ tiếp xuống, cho đến: A-tăng-kỳ thế giới. Nếu dựa vào thế gian để biện luận, th́ gọi vi trần ấy là thế giới, không phải cho là thế giới như Tam thiên v.v… Đây là làm rơ phá vỡ vi trần có sắc, vị làm vi trần không sắc, vị. Vi trần không sắc hương vị xúc nầy cũng không có phương sở, nên gọi là vi trần.

+ Dụ ấy nêu nghĩa kia: Là nêu rơ, nhờ nơi dụ về vi trần đó, để giải thích nghi vấn trên về nghĩa: Ở nơi pháp giới ấy, không một cũng không khác. Nên viết: Nêu nghĩa kia.

+ Vi trần nghiền làm bột: Là nêu lần nữa thí dụ trên: Nghiền nát vi trần làm vi trần không sắc vị, dụ cho chư Phật Như Lai lúc thành đạo, vĩnh viễn không c̣n hai chướng ngại, nên câu thứ tư viết: Hiển bày phiền năo hết.

+ Đây là làm rơ về nghĩa ǵ? Tức hỏi một kệ nầy, nêu dẫn ư của dụ, là biện minh về nghĩa ǵ?

+ Kệ nói:

Ở nơi pháp giới ấy

Phi một cũng phi khác.

Là Luận chủ dẫn lại kệ của luận ở trước, lược đáp sự việc nơi chỗ so sánh của dụ về vi trần: Chư Phật Như Lai kia, ở trong pháp giới chân như v.v… Trở lại giải thích chỗ dẫn kệ, biện minh chư Phật tuy nhiều, nhưng trong pháp giới chân như, th́ không phải một xứ trụ, cũng không phải khác xứ trụ. V́ chỉ rơ nghĩa đó, nên nói thí dụ về thế giới được nghiền nát làm vi trần, giải thích chư Phật không một xứ trụ, không khác xứ trụ xong, nên dụ nối tiếp để so sánh.

+ Dụ nầy chỉ rơ về nghĩa ǵ? Là hỏi về dụ vi trần ấy, so với chư Phật ở trong pháp giới chân như, không phải là một xứ trụ, không phải là khác xứ trụ, chưa rơ là dụ nầy có tương tợ ǵ, có thể dùng dụ ấy để so sánh, chỉ rơ. Tức dùng nửa kệ sau để đáp:

Vi trần nghiền làm bột

Hiển bày phiền năo hết.

Biện minh: Nếu không nghiền nát thế giới, tức có sự sai khác của đây – kia. Đă nghiền nát làm vi trần, nên không c̣n sự ngăn cách của đây, kia. Dụ cho chư Phật Như Lai, lúc đoạn trừ hết hai chướng, ở trong pháp giới chân như, không c̣n chướng ngại của đây, kia, một xứ khác xứ. Có chỗ tương tợ như vậy, nên đem ra so sánh.

+ Dụ nầy không phải là tụ tập số vi trần: Là sắp tạo kệ giải thích kinh, nên trước nêu chỗ được biện minh trong kinh.

+ Ư của dụ nơi số vi trần: Là không phải thật có vi trần tụ tập gọi là số lượng nhiều (chúng).

+ Chỉ rơ chẳng phải là một dụ: Là chỉ rơ chư Phật rất nhiều, nên giả nêu dùng vi trần không sắc vị làm chúng vi trần.

* Kệ thứ 2: Giải thích phần trong kinh: Ư của Tôn giả thế nào? Số lượng vi trần ấy nên cho là nhiều chăng?, đến: Do đó Phật nói là một hợp tướng.

+ Phi tụ tập: Ở trên kinh nói: Chúng vi trần rất nhiều, tợ như thật có vi trần. Đây là nêu rơ, do vi trần không sắc vị làm vi trần, nên không phải là thật có vi trần tụ tập mà gọi là chúng vi trần rất nhiều. V́ thế nói: Chẳng phải là (phi) tụ tập.

+ Nên tập. Nghi nêu: Nếu không thật có vi trần tu tập, th́ do đâu nói chúng vi trần rất nhiều? Tức đáp: Tụ tập là dựa vào danh tự của thế đế để giả nêu, trong không tu tập nói tụ tập, không phải cho là thật có chúng vi trần tụ tập, mà nói là rất nhiều. Do đấy kệ viết: Nên tập.

+ Phi chỉ là một dụ: Nếu thật không có vi trần tụ tập, v́ sao giả thiết nói là rất nhiều? Tức làm rơ, do vi trần đă là nhiều, so với mười phương chư Phật cũng là rất nhiều, không thể nói là một. Vi trần đă là không thể tánh, th́ không thể nói nhất định có vi trần tụ tập, để dụ cho Đức Như Lai lúc đoạn trừ phiền năo hết sạch, thể không c̣n chướng ngại, không thể nói là một xứ trụ, nên kệ viết: Phi chỉ là một dụ.

+ Xứ tụ tập phi kia: Là làm rơ, vi trần tuy nhiều, do thể là không, nên xứ tụ tập không thật có vi trần có thể đạt được. Một xứ đă là không, nên cũng không từ nơi xứ khác đến, do xứ khác không thật có vi trần có thể đạt được. Thế nên kệ viết: Xứ tụ tập phi kia.

+ Phi đây, dụ sai biệt: Là biện minh như vi trần nơi một xứ tụ tập không bị ngăn ngại, tướng không thể đạt được, th́ nơi xứ khác sai biệt đến, tướng cũng không thể đạt được, so với chư Phật cũng thế. Pháp thân thanh tịnh, Thể đă là vô ngại, không thể một xứ trụ, nên cũng không phải tách rời là khác xứ có sai biệt, như Phật a súc nơi phương Đông v.v…, nên viết: Phi đây, dụ sai biệt.

+ Nghĩa nầy là thế nào? Như vi trần, cho đến: Vật không tụ tập: Là giải thích nửa kệ trên. Cũng chẳng phải là xứ khác sai biệt, cho đến: Do chẳng trụ sai biệt: Là giải thích nửa kệ sau.

Như vậy, chư Phật Như Lai, đến: Cũng không phải là khác xứ trụ: Là giải thích ư của dụ trong kệ trên. Nghĩa nầy giải thích hợp với ư của dụ.

+ Như vậy, dụ về hợp tướng của Tam thiên thế giới, không phải tụ tập: Là giải thích nghĩa không một – khác của vi trần ở trước. Nay ở đây, biện biệt về nghĩa chẳng phải một – khác trong vật thô của thế giới, cũng như vậy, nên nói: Như thế cho đến không phải là tụ tập.

+ Đây là do nghĩa ǵ?: Là hỏi dụ về hợp tướng của Tam thiên thế giới ở trên, lại nói là không phải tụ tập, đây là do nghĩa nào nên nói như thế?

