Lương
Hoàng Bảo Sám
QUYỂN THỨ NĂM
ĐẦU QUYỂN
NĂM
Kỳ viên
quả tư vị thậm kham thường,
Thanh
qua, hồng thị, a lê dạng,
Hiệp chi,
long nhăn kham cúng dường.
Yêm ma la quả thế vô song,
Bà la môn, tiên, nhân,
Thân hiến liên đài thượng.
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát Ma ha tát (3 lần)
Cung văn
Tịnh ngũ nhăn chi từ tôn, hách hách hiện quang minh chi diệu tượng, khai
ngũ thừa chi giáo khải lảng lảng tuyên bát nhă chi huyền âm. Ngũ thập ngũ vị
chi thánh hiền, niệm niệm bồ đề quả măn, Ngũ căn ngũ lực chi đại sĩ, trần trần
giải thoát nhân duyên. Quy y tắc tăng trưởng phước điền, lễ niệm tắc năng tiêu
tội cấu. Tịch nhiên bất động, cảm nhi toại tướng. Nguyện tứ từ quang chứng minh
tu phụng.
Thượng lai phụng v́ cầu sám đệ tử đẳng... tu kiến từ bi đạo tràng sám
pháp, kim đương đệ ngũ quyển, nhập đàn duyên khởi. Cẩn bị hoại đăng quả b́nh,
phỉ báng trân tu. Phổ phụng chư Phật thánh hiền, xưng dương đồng danh bảo hiệu.
Khể tạng, lễ bái, phát lộ, đầu thành. Thiết niệm cầu sám đệ tử đẳng... tùng tích
lụy kiếp, trực chí kim sinh, mê ngũ uẩn chi khứ lai, tùy ngũ trược chi lưu
chuyển. Ngũ dục oanh triền, ngũ trần giao tế. Ngũ nghịch vị trừ, khởi nhân ngă
ái tắng chi niệm. Ngũ pháp vị ngộ, tăng tự tha phiền năo chi t́nh. Nhân duyên
kư dĩ vô sai, quả báo thật nan đào tị. Kim tắc pháp chúng kiền thành chi chí,
các khai giải thoát chi môn. Quy y ư đại viên cảnh trung, tẩy địch ư bồ đề hải
nội. T́nh ư như tư, Phật tất ai lân. Ngưỡng khấu hồng từ, minh huân gia bị.
Phật thân thanh tịnh tợ lưu ly,
Phật diện do như măn nguyệt huy.
Phật tại thế gian thường cứu khổ,
Phật tâm vô xứ bất từ bi.
Khởi vận Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp. Nhất tâm quy mạng Tam thế chư Phật:
Nam mô Quá Khứ Tỳ Bà Thi Phật,
Nam mô
Thi Khí Phật,
Nam mô Tỳ
Xá Phù Phật,
Nam mô
Câu Lưu Tôn Phật,
Nam mô
Câu Na Hàm Mâu Ni Phật,
Nam mô Ca
Diếp Phật,
Nam mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Nam mô
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật.
CHƯƠNG
THỨ CHÍN GIẢI OAN THÍCH KIẾT
Ngày nay
Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng hiểu rơ tất cả chúng sanh đều có oán thù
với nhau.
V́ sao mà
biết?
V́ không
có oán thù th́ không có ác đạo. Nay ác đạo không dứt, ba đường c̣n măi, nên
biết oán thù không bao giờ cùng tận.
Kinh dạy
rằng:
"Hết thảy
chúng sanh đều có tâm. V́ có tâm nên đều được làm Phật".
Nhưng
chúng sanh tâm tưởng điên đảo, tham đắm thế gian, không biết lối ra, cứ vun
trồng gốc khổ năo, bồi đắp cội oán thù. Sở dĩ phải luân hồi ba cơi qua lại sáu
đường, xả thân lại thọ thân không bao giờ cùng tận.
V́ sao
vậy?
V́ vậy
hết thảy chúng sanh từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, mê muội măi măi, vô
minh che lấp, nước ái nhận ch́m, nên khởi ra ba độc căn, khởi ra bốn điên đảo.
Từ ba độc căn ấy sanh ra mười phiền năo (1). Y nơi thân kiến khởi ra ngũ kiến
(2). Y nơi ngũ kiến khởi ra sáu mươi hai kiến (3). Y nơi thân, khẩu, ư khởi ra
mười hạnh ác. Thân, sát, đạo, dâm; Miệng vọng ngôn, ỷ ngữ lưỡng thiệt, ác khẩu;
Ư tham, sân, si.
Tự ḿnh
làm mười điều ác, dạy người làm mười điều ác, khen ngợi người làm mười điều ác.
Như vậy, y nơi thân, khẩu, ư khởi ra bốn chục điều ác.
Lại y nơi
sáu căn tham đắm sáu trần hơn nữa là mở rộng cửa ác cho tám vạn bốn ngàn trần
lao xâm nhập. Trong khoảng một niệm khởi ra sáu mươi hai kiến chấp. Trong
khoảng một niệm tạo đủ bốn chục điều ác. Trong khoảng một niệm mở cửa cho tám
vạn bốn ngàn trần lao, huống nữa trong khoảng một ngày th́ khởi ra biết bao tội
ác; huống nữa trong khoảng một tháng khởi ra biết bao tội ác; huống nữa trong
khoảng một năm khởi ra biết bao tội ác; huống nữa chung thân lịch kiếp khởi ra
biết bao tội ác.
Tội ác
như vậy, vô lượng vô biên oán thù theo nhau không bao giờ cùng tận.
Nhưng
chúng sanh đồng sanh với ngu si, vô minh che lấp trí huệ, phiền năo che lấp tâm
tánh, chúng sanh không tự hiểu biết.
Tư tưởng
điên đảo không tin lời kinh, không tin lời Phật, không biết giải oan, không
trông giải thoát.
Chúng
sanh tự gieo ḿnh vào đường ác, như phủ du tự gieo ḿnh vào đèn sáng, nhiều
kiếp mê muội, chịu vô lượng khổ.
Giả sử
nghiệp báo hết rồi, được trở lại làm người, th́ người ác như thế, trọn không cải
cách, nên Thánh nhân phải sanh tâm thương xót. Như vậy cũng chỉ v́ chúng sanh
có oán thù với nhau mà ra.
Chúng con
nay đă phát tâm Bồ đề, tu Bồ tát đạo, thấy Bồ tát Ma ha tát, lấy việc cứu khổ
làm tư lương, lấy việc giải oan kết làm yếu hạnh. Bồ tát không xả bỏ chúng sanh
mà lấy việc cứu khổ, chịu khổ thế cho chúng sanh làm nền tảng.
