Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
Quyển 48
Chư Tôn Bộ số 2005
Thiền Tôn Vô Môn Quan
Tỳ Kheo Thích Huệ Khai dịch
Dẫn Nhập
Phật lấy Tâm làm tôn, lấy vô môn làm pháp môn. Đă là vô môn (không cửa) th́ làm sao có thể xuyên qua. Chúng ta đâu chẳng nghe nói, từ cửa mà vào th́ không phải là vật quí báu trong nhà, từ duyên mà được, trước sau đều thành bại hoại. Điều đó muốn nói cái ǵ? Giống như không có gió mà nổi sóng, thịt da lành lặn lại khoét cho thành ghẻ lở. Huống chi đeo thêm ngôn ngữ câu văn, cố t́m để hiểu biết, khác nào quơ gậy đập bóng trăng, Cách giày găi ngứa đâu có nhầm ǵ! Vào mùa Hạ năm Mậu Tư, tôi nhân chư Tăng đến tham thỉnh, nên đem các công án của Cổ Đức ra giảng giải, tùy theo căn cơ của mỗi học viên mà dẫn dắt. Xong mùa hạ chúng mới ghi chép lại liền thành một tập gồm có 48 công án được giảng giải và làm tụng gọi là Vô Môn Quan. Nếu có người nào chẳng sợ nguy hiểm, một ḿnh một đao vào trận, Na Tra tám tay ngăn cũng chẳng dừng. Dù chư Tổ cản cũng chẳng chần chờ, như người xem bóng cởi ngựa trên màn ảnh, phải biết đó là ảnh ảo không thật. Có bài tụng:
(Vô môn) Đạo cả không có cửa
Thêm đường cách muôn trùng,
Hiểu được lối vào này,
Càn khôn thênh thanh bước
Cơ duyên của Phật Tổ
Gồm trong Bốn Tám bài.
VÔ MÔN QUAN
1. CON CHÓ CỦA TRIỆU CHÂU
"Có một vị Tăng hỏi Ḥa Thượng Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không? Triệu Châu đáp: Không."
Vô môn giải: Người tham thiền phải thấu được cổng Tổ sư, kẻ siêu ngộ phải rơ chỗ cuối của đường tâm. Không thấu cổng Tổ, không đến chỗ cuối của đường tâm, chỉ là những kẻ đoán ṃ. Thế nào là cổng Tổ sư, chỉ có một chữ KHÔNG là cửa cổng của tông môn vậy. Đó là cái cổng không, không ngơ vào của Thiền tông. Người hiểu được nghĩa này không phải chỉ thân thấy Triệu Châu, mà c̣n có thể cùng các Tổ sư nắm tay nhau đi, cùng thấy nghe như nhau, đâu không phải là chỗ đáng mừng vui sao? Cần yếu đừng nên hiểu thấu cùng tột cửa cổng. Dù đem 360 lóng xương, 84000 lỗ chân lông làm thành nghi vấn tham cứu chữ KHÔNG ngày đêm đề tỉnh, đừng hiểu theo hư vô, đừng hiểu theo hữu vô, như lưỡi chạm một ḥn sắt nóng, muốn nhổ mà nhổ không ra, hiểu hết chỗ hiểu ác, biết ác, lần lần thuần thục, tự nhiên trong ngoài đập thành một khối như người câm nằm mộng, chỉ tự ḿnh biết. Bổng nhiên đập vỡ, kinh trời lỡ đất. Như tướng quân có đại đao trên tay, phá tan ải giặc vào trong, gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, ở trên bờ sanh tử được đại tự tại. Dạo chơi ở trong 4 loại 6 đường mà chứng được du hí tam muội. Chỉ cần để tỉnh một lần, dốc hết tâm lực một đời giải quyết chữ không, nếu làm hoàn toàn không gián đoạn, như người cầm sẵn cây đuốc pháp trong tay. Có bài tụng rằng:
Phật tánh con chó
Đề ra chánh lệnh
Vừa vướng có không
Tan thân mất mạng
2. CHỒN CỦA BÁ TRƯỢNG
"Trong hội ngài Bá Trượng, khi thuyết pháp thường có một ông lăo không ai biết tên họ, theo chúng nghe pháp, khi chúng nghe xong lui về, ông lăo cũng đi ra mà không ai biết ông ở chỗ nào? Một ngày nọ, sau khi nghe pháp xong, ông lăo c̣n tần ngần đứng lại trong bóng tối. Tổ Bá Trượng hỏi: ai đứng đó? Ông lăo thưa: con không phải là người.
Trong thời Phật Ca Diếp, con đă từng ở núi này, v́ có một hạ nhơn hỏi: người tu hành đắc đạo có bị kẹt vào nhân quả không? Con đáp: không kẹt nhân quả. V́ vạy mà con đă 500 đời bị đọa làm thân chồn. Nay xin Ḥa Thượng cho con một chuyển ngữ mong thoát được thân chồn này. Tổ Bá Trượng đáp: ông có ǵ cứ hỏi. Ông lăo thưa: người tu hành đắc đạo có bị kẹt vào nhơn quả không? Tổ Bá Trượng đáp: không mê muội nhơn quả. Ông lăo sau câu nói liền đại ngộ, vội vàng đảnh lễ thưa: Con đă thoát khỏi thân chồn, con đang ở sau núi, xin Ḥa Thượng an táng như một vong Tăng. Sáng hôm sau Tổ gọi duy-na bạch chúng thưa với chúng, sau khi thọ trai làm lễ đưa vị Tăng vừa mất. Mọi người đều ngạc nhiên v́ toàn chúng đă vân tập đủ ở Niết Bàn Đường, không có một người bịnh tại sao có một cớ sự như thế. Sau khi ăn, Tổ dẫn chúng đến gộp sau núi, lấy gậy khêu ra một con chồn đă chết làm phép trà tỳ."
Đến chiều, Tổ Bá Trượng lên tham đường, Hoàng Bá lại hỏi: người xưa chỉ lầm có một chuyển ngữ bị đọa 500 kiếp làm chồn, nếu chuyển ngữ không lầm th́ cái đó ra sao? Tổ Bá Trượng bảo: người lại gần đây ta sẽ nói. Hoàng Bá đến gần đấm Tổ một thoi. Tổ vỗ tay cười nói: vừa nói râu đỏ lại có đỏ râu.
Vô Môn giải: Không kẹt nhân quả bị đọa thân chồn, không mê nhân quả được thoát thân chồn, nếu hướng vào trong đó chỉ bằng một mắt, mới biết được, nếu trước đó hiểu được đă thoát khổ 500 đời.
Có bài tụng:
Không kẹt không mê,
Hai ngắt một bên,
Không mê không kẹt,
Ngàn lầm muôn lầm.
