THÂN LOAN
親 鸞
GIÁO HÀNH TÍN CHỨNG
教 行 信 證
QUẢNG MINH dịch chú
Hiển Tịnh Độ Chân Thật Giáo Hành Chứng Văn Loại No. 2646
Lời Tựa
Trộm nghĩ, hoằng thệ không thể nghĩ bàn , là con thuyền vĩ đại vượt qua biển cả khó qua ; quang minh không ǵ chướng ngại, là mặt trời trí tuệ phá tan bóng tối vô minh. Thế th́, duyên tịnh độ được thành từ sự sinh khởi nghịch hại của tỳ-kheo Điều Đạt và thái tử A-xà-thế , nhân tịnh nghiệp được thuyết từ sự tuyển chọn An dưỡng của Đức Phật Thích Ca và hoàng hậu Vi-đề-hi . Đây là, ḷng nhân từ của sự quyền hóa nhằm cứu độ khắp chúng sinh khổ năo, tâm bi mẫn của bậc Thế Hùng muốn thương tưởng cả xiển-đề nghịch báng . Bèn biết, gia hiệu viên dung chí đức là chánh trí có khả năng chuyển ác thành đức , và Nan tín kim cương tín lạc có khả năng đoạn trừ hoài nghi , hoạch chứng chân lư. Như vậy, phàm phu dễ tu chân giáo, ngu độn dễ qua đường tắt. Giáo pháp Phật thuyết một đời, không sánh với biển đức như thế. [Những ai] bỏ uế ưa tịnh , hành tín sai lầm, tâm mê thức ít, ác nặng chướng nhiều, [th́] cậy nhờ Như Lai đưa đi , mong về đường thẳng tối thắng . Riêng kính vâng hành này, chỉ tôn trọng tín đây. Chao ôi! Cường duyên là hoằng thệ , ngàn đời không gặp; tịnh tín mà chân thật, muôn kiếp khó được. Gặp hành được tín, mừng do túc duyên. Vậy mà, luân hồi che lấp lưới nghi, lại c̣n trải qua nhiều kiếp. Quả thật, chân ngôn “nhiếp lấy không bỏ” , chánh pháp “siêu thế hy hữu”. Đừng ngần ngại lắng nghe và suy xét.
Ngu ngốc Thích Thân Loan.
Vui thay! Thánh điển nơi Tây Phồn, Nguyệt Chi Thầy giảng ở Đông Hạ, Nhật Thành Khó gặp nay được gặp Khó nghe đă được nghe. Kính tín chân tông giáo hành chứng Chỉ biết Như Lai công đức sâu. Đây vui những ǵ nghe được Và khen những ǵ có được.
Tiêu Đề
Kinh Đại Vô Lượng Thọ là giáo nghĩa chân thật của Chân tông Tịnh độ. 1. Hiển Chân Thật Giáo 2. Hiển Chân Thật Hành 3. Hiển Chân Thật Tín 4. Hiển Chân Thật Chứng 5. Hiển Chân Phật Độ 6. Hiển Hóa Thân Độ
(Một) Hiển Tịnh Độ Chân Thật Giáo Văn Loại
Ngu ngốc Thích Thân Loan biên tập.
(1) Kính xét, Tịnh độ Chân tông có hai thứ hồi hướng: 1. Văng tướng hồi hướng; 2. Hoàn tướng hồi hướng. Văng tướng hồi hướng có: chân thật giáo, chân thật hành, chân thật tín và chân thật chứng.
(2) Hiển bày “chân thật giáo” chính là Kinh Đại Vô Lượng Thọ. Đại ư kinh này là, Di Đà phát khởi thệ nguyện, mở rộng pháp tạng, thương xót phàm phu, trao cho trân bảo công đức; Thích Ca đản sinh thế gian, phát huy đạo giáo, muốn cứu quần sinh, ban cho lợi ích chân thật. Do vậy mà nói, “bản nguyện của Như Lai” là tông thú của Kinh, tức lấy “danh hiệu Phật” làm tự thể của Kinh vậy. Làm sao biết được “đại sự xuất hiện thế gian”?
(3) Kinh Đại Vô Lượng Thọ : “Bạch Đức Thế Tôn! Đức Thế Tôn hôm nay, các căn vui đẹp, thân tướng thanh tịnh, nét mặt lộng lẫy, như gương sáng bóng tịnh thấu suốt trong ngoài, uy dung rực rỡ, siêu tuyệt vô lượng, con chưa từng thấy sự thù diệu như thế. Kính bạch Đức Đại Thánh! Ḷng con nghĩ rằng: Có lẽ hôm nay Đức Thế Tôn trụ nơi Pháp kỳ đặc, hôm nay Đức Thế Hùng trụ chỗ chư Phật trụ, hôm nay Đức Thế Nhăn trụ nơi Hạnh của Đạo Sư, hôm nay Đức Thế Anh trụ nơi Đạo tối thắng, hôm nay Đức Thiên Tôn hành theo Đức của Như Lai. Chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại luôn nghĩ đến nhau. Phải chăng hôm nay Đức Như Lai đang nghĩ đến chư Phật? V́ sao có sự uy thần sáng chói như thế này?” “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Ngài A-nan rằng: Có phải chư Thiên nhờ ông đến hỏi Phật hay ông dùng tuệ kiến mà hỏi về uy nhan?” “Ngài A-nan bạch Phật rằng: Không phải chư Thiên đến nhờ con, chính con thấy biết mà hỏi việc đó.” “Phật dạy rằng: Lành thay, A-nan! Như Lai rất hoan hỷ với những ǵ ông hỏi. Ông phát trí tuệ sâu, biện tài chân diệu, thương nghĩ chúng sinh mà hỏi được việc đó. Như Lai đem ḷng đại bi vô tận, thương xót chúng sinh trong ba cơi, nên mới xuất hiện thế gian, khai sáng đạo giáo, muốn cứu vớt quần sinh, trao cho họ những lợi ích chân thật. Vô lượng ức kiếp khó gặp, khó thấy Như Lai, giống như hoa Linh Thoại thỉnh thoảng mới xuất hiện một lần. Nay những điều ông hỏi có nhiều lợi ích, khai hóa cho tất cả chư Thiên, nhân loại. A-nan nên biết, Như Lai Chánh Giác, trí ấy khó lường, nhiều sự huấn thị và chế ngự, tuệ kiến vô ngại, không thể ngăn dứt.”
(4) Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai nói: “Ngài A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Con thấy sắc diện của Như Lai rạng rỡ hiếm có, nên mới khởi ư niệm này, chẳng phải là do chư Thiên mách bảo.” “Đức Phật dạy Ngài A-nan: “Lành thay, lành thay! Nay ông mau mắn hỏi, khéo léo quan sát, biện tài vi diệu, hỏi được Như Lai việc như thế. Ông v́ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác - những bậc Vĩ Đại xuất hiện thế gian, an trụ đại bi, lợi ích quần sinh, như hoa Ưu Đàm hiếm khi xuất hiện – mà hỏi việc đó. Ông c̣n v́ thương xót và lợi lạc các hữu t́nh mà thưa hỏi Như Lai việc như thế.”
(5) Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác : “Đức Phật bảo Ngài A-nan: Như ở thế gian có cây Ưu-đàm-bát, chỉ có trái không có hoa; khi thế gian có Phật, chính là lúc hoa xuất hiện vậy. Thế gian có Phật, rất khó được gặp; nay Ta làm Phật, xuất hiện trong thiên hạ. Ông có đức lớn, thiện tâm thông minh, vin biết ư Phật, và không quên ở bên Phật hầu Phật. Nay ông có điều hỏi th́ hăy lắng nghe cho kỹ.”
(6) Sư Cảnh Hưng viết: “Hôm nay Đức Thế Tôn trụ nơi pháp kỳ đặc: Những tướng trạng xuất hiện bởi thần thông luân , không những khác thường mà cũng không ǵ so sánh, nên gọi kỳ đặc.” “Hôm nay Đức Thế Hùng trụ chỗ chư Phật trụ: Như Lai trụ tam muội B́nh đẳng của chư Phật, có khả năng chế ngự chúng ma và chư thiên hùng mạnh, nên trú chỗ Phật trú là nhân của danh hiệu Thế Hùng.” “Hôm nay Đức Thế Nhăn trụ nơi hạnh của Đạo Sư: Ngũ nhăn là hạnh của Đạo Sư. Phật trụ ngũ nhăn, nên sự dẫn dắt chúng sinh th́ không hạnh nào hơn được. Lấy hạnh của Đạo Sư để giải thích nghĩa Thế Nhăn.” “Hôm nay Đức Thế Anh trụ nơi đạo tối thắng: Phật trụ tứ trí, xuất chúng không ai bằng, nên lấy Đạo tối thắng mà lập tên Thế Anh.” “Hôm nay Đức Thiên Tôn hành theo đức của Như Lai: Thiên Tôn là Đệ nhất nghĩa thiên , để giải thích nghĩa ‘Phật tánh bất không’.” “A-nan nên biết, Như Lai Chánh Giác: Như Lai Chánh Giác, chính là ‘Pháp kỳ đặc’.” “Tuệ kiến vô ngại: Là tŕnh bày ‘Đạo tối thắng’.” “Không thể ngăn dứt: Tức là ‘Đức của Như Lai’.”
(7) Như vậy là minh chứng của hiển bày “chân thật giáo”. Quả thật, [Kinh Đại Vô Lượng Thọ] chánh thuyết về “Như Lai xuất hiện thế gian” , là diệu điển “kỳ đặc tối thắng” , là giáo nghĩa về “cứu cánh nhất thừa” , là lời vàng cho sự “mau chóng viên dung” , là lời thành thật được “mười phương [Phật] xưng tán” , là chân giáo cho “thời cơ thuần thục” , nên biết như vậy.
(Hai) Hiển Tịnh Độ Chân Thật Hành Văn Loại
Ngu ngốc Thích Thân Loan biên tập.
(1) Kính xét, văng tướng hồi hướng có đại hành, có đại tín. Đại hành, là xưng danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai. Hành này chính là nhiếp các thiện pháp, đủ cội công đức, mau chóng viên măn. Chân như nhất thật , công đức bảo hải , nên gọi là đại hành. Nhưng hành ấy xuất sinh từ đại bi nguyện, chính là nguyện mà “chư Phật xưng dương” , là nguyện mà “chư Phật xưng danh”, là nguyện mà “chư Phật tư ta” , cũng gọi là nguyện của “văng tướng hồi hướng”, cũng gọi là nguyện của “tuyển trạch xưng danh” .
(2) Về “chư Phật xưng danh nguyện”, Đại kinh nói: “Giả sử khi tôi thành Phật, mười phương vô lượng chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu của tôi th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.” (Nguyện 17)
(3) Lại nói: “Tôi đến lúc thành Phật Danh tiếng siêu mười phương Trọn có người chẳng nghe Thề chẳng thành Chánh giác. V́ chúng khai pháp tạng, Rộng ban báu công đức, Thường ở trong đại chúng, Thuyết pháp sư tử rống.” (4) Về “Nguyện thành tựu văn” , Đại kinh ghi: “Hằng sa chư Phật Như Lai mười phương đồng khen ngợi oai thần công đức bất khả tư nghị của Đức Vô Lượng Thọ Phật.”
(5) Lại nói: “Đức Vô Lượng Thọ Phật oai thần vô cực. Vô lượng vô biên bất khả tư nghị chư Phật Như Lai ở các thế giới mười phương, không đức Phật nào chẳng khen ngợi Vô Lượng Thọ Phật.”
(6) Lại nói: “Phật ấy có bản nguyện Nghe danh muốn văng sinh Đều được sinh nước ấy Ở bậc Bất thối chuyển.” (7) Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai nói: “Tôi đối Như Lai phát hoằng nguyện Khi tôi chứng Vô thượng bồ-đề Nếu không đầy đủ các nguyện trên Không lấy mười lực Đấng ai bằng Tâm không chịu thường hành bố thí Rộng cứu bần cùng ĺa các khổ Lợi ích thế gian khiến an lạc [Không thành Pháp vương vị cứu đời] … Tối thắng trượng phu tu hành rồi Làm phục tàng cho kẻ bần cùng Viên măn thiện pháp không ǵ hơn Ở trong đại chúng sư tử rống.”
(8) Lại nói: “Này A-nan! Do nghĩa lợi này, vô lượng vô số, bất khả tư nghị, không ai đồng đẳng, chư Phật Như Lai ở vô biên thế giới đều cùng khen ngợi những công đức của Vô Lượng Thọ Phật.”
(9) Kinh Phật Thuyết Chư Phật A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo nói: “Nguyện thứ tư: Giả sử khi tôi thành Phật, danh hiệu tôi vang khắp tám phương trên dưới vô số cơi Phật, khiến các thầy tỳ-kheo trong đại chúng của mỗi Đức Phật đều nói về công đức và sự tốt đẹp của nước tôi. Chư thiên, nhân dân và loài ḅ bay máy cựa nghe danh hiệu tôi đều khởi tâm từ, ai hoan hỷ phấn khởi đều khiến sinh về nước tôi. Được nguyện này tôi mới thành Phật, không được nguyện này tôi trọn không thành Phật.”
(10) Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác ghi: “[Nguyện thứ mười bảy:] Khi tôi thành Phật, danh hiệu tôi vang khắp tám phương trên dưới vô số cơi Phật. Chúng đệ tử của mỗi Đức Phật đều ca ngợi công đức và sự tốt đẹp của nước tôi. Chư thiên, nhân dân và loài máy động nghe danh hiệu tôi thảy đều phấn khởi sinh về nước tôi. Không được như vậy th́ tôi không thành Phật.” “[Nguyện thứ mười chín:] Khi tôi thành Phật, nhân dân ở cơi Phật phương khác mà đời trước có làm ác, nhưng nghe được danh hiệu tôi và chân chánh làm đạo, muốn sinh về nước tôi, khi thọ mạng hết sẽ không sinh trở lại ba đường ác, mà sinh về nước tôi theo sở nguyện nơi tâm. Không được như vậy th́ tôi không thành Phật.” “Thái tử A-xà-thế và năm trăm vị trưởng giả nghe hai mươi bốn lời nguyện của Vô Lượng Thanh Tịnh Phật đều rất hoan hỷ phấn khởi, thầm nguyện trong tâm: Nguyện cho chúng con sau khi thành Phật đều được như Phật Vô Lượng Thanh Tịnh Phật. Đức Phật biết ư nguyện của họ, bảo các thầy tỳ-kheo: Thái tử A-xà-thế và năm trăm vị trưởng giả này đến vô số kiếp sau sẽ được làm Phật, như Vô Lượng Thanh Tịnh Phật. Đức Phật dạy: Thái tử A-xà-thế và năm trăm vị trưởng giả này tu Bồ-tát đạo đến nay trải qua vô số kiếp, mỗi người đều đă cúng dường bốn trăm ức Đức Phật, nay lại đến cúng dường Ta. Thái tử A-xà-thế và năm trăm vị này, vào thời Ca Diếp Phật, họ là đệ tử của Ta, nay đều trở lại để gặp nhau. Các thầy Tỳ-kheo nghe Đức Phật dạy, ai cũng hoan hỷ phấn chấn.”
“Những ai nghe danh hiệu Phật Mau được lợi lớn, yên ổn Chúng ta được công đức này Những tốt đẹp ở cơi kia.” …
“Đức Vô Lượng Giác giải thích: Ta đời trước có bản nguyện Mọi người đă nghe thuyết pháp Đều mau sinh về nước Ta Sở nguyện Ta đều đầy đủ Người nước khác muốn sinh về Thảy được sinh về cơi này Một đời được bất thối chuyển.” …
“Họ có thể mau vượt đến Thế giới tên An Lạc quốc Cơi nước vô lượng ánh sáng Cúng dường nơi vô số Phật.” … “Người chưa có công đức ấy Không được nghe tên kinh này Chỉ người có giới thanh tịnh Mới đến nghe chánh pháp này.” … “Ác kiêu mạn, xấu giải đăi Khó thể tin vào pháp này Ai đời trước từng thấy Phật Ưa nghe lời dạy Thế Tôn.” … “Thân người hiếm có khó được Phật tại thế càng khó gặp Có tín tuệ vẫn chưa đủ Phải nghe thấy, tinh tiến cầu. Nghe pháp ấy mà không quên Tôn kính pháp được vui lớn Là bạn thân Ta xưa kia V́ vậy mà phát đạo ư . Dẫu thế giới đầy lửa cháy Quyết vượt qua để nghe pháp Nhất định sẽ thành Thế Tôn Thoát tất cả sinh già chết.”
(11) Kinh Bi Hoa, phẩm Bồ Tát Bản Thọ Kư nói: “Nguyện khi con thành ngôi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, ở vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thế giới Phật khác, có chúng sinh nào nghe danh hiệu của con mà tu các căn bản thiện , muốn sinh về thế giới của con, nguyện cho họ sau khi xả bỏ thân mạng, nhất định được sinh về, chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch, hủy báng Thánh nhân, phế bỏ và phá hoại chánh pháp.”
(12) Như vậy, xưng danh có thể phá trừ tất cả vô minh của chúng sinh, có thể thành măn mọi chí nguyện của chúng sinh. Xưng danh là chánh nghiệp chân diệu tối thắng . Chánh nghiệp là niệm Phật. Niệm Phật th́ là “Nam mô A Di Đà Phật”. “Nam mô A Di Đà Phật” chính là chánh niệm vậy.
(13) Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa nói: “Có người nói: Bát-chu tam-muội và đại bi là nhà của chư Phật. Từ hai pháp này sinh ra chư Như Lai, trong đó, bát-chu tam-muội là cha, đại bi là mẹ. Lại nữa, bát-chu tam-muội là cha, vô sinh pháp nhẫn là mẹ. Như trong Trợ Bồ-đề có nói:
Cha bát-chu tam-muội Mẹ đại bi vô sinh Tất cả chư Như Lai Từ hai pháp này sinh.
Nhà không có lỗi lầm là nhà thanh tịnh. Thanh tịnh nghĩa là sáu Ba-la-mật, bốn công đức xứ ; phương tiện và Bát-nhă Ba-la-mật; thiện pháp và trí tuệ; bát-chu tam-muội, đại bi và các nhẫn, đều là các pháp thanh tịnh, không có lỗi lầm, nên gọi là nhà thanh tịnh. Bồ-tát lấy các pháp này làm nhà cho nên không có lỗi lầm. Chuyển thế gian đạo nhập xuất thế thượng đạo: Thế gian đạo, là đạo mà hàng phàm phu thực hành. Chuyển, là dừng lại. Phàm phu đạo th́ không thể cứu cánh đến Niết-bàn. Thường qua lại trong sinh tử, đó là phàm phu đạo. Xuất thế gian, là do đạo ấy mà được thoát ly ba cơi, nên gọi là xuất thế gian đạo. Thượng, là diệu, nên gọi là thượng. Nhập, là chánh hành đạo, nên gọi là nhập. Dùng tâm này đi vào sơ địa, gọi là Hoan hỷ địa.
Hỏi: Sao gọi địa thứ nhất là địa Hoan hỷ? Đáp: Như được nơi Sơ quả Cứu cánh đến Niết-bàn Bồ tát được địa này Tâm thường nhiều hoan hỷ Tự nhiên được tăng trưởng Chư Phật Như Lai chủng Thế nên người như đây Được gọi bậc Hiền thiện.
Như được nơi Sơ quả: là như người được Tu-đà-hoàn đạo, khéo đóng cửa “ba ác đạo”, thấy pháp, nhập pháp, đắc pháp, trú pháp kiên cố, không ǵ khuynh động, cứu cánh đến Niết-bàn. Đoạn pháp sở đoạn bởi kiến đế, nên tâm rất hoan hỷ. Giả sử c̣n thụy miên, giăi đăi cũng không đi đến hai mươi chín hữu . Như lấy một sợi lông chia làm trăm phần, rồi lấy một phần lông đă chia nhúng vào nước biển cả, chỉ được vài giọt nước. Khổ đă diệt th́ như nước biển cả, khổ chưa diệt th́ như vài giọt nước. Tâm rất hoan hỷ, Bồ tát như vậy đắc Sơ địa rồi, gọi là sinh vào nhà Như Lai, được tất cả trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Phạm vương, Thiên vương, Sa-môn, Bà-la-môn và hết thảy Thanh văn, Bích-chi Phật cùng nhau cúng dường cung kính. V́ sao? V́ nhà này không có lỗi lầm. Chuyển thế gian đạo nhập xuất thế gian đạo, chỉ ưa cung kính chư Phật, được bốn công đức xứ, được cảm thọ quả báo của sáu Ba-la-mật. Không đoạn chủng tử của chư Phật cho nên tâm rất hoan hỷ. Bồ tát này có cái khổ sót lại bằng hai ba giọt nước, tuy trải qua trăm ngàn ức kiếp đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhưng đối với cái khổ sinh tử từ vô thỉ, chỉ như vài giọt nước, những cái khổ đă diệt trừ th́ giống như nước biển cả. Thế nên, địa này gọi là Hoan Hỷ.” (…)
“Hỏi: Bồ-tát Sơ Hoan Hỷ địa, ở trong địa này gọi là nhiều hoan hỷ, là v́ có được các công đức nên hoan hỷ, hay là v́ thích ứng địa pháp mà hoan hỷ? Lấy ǵ mà hoan hỷ? Đáp: Thường niệm về chư Phật Về đại pháp chư Phật Tất định, hành hiếm có Cho nên nhiều hoan hỷ.
Đại loại những nhân duyên hoan hỷ như vậy, Bồ-tát ở Sơ địa có nhiều hoan hỷ trong tâm. Niệm chư Phật: Là niệm chư Phật quá khứ như Nhiên Đăng Phật, v.v., chư Phật hiện tại như A Di Đà Phật, v.v., chư Phật tương lai như Di Lặc Phật. v.v. Thường niệm chư Phật Thế Tôn như vậy, như ở trước mắt. Phật là bậc Vô Năng Thắng, bậc đệ nhất trong tam giới, thế nên [niệm Phật th́] “nhiều hoan hỷ”. Niệm đại pháp của chư Phật: Đại pháp là nói tắt cho bốn mươi pháp bất cộng của chư Phật, đó là: 1. Tự tại phi hành tùy ư; 2. Tự tại biến hóa vô biên; 3. Tự tại nghe biết vô ngại; 4. Tự tại dùng vô lượng chủng môn biết tâm của tất cả chúng sinh, v.v. [Những pháp như vậy sau sẽ nói rộng.] Niệm Tất định của Bồ-tát: Bồ-tát được thọ kư quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác th́ nhập Pháp vị, được Vô sinh pháp nhẫn, ngàn vạn ức số ma quân không thể quấy rối, phá hoại, được tâm đại bi, thành pháp đại nhân , không tiếc thân mạng v́ được Bồ đề, cần hành tinh tiến. Đây gọi là niệm Tất định của Bồ tát. Niệm hành hiếm có: Niệm hành hiếm có bậc nhất của Bồ-tát được Tất định mà tâm hoan hỷ. Đó là địa vị mà tất cả phàm phu không thể đạt được, là địa vị mà tất cả Thanh văn và Bích-chi Phật không thể thực hành, nó khai thị “pháp của Phật là vô ngại giải thoát bằng Tát-bà-nhă trí ”. Lại niệm về các pháp sở hành của mười địa, gọi là “tâm nhiều hoan hỷ”. Thế nên, Bồ-tát được nhập Sơ địa gọi là Hoan Hỷ.
Hỏi: Có người phàm phu chưa phát tâm Vô thượng đạo, hoặc người có phát tâm mà chưa được Hoan Hỷ địa, người này niệm chư Phật và đại pháp của Chư Phật, niệm Tất định của Bồ tát và hành hiếm có, mà được hoan hỷ. Bồ tát Sơ địa được hoan hỷ cùng với người này [được hoan hỷ] có ǵ khác biệt? Đáp: Bồ tát được Sơ địa Trong tâm nhiều hoan hỷ Chư Phật vô lượng đức Tôi nhất định sẽ được.
Bồ-tát Tất định ở Sơ địa niệm chư Phật có vô lượng công đức, “Tôi ắt sẽ được sự như vậy.” V́ sao? “Tôi đă được Sơ địa này, nhập vào Tất định, người khác không có tâm này”, v́ vậy Bồ-tát ở Sơ địa tâm nhiều hoan hỷ, người khác không được vậy. V́ sao? Người khác dù niệm chư Phật, nhưng không thể khởi niệm này: “Tôi nhất định sẽ làm Phật.” Thí như Thánh tử Chuyển Luân sinh trong nhà của Chuyển Luân Vương, thành tựu tướng Chuyển Luân Vương, nghĩ đến công đức của Chuyển Luân Vương ở quá khứ, tôn kính khởi niệm: “Nay tôi cũng có tướng này, cũng sẽ được giàu có tôn quư như vậy”, trong tâm rất hoan hỷ. Người không có tướng Chuyển Luân Vương th́ không có niềm vui như vậy. Bồ-tát Tất định niệm chư Phật và công đức lớn lao, oai nghi, tôn quư của chư Phật, [khởi niệm:] “Tôi có tướng này, ắt sẽ làm Phật”, ngay lúc ấy vô cùng hoan hỷ, người khác không có sự này. Định tâm, là thâm nhập pháp của Phật mà tâm không lay động.” (…)
(14) “Tín lực tăng thượng: Tín, là những ǵ thấy nghe th́ nhất định tiếp nhận không nghi ngờ. Tăng thượng, là thù thắng. Hỏi: Có hai loại tăng thượng: 1. Nhiều; 2. Thắng. Nay nói về loại nào? Đáp: Ở đây nói đến cả hai loại. Bồ tát nhập Sơ địa th́ có được mùi vị của các công đức, cho nên tín lực chuyển tăng thượng. Dùng tín lực này tính toán công đức vô lượng thâm diệu của chư Phật mà có thể tin nhận, th́ tâm này vừa nhiều vừa thắng. Thực hành sâu xa tâm Đại bi: Thương xót nghĩ nhớ chúng sinh đến tận cùng xương tủy, nên gọi là sâu xa. V́ tất cả chúng sinh mà cầu Phật đạo, nên gọi là Đại. Tâm từ, là thường cầu sự lợi ích và an ổn chúng sinh. Tâm từ có ba loại .” (…)
(15) “Pháp của Phật có vô lượng môn. Như ở thế gian, đường đi có khó có dễ, đường bộ đi bộ vất vả, đường thủy ngồi thuyền an vui. Bồ-tát đạo cũng như vậy, có pháp cần hành tinh tiến, cũng có pháp lấy đức tin làm phương tiện, dễ dàng thực hành, nhanh chóng đến A-duy-việt-trí địa.” (…) “Có người mau muốn đến Địa vị Bất thối chuyển Phải đem tâm cung kính Chấp tŕ xưng danh hiệu.” “Nếu Bồ-tát muốn ngay thân này đến được A-duy-việt-trí địa, thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, th́ nên nghĩ nhớ chư Phật mười phương và xưng niệm danh hiệu. Như trong phẩm A-duy-việt-trí của kinh Bảo Nguyệt Đồng Tử Sở Vấn, nói: (…) ” “Tây phương Thiện thế giới Phật hiệu Vô Lượng Minh Thân sáng trí tuệ ngời Chiếu rọi không ngằn mé Có người nghe Phật danh Liền được bất thối chuyển. (…) Quá khứ vô số kiếp Có Phật hiệu Hải Đức Chư hiện tại Phật này Đều từ kia phát nguyện Thọ mạng vô số lượng Ánh sáng chiếu vô cực Quốc độ rất thanh tịnh Nghe danh chắc làm Phật Nay hiện tại mười phương Đầy đủ thành mười lực Cho nên cúi đầu lễ Tối tôn trong người trời.”
“Hỏi: Chỉ nghe danh hiệu mười Đức Phật này rồi chấp tŕ trong tâm, th́ được bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hay là c̣n có danh hiệu Đức Phật khác, danh hiệu Bồ-tát khác đưa đến A-duy-việt-trí chăng? Đáp: A Di Đà chư Phật Và các đại Bồ-tát Xưng danh nhất tâm niệm Cũng được bất thối chuyển.
C̣n có chư Phật như A Di Đà Phật, v.v. cũng nên cung kính, lễ bái, xưng danh hiệu các Ngài. Nay sẽ nói đầy đủ: Vô Lượng Thọ Phật, Thế Tự Tại Vương Phật, (…) Chư Phật Thế Tôn này, hiện tại an trú nơi các thế giới thanh tịnh khắp mười phương, đều xưng niệm danh hiệu và nhớ nghĩ đến bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà như vầy: “Nếu người nào xưng niệm danh hiệu của ta và nương tựa vào đó, liền nhập Tất định, chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” V́ vậy phải thường nghĩ nhớ, bằng kệ xưng tán: Vô lượng quang minh tuệ Thân như núi vàng ṛng Nay con thân miệng ư Chắp tay cúi đầu lạy. (…) Người luôn niệm Phật này Vô lượng lực oai đức Tức thời nhập Tất định Cho nên con thường niệm. (…) Nếu ai nguyện làm Phật Tâm niệm A Di Đà Hợp thời Ngài hiện thân Cho nên con quy mạng. Bản nguyện lực Phật kia Các Bồ-tát mười phương Đến cúng dường nghe pháp Cho nên con cúi đầu. (…) Nếu người trồng thiện căn Nghi th́ hoa không nở Người tín tâm thanh tịnh Hoa nở th́ thấy Phật. Mười phương hiện tại Phật Dùng đủ loại nhân duyên Khen công đức Phật kia Con nay quy mạng lễ. (…) Ngồi thuyền Bát chánh đạo Vượt qua biển khó vượt Tự độ cũng độ người Con lễ lạy bậc Tự Tại . Chư Phật vô lượng kiếp Ca ngợi công đức Phật Hăy c̣n không thể hết Quy mạng bậc Thanh Tịnh. Nay con cũng như vậy Xưng tán vô lượng đức Nhờ nhân duyên phước này Nguyện Phật thường nhớ con. ” (…)
(16) Tịnh Độ Luận ghi: “Con y Tu-đa-la Tướng công đức chân thật Thuyết nguyện kệ tổng tŕ Tương ưng lời Phật dạy. (…) Quán Phật bản nguyện lực Người gặp không luống uổng Khiến mau được đầy đủ Biển đại bảo công đức.”
(17) Lại nói: “Bồ-tát nhập bốn chủng môn , hạnh tự lợi thành tựu, nên biết. Bồ-tát xuất môn thứ năm , hạnh lợi ích tha hồi hướng thành tựu, nên biết. Bồ-tát tu năm môn hành như vậy, tự lợi, lợi tha, mau chóng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”
(18) Tịnh Độ Luận Chú nói: “Thận trọng khảo xét, Thập Trụ Tỳ-bà-sa của Bồ-tát Long Thọ có nói: Bồ-tát cầu A-b́-bạt-trí th́ có hai loại đạo: 1. Nan hành đạo; 2. Dị hành đạo. Nan hành đạo: Ở trong thời kỳ đầy cả năm thứ vẩn đục, lúc không có Phật, cầu A-b́-bạt-trí là khó. Cái khó ở đây lại có nhiều mặt, nói sơ có năm ba mặt để biểu thị nghĩa ư: 1. Ngoại đạo tu tương tợ thiện làm nhiễu loạn pháp của Bồ-tát; 2. Hạnh tự lợi của Thanh văn làm chướng ngại đại từ bi; 3. Kẻ ác vô cớ phá hoại thắng đức của người khác; 4. Quả thiện điên đảo có thể hủy hoại Phạm hạnh; 5. Chỉ nhờ tự lực chứ không nương vào tha lực. Những sự thể ấy được nh́n thấy khắp nơi. Thí như đường bộ, đi bộ th́ khổ. Dị hành đạo: Chỉ lấy nhân duyên tín Phật để nguyện sinh Tịnh độ. Nương nguyện lực của Phật th́ được văng sinh cơi thanh tịnh kia, rồi nhờ Phật lực nắm giữ an trú liền nhập chánh định tụ của Đại thừa. Chánh định tức là A-b́-bạt-trí. Thí như đường thủy, đi thuyền th́ vui. Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá này là tột đỉnh của Đại thừa, là con thuyền xuôi gió nên không thoái lui. Vô Lượng Thọ là biệt hiệu của Như Lai ở Tịnh độ An Lạc. Thích Ca Mâu Ni Phật tại thành Vương Xá và nước Xá Vệ , ở giữa đại chúng, ca ngợi công đức trang nghiêm của Vô Lượng Thọ Phật, tức lấy danh hiệu Phật làm thể của kinh. Bậc Thánh về sau là Bồ-tát Bà-tẩu-bàn-đầu, ghi nhớ trong ḷng lời dạy đại bi của Như Lai, viết ra ‘Kệ nguyện sinh’ phụ vào kinh.”