Chúng con
ngày nay cũng phải như vậy; phải khởi tâm dơng mănh, khởi tâm Từ bi, tâm đồng
như tâm Phật, nương nhờ Phật lực, dựng phan Đạo tràng, đánh trống cam lồ, cầm
cung trí huệ, nắm tên kiên cố, nguyện v́ hết thảy tứ sanh lục đạo oán thù ba
đời, Cha mẹ, Sư trưởng, lục thân quyến thuộc mà cởi mở oán thù.
Những oán
thù đă kiết đều xả bỏ, những oán thù chưa kiết, rốt ráo không kết nữa.
Nguyện
xin chư Phật, chư đại Bồ tát, dùng Từ bi lực, dùng bổn nguyện lực, dùng thần
thông lực, đồng gia tâm che chở, chiết phục, nhiếp thọ, làm cho vô lượng oán
thù ba đời từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật cởi mở sạch hết, không c̣n kết
oán thù trở lại, hết thảy khổ năo hoàn toàn đoạn trừ.
Cùng nhau
chí tâm, một ḷng tha thiết, đầu thành đảnh lễ Tam bảo, nguyện xin thế cho hết
thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường; oán thù ba đời; nguyện xin thế cho
Cha mẹ, Sư trưởng và hết thảy bà con quyến thuộc mà Quy y Thế gian Đại Từ bi
phụ:
Nam mô Di
Lặc Phật
Nam mô
Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô
Thiện Ư Phật
Nam mô Ly
Cấu Phật
Nam mô
Nguyệt Tướng Phật
Nam mô
Đại Danh Phật
Nam mô
Châu Kế Phật
Nam mô
Oai Mănh Phật
Nam mô Sư
Tử Bộ Phật
Nam mô
Đức Thọ Phật
Nam mô
Hoan Thích Phật
Nam mô
Huệ Tụ Phật
Nam mô An
Trú Phật
Nam mô
Hữu Ư Phật
Nam mô
Ương Già Đà Phật
Nam mô Vô
Lượng Ư Phật
Nam mô
Diệu Sắc Phật
Nam mô Đa
Trí Phật
Nam mô
Quang Minh Phật
Nam mô
Kiên Giới Phật
Nam mô
Cát Tường Phật
Nam mô
Bảo Tướng Phật
Nam mô
Liên Hoa Phật
Nam mô Na
La Diên Phật
Nam mô An
Lạc Phật
Nam mô
Trí Tích Phật
Nam mô
Đức Kỉnh Phật
Nam mô
Kiên Dơng Tinh Tấn Bồ tát
Nam mô
Kim cang Huệ Bồ tát
Nam mô Vô
Biên Thân Bồ tát
Nam mô
Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y
như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Tất cả
oán thù như vậy nay ở trong lục đạo, những người đă chịu trả oán rồi, nguyện
xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực, khiến các chúng sanh ấy đều được
giải thoát. Hoặc có chúng sanh nào ở trong lục đạo đang chịu trả oán, hoặc chưa
chịu trả oán, nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực, khiến các
chúng sanh ấy hoàn toàn không trở lại trong các đường ác nữa, hoàn toàn không
c̣n ác tâm đến với nhau nữa, hoàn toàn không làm độc hại khổ sở nhau nữa; tất
cả đều xả bỏ, không c̣n phân biệt oán thân nữa. Tất cả tội lỗi đều được tiêu
trừ. Tất cả oán thù đều được giải thoát, cùng nhau đồng tâm, hoà hiệp như nước
với sữa, tất cả đều được hoan hỷ như ở Sơ địa (4). Thọ mạng vô cùng, thân tâm
an lạc măi, tùy ư sanh lên Thiên cung hay văng sanh về Tịnh độ. Tưởng ăn có ăn,
tưởng mặc có mặc, không c̣n nghe tiếng oán thù đấu tranh nữa.
Thân
không bị sự biến diệt xâm lăng, tâm không bị ngoại trần mê hoặc nhiễm trước.
Điều lành tranh nhau nhóm họp, điều ác tranh nhau tiêu tan; phát tâm Đại thừa
tu đạo Bồ tát. Tứ đẳng lục độ đầy đủ, xả bỏ quả báo sanh tử, đồng đăng Đạo
tràng, thành bậc Chánh giác.
Ngày nay
Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng biết cái ǵ là nguồn gốc của oán thù đau
khổ?
Chính v́
mắt tham sắc, tai tham tiếng, mũi tham hương, lưỡi tham vị, thân tham xúc tế
nhị, nên chúng sanh thường bị năm ngoại trần ràng buộc nhiều kiếp ở trong đêm
dài mờ mịt, không được giác ngộ và giải thoát.
Lại nữa
sáu gịng bà con, tất cả quyến thuộc đều là nguồn gốc oán thù ba đời của chúng
ta vậy.
Tất cả
oán thù đều do thân nhân khởi ra. Nếu không có thân th́ không có oán. Vậy ly
thân tức là ly được oán.
V́ cớ ǵ
vậy?
Mỗi người
ở một xứ, xa cách tha hương, như thế th́ trọn không thể sanh tâm oán hận. Tâm
oán hận sanh ra được đều do thân cận với nhau.
V́ gốc ba
độc tham, sân, si nên xúc năo nhau; v́ xúc năo nhau nên phần nhiều hay sanh tâm
oán hận.
Sở dĩ bà
con thân thích hay trách lẫn nhau. Hoặc Cha mẹ trách con, hoặc con trách Cha
mẹ; anh em chị em hết thảy đều hay trách lẫn nhau, và hiềm hận lẫn nhau.
Có chút
ǵ không bằng ḷng liền sanh tâm giận dữ.
Nếu giàu
sang phú quư th́ nhiều bà con, đua nhau đến xin; khi nghèo thiếu th́ không ai
để ư.
Lại nữa
càng xin càng lấy làm thiếu; càng được càng lấy làm không đủ. Trăm lần xin,
trăm lần được cũng không lấy làm ơn, hơi không vừa ḷng trở lại giận hờn. Từ đó
đă bắt đầu ḷng ôm ác niệm, nghĩ t́m cách cố ư kết thù liên họa, đời đời không
thôi.
Suy ra mà
biết, oán thù ba đời, thật không ai xa lạ, đều là bà con thân thích, quyến
thuộc chúng ta cả.