+ Như kinh nói, tiếp xuống: Là nêu dẫn câu Như Lai thành thật nói để đáp. Nếu thật có một vật tụ tập, Như Lai tức không nói một vật tụ tập. Trên đă giải thích hai dụ về vi trần thế giới, cùng kết hợp dụ xong, văn nầy do đâu lại được tiếp nối? Ở trên tuy đă làm rơ về vi trần thế giới là hư vọng, không thật, không phải một xứ tụ tập, không phải khác xứ sai biệt, để so sánh với chư Phật, nhưng chưa giải thích vi trần thế giới do đâu là không. Nay chính thức giải thích về nghĩa không của hai pháp, biện minh nếu thật có một vật vi trần chẳng không mà tụ tập, Như Lai tức chẳng giả nói không trần là vi trần là chúng tụ tập.

+ Nếu thật có một thế giới v.v…: Đây là giải thích thế giới không, như vi trần không khác.

+ Như kinh nói, tiếp xuống: Là nêu dẫn kinh để tóm kết.

+ Song người của hàng phàm phu tham chấp nơi sự: Văn nầy trong kệ trước không có, do đâu lại được nêu riêng ra? Là để nêu rơ hàng phàm phu vọng chấp giữ cảnh ở trước, đối với sự hư giả sinh khởi tham, lấy không thật làm thật, xác nhận thể của hai pháp vi trần trên là không, nên nêu dẫn để giải thích.

+ Như kinh nói tiếp xuống: Là nêu chung về kinh ở trước để tóm kết.

* Kệ thứ 3: Hai câu trên: Chỉ tùy theo âm thanh, Phàm phu chấp điên đảo: Là giải thích phần trong kinh: Song người của hàng phàm phu tham chấp nơi sự, làm rơ hàng phàm phu đă không hiểu như thật, chỉ có phân biệt hư vọng, theo âm thanh chấp giữ. Nghe nói sắc là có thể thấy, có thể tiếp xúc, liền cho là nghĩa thật cũng như vậy, có thể thấy, có thể tiếp xúc, nên viết: Chỉ tùy theo âm thanh.

+ Phàm phu chấp điên đảo: Nghe nói sắc v.v… có thể thấy, có thể tiếp xúc, phàm phu liền cho sắc v.v… là thật có, có thể thấy, có thể tiếp xúc, chấp giữ không thật làm thật, nên nói: Phàm phu chấp điên đảo.

+ Phi không hai đắc đạo: Từ đây trở xuống, hai câu kệ sau (Phi không hai đắc đạo, Xa ĺa nơi ngă, pháp) là hợp chung với ba câu trên của kệ thứ tư, cùng giải thích phần trong kinh: V́ sao? V́ nếu người nói như thế, cho đến: Đó gọi là ngă kiến.

+ Phi không hai đắc đạo: Là làm rơ chư Phật, Như Lai, không phải chỉ là đạt được thắng giải về hai không của không ngă, không pháp, gọi là đắc đạo. Cũng nêu rơ hàng Nhị thừa tuy chứng đắc thắng giải về hai không đó, nhưng c̣n bị tập khí nơi Hoặc (phiền năo) che phủ tâm, vô minh ngăn ngại chỗ lănh hội, nên không gọi là đắc đạo. Nên hỏi: Nếu giữ lấy hai không ấy, không gọi là đắc đạo, th́ cần thấy những pháp ǵ, dùng những hành ǵ để có thể đắc đạo? Thế nên câu kệ thứ tư nói: Xa ĺa nơi ngă, pháp. Biện minh: Nếu thấy được lư thâm diệu của chân như b́nh đẳng rốt ráo, hiểu rơ về ngă, pháp xưa nay vắng lặng, là kiến chấp phân biệt hư vọng về hai không, là không ngă không pháp, lúc ấy mới gọi là đắc đạo. Đáng lẽ nói: Xa ĺa kiến chấp về không ngă, không pháp, do câu kệ có giới hạn, nên chỉ nói: Xa ĺa nơi ngă, pháp. Tức nêu rơ nếu cho là có ngă pháp có thể không, lại tự nói: Ta có thể đạt được thắng giải về hai không ấy, có tâm chấp trước về không như vậy, tức chướng ngại nơi Bồ-đề, chân như, không gọi là đắc đạo. Cũng làm rơ: Hàng Bồ-tát Đại sĩ thắng giải về thể của pháp sinh ấm từ xưa đến nay tánh tướng vắng lặng, không phải là nhờ và quán mới không. Đă không ngă, pháp có thể không, cũng không có kiến chấp của hai không có thể giữ lấy, mới gọi là đắc đạo.

Từ kệ thứ ba nầy tiếp xuống, phần văn xuôi của Luận chủ giải thích nửa kệ sau, không giải thích nửa trước. Sở dĩ như thế là v́ phần văn xuôi trong luận ở trên đă giải thích về nghĩa rồi, nên ở đây không giải thích.

+ Như kinh nói: V́ sao? v.v…: Là nêu dẫn chỗ giải thích kinh của hai câu kệ sau, để tóm kết ư giải thích trong kệ.

+ Đây lại có nghĩa ǵ?: Là sắp giải thích kệ, nên hỏi về chỗ nêu dẫn trong kinh ấy là làm rơ về nghĩa ǵ, mới dùng nửa kệ sau ấy để giải thích. Tức dùng kệ đáp:

Phi không hai đắc đạo

Xa ĺa nơi ngă, pháp.

+ Nghĩa nầy là thế nào? Là hỏi kệ ấy đă giải thích nghĩa của kinh như thế nào? Chỗ giải thích tiếp sau có thể nhận biết.

+ Đây lại là nghĩa ǵ?: Hai thứ kiến không ngă không pháp nầy, ở trên tuy nói là ĺa hai kiến mà được Bồ-đề, nên hỏi hai kiến đó phải là hiểu đúng, lại do nghĩa ǵ xa ĺa hai kiến? V́ vậy, dùng kệ thứ tư để đáp.

* Kệ thứ 4: Giải thích, xác nhận nửa kệ trước. Ở trên tuy nói: Phi không hai đắc đạo, Xa ĺa nơi ngă, pháp, nhưng chưa giải thích lư do, nghĩa ấy c̣n ẩn, nên lại tạo ra kệ nầy, với ba câu trên để giải thích:

(Kiến ngă tức chẳng thấy

Thấy hư vọng không thật

Đây là chướng vi tế).