(19) Lại nói: “Sở nguyện không được xem nhẹ, nếu Như Lai chẳng thêm oai thần, th́ lấy ǵ để đạt? Cầu xin thần lực gia tŕ của Như Lai, cho nên ‘Kính thưa’. Con nhất tâm: Là lời ‘tự đốc’ của Bồ-tát Thiên Thân. Nhất tâm là xưng niệm Vô Ngại Quang Như Lai, nguyện sinh An Lạc, tâm tâm tương tục, không có ư tưởng nào khác xen tạp. (…) Quy mạng hết mười phương, Vô ngại Quang Như Lai: Quy mạng, tức là Lễ bái môn. Tận thập phương Vô Ngại Quang Như Lai, tức là Tán thán môn. Làm sao biết ‘quy mạng’ là ‘lễ bái’? Bồ-tát Long Thọ tạo ‘A Di Đà Như Lai Tán’ , trong đó hoặc nói ‘cúi đầu lạy’ , hoặc nói ‘con quy mạng’ , hoặc nói ‘quy mạng lễ’ . Trong phần trường hàng của luận này, cũng nói về sự tu Năm niệm môn. Trong Năm niệm môn, lễ bái là một. Bồ-tát Thiên Thân đă nguyện văng sinh, lẽ nào không có ‘lễ bái’. V́ thế mà biết, ‘quy mạng’ tức là ‘lễ bái’. Song lễ bái chỉ là cung kính, chưa hẳn là quy mạng, c̣n quy mạng th́ ắt là lễ bái. Nếu suy theo đó, th́ quy mạng quan trọng hơn. Dùng kệ tụng để bày tỏ ḷng ḿnh, đương nhiên nói ‘quy mạng’. (C̣n) Luận giải về nghĩa của kệ tụng, đại để nói là ‘lễ bái’. Quy mạng và lễ bái làm thành cho nhau, ư nghĩa càng trọn vẹn. Làm sao biết ‘[Quy mạng] hết mười phương, Vô Ngại Quang Như Lai’ là Tán thán môn? Phần trường hàng ở sau có nói: ‘Thế nào là tán thán? Là khẩu nghiệp tán thán: xưng danh hiệu của Như Lai kia ngang qua ‘quang minh trí tướng’ của Như Lai kia, cùng ư nghĩa của danh hiệu ấy, muốn như thật tu hành tương ưng.’” (…) “Ở đây Bồ-tát Thiên Thân nói ‘[Quy mạng] hết mười phương, Vô Ngại Quang Như Lai’, tức là y theo danh hiệu của Như Lai kia, ngang qua ‘quang minh trí tướng’ của Như Lai kia mà tán thán, v́ vậy mà biết câu này là Tán thán môn. Nguyện sinh nước An Lạc, một câu này là Tác nguyện môn, là ư ‘quy mạng’ của Bồ-tát Thiên Thân vậy.” [Nghĩa của ‘An Lạc’ sẽ được nói đầy đủ ở phần Quán sát môn.]
Hỏi: Trong các kinh luận Đại Thừa, chỗ nào cũng nói chúng sinh hoàn toàn vô sinh như hư không, tại sao Bồ-tát Thiên Thân lại nói ‘nguyện sinh’? Đáp: Nói ‘chúng sinh vô sinh như hư không’, có hai loại: 1. Phàm phu được xem là ‘chúng sinh thật có’, và cái thấy của phàm phu là ‘sinh tử thật có’. Hai sự thể này hoàn toàn là ‘vô sở hữu’, như lông rùa, như hư không ; 2. Nói rằng ‘các pháp do nhân duyên sinh’, cho nên chúng là ‘bất sinh’, ‘vô sở hữu’, như hư không. Bồ-tát Thiên Thân đă ‘nguyện sinh’, đó là nghĩa ‘nhân duyên’. Do nghĩa ‘nhân duyên’, nên chỉ là ‘giả danh’ mà sinh, chẳng phải như phàm phu cho rằng ‘chúng sinh thật có’, ‘sinh tử thật có’.
Hỏi: Y theo nghĩa nào mà nói ‘văng sinh’? Đáp: Ở thế gian này, con người giả danh tu Năm niệm môn, niệm trước làm nhân cho niệm sau. Người giả danh ở uế độ và người giả danh ở tịnh độ, không quyết định cả hai là một, không quyết định cả hai là khác. Tâm trước và tâm sau cũng y như vậy. V́ sao? Nếu là một th́ không có nhân quả, nếu là khác th́ chẳng có tương tục. Nghĩa này trong Luận [Thập Nhị Môn], chương Quán Nhất Dị Môn có giải thích uyển chuyển. Hàng thứ nhất [được giải thích] qua ba niệm môn xong.
Con y Tu-đa-la, Tướng công đức chân thật, Thuyết nguyện kệ tổng tŕ, Tương ưng lời Phật dạy: (…) Y vào đâu? Tại sao y? Y thế nào? Y vào đâu là y vào Tu-đa-la. Tại sao y là bởi v́ Như Lai chính là tướng công đức chân thật. Y thế nào là tu tập tương ưng Năm niệm môn. (…) Tu-đa-la: Phần trực thuyết trong mười hai bộ kinh gọi là Tu-đa-la, nghĩa là bốn bộ A-hàm, Tam tạng các thứ. Các kinh Đại thừa ngoài Tam tạng cũng gọi là Tu-đa-la. Ở đây nói, ‘y Tu-đa-la’ là [y theo] Tu-đa-la của Đại thừa ngoài Tam tạng, không phải các kinh A-hàm. Tướng công đức chân thật: Có hai loại công đức: 1. Từ tâm hữu lậu mà sinh, không thuận pháp tánh, cái gọi là các thiện của phàm phu nhân thiên. Các quả báo của nhân thiên, mặt nhân mặt quả, đều là điên đảo, đều là hư dối, nên gọi là ‘công đức không thật’ ; 2. Từ trí tuệ của Bồ-tát mà nghiệp thanh tịnh hiện khởi để trang nghiêm Phật sự, y theo pháp tánh mà thể nhập tướng thanh tịnh. Pháp này không điên đảo, không hư dối, gọi là ‘công đức chân thật’. Thế nào là không điên đảo? Là y theo pháp tánh, thuận theo hai đế. Thế nào là không hư dối? Là nhiếp hóa chúng sinh, nhập tất cánh tịnh . Thuyết nguyện kệ tổng tŕ, Tương ưng lời Phật dạy: Tŕ, là không buông không mất. Tổng, là lấy ít nhiếp nhiều. Kệ, là số câu năm chữ. Nguyện, là ưa thích văng sinh. Thuyết, là nói các kệ luận. Tựu chung lại, nói ra các kệ nguyện văng sinh, tổng tŕ kinh Phật, tương ưng với lời dạy của Đức Phật. Tương ưng, là ví như hộp nắp tương xứng vậy.” (…) “Thế nào là hồi hướng? Không bỏ tất cả chúng sinh khổ năo, tác nguyện hồi hướng làm đầu, v́ được thành tựu tâm đại bi: Hồi hướng có hai thứ tướng: 1. Văng tướng; 2. Hoàn tướng. Văng tướng, là đem công đức của ḿnh hồi thí cho tất cả chúng sinh, phát nguyện cùng nhau văng sinh tịnh độ An Lạc của A Di Đà Như Lai.”
(20) An Lạc Tập viết: “Kinh Quán Phật Tam-muội nói: Khuyên phụ vương thực hành niệm Phật tam-muội: ‘Phụ vương bạch Phật: V́ sao mà Phật chẳng dạy đệ tử thực hành Quả đức của Phật địa, Chân như thật tướng, Đệ nhất nghĩa Không? Phật bảo phụ vương: Quả đức của chư Phật có vô lượng cảnh giới thâm diệu, thần thông giải thoát, không phải là cảnh giới thực hành của người phàm, v́ thế nên khuyên phụ vương thực hành niệm Phật tam-muội. Phụ vương bạch Phật: Công năng niệm Phật trạng thái nó như thế nào? Phật bảo: Này Phụ vương! Trong rừng Y lan rộng lớn bốn mươi do tuần, có một gốc Ngưu đầu Chiên đàn, tuy có rễ chồi nhưng chưa mọc lên, th́ rừng Y lan ấy chỉ hôi thối chẳng thơm. Nếu người ăn nhằm hoa quả của cây Y lan th́ phát cuồng mà chết. Lúc sau, rễ chồi của cây Chiên đàn dần dần tăng trưởng, khi nó vừa sắp trở thành cây to th́ mùi thơm đă nồng sực, có thể biến đổi cả khu rừng ấy trở thành thơm tho. Chúng sinh trông thấy đều sinh tâm hy hữu. Phật bảo phụ vương: Tâm niệm Phật của tất cả chúng sinh trong sinh tử cũng giống như vậy. Chỉ cần buộc niệm chẳng dừng th́ ắt được sinh trước Phật. Một khi được văng sinh th́ biến đổi được tất cả điều ác thành đại từ bi, giống như loại cây thơm tho kia biến đổi cả rừng Y lan.’
Rừng Y lan vừa nói dụ cho ba độc, ba chướng, vô biên trọng tội trong thân chúng sinh. Chiên đàn dụ cho tâm niệm Phật của chúng sinh. Sắp trở thành cây to, là nói tất cả chúng sinh chỉ cần tích góp niệm Phật không ngưng th́ nghiệp đạo chắc được thành tựu.
Hỏi: Nếu xét công niệm Phật của tất cả chúng sinh th́ có thể hiểu hết được. V́ sao sức của một niệm lại có thể đoạn được tất cả các chướng, giống như một cây có mùi thơm lại biến đổi được cả khu rừng Y lan rộng đến bốn mươi do tuần trở thành thơm tho? Đáp: Căn cứ theo các bộ kinh Đại thừa, niệm Phật có công năng không thể nghĩ bàn. V́ sao? Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Ví như có người dùng gân sư tử làm dây đàn cầm, khi âm thanh vừa tấu lên th́ các loại dây đàn khác đều bị lắng xuống.” Nếu ai dùng tâm Bồ-đề hành Niệm Phật tam-muội th́ hết thảy phiền năo, hết thảy các chướng đều bị đoạn diệt.
“Cũng như có người đem đổ lẫn hết thảy các loại sữa: ḅ, dê, lừa, ngựa trong một đồ đựng; nếu đem một giọt sữa sư tử nhỏ vào th́ sữa sư tử sẽ xuyên suốt qua không bị ngăn trở, hết thảy các thứ sữa khác thảy đều bị hư nát, biến thành nước lă.” Nếu ai dùng tâm Bồ-đề hành Niệm Phật tam muội th́ sẽ vượt qua hết thảy ác ma, các chướng không bị trở ngại. Kinh ấy lại c̣n dạy: “Ví như có kẻ dùng thuốc ẩn thân du hành khắp nơi, hết thảy kẻ khác chẳng thấy được kẻ ấy.” Nếu ai có thể dùng tâm Bồ Đề hành Niệm Phật tam muội th́ hết thảy ác thần, hết thảy các chướng chẳng thấy được người ấy. Người ấy muốn đến đâu cũng không ai ngăn cản được, huống hồ là có thể gây chướng! V́ sao như vậy? Niệm Phật tam muội đây chính là vua của hết thảy các tam muội vậy.” (…)
(21) Lại nói: “Như trong Ma-ha-diễn nói: “Các tam muội khác chưa phải là tam muội. V́ sao? Là v́ có tam muội chỉ trừ được tham, chẳng trừ được sân si. Hoặc có tam muội chỉ trừ được sân, chẳng trừ được tham si. Hoặc có tam muội chỉ trừ được si, chẳng trừ được tham sân. Hoặc có tam muội chỉ trừ được chướng hiện tại, chẳng trừ được quá khứ, vị lai hết thảy các chướng.” Nếu hay thường tu niệm Phật tam muội th́ chẳng luận là quá khứ, hiện tại hay vị lai, hết thảy các chướng đều trừ được cả.”
(22) Lại nói: “Đại Kinh ca ngợi: Nếu nghe A Di Đà đức hiệu Hoan hỷ tán ngưỡng tâm quy y Chỉ trong một niệm được lợi lớn Là v́ đầy đủ báu công đức. Dù lửa khắp đại thiên thế giới Cũng phải vượt qua nghe Phật danh Nghe A Di Đà chẳng lui sụt Cho nên chí tâm cúi đầu lạy.”
(23) Lại nói: “Lại như kinh Mục Liên Sở Vấn chép: “Phật bảo Mục Liên: Ví như ngàn sông chảy mạnh, có những cỏ cây nổi trôi, trước chẳng đoái sau, sau chẳng màng trước, mà đều hội tụ biển cả.” Thế gian cũng vậy, dẫu là kẻ quyền thế, sang cả, người giàu vui tự tại, nhưng đều chẳng thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết. Chỉ v́ chẳng tin kinh Phật, đời sau làm người càng khốn khổ dữ dội, chẳng thể sinh về ngàn quốc độ Phật. V́ thế, tôi nói: cơi Phật Vô Lượng Thọ dễ qua, dễ đạt mà con người chẳng chịu tu hành văng sinh, lại chạy theo chín mươi lăm thứ tà đạo. Tôi nói kẻ ấy là kẻ không mắt, là kẻ không tai. Kinh giáo đă như vậy, sao chẳng bỏ cái khó để nương theo cái đạo dễ hành!”
(24) Ḥa thượng chùa Quang Minh dạy: “Kinh Văn Thù Bát-nhă nói: “Muốn rơ Nhất hành tam-muội, chỉ khuyên ở một ḿnh nơi thanh vắng, xả bỏ ư tưởng tạp loạn, buộc tâm vào một vị Phật, không quán tưởng tướng mạo, chuyên tâm xưng niệm danh hiệu, th́ trong một niệm thấy được Đức Phật A Di Đà, cùng tất cả Phật.”
Hỏi: Tại sao không khuyên tu pháp quán tưởng, mà lại khuyên tu pháp xưng niệm danh hiệu, là có ư ǵ? Đáp: Đây là do chúng sinh chướng nặng, cảnh tế tâm thô, thức nhảy thần bay, tu quán khó thành tựu. V́ vậy Đại Thánh [A Di Đà] từ bi thương xót, chỉ khuyên chuyên xưng danh hiệu, bởi v́ xưng danh th́ dễ, tương tục liền sinh.
Hỏi: Đă khuyên chuyên xưng một vị Phật, tại sao cảnh hiện thành nhiều? Đây phải chăng là tà chánh giao nhau, một nhiều xen hiện? Đáp: Mỗi vị Phật chứng đắc như nhau, biểu hiện không khác nhau, cho dù niệm một Phật mà thấy nhiều Phật, cũng đâu có ǵ trái ngược với đại đạo lư! Hơn nữa, kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Phật khuyên khi tọa quán, lễ niệm, v.v. tốt nhất phải xoay mặt về hướng Tây, giống như cây nghiêng về hướng nào th́ sẽ ngă về hướng đó. Trong trường hợp có trở ngại, không thể hướng về Tây, th́ nên tác tưởng hướng Tây cũng được.”
Hỏi: Tất cả chư Phật đồng chứng ba thân; quả bi trí viên măn cũng nên không hai. Hành giả tùy lúc lễ niệm, thời khóa xưng danh một vị Phật đều được văng sanh. Tại sao lại chỉ tán thán Tây phương, khuyên chuyên lễ niệm, xưng danh, là có nghĩa ǵ? Đáp: Sở chứng của chư Phật đều b́nh đẳng như nhau. Xét theo nguyện và hành mà nói, chẳng phải không có nhân duyên. Như A Di Đà Thế Tôn vốn đă phát thệ nguyện sâu nặng, dùng quang minh và danh hiệu để nhiếp hoá mười phương, chỉ muốn chúng sinh tín tâm, cầu sinh, xưng niệm. Niệm Phật một đời , cho đến mười niệm, một niệm, do nguyện lực của Phật mà dễ được văng sinh. Đó là lư do Đức Thích Ca và chư Phật đều khuyên hướng Tây phương, và đó là sự khác biệt. Đây chẳng phải là xưng niệm Đức Phật khác th́ không thể trừ chướng, diệt tội. Nên biết như vậy. Nếu như có thể hành tŕ như trên, niệm niệm tương tục, trọn hết một đời, th́ chắc chắn mười người tu, mười người văng sinh, trăm người tu, trăm người văng sinh. V́ sao? V́ không có tạp duyên nào khác, cho nên được chánh niệm, được tương ưng với bản nguyện của Phật, không đi ngược với giáo lư, và tùy thuận lời dạy của Phật.”
(25) Lại nói: “[Đức Phật ấy có ánh sáng vô lượng, chiếu soi khắp cả quốc độ mười phương, không bị chướng ngại,] chỉ quán sát chúng sinh niệm Phật, nhiếp lấy không bỏ, nên danh hiệu của Ngài là A Di Đà.”
(26) Lại nói: “Biển trí nguyện Di Đà Rộng sâu không bờ đáy Nghe tên muốn văng sinh Thảy đều đến nước kia. (…) Dù lửa đầy Đại thiên Vượt qua nghe Phật danh Nghe tên hoan hỷ khen Đều được sinh Cực Lạc. (…) Vạn năm Tam bảo diệt Kinh này trụ trăm năm Bấy giờ nghe một niệm Đều được sinh Cực Lạc.”
(27) Lại nói: “Hiện là phàm phu sinh tử, tội chướng sâu nặng, luân hồi sáu nẻo, khổ không thể tả, ngày nay gặp thiện tri thức, được nghe danh hiệu và bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, một ḷng xưng niệm, cầu nguyện văng sinh, nguyện Phật từ bi không quên lời thệ nguyện rộng lớn nhiếp thọ chúng sinh.”
(28) Lại nói: “Hỏi: Xưng niệm lễ quán A Di Đà Phật, hiện đời có những công đức lợi ích ǵ? Đáp: Xưng một câu A Di Đà Phật có thể diệt trừ được tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Lễ lạy và ức niệm Phật dưới đây cũng như vậy. Kinh Thập Văng Sinh nói: “Nếu có chúng sinh niệm A Di Đà Phật, nguyện văng sinh Cực Lạc, Đức Phật ấy liền sai hai mươi lăm vị Bồ-tát đến ủng hộ hành giả, khi đi hay đứng, khi nằm hay ngồi, dù ngày hay đêm, trong mọi thời gian, ở khắp nơi chốn, chẳng cho ác quỷ, ác thần được thừa dịp làm hại.” Lại như Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói: “Nếu xưng danh, lễ lạy, ức niệm A Di Đà Phật, nguyện văng sinh thế giới Cực Lạc, Đức Phật ấy sẽ sai vô số hóa Phật, vô số hóa Bồ-tát như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đến hộ niệm hành giả.” Lại cùng với hai mươi lăm vị Bồ-tát nói trên, vây quanh hành giả, trăm ṿng ngàn ṿng, bất kể đi đứng nằm ngồi, mọi lúc mọi nơi, dù ngày hay đêm, các ngài thường không rời hành giả. Nay đă có sự lợi ích thù thắng này làm chỗ nương tựa, nguyện các hành giả, mỗi người phải chí tâm cầu văng sinh. Lại như Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh trong mười phương xưng niệm danh hiệu của tôi, [muốn sinh về nước tôi] nhẫn đến mười niệm, mà không được văng sinh, th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.” Đức Phật ấy hiện nay tại thế thành Phật, nên biết rằng, lời thệ nguyện trọng đại và căn bản đó là không hư dối. Chúng sanh xưng niệm ắt được văng sinh. Lại như Kinh A Di Đà nói: “Nếu có chúng sinh nào nghe nói đến Đức Phật A Di Đà, tŕ niệm danh hiệu của Ngài hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày mà nhất tâm bất loạn, th́ người ấy lúc sắp chết, Đức Phật A Di Đà cùng với các vị Thánh giả hiện ra trước mắt. Người như thế khi chết tâm không thác loạn, và tức khắc được sinh quốc độ Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Xá-lợi-phất, Như lai thấy ích lợi như vậy, nên nói rằng ai nghe như vầy hăy nên phát nguyện nguyện sinh Cực Lạc.” Phần dưới quyển kinh nói: “Phương Đông, hằng hà sa số các Đức Phật; phương Nam, Tây, Bắc, phương dưới, phương trên, hằng hà sa số các Đức Phật, mỗi vị đều ở nơi quốc độ của ḿnh, đưa ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp đại thiên quốc độ, nói lời thành thật như vầy: các người nên tin bản kinh Xưng Tán Công Đức Bất Khả Tư Nghị Hết Thảy Chư Phật Đều Hộ Niệm.” V́ sao gọi là Hộ niệm? Nếu có chúng sinh xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật, hoặc bảy ngày, hoặc một ngày, nhẫn đến một niệm, hoặc một tiếng hoặc mười tiếng, th́ chắc chắn được văng sinh. Chư Phật đều chứng thành sự thể này, nên gọi là Kinh Hết Thảy Chư Phật Đều Hộ Niệm. Tiếp theo nói thêm, nếu xưng niệm danh hiệu Phật, cầu văng sinh nước kia, th́ thường được hằng hà sa số các Đức Phật ở sáu phương hộ niệm, cho nên gọi là Kinh Hết Thảy Chư Phật Đều Hộ Niệm. Hiện nay có những thệ nguyện tăng thượng để nương tựa, các vị Phật tử tại không chịu gắng chí.”
(29) Lại nói: “Nói ‘hoằng nguyện’, như trong Đại Kinh nói: Tất cả phàm phu thiện ác mà được văng sinh th́ đều nương vào đại nguyện nghiệp lực của Đức Phật A Di Đà làm tăng thượng duyên.”
(30) Lại nói: “Nói ‘Nam mô’, tức là quy mạng, cũng là nghĩa phát nguyện hồi hướng. Nói ‘A Di Đà Phật’, tức là hạnh của người ấy. Bởi nghĩa này mà nhất định được văng sinh.”
(31) Lại nói: “Nói về Nhiếp sinh tăng thượng duyên, tức như Kinh Vô Lượng Thọ, trong 48 Nguyện có nói: “Đức Phật nói: Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương nguyện sinh vào nước tôi, xưng danh hiệu tôi, nhẫn đến mười tiếng, nương nguyện lực của tôi, nếu như không được sinh th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.” Đây chính là Nguyện văng sinh. Người thực hành lúc sắp chết được nguyện lực nhiếp lấy mà văng sinh, nên gọi là Nhiếp sinh tăng thượng duyên.”
(32) Lại nói: “Muốn cho những kẻ phàm phu thiện ác hồi tâm, khởi hạnh, thảy đều được văng sinh. Đây là Chứng sinh tăng thượng duyên.”
(33) Lại nói: “Mỗi môn bất đồng tám vạn tư V́ diệt vô minh quả nghiệp nhân Kiếm bén chính là Di Đà hiệu Một tiếng xưng niệm tội tiêu trừ. (…) Vi trần nghiệp cũ theo trí diệt Bất giác chuyển nhập chân như môn. (…) Được thoát Ta-bà trường kiếp nạn Chỉ nhờ ơn tri thức Thích Ca Phương tiện thiện xảo những tư lương Chọn được Di Đà hoằng thệ môn.”
(34) Như vậy, Nam-mô, nghĩa là Quy mạng (歸命). Quy, nghĩa là Chí (至) vậy. Lại nữa, Quy, là Thuyết (說) vậy. Chữ Thuyết, [nên đọc là] âm Duyệt (悅). Lại nữa, Quy, là Thuyết (說) vậy. Chữ Thuyết, [nên đọc là] âm Duyệt (稅). Hai âm Duyệt (悅) và Duyệt (稅) [cũng là một]. Thuyết, nghĩa là Cáo (告), là Thuật (述), là bày tỏ thêm ư vậy. Mạng, nghĩa là Nghiệp (業), Chiêu dẫn (招引), Sử (使), Giáo (教), Đạo (道), Tín (信), Kế (計), Triệu (召). Cho nên, Quy mạng: là “Sắc mạng mà bản nguyện mời gọi” Phát nguyện hồi hướng: Đức Như Lai đă phát nguyện và hồi thí đến tâm của chúng sinh tu hành. Tức là hạnh của người ấy: Tức là “tuyển trạch bản nguyện” vậy. Nhất định được văng sinh: Tuyên dương sự hoạch đắc địa vị Bất thối. Kinh nói, “tức đắc” (即得) ; [Bồ-tát Long Thọ] giải thích là “tất định”. (必定) . Tức: Do nghe nguyện lực, Báo độ rực rỡ vĩ đại, nhân tố chân thật quyết định thời khắc cực nhanh. Tất (必: là thẩm 審, nhiên 然, phân cực 分極. ): Trạng thái của Kim cương tâm thành tựu.
(35) Tịnh Độ Ngũ Hội Niệm Phật Lược Pháp Sự Nghi Tán: “Đức Như Lai lập giáo rộng lược, tùy theo căn cơ, chung quy ở thật tướng. Bậc được chân vô sinh, th́ ai có thể so với người này? Song niệm Phật tam-muội là pháp môn thâm diệu vô thượng chân thật. Đem danh hiệu và bốn mươi tám nguyện của Pháp vương Di Đà để làm Phật sự, nguyện lực độ chúng sinh.” (…) “Do đó Đức Như Lai thường ở trong biển Tam-muội, tay giơ lưới tơ, nói với Phụ vương rằng: Phụ vương ngày nay ngồi thiền, chỉ nên niệm Phật, có phải là giống ĺa niệm cầu vô niệm, ĺa sinh cầu vô sinh, ĺa tướng hảo cầu pháp thân, ĺa văn tự cầu giải thoát?” (…) “Lớn lao thay, chí lư chân pháp, nhất như hóa vật lợi người. V́ hoằng nguyện có sai khác, cho nên Đức Thích Ca ứng sinh ở đời trược, Đức Di Đà xuất hiện nơi cơi tịnh. Dù tịnh uế có sai biệt, nhưng lợi ích th́ đồng nhất. Pháp dễ tu dễ chứng, thật chỉ có giáo môn Tịnh độ. Cơi Tây phương kia thù diệu, khó mà so sánh. Quốc độ ấy trang nghiêm hoa sen trăm báu, bày ra chín phẩm thu nhận người tu. Danh hiệu Phật có thể quét sạch ngàn họa, âm vang năm hội nhiếp hóa muôn vật.”
[Y theo Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Kinh - Thích Pháp Chiếu] “Tôn hiệu Như Lai rất rơ ràng Mười phương thế giới lưu hành khắp Chỉ có xưng danh đều được sinh Quán Âm, Thế Chí tự đến rước. (...) Bản nguyện Di Đà rất đặc thù Từ bi phương tiện dẫn phàm phu Tất cả chúng sinh đều độ thoát Xưng danh liền được tội tiêu trừ. (…) Phàm phu nếu được đến Tây phương Nhiều kiếp trần sa tội diệt vong Đủ sáu thần thông được tự tại Trừ hẳn già bệnh, ĺa vô thường.
[Y theo Kinh Phật Bản Hạnh – Pháp Chiếu] “Cái ǵ gọi đó là Chánh pháp Nếu cái đạo lư là Chân tông Tốt xấu nay thời cần quyết trạch Mỗi một tỉ mỉ chớ mơ hồ. Chánh pháp là vượt thoát thế gian. Tŕ giới, ngồi thiền, gọi Chánh pháp Niệm Phật thành Phật là Chân tông! Không giữ lời Phật là ngoại đạo Bác vô nhân quả là Không kiến. Chánh pháp là vượt thoát thế gian. Thiền luật như nào là Chánh pháp Niệm Phật tam-muội là Chân tông! Thấy tánh rơ tâm bèn là Phật Làm sao đạo lư không tương ưng?”
[Y theo Kinh A Di Đà] “Tây phương tiến đạo hơn Ta-bà Duyên không năm dục và tà ma Thành Phật không nhọc các thiện nghiệp Đài hoa ngồi thẳng niệm Di Đà. (...) Ngũ trược tu hành nhiều thối chuyển Không bằng niệm Phật sinh Tây phương Đến đó tự nhiên thành Chánh giác Trở lại biển khổ làm bờ bến. (...) Ở trong muôn hạnh cấp thiết là Mau chóng không qua Tịnh độ môn Không chỉ Bổn sư kim khẩu thuyết Mười phương chư Phật cùng truyền chứng. (...) Cơi này một người niệm Phật danh Tây phương liền sinh một hoa sen Chỉ khiến một đời không lui sụt Hoa đó về lại cơi này nghênh. ”
[Y theo Kinh Bát Chu Tam-muội – Ḥa thượng Từ Mẫn viết] Đại chúng trong đạo tràng hôm nay Hằng sa kiếp số đều trải qua Mừng thân người này khó hẹn gặp Như hoa Ưu đàm một lần nở Gặp giáo lư Tịnh độ hiếm nghe Gặp pháp môn niệm Phật khai mở Gặp hoằng thệ Di Đà mời gọi Gặp đại chúng tín tâm trở về Gặp hôm nay y kinh khen ngợi Gặp kết khế ấn trên đài hoa Gặp đạo tràng không có ma sự Gặp người không bệnh đều về được Gặp bảy ngày công phu thành tựu Bốn mươi tám nguyện Phật dắt d́u Khắp khuyên hành giả cùng đạo tràng Nỗ lực hồi tâm về đi thôi Thử hỏi quê hương ở nơi nào Trong ao Cực Lạc đài bảy báu Nhân địa Phật kia lập hoằng thệ Nghe danh niệm Phật đều rước về Không lựa nghèo khổ hay giàu sang Không chọn ngu si hay tài trí (…) Bất luận đa văn tŕ tịnh giới Hoặc kẻ phá giới tội sâu dày Chỉ cần hồi tâm niệm Phật nhiều Gạch ngói có thể biến thành vàng Gửi lời đến đại chúng hiện tiền Đồng duyên người đi sớm t́m nhau Thử hỏi t́m nhau ở nơi nào? Đáp rằng Tịnh độ Phật Di Đà Thử hỏi duyên ǵ được văng sinh? Đáp rằng niệm Phật tự thành công Thử hỏi đời nay nhiều tội chướng Làm sao Tịnh độ chịu bao dung? Đáp rằng xưng danh tội tiêu diệt Dụ như đèn sáng vào pḥng tối Thử hỏi phàm phu được sinh không Làm sao một niệm sáng trong tối? Đáp rằng trừ nghi niệm Phật nhiều Di Đà nhất định tự thân cận.”
[Y theo Kinh Tân Vô Lượng Thọ Quán – Pháp Chiếu thuật] “Mười ác, năm nghịch đến người ngu Nhiều kiếp trầm luân ngập bụi trần Một niệm xưng được Di Đà hiệu Cơi ấy đồng về Pháp tánh thân.”
(36) Sư Cảnh Hưng viết: “Như Lai nói rộng, có hai: một là, nói rộng về nhân quả tịnh độ của Như Lai, tức là hạnh nguyện và những thành tựu; hai là, nói rộng về nhân quả văng sinh của chúng sinh, tức là thu nhiếp và những lợi ích.”