Vậy nên
biết, quyến thuộc là nhóm oan gia, chúng ta không thể không hết ḷng ân cần sám
hối, chí tâm đầu thành đảnh lễ Tam bảo. Nguyện v́ từ khi có thần thức trở lại
cho đến ngày nay, Cha mẹ nhiều đời, bà con nhiều kiếp ở trong sáu đường, đă kết
oán thù cùng nhau, hoặc là oán thù hay không phải là oán thù, hoặc khinh hoặc
trọng, hôm nay hoặc ở trong đường Địa ngục, đường Ngă quỉ, đường Súc sanh,
đường A tu la, hay ở trong nhân đạo; hoặc ở trên các cơi Trời, hoặc ở trong các
loài Tiên hay ở trong ṿng bà con quyến thuộc của chúng con; như thế những
người oán thù và quyến thuộc của các người ấy trong ba đời, ngày nay chúng con
tên... xin đem tâm Từ bi, tâm không phân biệt oán thân, tâm như tâm Phật, nguyện
như nguyện Phật, xin thay thế hết thảy chúng sanh ấy mà Quy y Thế gian Đại Từ
bi phụ:
Nam mô Di
Lặc Phật
Nam mô
Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô
Phạm Đức Phật
Nam mô
Bảo Tích Phật
Nam mô
Hoa Thiên Phật
Nam mô
Thiện Tư Nghị Phật
Nam mô
Pháp Tự Tại Phật
Nam mô
Danh Văn Ư Phật
Nam mô
Lạc Thuyết Tụ Phật
Nam mô
Kim cang Tướng Phật
Nam mô
Cầu Lợi Ích Phật
Nam mô Du
Hư Thần Thông Phật
Nam mô Ly
Oán Phật
Nam mô Đa
Thiên Phật
Nam mô Di
Lâu Tướng Phật
Nam mô
Chúng Minh Phật
Nam mô
Bảo Tạng Phật
Nam mô
Cực Cao Hạnh Phật
Nam mô Đề
Sa Phật
Nam mô
Châu Giác Phật
Nam mô
Đức Tán Phật
Nam mô
Nhật Nguyệt Minh Phật
Nam mô
Nhật Minh Phật
Nam mô Tinh
Tú Phật
Nam mô Sư
Tử Tướng Phật
Nam mô Vi
Lam Vương Phật
Nam mô
Phước Tạng Phật
Nam mô
Khí Ấm Cái Bồ tát
Nam mô
Tịch Căn Bồ tát
Nam mô Vô
Biên Thân Bồ tát
Nam mô
Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y
như vậy mười phương tận như không giới hết thảy Tam bảo, nguyện xin nhờ Phật
lực, Pháp lực, Đại địa Bồ tát lực, hết thảy Hiền Thánh lực, khiến cho Cha mẹ,
bà con chúng con ở trong sáu đường, nếu người nào có oán thù và quyến thuộc các
người ấy đều đồng thời vân tập đến Đạo tràng này, cùng nhau sám hối tội đời trước,
giải các oán thù đă kết. Nếu người nào thân h́nh bị câu thúc, trở ngại không
thể đến được, nguyện xin nhờ thần lực của Tam bảo, thâu nhiếp tinh thần của các
người ấy, khiến họ đến được Đạo tràng, đem ḷng Từ bi thọ lănh sự sám hối của
chúng con ngày nay, nguyện mong giải thoát hết thảy oán thù.
Đại chúng
trong Đạo tràng đều nên tâm niệm miệng nói lời này:
Chúng con
tên... từ vô thỉ, khi có thần thức trở lại cho đến ngày nay, đối Cha mẹ nhiều đời
bà con nhiều kiếp, chú bác cô d́, quyến thuộc nội ngoại, v́ gốc ba độc (5) khởi
ra mười nghiệp ác, hoặc v́ không biết hoặc v́ không tin, hoặc v́ không tu, bởi
vô minh che lấp trí huệ nên sanh ra oán kết, đối với Cha mẹ, bà con cho đến cả
trong lục đạo cũng có oán thù.
Những tội
như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa
từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc v́ giận hờn, hoặc v́ tham ái, hoặc v́
ngu si, do gốc ba độc mà tạo ra các tội. Tội ác như vậy, vô lượng vô biên, hổ
thẹn, sám hối, nguyện xin xả thí hết.
Lại nữa,
từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc v́ ruộng vườn, hoặc v́ nhà cửa, hoặc
v́ tiền của mà sanh ra nghiệp oán thù, đối với bà con, Cha mẹ đem tâm sát hại
đủ điều. Những tội sát ấy không thể kể xiết, sanh ra oán thù không bao giờ hết.
Ngày nay hổ thẹn, tỏ bày sám hối, nguyện xin Cha mẹ, sáu ḍng bà con, hết thảy
quyến thuộc, đem ḷng Từ bi cho chúng con sám hối, xả bỏ tất cả tội lỗi, không
c̣n tâm oán hận nữa. Cho đến trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, thập ác, ngũ nghịch,
chúng con đều có làm cả; v́ vọng tưởng điên đảo, phan duyên các cảnh, tạo ra
hết thảy tội.
Những tội
như vậy vô lượng vô biên, hoặc đối với Cha mẹ mà khởi ra, hoặc đối với anh em,
chị em mà khởi ra, hoặc đối với cô d́, chú bác mà khởi ra, từ khi có thần thức
trở lại cho đến ngày nay, đối với lục thân quyến thuộc mà khởi ra oán thù.
Những tội
như vậy vô lượng vô biên. Tội nhân khổ quả như thế phải trả báo, chịu hành
phạt, kiếp số lâu mau, oán kiết nhiều ít, chỉ có hết thảy chư Phật chư Đại Bồ
tát trong mười phương mới thấy hết, biết hết.
Như chỗ
chư Phật và Bồ tát đă thấy đă biết, tội lượng nhiều ít, oán thù bao nhiêu, thời
gian dài ngắn, đến đời vị lai mới thọ lănh sự trả thù ấy; ngày nay chúng con
rất hổ thẹn, nghẹn ngào, đau khổ, tự trách tự hối, xin cải ác tùng thiện, không
dám làm nữa.
Nguyện
xin Cha mẹ, bà con quyến thuộc, tất cả thân nhân, đem tâm nhu nhuyến, tâm điều
ḥa, tâm lạc thiện, tâm hoan hỷ, tâm pḥ hộ, tâm như tâm Phật, cho chúng con
xin... sám hối; xả bỏ tất cả tội lỗi cho chúng con không tưởng đến oán thân nữa.
Lại
nguyện xin cho Cha mẹ bà con tất cả quyến thuộc nếu có bị ai oán thù trong lục
đạo, cũng nguyện xin tất cả chúng sanh trong lục đạo đồng chung xả bỏ oán thù.
Hết thảy
oán thù trong ba đời nhất thời sạch hết. Từ nay trở đi cho đến ngày thành Đạo,
vĩnh biệt tam đồ, tuyệt bốn ác thú; tất cả đều ḥa hiệp như nước và sữa, tất cả
đều không chướng ngại, như hư không rộng răi, hằng làm bà con Phật pháp, quyến
thuộc Từ bi. Mọi người đều tu tập vô lượng trí huệ, thành tựu tất cả công đức,
dơng mănh tinh tấn, không thôi không nghỉ, tu Bồ tát đạo không biết mỏi mệt.