+ Kiến ngă tức chẳng thấy: Là nêu rơ, kiến có ngă mà có thể không, lại cho là Ta thấy vô ngă: Đây không phải là hiểu sâu của chánh kiến rốt ráo, nên viết: Kiến ngă tức chẳng thấy. Cũng nên nói: Kiến pháp tức chẳng thấy, nhưng do giới hạn của câu kệ nên chỉ nói kiến ngă, không nói kiến pháp.

+ V́ sao kiến ngă gọi là chẳng thấy? Nên câu kệ thứ hai nêu: Thấy hư vọng không thật. Nếu không thật th́ v́ sao thấy có? Nêu rơ là do thấy hư vọng, nên viết: Thấy hư vọng không thật. Hai câu kệ trên ấy giải thích câu: Phi không hai đắc đạo nơi kệ trước.

+ Đây là chướng vi tế: Làm rơ tâm chấp trước nơi có, gọi là Trần Hoặc. Tâm giữ lấy nẻo không gọi đấy là Tế Hoặc. Kiến nầy giữ lấy hai không của ngă, pháp, là thể của Hoặc vô minh, không phải là Hoặc thô của bốn trụ, do ngăn ngại nơi thắng giải của chân như, nên gọi là chướng vi tế.

+ Thấy chân như xa ĺa: Một câu nầy giải thích câu trong kinh: Bồ-tát phát tâm Bồ-đề cầu đạt Chánh giác Vô thượng. Làm rơ: Hoặc vi tế ấy, chính vào lúc đắc thắng giải của Địa thứ nhất, hiện thấy lư sâu của chân như rốt ráo, loại trừ phân biệt hư vọng đó, bấy giờ mới dứt hết. Thế nên viết: Thấy chân như, xa ĺa. Hai câu đó giải thích: Xa ĺa nơi ngă pháp. V́ thế, kiến chấp tức không thấy, cho đến: Kiến chấp nơi pháp cũng là không thấy: Đây là giải thích nửa kệ trên.

Do đấy, kiến chấp tức không thấy: Là giải thích câu kệ thứ nhất.

Không có nghĩa thật, do phân biệt hư vọng: Là giải thích câu kệ thứ hai.

+ Là do vô ngă: Là câu tóm kết.

+ Thế nên Như Lai nói ngă kiến kia tức là không thấy: Là dẫn lời Phật để tạo thành câu làm chứng. Do không thật, cho đến: Ngă kiến là chẳng thấy: Là Luận chủ giải thích lời của Như Lai.

+ Kiến chấp nơi pháp cũng là không thấy: Trong kệ không có văn nầy, nên nêu riêng để giải thích chỗ giống nhau.

+ Như kinh nói: Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, tiếp xuống: Đây là tóm kết về câu thứ tư của kệ trước, làm rơ Bồ-tát đắc thắng giải về chân như, không c̣n không ngă, không pháp, lấy đó làm chánh kiến. Lại để hiện bày chỗ giữ lấy không ngă không pháp ở trước là không chánh kiến, nên dẫn ra.

+ Đây lại là nghĩa ǵ?: Tức ở đây, v́ sao dẫn câu Bồ-tát thấy tướng của pháp nơi kinh, hiện bày hai kiến chấp trước gọi là không thấy. Tức đáp: Do thấy tướng của pháp tức không thấy tướng. Làm rơ, do giữ lấy chỗ đạt được không thấy tướng của pháp, tức là không thấy tướng của pháp.

+ Như ngă kiến kia tức chẳng phải là thấy: Là do giữ lấy kiến vô ngă, cho là chánh kiến, cũng chẳng phải là thấy.

+ Do đâu hai kiến nầy gọi là không thấy?: Tức sắp giải thích hai câu kệ sau, nên nêu câu hỏi sinh khởi, hỏi: Hai kiến không ngă, không pháp ấy, phải là kiến giải đúng, v́ sao nói là không thấy? Tức dùng nửa kệ sau đáp:

Đây là chướng vi tế

Thấy chân như, xa ĺa.

+ Đây lại là thế nào?: Là hỏi trong kệ nầy, cho hai kiến ấy là chướng vi tế, nói thấy chân như là xa ĺa, điều ấy là thế nào? Tức giải thích kiến kia là kiến ngă kiến pháp.

+ Đây là chướng vi tế: Là tóm kết về hai kiến, mang tên là chướng.

+ Do không thấy hai thứ kia: Là giải thích về nghĩa tạo tác nơi chướng.

+ Là do kiến pháp, cho là được xa ĺa: Hai kiến đó, đối với hàng Thanh-văn th́ không trở ngại, nhưng đối với Bồ-tát, là mối lo, nên thấy chân như, mới có thể xa ĺa.

+ Lại, nhận biết như thế v.v…: Trên đă nêu dẫn, tóm kết nơi kệ trước, v́ sao ở đây c̣n lặp lại lần nữa?

V́ trong kệ trước chỉ giải thích người tin tưởng đạt được tri kiến ấy, đều ĺa chướng vi tế của không ngă, không pháp, nhưng chưa giải thích nghĩa tri kiến tin tưởng. Nay sẽ tạo kệ để giải thích, nên lại nêu lên.

* Kệ thứ 5:

Hai trí cùng Tam-muội

Như thế được xa ĺa.

Hai câu trên đây là giải thích phần trong kinh: Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, cầu đạt đạo quả Chánh giác Vô thượng, nên thấy, biết, tin như thế.

Sở dĩ nêu rơ điều ấy: Là do ở trên nói: Người c̣n giữ lấy hai không, tức có chướng vi tế nơi tâm, nên không gọi là đắc đạo. Làm rơ: Người thấy chân như, đều xa ĺa chướng vi tế, gọi là đắc đạo, nhưng chưa biết là những người nào có thể thấy chân như, xa ĺa chướng vi tế? Nay biện biệt, ra khỏi hai thứ ấy là các Bồ-tát gồm đủ công đức, trí tuệ, thấy lư thâm diệu của chân như, có thể ĺa chướng vi tế, nên được nêu rơ.

+ Hai trí: Là trí thế gian của hàng trước địa và trí đệ nhất nghĩa của bậc trên địa.

Trí thế gian là giải thích câu trong kinh: Nhận biết như thế. Trí đệ nhất nghĩa là giải thích câu trong kinh: Thấy rơ như thế.

+ Cùng Tam-muội: Là vô lượng Tam-muội như Ly cấu v.v…, giải thích câu trong kinh: Tin tưởng như thế. Do đấy viết: Hai trí cùng Tam-muội.

+ Như thế được xa ĺa: Là nêu rơ về người gồm đủ hai thứ công đức là trí tuệ, Tam-muội, đạt được lư rốt ráo, có thể ĺa chướng vi tế.