(37) Lại nói: Kinh Bi Hoa, phẩm Chư Bồ-tát Bản Thọ Kư nói: “Thiện nam tử! Bấy giờ Đức Bảo Tạng Như Lai khen ngợi Chuyển luân vương rằng: ‘Lành thay, lành thay! Đại vương, theo sở nguyện sâu xa của ông, nay là lúc thu nhận tịnh độ, và chúng sinh trong cơi ấy, tâm họ cũng thanh tịnh. Đại vương! Ông hăy nh́n về phương Tây, qua trăm ngàn muôn ức Phật độ, có thế giới tên là Tôn Thiện Vô Cấu. Thế giới ấy có Đức Phật hiệu là Tôn Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Sư, Phật Thế Tôn, hiện tại đang thuyết chánh pháp cho các vị Bồ-tát. Thế giới ấy không có tên gọi Thanh văn và Bích-chi Phật, cũng không có ai nói pháp Tiểu thừa, thuần nhất là pháp Đại thừa thanh tịnh, không xen ǵ khác. Chúng sinh trong thế giới ấy đều là tự nhiên hóa sinh, cũng không có người nữ, không có cả đến cái tên người nữ. Thế giới Phật ấy có những công đức thanh tịnh trang nghiêm đúng như sở nguyện của Đại vương, y như vô lượng thế giới Phật với các thứ công đức trang nghiêm không khác ǵ cả, đều để nhiếp lấy vô lượng vô biên chúng sinh đă điều phục. Nay đổi tên ông là Vô Lượng Thanh Tịnh.” Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai nói: “[Tỳ-kheo Pháp Xứ] quảng phát thệ nguyện rộng lớn như thế, đều đă thành tựu, thế gian hiếm có. Phát lời nguyện ấy rồi, Ngài như thật an trú các thứ công đức, đầy đủ trang nghiêm , oai đức quảng đại , Phật độ thanh tịnh.”
(38) Lại nói: “Hai thứ phước trí trang nghiêm đă được thành tựu, v́ đầy đủ các Thánh hạnh: bố thí, v.v. vậy. Lấy sự tu tập của ḿnh mà lợi ích chúng sinh, khiến công đức thành tựu.”
(39) Lại nói: “Nhờ nhân duyên lâu xa mà được gặp Phật, nghe pháp, nên rất đáng mừng vui.”
(40) Lại nói: “Con người là bậc Thánh, cơi nước th́ vi diệu, sao không gắng sức hành thiện mà nguyện sinh. (…) Do thiện đă thành, không tự gặt quả, gọi là ‘tự nhiên’. Không lựa sang hèn, đều được văng sinh, gọi là ‘đến chỗ không trên dưới’.”
(41) Lại nữa: “Dễ sinh về mà có mấy ai. Cơi nước ấy không có trái nghịch mà tự nhiên bị trói buộc: Tu nhân chính là từ bỏ (dừng lại), nên ‘dễ văng sinh’. Không ai chịu tu nhân, ít người văng sinh, nên ‘có mấy ai’. Tu nhân cầu sinh, ḿnh hoàn toàn không có nghịch trái, và cơi nước không có trái nghịch, chính là tiền đề cho sự văng sinh.”
(42) Lại nói: “Bản nguyện lực, là sức thệ nguyện ‘tức khắc được sinh’ . Măn túc nguyện, là nguyện không thiếu sót. Minh liễu nguyện, là cầu mà không phải không có kết quả. Kiên cố nguyện, là duyên không thể hoại. Cứu cánh nguyện, là chắc chắn được thỏa nguyện.”
(43) Lại nói: “Tóm lại, muốn cho kẻ phàm phu thêm ư muốn văng sinh, nên nói ‘quốc độ ấy thù thắng’.”
(44) Lại nói: “Đă nói ‘ở quốc độ này này tu hạnh Bồ-tát’, tức là biết vua Vô Tránh Niệm ở phương này, [Đại thần] Bảo Hải cũng vậy.”
(45) Lại nói: “V́ nghe Đức Phật A Di Đà thành tựu công đức quảng đại, mà được Bất thối chuyển.”
(46) Lạc Bang Văn Loại : [Kết Liên Xă Phổ Khuyến Văn] - Tổng quản Trương Luân nói: “Danh hiệu Phật rất dễ tŕ, Tịnh độ rất dễ sinh. Tám muôn bốn ngàn pháp môn, không có đường tắt nào như thế. Chỉ cần chút rảnh rang sớm chiều kính niệm mà làm tư lương chẳng hư hoại cho nhiều kiếp. Đó là dụng lực rất nhỏ mà thu công không cùng. Chúng sinh có nỗi khổ ǵ mà tự vứt bỏ, không chịu làm? Ôi, mộng huyễn chẳng thật, thọ yểu khó giữ, khoảnh khắc hơi thở đă qua đời sau. Một khi mất thân người th́ muôn kiếp khó được lại. Lúc này mà không ngộ, Phật như chúng sinh sao? Xin nghĩ sâu về vô thường, chớ uổng phí [thời gian] để rồi ăn năn về sau. Cư sĩ Tịnh Lạc - Trương Luân khuyến duyên.”
(47) Tổ sư Thai giáo là Pháp sư Sơn Âm Khánh Văn nói: “Bởi v́ danh hiệu Phật từ chân thật báo thân mà kiến lập, từ biển Từ bi mà kiến lập, từ biển Thệ nguyện mà kiến lập, từ biển Trí tuệ mà kiến lập, từ biển Pháp môn mà kiến lập. Nếu chỉ chuyên xưng một danh hiệu Phật, th́ là xưng đủ danh hiệu của chư Phật, công đức vô lượng, có thể tiêu trừ tội chướng, có thể sinh Tịnh độ, sao phải sinh nghi ư?”
(48) Tổ sư Luật tông là Ngài Nguyên Chiếu nói: “Huống chi Đức Phật đem tâm đại từ khai thị Tịnh độ, ân cần khuyên dặn trong các kinh Đại thừa. Chúng sinh mắt thấy tai nghe mà c̣n nghi ngờ hủy báng, tự cam chịu ch́m đắm, không nghĩ cách vượt thoát. Như Lai gọi họ là những kẻ đáng thương. Bởi v́ không biết pháp này là một pháp môn đặc biệt, nó không chọn hiền ngu, chẳng lựa Tăng tục, không luận tu hành mau chậm, chẳng hỏi tạo tội nặng nhẹ, chỉ cần ḷng tin xác quyết, chính là nhân tố văng sinh.”
(49) Lại nói: “Nay các kinh Tịnh độ đều không nói đến ma, tức biết rơ pháp này hoàn toàn không có ma. Pháp sư Sơn Âm Khánh Văn đối với ‘Pháp môn Chánh tín’ có sự tŕnh bày rơ ràng, nay xin trích dẫn: Hỏi rằng: Có người nói, lúc sắp chết thấy Phật và Bồ-tát phóng hào quang, bưng đài, nhạc trời, hương lạ đến tiếp dẫn văng sinh đều là việc ma. Lời này như thế nào? Đáp: Có người y kinh Thủ Lăng Nghiêm tu tập tam-muội, có khi phát động ấm ma. Có người y theo luận Ma-ha-diễn tu tập tam-muội, có khi phát động ngoại ma (gọi là Thiên ma). Có người nương theo luận Chỉ Quán tu tập tam-muội, có khi phát động thời mị . Những sự thể này toàn là người tu thiền định, họ chỉ quan tâm đến tự lực, trước có hạt giống ma, nay bị kích phát bởi định, cho nên biểu hiện những việc này. Nếu có thể nhận biết rơ ràng [ma sự], dùng cách đối trị th́ có thể trừ diệt. Nếu tự cho ḿnh là một bậc Thánh, th́ đều bị ma chướng (trên nói, ở phương này ai nhập đạo th́ phát sinh ma sự). Ở đây cho rằng pháp tu Niệm Phật tam-muội chính là nương nhờ vào Phật lực, như gần bên nhà vua th́ không có ai dám phạm. Bởi v́, Đức Phật A Di Đà có sức từ bi lớn, sức thệ nguyện lớn, sức trí tuệ lớn, sức tam-muội lớn, sức oai thần lớn, sức diệt tà lớn, sức dẹp ma lớn, sức thiên nhăn nh́n xa, sức thiên nhĩ nghe khắp, sức tha tâm thấu suốt, sức ánh sáng chiếu khắp nhiếp lấy chúng sinh, sức công đức không thể nghĩ bàn của những việc như thế, há chẳng thể hộ tŕ người niệm Phật khi sắp chết không bị chướng ngại được sao? Nếu không thể hộ tŕ được th́ sức từ bi ở đâu? Nếu không trừ được ma chướng th́ sức trí tuệ, sức tam-muội, sức oai thần, sức diệt tà, sức dẹp ma ở đâu? Nếu không quán sát, để người niệm Phật bị ma làm chướng ngại th́ sức thiên nhăn nh́n xa, sức thiên nhĩ nghe khắp, sức tha tâm thấu suốt ở đâu? Kinh ghi: ‘Tướng hảo quang minh của Đức Phật A Di Đà chiếu khắp mười phương thế giới, nhiếp lấy không bỏ chúng sinh niệm Phật.’ Nếu cho rằng người niệm Phật lúc lâm chung vẫn bị ma chướng th́ sức ánh sáng chiếu khắp nhiếp lấy chúng sinh ở đâu? Huống chi người niệm Phật lúc lâm chung cảm được những cảnh tốt, toàn là lời Phật dạy từ trong các kinh, đâu thể chế nhạo là ma chướng? Nay cần phải quyết phá trừ tà nghi để sinh chánh tín.”
(50) Lại nói: “Nhất thừa cực lực đề xướng, rốt ráo đều hướng về Lạc bang. Vạn hạnh viên măn tu tập, tối thắng riêng t́m nơi Phật hiệu . Bởi v́, từ nhân vị lập thệ nguyện, giữ chí nguyện chính ḿnh hành, trải qua kiếp số chấm bụi, mang t́nh thương cứu giúp chúng sinh. Chỗ đất bằng hạt cải đâu không là nơi Bồ-tát xả bỏ thân mạng. Bi trí sáu độ, nhiếp hoá mà không sót; nội ngoại hai tài, tuỳ cầu sẽ được ứng. Thời cơ hưng khởi, nhân duyên chín muồi, các hạnh đầy đủ, công đức thành tựu. Một thời viên chứng với ba thân, muôn đức biểu lộ nơi bốn chữ.”
(51) Lại nói: “Huống chi, Đức Di Đà ta dùng danh tiếp vật. Do đó, tai nghe miệng tụng, vô biên Thánh đức ôm vào thức tâm, măi làm giống Phật, đốn trừ ức kiếp trọng tội, hoạch chứng Vô thượng Bồ-đề. Tin biết rằng chẳng ít thiện căn, mà là rất nhiều công đức vậy.”
(52) Lại nói: “Về chánh niệm, người lúc sắp chết th́ thức thần vô chủ, nghiệp chủng thiện ác đều biểu hiện ra, hoặc khởi niệm ác, hoặc khởi tà kiến, hoặc sinh lưu luyến, hoặc phát ngông cuồng, các tướng ác chẳng phải một, đều gọi là điên đảo. Nhân trước có tŕ niệm danh hiệu Phật mà tội diệt chướng trừ, tịnh nghiệp huân tập bên trong, từ quang nhiếp lấy ở ngoài, thoát khổ được vui chỉ một khoảnh sát na. Văn dưới khuyên phát nguyện nguyện sinh Cực lạc, lợi ích của việc đó được nói ở đây.”
(53) “Pháp sư Từ Vân nói: ‘Chỉ có An dưỡng tịnh nghiệp là đường tắt đáng nên tu tập. Có ai trong bốn chúng mà muốn mau chóng phá trừ vô minh, vĩnh viễn diệt trừ tội năm nghịch, mười ác, các tội nặng nhẹ, th́ nên tu theo pháp này. Người muốn đắc giới thể Đại thừa hay Tiểu thừa, muốn được thanh tịnh trở lại, muốn đạt niệm Phật tam-muội, thành tựu các Ba-la-mật của Bồ-tát, th́ nên tu học pháp này. Người lúc sắp chết mà ĺa được nỗi sợ hăi, thân tâm an vui, được Thánh chúng hiện ra trước mắt, đưa tay tiếp dẫn, vừa rời trần lao, liền đạt bất thối, không trải nhiều kiếp, bèn được Vô sinh, th́ nên tu học pháp này.’ Pháp ngữ của cổ hiền, há không nghe sao? Năm môn trên là lược nêu cương yếu, những điểm khác nói không hết, giao lại cho thích văn. Xem Khai Nguyên Tạng Lục th́ kinh này có hai bản dịch. Bản dịch trước đă mất, bản này do ngài Cương-lương-da-xá dịch. Cao Tăng Truyện ghi: ‘Cương-lương-da-xá (疆良耶舍), phương này dịch là Thời Xứng (時稱). [Sư là người ở Tây Vực, tánh t́nh cương trực, ḷng ít ham muốn, tinh thông Tam tạng.] Năm Nguyên Gia thứ nhất (424) thời Lưu Tống, Sư đến Kinh Ấp. Vua Văn Đế [rất kính mộ, ra sắc chỉ mời Sư trụ tŕ tinh xá Đạo Lâm ở Chung Sơn. Ở đây, ngài Tăng Hàm (僧含) thỉnh Sư dịch kinh này và kinh Quán Dược Vương Dược Thượng , và Tăng Hàm làm người bút thọ. Về sau, Sư du hóa đến Mân Thục, không bao lâu Sư trở về và thị tịch ở Giang Lăng]’.”
(54) Pháp sư Từ Vân ca ngợi: “Liễu nghĩa trong liễu nghĩa , viên đốn trong viên đốn. ”
(55) Ngài Đại Trí (Luật sư Nguyên Chiếu) đề xướng: “Viên đốn Nhất thừa , thuần nhất không tạp .”
(56) Luật tông, pháp sư Giới Độ (đệ tử của ngài Nguyên Chiếu) nói: “Danh hiệu Phật chính là vô số kiếp huân tu, nắm giữ muôn đức, sáng tỏ bốn chữ. Thế nên, xưng danh hiệu Phật th́ được lợi ích rất nhiều.”
(57) Luật tông, Pháp sư Dụng Khâm nói: “Nay nếu ta dùng tâm và miệng xưng niệm gia hiệu một Đức Phật, th́ từ nhân đến quả, vô lượng công đức không thể không đầy đủ.”
(58) Lại nói: “Tất cả chư Phật trải qua kiếp số bụi trần, chứng ngộ thật tướng. V́ không chứng đắc ǵ cả, cho nên phát đại nguyện vô tướng, tu diệu hạnh vô trú, chứng Bồ-đề vô đắc, trú quốc độ phi trang nghiêm . V́ biểu hiện thần thông ‘không thần thông’, cho nên tướng lưỡi trùm khắp đại thiên. V́ hiển thị lời nói ‘không lời nói’, cho nên khuyên hăy tin nhận kinh này. Há cho phép tâm nghĩ, miệng bàn ư? Nói riêng, chư Phật đều có công đức không thể nghĩ bàn, nếu trong chốc lát tiếp nhận y báo và chánh báo trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà, tŕ danh hành pháp, th́ chư Phật ấy cũng phải được Đức Phật A Di Đà thu nhận.”
(59) Tam luận tông, Tổ sư Gia Tường nói: “Hỏi: Nhân ǵ mà niệm Phật tam-muội diệt trừ được nhiều tội như thế? Giải rằng: Đức Phật có vô lượng công đức, niệm Phật cũng được vô lượng công đức, cho nên diệt trừ được vô lượng tội.”
(60) Pháp tướng tông, Tổ sư Pháp Vị nói: “Chư Phật đều có tên là Đức Thí. Xưng danh tức là xưng đức. Đức có thể diệt tội sinh phước, danh cũng như thế. Nếu tin danh hiệu Phật, th́ có thể sinh thiện diệt tội, quyết định không nghi. Xưng danh được văng sinh, điều này c̣n nghi ngờ ǵ nữa!”
(61) Thiền Tông, ngài Phi Tích nói: “Niệm Phật Tam-muội là điều thiện tối thượng, là hạnh đầu trong muôn hạnh, nên gọi là vua Tam-muội vậy.”
(62) Văng Sinh Yếu Tập nói: “(2) Kinh Song Quyển nói, nghiệp của ba hạng người [văng sinh] tuy có cạn sâu, nhưng cả ba đều “nhất hướng chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật”. (3) Trong bốn mươi tám nguyện, đối với pháp môn niệm Phật, [Đức Phật A Di Đà] riêng phát một nguyện rằng, “Nhẫn đến mười niệm, nếu không được sinh th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.” (4) Quán Kinh nói: Người ác cực trọng, không cách nào khác, chỉ xưng Di Đà, được sinh Cực Lạc. ”
(63) Lại nói: “Nên y theo sáu thứ công đức [vi diệu] được thuyết trong kinh Tâm Địa Quán: (1) Bậc vô thượng có ruộng công đức lớn lao; (2) Bậc vô thượng có ân đức lớn lao; (3) Bậc tôn cao trong chúng sinh không chân, hai chân và nhiều chân; (4) Bậc rất khó gặp, như hoa Ưu-đàm; (5) Bậc độc nhất xuất hiện trong Tam thiên đại thiên thế giới; (6) Bậc viên măn tất cả công đức mà thế gian và xuất thế gian đều y theo để làm thành mọi sự nghĩa. Do đầy đủ sáu thứ công đức như thế và thường đem lại lợi lạc cho tất cả chúng sinh, [gọi đó là ‘bất tư nghị ân của Phật bảo’.]”
(64) Y theo sáu công đức này, Ḥa thượng Tín nói: “Một nên niệm: ‘Một xưng Nam mô Phật, đều đă thành Phật đạo’ , nên con quy mạng lễ, ‘Ruộng công đức vô thượng’. Hai nên niệm: ‘Mắt thương nh́n chúng sinh, b́nh đẳng như con một’ , nên con quy mạng lễ, ‘Mẹ từ bi cực đại’. Ba nên niệm: Mười phương chư Đại sĩ, cung kính Di Đà tôn, nên con quy mạng lễ, ‘Bậc phước trí toàn hảo’ . Bốn nên niệm: Một phen nghe Phật danh, Hơn cả hoa Ưu-đàm, nên con quy mạng lễ, ‘Bậc rất khó gặp gỡ’. Năm nên niệm: Một trăm câu-chi giới , Hai Phật không cùng hiện, nên con quy mạng lễ, ‘Đại pháp vương hy hữu’. Sáu nên niệm: Phật pháp: biển chúng đức, Ba đời đồng một thể, nên con quy mạng lễ, ‘Đấng viên dung vạn đức’.”
(65) Lại nói: “Hoa của cây Ba-lợi-chất-đa xông thơm y phục trong một ngày; hoa Chiêm-bặc và hoa Bà-sư-ca dẫu ngàn năm xông thơm cũng không thể sánh bằng.”
(66) Lại nói: “Một cân thạch châm có thể biến ngàn cân đồng thành vàng. Núi tuyết có thứ cỏ tên là Nhẫn nhục, trâu ăn vào th́ cho ra đề hồ. Cây Thi-lợi-sa khi gặp sao Măo th́ cho ra quả thực sự.”
(67) Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập nói: “Nam mô A Di Đà Phật – Chánh nghiệp văng sinh lấy niệm Phật làm căn bản.”
(68) Lại nói: “Muốn mau thoát sinh tử Trong hai thứ thắng pháp Nên bỏ môn Thánh đạo Mà chọn môn Tịnh độ. Muốn vào môn Tịnh độ Trong hai hạnh chánh tạp Hăy bỏ các tạp hạnh Chọn về đúng chánh hạnh. Nếu muốn tu chánh hạnh Trong hai nghiệp chánh trợ Gạt một bên trợ nghiệp Chọn chuyên tu chánh định. Và nghiệp của chánh định Tức là xưng danh Phật Xưng danh ắt văng sinh V́ nương bản nguyện Phật.”
(69) Biết rơ, đó chẳng phải là hạnh tự lực của phàm Thánh, nên gọi là hạnh Bất hồi hướng. Bậc Thánh lớn nhỏ, kẻ ác nặng nhẹ , đều cùng nhau trở về biển cả ‘tuyển trạch đại bảo’ , niệm Phật thành Phật.
(70) Thế nên, Luận Chú viết: “Quốc độ An Lạc kia, ai cũng được hóa sinh trong hoa sen thanh tịnh chánh giác của A Di Đà Như Lai, v́ cùng niệm một Phật, không có con đường riêng.”
(71) Như vậy, người có được hành tín chân thật, th́ tâm nhiều hoan hỷ, đó gọi là Hoan hỷ địa. Đây là dụ cho Sơ quả. “Thánh giả Sơ quả giả sử c̣n thụy miên, giải đăi, th́ không đến được hai mươi chín hữu.” Huống chi biển cả ‘quần sinh mười phương’ đều quy mạng Đức Phật, và Ngài nhiếp thủ không bỏ người hành tín chân thật ấy, nên gọi là Đức Phật A Di Đà. Đó gọi là tha lực. V́ thế, Đại sĩ Long Thọ nói là “tức thời nhập Tất định” , Đại sư Đàm Loan gọi là “số người nhập chánh định tụ” . Kính mộ th́ nên nương tựa đây, chuyên tâm th́ nên thực hành đây.
(72) Thật biết, không có đức hiệu của Từ phụ th́ thiếu sót nhân năng sinh; không có quang minh của Bi mẫu th́ trái ngược duyên sở sinh. Nhân duyên năng sở tuy có thể ḥa hợp, nhưng không có tín tâm và nghiệp thức th́ không đến được cơi quang minh. Chân thật tín tâm và nghiệp thức, đây là nội nhân; danh hiệu của cha và quang minh của mẹ, đây là ngoại duyên. Nhân duyên nội ngoại ḥa hợp, th́ đắc chứng báo độ, chân thân. Cho nên Tông sư nói: “Dùng quang minh và danh hiệu để nhiếp hoá mười phương, chỉ muốn chúng sinh tín tâm, cầu sinh, xưng niệm.” Lại nói: “Niệm Phật thành Phật là Chân tông.” Lại nói: “Chân tông khó gặp.” Đáng biết.
(73) Nói về hành và tín của Văng tướng hồi hướng: hành có một niệm, và tín có một niệm. Một niệm của hành là “con số biến xưng danh”, là chỉ bày và lựa chọn sự “dị hành chí cực” .
(74) Cho nên kinh Đại Bản nói: “Phật bảo Di Lặc: Có ai được nghe danh hiệu Đức Phật Vô Lượng Thọ mà hoan hỷ phấn chấn, dù chỉ một niệm, phải biết người ấy đă được lợi lớn, là đă đầy đủ công đức vô thượng.”
(75) Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Tối thiểu một niệm”. Lại nói: “Một tiếng một niệm”. Lại nói: “Chuyên tâm, chuyên niệm”.
(76) Tập Chư Kinh Lễ Sám Nghi, quyển hạ, Sa-môn Trí Thăng nói: “Thâm tâm tức là tín tâm chân thật. Tin biết tự thân là phàm phu có đủ phiền năo, thiện căn ít ỏi, bị lưu chuyển trong ba cơi, không ra khỏi nhà lửa. Nay tin biết bản hoằng thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà và xưng niệm danh hiệu, tối thiểu mười tiếng một tiếng, th́ nhất định được văng sinh, và dù chỉ một niệm mà không có ḷng nghi, nên gọi là thâm tâm.”
(77) Kinh nói “năi chí” (乃至: thậm chí, nhẫn đến, dù chỉ). Thích kinh ghi “hạ chí” (下至: tối thiểu). Năi chí và hạ chí dẫu có khác, nhưng ư nghĩa như nhau. Lại nữa, “năi chí” mang ư nghĩa bao hàm một và nhiều. Nói “lợi lớn” là đối “lợi nhỏ”. Nói “vô thượng” là đối “hữu thượng”. Tin biết, “lợi lớn” và “[công đức] vô thượng”, là lợi ích của Nhất thừa chân thật. “Lợi nhỏ” và “[công đức] hữu thượng”, là tám vạn bốn ngàn giả môn. Chuyên tâm, tức là nhất tâm, sắc thái không hai tâm. Chuyên niệm, tức là nhất hạnh, sắc thái không hai hạnh. Đức Phật phó chúc Bồ-tát Di Lặc: “Một niệm”, tức là “một tiếng”. “Một tiếng” tức là “một niệm”. “Một niệm” tức là một hạnh. Một hạnh tức là chánh hạnh. Chánh hạnh tức là chánh nghiệp. Chánh nghiệp tức là niệm Phật, đó là “Nam mô A Di Đà Phật” vậy.
(78) Như vậy, nương thuyền đại bi nguyện, xuôi biển rộng quang minh , chí đức là gió lặng, các họa là sóng chuyển, liền phá vô minh che lấp, mau đến quốc độ Vô Lượng Quang Minh, chứng Đại Bát-niết-bàn (Mahāparinirvāṇa), thuận theo đức hạnh của Phổ Hiền. Đáng biết.
(79) An Lạc Tập nói: “Kinh ghi: ‘Mười niệm tương tục là một mạch danh hiệu của Đức Phật vậy.’ Chỉ có thể dồn niệm dừng nghĩ, không duyên việc ǵ khác, miễn đạo nghiệp hoàn thành mới thôi, cũng không nhọc ghi nhớ đếm số. Lại nói: ‘Người niệm Phật đă lâu, phần nhiều y theo đây. Người bắt đầu niệm Phật th́ ghi nhớ đếm số cũng tốt.’ Đây cũng y theo lời Phật dạy.”
(80) Đây là minh chứng cho “Hiển chân thật hành”. Thật biết, bản nguyện “tuyển trạch nhiếp thủ” là thắng hạnh siêu thế hy hữu, chánh pháp “viên dung chân diệu” là đại hạnh chí cực vô ngại. Đáng biết.
(81) Tha lực là bản nguyện lực của Như Lai.
(82) Luận nói: “Bản nguyện lực: là đại Bồ-tát thường an trú tam-muội ở trong Pháp thân, mà hiện đủ loại thân, đủ loại thần thông, đủ loại thuyết pháp, đều sinh khởi từ bản nguyện lực. Ví như cây đàn của A-tu-la, tuy không người đánh mà âm khúc tự nhiên phát. Đó gọi là tướng công đức thứ năm của Giáo hóa địa.” “Bồ-tát nhập bốn chủng môn, hạnh tự lợi thành tựu, nên biết: Thành tựu, là tự lợi đầy đủ. Nên biết, là nên biết do tự lợi mà có thể lợi tha, chẳng phải không thể tự lợi mà có thể lợi tha.” “Bồ-tát xuất môn thứ năm, hạnh lợi ích tha hồi hướng thành tựu, nên biết: Thành tựu, là đem nhân hồi hướng mà chứng quả Giáo hóa địa. Hoặc nhân, hoặc quả, không có một sự nào mà không lợi người. Nên biết, là nên biết do lợi tha mà có thể tự lợi, chẳng phải không thể lợi tha mà có thể tự lợi.” “Bồ-tát tu năm môn như vậy, hành tự lợi, lợi tha, mau được thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề: Pháp của Phật chứng đắc gọi là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. V́ được Bồ-đề này, nên gọi là Phật. Nay nói mau đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, là được sớm thành Phật. A, là vô. Nậu-đa-la, là thượng. Tam-miệu, là chánh. Tam, là biến. Bồ-đề, là đạo. Dịch chung lại là Vô thượng Chánh biến đạo. Vô thượng, là nói đạo này cùng lư tận tánh, không c̣n ǵ hơn nữa. V́ sao nói vậy? Bởi v́ là chánh. Chánh, là Thánh trí. Như pháp tướng mà biết, nên gọi là Chánh trí. Pháp tánh vô tướng, nên Thánh trí vô tri. Biến, có hai thứ: một là, Thánh tâm biến tri tất cả pháp; hai là, Pháp thân biến măn pháp giới. Hoặc thân, hoặc tâm, không ǵ không cùng khắp. Đạo, là vô ngại đạo. Kinh nói: “Mười phương người vô ngại, Một đạo thoát sinh tử.” Một đạo, là một đạo vô ngại. Vô ngại, là biết sinh tử tức Niết-bàn. Đại loại như vậy, nhập ‘vô ngại tướng’ của ‘pháp môn Bất nhị’. Hỏi: Có nhân duyên ǵ mà nói mau đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề? Đáp: Luận nói, tu năm môn hạnhđể tự lợi, lợi tha thành tựu. Nhưng xét gốc rễ, th́ A Di Đà Như Lai là tăng thượng duyên. Tha lợi cùng với lợi tha, luận ra có hai mặt: từ Phật mà nói, th́ nói là lợi tha; từ chúng sinh mà nói, th́ nói là tha lợi. Nay sẽ bàn về Phật lực, cho nên lấy lợi tha để nói, phải biết ư này. Sự sinh Tịnh độ kia, và Bồ-tát, người, trời cơi kia phát khởi các hạnh, đều vin nơi bản nguyện lực của A Di Đà Như Lai. V́ sao nói vậy? Nếu chẳng phải Phật lực th́ bốn mươi tám nguyện bèn là không tác dụng. Nay lấy ba nguyện để chứng minh nghĩa ư: Nguyện rằng: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sinh về nước tôi, dù chỉ mười niệm, nếu không được sinh th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác, trừ kẻ phạm năm tội nghịch và gièm chê chánh pháp.” Do duyên nguyện lực của Phật mà mười niệm niệm Phật sẽ được văng sinh. Do được văng sinh, tức khỏi bị các sự luân chuyển Tam giới. Do không luân chuyển, cho nên “mau được”. Đây là chứng cứ thứ nhất. Nguyện rằng: “Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhân ở nước tôi, chẳng an trụ định tụ, quyết đến diệt độ th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.” Do duyên nguyện lực của Phật nên trụ chánh định tụ. Do trụ mà quyết đến diệt độ. Không bị cái nạn lưu chuyển trở lại, cho nên “mau được”. Đây là chứng cứ thứ hai. Nguyện rằng: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở cơi nước khác sinh về nước tôi, rốt ráo quyết đến bậc Nhất sinh bổ xứ. Trừ người có bản nguyện tự tại hóa độ, v́ chúng sinh mà mặc giáp hoằng thệ, dồn chứa công đức, độ thoát tất cả, đi qua các nước Phật, tu hạnh Bồ-tát, cúng dường chư Phật Như Lai mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sinh, khiến họ đứng nơi đạo chánh chân vô thượng, vượt hơn công hạnh thông thường ở các địa, hiện tiền tu tập đức hạnh của Phổ Hiền. Nếu không như vậy th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.” Do duyên nguyện lực của Phật mà vượt hơn công hạnh thông thường ở các địa, hiện tiền tu tập đức hạnh của Phổ Hiền. Do vượt hơn công hạnh thông thường ở các địa, cho nên “mau được”. Đây là chứng cứ thứ ba. Theo đây mà suy, tha lực là tăng thượng duyên, chẳng phải vậy hay sao? Lại dẫn thí dụ để nói sắc thái tự lực và tha lực: Như có người lo sợ ba đường dữ bèn thọ tŕ cấm giới. Do thọ tŕ cấm giới mà có thể tu thiền định. Do tu thiền định mà tu tập thần thông. Do thần thông mà có thể dạo chơi bốn thiên hạ. Những sự như thế gọi là tự lực. Lại như kẻ yếu ớt, trèo lên lưng lừa không nổi, theo Chuyển Luân Vương du hành, bèn bay lên hư không, dạo chơi bốn thiên hạ chẳng bị chướng ngại. Những sự như thế gọi là tha lực. Ngu thay! Người học đời sau, nghe tha lực có thể nương cậy, hăy sinh tín tâm, đừng tự hạn cuộc vậy.”
(83) Luật sư Nguyên Chiếu nói: “Hoặc đối với việc phá mê chứng thật ở cơi này, cần phải vận dụng tự lực, cho nên diễn thuyết các kinh Đại thừa, Tiểu thừa; hoặc sinh về phương khác nghe pháp ngộ đạo, cần phải nương vào tha lực, cho nên tŕnh bày về văng sinh Tịnh độ. Đây kia tuy khác nhưng tất cả đều là phương tiện khiến ngộ được tự tâm.”