Tâm đồng như tâm Phật, nguyện đồng như nguyện Phật, được pháp tam mật (6) của
chư Phật, đủ năm phần pháp thân, cứu cánh Vô thượng Bồ đề, thành bậc Chánh
giác.
Ngày nay
Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đă giải oán kết với Cha mẹ rồi thứ lại
nên giải oán kết với Sư trưởng.
Từ bậc
Đại Thánh trở xuống, tâm thể chưa được hoàn toàn viên tịch, vô sanh pháp nhẫn
(7), c̣n bị ba tướng thiên diệt.
Ở địa vị
đẳng giác rồi, Phật c̣n phương tiện dùng lời khổ khắc, để cho những chúng sanh
ác độc nhân đó mà ngộ đạo. Bậc Minh Đức giáo hóa quần sanh c̣n nhờ lời khổ khắc
ấy, huống ǵ phàm phu, cách tuyệt cảnh thanh tịnh, làm sao khỏi oán.
Nay thiện
ác c̣n phức tạp, minh bạch chưa phân, làm sao tránh khỏi sự sai lầm của tam
nghiệp, cho nên nghe lời này phải hổ thẹn.
Đối với
ơn đức Sư trưởng phải tự trách ḿnh, ḷng nên hổ thẹn, không nên nghi ngờ mà
sanh ác tâm.
Trong
kinh Phật dạy: "Tuy xuất gia, nhưng chưa được giải thoát, dầu được xuất gia
cũng không nên tự phụ ḿnh không có điều ác. Người tại gia cũng không nên tự
cho ḿnh hoàn toàn không có điều thiện".
Vả thôi,
không nên nói việc ấy nữa. Hăy nghe lời Phật dạy trong kinh:
Phật bảo
Đại chúng: "Các ngươi nên tưởng nhớ ơn Sư trưởng. Cha mẹ tuy sanh thân này,
nuôi dưỡng, dạy bảo, nhưng thể làm cho thân này ra khỏi ba đường ác. Ḷng từ
của Sư trưởng rất lớn, khuyến dụ dẫn dắt kẻ sơ cơ, cho được xuất gia, rồi
truyền trao cho đại giới (giới Tỳ kheo). Đó tức là kẻ sơ cơ đă hoài thai La
hán, sẽ sanh quả La hán, xa ĺa đau khổ sanh tử và được yên vui Niết bàn. Sư
trưởng có ơn đức xuất thế ấy, ai hay báo đáp? Nếu người nào chung thân hành
đạo, đó chỉ là tự lợi, chớ chưa phải là báo đáp ơn thầy".
Phật dạy:
"Bạn lành trong thiên hạ không ai bằng Sư trưởng".
Ngày nay
Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe Phật dạy ơn đức Sư trưởng nặng như
thế, nhưng chúng con chưa từng khi nào phát tâm nghĩ đến. Trái lại, có khi Sư
trưởng dạy bảo c̣n không tin, không lănh, cho đến c̣n nói lời thô tháo sanh tâm
phỉ báng ngang ngược thị phi, làm suy đồi Chánh pháp.
Những tội
lỗi như thế làm sao thoát được Tam đồ. Khổ báo ấy không ai thay thế! Đến lúc
chết rồi, vui đi khổ đến; tinh thần thảm năo, tâm ư hôn mê, tinh thần không
sáng suốt, năm căn tán loạn, muốn đi chân không thể bước; muốn ngồi thân thể
yên; giả sử muốn nghe thuyết pháp tai không thể nghe; muốn xem cảnh đẹp, mắt
không thể thấy. Ngay lúc bấy giờ muốn nhớ lại sự lễ sám hôm nay cũng không
được; chỉ có những cảnh tượng rùng rợn hung ác trong Địa ngục hiện ra mà thôi.
Sở dĩ
trong kinh Phật dạy: "Người ngu si tự thị không tin tội phước, hủy báng Sư
trưởng, ghen ghét tật đố. Những người như vậy là Ma vương trong Phật pháp, là
ḍng giống Địa ngục, tự kết oán thù, chịu quả đau khổ vô cùng".
Như Hoa
Quang Tỳ kheo khéo thuyết pháp bí yếu, có một đệ tử thường ôm ḷng kiêu mạn,
Ḥa thượng dạy bảo không tin, không nghe, lại nói thế này: "Đại Ḥa thượng của
tôi không có trí huệ, thường hay tán thán những việc trống rỗng như hư không.
Tôi nguyện đời sau không thấy Ngài nữa".
Người đệ
tử ấy, từ ngày đó pháp nói phi là phi pháp, phi pháp nói là pháp. Tuy tŕ cấm
giới không hủy phạm, nhưng v́ hiểu lầm lời thầy nên sau chết rồi, trong một
nháy mắt, liền đọa A tỳ Địa ngục, tám mươi ức kiếp, thường chịu đại thống khổ.
Ngày nay
Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy thế ấy, mọi người há
không sợ hăi sao?
Chỉ đối
với Ḥa thượng sanh một lời ác, c̣n đọa xuống A tỳ Địa ngục tám chục ức kiếp,
huống nữa từ khi xuất gia trở lại cho đến ngày nay, tội lỗi đối với Ḥa thượng
đă sanh ra ác nghiệp vô lượng vô biên. Quyết định bỏ thân này sẽ đồng tội với
người đệ tử kia, sa xuống Địa ngục, không c̣n nghi ǵ nữa.
V́ sao
vậy? - V́ Ḥa thượng và A xà lê thường đem tâm dạy bảo, nhưng chúng con chưa
từng đúng như pháp mà tu hành. Đối với các bậc Sư trưởng phần nhiều chúng con
hay sanh ḷng trái nghịch, hoặc các Ngài cung cấp cho mà không tự biết chán
biết đủ, hoặc thầy giận đệ tử, hoặc đệ tử giận thầy, trong ba đời, sự hỷ nộ vô
lượng. Những tội như vậy không thể kể xiết.
Trong
kinh Phật dạy: "Sinh một ḷng sân, oán thù vô lượng".
Những oán
thù ấy không những trong sáu ḍng bà con, mà sư đồ, đệ tử cũng hiềm hận lắm
lắm.
Lại c̣n
những lúc đồng pḥng chung ở đối với các bậc Thượng tọa, Trung tọa, Hạ tọa,
chúng con không thâm tín sự xuất gia là pháp viễn ly sanh tử, không biết nhẫn
nhục là hạnh an lạc, không biết b́nh đẳng là đường vào Bồ đề, không biết xa ĺa
vọng tưởng là tâm xuất thế, thầy tṛ đồng pḥng chung ở, v́ kiết sử phiền năo,
nghiệp chướng chưa hết nên hay trái chống nhau, tâm phân biệt đột nhiên loạn
khởi, nên tranh căi nhau, sở dĩ v́ vậy mà đời đời không hoà hiệp.