+ Hóa thân thị hiện phước: Tức trong phần kinh ở trước có người sinh nghi: Hóa Phật đă không tu hành, đoạn trừ Hoặc, không chứng đắc Bồ-đề, cũng không thuyết pháp, có đi đến, sinh diệt, không phải là chân Phật. Vậy cúng dường Phật ấy là có phước đức, hay là không có phước đức? Nếu được phước đức th́ so với việc cúng dường nơi Chân Phật là có sai khác hay là không sai khác? Kẻ có tâm ác hủy hoại th́ tội đó như thế nào? Nên kệ đáp: Hóa thân thị hiện phước, Phi không phước vô tận. Biện minh: Hóa Phật tuy không tu hành chứng quả, nhưng do Chân Phật làm gốc, nên chúng sinh có cảm th́ bậc Thánh tức đi đến, theo nẻo cảm, ứng hiện. Do Ứng Phật ấy từ nơi xứ chân đến, cùng với hai Phật kia có chung nghĩa một (đồng), lại không nói Ta là Hóa Phật, nên cúng dường Hóa Phật th́ công đức đạt được, so với Chân Phật là không khác. Thị hiện có phước, chẳng phải là không có phước vô tận. Có vô lượng vô biên công đức, nên kinh đă dẫn dụ bố thí bằng bảy thứ báu tuy được phước nhiều, nhưng không bằng cúng dường Hóa Phật, cũng không bằng việc thọ tŕ kinh giáo do Hóa Phật thuyết giảng, th́ phước đức có được là rất nhiều.

Nhưng trong kinh chỉ biện biệt việc thọ tŕ kinh giáo do Hóa Phật nêu giảng, phước đức có được hăy c̣n hơn hẳn phước đức do bố thí bảy báu, nên biết rơ cúng dường Hóa Phật cũng hơn hẳn phước bố thí bảy báu.

Hai câu ấy giải thích phần trong kinh: Như có Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, đến: Vô lượng A-tăng-kỳ.

+ Nghĩa nầy là thế nào? Chỉ rơ về trí thế gian, đến: Xa ĺa chướng kia: Là giải thích hai câu trên của kệ.

+ Do đó, nêu lần nữa thí dụ về phước hơn hẳn: Là giải thích hai câu kệ sau.

+ Do đó: Là ở trên có người nghi: Cúng dường Ứng Phật cùng thọ tŕ kinh giáo do Ứng Phật giảng nói, là có phước đức hay là không có phước đức? Nên đă dẫn thí dụ về phước đức hơn hẳn, để giải đáp nghi vấn kia.

+ V́ sao v́ người diễn nói, nhưng không gọi là thuyết giảng v.v… Do đâu nói như thế? Là sắp tạo kệ để giải thích đoạn văn kinh nầy, nên nêu ra, nhằm hỏi: Nơi đoạn kinh ấy, nếu v́ người khác diễn nói, nên gọi là thuyết giảng, do đâu không gọi là thuyết giảng? V́ vậy nêu: Do đâu nói như thế?

* Kệ thứ 6: Chư Phật lúc thuyết pháp v.v…: Là giải thích phần trong kinh: V́ sao v́ người khác diễn nói mà không gọi là thuyết giảng? Tức do từ trong kinh có nghi vấn: Do hóa Phật không thật, nên kinh giáo được nêu giảng cũng hẳn là không chánh thuyết. Do có nghi ấy nên kệ giải thích: Chư Phật lúc thuyết pháp, Không nói là hóa Phật.

+ Lúc thuyết pháp: Là lúc chúng sinh có cảm, không có tám nạn, thọ nhận đạo pháp. Nêu rơ Ứng Phật đi đến với chúng sinh theo nẻo cảm, lúc thuyết pháp tuy hóa thân không thật, nhưng ngôn giáo đă nêu giảng là chánh thuyết.

+ Sở dĩ như thế, cho đến: Không tin là hóa thân: Là làm rơ hóa thân Phật lúc v́ chúng sinh nói pháp, không nói Ta là Hóa Phật. Nếu nói Ta là Hóa Phật th́ chúng sinh có thể được hóa độ không sinh tâm cung kính. Đă không kính tin tức tuy giáo hóakhông có lợi ích, nên không nói là Ta là Hóa Phật. Do không tin là Hóa Phật, nên kinh giáo do vị ấy nêu giảng được chúng sinh tin nhận, có nhiều lợi ích, tức là chánh thuyết. Nên nửa kệ sau viết: Do không nói như vậy, Thế nên là nói đúng.

 

* Phần 11: Kệ nêu:

Tất cả pháp hữu vi

Như sao, màng, đèn, huyễn

Sương, bọt, mộng, chớp, mây

Nên quán xét như thế.

Một kệ nầy là đoạn kinh thứ 11, gọi là Phần Đạo không trụ.

+ Đoạn kinh nầy do đâu gọi là Đạo không trụ? Là nêu rơ chư Phật Như Lai, do diệu trí xuất thế gian, quán chín thứ hữu vi tức là Niết-bàn, không đồng với phàm phu vui thích chấp trước nơi thế gian. Lại không giống với hai Thừa thích trụ nơi Niết-bàn, là không trụ nơi hai đạo ấy. Nên viết là: Đạo không trụ.

+ Ở đây sở dĩ được nối tiếp: Là để giải thích nghi. Trong đoạn kinh trước nêu dụ về vi trần, đă biện minh chư Phật Như Lai lúc thành Chánh giác, đoạn trừ hết hai chướng, ở trong chân pháp giới, không phải là một xứ trụ, không khác xứ trụ, liền sinh nghi: Chư Phật Như Lai là như vi trần kia, Thể là không, hoàn toàn không thân, là thật có thân. Nếu có thân, th́ thân nên có trụ xứ, v́ sao nói không phải một xứ trụ, không phải khác xứ trụ. Nếu có trụ xứ là trụ trong thế gian hay là trụ trong Niết-bàn? Nếu trụ trong thế gian, th́ do đâu nơi đoạn kinh trước nói: Như Lai nhập Niết-bàn. Nếu trụ trong Niết-bàn, v́ sao lại nói: Như Lai ở nơi thế gian, luôn v́ chúng sinh nói pháp?