(84) Nhất thừa hải (一乗海): Nhất thừa là Đại thừa. Đại thừa là Phật thừa. “Đắc Nhất thừa, tức đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tức là cảnh giới Niết-bàn. Cảnh giới Niết-bàn tức là pháp thân Như Lai. Đắc cứu cánh Pháp thân chính là đắc cứu cánh Nhất thừa. Như Lai và Pháp thân không khác. Như Lai tức Pháp thân. Đắc cứu cánh Pháp thân cũng là đắc cứu cánh Nhất thừa. Cứu cánh nghĩa là vô biên bất đoạn.” Đại thừa không có Nhị thừa, Tam thừa. Nhị thừa, Tam thừa cũng là để đưa về Nhất thừa. Nhất thừa tức là đệ nhất nghĩa thừa, chỉ là thệ nguyện Nhất Phật thừa vậy.
(85) Kinh Niết-bàn nói: “Thiện nam tử ! Thật đế th́ gọi là Đại thừa. Chẳng phải Đại thừa th́ không gọi là Thật đế. Thiện nam tử ! Thật đế là lời của Phật nói, chẳng phải là lời của ma nói. Nếu là lời của ma nói, chẳng phải là lời của Phật nói, th́ không gọi là Thật đế. Thiện nam tử ! Thật đế là một đạo thanh tịnh, không có hai vậy.”
(86) Lại nói: “Sao gọi là Bồ-tát tin thuận một thật ? Bồ-tát biết rơ tất cả chúng sinh đều về một đạo. Một đạo là gọi Đại thừa vậy. Các Đức Phật, Bồ-tát v́ chúng sinh nên phân thừa đó làm ba. Thế nên Bồ-tát tín thuận chẳng trái nghịch.”
(87) Lại nói: “Thiện nam tử ! Tất cánh có hai thứ, một là trang nghiêm tất cánh, hai là cứu cánh tất cánh. Một là thế gian tất cánh, hai là xuất thế gian tất cánh. Trang nghiêm tất cánh là sáu Ba-la-mật. Cứu cánh tất cánh là tất cả chúng sinh đều có Nhất thừa. Nhất Thừa đó gọi là Phật tánh. Do nghĩa này nên Phật nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có Nhất thừa, nhưng v́ vô minh che lấp nên chẳng thấy được.” Lại nói: “Sao gọi là nhất? Tất cả chúng sinh đều là Nhất thừa. Sao gọi là phi nhất? Là nói về Ba thừa. Sao gọi là phi nhất phi phi nhất? Là vô số pháp.”
(88) Kinh Hoa Nghiêm nói: “Văn Thù ! Pháp thường vậy Pháp vương chỉ một pháp Tất cả người vô ngại Một đạo thoát sinh tử Tất cả thân chư Phật Chỉ là một Pháp thân Một tâm, một trí tuệ Lực vô úy cũng vậy.”
(89) Như vậy, sự giác ngộ toàn hảo đều lấy đại lợi của tịnh độ An Dưỡng và chí đức của Phật nguyện khó nghĩ.
(90) Hải (海): Từ lâu xa đến nay, chuyển nước sông “tạp tu, tạp thiện của phàm Thánh” và chuyển nước biển “nghịch báng, xiển-đề, hằng sa vô minh” thành nước đại bảo hải của “bản nguyện, đại bi, trí tuệ, chân thật, hằng sa vạn đức,” dụ đó như biển. Bởi v́, như Kinh nói rằng: “Băng phiền năo tan thành nước công đức.” Nguyện hải (願海): Không thể giữ lại thây chết “tạp thiện trung hạ của Nhị thừa”, huống chi giữ thiện nghiệp “hư giả, tà ngụy” của nhân thiên, giữ thây chết “tạp độc, tạp tâm” ư!
(92) Cho nên kinh Đại Bản nói: “Thanh Văn hoặc Bồ-tát Chẳng xét được tâm Phật Ví như kẻ mù ḷa Muốn làm người dẫn đạo. Biển trí tuệ Như Lai Sâu rộng không bờ bến Nhị thừa chẳng lường được Chỉ riêng Phật tỏ rơ.”
(93) Tịnh Độ Luận nói: “Thế nào là thành tựu công đức Bất hư tác trụ tŕ trang nghiêm? Kệ rằng: Quán Phật Bản nguyện lực Ai gặp không luống qua Khiến được mau đầy đủ Biển báu lớn công đức. Sự thành tựu công đức ‘Bất hư tác trụ tŕ trang nghiêm’: Đó là bản nguyện lực của A Di Đà Như Lai. Nay lược nói tướng ‘hư tác’ không thể trụ tŕ, để nêu rơ nghĩa ‘bất hư tác trụ tŕ’. (…) Nói ‘Bất hư tác trụ tŕ’, là y theo bốn mươi tám bản nguyện của Bồ-tát Pháp Tạng, ngày nay là thần lực tự tại của A Di Đà Như Lai. Nguyện để thành lực, lực để tựu nguyện. Nguyện chẳng luống không, lực chẳng dối bày. Lực nguyện hợp nhau, rốt cuộc không sai, nên gọi là thành tựu.”
(94) “Hải (海): Chỉ cho Nhất thiết chủng trí của Phật, nó sâu rộng vô bờ, không chứa các thây chết “tạp thiện trung hạ của Nhị thừa”, dụ đó như biển. Cho nên nói, “Trời người chúng bất động, Biển trí thanh tịnh sinh.” Bất động, là nói trời người cơi kia thành tựu căn tánh Đại thừa, không thể khuynh động.”
(95) Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Tôi y Bồ-tát tạng Biển Nhất thừa Đốn giáo.”
(96) Lại nói: “Trong kinh An Lạc nói Tiệm giáo Vạn kiếp tu công chứng Bất thối. Quán Kinh, Di Đà Kinh đều nói Chính là Bồ-tát tạng Đốn giáo.”
(97) Lạc Bang Văn Loại, Thiền sư Tông Hiểu nói: “Một viên hoàn đan, biến sắt thành vàng; một lời chân lư, chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện.”
(98) Xét về Giáo, giữa niệm Phật và các điều thiện, so sánh đối luận có: khó dễ đối, đốn tiệm đối, ngang dọc đối, cao thấp đối, thuận nghịch đối, lớn nhỏ đối, nhiều ít đối, hơn kém đối, thân sơ đối, gần xa đối, sâu cạn đối, mạnh yếu đối, trọng khinh đối, rộng hẹp đối, thuần tạp đối, thẳng quanh đối, nhanh chậm đối, thông biệt đối, bất thối thối đối, trực biện nhân minh đối, danh hiệu định tán đối, lư tận phi lư tận đối, khuyến vô khuyến đối, vô gián gián đối, đoạn bất đoạn đối, tương tục bất tương tục đối, vô thượng hữu thượng đối, thượng thượng hạ hạ đối, tư nghị bất tư nghị đối, nhân hành quả đức đối, tự thuyết tha thuyết đối, hồi hướng bất hồi hướng đối, hộ bất hộ đối, chứng bất chứng đối, tán bất tán đối, phó chúc bất phó chúc đối, liễu giáo bất liễu giáo đối, căn cơ đảm đương không đảm đương đối, tuyển bất tuyển đối, chân giả đối, Phật diệt bất diệt đối, Pháp diệt bất diệt đối, lợi bất lợi đối, tự lực tha lực đối, hữu nguyện vô nguyện đối, nhiếp bất nhiếp đối, nhập định tụ bất nhập định tụ đối, báo hóa đối. Nghĩa đây như thế, nhưng xét giáo pháp của Nhất thừa Bản nguyện hải, đó là giáo pháp viên dung măn túc, cực tốc vô ngại, tuyệt đối bất nhị vậy.
(99) Và xét về Cơ, đối luận có: tín nghi đối, thiện ác đối, chánh tà đối, đúng sai đối, thật giả đối, chân ngụy đối, sạch dơ đối, lợi độn đối, chậm gấp đối, sang hèn đối, sáng tối đối. Nghĩa đây như thế, nhưng xét căn cơ của Nhất thừa hải, đó là căn cơ Kim cương tín tâm, tuyệt đối bất nhị vậy. Đáng biết.
(100) Kính bạch tất cả những người văng sinh: Hoằng thệ Nhất thừa hải, là thành tựu ‘chí đức’ vô ngại, vô biên, tối thắng, thâm diệu, bất khả thuyết, bất khả xưng, bất khả tư nghị. V́ sao? V́ thệ nguyện th́ không thể nghĩ bàn. Bi nguyện dụ như hư không rộng lớn, công đức vi diệu th́ rộng lớn vô biên. Giống như một cổ xe vĩ đại, có thể chuyên chở tất cả các phàm Thánh. Giống như đóa hoa sen mầu, không bị các pháp thế gian làm ô nhiễm. Giống như dược vương Thiện Kiến, có thể trừ diệt mọi bệnh phiền năo. Giống như con dao bén, có thể cắt đứt mọi áo giáp kiêu mạn. Giống như ngọn cờ của dũng tướng, có thể khuất phục được tất cả ma quân. Giống như cái cưa bén, nó có thể đốn hạ tất cả cây vô minh. Như lưỡi ŕu sắc, có thể chặt những cây khổ đau. Giống như một thiện tri thức, có thể tháo gỡ mọi trói buộc của sinh tử. Giống như một đạo sư, khéo cho biết yếu đạo để phàm phu xuất ly [sinh tử]. Giống như con suối ngầm, chảy ra nguồn nước trí tuệ vô cùng tận. Giống như hoa sen, không nhiễm tất cả những tội cấu. Giống như cơn gió mạnh, có thể xua tan sương mù ‘tất cả chướng’. Giống như mật ngon ngọt, đầy đủ mùi vị ‘tất cả công đức’. Giống như con đường chân chánh, khiến các quần sinh đi vào thành trí tuệ. Giống như thỏi nam châm, thu hút nhân tố ‘bản nguyên’. Giống như khối vàng diêm-phù-đàn, che chói sáng tất cả pháp lành hữu vi. Giống như phục tạng, có thể thu nhiếp tất cả Phật pháp. Cũng như đại địa, nơi ba đời mười phương tất cả Như Lai xuất hiện. Như ánh sáng mặt trời, phá tan mọi ngu si che lấp phàm phu, sinh ra tín lạc. Giống như đấng quân vương, vượt trội hơn tất cả bậc thượng thừa. Giống như người cha nghiêm, dạy bảo tất cả phàm Thánh. Giống như người mẹ hiền, sinh trưởng nhân chân thật cho báo độ của tất cả phàm Thánh. Giống như một nhũ mẫu, nuôi dưỡng và ǵn giữ tất cả người thiện ác văng sinh. Giống như đất rộng, có thể nắm giữ mọi sự văng sinh. Giống như nước lũ, có thể cuốn trôi mọi bụi bẩn phiền năo. Giống như lửa lớn, có thể thiêu rụi củi kiến chấp. Giống như gió mạnh, du hành khắp thế gian không chướng ngại. [Những công đức của bi nguyện có thể đưa chúng sinh] ra ngoài tường thành ‘ba cơi trói buộc’, đóng sập cánh cửa ‘hai mươi lăm hữu’, được sống nơi Báo độ chân thật, nhận rơ đường đi tà chánh, khô cạn biển ngu si, chảy vào biển thệ nguyện. Nương thuyền Nhất thiết trí, trôi trong biển cả quần sinh, viên măn khối phước trí, mở bày tạng phương tiện. Tốt thay được vâng giữ, đặc biệt đem đỉnh đầu đội lên.
(101) Nói đến thệ nguyện, có chân thật hành tín, cũng có phương tiện hành tín. Nguyện của chân thật hành là Chư Phật xưng danh nguyện . Nguyện của chân thật tín là Chí tâm tín lạc nguyện . Đây chính là hành tín của Tuyển trạch bản nguyện . Căn cơ, là tất cả phàm ngu lớn nhỏ thiện ác. Văng sinh, là nan tư nghị văng sinh . Phật độ, là báo độ của Báo Phật . Đây chính là Thệ nguyện bất tư nghị Nhất thật chân như hải , là tông giáo của kinh Đại Vô Lượng Thọ, là chánh ư của Tha lực chân tông . Lấy đó để “tri ân báo đức”, lật xem lời giải thích của Tông sư: “Bồ Tát quy hướng Phật, như con hiếu hướng về cha mẹ, như tôi trung hướng về quân vương, động tĩnh chẳng tự ư, ra vào phải lư do. Tri ân báo đức, theo lư phải thưa trước. Lại nữa, sở nguyện không hề nhẹ, nếu Như Lai không tiếp thêm oai thần, làm sao thành tựu được? Cầu xin ban thần lực, nên ngẩng đầu thưa bạch.” Như vậy, quy hướng lời dạy chân thật của Phật, vui mừng lời giải thích của chư Tổ, tin nhận ân đức sâu xa của Phật, mà làm Chánh tín niệm Phật kệ, rằng:
(102) Quy mạng Vô Lượng Thọ Như Lai Nam mô Bất Khả Tư Nghị Quang Bồ-tát Pháp Tạng lúc nhân vị Đến chỗ Phật Thế Tự Tại Vương Thấy nhân tố tịnh độ chư Phật Thiện ác nhân thiên cùng quốc độ Kiến lập nguyện thù thắng vô thượng Khởi phát thệ rộng lớn hiếm có Năm kiếp suy xét để nhiếp lấy Nguyện rằng danh tiếng vang mười phương Vô Lượng, Vô Biên Quang tỏa khắp Vô ngại, Vô Đối Quang, Viêm Vương Thanh Tịnh, Hoan Hỷ, Trí Tuệ Quang Bất Đoạn, Nan Tư, Vô Xứng Quang Siêu Nhật Nguyệt Quang chiếu cơi bụi Tất cả quần sinh mong sáng soi Bản nguyện danh hiệu chánh định nghiệp Chí tâm tín lạc nguyện làm nhân Thành Đẳng giác, chứng Đại Niết-bàn Tất chí diệt độ nguyện thành tựu Như lai sở dĩ hiện ở đời Chỉ nói Di Đà bản nguyện hải Thời ác năm trược biển quần sinh Phải tin lời thật của Như Lai Phát khởi một niệm tâm hỷ ái Chẳng đoạn phiền năo được Niết-bàn Phàm Thánh, nghịch báng cùng hồi nhập Các sông vào biển một mùi vị Nhiếp thủ tâm quang thường soi giữ Bóng tối vô minh bị phá vỡ Tham ái giận ghét làm mây mù Che bầu trời tín tâm chân thật Khi mặt nhật bị mây mù che Dưới mây mù vẫn sáng không tối Được tín, thấy kính rất mừng vui Liền vượt ngang cắt năm đường ác Tất cả thiện ác kẻ phàm phu Nghe tin Như Lai hoằng thệ nguyện Phật nói bậc thắng giải rộng lớn Người ấy là hoa phân-đà-lợi Phật Di Đà, bản nguyện niệm Phật Chúng sinh ác, tà kiến kiêu mạn Tín lạc thọ tŕ rất là khó Khó trong khó không ǵ qua đây. Những Luận sư Ấn Độ Tây thiên Cùng cao Tăng Trung Hạ, Nhật Bản Nói ư thú Đức Phật xuất thế Bày Như Lai bản nguyện ứng cơ
Thích Ca Như Lai núi Lăng Già V́ chúng huyền kư Nam Thiên Trúc Đại sĩ Long Thọ hiện ra đời Phá vỡ mọi kiến chấp hữu vô Tuyên thuyết pháp Đại thừa vô thượng Chứng Hoan hỷ địa, sinh An Lạc Bày tỏ nan hành đi bộ khổ Tin ưa dị hành đường thủy vui Nhớ nghĩ Di Đà bản nguyện Phật Tự nhiên tức thời nhập Tất định Chỉ phải thường xưng Như Lai hiệu Để báo ơn hoằng thệ đại bi. Bồ-tát Thiên Thân tạo luận thuyết Quy mạng Vô Ngại Quang Như Lai Y tu-đa-la bày chân thật Khai sáng Hoành siêu đại thệ nguyện Noi theo bản nguyện lực hồi hướng V́ độ quần sinh nói nhất tâm Trở về biển đại bảo công đức Mong được vào số Đại chúng hội Được đến thế giới Liên Hoa Tạng Liền chứng Chân như Pháp tánh thân Dạo rừng phiền năo, hiện thần thông Vào vườn sinh tử, thị Ứng hóa.
Bổn sư Đàm Loan: Lương thiên tử Thường hướng lễ Đàm Loan Bồ-tát Tam tạng Lưu Chi trao tịnh giáo Đốt bỏ Tiên Kinh quy Lạc bang Chú giải Thiên Thân Bồ-tát luận Báo độ nhân quả bày thệ nguyện Văng hoàn hồi hướng do tha lực Nhân của chánh định là tín tâm Phàm phu hoặc nhiễm tín tâm phát Chứng biết sinh tử tức Niết-bàn Ắt đến cơi Vô Lượng Quang Minh Chúng sinh các hữu đều phổ hóa.
Đạo Xước dạy Thánh đạo khó chứng Chỉ có Tịnh độ dễ thông nhập Vạn thiện tự lực gièm siêng tu Viên măn đức hiệu khuyên chuyên xưng Tam bất tam tín dạy ân cần Tượng, mạt, pháp diệt đồng bi dẫn Một đời tạo ác gặp hoằng thệ Đến cơi An Dưỡng chứng diệu quả.
Thiện Đạo sáng tỏ ư chỉ Phật Thương xót định tán và nghịch ác Ánh sáng, danh hiệu bày nhân duyên Đi vào Bản nguyện đại trí hải Hành giả tiếp nhận Kim cương tâm Rồi vui mừng nhất niệm tương ưng Vi Đề, chúng sinh được ba nhẫn Liền chứng thường lạc Pháp tánh thân.
Nguyên Tín rộng mở Giáo một đời Nghiêng về An Dưỡng khuyên tất cả Chuyên tạp chấp tâm rơ cạn sâu Báo hóa hai độ kiến tạo xong Người ác cực trọng chỉ niệm Phật Phật đă nhiếp lấy người ấy rồi Phiền năo chướng, mắt dù không thấy Đại bi không mệt chiếu thân ta .
Bổn sư Nguyên Không hiểu lời Phật Thương xót kẻ phàm phu thiện ác Phiến Châu hưng Chân tông Giáo chứng Tuyển Trạch Bản Nguyện hoằng đời ác Trở lại sinh tử, luân chuyển nhà Bởi lấy nghi t́nh làm chỗ dựa Mau nhập vắng lặng vui vô vi Phải dùng tín tâm để đi vào .
Đại sĩ hoằng Kinh, chư Tông sư Cứu giúp vô biên dữ vẩn đục Mọi người đạo tục chung một ḷng Chỉ tin những ǵ cao Tăng nói.
[60 ḍng đă xong, 120 câu.]
(Ba) Hiển Tịnh Độ Chân Thật Tín Văn Loại
Ngu ngốc Thích Thân Loan biên tập.
Tựa Đạt được tín lạc, là khởi phát từ nguyện tâm tuyển trạch của Như Lai. Khai tỏ chân tâm, là biểu hiện từ phương tiện từ bi của Đức Phật. Tuy nhiên, thời cuối đạo tục, đời gần Tông sư, say đắm Tự tánh duy tâm, chê bai Tịnh độ chân chứng; ham thích định tán tự tâm, mơ hồ Kim cương chân tín. Do vậy, Ngu ngốc Thích Thân Loan, tín thuận thật ngữ chư Phật Như Lai, lật xem tông nghĩa chư Sư luận thích . Rộng bày ân đức, rực rỡ tam kinh; mở mang văn tự, lộng lẫy nhất tâm . Vừa đến nghi vấn, bèn đưa minh chứng. Thành tâm nhớ Phật ân sâu nặng, không thẹn người đời chế nhạo tôi. Đồ chúng thích Tịnh bang, muôn người chán Uế độ, dù thủ xả ǵ, chớ sinh hủy báng.
(1) Kính xét, văng tướng hồi hướng có đại tín. Đại tín tâm, là phép thần “trường sinh bất tử”, là thuật diệu “hân tịnh yểm uế”, là chân tâm “tuyển trạch hồi hướng”, là tín lạc “lợi tha sâu rộng”, là chân tâm “Kim cương bất hoại”, là tịnh tín “dễ sinh về mà có mấy ai”, là nhất tâm “tâm quang nhiếp hộ”, là đại tín “hy hữu tối thắng”, là đường tắt “thế gian khó tin”, là thật nhân “chứng Đại Niết-bàn”, là bạch đạo “mau chóng viên dung”, là tín hải “chân như nhất thật”. Tâm ấy chính là từ “niệm Phật văng sinh nguyện” mà sinh ra. Đại nguyện ấy gọi là “tuyển trạch bản nguyện”, c̣n gọi là “bản nguyện tam tâm nguyện” , cũng gọi “chí tâm tín lạc nguyện”, và c̣n gọi là “văng tướng tín tâm nguyện”. Nhưng với quần sinh lưu chuyển, thường ch́m đắm trong ngu tối, th́ vô thượng diệu quả chẳng khó thành, chân thật tín lạc thực khó được. V́ sao? Chính nhờ thêm cái lực cứu độ [bất khả tư nghị] của Như Lai và nhờ cái lực đại bi quảng tuệ làm nhân tố mà có được tín tâm thanh tịnh chân thật. Tâm ấy không điên đảo, tâm ấy không hư ngụy, là v́ chúng sinh cực ác sâu nặng có được đại khánh hỷ tâm , lại được chư Thánh tôn trọng và yêu thương.
(2) Về bản nguyện “chí tâm tín lạc”, Đại Kinh nói: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương mà chí tâm tín lạc, muốn sinh về nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sinh th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác, chỉ trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch và hủy báng chánh pháp.”
(3) Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai nói: “Giả sử khi tôi chứng đắc Vô thượng giác, ở các cơi Phật khác có hữu t́nh loại nghe danh hiệu tôi, được bao thiện căn, dốc ḷng hồi hướng, nguyện sinh nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sinh th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác, chỉ trừ kẻ tạo nghiệp ác vô gián, phỉ báng chánh pháp và các bậc Thánh.”
(4) Bản nguyện thành tựu văn, Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Có những chúng sinh nghe danh hiệu Đức Phật ấy, tín tâm hoan hỷ, dù chỉ một niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện sinh về nước ấy, th́ liền được văng sinh ở bậc Bất thối chuyển, chỉ trừ kẻ phạm tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp.”
(5) Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai [Bồ-đề-lưu-chi dịch] nói: “Nơi Phật độ phương khác, có những hữu t́nh nghe danh hiệu của Vô Lượng Thọ Như Lai, mà có thể phát một niệm tịnh tín hoan hỷ ái lạc, được bao thiện căn, hồi hướng nguyện sinh về quốc độ của Vô Lượng Thọ Như Lai, tùy nguyện đều được sinh, được Bất thối chuyển, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chỉ trừ kẻ [tạo nghiệp] ngũ vô gián, phỉ báng chánh pháp và các bậc Thánh.”
(6) Lại nói: “Nghe pháp được chẳng quên Thấy kính rất mừng vui Là bạn lành của ta V́ vậy phải phát tâm.”
(7) Lại nói: “Đại loại như vậy, các bậc đại oai đức được sinh từ pháp môn đặc biệt trong giáo pháp quảng đại của Phật.”
(8) Lại nói: “Như Lai công đức Phật tự biết Chỉ có Thế Tôn khai thị được Trời, rồng, dạ-xoa chẳng bắt kịp Nhị thừa tự tuyệt nơi danh ngôn Nếu các hữu t́nh sẽ thành Phật Tu vượt Phổ Hiền lên bờ kia Diễn nói công đức của một Phật Trải qua nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn Trung gian khi ấy thân diệt độ Thắng tuệ của Phật không lường được V́ thế tin nghe phải đầy đủ Và các bạn lành thường nhiếp thọ Được nghe diệu pháp sâu như thế Sẽ được chư Thánh tôn ái trọng Như Lai thắng trí khắp hư không Ngữ nghĩa nói ra chỉ Phật ngộ Thế nên những trí sĩ bác văn Phải tin Ta dạy lời như thật Được thân loài người là rất khó Gặp Phật ra đời lại khó hơn Tín tuệ nhiều đời mới đạt được V́ thế người tu nên tinh tiến Diệu pháp như thế đă lắng nghe Thường nhớ chư Phật ḷng mừng vui.”
(9) Luận Chú nói: “Xưng danh Như Lai kia, như quang minh trí tướng của Như Lai kia, như danh nghĩa kia, muốn như thật tu hành tương ưng. Xưng danh Như Lai kia: Là xưng danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai vậy. Như quang minh trí tướng của Như Lai kia: Quang minh của Phật là tướng của trí tuệ vậy. Quang minh này soi chiếu các thế giới ở mười phương mà không có ǵ chướng ngại, trừ được bóng tối vô minh của chúng sinh mười phương. Chẳng phải như ánh sáng của mặt trời, mặt trăng hay châu ngọc, chỉ phá được bóng tối trong hang trống. Như danh nghĩa kia, muốn như thật tu hành tương ưng: danh hiệu của Vô Ngại Quang Như Lai kia có thể phá hủy tất cả vô minh của chúng sinh, có thể thỏa măn tất cả chí nguyện của chúng sinh. Tuy nhiên, có người xưng danh và nhớ nghĩ mà vô minh vẫn c̣n, các nguyện không thỏa măn, đó là sao vậy? Do v́ không như thật tu hành, không tương ưng với danh nghĩa. Thế nào là không như thật tu hành, không tương ưng với danh nghĩa? Là v́ không biết Như Lai là Thật tướng thân, là Vị vật thân. Lại nữa, có ba loại không tương ưng: một là, tín tâm không thuần, v́ khi c̣n khi mất; hai là, tín tâm bất nhất, v́ không quyết định; ba là, tín tâm không tương tục, v́ các niệm khác xen vào. Ba câu này triển chuyển làm thành cho nhau. V́ tín tâm không thuần, nên không quyết định; không quyết định, nên niệm không tương tục. Cũng có thể là, v́ niệm không tương tục, nên không có được quyết định tín; không có được quyết định tín, nên tâm không thuần. Ngược lại với điều này, gọi là như thật tu hành tương ưng. Thế nên luận chủ [Thế Thân] mới thốt lên: Con nhất tâm.”
(10) Tán A Di Đà Phật Kệ, Ḥa thượng Đàm Loan tạo, có ghi: “Ai nghe danh hiệu Phật A Di Đà Nghe xong hoan hỷ khởi đức tin Cho đến một niệm mà chí tâm Tâm nguyện hồi hướng đều được sinh Chỉ trừ ngũ nghịch, chê chánh pháp Nên con đảnh lễ nguyện văng sinh.”
(11) Quán Kinh [Định Thiện] Nghĩa, Ḥa thượng chùa Quang Minh viết: “Như ư có hai thứ: (1) Như ư của chúng sinh, là tùy theo tâm niệm chúng sinh mà thích ứng hóa độ. (2) Như ư của Đức Phật A Di Đà, là năm mắt viên chiếu, sáu thông tự tại. Quán căn cơ có thể hóa độ, nghĩa là trong một niệm, không trước không sau, thân tâm cùng hướng đến, ba luân để khai ngộ, lợi ích mỗi khác nhau.”
(12) Lại nói: “Các chúng sinh trong sáu đường đều nhận chịu năm trược, năm khổ và tám khổ này. Chưa có ai không bị các khổ bức năo. Ai không nhận chịu các khổ này th́ người đó chẳng thuộc số phàm phu.”
(13) Lại nói: “Từ ‘Những ǵ là ba tâm’, cho đến ‘ắt sinh nước kia’ , là xác định ba tâm để làm chánh nhân, đoạn này cũng có hai: (a) Đức Thế tôn tùy căn cơ mà nói sự lợi ích, ư thú sâu xa khó hiểu, nếu không nhờ Đức Phật tự hỏi, tự bày th́ không cách nào hiểu được. (b) Đức Như lai c̣n tự đáp về ba tâm ở trên.
Kinh nói: “Một là, chí thành tâm.” Chí, là chân. Thành, là thật. Điều này cho thấy, sự hiểu biết và tu hành của tất cả chúng sinh ngang qua ba nghiệp thân, khẩu, ư, phải được thực hiện bằng cái tâm chân thật, không được bên ngoài bày tướng tinh tấn hiền thiện, mà bên trong có cái tâm giả dối, tràn đầy tham sân, gian xảo, dối trá, tánh t́nh hung dữ khó gần, việc làm như rắn độc, ḅ cạp. Tuy khởi ba nghiệp, nhưng gọi là Thiện tạp độc , cũng gọi là Hành giả dối, không thể gọi là Nghiệp chân thật. Thực hiện sự an tâm và khởi hành như thế, dù cho thân tâm khổ nhọc gắng sức, ngày đêm mười hai thời, gấp chạy gấp làm, như lửa cháy đầu, vẫn gọi là Thiện tạp độc. Muốn hồi hướng sự hành [thiện] tạp độc này để cầu sinh Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà th́ chắc chắn không thể được. V́ sao? Nguyên do là Đức Phật A Di Đà kia, khi tu nhân hạnh Bồ-tát, cho dù một niệm một sát-na, sự tu tập ba nghiệp [của Ngài] đều làm bằng cái tâm chân thật. Hễ thực thi những ǵ để thú cầu cũng phải làm bằng cái tâm chân thật. Lại nữa, chân thật có hai thứ: (a) Tự lợi chân thật. (b) Lợi tha chân thật. (…) Chân thật trong tâm th́ ba nghiệp bất thiện đều phải xả bỏ. Lại nữa, nếu khởi ba nghiệp thiện, th́ phải được thực hiện bằng cái tâm chân thật, bất kể trong ngoài, sáng tối, đều phải chân thật, đó gọi là Chí thành tâm.