3. NGÓN TAY CÂU ĐÊ
Ḥa Thượng Câu Đê, phàm có người hỏi đạo, chỉ đưa có một ngón tay. Ngài có chú thị giả nhỏ, một hôm, một người đến hỏi chú thị giả: Ḥa Thượng đưa một ngón tay là chỉ pháp yếu ǵ? Chú thị giả cũng đưa một ngón tay. Câu Đê Hoà Thượng thấy thế lấy dao cắt đứt ngón tay đó. Thị giả đau quá khóc thét lên bỏ chạy. Ḥa Thượng Câu Đê gọi: Thị giả. Thị giả quay đầu lại, Ḥa Thượng Câu Đê đưa ngón tay lên. Thị giả bỗng nhiên lănh ngộ. Một hôm Ḥa Thượng Câu Đê sắp thị tịch, gọi chúng lại bảo rằng: Ta được phép Thiền: (Thiên long nhất chỉ đầu Thiền) thọ dụng cả đời không hết. Nói xong Ngài ngồi ngay ngắn mà thị tịch.
Vô Môn giải: Chỗ ngộ của Ḥa Thượng Câu Đê và thị giả không phải ở đầu ngón tay. Nếu hướng vào trong đó mà thấy được th́ Thiên long, Câu Đê, thị giả và tự ḿnh liền thấu suốt tất cả. Tụng rằng:
Câu Đê chậm đặt lăo Thiên-long,
Dao bén cắt tay gả tiểu đồng,
Tay chứng linh đài không mấy kẻ,
Phá nát hoa sơn lớp tận cùng.
4- HỒ TỬ VÔ TU (Cái cằm không râu)
Có người hỏi: Ở Tây Thiên hồ tử (cái cằm) v́ sao không có râu?
Vô Môn giải: Người tham cần phải thật tham, ngộ cần phải thật ngộ. Cái hồ tử này phải chính ḿnh thấy một lần mới biết được. Nói chính ḿnh thấy sớm thành hai cái. Tụng rằng:
Người si trước mặt
Không thể nói mộng
Hồ tử không râu
Lặng lẽ thêm buồn.
5. HƯƠNG NGHIÊM TRÊN CÂY
Ḥa Thượng Hương Nghiêm thị chúng: "Có người ở nhánh cây cao, miệng cắn vào cành cây, tay không đeo cây, chân không đạp vào cây, lơ lững giữa hư không. Dưới gốc cây có người hỏi: Thế nào là ư chỉ của Tổ từ Ấn Độ sang? Không đáp th́ phụ ḷng người hỏi. Nếu đáp th́ tan thân mất mạng. Chính trong lúc ấy, ta phải làm thế nào?"
Vô Môn giải: Đối với bản lai diện mục, dù người có biện luận như nước dốc, cũng không dùng được ǵ. Dù nói cả Đại Tạng giáo lư cũng không dùng được ǵ. Nếu nh́n vào trong ấy mà đổi được, phải là người được sống từ đầu con đường chết và chết từ đầu con đường sống. Nếu không được như thế, nên đợi hội Long Hoa hỏi Ngài Di-Lặc. Tụng rằng:
Hương Nghiêm chọn cách nầy,
Có miệng cũng như câm,
Thực ác độc vô hạn,
Buông thân vào mắt quỷ.
6- THẾ TÔN ĐƯA HOA
"Xưa, đức Thế Tôn ở trên Hội Linh Sơn đưa cành hoa sen lên để khai thị chúng. Trong lúc ấy, cả chúng đều yên lặng, chỉ có Tôn-giả Ma Ha Ca Diếp mĩm cười. Đức Thế Tôn dạy: ta có chánh pháp nhăn tạng, niết bàn diệu tâm, pháp môn vi diệu, thực tướng vô tướng, không lập văn tự, truyền ngoài kinh giáo, phú chúc cho Ma Ha Ca Diếp".
Vô Môn giải: Cù Đàm mặt vàng bên cạnh nếu không có người nào, lấy trọng làm khinh, treo đầu dê mà bán thịt chó, nên gọi có chút lạ lùng. Nếu như lúc ấy đại chúng đều mĩm cười th́ chánh pháp nhăn tạng truyền cho ai? Nếu như Ca Diếp không cười, chánh pháp nhăn tạng lại truyền cho ai? Nếu nói chánh pháp nhăn tạng có truyền thọ là nói đùa nói dối, nếu nói không truyền thọ tại sao lại chỉ trao cho Ma Ha Ca Diếp? Tụng rằng:
Đưa cành hoa lên,
Ca Diếp mĩm cười,
Cuối đường đất ba,
Trời người hoan hỷ.
7- TRIỆU CHÂU RỬA BÁT
"Có vị Tăng thưa với Ḥa Thượng Triệu Châu: Con mới vào ṭng lâm, mong Ḥa Thượng từ bi chỉ thị? Triệu Châu hỏi: ăn cháo chưa? Tăng đáp: Dạ ăn rồi. Triệu Châu hỏi: Rửa bát chưa? Vị Tăng nhân đó mà tỏ ngộ."
Vô Môn giải: Triệu Châu mở miệng thấy Mật, bày cả tim gan ông tăng nghe việc không thật, lấy chuông làm ṿ (vỏ đựng nước). Tụng rằng:
Muốn được rơ ràng nhất,
Quay lại hăy c̣n chậm,
Sớm biết đến là lửa,
Cơm chín đă lâu rồi.
8- HỀ TRỌNG TẠO XE
Nguyệt Am Ḥa Thượng hỏi Tăng: Hề Trọng làm được một trăm trục căm xe, nắm hai đầu cây căm, khi trục xe quay, hiểu rơ việc ấy thế nào?
Vô Môn giải: Nếu ngay lúc đó hiểu được th́ mắt như sao xẹt, máy như điện giật. Tụng rằng :
Máy xe vừa chuyển
Kẻ giác c̣n mê,
Bốn bên trên dưới
Nam bắc đông tây.
9- ĐẠI THÔNG TỐI THẮNG
"Tăng hỏi Ḥa Thượng Hưng Dương Nhương: Phật Đại Thông Trí Thắng mười kiếp ngồi đạo tràng, Phật pháp không hiện tiền, không được thành Phật đạo, lúc đó như thế nào?
Nhương đáp: câu hỏi ấy rất đúng. Tăng lại hỏi: đă ngồi đạo tràng, v́ sao không thành Phật? Nhương đáp: V́ ông ấy không thành Phật."
Vô Môn giải: Chỉ cho ông biết, không cho ông hiểu. Phàm phu nếu biết sẽ thành thánh nhơn, thánh nhơn nếu hiểu liền thành phàm phu. Tụng rằng:
Hiểu thân đâu giống hiểu tâm sâu,
Hiểu được thân rồi tâm chẳng sầu,
Nếu được thân tâm đều hiểu rơ,
Thần tiên đâu chắc được phong hầu.