V́ nhằm giải thích nghi vấn ấy, nên dẫn thí dụ về chín thứ pháp hữu vi để đáp. Làm rơ: Chư Phật, Như Lai có diệu thân chân thật, với mười lực, bốn vô sở úy, vô lượng công đức. Thân ấy lấy đạo không trụ làm trụ xứ. Thế nào là đạo không trụ? Nghĩa là không trụ nơi thế gian, không trụ nơi Niết-bàn. Tức biện minh chư Phật, Như Lai hiểu rơ chín thứ pháp hữu vi, Thể của chúng là hư giả, xưa nay vắng lặng, tỏ ngộ về chân như b́nh đẳng, nhận biết thật tánh của thế gian tức là Niết-bàn, đoạn hết sạch nhân của sinh tử, do vậy không trụ nơi thế gian không đồng với hàng phàm phu không hiểu rơ các pháp hữu vi của thế gian xưa nay vắng lặng, nên dấy khởi hành chấp trước trụ nơi thế gian. Đă thấy chân như b́nh đẳng, hiểu thật tánh của thế gian tức là Niết-bàn, thế gian - Niết-bàn không hai, không khác. Lại có đủ từ bi, đại nguyện, nên thường ở nơi sinh tử giáo hóa chúng sinh. Do đấy, không trụ nơi Niết-bàn. Không giống với hàng Nhị thừa, không biết tất cả chúng sinh đều có chân như, Phật tánh b́nh đẳng, không hai, nên thấy Niết-bàn khác với thế gian, chán bỏ thế gian, vui thích thủ chứng đạo trong Niết-bàn, nên trụ nơi Niết-bàn.

Chư Phật, Như Lai, dùng đạo không trụ ấy làm trụ xứ, nên tiếp theo là nêu rơ.

Tất cả pháp hữu vi

Như sao, màng, đèn, huyễn.

Một kệ nầy là do Như Lai thuyết giảng, không phải Luận chủ tạo ra.

+ Tất cả pháp hữu vi: Là sắp nêu dẫn chín thứ dụ, dụ cho chín thứ pháp hữu vi, nên nêu chung về tất cả pháp hữu vi.

+ Như sao, màng, đèn: Ba dụ nơi kệ ấy, luận hợp gọi là Thấy tướng thức. Ba dụ giữa huyễn, sương, bọt nước nơi kệ, luận hợp gọi là Khí thân thọ dụng. Ba dụ sau mộng, chớp, mây, luận hợp gọi là Quá hiện vị lai, nêu rơ sáu thứ hữu vi trên, chuyển biến trong ba đời.

Trong dụ về vi trần ở trước, đă nêu trực tiếp trong sáu trần cảnh, nhằm làm rơ Thể của pháp hữu vi là không. Ở đây, chín thứ thí dụ, là căn cứ nơi chủ thể duyên là nội tâm để nêu rơ thể của pháp là không.

Hỏi: Chín thứ nầy, nếu làm rơ thể không của nội tâm, do đâu cũng có, ngoài thân thế gian v.v…, là pháp vô kư?

Đáp: Ư tuy biện minh chung về pháp bên ngoài như sắc v.v…, nhưng ư chính là nêu cảnh để làm rơ tâm không.

* Thứ 1: Như sao (Tinh): Là dụ cho bên trong, chủ thể nhận thấy là tâm. Sở dĩ dùng sao để dụ cho bên trong, chủ thể nhận thấy là tâm, là v́ hàng phàm phu ngoại đạo, đa phần cho mặt trời, mặt trăng, các sao là thường nên thật, cũng cho nội tâmthường, là thật, do đấy căn cứ theo t́nh chấp kia để phá trừ. Biện minh: Mặt trời, mặt trăng, các sao lần lượt cùng hiện bày, xâm đoạt, dời chuyển không định, do đấy không thật. Tâm pháp cũng thế, có phần ít tương tợ, nên dụ như là tinh tú trên trời, lúc mặt trời chưa mọc, th́ hiện rơ nơi không trung, có dụng soi chiếu vật. Mặt trời đă hiện th́ ánh sáng của tinh tú đều mất, tuy có mà không hiện, do lớn nhỏ cùng xâm đoạt. Chủ thể nhận thấy là tâm pháp cũng lại như thế. Lúc chưa có trí chứng đắc vô lậu xuất thế gian của bậc Thánh lư giải, th́ tâm pháp vọng tưởng là có, nên chấp giữ dụng của cảnh. Thánh giải đă khởi th́ tâm pháp vọng tưởng đều diệt hoàn toàn, do chúng không thật. Lúc quán như thế, hiểu rơ chủ thể nhận thấy là sáu thức xưa nay vắng lặng, đều là pháp b́nh đẳng.

* Thứ 2: Như màng mắt nhặm (Ế): Cũng dụ cho tâm là chủ thể nhận thấy ư thứ hai nầy có khác ǵ với trước? Có người của Tiểu thừa cho rằng: Lấy ǵ để biết được tâm, tâm pháp là thật? Do chúng có thể thấy cảnh ở trước, có thể giữ lấy sáu trần, nên là như thật, dụ đấy như màng mắt lúc bị đau. Do người của Tiểu thừa chấp giữ, cho màng che nơi thành Càn-thát-bà v.v… - vốn là hư vọng không thật - xem chủ thể nhận thấy là sáu thức, cùng đối tượng được nhận thấy là sáu trần là thật. Nên Đức Như Lai, theo chỗ thắng giải, đă nêu dẫn làm dụ, phá bỏ chỗ chấp kia. Như người nơi mắt có màng che, ở trong hư không vọng thấy các sắc như hoa đốm, cho đấy là thật. Quán các pháp hữu vi, tâm cũng lại như thế. Ở trong pháp hữu vi hư vọng như sắc v.v…, cho không thật là thật, do tâm điên đảo nên chấp giữ cảnh.

* Thứ 3: Như đèn (đăng): Cũng dụ cho chủ thể nhận thấy là tâm. Dụ thứ ba nầy có ǵ khác với hao dụ trước?

 Giải thích: Hàng Nhị thừa, ngoại đạo đều thấy, đều nhận biết nước chảy, đèn sáng dời chuyển không dừng, nên căn cứ theo chỗ nhận thức ấy để hiểu, v́ vậy dùng đèn để dụ cho nội thức. Như người thế gian đốt đèn, nên dùng dầu trong tim đèn sạch, cùng với bầu đèn, ba pháp cùng dựa vào nhau, sau mới đốt đèn cháy. Pháp thức cũng vậy, cần nhờ vào căn trần ḥa hợp, nhân nơi Hoặc tham, ái v.v…, pháp thức mới khởi, có chấp giữ dụng của cảnh. Khi trí chứng đắc phát sinh th́ thức ấy vắng bặt, không c̣n giữ lấy dụng của cảnh, do tức thể kia là hư vọng, không thật. Ở đây, chủ thể nhận thấy là tâm, đă không thật như thế, nên từ bỏ những pháp nào, hướng đến những pháp nào?