Kinh nói: “Hai là, thâm tâm.” Thâm tâm, tức là tâm thâm tín, cũng có hai thứ: (a) Thâm tín là xác quyết rằng, tự thân hiện là phàm phu tội ác ở trong sinh tử, nhiều kiếp đến nay thường ch́m đắm, thường lưu chuyển, không có nhân duyên xuất ly. (b) Thâm tín là xác quyết rằng, bốn mươi tám nguyện của Đức Phật A Di Đà là để nhiếp thọ chúng sinh, không nghi không lo, nương nguyện lực của Ngài th́ chắc chắn được văng sinh. Lại nữa, thâm tín là xác quyết rằng, Đức Phật Thích Ca đă thuyết Quán kinh này qua ba phước chín phẩm , định thiện tán thiện , để chứng thật và khen ngợi y báo và chánh báo của Đức Phật A Di Đà, khiến người ưa thích, ngưỡng mộ. Lại nữa, thâm tín là xác quyết rằng, kinh A Di Đà có nói, hằng hà sa số các Đức Phật ở mười phương đă chứng thật và khuyến khích tất cả phàm phu quyết định được sinh. Lại nữa, thâm tín là ngưỡng nguyện tất cả hành giả một ḷng tin tưởng vào lời Phật dạy, không màng thân mạng, quyết định y theo tu hành, xả những ǵ Phật dạy xả, hành những ǵ Phật dạy hành, sinh về chỗ Phật dạy sinh về, đó gọi là tùy thuận lời Phật dạy. Tùy thuận ư Phật, đó gọi là tùy thuận bản nguyện của Phật, đó gọi là đệ tử Phật chân thật. Lại nữa, tất cả hành giả nếu y theo [Quán] kinh này, thâm tín vào pháp hành, th́ chính là những chúng sinh không lầm lỗi. V́ sao? V́ Đức Phật là người tràn đầy tâm đại bi, và v́ lời dạy của Ngài trong kinh là chân thật. Ngoài Đức Phật ra, những người mà trí hành chưa đủ, c̣n ở học địa, là do có hai chướng chánh tập chưa trừ, quả nguyện chưa tṛn. Những phàm phu và Thánh nhân như vậy, dù có suy đoán về ư thú của lời Phật dạy, chưa thể hiểu rơ tường tận, hay dù có bàn luận, cũng cần phải thỉnh cầu sự chứng thật của Phật mới có thể xác quyết. Nếu phù hợp với ư Phật, th́ Ngài ấn khả, “Như vậy, như vậy!” Nếu không phù hợp với ư Phật, th́ Ngài sẽ nói, “Những ǵ các ông nói, nghĩa ấy không như vậy.” Những ǵ không được ấn chứng, giống như lời nói vô kư, vô lợi, vô ích. Những ǵ Đức Phật ấn khả, th́ tùy thuận chánh giáo của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chính là chánh giáo, chánh nghĩa, chánh hành, chánh giải, chánh nghiệp, chánh trí. Là nhiều hay ít, làm sao những chúng sinh – dù là bồ tát, người hay chư thiên – có thể xác định những lời dạy ấy là đúng hay sai? Những ǵ Đức Phật thuyết, chính là lời dạy liễu nghĩa . Những ǵ Bồ-tát thuyết, toàn là lời dạy bất liễu nghĩa. Nên biết như vậy. V́ lư do này, giờ đây kính khuyên tất cả những người hữu duyên với sự văng sinh, chỉ có thể thâm tín vào lời Phật dạy, chuyên chú phụng hành. Chớ nên tin theo lời dạy bất tương ưng của Bồ-tát, từ đó sinh ra nghi ngại, tự ḿnh mê hoặc, đánh mất lợi lớn của sự văng sinh. (…) Giả sử hôm nay Đức Thích Ca dạy khuyên: “Tất cả các phàm phu, trọn một đời này, chuyên niệm chuyên tu, sau khi xả mạng, chắc sinh nước kia”, th́ chư Phật mười phương cũng đồng khen ngợi, đồng khuyến khích, đồng chứng thật. V́ sao? V́ là đồng thể đại bi. Một Phật giáo hóa tức là tất cả Phật giáo hóa. Tất cả Phật giáo hóa tức là một Phật giáo hóa. Ngay trong kinh A Di Đà có nói: ‘Đức Phật Thích Ca khen ngợi các thứ trang nghiêm ở quốc độ Cực Lạc, lại khuyên tất cả phàm phu, một ngày hoặc bảy ngày, nhất tâm chuyên niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, th́ chắc được văng sinh.’ Đoạn văn tiếp theo nói: ‘Hằng hà sa số chư Phật ở mười phương đều khen ngợi Đức Thích Ca ở trong thời kỳ đầy cả năm thứ ác trược: thế giới độc ác, chúng sinh độc ác, kiến thức độc ác, phiền năo độc ác, thời kỳ thịnh hành tà ác và không có đức tin, lại có thể chỉ dạy và khen ngợi danh hiệu Đức Phật A Di Đà, khuyến khích chúng sinh xưng niệm th́ nhất định được văng sinh.’ Đây là lời chứng thật của chư Phật mười phương. Lại nữa, chư Phật mười phương sợ rằng chúng sinh không tin lời Đức Phật Thích Ca nói, nên các Ngài cùng đồng tâm, đồng thời, đưa ra tướng luỡi rộng dài, trùm khắp Đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: “Chúng sinh các vị, nên tin tưởng những lời Đức Thích Ca đă nói, khen ngợi và chứng thật: ‘Tất cả phàm phu, không kể tội phước nhiều ít, thời gian xa gần, có thể suốt một trăm năm, thậm chí một ngày hoặc bảy ngày, nhất tâm chuyên niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, th́ chắc được văng sinh, quyết không nghi ngờ’.” Thế nên, một Đức Phật nói ra th́ tất cả Đức Phật đồng làm chứng cho lời thành thật ấy. Đây gọi là ‘tựu nhân lập tín’ . (…) Lại nữa, trong phần chánh hành này cũng có hai thứ: (a) Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, đi đứng ngồi nằm, không kể thời gian lâu mau, niệm niệm bất xả, đó gọi là Chánh định nghiệp, v́ thuận theo bản nguyện của Đức Phật A Di Đà. (b) Nếu nương vào sự lễ bái, đọc tụng, v.v. th́ gọi là Trợ nghiệp. Ngoài hai hành chánh trợ này, các thiện hành khác của ḿnh, đều gọi là Tạp hành. [Nếu tu cả hai hành chánh trợ, th́ tâm thường gần gũi, nhớ nghĩ không ngừng, gọi là Vô gián hành. Nếu tu tạp hành, th́ tâm thường gián đoạn, tuy có thể hồi hướng được sinh,] nhưng được gọi là Sơ tạp hành. Đó gọi là thâm tâm.
Kinh nói: “Ba là, hồi hướng phát nguyện tâm.” (…) Lại nữa, hồi hướng phát nguyện sinh [Cực Lạc] th́ cần phải hồi hướng nguyện bằng cái tâm chân thật quyết định, khởi ư tưởng ‘được sinh’. Cái tâm thâm tín này, giống như kim cương, không bị động loạn hay phá hoại bởi những người có dị kiến, dị học, biệt giải, biệt hành, v.v. Chỉ là nhất tâm quyết định, nhắm ngay hướng thẳng, không được nghe lời những người kia, th́ có tiến thoái, tâm sinh yếu hèn, ngoảnh lại lạc đường, liền đánh mất đại lợi văng sinh. Hỏi: Nếu có những người tà tạp, giải hành bất đồng, mang đến mê loạn, hoặc nói các thứ nghi nạn, hoặc nói [phàm phu] không được văng sinh, rằng là: “Chúng sinh các vị, nhiều kiếp đến đời nay, thân khẩu ư nghiệp, đối với trên thân tất cả phàm Thánh, tạo đủ mười ác, năm nghịch, bốn trọng, báng pháp, xiển-đề, phá giới, phá kiến, v.v. chưa thể trừ hết. Những tội như thế đă ràng buộc các vị trong tam giới ác đạo, làm sao chỉ một đời tu phước, niệm Phật mà được đi vào quốc độ vô lậu vô sinh kia, được chứng ngộ địa vị bất thối ư?” Đáp: Giáo và hành của chư Phật nhiều hơn cát bụi. Cơ duyên của chúng sinh th́ khác nhau, tùy thuộc t́nh thức của họ. Ví như người thế gian có đôi mắt để thấy, để tin, như: ánh sáng xua tan bóng tối, không gian bao trùm vạn vật, đất chuyên chở và nuôi dưỡng, nước sinh trưởng và thấm ướt, lửa sinh thành và hủy hoại. Các việc như thế đều gọi là pháp đối đăi. Con mắt thấy được ngàn muôn sai khác, huống chi Phật pháp có năng lực bất tư nghị, há không có các thứ lợi ích? Theo ra một cửa, tức là ra cửa phiền năo; theo vào một cửa, tức là vào cửa giải thoát trí tuệ. Theo cách này, mỗi người t́m cầu giải thoát và khởi hành tùy theo duyên. Tại sao ông chướng ngại tôi bằng những yếu hành mà chẳng hữu duyên với tôi? Những ǵ tôi yêu thích chính là các hành mà hữu duyên với tôi, đó không phải những ǵ ông mong cầu. Những ǵ ông yêu thích chính là các hành mà hữu duyên với ông, đó không phải những ǵ tôi mong cầu. Do đó, mỗi người tu tập các hành phù hợp với nguyện vọng của ḿnh, th́ chắc chắn mau được giải thoát. Hành giả nên biết: Nếu muốn giải học , từ phàm đến Thánh, cho đến quả Phật, th́ thảy đều học được mà không ǵ trở ngại. Nếu muốn hành học , th́ phải nhờ vào pháp hữu duyên, nỗ lực dụng công th́ ít mà thu được lợi ích rất nhiều. Lại nữa, tôi nói với những ai nguyện sinh Tịnh độ: Bây giờ tôi sẽ nói một thí dụ cho các hành giả, để ǵn giữ tín tâm, ngăn ngừa các nạn ngoại tà, dị kiến. Thí dụ đó là ǵ? Giả sử có một người lữ hành đi một trăm ngàn dặm về hướng Tây, dọc đường bỗng gặp hai con sông [trong một ḍng sông], một là sông lửa chảy về hướng Nam, hai là sông nước chảy về hướng Bắc. Hai con sông rộng một trăm thước, sâu không thấy đáy, Nam Bắc dài vô tận. Ngăn cách lửa và nước là một con đường màu trắng rộng bốn năm tấc. Có một con đường [bắc ngang qua hai con sông], từ bờ Đông sang bờ Tây rộng hơn một trăm thước. Những cơn sóng nước trào lên làm ướt con đường và những ngọn lửa bốc lên đốt nóng con đường. Nước và lửa cứ thế luân phiên nhau không ngừng nghỉ. Bấy giờ, người lữ hành đă đi sâu vào vùng hoang dă rộng lớn, không có một bóng người hay vật ǵ. Có những tên cướp ẩn nấp và thú dữ ŕnh rập ở đó, và khi thấy người này đơn độc, chúng tranh nhau chạy đến muốn giết hại. Người này sợ chết, chạy thẳng về hướng Tây, bỗng thấy con sông lớn kia, liền tự nghĩ rằng: “Con sông này từ Nam chí Bắc không thấy bờ mé, giữa sông thấy một con đường trắng, rất là nhỏ hẹp, hai bờ cách nhau tuy gần nhưng làm sao đi được? Hôm nay tôi chắc chắn sẽ chết. Nếu tôi quay trở lại, những tên cướp và thú dữ đang từ từ áp sát. Nếu tôi chạy về phía Bắc hay phía Nam, thú dữ và trùng độc đang tranh nhau chạy vể phía tôi. Nếu tôi muốn đi về phía Tây, t́m đường thoát, lại sợ rơi vào hai con sông nước và lửa.” Không có từ nào để diễn tả nỗi kinh hoàng và tuyệt vọng vào thời điểm đó, người lữ hành tự suy nghĩ: “Bây giờ tôi quay lại cũng chết, đứng đây cũng chết, đi tiếp cũng chết, không có cách nào để tôi thoát khỏi cái chết. V́ vậy, tôi nên t́m kiếm con đường này, hướng về phía trước mà đi. Đă có con đường này th́ có thể vượt qua sông.” Lúc nghĩ như thế, chợt nghe giọng nói khích lệ của ai đó ở bờ Đông: “Nhân giả! Nếu quyết định t́m con đường này mà đi, th́ sẽ thoát được cái chết. Nhưng nếu ở lại th́ sẽ chết.” Thêm nữa, bên bờ Tây cũng có người kêu rằng: “Ngươi nên nhất tâm chánh niệm mà đi thẳng đến đây, ta sẽ che chở cho ngươi, không sợ rơi vào nạn nước lửa.” Người này nghe được lời kêu gọi đó, th́ liền tự trấn tỉnh thân tâm, quyết tâm t́m đường mà thẳng tiến, không sinh tâm khiếp sợ lui sụt. Đi được một bước, hai bước, th́ bên bờ Đông các tên cướp lại réo gọi: “Nhân giả, hăy quay lại! Con đường đó nguy hiểm, không thể đi qua được, chắc chắn sẽ bị chết ngay. Chúng tôi không có ác tâm đối với nhân giả.” Người lữ hành tuy nghe tiếng kêu mà không ngoảnh lại, chỉ nhất tâm thẳng tiến, nhớ đường mà đi. Chốc lát liền đến bờ Tây, thoát khỏi các nạn, gặp gỡ bạn lành, vui mừng không ngớt. Đây là thí dụ. Giờ hăy áp dụng thí dụ: ‘Bờ Đông’ là dụ cho nhà lửa Ta-bà. ‘Bờ Tây’ là dụ cho nước báu Cực Lạc. ‘Bọn cướp ngụy trang, thú dữ tiếp cận’ là chỉ cho sáu căn, sáu thức, sáu trần, năm ấm, bốn đại. ‘Nơi hoang dă đầm lầy không có bóng người’ là dụ cho thường theo bạn ác, không gặp được thiện tri thức chân chánh. ‘Hai sông nước lửa’ là dụ cho chúng sinh có những tham lam, luyến ái như nước và những sân si, ganh ghét như lửa. ‘Con đường trắng ở giữa, rộng bốn năm tấc’ là dụ giữa tham sân phiền năo của chúng sinh có thể khởi một tâm thanh tịnh nguyện sinh Cực Lạc. V́ ḷng tham sân mănh liệt mà dụ cho ‘nước và lửa’, v́ tâm thiện lành ít ỏi mà dụ cho ‘con đường trắng’. ‘Sóng nước thường làm ướt con đường’ là dụ cho tâm luyến ái thường khởi làm cho nhiễm ô tâm thiện lành. ‘Ngọn lửa thường đốt nóng con đường’ là dụ cho tâm sân hận, ganh ghét, có công năng thiêu đốt các pháp tài công đức. ‘Người lữ hành trên đường đi về hướng Tây’ là dụ cho các hành nghiệp được hồi hướng về Tây phương. ‘Bờ Đông nghe tiếng người khuyên bảo, hăy t́m con đường, tiến thẳng về hướng Tây’ là dụ cho Đức Thích Ca đă diệt độ, người đời sau không thể gặp Phật, nhưng giáo pháp của Ngài vẫn tồn tại, có thể t́m gặp, và giáo pháp ấy giống như giọng nói. ‘Đi được một bước, hai bước, th́ các tên cướp réo gọi’ là dụ cho những người có biệt giải, biệt hành, ác kiến v.v. họ nói ra những kiến giải sai lầm, luân phiên làm cho mê hoặc, rối loạn, khiến tự tạo tội mà lui sụt. ‘Bờ Tây có người kêu gọi’ là dụ cho ư nguyện của Đức Phật A Di Đà. ‘Chốc lát liền đến bờ Tây, gặp gỡ bạn lành, vui mừng không ngớt’ là dụ cho chúng sinh lâu xa ch́m đắm sinh tử, nhiều kiếp luân hồi, mê đảo tự trói, vô phương giải thoát, cậy nhờ Đức Phật Thích Ca khuyến khích, dạy hướng về Tây, lại nương tựa vào tâm từ bi của Đức Phật A Di Đà mời gọi. Hôm nay đă tin tưởng và tùy thuận ư nguyện của hai Đức Phật, không quay đầu lại nh́n ‘hai sông nước lửa’, niệm niệm không dời đổi, nương vào ‘con đường’ nguyện lực của Đức Phật A Di Đà, sau khi qua đời, được sinh về Cực lạc, nh́n thấy Đức Phật, vui thích nào bằng. Lại nữa, tất cả hành giả, khi đi đứng ngồi nằm, tu tập ba nghiệp, bất kể thời gian, dù ngày hay đêm, thường nhận thức như thế, thường nghĩ tưởng như thế, đó gọi là Hồi hướng phát nguyện tâm. Lại nói về hồi hướng: Sau khi sinh về quốc độ ấy, phát khởi tâm đại bi, trở vào cơi sinh tử để giáo hóa chúng sinh, cũng gọi là hồi hướng. Ba tâm đă đầy đủ, chẳng hành nào không thành. Nguyện và hành đă thành, mà không được sinh về, rơ ràng không việc đó. Lại nữa, ba tâm này cũng nhiếp chung ư nghĩa định thiện, nên biết như thế.”
(14) “Kính bạch tất cả thiện tri thức cầu văng sinh, phải hết sức xấu hỗ. Đức Thích Ca Như Lai thật là cha mẹ Từ bi, dùng các thứ phương tiện để phát khởi vô thượng tín tâm nơi chúng ta.”
(15) Trinh Nguyên Tân Định Thích Giáo Mục Lục , quyển 11 , ghi: “Tập Chư Kinh Lễ Sám Nghi, 2 quyển, Đại Đường, Tây Sùng Phúc Tự , Sa-môn Trí Thăng soạn.” Ngày 23 tháng 10 năm Trinh Nguyên thứ 15 (799), sách này được hiệu đính và đưa vào Đại tạng. Tập Chư Kinh Lễ Sám Nghi, quyển thượng, Ngài Trí Thăng y cứ chư kinh mà biên soạn, và phần sám nghi có dẫn Lễ sám giờ Ngọ của Đại sư Thiện Đạo, vốn y cứ [Thập lục quán] trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Ở quyển hạ, mở đầu ghi, “Tỳ kheo Thiện Đạo tập kư. Văng Sinh Lễ Tán Kệ, một quyển. Khuyên tất cả chúng sinh nguyện sinh Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật quốc ở phương Tây”, đây là sao chép sám nghi văn thiết yếu. “Hai là, thâm tâm, tức là chân thật tín tâm. Tin biết tự thân là phàm phu có đủ các phiền năo, thiện căn mỏng ít, lưu chuyển ba cơi, chưa ra khỏi nhà lửa. Ngày nay tin biết bản thệ nguyện rộng lớn của Đức Phật A Di Đà và xưng danh hiệu [của Ngài] tối thiểu mười tiếng, th́ chắc chắn được văng sinh, dù chỉ một niệm mà không có ḷng nghi, nên gọi là thâm tâm.” “Ai nghe được danh hiệu Đức Phật A Di Đà Hoan hỷ đến nhất tâm. Sẽ được sinh nước kia.”
(16) Văng Sinh Yếu Tập chép: “Phẩm Nhập Pháp Giới nói: ‘Thí như có người sở hữu loại thuốc ‘không thể hoại’ th́ tất cả oán địch không thể tùy tiện hại được. Bồ-tát ma-ha-tát cũng như vậy, có được Bồ-đề tâm – pháp dược ‘không thể hoại’, th́ tất cả phiền năo, các ma oán địch đều không thể phá hoại.’ ‘Thí như có người dùng bảo châu ‘đứng nước’ làm chuỗi ngọc đeo thân, vào trong nước sâu mà không bị ch́m đắm. Bồ-tát ma-ha-tát cũng như vậy, có được Bồ-đề tâm – bảo châu ‘đứng nước’, th́ vào trong biển sinh tử mà không bị ch́m đắm.’ ‘Thí như kim cương ở yên trong nước qua trăm ngàn kiếp mà không hư hoại, cũng không biến đổi. Bồ-đề tâm cũng như vậy, ở trong sinh tử trải vô lượng kiếp, mà các phiền năo và nghiệp không thể đoạn diệt, cũng không tổn giảm.’”
(17) Lại nói: “Con cũng ở trong sự nhiếp thủ [bất xả] của Đức Phật A Di Đà, mặc dù con mắt ‘phiền năo chướng’ của con không nh́n thấy [ánh sáng của Phật], nhưng tâm đại bi ‘không mệt mỏi’ của Phật thường chiếu thân con.”
(18) Như vậy, dù là hành hay tín, không có một sự nào [của chúng ta] được thành tựu mà chẳng phải là sự hồi hướng của nguyện tâm thanh tịnh của A Di Đà Như Lai. Chẳng phải không có nguyên nhân, hay do nhân nào khác, mà có được. Nên biết như vậy.
(19) Hỏi: Bản nguyện mà Như Lai đă phát có lời thệ: “Chí tâm, tín lạc, dục sinh” , v́ sao Bồ-tát Thế Thân, tác giả luận Văng Sinh, chỉ nói đến “Nhất tâm” ? Đáp: Vấn đề trở nên dễ hiểu đối với những chúng sinh ngu độn rằng, A Di Đà Như Lai dẫu phát ba tâm – nhân tố chân thật đưa đến Niết-bàn (: Báo độ), nhưng chỉ quan trọng tín tâm. V́ lư do này mà luận chủ gộp ba tâm làm một tâm.
(20) Riêng xem tự huấn của ba tâm, ba hợp lại thành một. Ư ấy thế nào? Chí tâm: Chí, là chân, là thật, là thành. Tâm, là chủng, là thật. Tín lạc: Tín, là chân, là thật, là thành, là măn, là cực, là thành, là dụng, là trọng, là thẩm, là nghiệm, là tuyên, là trung. Lạc, là dục, là nguyện, là ái, là duyệt, là hoan, là hỷ, là hạ, là khánh. Dục sinh: Dục, là nguyện, là lạc, là giác, là tri. Sinh, là thành, là tác, là vi, là hưng. Biết rơ: Chí tâm chính là cái tâm của chân, thật, thành, chủng, cho nên không xen tạp triền cái nghi ngờ . Tín lạc chính là cái tâm của chân, thật, thành, măn; là cái tâm của cực, thành, dụng, trọng; là cái tâm của dục, nguyện, ái, duyệt; là cái tâm của hoan, hỷ, hạ, khánh, cho nên không xen tạp triền cái nghi ngờ. Dục sinh chính là cái tâm của nguyện, dục, giác, tri; là cái tâm của thành, tác, vi, hưng; là cái tâm của đại bi hồi hướng, cho nên không xen tạp triền cái nghi ngờ. Nay xét tự huấn của ba tâm: tâm chân thật nên không xen tạp hư giả, tâm chánh chân nên không xen tạp tà ngụy. Thật biết: V́ triền cái nghi ngờ không xen vô giữa, nên gọi là Tín lạc. Đó là lư do luận chủ Thế Thân thiết lập “Nhất tâm”. Nên biết điều này.
(21) Hỏi: Theo tự huấn của ba tâm, và ư của luận chủ về nghĩa ‘lấy ba làm một’, lư ấy có thể đúng, nhưng v́ chúng sinh ngu độn và tà ác, A Di Đà Như Lai đă phát lời nguyện ‘ba tâm’, làm thế nào tư niệm? Đáp: Ư Phật khó suy lường. Tuy nhiên, trộm suy đoán ba tâm, thấy rằng, biển cả ‘tất cả quần sinh’ , từ vô thủy kiếp cho đến ngày nay, ngay hôm nay và giây phút này, đều là ô nhiễm và xấu ác, không có tâm thanh tịnh; hư giả và dối trá, không có tâm chân thật. V́ vậy, Đức Như Lai từ bi thương xót biển cả ‘tất cả chúng sinh khổ năo’ , trong thời gian bất khả tư nghị triệu năm số kiếp lâu xa, đă thực hành Bồ-tát hạnh và tu tập ba nghiệp, nhưng không có một niệm, một sát-na nào mà không là cái tâm thanh tịnh, không là cái tâm chân thật. Như Lai đem cái tâm thanh tịnh và chân thật này mà thành tựu ‘chí đức’ viên dung vô ngại, bất khả tư nghị, bất khả xưng, bất khả thuyết. Như Lai [đem cái tâm thanh tịnh và chân thật này] ‘chí tâm’ hồi hướng cho biển cả ‘tất cả quần sinh phiền năo, ác nghiệp, tà trí’ ở trong chư hữu , đó toàn là biểu lộ cái tâm chân thật lợi tha, cho nên triền cái nghi ngờ không xen tạp. Chí tâm ấy lấy chí đức và tôn hiệu làm bản thể.
(22) Thế nên Đại Kinh nói: “[Trong thời gian bất khả tư nghị triệu năm số kiếp lâu xa, Như Lai tích chứa vô lượng đức hạnh Bồ-tát,] chẳng sinh dục giác, sân giác, hại giác; chẳng khởi dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng; chẳng trước sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; thành tựu nhẫn lực, chẳng nài gian khổ, ít muốn biết đủ, không có tham sân si, chánh định thường vắng lặng, trí tuệ vô ngại, không có tâm dối trá bợ đỡ quanh co, sắc mặt hiền ḥa, lời nói thân thương, biết trước ư người, sẵn ḷng giải đáp, dũng mănh tinh tiến, chí nguyện không mệt mỏi, chuyên cầu pháp thanh bạch, đem t́nh thương lợi ích quần sanh, biết cung kính Tam bảo, phụng thờ Sư trưởng, dùng đại trang nghiêm đầy đủ các hành, khiến các chúng sinh thành tựu công đức.”
(23) Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai nói: “Phật bảo tôn giả A-nan: Tỳ kheo Pháp Xứ ấy đối trước Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai và chư thiên, nhân, ma phạm , sa-môn, bà-la-môn, v.v. mà quảng phát đại hoằng thệ nguyện như thế, đều đă thành tựu sự hy hữu ở thế gian. Phát nguyện ấy rồi, như thật an trú các thứ công đức, đầy đủ trang nghiêm uy đức quảng đại thanh tịnh Phật độ. Khi tu tập Bồ-tát hạnh như thế, trải qua vô lượng vô số bất khả tư nghị, không có toán số, trăm triệu na-do-tha trăm ngàn kiếp, mà chưa từng khởi tham, sân, si; không khởi dục tưởng, hại tưởng, khuể tưởng; không khởi các tưởng về sắc, thanh, hương, vị, xúc; đối với chúng sinh thường thể hiện sự yêu thương và tôn trọng giống như người thân thuộc, tánh t́nh ôn ḥa, dễ dàng thích nghi mọi chỗ, có người đến thỉnh cầu chẳng nghịch ư họ, khéo nói khuyến dụ bằng cả ḷng thành, nuôi dưỡng thân mạng để mà hành đạo, ít muốn biết đủ, thường ưa thanh vắng, tâm trí thông minh không có giả tạo, tánh t́nh ḥa thuận không có hung dữ, đối với hữu t́nh luôn ôm ḷng thương và sự nhẫn nhịn, tâm không dối trá, thân không giải đăi, khéo nói sách tiến cầu các bạch pháp, khắp v́ quần sinh dũng mănh không thoái lui, lợi ích thế gian mới viên măn đại nguyện.”
(24) Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Muốn hồi hướng sự hành [thiện] tạp độc này để cầu sinh Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà th́ chắc chắn không thể được. V́ sao? Nguyên do là Đức Phật A Di Đà kia, khi tu nhân hạnh Bồ-tát, cho dù một niệm một sát-na, sự tu tập ba nghiệp [của Ngài] đều làm bằng cái tâm chân thật. Hễ thực thi những ǵ để thú cầu cũng phải làm bằng cái tâm chân thật. Lại nữa, chân thật có hai thứ: (a) Tự lợi chân thật. (b) Lợi tha chân thật. (…) Chân thật trong tâm th́ ba nghiệp bất thiện đều phải xả bỏ. Lại nữa, nếu khởi ba nghiệp thiện, th́ phải được thực hiện bằng cái tâm chân thật, bất kể trong ngoài sáng tối đều phải chân thật, đó gọi là Chí thành tâm.”
(25) Như vậy, qua lời chân thật của Đức Phật và nghĩa giải thích của Tông sư, chúng con tin biết rằng, tâm ấy là cái tâm chân thật hồi hướng lợi ích cho người khác, nó bắt nguồn từ biển cả ‘Nhất thừa đại trí nguyện bất khả tư nghị, bất khả xưng, bất khả thuyết’ , và đó gọi là Chí tâm.
(26) Đă nói ‘Chân thật’. Chân thật là: Kinh Niết-bàn nói: “Thật đế là một đạo thanh tịnh, không có hai vậy.” “Nói chân thật tức là Như Lai. Như Lai tức là chân thật. Chân thật tức là hư không. Hư không tức là chân thật. Chân thật tức là Phật tánh. Phật tánh tức là chân thật.”
(27) Giải thích câu, “Bất kể trong ngoài, sáng tối.” Trong ngoài: Trong, là xuất thế gian. Ngoài, là thế gian. Sáng tối: Sáng, là xuất thế gian. Tối, là thế gian. Kinh Niết-bàn nói: “Tối tức là thế gian, sáng tức là xuất thế gian. Tối tức là vô minh, sáng tức là trí minh.”
(28) Kế đến, nói về Tín lạc: Đó là biển cả ‘tín tâm măn túc đại bi, viên dung vô ngại’ của Như Lai. Do đó, triền cái nghi ngờ không xen vô giữa, nên gọi là Tín lạc. Bản chất của tín lạc là ‘chí tâm’ làm lợi ích người khác và hồi hướng. Tuy nhiên, từ vô thủy đến nay, biển cả ‘tất cả quần sinh’ lưu chuyển trong biển cả ‘vô minh’ , ch́m đắm trong bánh xe chư hữu, trói buộc trong luân hồi khổ đau, cho nên họ không có tín lạc nào thanh tịnh, và theo cách tồn tại của họ , họ cũng không có tín lạc nào chân thật. Do đó, với công đức vô thượng, họ khó mà gặp gỡ; với tịnh tín tối thắng, họ khó mà đạt được. Tất cả phàm phu nhỏ bé ở mọi thời gian, tâm tham ái thường xuyên nhuốm bẩn thiện tâm, tâm sân tắng (giận ghét) thường xuyên thiêu đốt pháp tài . Ngay cả khi họ gấp tu, gấp hành, như lửa cháy đầu, th́ sự tu hành đó được gọi là ‘Thiện tạp độc, tạp tu’ , cũng gọi ‘Hành hư giả, dối trá’ , không thể gọi là ‘Nghiệp chân thật’. Đem cái hành hư giả và thiện tạp độc này mà muốn sinh về quốc độ Vô lượng ánh sáng, th́ chắc chắn không thể được. V́ sao? Nguyên do là A Di Đà Như Lai, khi thực hành Bồ-tát hạnh, tu tập ba nghiệp, cho dù một niệm một sát-na, triền cái nghi ngờ không có xen tạp. Tâm [tín lạc] ấy, chính là do tâm đại bi của Như Lai mà quyết định thành tựu chánh nhân của Báo độ và chánh định [tụ]. Như Lai thương xót biển cả ‘quần sinh khổ năo’ , đă đem Tịnh tín quảng đại vô ngại mà hồi hướng và hiến tặng cho biển cả ‘chư hữu’ . Đây gọi là Tín tâm chân thật lợi tha.
(29) Về ‘Bản nguyện tín tâm nguyện thành tựu văn’, Đại Kinh nói: “Chúng sinh trong chư hữu nghe danh hiệu của Đức Phật ấy mà tín tâm hoan hỷ, dù chỉ một niệm.”
(30) Lại nói: “Phật độ ở phương khác, có chúng sinh nào nghe danh hiệu của Vô Lượng Thọ Như Lai, cho đến phát khởi một niệm tịnh tín hoan hỷ.”
(31) Kinh Đại Niết-bàn nói: “Này thiện nam! Đại từ đại bi gọi là Phật tánh. V́ sao? V́ đại từ đại bi thường theo Bồ-tát như bóng theo h́nh. Tất cả chúng sinh chắc chắn sẽ được đại từ đại bi, cho nên nói rằng, ‘Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh’. Đại từ đại bi, gọi là Phật tánh. Phật tánh, gọi là Như Lai. Đại hỷ đại xả, gọi là Phật tánh. V́ sao? V́ Đại Bồ-tát nếu chẳng thể xả bỏ hai mươi lăm hữu th́ không thể đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. V́ các chúng sinh chắc chắn sẽ đạt được [Vô thượng Bồ-đề], cho nên nói rằng, ‘Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh’. Đại hỷ đại xả tức là Phật tánh, Phật tánh tức là Như Lai. Phật tánh, gọi là đại tín tâm. V́ sao? V́ do tín tâm nên Đại Bồ-tát có thể đầy đủ Đàn ba-la-mật cho đến Bát-nhă ba-la-mật. V́ tất cả chúng sinh chắc chắn sẽ đạt được đại tín tâm, cho nên nói rằng, ‘Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh’. Đại tín tâm tức là Phật tánh, Phật tánh tức là Như Lai. Phật tánh, gọi là Nhất tử địa . V́ sao? V́ do nhân duyên Nhất tử địa nên Bồ-tát được tâm b́nh đẳng đối với tất cả chúng sinh. V́ tất cả chúng sinh chắc chắn sẽ đạt được Nhất tử đia, cho nên nói rằng, ‘Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh’. Nhất tử địa tức là Phật tánh, Phật tánh tức là Như Lai.”
(32) Lại nói: “Hoặc nói quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác lấy tín tâm làm nhân. Nhân của Bồ-đề này tuy có vô lượng, nhưng nếu nói tín tâm th́ đă nhiếp hết thảy.”
(33) Lại nói: “Tín lại có hai thứ: một là, tín sinh từ nghe; hai là, tín sinh từ tư duy. Tín tâm của người này từ nghe mà sinh, không từ tư duy mà sinh, đó gọi là Tín không đầy đủ. Lại có hai thứ: một là, tín có đạo; hai làm tín có người đắc đạo. Tín tâm của người này tuy tin có đạo nhưng hoàn toàn không tin có người đắc đạo, đó gọi là Tín không đầy đủ.”