10- THANH THẾ CÔ BẦN
"Có vị tăng thưa với Ḥa Thượng Tào-Sơn rằng: Thanh Thuế rất nghèo, xin Ḥa Thượng giúp đở. Tào Sơn gọi: Thuế Xà Lê ? Thuế: dạ. Tào Sơn nói: Quán rượu họ Bạch ở Thanh Nguyên, ông đă uống hết ba chén mà vẫn c̣n nói chưa thấm lưởi."
Vô Môn giải: Thanh Thuế chuyển cơ tâm đó làm những ǵ? Tào Sơn thấy rơ mới giải được căn cơ. Dù Tào Sơn nói thế nhưng trong ấy Thuế Xà Lê có đến chỗ uống rượu không. Tụng rằng:
Nghèo tợ Phạm Sơn,
Khí như Hạng Vơ,
Kế sống tuy không,
Dám tranh trọc phú.
11- CHÂU KHÁM AM CHỦ
"Ḥa Thượng Triệu Châu đến Mộc am chủ hỏi: Có không? Có không? Am chủ đưa một nắm tay lên. Triệu Châu nói: nước cạn không phải là chỗ thuyền đi qua. Liền đi. Lại đến một am chủ hỏi: Có không? Có không? Am chủ cũng đưa nắm tay lên. Triệu Châu nói có thể theo, có thể đạt, có thể chết, có thể sống liền làm lễ."
Vô Môn giải: Mỗi nơi đều đưa nắm tay lên để làm ǵ? Một cái trái, một cái phải, lời nói đó đúng hay sai ở chỗ nào? Nếu nh́n thấu vào trong ấy ta sẽ có chuyển ngữ, mới thấy Triệu Châu đầu lưỡi không có xương, nắm và buông đều được đại tự tại. Tuy vậy, nếu như thế Triệu Châu đă bị hai am chủ khám phá. Nếu nói hai am chủ có người giỏi kẻ dở là chưa đúng con mắt của người tham học. Nếu nói không có kẻ giỏi người dở cũng chưa đúng là con mắt của người tham học. Có tụng rằng:
Mắt lộ sao
Máy chế điện
Dao giết người
Kiếm cứu người.
12- NGHIÊM GỌI CHỦ NHÂN
"Ḥa Thượng Đoan Nghiêm Sản hằng ngày tự kêu chủ nhân, rồi lại tự dạ và nói hăy tỉnh tỉnh, dạ, hằng giờ, hằng ngày đừng để người lừa, dạ dạ".
Vô Môn giải: Ông già Đoan Nghiêm tự mua tự bán, giỡn chơi nhiều đầu thần mặt quỷ, v́ sao ông ta tung ra một tiếng kêu thảm sầu, một tiếng dạ thâm sâu và một tiếng tỉnh tỉnh thâm sâu. Mỗi cái đều sáng tỏ, nhận rơ ông chủ của ḿnh, nếu chạy theo người khác là kiến giải sai lầm. Tụng rằng:
Người theo học đạo không biết chơn
Cứ theo vọng thức ấy linh hồn
Cội nguồn sanh tử từ nhiều kiếp
Người mê nào biết chủ nhơn ông.
13- ĐỨC SƠN CẦM BÁT
"Một ngày nọ, thiền sư Đức Sơn ôm bát xuống trai đường, gặp Tuyết Phong thiền sư hỏi: Ông già, chuông chưa kêu, trống chưa đánh, ôm bát đến chỗ nào? Tuyết Phong kể cho Nghiêm Đầu Ḥa Thượng nghe, Nghiêm Đầu nói: Đức Sơn chưa hiểu câu cuối cùng. Đức Sơn nghe bảo thị giả gọi Nghiêm Đầu đến hỏi: ông không chống đối với lăo Tăng sao? Nghiêm Đầu liền mật khải ư chỉ. Đức Sơn bảo thôi ông đi đi. Sáng hôn sau, Đức Sơn vừa thăng ṭa, Nghiêm Đầu đến trước tăng đường, phủi tay cười lớn nói: Ta đă hiểu câu cuối cùng của lăo Đức Sơn rồi. Về sau người trong thiên hạ không cần y nữa."
Vô Môn giải: Nếu câu cuối cùng này, Nghiêm Đầu, Đức Sơn đều chưa mở thấy được. Kiểm điểm ở tương lai tốt đẹp, giống như một tượng gỗ nhỏ. Tụng rằng:
Biết được câu ban đầu,
Liền hiểu được câu cuối chót,
Ban đầu và cuối chót,
Không phải là một câu.
14- NAM TRUYỀN CHÉM MÈO
"Ḥa Thượng Nam Truyền nhơn hai đường Đông Tây tranh nhau một con mèo. Nam Truyền cầm con mèo lên hỏi: Đại chúng nói được th́ thả, nói không được th́ chém. Chúng không nói được, Nam Truyền liền chém con mèo thành hai đoạn. Tối hôm ấy Triệu Châu thiền sư về, Nam Truyền kể lại cho Triệu Châu nghe. Nghe xong Triệu Châu lột chiếc dép úp trên đầu mà đi. Nam Truyền nói: Nếu hồi sớm ông ở nhà th́ đă cứu được con mèo rồi!..."
Vô Môn giải: Chỉ nói Triệu Châu lấy dép úp lên trên đầu là ư nghĩa ǵ? Nếu nh́n thẳng trong ấy mà được chuyển ngữ, mới thấy việc làm của Nam Truyền vốn không luống uổng, nếu hiểu lầm thật là nguy hiểm. Tụng rằng:
Triệu Châu nếu ở đó
Lệnh ấy ngược lại rồi,
Cướp ngay con dao nhỏ
Nam Truyền tha mạng thôi
15- ĐỘNG SƠN BA GẬY
"Một hôm Động Sơn đến tham vấn, thiền sư Vân Môn hỏi: gần đây ông đă rời chỗ nào đến đây? Động Sơn thưa con từ Hạnh-Độ đến. Vân Môn hỏi: mùa hạ rồi ở chỗ nào? Động Sơn thưa: ở chùa Báo Ân ở Hồ-Nam. Vân Môn hỏi lúc nào rời khỏi chỗ đó. Động Sơn đáp ngày 25 tháng 8. Vân Môn nói: Đánh người ba gậy bây giờ.
Sáng hôm sau, Động Sơn thưa: hôm qua nhờ Ḥa Thượng cho ba gậy không biết lỗi con ở chỗ nào? Vân Môn quở Giang Tây (Hạnh Độ). Hồ Nam có chỗ nào để đi. Động Sơn nghe xong đại ngộ."