* Thứ 4: Như huyễn (Ảo): Như huyễn sư của thế gian tạo ra đủ các thứ như bốn thứ quân binh cùng kẻ nam, nữ v.v… tùy ư, đều thấy tự tại, nhưng không chân thật. Khí thế gian cũng như vậy. Do các chúng sinh tạo vô số nghiệp thiện ác không đồng, tùy theo các nghiệp thiện ác đă tạo ấy, nên có được cơi tịnh, uế v.v…, cũng có muôn phẩm sai biệt. Đấy là do nghiệp nên thấy có khác, chẳng phải là thật có. Tợ như có người dùng hư không làm đất, cho đất là hư không. Có người dùng nước làm dụng của lửa, lửa làm dụng của nước, đâu biết cái ǵ là thật! Như Bà-la-môn Bà-la-đọa, dùng lửa làm thức ăn, ngủ trong hư không v.v…

* Thứ 5: Như sương (Lộ): Như sương buổi sáng sớm đọng trên ngọn cỏ, thấy mặt trời th́ tan. Thân ấm cũng thế, sinh rồi tức diệt, niệm niệm dời lui, tạm thời chẳng trụ. Do thể hư giả, vô thường, không thật.

* Thứ 6: Như bọt nước (Bào): Như nhân những giọt nước mưa từ trời rơi xuống đập mạnh lên mặt đất, tức thành đám bọt nước, trẻ con ngu si cho là ngọc lưu ly, tâm sinh tham ái, giây lát liền tan, không thể trụ lâu. Ba thọ cũng thế, từ ba thứ căn trần thức ḥa hợp, sau khởi các thọ như khổ, vui v.v…, tạm có chẳng dừng, chóng nơi bọt bèo. Thân thế giới ấy, các thọ như khổ vui, không thật cũng như vậy, nên từ bỏ những pháp nào, hướng tớinhững pháp nào.

* Thứ 7: Như mộng (Mộng): Sáu thứ pháp hữu vi hư vọng nêu trước, đă lui nơi trụ, như người nằm mộng thọ nhận năm dục, cùng thấy vô số vật sắc, tỉnh dậy tức không, chỉ có thể nghĩ biết, không thể thấy trở lại. Quá khứ dời, diệt, như mộng, tỉnh không khác.

* Thứ 8: Như ánh chớp (Điện): Như ánh chớp vừa hiện, lư không trụ lâu. Sáu thứ hữu vi, hiện tại chuyển nhanh như chớp mắt, cùng tận nơi tia chớp, nên dùng làm dụ.

* Thứ 9: Như mây (Vân): Như trong hư không thanh tịnh không mây, do nghiệp của chúng sinh không thể nghĩ bàn, có rồng làm gốc ở trong không chưa hiện mây khiến hiện, hiện rồi trở lại tan diệt. Sáu thứ hữu vi, lúc là pháp chưa khởi, cũng lại như thế.

Do có chủng tử căn bản của thức A-lê-da từ vô thỉ, nơi trụ địa vô minh huân tập, nên có thể khiến pháp chưa hiện th́ hiện, hiện rồi tức diệt. Do chúng không thật nên dụ như mây.

Rơ ràng, sáu thứ pháp hữu vi ấy đă luôn chuyển biến trong ba đời, vọng t́nh cho là có, nhưng thể của chúng không thật, như chín dụ không khác. Như thế, từ bỏ những pháp nào, hướng đến những pháp nào.

+ Nên quán xét như thế: Chín thứ hữu vi, như chín thứ dụ, trụ nơi không thật mà quán, nên viết: Tất cả pháp hữu vi, như sao, nên quán xét như thế, cho đến như mây, đều nói như vậy. Pháp hữu vi đó đă không thật như thế, tức xưa nay vắng lặng, xưa nay vắng lặng tức chỉ một chân như. Chân như vắng lặng tức là Niết-bàn. Do đó, chư Phật Như Lai thấy rơ thế gian tức Niết-bàn, không đồng nơi hai Thừa, chán bỏ sinh tử, vui trụ Niết-bàn, dứt bỏ việc hóa độ chúng sinh. Thấy rơ Niết-bàn tức thế gian, nên không đồng với hàng phàm phu, ở nơi sinh tử mà không chán không cầu quả giải thoát của Niết-bàn xuất thế.

* Luận nêu: Lại có nghi vấn v.v… Một đoạn văn xuôi nơi luận nầy, Luận chủ lược tạo ư giải đáp nghi.

+ Nếu chư Phật Như Lai, thường v́ chúng sinh thuyết pháp, th́ đấy nên là trụ nơi thế gian. Lại nói Như Lai nhập Niết-bàn, tức là trụ nơi Niết-bàn. V́ sao trong phần luận ở trên nói: Không một xứ trụ, không khác xứ trụ.

+ V́ đoạn trừ nghi ấy, nên Như Lai tức nói kệ dụ: Đây là lược đáp về nghi, nên nêu dẫn ư của chín dụ để nối tiếp.

Luận đă dùng 3 kệ để giải thích một đoạn kinh nầy.

+ Kệ thứ nhất: Đă tạo hỏi đáp để giải thích nghi, nêu rơ về đạo không trụ:

Phi hữu vi, phi ĺa

Chư Như Lai Niết-bàn

Chín thứ pháp hữu vi

Diệu trí nên chánh quán.

+ Kệ thứ hai: Nêu ra cảnh giới của đối tượng được quán là chín thứ hữu vi:

Thấy tướng cùng nơi thức

Khí thân thọ dụng sự

Pháp quá khứ, hiện tại

Cũng quán đời vị lai.

+ Kệ thứ ba: Lại nêu dẫn lần nữa về chín thứ pháp hữu vi, đáp lại vấn nạn, làm rơ chỗ đạt được của quán:

Quán tướng cùng thọ dụng

Quán nơi sự ba đời

Ở trong pháp hữu vi

Được tự tại vô cấu

* Kệ thứ 1: Phi hữu vi, phi ĺa: Nói phi hữu vi: Là nêu rơ chư Phật đạt được Niết-bàn thường trụ, thể của pháp xuất thế gian, dứt tuyệt sinh diệt khởi động, không có tướng đầu, cuối, nên không phải là hữu vi. Nếu không phải là hữu vi (phi hữu vi) th́ có thể phân biệt rơ về xứ khác, không trụ trong pháp hữu vi nên gọi là phi ĺa. Làm rơ, thật tánh của hữu vi tức là Niết-bàn. Không ĺa bên ngoài hữu vi lại có Niết-bàn. Nên câu thứ hai viết: Chư Như Lai Niết-bàn. Biện minh: Lúc chứng đắc Đại Niết-bàn, không trụ trong pháp hữu vi, cũng không ĺa pháp hữu vi.