(34) Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nghe pháp này hoan hỷ Người tín tâm không nghi Mau thành đạo Vô thượng Ngang bằng chư Như Lai.”
(35) Lại nói: “Như Lai dứt trừ hết Nghi hoặc của chúng sinh Tùy tâm họ ưa thích Thảy đều khiến đầy đủ.”
(36) Lại nói: “Tin là nguồn đạo, mẹ công đức Nuôi lớn tất cả pháp thiện lành Dứt trừ lưới nghi, thoát ḍng ái Khai thị Niết-bàn, đạo Vô thượng. Tin không vẩn đục, tâm thanh tịnh Là gốc cung kính, trừ kiêu mạn Là tài sản đứng đầu Pháp tạng Là tay thanh tịnh nhận các hành. Tin là ban cho, không bỏn-sẻn Tin là hoan hỷ vào Phật pháp Tin là thêm lớn trí, phước đức Tin ắt đến được Như Lai địa. Tin khiến các căn sạch, sáng, lẹ Sức tin kiên cố không hư hoại Tin là dứt hẳn cội phiền năo Tin là chuyển hướng công đức Phật. Tin là không chấp vào cảnh giới Rời xa các nạn, được vô nạn Tin là vượt thoát các đường ma Thị hiện đạo giải thoát vô thượng. Tin không làm hỏng giống công đức Tin là sinh trưởng cây bồ-đề Tin là thêm lớn trí tối thắng Tin là thị hiện tất cả Phật. Thế nên theo hạnh nói thứ đệ Tín lạc tối thắng, rất khó được. [Ví như trong tất cả thế gian Mà có diệu bảo châu tùy ư.] Nếu thường tín phụng nơi chư Phật Th́ tŕ giới và tu học xứ. Nếu thường tŕ giới, tu học xứ Th́ đầy đủ được các công đức. Giới hay khai phát gốc bồ-đề Học là siêng tu công đức địa, Nơi giới và học thường thuận hành Th́ được chư Phật luôn khen ngợi. Nếu thường tín phụng nơi chư Phật Th́ ưa phát khởi cúng dường lớn Nếu ưa phát khởi cúng dường lớn Người này tin Phật bất tư nghị. Nếu thường tín phụng nơi tôn Pháp Th́ nghe Phật pháp không nhàm đủ Nếu nghe Phật pháp không nhàm đủ Người này tin Pháp bất tư nghị. Nếu thường tín phụng thanh tịnh Tăng Th́ được tín tâm bất thối chuyển Nếu được tín tâm bất thối chuyển Người này tín lực không dao động. Nếu được tín lực không dao động Th́ được các căn sạch, sáng, lẹ Nếu được các căn sạch, sáng, lẹ Th́ rời xa được ác tri thức. Nếu rời xa được ác tri thức Th́ được gần gũi thiện tri thức Nếu được gần gũi thiện tri thức Th́ tu tập được quảng đại thiện. Nếu hay tu tập quảng đại thiện Người này thành tựu sức nhân lớn Nếu người thành tựu sức nhân lớn Th́ được quyết định giải thù thắng. Nếu được quyết định giải thù thắng Th́ được chư Phật thường hộ niệm Nếu được chư Phật thường hộ niệm Th́ phát khởi được tâm bồ-đề Nếu phát khởi được tâm bồ-đề Th́ hay siêng tu công đức Phật Nếu hay siêng tu công đức Phật Th́ được sinh vào nhà của Phật. Nếu được sinh ở nhà chư Phật Th́ khéo tu hành xảo phương tiện Nếu khéo tu hành xảo phương tiện Th́ được tín lạc, tâm thanh tịnh. Nếu được tín lạc, tâm thanh tịnh Th́ được tâm tang thượng tối thắng Nếu được tâm tang thượng tối thắng Th́ thường tu tập ba-la-mật Nếu thường tu tập ba-la-mật Th́ được trọn đủ pháp đại thừa Nếu được trọn đủ pháp đại thừa Th́ đúng như pháp cúng dường Phật. Nếu đúng như pháp cúng dường Phật Th́ siêng niệm Phật tâm bất động Nếu siêng niệm Phật tâm bất động Th́ thường nh́n thấy vô lượng Phật. Nếu thường nh́n thấy vô lượng Phật Th́ thấy Như Lai thể thường trú Nếu thấy Như Lai thể thường trú Th́ biết được pháp măi bất diệt. Nếu biết được pháp măi bất diệt Thời được biện tài không chướng ngại Nếu được biện tài không chướng ngại Th́ hay khai diễn vô biên pháp. Nếu hay khai diễn vô biên pháp Thời thường từ mẫn độ chúng sinh Nếu thường từ mẫn độ chúng sinh Th́ được tâm đại bi kiên cố. Nếu được tâm đại bi kiên cố Th́ rất vui ưa pháp sâu xa Nếu rất vui ưa pháp sâu xa Th́ ĺa bỏ được lỗi hữu vi. Nếu ĺa bỏ được lỗi hữu vi Thời rời kiêu mạn và phóng dật Nếu rời kiêu mạn và phóng dật Th́ hay kiêm lợi tất cả chúng. Nếu hay kiêm lợi tất cả chúng Th́ ở sinh tử không nhàm chán.”
(37) Luận Chú nói: “Gọi là như thật tu hành tương ưng. Thế nên luận chủ [Thế Thân] mới thốt lên: Con nhất tâm.”
(38) Lại nói: “Mở đầu Kinh bằng câu nói “Như thị [ngă văn]”, nó cho thấy “niềm tin” là căn bản để đi vào [nội dung Kinh].”
(39) Kế đến, nói về Dục sinh: Đó là sắc mạng của Như Lai mời gọi quần sinh trong chư hữu, tức là lấy Tín lạc chân thật làm bản thể của Dục sinh. Thật vậy, [dục sinh] chẳng phải là sự hồi hướng ngang qua định tán tự lực của Đại, Tiểu, phàm, Thánh, cho nên gọi là Bất hồi hướng. Tuy nhiên, hữu t́nh trong vô lượng thế giới, trôi nổi trong biển cả ‘phiền năo’ , ch́m đắm trong biển cả ‘sinh tử’ , là v́ không có tâm hồi hướng chân thật, không có tâm hồi hướng thanh tịnh. Cho nên, Như Lai thương xót biển cả ‘tất cả quần sinh khổ năo’ , khi hành Bồ-tát hạnh, tu tập ba nghiệp, dù chỉ một niệm một sát-na, đều lấy ‘tâm hồi hướng’ làm đầu, v́ thành tựu được tâm đại bi. Đem cái tâm ‘dục sinh chân thật lợi tha’ mà hồi hướng và hiến tặng cho biển cả ‘chư hữu’. Dục sinh tức là tâm hồi hướng, và nó là tâm đại bi, nên không bị triền cái nghi ngờ xen tạp.
(40) Ở đây, về ‘Bản nguyện dục sinh tâm thành tựu văn’, Đại Kinh nói: “Chí tâm hồi hướng, nguyện sinh nước kia, liền được văng sinh, trú Bất thối chuyển, chỉ trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.”
(41) Lại nói: “[Phát khởi một niệm tịnh tín] ưa thích vui mừng, bao nhiêu thiện căn đều hồi hướng nguyện sinh quốc độ của Đức Phật Vô Lượng Thọ, tùy nguyện được sinh về, chứng đắc Bất thối chuyển, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trừ năm tội vô gián, hủy báng chánh pháp và chê bai bậc Thánh.”
(42) Tịnh Độ Luận Chú nói: “Thế nào là Hồi hướng? Là không bỏ tất cả chúng sinh khổ năo, tâm thường tác nguyện, hồi hướng làm đầu, v́ được thành tựu tâm đại bi. Hồi hướng có hai loại tướng: một là, văng tướng; hai là, hoàn tướng. Văng tướng là đem công đức của ḿnh hồi thí cho tất cả chúng sinh, tác nguyện cùng họ văng sinh về tịnh độ An Lạc của A Di Đà Như Lai. Hoàn tướng là sinh vào cơi kia rồi, có được Xa-ma-tha và Tỳ-bà-xá-na, phương tiện lực thành tựu, trở vào rừng rậm sinh tử, giáo hóa tất cả chúng sinh cùng hướng về Phật đạo. Hoặc văng hoặc hoàn, đều v́ kéo chúng sinh qua khỏi biển sinh tử, thế nên nói ‘Hồi hướng làm đầu, v́ được thành tựu tâm đại bi’.”
(43) “Tịnh nhập nguyện tâm : Lại nói về Quán sát: (a) Công đức thành tựu trang nghiêm Phật độ, (b) Công đức thành tựu trang nghiêm Phật thành tựu, (c) Công đức thành tựu trang nghiêm Bồ-tát. Đây là ba thứ thành tựu do nguyện tâm trang nghiêm. Nên biết. Nên biết: Nên biết rằng ba thứ trang nghiêm thành tựu là do được trang nghiêm bằng nguyện tâm thanh tịnh biểu lộ qua bốn mươi tám bản nguyện. Nhân thanh tịnh nên quả thanh tịnh. Chẳng phải không có nguyên nhân, hay do nhân nào khác, mà có được.”
(44) Lại nữa, Luận nói: “Xuất đệ ngũ môn là dùng tâm đại từ bi mà quán sát tất cả chúng sinh khổ năo, thị hiện Ứng hóa thân, trở vào trong vườn sinh tử, rừng phiền năo, thần thông du hư, đạt đến Giáo hóa địa , đem bản nguyện lực mà hồi hướng. Đó là Xuất đệ ngũ môn.”
(45) Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Lại nữa, hồi hướng phát nguyện nguyện sinh [Cực Lạc] th́ cần phải hồi hướng nguyện bằng cái tâm chân thật quyết định, khởi ư tưởng ‘được sinh’. Cái tâm thâm tín này, giống như kim cương, không bị động loạn hay phá hoại bởi những người có dị kiến, dị học, biệt giải, biệt hành, v.v. Chỉ là nhất tâm quyết định, nhắm ngay hướng thẳng, không được nghe lời những người kia, th́ có tiến thoái, tâm sinh yếu hèn, ngoảnh lại lạc đường, liền đánh mất đại lợi văng sinh.”
(46) Thật biết: Trong thí dụ ‘Hai sông’, có nói ‘Con đường trắng ở giữa, rộng bốn năm tấc’. Con đường trắng (bạch đạo 白道): Trắng là đối với đen mà nói. Trắng tức là bạch nghiệp của ‘tuyển trạch nhiếp thủ’ , là tịnh nghiệp của ‘văng tướng hồi hướng’. Đen tức là hắc nghiệp của ‘vô minh phiền năo’, là tạp thiện của Nhị thừa, thiên nhân. Đạo là đối với lộ (路) mà nói. Đạo, đó là con đường thẳng ‘bản nguyện nhất thật’, là con đường lớn ‘Đại bát Niết-bàn vô thượng’. Lộ, đó là con đường nhỏ ‘vạn thiện chư hành của nhị thừa, tam thừa’. Bốn năm tấc, dụ cho bốn đại, năm ấm của chúng sinh. Năng sinh ‘nguyện tâm thanh tịnh’: Là có được Kim cương chân tâm . Bản nguyện lực [của Đức Phật A Di Đà] hồi hướng cho biển cả ‘đại tín tâm’ [của chúng sinh] th́ không thể phá hoại, dụ như kim cương.
(47) Quán Kinh Sớ, phần Huyền Nghĩa: “Chúng xuất gia, tại gia Đều phát Vô thượng tâm Sinh tử rất khó chán Pháp Phật lại khó thích Cùng phát chí Kim cương Hoành siêu đoạn tứ lưu. (…) Chánh thọ Kim cương tâm Tương ưng nhất niệm rồi Là quả đức Niết-bàn.”
(48) Lại nói: “Chân tâm thấu suốt, chán khổ Ta-bà, thích vui Vô vi, vĩnh quy Thường lạc. Thế nhưng, cảnh giới Vô vi không thể tùy tiện bước vào, Ta-bà khổ năo không phải bỗng nhiên rời đi. Tự ḿnh nếu chẳng phát ư chí kim cương, đoạn tuyệt hẳn cội gốc sinh tử, không tin cậy và đi theo Đức Từ Tôn, th́ làm sao thoát cái khổ triền miên này.”
(49) Lại nói: “Kim cương tức là thể tánh vô lậu.”
(50) Tin biết rằng, Chí tâm, Tín lạc và Dục sinh, lời tuy khác nhưng nghĩa chỉ một. V́ sao? Bởi v́ ba tâm này không bị triền cái nghi ngờ xen tạp, do đó chúng là Nhất tâm chân thật. Đây gọi là Kim cương chân tâm. Kim cương chân tâm gọi là Tín tâm chân thật. Tín tâm chân thật th́ bao giờ cũng có [xưng niệm] ‘danh hiệu’. Nhưng [xưng niệm] danh hiệu không nhất thiết mang lại tín tâm vào nguyện lực. Thế nên, Luận chủ [Thế Thân] mở đầu bằng câu, “Con nhất tâm”. Lại nói, “Như danh nghĩa kia, muốn như thật tu hành tương ưng.”
(51) Khi suy ngẫm về biển cả ‘đại tín’ , th́ không xét sang hèn tăng tục, không nói nam nữ già trẻ; không hỏi tạo tội nhiều ít, không kể tu hành lâu mới, chẳng hành chẳng thiện, chẳng đốn chẳng tiệm, chẳng định chẳng tán, chẳng chánh quán chẳng tà quán, chẳng hữu niệm chẳng vô niệm, chẳng tầm thường, chẳng lâm chung, chẳng đa niệm chẳng nhất niệm, chỉ là ‘tín lạc’ bất khả tư nghị, bất khả xưng, bất khả thuyết vậy. Giống như thuốc A-già-đà diệt trừ mọi chất độc, thuốc ‘Như Lai thệ nguyện’ diệt trừ cái độc hại của trí ngu.
(52) Hơn nữa, Bồ-đề tâm có hai loại: 1. Thụ (chiều dọc); 2. Hoành (chiều ngang). Thụ lại có hai loại: 1. Thụ siêu; 2. Thụ xuất. Thụ siêu và Thụ xuất là nói về giáo lư quyền thật và hiển mật của Đại thừa và Tiểu thừa. Đó là Bồ-đề tâm trải qua vô số kiếp đi ṿng, là Kim cương tâm của Tự lực và Đại tâm của Bồ-tát. Hoành cũng có hai loại: 1. Hoành siêu; 2. Hoành xuất. Hoành xuất là chánh tu và tạp tụ, là định thiện và tán thiện, là Bồ-đề tâm của tự lực trong tha lực. Hoành siêu, đây là sự tín lạc vào nguyện lực hồi hướng. Đó là Tâm nguyện làm Phật . Tâm nguyện làm Phật tức là Hoành đại Bồ-đề tâm . Đó là Hoành siêu Kim cương tâm . Hoành Bồ-đề tâm và Thụ Bồ-đề tâm, cùng một danh từ [Bồ-đề tâm], nhưng khác nhau về ư nghĩa [giữa Hoành và Thụ]. Tuy nhiên, cả hai đều lấy sự thể nhập chân như làm chánh yếu, lấy chân tâm làm căn bản, lấy tà tạp làm lỗi lầm, lấy nghi ngờ làm sai trái. Người xuất gia và người tại gia thích cầu Tịnh độ phải hiểu biết sâu lời dạy quư báu về ‘Tín không đầy đủ’ , và phải rời xa hẳn tâm ư sai lầm về ‘Văn không đầy đủ’ .
(53) Luận Chú nói: “Dựa theo kinh Vô Lượng Thọ được nói tại thành Vương Xá, trong ba hạng người cầu sinh nước An Lạc, tuy hành nghiệp có hơn kém, nhưng không ai không phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Tâm Vô thượng Bồ-đề này tức là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật tức là tâm độ chúng sinh. Tâm độ chúng sinh tức là tâm nhiếp thủ chúng sinh sinh về quốc độ có Phật. Thế nên, nguyện sinh tịnh độ An Lạc kia, th́ phải phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Nếu người nào không phát tâm Vô thượng Bồ-đề, chỉ nghe quốc độ kia hưởng lạc không gián đoạn, v́ lạc mà nguyện sinh, th́ sẽ không được văng sinh. Cho nên luận nói, “Không t́m cầu an lạc trụ tŕ cho bản thân, muốn cứu vớt khổ đau cho tất cả chúng sinh”. ‘An Lạc trụ tŕ’, là nói tịnh độ An Lạc kia được trụ tŕ bởi bản nguyện lực của A Di Đà Như Lai , nên hưởng lạc không gián đoạn vậy. Giải thích về danh nghĩa ‘hồi hướng’, là đem tất cả công đức mà ḿnh tích tập được thí cho tất cả chúng sinh, cùng hướng về Phật đạo.”
(54) Luật sư Nguyên Chiếu nói: “Người khác không thể làm được, nên nói ‘rất khó’. Cả thế giới không thấy, nên nói ‘hiếm có’.”
(55) Lại nói: “Pháp môn niệm Phật không kén ngu trí, không chọn sang hèn, không tính lâu gần, không kể thiện ác. Chỉ đem tâm nguyện vững chắc, tin tưởng mănh liệt, lúc sắp chết tướng ác hiện ra, mười niệm liền được văng sinh. Đây chính là giáo pháp dành cho hạng phàm ngu cụ phược, loại người giết mổ bán rượu, trong sát-na siêu việt thành Phật. Cái gọi là tất cả thế gian rất khó tin.”
(56) “Ở thế giới xấu ác này mà tu hành thành Phật là việc khó thứ nhất. V́ các chúng sinh mà nói pháp môn [khó tin] này là việc khó thứ hai. (…) Nương hai việc khó trước, cho thấy sự tán dương của chư Phật là không hư dối, ư nói khiến chúng sinh nghe mà tin nhận [lời nói của Như lai và của mười phương chư Phật Thế Tôn].”
(57) Luật tông, Pháp sư Dụng Khâm nói: “Khi nói về cái pháp khó [tin nhận], quả thực là lấy pháp này chuyển phàm thành Thánh, giống như trở bàn tay. Bởi v́ điều này có vẻ quá dễ dàng nên nhiều chúng sinh tầm thường và nông cạn đă nhiều đời hoài nghi. Do đó, Đại Kinh nói, ‘Dễ sinh về mà có mấy ai.’ Thế nên, ‘khó tin nhận’ vậy.”
(58) [A Di Đà Kinh Nghĩa Sớ] Văn Tŕ Kư nói: “Không kén ngu trí: căn tánh có lợi độn. Không chọn sang hèn: nghiệp báo có mạnh yếu. Không tính lâu gần: công phu có cạn sâu. Không kể thiện ác: hành nghiệp có tốt xấu. Chỉ đem tâm nguyện vững chắc, tin tưởng mănh liệt, lúc sắp chết tướng ác hiện ra, mười niệm liền được văng sinh: Trong Quán Kinh nói đến Hạ phẩm Trung sinh, các lửa địa ngục, nhất thời cùng đến, v.v. Hạng phàm ngu cụ phược: Hai hoặc hoàn toàn tồn tại. Loại người giết mổ bán rượu, trong sát-na siêu việt thành Phật. Cái gọi là tất cả thế gian rất khó tin: đồ (屠) là giết mổ, cô (沽) là bán rượu. Những người ác như này, chỉ do mười niệm liền được siêu văng, đâu không khó tin.” Danh hiệu và ánh sáng của A Di Đà Như Lai là Chân thật minh , B́nh đẳng giác , Tất cánh y , Đại ứng cúng , Đại an ủy , Vô đẳng đẳng , Bất khả tư nghị .
(59) Lạc Bang Văn Loại, Bài tựa sau, nói: “Người tu Tịnh độ phần nhiều thường được pháp môn ấy, nhưng người đi đường tắt th́ không bao nhiêu. Người luận Tịnh độ phần nhiều thường được pháp yếu ấy, nhưng người chỉ thẳng th́ rất ít ỏi. Không hề nghe ai đem cái tự ngăn, cái tự che mà nói ra. Do nắm bắt được nên tôi nói ra: V́ cái tự ngăn không ǵ bằng ái, cái tự che không ǵ bằng nghi. Chỉ cần dứt hẳn hai tâm ái và nghi, không c̣n chướng ngại, th́ một môn Tịnh độ không hề có khoảng cách, nguyện lớn Di Đà thường tự nhiếp tŕ. Lư tất nhiên vậy.”
(60) Phàm xét “Chân thật tín lạc”, th́ đó là “Tín lạc có nhất niệm”. Nhất niệm ở đây biểu hiện khoảnh khắc cực điểm khi sự tín lạc được khai mở, phát sinh, và biểu lộ cái tâm hoan hỷ rộng lớn, khó nghĩ bàn.
(61) Thế nên Đại Kinh nói: “Chúng sinh trong chư hữu nghe danh hiệu của Đức Phật ấy mà tín tâm hoan hỷ, dù chỉ một niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện sinh nước kia, liền được văng sinh, trú Bất thối chuyển.”
(62) Lại nói: “Nơi Phật độ phương khác, có những hữu t́nh nghe danh hiệu của Vô Lượng Thọ Như Lai, mà có thể phát một niệm tịnh tín hoan hỷ.” Lại nói: “Phật ấy bản nguyện lực Nghe danh muốn văng sinh.” Lại nói: “Nghe danh Phật thắng đức.”
(63) Kinh Niết Bàn nói: “Sao gọi là Nghe không đầy đủ? Mười hai bộ kinh do Như Lai thuyết, chỉ tin sáu bộ loại, không tin sáu bộ, đó gọi là Nghe không đầy đủ. Lại nữa, tuy có thọ tŕ sáu bộ kinh này, nhưng không thể đọc tụng, v́ người khác giảng nói, chẳng làm được lợi ích, đó gọi là Nghe không đầy đủ. Lại nữa, tuy thọ tŕ sáu bộ kinh này rồi, nhưng v́ luận nghị, v́ thắng tha, v́ lợi dưỡng, v́ chư hữu, mà thọ tŕ, đọc tụng, giảng nói, đó gọi là Nghe không đầy đủ.”
(64) Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Nhất tâm chuyên niệm.” Lại nói: “Chuyên tâm, chuyên niệm.”
(65) Chữ “nghe” trong [Đại] Kinh có nghĩa là, chúng sinh nghe gốc ngọn của sự sinh khởi Bản nguyện của Đức Phật mà không có tâm nghi ngờ. Đây là “nghe”. Tín tâm: là tín tâm bởi sự hồi hướng của bản nguyện lực. Hoan hỷ: là sự vui mừng biểu hiện nơi thân thể và tâm trí. Năi chí: bao gồm cả nhiều và ít. Nhất niệm: tín tâm th́ không có hai tâm, nên gọi là Nhất niệm. Đó gọi là “Nhất tâm”. Nhất tâm là nhân tố chân thật của Báo độ thanh tịnh. Có được Kim cương chân tâm th́ vượt ngang (: hoành siêu) con đường ‘ngũ thú’ và ‘bát nạn’, chắc chắn có được mười thứ lợi ích trong đời hiện tại. Những ǵ là mười? Một là, lợi ích được minh chúng hộ tŕ. Hai là, lợi ích chí đức đầy đủ. Ba là, lợi ích chuyển ác thành thiện. Bốn là, lợi ích được chư Phật hộ niệm. Năm là, lợi ích được chư Phật xưng tán. Sáu là, lợi ích tâm quang thường hộ. Bảy là, lợi ích tâm nhiều hoan hỷ. Tám là, lợi ích tri ân báo đức. Chín là, lợi ích thường thực hành tâm đại bi. Mười là, lợi ích nhập Chánh định tụ.
(66) Tông sư [Thiện Đạo] nói: “Chuyên niệm tức là nhất hạnh.” “Chuyên tâm tức là nhất tâm.” Như vậy, thuật ngữ “Nhất niệm” trong Nguyện thành tựu văn là “Nhất tâm”. Chuyên tâm tức là Thâm tâm. Thâm tâm tức là Thâm tín. Thâm tín tức là Kiên cố thâm tín. Kiên cố thâm tín tức là Quyết định tâm. Quyết định tâm tức là Vô thượng thượng tâm. Vô thượng thượng tâm tức là Chân tâm. Chân tâm tức là Tương tục tâm. Tương tục tâm tức là Thuần tâm. Thuần tâm tức là Ức niệm. Ức niệm tức là Chân thật nhất tâm. Chân thật nhất tâm tức là Đại khánh hỷ tâm. Đại khánh hỷ tâm tức là Chân thật tín tâm. Chân thật tín tâm tức là Kim cương tâm. Kim cương tâm tức là Nguyện tác Phật tâm. Nguyện tác Phật tâm tức là Độ chúng sinh tâm. Độ chúng sinh tâm tức là Tâm nhiếp thủ chúng sinh sinh Tịnh độ An Lạc. Tâm ấy tức là Đại Bồ-đề tâm. Tấm ấy Đại từ bi tâm. Tâm ấy được sinh ra từ Vô lượng quang minh tuệ. V́ Nguyện hải b́nh đẳng nên Phát tâm b́nh đẳng. V́ Phát tâm b́nh đẳng nên Đạo b́nh đẳng. V́ Đạo b́nh đẳng nên Đại từ bi b́nh đẳng. Đại từ bi là chánh nhân của Phật đạo.
(67) Luận Chú nói: “Nguyện sinh tịnh độ An Lạc kia, th́ phải phát tâm Vô thượng Bồ-đề.”
(68) Lại nói: “Tâm ấy làm Phật, là nói tâm có năng tánh làm Phật. Tâm ấy là Phật, là nói ngoài tâm không có Phật. Ví như lửa từ gỗ sinh ra, lửa không thể rời gỗ. V́ không rời gỗ, nên lửa có thể đốt gỗ. Gỗ bị lửa đốt, gỗ tức là lửa vậy.”
(69) Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật, là ngoài tâm không có Phật nào khác.”
(70) Nên biết, ‘nhất tâm’ th́ gọi là Như thật tu hành tương ưng , tức là chánh giáo, là chánh nghĩa, là chánh hành, là chánh giải, là chánh nghiệp, là chánh trí.
(71) Ba tâm tức là Nhất tâm. Nhất tâm tức là nghĩa Kim cương chân tâm. Đă trả lời xong. Nên biết như vậy.
(72) Ma-ha Chỉ Quán, quyển một, nói: “Bồ-đề (菩提) là âm Thiên Trúc (Bodhi), phương này dịch là Đạo. Chất-đa (質多) là âm Thiên Trúc (Citta), phương này dịch là Tâm. Tâm, là lự tri (慮知, lo nghĩ nhận biết).”
(73) Hoành siêu đoạn tứ lưu : Hoành siêu: Hoành là ngược lại với Thụ siêu, Thụ xuất. Siêu là ngược lại với ngoằn ngoèo, quanh co. Thụ siêu: giáo lư chân thật của Đại thừa. Thụ xuất: giáo lư quyền phương tiện của Đại thừa. Nhị thừa và Tam thừa là giáo lư ‘đi ṿng’. Hoành siêu là giáo lư chân thật dựa trên sự viên măn của Bản nguyện thành tựu và Chân như nhất thật , đó là Chân tông. C̣n có Hoành xuất: đó là giáo lư định tán của tam bối, cửu phẩm , là thiện pháp vu hồi (迂迴, đi ṿng) của Hóa độ , cơi của tâm giải đăi và tâm kiêu mạn. Báo độ của Đại nguyện thanh tịnh th́ không có phẩm vị, thứ bậc. Trong khoảnh khắc một niệm nhanh chóng siêu chứng Vô thượng Chánh chơn đạo .
(74) Đại Bản nói: “Siêu phát thệ nguyện thù thắng vô thượng.”
(75) Lại nói: “Tôi lập nguyện siêu thế Quyết đến Vô thượng đạo (...) Danh tiếng siêu mười phương Nếu không ai nghe danh Thề chẳng thành Chánh giác.”
(76) Lại nói: “Nhất định được siêu vượt tuyệt hẳn [sinh tử], văng sinh An Dưỡng quốc, cắt ngang năm đường dữ. Đường dữ tự nhiên đóng lại, đường đi lên không cùng cực, dễ sinh về mà có mấy ai. Nước ấy chẳng ǵ trái ngược, có sức dắt dẫn tự nhiên.”
(77) Kinh Đại A Di Đà (Tam tạng Chi Khiêm dịch) nói: “Có thể được siêu vượt tuyệt hẳn [sinh tử], văng sinh A Di Đà Phật quốc, cắt ngang năm đường ác, tự nhiên bị ngăn đóng, đường đi lên không cùng cực, dễ sinh về mà có mấy ai. Quốc độ ấy chẳng ǵ trái ngược, có sức dắt dẫn tự nhiên.”
(78) Đoạn: là phát khởi ‘Nhất tâm’ của Văng tướng, vô sinh mà sẽ thọ sinh, không quốc độ mà càng nên về đến quốc độ. V́ sáu đường, bốn loài: nhân mất, quả diệt, cho nên tức khắc đoạn tuyệt ba cơi sinh tử, được gọi là Đoạn. Tứ lưu: là bốn bộc lưu , c̣n là sinh, già, bệnh, chết vậy.
(79) Đại Bản nói: “Biết sẽ thành Phật đạo Rộng độ sinh tử lưu.”
(80) Lại nói: “Biết sẽ làm bậc Thế Tôn Để độ mọi sinh, già, chết.”
(81) Kinh Niết Bàn nói: “Lại nữa, Niết-bàn được gọi là cù lao. V́ sao? V́ bốn ḍng sông lớn chảy xiết không thể xô đẩy nó. Những ǵ là bốn? Một là Dục bộc [lưu], hai là Hữu bộc [lưu], ba là Kiến bộc [lưu], bốn là Vô minh bộc [lưu]. Thế nên, Niết-bàn gọi là cù lao.”
(82) Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Kính thưa các hành giả! Phàm phu sinh tử chẳng thể tham mà không chán, Tịnh độ Di Đà chẳng thể khinh mà chẳng thích. Chán th́ Ta-bà xa hẳn, thích th́ Tịnh độ thường cư. Cách xa th́ nhân sáu đường tiêu mất, quả luân hồi tự diệt. Nhân quả đă mất, th́ h́nh thể và danh xưng đoạn tuyệt tức khắc.”
(83) Lại nói: “Ngưỡng mong tất cả người tu văng sinh, phải khéo léo tự suy nghĩ. Nay bản thân đă nguyện sinh Cực Lạc, th́ đi đứng nằm ngồi đều nên nỗ lực khắc kỷ, ngày đêm chớ phế bỏ, trọn đời làm hạn kỳ. Trên thân thể dường như có chút khổ, nhưng niệm trước mạng chung, niệm sau liền sinh về cơi kia. Trường thời vĩnh kiếp, thường thọ pháp lạc vô vi, cho đến khi thành Phật, không c̣n chịu khổ sinh tử, há chẳng vui sướng sao? Nên biết.”
(84) Đệ tử Phật chân thật : Chân thật, là đối lại dối trá và giả tạm. Đệ tử, là đệ tử của Đức Phật Thích Ca và chư Phật, là người hành Kim cương tâm. Thông qua tín và hành này, người ấy chắc chắn sẽ siêu thoát [sinh tử] và chứng ngộ Đại niết-bàn, và được gọi là đệ tử Phật chân thật.
(85) Đại Bản nói: “Giả sử khi tôi thành Phật, những loài chúng sinh trong vô lượng bất tư nghị thế giới chư Phật ở mười phương, nhờ quang minh của tôi chạm đến thân họ, khiến thân nhu nhuyến hơn hẳn hàng thiên nhân. Nếu không được như vậy, th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác. Giả sử khi tôi thành Phật, những loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, nghe danh hiệu tôi mà chẳng được Vô sanh pháp nhẫn và các tổng tŕ sâu xa của Bồ-tát, th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác. ”
(86) Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai nói: “Giả sử khi tôi thành Phật, những loài hữu t́nh trong vô lượng, vô biên, bất tư nghị, vô đẳng thế giới chư Phật khắp cả mười phương, nhờ uy quang của Phật chiếu chạm đến thân họ, khiến thân tâm an lạc hơn hẳn hàng thiên nhân. Nếu không được như vậy, th́ tôi chẳng lấy quả Bồ-đề.”