Vô Môn giải: Vân Môn lúc ấy làm xong bổn phận, nên Động Sơn mới có con đường thoát, cửa nhà về đêm rất vắng vẻ như ở chỗ tối tăm, nhưng đến khi b́nh minh những tối tăm đều phá sạch, Động Sơn ngay câu nói mà đại ngộ. Chưa phải tánh khô, cần hỏi nhiều người. Ba gậy của Động Sơn hợp hay không hợp, nếu nói hợp th́ cây cỏ rừng núi đều đáng ăn gậy, nếu nói không hợp th́ Vân Môn nói dối, nh́n vào trong ấy mà hiểu được, mới cùng Động Sơn thổi một hơi. Tụng rằng:
Sư tử dạy con sai bí quyết
Con đường lẩn quẩn sớm co thân
Cần ǵ đối diện đều không mối
Mủi trước chưa sâu, sau mới sâu
16- BẢY ĐIỀU CHUÔNG NGÂN
"Vân Môn nói: thế giới này v́ sao rộng lớn, v́ nhiều người hướng vào tiếng chuông mà xé ra điều."
Vô Môn giải: Phàm người tham thiền học đạo, rất kỵ "theo tiếng, đuổi sắc". Dù nói: nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc tỏ ḷng, đâu chẳng biết, trong nhà nạp tăng; cưởi tiếng, trùm sắc đầu mối rơ ràng, mỗi bước mầu nhiệm. Song, tuy nói như thế, nhưng thực ra tiếng đến bên tai, tai qua bên tiếng, hiểu rơ tiếng vang lặng rồi, tai và tiếng đều mất. Đến chỗ nầy làm sao nói ḿnh hiểu, nếu đem tai nghe mà không hiểu, con mắt mà nghe được tiếng, mới gọi là hiểu. Tụng rằng:
Hiểu th́ sự cùng một nhà,
Không hiểu, muôn ngàn sai khác,
Không hiểu sự cùng một nhà,
Hiểu thời muôn ngàn sai khác.
17- SƯ GỌI BA LẦN
Một hôm, Quốc sư gọi thị giả ba lần, thị giả dạ đủ ba lần. Quốc sư nói: Tưởng rằng ta phụ ngươi, rơ ràng ngươi đă phụ ta.
Vô Môn giải: Quốc sư ba lần gọi đầu lưỡi đă rớt tới đất, thị giả ba lần dạ ánh sáng tuôn ra. Quốc sư tuổi già tâm cô độc, xét thấy đầu trâu ăn cỏ. Thị giả chưa quay lại để nhân v́ nói đồ ngon không làm no người ăn. Đó chính là cô phụ của thị giả.
Sư gọi 3 lần. V́ nước trong nhờ tài tử quư, nhà giàu con cái kiêu. Tụng rằng:
Kịp bắt không lỡ cần người nhận
Để lụy cháu con chẳng phải nhàn
Muốn được chưởng môn cầm giữ cửa
Phải cần chân đất giẵm non đao.
18- ĐỘNG SƠN BA CÂN
Có một vị Tăng hỏi Ḥa Thượng Động Sơn: Thế nào là Phật. Động Sơn đáp: ba cân gai.
Vô Môn giải: Lăo nhơn Động Sơn được môn Thiền Sơ nghêu. Vừa mở hai miếng vỏ, lộ cả ruột gan. Dù nói như thế chứ làm sao thấy được Động Sơn. Tụng rằng:
Chợt có gai ba cân
Lời gần ư cũng gần
Người đến nói phải quấy
Là có phải quấy thân.
19- B̀NH THƯỜNG LÀ ĐẠO
Một hôm Triệu Châu hỏi Nam Tuyền thế nào là Đạo? Nam Tuyền đáp: "tâm b́nh thường là Đạo". Triệu Châu thưa: lại có thể tiến tới chăng? Nam Tuyền đáp: suy nghĩ tức sai. Triệu Châu hỏi: không suy nghĩ làm sao biết Đạo. Nam Tuyền nói: Đạo không thuộc biết, không thuộc không biết. Biết thuộc vọng giác, không biết là vô kư. Nếu người nhận chân cái đạo không suy nghĩ, như mặt bầu trời rỗng rang vắng lặng. Đâu có thể gắng nói phải quấy. Triệu Châu sau câu ấy đốn ngộ.
Vô Môn giải: Nam Tuyền bị Triệu Châu hỏi liền được gói bể băng tan. Chia chẻ không được nên Triệu Châu mới ngộ được, liền căn cứ vào đó tham cứu trải 30 năm mới được. Tụng rằng:
Xuân có trăm hoa Thu có trăng
Hạ có gió mát, Đông có tuyết,
Nếu không chuyện rảnh buộc vào thân,
Tất cả đều có thời tiết tốt.
20- ĐẠI LỰC LƯỢNG NHÂN
Ṭng Nguyên Ḥa Thượng dạy: Người lực lượng lớn (đô vật) do đâu mà dở chân không lên? Lại nói: Mở miệng không ở trên đầu lưỡi.
Vô Môn giải: Ṭng Nguyên Ḥa Thượng có thể nói là người nghiêng hông lộn ruột. Chỉ có ở đó ít người gánh vác. Dù có nhiều người muốn gánh vác cũng phải đến chỗ vô môn ăn gậy thật đau. V́ sao? V́ muốn xem được vàng phải xem từ trong lửa. Tụng rằng:
Dở chân đạp tan biển hương lửa.
Cúi đầu vừa thấy tứ thiền thiên
Một cái quay ḿnh không chổ vướng
Xin tiếp một hướng......
21- VÂN MÔN CHUỒNG PHẨN
"Có vị tăng hỏi Vân Môn thế nào là Phật. Vân Môn đáp: chuồng phẩn khô".
Vô Môn giải: Có thể nói Vân Môn là người nghèo khó phân biệt món ngon, việc mơ hồ không thể ghi chép, nếu động th́ chuồng phân đến, giữ then gài cửa, Phật pháp hưng suy có thể thấy. Tụng rằng:
Chớp sáng ḷe
Như cọ đá
Nháy được mắt
Đă sai lầm
22 - CA DIẾP PHƯỚNG NGẢ
"Một hôm A Nan hỏi Ca Diếp: Đức Thế Tôn ngoài việc truyền pháp y kim lan c̣n truyền riêng vật ǵ không? Ca-Diếp gọi A-Nan. A Nan: dạ. Ca-Diếp nói: cây phướng trước cửa ngả rồi."
Vô Môn giải: Nếu nh́n vào đó sẽ có một chuyển ngữ, thân thiết liền thấy hội Linh Sơn vẫn c̣n chưa tan. Nếu chưa được như thế th́ Phật Tỳ Bà Thi sớm để ư, thẳng đến nay vẫn chưa được chỗ chí diệu. Tụng rằng:
Chỗ hỏi nằm gần chỗ đáp kia.