+ Nếu không ĺa hữu vi tức là trụ nơi thế gian. Nếu không phải hữu vi tức là trụ nơi Niết-bàn. V́ sao nói chư Phật không trụ nơi Niết-bàn, không trụ nơi thế gian? Do đấy, nửa kệ sau đáp: Chín thứ pháp hữu vi, Diệu trí nên chánh quán. Nêu rơ: Chư Phật Như Lai đắc chánh quán xuất thế, thấy rơ các pháp hữu vi xưa nay vắng lặng tức là tánh của Niết-bàn. Không đồng với hàng Thanh-văn thấy thế gian khác với Niết-bàn, nên chán bỏ hữu vi mà giữ lấy Niết-bàn.

+ Nay nói hữu vi tức Niết-bàn: Là Niết-bàn thường trụ của Phật tánh diệu hữu. Làm rơ: Chư Phật Như Lai quán pháp hữu vi tức là Niết-bàn tánh tịnh. Đă thấy Niết-bàn tánh tịnh, đoạn trừ hai chướng hoàn toàn dứt sạch, lúc chứng đắc diệu trí chánh quán, tức có thể chứng đắc Niết-bàn phương tiện của hiện quả kia, nên không bỏ hữu vi mà trụ nơi Niết-bàn.

+ Nghĩa nầy là thế nào? Chư Phật Niết-bàn: Đây là nêu câu thứ hai trong kệ.

+ Không phải là hữu vi, cũng không ĺa pháp hữu vi: Là giải thích câu thứ nhất trong kệ.

+ V́ sao?: Tức ở đây, trước giải thích về chư Phật Niết-bàn, v́ sao không phải là pháp hữu vi, mà lại nói không ĺa pháp hữu vi? Tức giải thích: Do chư Phật chứng đắc Niết-bàn, xuất ly sinh tử, nên không phải là hữu vi. Hóa thân thuyết pháp, dốc sức tạo lợi ích cho chúng sinh, làm rơ chư Phật do ứng thân thườngđời hóa độ muôn vật, nên không ĺa hữu vi.

+ Đây là biện minh chư Phật do không trụ nơi Niết-bàn: Là tóm kết về câu thứ nhất. Do không trụ nơi thế gian: Là tóm kết về câu thứ hai.

+ Do đâu chư Phật thị hiện hành thế gian, nhưng không trụ trong pháp hữu vi: Là sắp giải thích nửa kệ sau, nên hỏi: Ở trước, nói thị hiện hành thế gian, v́ sao chư Phật Ứng thân hóa độ muôn vật, thị hiện có sinh lăo bệnh tử, mà không gọi là trụ trong pháp hữu vi. Do đấy hai câu kệ sau đáp:

Chín thứ pháp hữu vi

Diệu trí nên chánh quán.

Tuy đồng nơi thế gian có sinh lăo bệnh tử, nhưng không phải là pháp hữu vi.

+ Đây là do nghĩa ǵ? Tức hỏi kệ ấy đă biện minh về chánh quán, tạo pháp ǵ dùng để quán, được gọi là quán đúng đắn? Tuy thị hiện có hành thế gian như sinh tử v.v…, nhưng không gọi là trụ nơi pháp hữu vi: Tức giải thích chánh quán về chín thứ cùng đối, như tinh tú v.v… Nêu rơ: Chư Phật quán chín thứ pháp hữu vi là hư vọng không thật, như quán chín thứ pháp như tinh tú v.v… cũng hư giả không thật, nên có thể ở trong pháp hữu vi, do diệu lực của chánh quán, có thể trọn ngày thị hiện hành thế gian mà không trụ nơi pháp hữu vi.

+ Chín thứ chánh quán ấy, đối với chín thứ cảnh giới, nên biết: Là nêu ra cảnh của chánh quán, khuyên người nên biết.

* Kệ thứ 2, câu trên nói: Thấy tướng: Là nêu thẳng về tâm thấy tướng, gồm thâu chủ thể nhận thấy hết cả ba thứ, song v́ thành câu kệ, nên nói: Cùng nơi thức. (Thấy tướng cùng nơi thức). Câu nầy có ba, nêu rơ chủ thể nhận thấy là tâm, giải thích ba dụ: Sao, màng, đèn trong kinh.

+ Khí, thân, sự thọ dụng: Ba thứ nầy biện minh về sự được thọ dụng, giải thích ba dụ: huyễn, sương, bọt trong kinh.

+ Kệ nói: Pháp quá khứ, hiện tại, Cũng quán đời vị lai: Là nêu rơ sáu thứ pháp hữu vi trước, ở trong ba đời chuyển biến, giải thích ba dụ mộng, chớp, mây. Đây là biện minh sáu thứ hữu vi, đă lui về dĩ văng, gọi là quá khứ. Sáu thứ hữu vi ấy, mầm mống chưa khởi, gọi là vị lai. Sáu thứ hữu vi hiện đang dấy khởi, niệm niệm sinh diệt, gọi là hiện tại. Nên gọi là ba đời chuyển đổi.

* Kệ thứ 3 nêu: Quán tướng cùng thọ dụng. Nói quán tướng: Là nhắc lại thấy tướng thức ở trên trong kệ trước. Cùng thọ dụng: Là nhắc lại ba thứ khí, thân, sự thọ dụng trong kệ trước.

+ Quán sự nơi ba đời: Là nhắc lại ba đời quá hiện vị lai ở sau trong kệ trước.

+ Sở dĩ nêu dẫn lần nữa về chín thứ pháp ấy, v́ có vấn nạn: Quán chín thứ pháp hữu vi ấy, đạt được những công đức ǵ? Thành tựu trí ǵ? Nên nửa kệ sau đáp: Ở trong pháp hữu vi, Được tự tại vô cấu. Nêu rơ: Lúc quán chín thứ pháp hữu vi ấy, có thể đạt được quả vô lậu vô cấu của Địa thứ nhất trở lên, trí vô sinh thắng giải nơi đạo không trụ, được công đức tự tại.

 

* Phần 12: Đức Phật thuyết giảng kinh nầy xong, đến: Tin, nhận phụng hành: Đây là đoạn kinh thứ 12, gọi là Phần Lưu thông.

+ Sở dĩ tiếp theo nêu rơ về Lưu thông: Là v́ trên đây là thuyết pháp, chính thức biện biệt về thể của kinh, người tin tưởng, tỏ ngộ nhiều. Nay sắp biện minh Đức Như Lai thuyết pháp, không những chỉ nhằm đem lại lợi ích trực tiếp chung cho người đương thời, mà cũng muốn tạo ân ích khắp tới nhiều kiếp lâu xa, khiến lưu thông nơi vị lai, giúp cho đời khác cùng thấm nhuần chánh pháp, nên tiếp đến là làm rơ công việc ấy. Do ở đây nêu ra đủ bốn chúng, tám bộ cùng các vị Đại Bồ-tát, nên biết rơ trong Phần Tự, việc dẫn đại chúng đồng thời nghe kinh cũng phải có đủ như thế. Do văn kinh tóm lược nên ở Phần Tự đă nêu thiếu.