(87) Lại nói: “Nghe pháp được chẳng quên Thấy kính rất mừng vui Là bạn lành của ta.”
(88) Lại nói: “Người nào có chí tâm mà nguyện sinh về quốc độ An Lạc th́ được trí tuệ sáng suốt, công đức thù thắng.”
(89) Lại nói: “Người thắng giải quảng đại.”
(90) Lại nói: “Đại loại như vậy, những bậc đại uy đức được sinh ra trong pháp môn quảng đại đặc biệt [của Phật pháp].”
(91) Lại nói: “Nếu là người niệm Phật, nên biết người ấy là hoa phân-đà-lợi trong loài người.”
(92) An Lạc Tập nói: “Y cứ các bộ kinh Đại thừa nói về thuyết thính song đôi: Kinh Đại Tập nói: Với người thuyết pháp, nghĩ tưởng y vương, nghĩ tưởng cứu khổ. Với pháp được thuyết, nghĩ tưởng cam lộ, nghĩ tưởng đề hồ. Người nghe pháp ấy nghĩ tưởng thắng giải tăng trưởng, nghĩ tưởng khỏi bệnh. Nếu người thuyết pháp và người nghe pháp nghĩ tưởng như thế, th́ có thể tiếp nối rạng rỡ giáo pháp của Phật, thường sinh trước mặt Phật.” “Y cứ kinh Niết Bàn: Phật dạy rằng, nếu người nào chỉ có thể chí tâm thường tu niệm Phật Tam-muội, th́ chư Phật mười phương luôn thấy người ấy, như ở trước mặt. Thế nên, kinh Niết Bàn nói: ‘Phật bảo Bồ-tát Ca Diếp: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân thường xuyên chí tâm chuyên niệm Phật, người ấy hoặc ở núi rừng, hoặc ở tụ lạc, hoặc ngày hoặc đêm, hoặc ngồi hoặc nằm, chư Phật Thế Tôn thường thấy người ấy như ở trước mắt, luôn cùng người ấy mà thọ nhận sự bố thí.’” “Luận Đại Trí Độ nói: Có ba lư do giải thích v́ sao hành giả phải niệm Phật. (a) Phật là Pháp vương Vô thượng, Bồ Tát là Pháp thần, nhưng được tôn được trọng, chỉ có Phật Thế Tôn, thế nên phải thường niệm Phật. (b) Có vị Bồ-tát tự nghĩ: Ta từ khoáng kiếp đến nay, được nhờ Đức Thế Tôn nuôi lớn Pháp thân, Trí thân và Đại từ bi thân của ta. Thiền định, trí tuệ, vô lượng hạnh nguyện nhờ Phật mà được thành. V́ để báo đáp nên thường nguyện gần Phật, cũng như đại thần, nhờ ân sủng vua nên thường nghĩ tới vua. (c) Có vị Bồ-tát c̣n nghĩ rằng: Ta ở nhân địa, gặp ác tri thức, v́ phỉ báng Bát-nhă mà đọa vào đường dữ, trải qua vô lượng kiếp, tuy tu các hạnh khác chưa thể giải thoát. Sau vào một thời, nương gần thiện tri thức, dạy ta hành niệm Phật Tam-muội, bấy giờ dẹp trừ được các chướng, mới được giải thoát. V́ có lợi ích lớn như thế nên nguyện không rời Phật.” “Trong Đại Kinh có nói: Phàm muốn văng sinh Tịnh độ cần phải lấy việc phát khởi tâm Bồ-đề làm gốc . V́ sao? V́ Bồ-đề là tên gọi của Phật đạo Vô thượng. Muốn phát tâm làm Phật: tâm này quảng đại trùm khắp pháp giới, [tâm này cứu cánh bằng như hư không], tâm này dài xa tận biên tế vị lai, tâm này khắp đủ ĺa chướng Nhị thừa. Nếu một phen phát tâm này, th́ có thể nghiêng đổ bánh xe chư hữu sinh tử từ vô thủy.” “Kinh Đại Bi nói: V́ sao gọi là đại bi? Nếu người chuyên niệm Phật tương tục, không gián đoạn, người ấy khi mạng chung chắc chắc sinh về cơi An Lạc. Nếu có thể triển chuyển khuyên nhau thực hành niệm Phật, hết thảy đây gọi là người thực hành đại bi.”
(93) Đại sư chùa Quang Minh nói: “Chỉ hận chúng sinh nghi chẳng nghi Tịnh độ đối mặt chẳng nghịch nhau Chớ luận Di Đà nhiếp chẳng nhiếp Ư tại chuyên tâm hồi bất hồi [hướng].” “Hoặc nói từ nay đến Phật quả Nhiều kiếp khen Phật báo Từ ân Chẳng nhờ sức hoằng thệ Di Đà Khi nào kiếp nào thoát Ta-bà.” “Mong ǵ ngày nay đến nước báu Thật là sức Bổn sư Ta-bà Nếu không Bổn sư tri thức khuyên Di Đà Tịnh độ làm sao nhập?”
(94) Lại nói: “Đời Phật rất khó gặp Người có tín tuệ khó Gặp nghe pháp hiếm có Đây lại là khó nhất. Ḿnh tin, dạy người tin Trong khó lại càng khó Đại bi hóa rộng khắp Mới thật báo Phật ân.”
(95) Lại nói: “Thân sắc Di Đà như núi vàng Tướng tốt ánh sáng chiếu mười phương Chỉ có niệm Phật mong sáng nhiếp Nên biết bản nguyện rất là vững Mười phương Như Lai đưa lưỡi chứng Chuyên xưng danh hiệu sinh Tây phương Đến hoa kia nở nghe diệu pháp Thập địa nguyện hạnh tự nhiên hiện.”
(96) Lại nói: “Chỉ có chúng sinh chuyên niệm A Di Đà Phật, tâm quang của Đức Phật thường chiếu soi người ấy, nhiếp hộ không bỏ; hoàn toàn chẳng chiếu nhiếp những người hành tạp nghiệp khác. Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm đời sống hiện tại.”
(97) Lại nói: “Nói ‘tâm hoan hỷ đắc nhẫn’ : đoạn này nói quốc độ thanh tịnh và ánh sáng của Đức Phật A Di Đà bỗng hiện ra trước mắt, không ǵ phấn chấn hơn, nhân đây vui mừng, liền được Vô sinh Pháp nhẫn, cũng gọi là Hỷ nhẫn, cũng gọi là Ngộ nhẫn, cũng gọi là Tín nhẫn. Đây là huyền đàm, chưa nêu đắc xứ, muốn cho phu nhân và chúng sinh, tâm mong cầu lợi ích này, tâm tưởng dũng mănh và chuyên tinh khi nh́n thấy, mới nên Ngộ nhẫn. Đây phần nhiều là nhẫn trong Thập Tín, chứ không phải nhẫn của Giải hành trở lên.”
(98) Lại nói: “Đoạn từ ‘Nếu là người niệm Phật’ cho đến ‘sinh vào nhà của chư Phật’ là nói về công năng siêu tuyệt của Niệm Phật Tam-muội; tạp thiện thực sự chẳng thể sánh được với nó, có năm điểm được làm rơ: (a) Chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà. (b) Chỉ ra và khen ngợi người xưng niệm. (c) Người nào có thể tương tục niệm Phật, th́ người đó thật là hiếm có, không biết lấy ǵ để so sánh, do đó dẫn hoa phân-đà-lợi làm ví dụ. Hoa phân-đà-lợi là một loài hoa đẹp trong loài người, cũng gọi là loài hoa hiếm có, cũng gọi là loài hoa thượng thượng trong loài người, cũng gọi là loài hoa tốt đẹp trong loài người. Tương truyền hoa này được gọi là Thái hoa . ‘Nếu là người niệm Phật’, tức là người tốt trong loài người, là người tốt đẹp trong loài người, là người thượng thượng trong loài người, là người hiếm có trong loài người, là người tối thắng trong loài người. (d) Người chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà sẽ được Bồ-tát Quán Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí thường theo ủng hộ, cũng làm thân hữu tri thức. (e) Đời này đă được lợi ích này, xả mạng liền sinh vào nhà của chư Phật, tức là Tịnh độ. Đến được Tịnh độ th́ lúc nào cũng nghe pháp, phụng sự cúng dường, nhân tṛn quả đầy, ngồi đạo tràng không xa.”
(99) Vương Nhật Hưu nói: “Tôi nghe kinh Vô Lượng Thọ nói: Chúng sinh nghe danh hiệu Đức Phật ấy, tín tâm hoan hỷ, dù chỉ một niệm, nguyện sinh nước ấy, liền được văng sinh, trú Bất thối chuyển. Bất thoái chuyển: Phạn ngữ là A-duy-việt-trí. Kinh Pháp Hoa cho rằng đó là Báo địa mà Bồ-tát Di Lặc đạt được. Một niệm văng sinh liền ngang hàng với Bồ-tát Di Lặc . Lời Phật không hư dối. Kinh này là đường tắt văng sinh, là phép thần thoát khổ, chúng ta nên tin tưởng và tiếp nhận.”
(100) Đại Kinh nói: “Phật bảo Di Lặc: Ở thế giới này có sáu mươi bảy ức Bồ-tát Bất thối văng sinh nước ấy. Mỗi một vị Bồ-tát đă từng cúng dường vô số chư Phật, theo thứ tự như Bồ-tát Di Lặc [đều sẽ làm Phật].”
(101) Lại nói: “Phật bảo Di Lặc: Trong Phật độ này có bảy mươi hai ức Bồ-tát, các vị này ở chỗ vô lượng ức na-do-tha trăm ngàn Đức Phật, đă trồng các căn lành, thành bất thối chuyển, sẽ sinh nước kia.”
(102) Luật tông, Pháp sư Dụng Khâm nói: “Đến như Hoa Nghiêm tận lực đề xướng, Pháp Hoa đàm thoại thù diệu, c̣n chưa thấy có sự thọ kư cùng khắp trong những kinh ấy. Chúng sinh một đời đều được thọ kư Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, quả thật là được lợi ích của công đức bất khả tư nghị [trong kinh Vô Lượng Thọ] vậy.”
(103) Quả thật biết rằng: Đại sĩ Di Lặc nhận thức toàn hảo Đẳng giác Kim cương tâm, nên cùng tột Vô thượng Chánh giác ở ba hội Long Hoa vào buổi sớm. Chúng sinh niệm Phật nhận thức toàn hảo Hoành siêu Kim cương tâm, nên siêu chứng Đại Bát-niết-bàn ở một niệm lâm chung vào buổi chiều. Siêu chứng Đại Bát-niết-bàn, cho nên nói là ‘liền ngang hàng với Bồ-tát Di Lặc’. Hơn nữa, những người có được Kim cương tâm th́ ngang hàng với Vi Đề Hy và chúng sinh vị lai, tức có được ba thứ nhẫn (chấp nhận): hỷ, ngộ và tín . Đó là v́ ‘chân tâm thấu suốt’ của Văng tướng hồi hướng, và v́ phù hợp với bản thệ bất khả tư nghị.
(104) Thiền tông, Thiền sư Trí Giác khen ngợi hành giả niệm Phật rằng: “Lạ thay! Phật lực khó bàn, xưa nay chưa có.”
(105) Luật tông, Sư Nguyên Chiếu nói: “Than ôi, biết rơ giáo quán ai bằng Trí Giả, lâm chung đọc Quán Kinh, khen Tịnh độ mà hóa. Thấu suốt pháp giới ai bằng Đỗ Thuận, khuyên bốn chúng niệm Phật-đà, cảm thắng tướng rồi về Tây. Tham thiền thấy tánh ai bằng Cao Ngọc, Trí Giác, đều kết xă niệm Phật mà cùng lên Thượng phẩm. Nghiệp Nho có tài hoa ai bằng Lưu, Lôi, Liễu Tử Hậu, Bạch Lạc Thiên, song đều cầm bút viết lời thành thật mà nguyện sinh về cơi ấy.”
(106) Giả tạm (giả 假), tức là chư cơ của Thánh đạo , là định cơ và tán cơ của Tịnh độ. (107) Cho nên Sư chùa Quang Minh nói: “Phật giáo nhiều môn tám vạn tư Chính v́ chúng sinh cơ chẳng đồng.”
(108) Lại nói: “Phương tiện giả môn bằng chẳng khác.”
(109) Lại nói: “Môn môn chẳng đồng gọi Tiệm giáo Muôn kiếp khổ hành chứng Vô sinh.”
(110) Dối trá (ngụy 偽), là 62 kiến chấp , là 95 thứ tà đạo .
(111) Kinh Niết Bàn nói: “Thế Tôn thường nói, tất cả 95 học phái ngoại đạo đều hướng đến đường ác.”
(112) Sư chùa Quang Minh nói: “Chín mươi lăm thứ đều bẩn đời Chỉ Phật một đạo riêng thanh nhàn.”
(113) Thực sự biết rằng: Buồn thay, Ngu Ngốc Loan tôi, ch́m đắm trong biển rộng ái dục, mê hoặc nơi núi cao danh lợi, không vui khi vào số định tụ , chẳng thích lúc gần chứng chân chứng, đáng thẹn, đáng thương!
(114) Đối với những căn cơ khó đối trị, Đức Phật đă dạy như sau: Kinh Niết Bàn nói: “Này Ca Diếp! Trên thế gian có ba hạng người mang bệnh khó trị: một là phỉ báng Đại thừa, hai là ngũ nghịch tội, ba là nhất-xiển-đề. Trên thế gian, ba căn bệnh như vậy rất nặng, chẳng phải Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát có thể trị liệu được. Này thiện nam tử! Ví như có người mang bệnh, nhất định chết, không thể cứu chữa, hoặc có xem bệnh tùy ư thuốc men, hoặc không xem bệnh tùy ư thuốc men. Bệnh như vậy nhất định chẳng thể cứu chữa. Ông phải biết, người đó nhất định chết, chẳng nghi ngờ ǵ. Này thiện nam tử! Ba hạng người này cũng lại như vậy. [Nếu có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, hoặc có thuyết pháp, hoặc không thuyết pháp, th́ cũng chẳng thể khiến cho ba hạng người này phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Ca Diếp! Ví như người bệnh, nếu có xem bệnh tùy ư thuốc men, th́ có thể khiến hết bệnh, c̣n nếu không th́ người này chẳng thể hết bệnh. Thanh văn, Duyên giác cũng lại như vậy,] từ Phật, Bồ-tát được nghe pháp ‘chữa trị’ rồi liền có thể phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. [Nếu họ chẳng nghe pháp th́ chẳng thể phát tâm vậy. Này Ca Diếp! Ví như người bệnh, nếu có xem bệnh tùy ư thuốc men, hoặc không xem bệnh tùy ư thuốc men, đều có thể hết bệnh.] Có một hạng người cũng lại như vậy, hoặc gặp Thanh văn hay chẳng gặp Thanh văn, hoặc gặp Duyên giác hay chẳng gặp Duyên giác, hoặc gặp Bồ-tát hay chẳng gặp Bồ-tát, hoặc gặp Như Lai hay chẳng gặp Như Lai, hoặc được nghe pháp hay chẳng được nghe pháp, mà tự nhiên được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
(115) Lại nói: “Bấy giờ, vua A-xà-thế của đại thành Vương Xá, tính t́nh tệ ác, ưa hành giết hại, miệng đủ bốn ác, tâm lư hừng hực tham, sân, ngu si; chỉ thấy hiện tại, chẳng thấy vị lai, thuần dùng người ác mà làm quyến thuộc, tham trước năm dục lạc ở hiện đời. Phụ vương không tội, bạo ngược giết hại. Giết hại cha rồi, tâm sinh cáu nóng, cỡi bỏ chuỗi ngọc, không xem kỹ nhạc. V́ tâm cáu nóng, khắp thân sinh mụn nhọt. Mụn nhọt ấy hôi thối, chẳng thể đến gần, ông lại tự nghĩ: - Hôm nay thân ta đă chịu hoa báo, quả báo địa ngục đến gần không xa. Bấy giờ, mẹ vua tên Vi Đề Hy, dùng đủ loại thuốc bôi lên mụt nhọt. Mụt nhọt càng sưng thêm, không có giảm bớt. Vua liền thưa mẹ: - Mụn nhọt như vậy từ tâm sinh ra, chẳng do bốn đại khởi. Nếu nói chúng sinh, có người trị được th́ không có điều đó. Khi ấy có vị đại thần tên là Nguyệt Xứng, đi đến chỗ vua, đứng ở một bên, tâu rằng: - Thưa đại vương! V́ sao buồn gầy, dung nhan chẳng vui? V́ thân đau hay v́ tâm đau? Nhà vua liền đáp: - Ta nay thân tâm đâu được không đau. Cha ta vô tội mà ta bạo ngược giết hại. Ta từng nghe nghĩa ấy từ người trí. Đời có năm hạng người chẳng thoát địa ngục, gọi là ngũ nghịch tội. Ta nay đă có vô lượng vô biên vô số tội th́ làm sao thân tâm không đau cho được? Lại không có lương y nào trị được bệnh thân tâm của ta. Vị đại thần tâu: - Thưa đại vương! Xin chớ quá sầu khổ. Rồi nói kệ rằng: Nếu thường sầu khổ Sầu liền lớn lên Như người ưa ngủ Th́ ngủ nhiều thêm. Tham dâm, thích rượu Cũng lại như thế. Như lời đại vương nói, đời có năm hạng người chẳng thoát địa ngục, ai đến đó thấy về nói với vua vậy? Người nói địa ngục chính là người đa trí ở thế gian nói. Như lời đại vương nói, đời không có lương y trị bệnh thân tâm, hôm nay có vị đại lương y tên là Phú-lan-na, có tất cả tri kiến, được tự tại định, rốt ráo tu tập phạm hạnh thanh tịnh, thường v́ vô lượng vô biên chúng sinh mà diễn thuyết con đường đưa đến Vô thượng Niết-bàn, v́ các đệ tử thuyết pháp như vầy: Không có hắc nghiệp, không hắc nghiệp báo, không có bạch nghiệp, không bạch nghiệp báo, không có hắc bạch nghiệp, không hắc bạch nghiệp báo, không có thượng nghiệp, và cả hạ nghiệp. Vị thầy này đang ở trong thành Vương Xá, xin đại vương hạ ḿnh đến đó, có thể nhờ vị thầy này trị liệu thân tâm cho ngài. Lúc ấy, nhà vua đáp: - Quả đúng như thế, có thể trừ diệt tội của ta th́ ta sẽ qui y. Lại có một vị đại thần tên là Tạng Đức, lại đến chỗ vua, mà nói lời rằng: - Thưa đại vương! V́ sao diện mạo ngài tiều tụy, môi miệng khô cháy, âm thanh nhỏ nhẹ, giống như người khiếp sợ nh́n thấy kẻ thù lớn. Nhan sắc ngài tái nhợt là v́ nỗi khổ ǵ đây? V́ thân đau hay v́ tâm đau? Nhà vua liền đáp: - Ta nay thân tâm đâu được không đau? Ta đă si mù, không có mắt tuệ, gần các bạn ác mà làm thân thiện, theo lời kẻ ác Điều-bà-đạt, người ngang ngược tổn hại vị vua Chánh pháp. Ta xưa từng nghe người trí nói kệ: Đối với cha mẹ Phật và đệ tử Sinh bất thiện tâm Khởi lên ác nghiệp Như vậy quả báo Tại A-tỳ ngục. Bởi v́ việc này khiến ta khiếp sợ, sinh khổ năo lớn, lại không có lương y để gặp cứu chữa. Vị đại thần lại thưa: - Nguyện xin đại vương hăy chớ buồn sợ! Pháp có hai thứ, một là xuất gia, hai là vương pháp. Theo vương pháp th́ việc giết hại cha ḿnh để làm vua một đất nước, tuy gọi là nghịch nhưng thật không có tội, như con trùng ca-la-la cần phải cắn lủng bụng mẹ, rồi sau mới sinh ra. Phép sinh như vậy, tuy phá thân mẹ nhưng thật cũng không tội. Con la mang thai, v.v. cũng lại như vậy. Phép trị nước, phép nên như vậy, tuy giết cha anh nhưng thật không có tội. Pháp của người xuất gia, dù chỉ con muỗi, con kiến, giết cũng có tội. Nguyện xin đại vương, nghĩ thoáng chớ buồn. V́ sao? Nếu thường sầu khổ Sầu liền lớn lên Như người ưa ngủ Th́ ngủ nhiều thêm. Tham dâm, thích rượu Cũng lại như thế. Như lời đại vương nói, đời không có lương y trị bệnh thân tâm, hôm nay có vị đại lương y tên là Mạt-già-lê Câu-xá-ly-tử (Makkhali Gosāla), có tất cả tri kiến, thương xót chúng sinh giống như con đỏ, đă ĺa phiền năo, có thể nhổ mũi tên nhọn ba độc cho chúng sinh. Tất cả chúng sinh đối với tất cả pháp không tri kiến giác, chỉ một người này có tri kiến giác. Đại sư như vậy, thường v́ đệ tử thuyết pháp như vầy: Thân của tất cả chúng sinh có bảy phần. Những ǵ là bảy? Đó là đất, nước, lửa, gió, khổ, lạc, thọ mạng. Bảy pháp như vậy, chẳng phải hóa, chẳng phải tác, không thể hủy hại, như cỏ y-sư-ca, an trụ không động như núi Tu-di, không xả, không tác, giống như sữa, lạc, mỗi thứ không tranh tụng, hoặc khổ, hoặc lạc, hoặc thiện, hoặc bất thiện, dùng dao bén cắt mà không bị tổn thương. V́ sao? V́ bảy phần này rỗng không, không có trở ngại. Mạng cũng không hại. V́ sao? V́ không có người hại và người chết. Không tác và không thọ, không thuyết và không thính. V́ sao? V́ không có người niệm và cả người giáo. [Đại sư như vậy] thường thuyết pháp này, có thể làm cho chúng sinh diệt trừ tất cả vô lượng trọng tội. Vị Đại sư này đang ở trong đại thành Vương Xá, nguyện xin đại vương đi đến nơi ấy. Đại vương nếu gặp vị ấy th́ mọi tội tiêu trừ. Lúc ấy, nhà vua đáp: - Quả đúng như thế, có thể trừ diệt tội của ta th́ ta sẽ qui y. Lại có vị đại thần tên là Thật Đắc, lại đến chỗ vua, liền nói kệ rằng: Đại vương v́ sao Thân cởi chuỗi ngọc Đầu tóc rối tung Đến nỗi như vậy? Thân vua v́ sao Run sợ chẳng yên Giống như gió mạnh Thổi động cây, hoa? Đại vương hôm nay v́ sao dung sắc ưu sầu tiều tụy, giống như nông phu sau khi xuống giống mà trời chẳng tuông mưa? Ngài sầu khổ như vậy là v́ tâm đau hay là thân đau? Nhà vua liền đáp: - Ta nay thân tâm đâu được không đau? Tiên vương cha ta, từ ái độ lượng, đặc biệt chăm sóc ta, không có lỗi lầm. Vua cha có lần đến hỏi thầy tướng, thầy tướng đáp rằng, ‘Đứa bé này sinh ra, chắc chắn sẽ hại cha’. Tuy nghe lời ấy, nhưng cha ta vẫn nâng niu nuôi dưỡng. Ta từng nghe người nói rằng, ‘Nếu người gian dâm với mẹ và tỳ kheo ni, trộm đồ vật của tăng-kỳ, giết người phát tâm Vô thượng Bồ-đề và giết hại cha của ḿnh; người như vậy nhất định sẽ đọa địa ngục A-tỳ’. Ta nay thân tâm đâu được không đau? Vị đại thần lại nói: - Nguyện xin đại vương hăy chớ sầu khổ! Như phụ vương của ngài tu giải thoát mà giết hại th́ có tội. Nếu theo phép trị nước mà giết th́ không tội. Thưa đại vương! Phi pháp th́ gọi là phi pháp, vô pháp th́ gọi là vô pháp. Ví như không con th́ gọi là không con, cũng như đứa con xấu ác cũng gọi là không con. Tuy nói rằng, không con nhưng thật chẳng phải không con. Như ăn không muối gọi là không muối, nếu ăn ít muối cũng gọi là không muối. Như ḍng sông không nước gọi là không nước, nếu có ít nước cũng gọi là không nước. Như niệm niệm diệt gọi là vô thường, tuy trụ một kiếp cũng gọi là vô thường. Như người chịu khổ gọi là không vui, tuy nhận ít vui cũng gọi là không vui. Như không tự tại gọi là vô ngă, tuy ít tự tại cũng gọi là vô ngă. Như khi đêm tối gọi là không mặt trời, khi mây mù cũng nói rằng không mặt trời. Thưa đại vương! Tuy nói rằng ít pháp gọi là vô pháp, nhưng thật chẳng phải vô pháp. Nguyện xin đại vương lưu tâm nghe lời nói của thần, tất cả chúng sinh đều có dư nghiệp. Do nghiệp duyên nên nhiều lần thọ sinh tử. Giả sử tiên vương có dư nghiệp, mà nay đại vương hại cha, th́ có tội ǵ? Nguyện xin đại vương nghĩ thoáng chớ buồn. V́ sao? Nếu thường sầu khổ Sầu liền lớn lên Như người ưa ngủ Th́ ngủ nhiều thêm. Tham dâm, thích rượu Cũng lại như thế. Có vị đại sư tên San-đà-da Tỳ-la-chi Tử. (…) Lại có vị đại thần tên là Tất Tri Nghĩa, lại đến chỗ vua, mà nói lời rằng: - Đại vương hôm nay v́ sao h́nh dung chẳng đoan nghiêm như người mất đất nước, như suối khô, ao cạn không hoa sen, cây không hoa lá, như tỳ kheo phá giới thân không uy đức, v́ thân đau hay v́ tâm đau? Nhà vua liền đáp: - Ta nay thân tâm đâu được chẳng đau? Tiên vương cha ta, nhân từ độ lượng, thế mà ta bất hiếu, chẳng biết báo ơn. Ngài thường đem an lạc để an lạc cho ta, mà ta bội ân, phản nghịch cắt đứt niềm an lạc ấy. Tiên vương cha ta không tội mà ta bạo ngược giết hại. Ta cũng từng nghe người trí nói rằng, ‘Nếu có ai hại cha th́ sẽ ở trong vô lượng vô số kiếp chịu đại khổ năo’. Ta nay không lâu chắc chắn đọa địa ngục, lại không có lương y cứu vớt tội của ta. Vị đại thần liền nói: - Nguyện xin đại vương buông bỏ sầu khổ! Đại vương không nghe sao? Thuở xưa có một vị vua tên là La-ma, giết hại cha ḿnh để nối ngôi vua. Đại vương Bạt-đề, vua Tỳ-lâu-chân, vua Na-hầu-sa, vua Ca-đế-ca, vua Tỳ-xá-khư, vua Nguyệt Quang Minh, vua Nhật Quang Minh, vua Ái, vua Tŕ Đa Nhân, v.v., những vị vua như vậy đều hại cha của ḿnh để nối ngôi vua, nhưng không có một vị vua nào vào địa ngục cả. Hiện nay, vua Tỳ-lưu-ly, vua Ưu-đà-na, vua Ác Tánh, vua Thử, vua Liên Hoa, v.v., những vị vua như vậy đều hại cha ḿnh mà không một vị vua nào sầu khổ cả. Tuy nói có địa ngục, ngạ quỷ, cơi trời nhưng có ai thấy? Thưa đại vương! Chỉ có hai hữu: một là, nhân đạo; hai là, súc sinh. Tuy có hai hữu ấy nhưng chẳng phải nhân duyên sinh, chẳng phải nhân duyên diệt. Nếu chẳng phải nhân duyên th́ làm ǵ có thiện ác. Nguyện xin đại vương chớ ôm ḷng buồn sợ. V́ sao? Nếu thường sầu khổ Sầu liền lớn lên Như người ưa ngủ Th́ ngủ nhiều thêm. Tham dâm, thích rượu Cũng lại như thế. Có vị đại sư tên A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la (Ajita Keśa-kambala). (…) Lại có vị đại thần tên là Cát Đức, đi đến chỗ vua mà nói lời rằng: - Đại vương hôm nay v́ sao mặt không ngời sáng, như đèn giữa trưa, như trăng ban ngày, như vua mất nước, như đất bỏ hoang. Thưa đại vương! Ngày nay bốn phương thanh b́nh, không có những oán địch mà sao đại vương sầu khổ như vậy? V́ thân khổ hay v́ tâm khổ? Có các vương tử thường khởi ư niệm này, ‘Ta nay khi nào được tự tại?’ Thưa đại vương! Nay ngài đă được sở nguyện tự tại, đại vương thống lănh nước Ma-già-đà, đă được đầy đủ bảo tạng của tiên vương, th́ chỉ nên khoái ư, mặc t́nh thọ lạc. Ngài ôm măi sầu khổ như vậy để làm ǵ? Nhà vua liền đáp: - Ta nay làm sao không được sầu khổ? Này đại thần! Ví như người ngu chỉ tham vị ngon mà không thấy dao bén, như ăn tạp độc mà không thấy tai hại. Ta cũng như vậy, như con hươu thấy cỏ mà không thấy hố sâu, như con chuột tham ăn mà chẳng thấy mèo chồn. Ta cũng như vậy, thấy lạc thú hiện tại mà không thấy quả khổ bất thiện vị lai. Ta từng từ người trí giả nghe lời nói như vầy: ‘Thà trọn ngày chịu ba trăm lần giáo đâm, chứ không sinh một niệm ác đối với cha mẹ’. Ta nay đă gần với lửa dữ địa ngục th́ làm sao không được sầu năo? Vị đại thần lại thưa: - Ai đến dối gạt đại vương rằng có địa ngục? Như đầu gai nhọn ai làm ra? Chim bay khác màu ai làm ra? Tánh nước thấm nhuần, tánh đá cứng chắc, tánh gió chuyển động, tánh lửa nóng bức, tất cả muôn vật tự chết tự sinh, ai làm ra? Nói về địa ngục, nó là sự tạo tác văn từ của người trí. Địa ngục có ư nghĩa ǵ? Thần sẽ giải nói: địa, chỉ cho đất; ngục, chỉ cho phá. Phá là không có tội báo ở địa ngục, đó gọi là địa ngục. Lại nữa, địa, chỉ cho người; ngục, chỉ cho trời. Do giết hại cha ḿnh nên đi đến cơi người, trời. Do nghĩa này nên tiên nhân Bà-tẩu nói, ‘Giết dê được niềm vui người trời, đó gọi là địa ngục’. Lại nữa, địa, chỉ cho mạng; ngục, chỉ cho trường. Do giết sự sống nên được thọ mạng dài lâu, gọi là địa ngục. Thưa đại vương! V́ vậy nên biết, thật không có địa ngục. Thưa đại vương! Như trồng lúa ḿ được lúa ḿ, trồng lúa nước được lúa nước, giết địa ngục th́ trở lại địa ngục, giết hại người th́ trở lại làm người. Thưa đại vương! Nay ngài phải nghe lời thần nói, là thật không có sự giết hại. Nếu có ngă th́ thật không có hại. Nếu vô ngă th́ không có cái bị hại. V́ sao? V́ nếu có ngă th́ thường trụ, không biến dị. Do thường trụ nên không thể giết hại, không phá, không hoại, không ràng, không buộc, không giận, không mừng, giống như hư không, th́ làm sao phải có tội giết hại? Nếu vô ngă th́ các pháp vô thường. Do vô thường nên niệm niệm hoại diệt. V́ niệm niệm diệt, nên người giết và người chết đều là niệm niệm diệt. Nếu niệm niệm diệt th́ ai nên có tội? Thưa đại vương! Như lửa đốt cây, lửa th́ không tội; như búa chặt cây, búa cũng không tội; như liềm cắt cỏ, liềm thật không tội; như dao giết người, dao thật chẳng phải người, mà dao đă không tội th́ người làm sao có tội? Như thuốc độc giết người, thuốc độc thật chẳng phải người, mà thuốc độc không tội th́ người làm sao có tội? Tất cả muôn vật đều cũng như vậy, thật không giết hại th́ làm sao có tội? Nguyện xin đại vương chớ sinh sầu khổ. V́ sao? Nếu thường sầu khổ Sầu liền lớn lên Như người ưa ngủ Th́ ngủ nhiều thêm. Tham dâm, thích rượu Cũng lại như thế. Nay có đại sư tên là Gia-la-cưu-đà Ca-chiên-diên (Krakuda Kātyāyana). (…) Lại có vị đại thần tên là Vô Sở Úy. (…) Nay có đại sư tên là Ni-càn-đà Nhă-kiền-tử (Nirgrantha Jñātiputra). (…) Bấy giờ có đại lương y tên là Kỳ-bà, đi đến chỗ vua, thưa rằng: - Đại vương, ngài có ngủ yên giấc không? Vua dùng kệ đáp: (…) - Này Kỳ-bà, Nay ta bị bệnh nặng, đối với Chánh pháp vương dấy lên ác nghịch hại. Tất cả lương y, diệu dược, chú thuật, thiện xảo, khám bệnh, đều chẳng thể chữa trị liệu được. V́ sao? V́ pháp vương cha ta, đúng như pháp trị nước, thật không tội lỗi mà ta bạo ngược giết hại. Ta như cá mắc cạn, nào có vui ǵ? Như nai bị bẫy tâm rất buồn rầu, như người tự biết mạng sống không quá một ngày, như vị vua mất nước chạy trốn sang nước khác, như người nghe bệnh không thể trị liệu, như người phá giới nghe nói tội lỗi. Ta thuở trước từng nghe người trí nói rằng, ‘Nghiệp thân, miệng, ư nếu không thanh tịnh th́ nên biết người này nhất định đọa địa ngục’. Ta cũng như vậy th́ làm sao có giấc ngủ yên ổn? Nay ta lại không có bậc đại y vô thượng, diễn thuyết pháp dược, trừ bệnh khổ của ta. Kỳ-bà đáp rằng: - Hay thay, hay thay! Tuy đại vương tạo tội nhưng tâm rất hối hận, ôm ḷng hỗ thẹn. Thưa đại vương! Chư Phật Thế Tôn thường nói lời này, ‘Có hai bạch pháp có thể cứu chúng sinh: một là tàm, hai là quư. Tàm là tự ḿnh không tạo tội. Quư là không xúi người khác làm tội. Tàm là trong ḷng tự xấu hổ. Quư là hướng về người mà phát lộ. Tàm là hổ thẹn với người. Quí là hổ thẹn với trời. Đó gọi là tàm quư. Không tàm quư th́ không gọi là người, mà gọi là súc sinh. Có tàm quư th́ có thể cung kính cha mẹ, sư trưởng. Có tàm quư nên nói có cha mẹ, anh em, chị em. Hay thay đại vương! Ngài có đầy đủ tàm quư. (…) Như lời đại vương nói, không ai có thể chữa trị. Đại vương nên biết, tại thành Ca-tỳ-la có vương tử của vua Tịnh Phạn, ḍng họ Cù-đàm, tên là Tất-đạt-đa, vô sư giác ngộ, tự nhiên mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. (…) Chính là Phật Thế Tôn có Kim cương trí, có thể phá tất cả ác tội của chúng sinh. Nếu nói không thể làm được, th́ không có trường hợp ấy. (…) Thưa đại vương! Đức Như Lai có người em họ là Đề-bà-đạt-đa, phạm ba tội nghịch: phá hoại chúng tăng, làm thân Phật chảy máu, giết hại tỳ kheo ni Liên Hoa. Đức Như Lai v́ Đề-bà-đạt-đa thuyết các thứ pháp yếu, khiến cho trọng tội ấy liền được giảm nhẹ. Thế nên Như Lai là vị Đại lương y, chẳng phải Lục sư vậy. (…) Thưa đại vương! Người tạo một nghịch th́ liền thọ đủ một tội như vậy, nếu tạo hai nghịch th́ liền chịu gấp đôi, người đủ năm nghịch cũng chịu gấp năm lần. Thưa đại vương! Tôi nay biết chắc, ác nghiệp của đại vương ắt chẳng được miễn. Nguyện xin đại vương mau đi đến chỗ Đức Phật. Ngoại trừ Đức Phật Thế Tôn th́ không c̣n ai khác có thể cứu ngài. Tôi nay thương xót ngài nên khuyên như vậy. Bấy giờ, vua A-xà-thế nghe lời nói đó rồi, trong ḷng kinh sợ, toàn thân run rẩy, năm vóc lắc động, mềm như cây chuối, ngước mắt lên mà hỏi: - Người là ai đó, sao chỉ nghe tiếng mà chẳng hiện thân h́nh? - Ta là Tần-bà-sa-la, cha của đại vương đây. Nay đại vương phải nghe theo lời của ông Kỳ-bà, chớ theo lời sai trái của sáu vị đại thần kia. Khi nghe lời nói ấy xong, vua ngất xỉu trên đất, mụn nhọt trên thân vua tăng thêm mùi hôi thối hơn trước. Tuy dùng thuốc mát bôi lên để chữa trị, nhưng mụn nhọt ấy càng sưng thêm, không có giảm bớt.”