Mấy người từ đó mắt mở to
Anh kêu em dạ nhà thêm hổ
Không thuộc âm dương chỉ có Xuân
23- KHÔNG NGHĨ THIỆN ÁC
"Lục Tổ Huệ Năng vừa được y bát về phía Nam, có cả đoàn người đuổi theo cướp y bát, trong đó có Thượng Tọa Huệ Minh rượt theo đến gộp núi. Tổ thấy Minh đến liền để y bát trên gộp đá nói: y này là vật biểu tín, đâu có thể lấy sức mạnh để tranh giành, ông cứ mặc t́nh lấy đi. Huệ Minh nói: tôi đến đây là để cầu pháp chứ không phải v́ y. Tổ nói: "đừng nghĩ thiên đừng nghĩ ác, trong lúc ấy cái ǵ là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh". Huệ Minh sau câu nói đại ngộ, khắp ḿnh toát ra mồ hôi, rơi lệ làm lễ mà thưa: ngoài mật ngữ và mật ư trên, c̣n có thâm ư chỉ ǵ không? Tổ bảo: ta nay v́ ông đă nói ra tức không c̣n ǵ bí mật, nếu ông phản chiếu bản lai diện mục chính ḿnh th́ bí mật đó sẽ ở bên ông! Huệ Minh thưa: đệ tử tuy ở Huỳnh Mai theo chúng tu học, thực sự chưa tỉnh được diện mục của ḿnh, nay nhờ ơn ngài chỉ cho chỗ vào. Như người uống nước nóng nguội tự biết, nay cư sĩ chính là thầy của tôi. Tổ nói: ông được như thế ta cũng được như thế, đồng thờ Huỳnh Mai làm thầy. Ông khéo mà hộ tŕ.
Vô Môn giải: Lời nói của Lục Tổ là ḷng thương của một bà mẹ muốn con mau ra khỏi nhà giam, như cành lệ chi vừa mọc, bỏ vỏ ngoài nẩy mầm, chỉ yếu nuốt một lần là xuống khỏi cổ họng ngay. Tụng rằng:
Vẽ không thành họa không được
Viết không hết thôi chẳng xong
Bản lai diện mục không chỗ chứa
Thế giới khi hoại nó vẫn c̣n.
24- L̀A CẢ NGỮ NGÔN
"Có vị tăng hỏi Phong Huyệt Ḥa Thượng nói: nếu liên quan rất tinh tế làm sao cũng không phạm? Phong Huyệt đáp: Tháng Ba thường nhớ Giang Nam, gia cô vừa hát, hoa trời tỏa hương."
Vô Môn giải: Thiên cơ của Phong Huyệt nhanh như điện chớp, gặp đường th́ đi, giành nhau chỗ trước thoại đầu sẽ không dứt, nếu nh́n vào trong đó mà thấy được thân thiết, tự ḿnh có đường xuất thân, nếu ly cả ngữ ngôn tam muội. Nói được một câu là đến. Tụng rằng:
Không bày câu xương cốt
Chưa nói đă phân rồi
Tiếng đến miệng vang vang
Biết ông người lầm lớn.
25- BA T̉A THUYẾT PHÁP
"Ḥa Thượng Ngưỡng Sơn mơ thấy đến cung trời Đâu Suất, chỗ ở của Bồ Tát Di-Lặc, ngồi vào ṭa thứ ba. Có một tôn giả Bạch Chùy thưa: hôm nay vị ṭa thứ ba thuyết pháp. Ngưỡng Sơn đứng dậy đánh Bạch Chùy thưa: Pháp đại thừa là ĺa 4 câu, dứt trăm sai, lắng nghe, lắng nghe!"
Vô Môn giải: Nói như thế là nói pháp mà không nói pháp, mở miệng là mất, ngậm miệng là tan, không mở không ngậm, mười muôn tám ngàn. Tụng rằng:
Ban ngày trời sáng,
Trong mộng nói mộng
Thật lạ thật lạ
Dối chỉ một chúng.
26- HAI TĂNG CUỐN RÈM
"Một hôm, nhân buổi Thượng tham, chư Tăng tề tựu trước tham đường, thiền sư Thanh Lương Đại Pháp Nhăn lấy tay chỉ chiếc rèm, khi đó có hai vị tăng đồng đến cuốn rèm, ngài nói một người được, một người mất."
Vô Môn giải: Như thế nói người nào được, người nào mất, nếu hướng vào trong ấy để được một mắt, liền biết chỗ Thanh Lương quốc sư phá hết mê lầm. Dù như thế, cũng rất kỵ chỗ suy tính được mất. Tụng rằng:
Cuốn lên thấy rơ thái hư không
Thái không chưa hợp với chơn Tông
Phải biết từ không buông xă hết
Dày dày, nhặt nhặt gió sao không?
27- KHÔNG PHẢI TÂM PHẬT
"Có vị tăng hỏi Ḥa Thượng Nam Tuyền có ai không v́ người mà nói pháp cứu cánh chăng? Nam Tuyền đáp: Có. Tăng lại hỏi: Thế nào là không v́ người mà nói pháp cứu cánh? Nam Tuyền đáp: không phải tâm, không phải Phật, không phải vật."
Vô Môn giải: Nam Tuyền bị tăng hỏi một câu đă khám phá hết những vật trong nhà, người được phải ít. Tụng rằng:
Dặn ḍ hại đức người
Chẳng nói thiệt có công
Dù cho biển xanh đổi
Thật không phải ông thông.
28- VANG DỘI LONG ĐÀM
"Một đêm trời đă khuya, Đức Sơn đến tham thỉnh với thiền sư Long Đàm. Long Đàm nói: đêm đă khuya rồi sao ông không đi mà đứng đó làm ǵ? Đức Sơn liền chậm răi dở rèm đứng ra, thấy bên ngoài đen như mực liền quay trở lại nói với thiền sư Long Đàm: bên ngoài tối lắm. Long Đàm đốt cây đuốc đưa cho, Đức Sơn vừa cầm cây đuốc, Long Đàm liền thổi tắt. Đức Sơn nhơn đó bổng tỉnh ngộ, liền làm lễ. Long Đàm hỏi: ngươi thấy được đạo lư ǵ? Sơn thưa: Từ ngày nay về sau, trong thiên hạ không c̣n nghi lời nói lăo Ḥa Thượng nữa!
Sáng hôm sau thiền sư Long Đàm thăng ṭa nói: Trong đây có một anh chàng răng bén như gươm, miệng như chậu máu, đập một gậy không quay đầu. Có một ngày đến gộp núi cao mà thành lập đạo của ta. Đức Sơn liền đem bộ kim cang sớ sao đă dày công viết ra trước pháp đường đốt sạch và nói: Tột cái chỗ biện luận nhiệm mầu, cũng như sợi lông ném vào thái hư, mấu chốt quan trọng trùm đời như giọt nước rơi trong bể cả, sau đó từ tạ lui về."