+ Nghe Đức Phật giảng nói: Lúc nầy, chúng hội sở dĩ đều vô cùng hoan hỷ tin nhận, phụng hành lưu thông kinh nầy: Là gồm có 3 nghĩa:

1. Người thuyết giảng thanh tịnh: Nêu rơ chư Phật Như Lai chính là bậc Nhất thiết trí, hai chướng đă dứt hết đầy đủ vô lượng công đức như mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng v.v…, như chỗ chứng đắcgiảng nói, tất ứng hợp lư, nên nói: Người thuyết giảng thanh tịnh.

2. Đối tượng được thuyết giảng thanh tịnh: Đây là nêu rơ về âm thanh, chương câu, kinh giáo A-hàm được giảng nói đều từ nơi người không c̣n phiền năo hiển bày, nói đồng với chư Phật, không nhiều không ít, không tăng không giảm cùng lư tương ưng, nên nói là đối tượng được thuyết giảng thanh tịnh.

3. Người thọ nhận thanh tịnh: Tức đại chúng của pháp hội lúc đó đều nhất tâm chuyên nghe, không thấy lỗi tranh, không nói pháp ḿnh là đúng, pháp kia không đúng, tâm không nghi, đục, nên gọi là thanh tịnh.

Hết thảy đại chúng đều vui mừng nh́n ngắm bậc Thiên Tôn, được pháp vị thâm diệu, trừ nghi dứt chướng, đạt đạo độ đời nên rất hoan hỷ, tin nhận phụng hành.

* Kệ sau cùng:

Chư Phật pháp tổng tŕ hy hữu

Câu nghĩa sâu không thể nêu lường

Từ Tôn giả nghe cùng nói rộng

Chuyển phước đức nầy thí quần sinh.

Một kệ nầy là Luận chủ đă tạo ra kệ thứ 80 để tán thán, hồi hướng.

+ Chư Phật: Là ba đời chư Phật trong mười phương. Nêu rơ: Kinh Kim Cương Bát Nhă Ba-la-mật nầy là Trí mẫu của ba đời chư Phật trong mười phương. Ba đời chư Phật cùng thuyết giảng pháp ấy, không phải chỉ riêng Đức Như Lai Thích-ca, nên viết là chư Phật.

+ Hy hữu: Đây không phải là nhiều đời không có, mà là thời thời đều có nên gọi là hy hữu. Lại, chư Phật, Như Lai, thường v́ chúng sinh thuyết giảng, do đâu gọi là hy hữu? Tức làm rơ Bát-nhă nầy, lư sâu nghĩa xa, chỉ là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải là đối tượng nhận biết của người khác. Người của hàng phàm phu, Nhị thừa, hành nhỏ, căn nhỏ, không thể thọ nhận, do người tin khó được, nên gọi là hy hữu.

+ Pháp tổng tŕ: Là biện minh văn của kinh nầy tuy tóm lược, nhưng nghĩa sáng mà rộng, ư sâu nêu rơ lư nhân quả cảnh trí thường trụ, thâu bày đều tận cùng, nên gọi là pháp tổng tŕ. Lại c̣n một nghĩa: Hết thảy các kinh Đại thừa, văn tuy rộng, nhưng chỗ biện minh tột cùng không ra ngoài chúng sinh, Bồ-tát, Phật, Tịnh độ. Kinh nầy, văn tuy lược, mà chỗ nêu bày cùng tột ấy cũng gồm đủ bốn loại đó, nên nói là pháp tổng tŕ.

+ Không thể nêu lường: Là làm rơ: Kinh nầy lư sâu xa, không phải là hàng Nhị thừa trí nhỏ có thể lường xét.

+ Câu nghĩa sâu: Tức là kinh nầy về câu văn cùng thứ lớp đều mang ư nghĩa sâu xa.

Nhân đấy sinh nghi vấn: Nếu Kinh Kim Cương Bát Nhă nầy, câu nghĩa thứ lớp khó lănh hội, không phải là cảnh giới có lường xét, vậy Luận chủ do đâu có thể lư giải, để tạo luận giải thích? Nên kệ viết: Từ Tôn giả nghe. Nêu rơ Luận chủ tự nói: Giải thích nghĩa của pháp môn Kim Cương Bát Nhă thâm diệu nầy, không phải là trí lực của tự ḿnh thực hiện mà chính là nhờ theo gần bên Tôn giả, tiếng Phạn là A-tăng-khư, Hán dịch là Tỳ-kheo Vô Chướng Ngại, nghe được. Lại, về xa là lănh hội từ nơi Đức Thế Tôn Di Lặc. Biện minh: Kính xét về công đức có như hiện nay, không phải là truyền sai lầm, nên nói: “Từ Tôn giả nghe”.

+ Cùng nói rộng: Nêu rơ Tỳ-kheo Vô Chướng Ngại chính là Bồ-tát tánh địa, nghe nhiều nhớ kỹ, có thể lưu thông pháp Đại thừa, hàng phục ngoại đạo, nên Đức Thế Tôn Di Lặc thương xót người cơi Diêm-phù-đề nầy, tạo “Thích Nghĩa Kinh Kim Cương Bát Nhă” cùng Luận Địa Tŕ trao cho Tỳ-kheo Vô Chướng Ngại, khiến chúng được lưu thông. Nhưng Đức Thế Tôn Di Lặc chỉ giải thích bằng văn xuôi. Luận chủ Thiên Thân đă từ nơi Tỳ-kheo Vô Chướng Ngại học được, lại xét t́m ư của luận kinh nầy, tạo ra kệ luận, nêu rộng về nghi vấn để giải thích kinh ấy, gồm có 80 kệ, cùng viết phần văn xuôi để giải thích Luận. Lại đem luận nầy chuyển dạy cho Luận sư Kim Cương Tiên v.v… Kim Cương Tiên chuyển dạy cho Vô Tận Ư. Vô Tận Ư lại chuyển dạy cho Thánh Tế. Thánh Tế chuyển dạy cho Bồ Đề Lưu Chi, lần lượt cùng truyền trao, cho đến hôm nay gần hai trăm năm, chưa từng đoạn dứt, nên viết là “Cùng nói rộng”.

+ Chuyển phước đức nầy thí quần sinh: Nhưng Bồ-tát Đại sĩ, luôn nhân sự khởi nguyện, nên Luận chủ tự đem công đức hiện có do tạo luận, truyền dạy, không chuyên riêng thiện, mà chuyển thí cho pháp giới chúng sinh, cùng hướng đến tâm Bồ-đề Vô thượng.

HẾT - QUYỂN 10

 

previous.png   back_to_top.png

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0