Lại nữa,
người xuất gia, hoặc là đồng học nghiệp, hoặc là đồng sư chung học trong những
ngày ấy, thấy người thắng tấn, chúng con liền đem ḷng độc hại, sân hận v́ ganh
tị mà không tự biết đó là sức trí huệ đời trước, cho nên mới có phước đức chúng
con không có thiện căn, tâm hữu lậu của chúng con hay sanh cao hạ, hay ở đấu
tranh, ít khi ḥa hiệp, không thể nhường nhịn người dày đức, chúng con bạc
phước, bèn hiềm hận nhau, ḿnh quấy, chỉ nói xấu người, hoặc v́ ba độc mà sàm
báng nhau, không có tâm trung tín, không có ư cung kính, không khi nào nghĩ lại
điều trái của chúng con. Cho đến cao tiếng lớn lời nói điều thô lỗ là điều Phật
cấm; những điều Sư trưởng dạy bảo cũng không tin. Các bậc thượng, trung, Hạ
tọa, ai cũng ôm ḷng phẫn hận chúng con cả. V́ phẫn hận nên lại thị phi nhau,
thành ra trong ba đường ác phần nhiều đều có oán thù.
Thị phi
oán thù như thế đều do thầy tṛ đệ tử chúng con gây ra.
Trong lúc
đồng học chung ở thượng trung hạ ṭa khởi lên một niệm tâm sâm hận, oán thù đă
vô lượng.
Sở dĩ
trong kinh Phật dạy: "Đời nay có ư giận nhau, ghen ghét nhau, tật đố nhau một
chút, đời sau các xấu ấy càng thêm kịch liệt, thành ra oán thù lớn, huống nữa
ác ư đă phát ra trọn đời th́ nghiệp báo ấy kể sao cho xiết".
Ngày nay
Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đều không tự biết trong lục đạo đă gây
thù kết oán với các bậc Sư trưởng thượng, trung, hạ ṭa. Oán thù ấy không có
ngày cùng tận.
Sự oán
thù này không có h́nh tướng; thời gian chịu khổ không có kỳ hạn, không có kiếp
số, không thể chịu được. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát xả tâm oán thân, dùng tâm Từ
bi, tâm b́nh đẳng mà thâu nhiếp tất cả chúng sanh. Ngày nay Đại chúng đă cùng
nhau phát Bồ đề tâm, phát Bồ đề nguyện nên phải tập tu hạnh Bồ tát tứ Vô lượng
tâm, lục Ba la mật, tứ hoằng thệ nguyện, tứ nhiếp pháp đó là sự tu hành căn bổn
của chư Phật và Bồ tát đă làm. Như chư Phật và Bồ tát đă làm chúng con ngày nay
cũng tập làm, oán thân b́nh đẳng, hết thảy không ngại nhau.
Từ nay
trở đi cho đến ngày thành Phật, thề phải cứu hộ hết thảy chúng sanh, khiến các
chúng sanh đều được giải thoát.
Cùng nhau
tâm đầu thành đảnh lễ Tam bảo, chúng con nguyện v́ hết thảy chúng sanh, kể từ
khi có thần thức trở lại đây, trải qua bao nhiêu đời xuất gia, đối với các bậc
Ḥa thượng, A xà lê, mà có oán thù đối với các bậc đồng đàn tôn chứng, mà có
oán thù, đối với quyến thuộc đồng học, thượng, trung, hạ ṭa, mà có oán thù,
hoặc đối với có duyên hay vô duyên với Phật pháp mà có oán thù, rộng ra cho đến
oán thù ba đời, trong tứ sanh lục đạo, khắp cùng mười phương, hoặc có oán thù
hay không phải oán hoặc khinh hoặc trọng đối với quyến thuộc của các người oán
thù ấy, đệ tử chúng con tên... nếu có oán thù với tất cả chúng sanh trong lục đạo
đến đời vị lai hay trong hiện tại, chúng con chịu trả quả báo, hôm nay chúng
con nguyện xin sám hối trừ diệt hết.
Nếu tất
cả chúng sanh trong lục đạo mỗi mỗi đều oán thù với nhau, ngày nay đệ tử chúng
con tên... xin đem ḷng Từ bi, không phân biệt oán thân khắp v́ oán thù ba đời mà
cầu xin sám hối. Nguyện xin cho các chúng sanh ấy xả bỏ oán thù, không c̣n nghĩ
đến điều ác độc để hại nhau nữa, không c̣n ôm ḷng độc ác đến với nhau nữa.
Nguyện xin hết thảy chúng sanh, trong lục đạo cũng đồng xả bỏ oán thù, hết thảy
đều hoan hỷ với nhau. Từ nay đă giải oán thù rồi, không c̣n sân hận nhau, mà
cung kính nhau, tâm nghĩ báo ơn nhau, như tâm chư Phật, như nguyện chư Phật mọi
người đều nhất tâm đảnh lễ Quy y Thế gian Đại Từ bi phụ:
Nam mô Di
Lặc Phật
Nam mô
Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô
Kiến Hữu Biên Phật
Nam Mô
Điện Minh Phật
Nam Mô
Kim Sơn Phật
Nam Mô Sư
Tử Đức Phật
Nam Mô
Thắng Tướng Phật
Nam Mô
Minh Tán Phật
Nam Mô
Kiên Tinh Tấn Phật
Nam Mô Cụ
Túc Tán Phật
Nam Mô Ly
Úy Sư Phật
Nam Mô
Ứng Thiên Phật
Nam Mô
Đại Đăng Phật
Nam mô
Thế Minh Phật
Nam mô
Diệu Âm Phật
Nam mô
Tŕ thượng Công Đức Phật
Nam mô Ly
Ám Phật
Nam mô
Bảo Tán Phật
Nam mô Sư
Tử Giáp Phật
Nam Mô
Diệt Quá Phật
Nam Mô
Tŕ Cam Lồ Phật
Nam Mô
Nhơn Nguyệt Phật
Nam Mô Hỷ
Kiến Phật
Nam Mô
Trang Nghiêm Phật
Nam Mô
Châu Minh Phật
Nam Mô
Sơn Đảnh Phật
Nam Mô
Danh Tướng Phật
Nam Mô
Huệ Thượng Bồ tát
Nam Mô
Thường Bất Ly Thế Bồ tát
Nam mô Vô
Biên Thân Bồ tát
Nam mô
Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y
như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo nguyện xin nhờ Phật lực,
Pháp lực, hết thảy Hiền Thánh lực khiến vô lượng oán thù ba đời, hoặc oán thù
hay không phải oán thù và hết thảy chúng sanh trong hư không pháp giới đều phát
tâm sám hối cởi mở oán kết; tất cả oán thù đều xả bỏ, không c̣n phân biệt oán
thân tất cả đều ḥa hiệp như nước với sữa, tất cả đều hoan hỷ như ở sơ địa, tất
cả đều vô ngại như hư không. Từ nay cho đến ngày thành Phật hằng làm bà con
Phật pháp, quyến thuộc Từ bi, như chư Bồ tát.