Vô Môn giải: Đức Sơn khi chưa vượt khỏi quan, trong ḷng bực tức, miệng luôn luôn lẩm nhẩm sầu muọn, quyết định về phương Nam với mục đích diệt hết những người đề xướng ư chỉ giáo ngoại biệt truyền. Trên đường đi đến Phong Châu, vào quán hỏi bà chủ quán mua điểm tâm. Bà chủ quán thưa: Đại Đức trong xe chở kinh điển ǵ mà nhiều thế! Đức Sơn đáp: Kim Cang kinh sao sớ. Bà chủ quán thưa: Cứ như trong kinh ấy nói: quá khứ tâm không thể có được, hiện tại tâm không thể có được, vị lai tâm không thể có được, Đại Đức muốn điểm tâm nào? Đức Sơn bị hỏi một câu nghẹn lời không đáp được, dù vậy ông cũng hỏi lại lăo bà, gần chỗ này có thiền sư nào không? Lăo bà đáp: Cách đây 5 dặm có Ḥa Thượng Long Đàm. Đức Sơn đến chỗ thiền sư Long Đàm kể hết mọi chuyện. Có thể nói lời trước không đáp được lời sau. Long Đàm như lân con không sợ xấu, thấy Đức Sơn đến liền đem cho cây lửa đốt sạch mê lầm, mọi người đều cười. Tụng rằng:
Nghe tên chẳng bằng gặp mặt,
Thấy mặt không bằng nghe tên,
Nếu thật t́m ra lỗ mũi,
Tranh chi những kẻ không tṛng.
29- CHẲNG GIÓ CHẲNG PHAN
"Lục Tổ nhơn gió động lá phan, có 2 ông tăng cùng nhau bàn luận, một người nói phan động, một người nói gió động, cải măi chưa t́m ra lẽ thực. Tổ nói: không phải phan động, cũng không phải gió động, chính là tâm của hai nhơn giả động. Hai người nghe rồi cùng kinh ngạc."
Vô Môn giải: Không phải gió động, không phải phan động và cũng không phải tâm động th́ chỗ nào thấy được tổ sư, nếu từ trong đó mà thấy được thân thiết, mới biết hai vị tăng mua sắt được vàng. Tổ sư không ngăn một người nào vào chỗ vô lậu.
Tụng rằng:
Gió, phan, tâm động,
Một dạng trôi qua,
Chỉ biết mở miệng,
Không hiểu lời nói.
30- CHÍNH TÂM LÀ PHẬT.
"Đại-Mai thiền sư hỏi Mă Tổ: Thế nào là Phật? Tổ đáp: chính tâm là Phật."
Vô Môn giải: Nếu có thể sau câu đó t́m được lối đi, là mặc áo Phật, ăn cơm Phật, nói lời Phật, làm hạnh Phật. Dù tuy như vậy, Đại-Mai hướng dẫn nhiều người sau theo hướng đó, ngày thường ta nói chữ Phật là súc miệng ba ngày, nếu những người như ta nghe nói tâm chính là Phật liền bịt tai mà chạy. Tụng rằng:
Ban ngày trời sáng rở,
Rất kỵ kiếm t́m đồ,
Nếu hỏi thế nào có,
Ôm đồ tang kêu người.
31- TRIỆU CHÂU KHÁM BÀ
"Có vị tăng hỏi lăo bà, đường về núi Thiên Thai nhắm hướng nào mà đi? Vị tăng vừa đi vừa bước. Lăo bà hỏi: các lăo tăng lại đi về hướng nào? Có vị tăng kể lại và hỏi thiền sư Triệu Châu. Triệu Châu nói: đợi ta đi đến hỏi lăo bà đă. Rạng ngày, Triệu Châu đến gặp lăo bà và hỏi như thế, lăo bà cũng đáp như thế. Triệu Châu trở về nói với chúng rằng: lăo bà ở núi Thiên Thai ta cũng đă khám phá ra rồi:
Vô Môn giải: Lăo bà chỉ ngồi suy tính màn che nên bị chấp bởi giặc, không biết thiền sư Triệu Châu là một tay trộm có nhiều cơ xảo nhà nghề. Vă lại không có tướng đại nhơn, kiểm điểm việc sắp tới cả hai đều có lỗi, mới có thể nói trong đấy, Triệu Châu đă khám phá được lăo bà. Tụng rằng:
Hỏi theo một kiểu
Đáp cũng một giống
Trong cơm có cát
Bùn có thích khách
32- NGOẠI ĐẠO HỎI PHẬT
"Một hôm có người ngoại đạo hỏi Đức Phật, lúc ấy dù có lời hỏi hay không lời hỏi, Phật vẫn ngồi trên ṭa lặng thinh. Kẻ ngoại đạo khen ngợi rằng: Đức Thế Tôn đại từ đại bi vẹt hết mây mờ cho tôi, làm cho tôi được thâm nhập, nói rồi làm lễ mà đi. Thế Tôn đáp: như ở đời những con ngựa hay thấy bóng roi là đi ngay."
Vô Môn giải: A Nan là đệ tử Phật, dĩ nhiên không có kiến giải như kẻ ngoại đạo, nếu đem so sánh ngoại đạo và đệ tử Phật đi ra ai nhiều ai ít? Tụng rằng:
Kiếm bén lướt qua,
Băng khối liền tan,
Không cần thềm bậc,
Gộp cao buông tay.
33- CHẲNG TÂM CHẲNG PHẬT
"Có vị tăng hỏi Mă Tổ: thế nào là Phật? Tổ đáp: chẳng phải tâm chẳng phải Phật.
Vô Môn giải: Nếu nh́n vào trong đó thấy được, việc tham học liền chấm dứt.
Tụng rằng:
Đường gặp kiếm khách nên tŕnh kiếm
Chẳng gặp thi nhân chớ tặng thi
Gặp người mới nói vài ba chuyện
Đừng có trao hết cả tấm ḷng
34- TRÍ CHẲNG PHẢI ĐẠO
"Nam Truyền thiền sư dạy: Tâm không phải Phật, trí chẳng phải đạo".
Vô Môn giải: Có thể nói Nam Truyền không biết ǵ, vừa mở miệng thúi, việc xấu trong nhà lộ bày, tuy nói như thế, người biết ơn rất ít. Tụng rằng:
Trời tạnh mặt nhật lộ
Mưa rồi đất c̣n ướt
Nói rơ hết tinh thần
Chỉ e tin chẳng kịp.
35- GÁI ĐẸP L̀A HỒN
"Ngũ Tổ hỏi rằng: người con gái đẹp ĺa hồn, cái ǵ là thực cứu cánh."
Vô Môn giải: Nếu hướng nào đó ngộ được chỗ cứu cánh, liền biết bỏ hạt lúa, lấy hạt lúa, như vào nhà người ḍng họ cũ. Cái ấy hoặc không phải thế, đừng nên chạy loạn, thật vậy, đất lửa nước gió một khi đă tan, như rơi vào ổ ḅ hung, bảy tay tám chân chạy ra, lúc ấy đừng nói không có đạo. Tụng rằng:
Mây và trăng vốn đồng
Khe và núi đều khác
Muôn phước và muôn phước
Đó là một hay hai.
36- ĐƯỜNG GẶP KẺ ĐẠT ĐẠO
"Ngũ Tổ dạy: trên đường gặp người đạt đạo, không nên đối bằng cách nói hay nín. Nếu đạo tới làm sao đối."
Vô Môn giải: Nếu nhắm vào trong ấy, đối được thân thiết, đừng cho là vui mừng, nếu việc đó chưa phải thế cần phải nh́n khắp tất cả chỗ. Tụng rằng:
Đường gặp người đạt đạo,
Không nên đáp, nói, nín,
Mở tai, vay, mặt, tay,
Sau đó hiểu mới hiểu.
37- CÂY BÁ TRƯỚC SÂN
"Có vị tăng hỏi Thiền sư Triệu Châu thế nào là ư chỉ tổ sư từ Ấn Độ sang. Triệu Châu đáp: cây bá nhỏ ở trước sân."
Vô môn giải: Nếu hướng vào chỗ đáp của Triệu Châu mà thấy được chỗ thân thiết th́ trước không có Thích Ca, sau không có Di-Lặc. Tụng rằng:
Lời không chỉ bày việc,
Câu không có đầu cơ
Nương theo lời th́ mất
Dính câu ấy người mê
38- B̉ QUA CHẮN CỬA
"Ngũ Tổ dạy: Thí như có con ḅ chui qua cửa sổ, đầu, sừng, bốn chân đều qua khỏi, nguyên do ǵ đuôi nó qua không được."
Vô Môn giải: Nếu hướng vào trong ấy đảo xuôi ngược để nhận ra một mắt sau đó sẽ được một chuyển ngữ, có thể trên trả được bốn ơn, dưới giúp ba loài. Nếu chưa được thế cần phải chiếu cố cái đuôi mới được. Tụng rằng:
Đi qua rồi hầm hố,
Quay về cũng nát tan,
Chỉ c̣n chút đuôi nữa,
Đó là chỗ lạ lùng.
39- VÂN MÔN NÓI GIỠN
"Có vị tăng hỏi thiền sư Vân Môn câu Quang Minh tịch chiếu khắp hà sa là một câu chưa dứt phải không? Vân Môn hỏi: câu ấy đâu không phải là câu nói của Tú Tài Trương Chuyết. Tăng đáp: phải. Vân Môn nói: câu nói giỡn. Về sau Tử Tâm thiền sư bàn rằng: nếu nói đến cái đó là chỗ ông tăng nói giỡn rồi."
Vô Môn giải: Nếu nh́n vào trong đó thấy được dụng ư của Vân Môn th́ ông tăng bị nguy hiểm. Nhờ nói giỡn nhiều mới xứng đáng là bực thầy của người trời, nếu không hiểu tự ḿnh cứu c̣n chưa xong. Tụng rằng:
Ném mau lưỡi câu,
Tham ăn liền dính,
Miệng mắc vào dây,
Tánh mạng khó giữ.
40- ÚP NGƯỢC TỊNH B̀NH
"Ḥa thượng Quy Sơn lúc mới vào trong hội ngài Bách Trượng được sung vào chức Điển Tọa. Ngài Bách Trượng muốn tuyển chủ nhơn núi Đại Quy. Ngài mời Thủ Tọa Đồng đến đối chúng tŕnh bày kiến giải để được chọn, ngài Bách Trượng cầm tịnh b́nh để dưới đất, đập bàn hỏi: không được gọi là tịnh b́nh, các ông gọi nó là ǵ? Thủ Tọa Đồng nói: không thể gọi là khúc cây có lỗ trống, Bách Trượng quay sang hỏi Điển Toạ Sơn, Quy Sơn liền úp ngược tịnh b́nh xuống mà bỏ đi. Bá Trượng cười nói Điển Tọa là chủ của Quy Sơn. Do đó, dạy làm khai sơn núi Quy."
Vô Môn giải: Quy Sơn một phen dũng cảm, tranh nhau nhảy ra không khỏi ṿng tṛn của Bách Trượng, kiểm điểm tương lai cần nặng chẳng cần nhẹ v́ sao lại thoát khỏi chốn Bàn Đầu để gánh vác xiềng xích. Tụng rằng:
Gió tốc bờ rào lá cây cột chặt,
Mới vừa chợt gặp dứt trần ai,
Bách Trượng hai lần rào khó giữ,
Chân vừa bước khỏi Phật thành gai.
41- ĐẠT MA AN TÂM
"Đức Đạt Ma day mặt vào vách. Nhị Tổ đứng ngoài tuyết, chặt cánh tay cầu pháp, thưa: đệ tử tâm chưa an, xin thầy an tâm cho con. Tổ Đạt Ma bảo: đem tâm đây ta an cho. Nhị Tổ thưa: con t́m tâm không được. Tổ Đạt Ma đáp: ta đă an tâm cho ông rồi đó.
Vô Môn giải: Lăo già răng sĩ, mười muôn dăm rong thuyền vượt biển đến đây, có thể gọi là không có gió mà nổi sóng, cuối cùng gặp được một người lại bèn sáu căn chẳng đủ, chao ôi tạ ba chàng, không biết bốn chữ. Tụng rằng;
Tây đến chỉ thẳng,
Nhơn lời dặn khỏi,
Phá rối tùng lâm,
Nguyên do là thế.
42- CON GÁI XUẤT ĐỊNH
"Đức Thế Tôn, thuở xưa, nhơn Bồ Tát Văn Thù đến chỗ nhóm họp của chư Phật, gặp được chư Phật, mỗi vị đều về chỗ của ḿnh. Chỉ có một người nữ nhập tam muội gần ṭa vị Phật kia. Ngài Văn Thù liền thưa với Đức Thích Ca Thế Tôn: v́ sao người nữ ấy được gần ṭa Phật ấy mà con không được. Phật bảo Văn Thù: nếu ông muốn biết người nữ nầy, ông làm cho cô ta xuất định để hỏi th́ rơ. Đức Văn Thù đi quanh người nữ 3 ṿng dùng hết thần lực khảy móng tay một lần, vang đến phạm thiên, nhưng cô ấy không xuất định. Đức Thế Tôn bảo: dù cho trăm ngàn Văn Thù cũng không làm sao cho cô ấy xuất định. Ở phương dưới trải qua 112 ức hà sa quốc độ có Bồ Tát Vơng Minh có thể làm cô ấy xuất định. Trong giây lát, Đại Sĩ Vơng Minh từ phương dưới đến lễ bái đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Vơng Minh, ngài đến trước cô ấy khảy móng tay một lần, cô gái liền xuất định."