Lại nữa,
chúng con xin nhờ công đức nhân duyên lễ bái sám hối hôm nay để cởi mở oán kết.
Nguyện xin chư vị Ḥa thượng các bậc A xà lê đồng đàn Tôn chứng các vị đồng học
và hết thảy quyến thuộc của các bậc thượng, trung hạ ṭa, có oán thù cho đến
các chúng sanh trong bốn loài sáu đường mỗi mỗi đều có oán thù ba đời, chưa
được giải thoát, ngày nay hoặc c̣n ở trong thiên đạo, ở trong tiên đạo c̣n ở
trong A tu la đạo, c̣n ở trong Địa ngục đạo, c̣n ở trong Ngă quỉ đạo, c̣n ở
trong Súc sanh đạo, c̣n ở trong nhơn đạo hay c̣n ở trong bà con quyến thuộc,
mười phương ba đời oán thù như vậy, hoặc oán thù hay không oán thù, mỗi người
ấy và bà con quyến thuộc của các người ấy, từ nay trở đi cho đến ngày thành
Phật, tất cả tội chướng, nguyện đều tiêu diệt, tất cả oán thù hoàn toàn giải
thoát, kiết tập phiền năo hằng được thanh tịnh, tránh xa bốn ác thú, tự tại thọ
sanh, niệm niệm giải thoát, tâm tâm tự tại, sáu Ba la mật đầy đủ trang nghiêm,
hạnh nguyện Thập địa, hoàn toàn viên măn, được mười trí lực (8) của Phật, thần
thông vô ngại, chứng quả Bồ đề thành bậc Chánh giác.
Ngày nay
Đại chúng đồng nghiệp trong Đại tràng biết rơ trên đây đă và oán thù ba đời mà
giải oan thích kiết rồi. Từ nay trở xuống, riêng từng cá nhơn phải tự trong
sạch, phải hết ḷng cùng nhau tự xét: V́ sao mà không được giải thoát?
Nghĩ về
trước, không thấy được đức Phật đối diện thọ kư cho ḿnh suy sau cũng không
nghe được một pháp âm của Phật phô diễn. Bởi v́ tội nghiệp sâu dày, oán kiết
kiên cố cho nên không những không thấy được Phật đời trước, Phật đời sau, các
vị Bồ tát và Hiền Thánh mà c̣n sợ e không nghe được âm thanh truyền hưởng vang
dội của Tam Tạng kinh điển nữa là khác. Xa cách Phật pháp th́ ác đạo và thù oán
không do đâu mà giải thoát. Bỏ thân mạng này rồi ch́m xuống biển khổ luân
chuyển ba đường trải khắp ác thú, biết bao giờ trở lại được thân người?
Suy nghĩ
như vậy mới thật là đau ḷng, tâm tư như vậy mới thật là khổ trí.
Chúng con
được hạnh phúc may mắn, mong nhờ thuần phong của Phật, nên cắt ái từ thân xả
gia ly tục, không c̣n tưởng nhớ ǵ nữa há lại không tranh thủ thời gian để cầu
giải thoát. Nếu ư chí không kiên cường, quyết liệt chịu khổ, không c̣n lo sợ,
thoạt vậy thân lâm trọng bệnh thân trung ấm hiện ra, th́ ngưu đầu, ngục tốt, la
sát, a bàng, h́nh tướng dễ sợ th́nh ĺnh t́m đến, gió phong đao xẻ thân, tinh
thần sợ hăi, tán loạn, bà con khóc lóc cũng không hay biết. Ngay lúc bấy giờ
sanh một niệm thiện tâm, cầu lễ sám như ngày nay cũng không thể được, chỉ thấy
vô lượng đau khổ trong ba đường ác hiện ra.
Ngày nay
Đại chúng đều phải nỗ lực tu tập cho kịp thời; nếu cứ tùy ư phóng túng th́ ư
chí hướng thượng phải chậm trễ; cho nên phải cố gắng chịu khổ mà dơng mănh tiến
lên.
V́ thế
trong kinh có dạy: "Từ bi là Đạo tràng v́ nhẫn nhục chịu khổ vậy". Phát tâm tu
theo Đạo tràng này th́ mọi việc đều xong xuôi".
Vậy nên
biết rằng: "Vạn thiện được trang nghiêm đều nhờ sự cố gắng nhẫn nại; cũng như
muốn qua bể cả, phải nương nhờ ghe thuyền. Nếu có tâm cầu an vui mà không làm
việc gây nhơn cầu vui th́ không thể có kết quả an vui. Lư và sự phải đi đôi với
nhau. Người hết lương thực mà chỉ mơ tưởng cao lương mỹ vị tưởng suông như vậy
nào có ích ǵ cho sự đói khát, cần phải làm thế nào cho có cao lương mỹ vị thật
sự mới được.
Vậy muốn
cầu có quả tốt đẹp nhiệm mầu quyết phải lư và sự đồng hành, không thể thiếu
một.
Đại chúng
phải cùng nhau sanh tâm tăng thượng, phát ư hổ thẹn mà sám hối diệt tội giải
các oán kiết. Trái lại cứ mê mờ theo thói cũ th́ chưa biết ngày nào tỏ ngộ. Nếu
mọi người đều giải thoát mà ta c̣n trầm luân th́ ăn năn không kịp.
Đại chúng
nhất tâm đầu thành đảnh lễ Quy y Thế gian, Đại Từ bi phụ.
Nam mô Di
Lặc Phật
Nam mô
Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô
Định Nghĩa Phật
Nam Mô
Thí Nguyện Phật
Nam mô Bảo
Chúng Phật
Nam mô
Chúng Vương Phật
Nam mô Du
Bộ Phật
Nam mô An
Ổn Phật
Nam mô
Pháp Sai Biệt Phật
Nam mô
Thượng Tôn Phật
Nam mô
Cực Cao Đức Phật
Nam mô
Thượng Sư Tử âm Phật
Nam mô
Lạc Hư Phật
Nam mô
Long Minh Phật
Nam mô
Hoa Sơn Phật
Nam mô
Long Hỷ Phật
Nam mô
Hương Tự Tại Vương Phật
Nam mô
Đại Danh Phật
Nam mô
Thiền Lực Phật
Nam mô
Đức Man Phật
Nam mô
Long Thủ Phật
Nam mô
Thiện Hành Ư Phật
Nam mô
Nhơn Trang Nghiêm Phật
Nam mô
Trí Thắng Phật
Nam mô Vô
Lượng Nguyệt Phật
Nam mô
Thực Ngữ Phật
Nam mô
Nhật Minh Phật
Nam mô
Dược Vương Bồ tát
Nam mô
Dược Thượng Bồ tát
Nam mô Vô
Biên Thân Bồ tát
Nam mô
Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y
như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo đệ tử chúng con tên...
tích tập tội chướng sâu dày hơn đại địa, bị vô minh che lấp tâm tánh, trong đêm
dài mù mịt, do ba độc mà tạo nhơn thù oán, nên mê muội, ch́m sâu trong ba cơi
không có ngày ra.
Ngày nay
nhờ sức Từ bi của chư Phật, chư đại Bồ tát mới mong giác ngộ, sanh tâm hổ thẹn
chí thành cầu xin tỏ bày sám hối. Nguyện xin chư Phật, chư đại Bồ tát dủ ḷng
Từ bi thâu nhiếp chúng con, đem sức đại trí huệ, sức bất tư ngh́, sức vô lượng
tự tại, sức hàng phục tứ ma, sức diệt trừ phiền năo, sức giải oa kiết, sức độ
thoát chúng sanh, sức an ổn chúng sanh, sức giải thoát Địa ngục, sức tế độ Ngă
quỉ, sức cứu vớt Súc sanh, sức nhiếp hóa A tu la, sức nhiếp thọ nhơn đạo, sức
tận chư Thiên chư Tiên hữu lậu, sức vô lượng vô biên công đức vô lượng vô tận
trí huệ, nhờ những sức lực ấy khiến các chúng sanh có oán thù trong bốn loài
sáu đường, đồng đến Đạo tràng thọ lănh sự sám hối của chúng con hôm nay.
Chúng con
tên... xả bỏ tất cả sự thù oán, không c̣n tư tưởng oán thù. Những nghiệp oán thù
đă kết đều được giải thoát. Hằng ĺa tám nạn khổ, không c̣n bốn ác thú, thường
gặp được chư Phật, nghe Pháp, ngộ Đạo, phát tâm Bồ đề, tu nghiệp xuất thế. Tứ
Vô lượng tâm, sáu Ba la mật hết ḷng tu tập, tất cả hạnh nguyện đều được viên
măn, đồng lên Thập địa, đồng vào Kim cang, đồng thành Chánh giác.
Ngày nay
Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên nhận thấy rằng: Oán thù theo nhau đều
do ba nghiệp (9) đày đọa con người tu hành phải chịu khổ báo, khó chứng đạo
quả.
Đă biết
nguồn gốc đau khổ đều do ba nghiệp th́ phải dơng mănh diệt trừ ba nghiệp. Điều
kiện thiết yếu dùng để diệt khổ, duy chỉ có phương pháp sám hối. Cho nên trong
kinh Phật khen ngợi rằng: "Ở đời chỉ có hai hạng người mạnh nhất: Một là hạng
người không tạo tội; hai là người tạo tội rồi mà biết ăn năn, sám hối.
Ngày nay
Đại chúng muốn sám hối, thân tâm đều phải trong sạch, y phục chỉnh tề, sanh
ḷng hổ thẹn, buồn thảm ảo năo, sanh hai niệm tâm th́ tội ǵ cũng diệt, phước
ǵ cũng sanh.
Những ǵ là hai?
Một là biết hổ; hai là biết thẹn. Hổ là xấu hổ với trời. Thẹn là thẹn
thùng với người. Hổ là tự ḿnh hay sám hối, diệt trừ các oán thù. Thẹn là hay
dạy bảo người cởi mở các sự trói buộc. Hổ là hay làm các điều thiện. Thẹn là
hay tùy hỷ các việc thiện của người. Hổ là tự xấu hổ trong tâm. Thẹn là phát
lồ, tỏ bày tội lỗi với người.
Nhờ hai pháp ấy mà người tu hành được pháp an vui vô ngại.
Ngày nay đă sanh tâm đại hổ thẹn, làm lễ đại sám hối, nên phải hết ḷng
cầu xin Tứ sanh Lục đạo. V́ sao vậy?
V́ trong kinh Phật dạy rằng: "Tất cả chúng sanh đều là bà con quyến
thuộc với nhau, hoặc đă từng làm Cha mẹ, hoặc đă từng làm Sư trưởng, cho đến
hoặc đă từng làm anh em chị em với nhau. Hết thảy chúng sanh đều như thế. Bởi
vô minh che lấp chơn tánh nên không biết nhau. V́ không biết nên hay sanh ra
xúc năo và oán thù nhau măi măi.
Ngày nay Đại chúng đă hiểu biết ư ấy, nên phải hết ḷng thành khẩn tha
thiết dụng tâm, quyết khiến một niệm tâm cảm mười phương Phật, một lạy đoạn trừ
vô lượng oán thù.
Đại chúng nhất tâm đầu thành đảnh lễ Quy y Thế gian đại Từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Định Ư Phật
Nam mô Vô Lượng H́nh Phật
Nam mô Minh Chiếu Phật
Nam mô Bảo Tướng Phật
Nam mô Đoạn Nghi Phật
Nam mô Thiện Minh Phật
Nam mô Bất Hư Bộ Phật
Nam mô Giác Ngộ Phật
Nam mô Hoa Tướng Phật
Nam mô Sơn Chủ Vương Phật
Nam mô Đại Oai Đức Phật
Nam mô Biến Kiến Phật
Nam mô Vô Lượng Danh Phật
Nam mô Bảo Thiên Phật
Nam mô Trú Nghĩa Phật
Nam mô Măn Ư Phật
Nam mô Thượng Tán Phật
Nam mô Vô Ưu Phật
Nam mô Vô Cấu Phật
Nam mô Phạm Thiên Phật
Nam mô Hoa Minh Phật
Nam mô Thân Sai Biệt Phật
Nam mô Pháp Minh Phật
Nam mô Tận Kiến Phật
Nam mô Đức Tịnh Phật
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ tát
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo đồng gia tâm nhiếp thọ chúng con.
Chúng con tên... cầu xin: Những điều sám hối đều được diệt trừ, đều được
thanh tịnh.
Lại nguyện xin cho những người đồng sám hối hôm nay từ nay trở đi cho
đến ngày thành Phật, tất cả oán thù đều được giải thoát, tất cả thống khổ đều
được tiêu diệt hoàn toàn; kiết tập phiền năo hằng được thanh tịnh. Xa ĺa bốn
ác thú, tự tại thọ sanh đích thân hầu hạ chư Phật, được Phật thọ kư lục độ, tứ
đẳng, nhất thời đồng tu, đủ bốn biện tài, được mười trí lực, tướng tốt nghiêm
thân, thần thông vô ngại, vào Kim cang tâm, thành bậc Chánh giác.
CUỐI QUYỂN NĂM
Lương Hoàng Bảo Sám.
Chí công tuyên dương,
Cửu trùng cung điện phóng hào quang.
Hy thị miễn tai ương.
Cảm tạ quân vương.
Thoát khổ thượng thiên đường.
Lương Hoàng Bảo Sám.