Vô Môn giải: Lăo già Thích Ca làm thực lộn xộn, không hiểu rằng Văn Thù là thầy của bảy Đức Phật, mà không gọi cô gái xuất định. Vơng Minh là Bồ Tát sơ địa mà gọi cô ta xuất định được, nếu nh́n vào trong ấy thấy rơ rằng nghiệp thức mênh mang na già đại định. Tụng rằng:
Kẻ xuất đặng người xuất không đặng,
Ta đây được tự do,
Đầu Thần và mặt quỷ,
Mất hết mới phong lưu.
43- LƯỢC TRE THỦ SƠN
"Ḥa Thượng Thủ Sơn cầm cây lược tre lên thị chúng rằng: mọi người các ông nếu kêu lược tre th́ chạm, không kêu lược tre th́ trái, vậy các ông kêu nó là cái ǵ?"
Vô Môn giải: Kêu lược tre là chạm, không kêu lược tre là trái, không được có lời, không được không lời, nói mau nói mau. Tụng rằng:
Cầm đưa lược tre,
Lệnh có sống chết,
Trái chạm bỏ đi,
Tổ sư được sống.
44- BA TIÊU CẦM GẬY
"Ḥa Thượng Ba Tiêu thị chúng: Ông có cây gậy nhỏ, ta cũng có cây gậy nhỏ, ông không có cây gậy nhỏ, v́ ta đă cướp cây gậy nhỏ của ông."
Vô Môn giải: Dẫn qua khúc cầu gảy, ban về xóm không trăng, nếu kêu làm gậy con, vào địa ngục tên bắn. Tụng rằng:
Các nơi sâu và cạn,
Đều ở trong ḷng tay,
Chống trời phải nắm đất,
Mỗi chỗ chấn tông môn.
45- HỌ THIỆU LÀ AI
"Đông Sơn Diễn Sư Tổ nói: Thích Ca và Di-Lặc đều là nô lệ của họ vậy ta nói họ là ai?"
Vô Môn giải: nếu thấy được họ sớm th́ như chữ thập đầu đường, vừa thấy ông cha tương tự, lại không cần hỏi người khác, nói phải hay không phải. Tụng rằng:
Cung người đừng kéo,
Ngựa người đừng cưởi,
Lỗi người đừng bàn,
Việc người đừng biết.
46- ĐẦU SÀO THÊM BƯỚC
Ḥa Thượng Thạch Sương dạy: đầu sào tre trăm thước phải thêm bước thế nào? Cổ Đức dạy:
Ngồi đầu trăm trượng kẻ nào hơn
Dù người làm được chẳng c̣n chơn
Trăm thước đầu sào thêm bước nữa
Mười phương thế giới hiện toàn thân.
Vô Môn giải: Tiến một bước, bay được thân, lo ǵ không chỗ để xưng tôn, dù nói như thế nhưng đầu sào trăm thước làm sao bước thêm ha! Tụng rằng:
Mắt mù không c̣n thấy,
Nhận lầm cao địa bàn,
Nghiêng ḿnh sẽ mất mạng,
Người mù dẫn đàn mù.
47- ĐÂU SUẤT BA CỬA
"Ḥa Thượng Đâu Suất duyệt lập ba quan để hỏi học giả: vạch cỏ t́m lư nhiệm mầu chỉ mong thấy tánh, nay các bậc thượng nhơn tánh tại chỗ nào, mà biết được tự tánh thoát sanh tử. Khi mắt đă nhắm rồi th́ làm sao thoát gọi là thoát được sanh tử, phải biết đi đến chỗ nào. Tứ đại chia ĺa nhắm chỗ nào đi."
Vô Môn giải: Nếu sau đó có thể thấy được 3 chuyển ngữ, liền có thể tùy theo chỗ mà làm chủ, gặp duyên là hiển tôn, nếu chưa được như thế th́ bửa ăn thô dễ no, nhai nhỏ lâu đói. Tụng rằng:
Một niệm quán khắp vô lượng kiếp,
Việc vô lượng kiếp giống hôm nay,
Như nay lui phá hết một niệm,
Lưu phá như thế thiệt người hay.
48- CÀN PHONG MỘT ĐƯỜNG
"Có vị tăng hỏi Ḥa Thượng Càn Phong: "Các Đức Phật trong mười phương có một con đường vào cửa niết bàn không biết đầu đường đó ở chỗ nào?" Càn Phong dơ cây gậy lên quay một ṿng nói: đầu đường ở trong ấy. Sau đó có người thuật và hỏi thiền sư Vân Môn. Vân Môn liền dựng cây quạt dậy nói: cây quạt nhảy thẳng lên cơi trời 33 đấp lên lỗ mũi Đế Thích, lúc ấy mưa tợ bồn nghiêng."
Vô Môn giải: Một người muốn vào chỗ sâu thẩm tận cùng của bể lại đi bưng nia sàng cát. Một người ở đỉnh núi cao đứng để sóng trắng ngập trời. Cầm một vật phóng ra đều chỉ có một tay giúp giữ tôn thừa, giống như hai con thoi chạy khua nhau. Ở đời không ai là người cứu kính. Nếu lấy mắt mà nh́n 2 vị đại lăo đều chưa biết đầu đường ở đâu. Tụng rằng:
Chưa dở chân lên thân đă tới,
Chưa động lưỡi co đă nói rồi,
Muốn biết thế nào là mấu chốt,
Lỗ nào hứng thượng thẳng lên ngồi.
Lời bạt:
Từ trước Phật Tổ dùng cơ duyên để chỉ bày căn cứ vào chỗ nghi mà kiến nghĩa. Trước tiên không dạy một lời, phơi bày gan ruột, chỉ rơ tṛng mắt, chỉ mong mọi người ngay trong đó mà nhận ra cái đó chính ḿnh, không thể t́m từ người khác.
Nếu là căn cơ bậc thượng, vừa nghe chuyển ngữ, biết rơ chỗ đến. Rơ ràng không có cửa để vào, cũng không thềm bậc để lần lên, bước thẳng vào cửa, không cần hỏi người. Đâu không thấy Huyền Sa thiền sư nói: Cửa của giải thoát là không có cửa, ư của người đạo là không ư. Bạch Vân thiền sư nói: biết đạo rơ ràng, chỉ cho coi cái đó là cái ǵ? Hiểu không thấu làm sao nói được. Thật là lấy đất đỏ thếp vào trâu mẹ. Nếu hiểu được cổng không có cửa, sớm biết để tâm vào vô môn, nếu không thấu được cổng vô môn cũng là chính cô phụ ḿnh. Nên nói: Tâm niết bàn dễ hiểu, trí sai biệt khó lường. Nếu hiểu được sai biệt trí th́ nhà nước tự an ninh.
Cháu tám đời của Thiền Sư Vô Môn
Tỳ Kheo Huệ Khai cẩn thức.