Vạn đức hồng danh,
Linh văn ngũ quyển tối hoằng thâm.
Tự tự miễn tai truân.
Đảnh lễ Phật danh.
Tiêu tai bảo an ninh.
Nam mô Nan Thắng Địa Bồ tát Ma ha tát (3 lần)
CUNG VĂN
Diệu tướng nguy nguy, lệ trung thiên chi cảo nhật. Từ phong đản đản chấn
đại địa chi xuân lôi. Sái cam lộ ư trần tâm, quán đề hồ ư sa giới. hữu cầu giai
ứng, vô nguyện bất ṭng. Như Lai thư ngũ nhăn chi quang minh, dung hội tác ngũ
thời chi Phật sự.
Thượng lai phụng v́ sám hối đệ tử đẳng... tu sùng từ bi đạo tràng sám
pháp, kim đương đệ ngũ quyển, lễ tụng cáo chung, công huân tương bị. Tập ngũ
đức chi cao lưu, chiêm ngũ thiên chi diệu tướng, nhiên ngũ phận chi chơn hương,
điểm ngũ đương chi huệ cự. Kệ tán nhất âm, hoa phi ngũ sắc, cúng bỉnh gia vi
cần hiến, lễ Phật hiệu ư quy khuynh. Tác quán, tụng kinh, thù công, dị đức,
tiên thân hồi hướng Phật bồ đề, nhiên hậu phổ huân châu sa giới, xuất sinh thù
lợi, phụng v́ cầu sám đệ tử đẳng... Sám vị sám chi tội cấu, tập vị chi thắng
nhân. Phục nguyện ngũ uẩn chi vân tự không, ngũ suy chi tướng bất hiện. Ngũ căn
ngũ lực nhi cụ túc. Ngũ cái ngũ triền dĩ tiêu dung. Phát minh ngũ chủng chi tâm
hoa. Tŕ thủ ngũ chi chi tịnh giới. Hiện tiền quyến thuộc hy ngũ
phước hàm trân. Quá khứ tôn thân đắc ngũ minh nhi thành tựu. Minh minh u
trầm chi loại khổ luân tác, nhi cộng chứng bồ đề. Cừu thù chấp đối chi đồ, oan
nghiệp giải nhi đồng sinh thiện đạo.
Lược lược vi nhân hối quá, tế tế nghiệp quả nan trừ. Nhất nhất ngưỡng ư
truy lưu, trùng trùng cầu ư sám hối.
Nam mô Sám Hối Sư Bồ tát Ma ha tát. (3 Lần)
Lương Hoàng Bảo Sám.
Ngũ quyển ngũ công đức lực, nguyện diệt đệ tử đẳng... ngũ chướng tội, thân
chứng Bồ tát Nan thắng địa.
Sám văn cử xứ, tội hoa phi.
Giải liễu oan sám liễu tội.
Tiêu tai tăng phước thọ.
Thoát khổ sinh Đao Lợi.
Giải liễu oan, sám liễu tội.
Tiêu diêu trực nhập Long Hoa Hội.
Long Hoa
tam hội nguyện tương phùng.
Di Lặc
Phật tiền thân thọ kư.
Nam mô
Long Hoa Hội Bồ tát Ma ha tát (3 Lần)
Lương
Hoàng Bảo Sám.
Ngũ quyển
ngũ toàn châu.
Hồi hướng
tứ ân tịnh tam hữu.
Bái sám
chúng đẳng tăng phước thọ.
Nguyện
tương pháp thủy tẩy khiên vưu.
Duy
nguyện vong giả văng Tây du.
Nan Thắng
Địa Bồ tát.
Duy
nguyện ai nạp thọ.
Nam mô
Đăng Vân Lộ Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh...
CHÚ THÍCH QUYỂN NĂM:
(1) 10 phiền năo: Tức là 10 sử: Tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến,
biên kiên, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ.
(2) Ngũ kiến:
1. Thân kiến: lầm chấp thân này thật có.
2. Biên kiến: chấp thân này hoặc chết là hết hoặc chết là c̣n măi măi
không luân hồi.
3. Tà kiến: không tin nhơn quả, không tin luân hồi hủy báng Tam bảo.
4. Kiến thủ: không chịu bỏ ư kiến cũ mặc dầu biết là sai lầm.
5. Giới cấm thủ: theo các giới cấm ngoại đạo.
(3) 62 kiến: Đối với năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) ngoại đạo khởi
ra bốn món chấp:
1. Chấp sắc lớn ngă nhỏ, ngă ở trong sắc.
2. Chấp ngă lớn sắc nhỏ, sắc ở trong ngă.
3. Chấp ngă ở ngoài sắc, riêng tự tại.
4. Chấp ngă tức là sắc.
Sắc ấm có 4 chấp. Năm ấm có 20 chấp. Chấp suốt ba đời: quá khứ, hiện
tại, vị lai nhân thành 60 chấp, thêm vào 2 món chấp đoạn, chấp thường nữa thành
ra 62 chấp.
(4) Sơ địa: gọi là Hoan hỷ địa, địa thứ nhất trong hàng Thập địa quả vị
của Bồ tát.
Địa này rất vui, v́ phát tâm Từ bi tu hạnh hỷ xả, nên cảm quả báo ở địa
này thật là vui.
(5) Ba độc: Tham, sân, si.
(6) Tam mật: Thân mật, khẩu mật, và ư mật. Phật lấy tất cả cảnh sắc làm
thân, tất cả âm thanh làm khẩu, tất cả ư tưởng làm ư, và ba điều ấy biến khắp
pháp giới, chỉ riêng Phật đă chứng được nên gọi là Mật.
(7) Vô sanh pháp nhẫn: Nói tắt là vô sanh nhẫn: là nói lư thể thật
tướng, chơn như bất động. Bồ tát từ sơ địa đến bát địa mới chứng nhập được vô
sanh nhẫn, gọi a bệ bạt trí, địa vị bất thối chuyển.
(8) 10
Trí lực của Phật:
1. Trí
lực biết chỗ đúng đạo lư hay không đúng đạo lư của sự vật.
2. Trí
lực biết nhơn quả nghiệp báo ba đời của chúng sanh.
3. Trí
lực biết các môn thiền định giải thoát tam muội.
4. Trí
lực biết các căn thắng (hơn) liệt (kém) của chúng sanh.
5. Trí
lực biết được sức hiểu biết sai khác của chúng sanh.
6. Trí
lực biết mọi cảnh giới sai khác của chúng sanh.
7. Trí
lực biết được chỗ sẽ đến của mọi đường chúng sanh.
8. Trí
lực biết dùng thiên nhăn không chướng ngại.
9. Trí
lực biết được túc mạng vô lậu.
10. Trí
lực biết dứt hẳn tập khí.
(9) Ba
nghiệp: Hành động của thân khẩu ư
QUYỂN THỨ NĂM HẾT