1. Vị đại thần tên là Nguyệt Xứng - tên là Phú-lan-na (Purnaka). 2. Tạng Đức - tên là Mạt-già-lê Câu-xá-ly-tử (Makkhali Gosāla). 3. Có vị đại thần tên là Bảo Đức - tên là Na-xiển-tà Tỳ-la-quăng-tử (Sañjaya Velaṭṭhiputta). 4. Có vị đại thần tên là Tất Tri Nghĩa - tên là A-thị-đa Sí-kim Khâm-bà-la (Ajita Keśa-kambala). 5. Có vị đại thần tên là Cát Đức - tên là Bà-tô-tiên (Gia-la-cưu-đà Ca-chiên-diên, Krakuda Kātyāyana). 6. Vô Sở Úy - tên là Ni-càn-đà Nhă-kiền-tử (Nirgrantha Jñātiputra).
(116) Lại nói: “Này thiện nam tử! Như Lai đă nói, v́ vua A-xà-thế mà Ta không nhập Niết-bàn. Mật nghĩa như vậy Ca-diếp ông chưa có thể hiểu được. V́ sao? Ta nói ‘v́’ là v́ tất cả phàm phu. Ta nói ‘vua A-xà-thế’ là chỉ khắp tất cả người tạo ngũ nghịch tội. Lại nữa, ‘v́’ tức là v́ tất cả chúng sinh hữu vi. Ta không bao giờ v́ chúng sinh vô vi mà trụ ở đời. V́ sao? Hễ là vô vi th́ không phải là chúng sinh. Vua A-xà-thế là người đầy đủ phiền năo. Lại nữa, ‘v́’ tức là chúng sinh không thấy Phật tánh. Nếu chúng sinh thấy Phật tánh th́ Ta trọn chẳng v́ họ trụ lậu ở đời. V́ sao? V́ người thấy Phật tánh không phải là chúng sinh. ‘A-xà-thế’, tức là tất cả những người chưa phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. (…) Lại nữa, ‘v́’, gọi là Phật tánh. ‘A-xà-thế’, gọi là bất sinh. ‘Thế’, gọi là oán. Phật tánh bất sinh nên phiền năo oán sinh. Phiền năo oán sinh nên không thấy Phật tánh. Phiền năo bất sinh nên thấy Phật tánh. V́ thấy Phật tánh mà được an trú Đại Bát-niết-bàn. Đó gọi là bất sinh. Thế nên gọi là A-xà-thế. Này thiện nam tử! ‘A-xà’, gọi là bất sinh. Bất sinh, gọi là Niết-bàn. ‘Thế’, gọi là pháp thế gian. ‘V́’, gọi là không ô nhiễm. V́ không ô nhiễm bởi tám pháp thế gian nên vô lượng vô biên vô số kiếp không nhập Niết-bàn. Thế nên Ta nói rằng, v́ A-xà-thế mà vô lượng ức kiếp Như Lai không nhập Niết-bàn. Này thiện nam tử! Mật ngữ của Như Lai th́ bất tư nghị. Phật, Pháp, chúng Tăng cũng bất khả tư nghị. Đại Bồ-tát cũng bất khả tư nghị. Kinh Đại Niết-bàn cũng bất tư nghị. Bấy giờ, Đức Thế Tôn, bậc Đạo sư Đại Bi, v́ vua A-xà-thế mà nhập tam-muội Nguyệt Ái. Nhập tam-muội rồi, ngài phóng ra ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy mát dịu, chiếu đến thân vua, th́ mụn nhọt trên thân liền lành lặn, hôi thối trừ diệt. (…) Nhà vua nói: - Này Kỳ-bà! Đấng Thiên Trung Thiên đó v́ nhân duyên ǵ mà phóng ra ánh sáng ấy? Ông Kỳ Bà đáp: - Tướng tốt lành này hôm nay là v́ đại vương. Do đại vương trước nói, ‘đời không có lương y trị liệu thân tâm’, nên Đức Phật phóng ra ánh sáng này để trước chữa thân bệnh, sau trị đến tâm bệnh của đại vương. Nhà vua nói: - Này Kỳ-bà! Đức Như Lai Thế Tôn cũng thấy được ư niệm sao? Ông Kỳ-bà đáp: - Ví như một người có bảy đứa con. Một đứa con trong bảy đứa bị bệnh. Ḷng cha mẹ chẳng phải không b́nh đẳng, nhưng đối với đứa con bệnh th́ chăm sóc nhiều hơn. Thưa đại vương! Đức Như Lai cũng vậy, đối với các chúng sinh chẳng phải không b́nh đẳng, nhưng đối với người có tội th́ quan tâm hơn. Với người phóng dật th́ Phật thương tưởng, với người không phóng dật th́ Phật buông bỏ. Những ai gọi là người không phóng dật? Đó là Bồ-tát Tâm trú thứ sáu [trong Thập trú]. Thưa đại vương! Chư Phật Thế Tôn đối với các chúng sinh, chẳng quán sát chủng tánh, già trẻ, trung niên, giàu, nghèo, thời tiết, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, nghề nghiệp, hạ tiện, đầy tớ, nô tỳ, mà chỉ quan sát chúng sinh người có thiện tâm. Ai có thiện tâm th́ Phật thương tưởng. Đại vương nên biết, tướng tốt lành này chính là Đức Như Lai nhập tam-muội Nguyệt Ái mà phóng ra ánh sáng. Nhà vua liền hỏi: - Sao gọi là tam-muội Nguyệt Ái? Ông Kỳ Bà đáp rằng: - Ví như ánh sáng của mặt trăng có thể khiến cho tất cả hoa Ưu-bát-la hé nở tươi sáng. Tam-muội Nguyệt Ái cũng lại như vậy, có thể khiến cho thiện tâm của chúng sinh mở bày. V́ thế gọi là tam-muội Nguyệt Ái. Thưa đại vương! Ví như ánh sáng của mặt trăng có thể khiến cho tất cả người đi đường tâm sinh hoan hỷ. Tam-muội Nguyệt Ái cũng lại như vậy, có thể khiến cho người tu tập đạo Niết-bàn tâm sinh hoan hỷ. V́ thế gọi là tam-muội Nguyệt Ái. (…) Thưa đại vương! Ví như mặt trăng tṛn đầy là vua trong mọi tinh tú, là vị cam lộ được yêu thích của tất cả chúng sinh. Tam-muội Nguyệt Ái cũng lại như vậy, là vua trong các điều thiện, là vị cam lộ được yêu thích của tất cả chúng sinh. V́ thế gọi là tam-muội Nguyệt Ái. (…) Đức Phật bảo các đại chúng: - Cận nhân duyên của tất cả chúng sinh cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác th́ trước hết là bạn lành. V́ sao? V́ vua A-xà-thế nếu không nghe theo lời nói của ông Kỳ-bà th́ mùng bảy tháng tới nhất định mạng chung, đọa địa ngục A-tỳ. Thế nên cận nhân duyên không ǵ bằng bạn lành. Trên đường đi, vua A-xà-thế nghe chuyện vua Tỳ-lưu-ly nước Xá-bà-đề (Xá-vệ) cưỡi thuyền vào biển gặp lửa mà chết. Tỳ kheo Cù-già-ly c̣n sống, thân đi vào ḷng đất, đến ngục A-tỳ. Tu-na-sát-đa làm đủ các tội ác, đi đến gặp Đức Phật th́ mọi tội được tiệu diệt. Vua nghe xong những chuyện này, liền nói với Kỳ-bà: - Ta nay tuy nghe hai chuyện như vậy nhưng vẫn chưa thẩm định được. Này ông Kỳ-bà! Hăy đến đây, ta muốn cùng ông cùng ngồi chung một thớt voi. Giả sử ta phải vào địa ngục A-tỳ th́ nhờ ông nắm lấy ta đừng để rơi xuống. V́ sao? V́ ta trước đây từng nghe, người đắc đạo không vào địa ngục. (…) [Phật dạy:] V́ sao nói rằng, ‘Nhất định vào địa ngục’? Này đại vương! Những tội nghiệp mà tất cả chúng sinh tạo tác thường có hai thứ: một là, tội nhẹ; hai là, tội nặng. Nếu tâm, miệng làm, th́ gọi là tội nhẹ. Nếu thân, miệng, tâm cùng làm, th́ gọi là tội nặng. Này đại vương! Tâm nghĩ, miệng nói, thân không làm, th́ có quả báo nhẹ. Này đại vương! Ngày trước miệng ngài không ra lệnh giết mà chỉ nói chặt chân. Này đại vương! Nếu ngài ra lệnh cho thị thần chém đầu vua và cả khi ngồi xem chém mà c̣n chẳng bị tội, huống là vua chẳng ra lệnh th́ sao gọi là bị tội? Nhà vua nếu có tội th́ các Đức Phật Thế Tôn cũng nên có tội. V́ sao? V́ cha ngài, tiên vương Tần-bà-sa-la, đă từng ở chỗ các đức Phật gieo trồng các căn lành nên ngày nay được làm vua. Nếu các Đức Phật chẳng thọ sự cúng dường của tiên vương, th́ ông ấy đâu có làm vua. Nếu tiên vương không làm vua, th́ đại vương đâu có v́ muốn được nước mà giết hại. Vậy nếu đại vương giết cha mà có tội, chư Phật chúng tôi cũng nên có tội. Nếu các Đức Phật Thế Tôn không có tội, th́ làm sao một ḿnh ngài có tội được? Này đại vương! Vua Tần-bà-sa-la, thuở trước có ác tâm, du hành săn nai ở núi Tỳ-phú-la. Khắp vùng đồng rộng mà không săn bắt được ǵ, chỉ thấy một vị tiên nhân đầy đủ năm thông. Thấy rồi, ông liền sinh ác tâm giận dữ: ‘Ta nay đi săn, sở dĩ chẳng được ǵ chính là do người này, phải xua đuổi hắn đi khỏi’. Ông liền ra lệnh cho tả hữu giết người đó. Người ấy lâm chung, sinh ác tâm giận dữ, mất hết thần thông, thề rằng: ‘Ta thật vô tội, ngươi dùng tâm, miệng, ngang ngược giết hại ta. Vào đời vị lai, ta cũng sẽ trở lại dùng tâm, miệng mà giết hại ngươi như vậy’. Vị vua nghe rồi liền sinh ḷng hối hận, cúng dường tử thi. Vị vua này như vậy c̣n được khinh tội, chẳng bị đọa địa ngục, huống là vua chẳng vậy mà phải thọ báo đọa địa ngục sao? Đức tiên vương đă tự tạo ra, th́ trở lại tự nhận lấy, sao bảo đại vương bị tội giết hại? Như lời đại vương nói, ‘Phụ vương không tội’. Này đại vương! Tại sao nói ‘Không tội’? Này đại vương! Phàm người có tội th́ có tội báo, người không ác nghiệp th́ không tội báo. Tiên vương cha ngài, nếu không tội th́ sao có quả báo? Vua Tần-bà-sa-la, ở trong hiện thế cũng được thiện quả và cả ác quả. Vậy nên, tiên vương cũng lại bất định. Bởi v́ bất định, nên giết cũng bất định. V́ giết bất định, th́ làm sao nói rằng, ‘Nhất định vào địa ngục’. Này đại vương! Sự cuồng hoặc của chúng sinh có bốn thứ: một là, tham cuồng; hai là, dược cuồng; ba là, chú cuồng; bốn là, bản nghiệp duyên cuồng. Này đại vương! Trong hàng đệ tử của Như Lai có bốn thứ cuồng ấy, tuy có người làm nhiều điều ác, nhưng Ta trọn không ghi nhận người ấy phạm giới. Việc làm của người ấy không đưa đến ba đường ác. Nếu tâm trở lại thiện lành th́ cũng không nói là phạm. Đại vương vốn tham nắm đất nước, nghịch hại phụ vương, do tâm tham cuồng làm ra, v́ sao có tội? Này đại vương! Như người say rượu, nghịch hại mẹ ḿnh, khi tỉnh dậy rồi, ḷng sinh hối hận. Nên biết, nghiệp ấy cũng không bị quả báo. Đại vương nay tham say, không phải bản tâm làm ra. Nếu không phải bản tâm, v́ sao có tội? Này đại vương! Ví như vị huyễn sư, ở giữa ngă tư đường, huyễn tác đủ thứ: trai, gái, voi, ngựa, anh lạc, y phục. Người ngu si cho là chân thật, người có trí biết đó chẳng phải chân. Giết cũng như vậy, phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết đó chẳng phải chân. Này đại vương! Ví như tiếng vang giữa núi, người ngu si cho là tiếng thật, kẻ có trí biết tiếng ấy chẳng phải chân. Giết cũng như vậy, phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết đó chẳng phải chân. Này đại vương! Như người có oán thù, giả bộ đến thân gần, người ngu si cho là người thân thực sự, người trí liễu đạt liền biết là dối trá. Giết cũng như vậy, phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết đó chẳng phải chân. Này đại vương! Như người cầm gương soi, tự thấy vẻ mặt, người ngu si cho là mặt thật, kẻ trí liễu đạt biết mặt ấy chẳng phải chân. Giết cũng như vậy, phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết đó chẳng phải chân. Này đại vương! Như sóng nắng khi trời nóng bức, người ngu si cho đó là nước, kẻ trí liễu đạt biết sóng nắng ấy chẳng phải nước. Giết cũng như vậy, phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết đó chẳng phải chân. Này đại vương! Như thành Càn-thát-bà, người ngu si cho là chân thật, kẻ trí liễu đạt biết thành ấy chẳng phải chân. Giết cũng như vậy, phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết đó chẳng phải chân. Này đại vương! Như người trong mơ thấy hưởng thụ năm dục lạc, người ngu si cho đó là thật, kẻ trí liễu đạt biết dục lạc ấy chẳng phải chân. Giết cũng như vậy, phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải chân. Này đại vương! Cách thức giết, hành động giết, người giết, hậu quả giết, cho đến sự giải thoát, Như Lai biết rơ hết thảy, chúng là không có tội. Đại vương tuy biết ‘giết’, v́ sao có tội? Này đại vương! Ví như có người coi giữ và hiểu biết về rượu, nhưng không uống rượu th́ cũng chẳng say; tuy lại biết lửa, nhưng cũng chẳng đốt cháy. Đại vương cũng như vậy, tuy lại biết ‘giết’, v́ sao có tội? Này đại vương! Có các chúng sinh, lúc mặt trời mọc làm đủ thứ tội; lúc mặt trăng mọc lại đi trộm cướp; mặt trời, mặt trăng chẳng mọc th́ không tạo tội. Tuy nguyên nhân mặt trời, mặt trăng khiến họ tạo tội, nhưng mặt trời, mặt trăng thật không có tội. Giết cũng như vậy, tuy nguyên nhân nơi đại vương, nhưng đại vương thật không có tội. (…) Này đại vương! Ví như Niết-Bàn chẳng phải có, chẳng phải không, mà cũng là có. Giết cũng như vậy, tuy chẳng phải có, chẳng phải không, mà cũng là có. Người tàm quư th́ là chẳng phải có; người không tàm quư th́ là chẳng phải không. Người thọ quả báo th́ gọi đó là có. Người Không kiến th́ chẳng phải có. Người Hữu kiến th́ chẳng phải không. Người có Hữu kiến cũng gọi là có. V́ sao? V́ người có Hữu kiến có được quả báo; người không có Hữu kiến th́ không có quả báo. Người Thường kiến th́ là chẳng phải không. Người không có Thường kiến th́ là chẳng phải có. Người thường Thường kiến th́ không được là không. V́ sao? V́ người thường Thường kiến có quả của ác nghiệp. Thế nên người thường Thường kiến th́ không được là không. Bởi v́ nghĩa này, tuy chẳng phải có, chẳng phải không, mà cũng là có. Này đại vương! Chúng sinh th́ gọi là hơi thở ra vào. Đoạn dứt hơi thở ra vào nên gọi là giết. Chư Phật theo thế tục cũng nói là giết. Này đại vương! Sắc là vô thường, nhân duyên của sắc cũng là vô thường. Từ nhân vô thường sinh ra, sắc làm sao thường? Cho đến thức là vô thường, nhân duyên của thức cũng là vô thường. Từ nhân vô thường sinh ra, thức làm sao thường? Do vô thường nên khổ, do khổ nên Không, do Không nên vô ngă. Nếu là vô thường, khổ, Không, vô ngă, th́ sao bị giết hại? Giết vô thường th́ được thường Niết-bàn, giết khổ được lạc, giết Không được thật, giết vô ngă mà được chân ngă. Này đại vương! Nếu giết vô thường, khổ, Không, vô ngă th́ cùng với ngă đồng. Như Lai cũng giết vô thường, khổ, Không, vô ngă mà không vào địa ngục, vậy đại vương vào đia ngục cách nào? (…) Nhà vua thưa: - Bạch Đức Thế Tôn! Ở thế gian này con thấy từ hạt y-lan sinh ra cây y-lan, không thấy hạt y-lan sinh ra cây chiên-đàn. Hôm nay con mới thấy từ hạt y-lan sinh ra cây chiên-đàn. Hạt y-lan chính là thân con. Cây chiên-đàn chính là ḷng in vô căn nơi tâm con. Vô căn là từ ban đầu con không biết cung kính Đức Như Lai, không tin Pháp và Tăng, đó gọi là vô căn. Bạch Đức Thế Tôn! Nếu con không gặp được Như Lai Thế Tôn th́ phải chịu vô lượng khổ ở đại địa ngục trong vô lượng vô số kiếp. Con nay được gặp Phật. Do sự gặp Phật mà có được công đức, phá hoại được tất cả phiền năo, ác tâm sẵn có của chúng sinh. Đức Phật dạy: - Này đại vương! Lành thay, lành thay! Ta nay biết ông nhất định phá hoại được ác tâm của chúng sinh. - Thưa Đức Thế Tôn! Nếu con thật có thể phá hoại được các ác tâm của chúng sinh, th́ cho con thường ở tại địa ngục A-tỳ trong vô lượng kiếp, v́ các chúng sinh chịu thay khổ năo mà không lấy làm khổ. Bấy giờ, vô lượng nhân dân của nước Ma-già-đà đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do vô lượng nhân dân phát đại tâm như vậy, nên trọng tội sẵn có của vua A Xà Thế liền được nhẹ bớt. Nhà vua và phu nhân, hậu cung thể nữ đều đồng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ, vua A-xà-thế nói với ông Kỳ-bà: - Kỳ-bà! Ta nay chưa chết đă được thân trời, bỏ đoản mạng mà được trường mạng, bỏ thân vô thường mà được thân thường hằng, khiến cho những chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức là thân trời, trường mạng, thân thường hằng, tức là đệ tử của tất cả chư Phật. Nói lời này xong, vua liền dùng đủ thứ bảo tràng, phan cái, hương hoa, chuỗi ngọc, kỹ nhạc vi diệu mà cúng dường Đức Phật. Ông lại dùng kệ tụng mà khen ngợi rằng: Lời thật rất vi diệu Thiện xảo nơi cú nghĩa Thậm thâm bí mật tạng V́ chúng mà hiển thị. Bao nhiêu lời quảng bác V́ chúng mà lược thuyết Đầy đủ lời như vậy Khéo chữa trị chúng sinh. Nếu có các chúng sinh Được nghe lời như thế Hoặc tin hoặc không tin Biết chắc là Phật thuyết. Lời Phật thường êm dịu V́ chúng nên nói thô Lời thô và lời dịu Đều về Đệ nhất nghĩa. Cho nên con hôm nay Quy y với Thế Tôn. Lời Như Lai một vị Giống như nước biển cả Đó gọi Đệ nhất đế Không có lời vô nghĩa. Như Lai nay vừa thuyết Đủ thứ vô lượng pháp Nam nữ lớn nhỏ nghe Cùng đượd Đệ nhất nghĩa. Không nhân cũng không quả Không sinh và không diệt Đó gọi Đại Niết-bàn Người nghe phá mọi kết. Như Lai v́ tất cả Thường làm cha mẹ từ Phải biết các chúng sinh Đều là con Như Lai. Thế Tôn đại từ bi V́ chúng mà khổ hạnh Như người dính quỉ mị Cuồng loạn nhiều tạo tác. Con nay được gặp Phật Đă được ba nghiệp thiện Nguyện đem công đức này Hồi hướng Vô thượng đạo. Con nay xin cúng dường Phật, Pháp và chúng Tăng Nguyện đem công đức này Tam Bảo thường tại thế. Con nay đă sẽ được Đủ thứ các công đức Nguyện đem đây phá hoại Bốn ma của chúng sinh. Con gặp ác tri thức Tạo tác tội ba đời Nay trước Phật sám hối Nguyện sau không làm nữa. Nguyện cho mọi chúng sinh Đều phát Bồ-đề tâm Buộc tâm thường suy nghĩ Mười phương tất cả Phật Lại nguyện các chúng sinh Phá hết các phiền năo Hiểu rơ thấy Phật tánh Giống như ngài Diệu Đức (Văn Thù). Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen vua A-xà-thế: - Lành thay, lành thay! Nếu có người có thể phát Bồ-đề tâm th́ nên biết người này đang trang nghiêm đại chúng của chư Phật. Này đại vương! Ông thuở xưa đă ở chỗ đức Phật Tỳ-bà-thi, đầu tiên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, từ đó cho đến khi Ta xuất thế, trong thời gian này, đại vương chưa từng chịu khổ nơi địa ngục. Đại vương nên biết, tâm Bồ-đề mới có vô lượng quả báo như vậy. Này đại vương ! Từ nay về sau thường phải siêng tu tâm Bồ-đề. V́ sao? V́ từ nhân duyên này mà được tiêu diệt vô lượng ác nghiệp vậy. Bấy giờ, vua A-xà-thế và nhân dân nước Ma-già-đà, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh Đức Phật ba ṿng, bái biệt lui ra, trở về hoàng cung.”
(117) “Này thiện nam tử! Vua nước La-duyệt-kỳ là Tần-bà-sa-la. Thái tử của vua ấy tên là Thiện Kiến, do nhân duyên của nghiệp nên sinh tâm nghịch ác, muốn hại cha ḿnh mà chưa có cơ hội. Bấy giờ, người ác Đề-bà-đạt-đa cũng do nhân duyên của nghiệp quá khứ, lại ở chỗ Ta, sinh tâm bất thiện, muốn hại Như Lai, liền tu ngũ thông, không bao lâu chứng đắc, có quan hệ thân mật với thái tử Thiện Kiến. Ông v́ thái tử mà hiện tác các việc thần thông như: đi ra từ chỗ không cửa, rồi từ cửa mà vào; từ cửa mà vào, rồi đi ra từ chỗ không cửa; hoặc có khi thị hiện thân voi, ngựa, trâu, dê, trai, gái. Thái tử Thiện Kiến thấy rồi, liền sinh tâm yêu mến, tâm hoan hỷ, tâm kính tín. V́ những việc ấy, thái tử sắp bày đủ thứ đồ cúng dường mà cúng dường Đề-bà-đạt-đa. Thái tử lại thưa: - Thưa Đại sư Thánh nhân! Nay tôi muốn thấy hoa Mạn-đà-la. Đề-bà-đạt-đa liền lên cung trời Ba mươi ba (Đao-lợi), đến chỗ chư thiên mà cầu xin hoa. V́ phước của ông ấy hết nên không có ai cho hoa. Đề-bà-đạt-đa không xin được hoa, liền suy nghĩ: - Cây Mạn-đà-la không có ngă và ngă sở, nếu ta tự lấy hoa th́ có tội ǵ? Khi vừa muốn lấy hoa th́ liền mất hết thần thông, lại thấy ḿnh đang ở thành Vương-xá, sinh tâm hổ thẹn, không dám đến gặp thái tử Thiện Kiến. Đề-bà-đạt-đa lại nghĩ: - Nay ta nên đi đến chỗ Như Lai, cầu xin đại chúng. Nếu Đức Phật cho phép th́ ta sẽ tùy ư dạy, mời, sai bảo ông Xá-lợi-phất, v.v. Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa liền đến chỗ ta, nói như vầy: - Nguyện xin Đức Thế Tôn, đem đại chúng này giao phó cho con. Con sẽ giáo hóa họ bằng các thứ thuyết pháp, khiến họ điều phục. Ta nói với người ngu: - Ông Xá-lợi-phất, v.v. là bậc thông minh đại trí, được người đời tín phục mà ta c̣n không đem đại chúng giao phó, huống ông là người ngu si, kẻ ăn nước bọt ư? Lúc đó, Đề-bà-đạt-đa lại sinh ác tâm hơn nữa đối với Ta, và nói như vầy: - Này Cù-đàm! Nay ông tuy điều phục được đại chúng nhưng thế lực chẳng bao lâu sẽ bị tiêu diệt. Nói lời đó rồi th́ đại địa tức thời chấn động sáu lần, Đề-bà-đạt-đa liền ngă ra đất. Bên thân ông ấy, một cơn gió rất mạnh nổi lên, thổi bụi đất làm lấm lem cả thân. Đề-bà-đạt-đa thấy ác tướng rồi, lại nói rằng: - Nếu hiện thế thân này của ta ắt vào địa ngục A-tỳ, th́ ta cần phải báo oán lớn như vậy. Đề-bà-đạt-đa liền đứng dậy đi đến chỗ của thái tử Thiện Kiến. Thái tử Thiện Kiến thấy rồi liền hỏi: - Thánh nhân! V́ sao dung nhan ngài tiều tụy, có vẻ lo âu vậy? Đề-bà-đạt-đa nói: - Ta thường như vậy, ngài không biết ư? Thiện Kiến đáp: - Xin nói ư ấy, v́ nhân duyên ǵ vậy? Đề-bà-đạt-đa nói: - Nay ta với thái tử rất thân mến nhau, ngoại nhân mắng ngài rất là phi lư, ta nghe việc này, há chẳng lo ư? Thái tử Thiện Kiến lại nói - Người trong nước v́ sao mà nhục mạ ta? Đề Bà Đạt Đa nói: - Người trong nước mắng ngài là ‘Oán chưa sinh’. Thiện Kiến lại nói: - V́ sao gọi ta là ‘Oán chưa sinh’? Ai đặt tên này? Đề-bà-đạt-đa nói: - Khi ngài chưa sinh ra, tất cả thầy tướng đều nói, ‘Đứa trẻ này sinh ra sẽ giết cha của nó’, thế nên ngoại nhân đều gọi ngài là ‘Oán chưa sinh’. Tất cả nội nhân một ḷng ủng hộ, gọi ngài là Thiện Kiến. Phu nhân Vi-đề nghe lời nói này, sinh thân ngài rồi, ở trên lầu cao ném ngài xuống đất, làm găy một ngón tay của ngài. Do nhân duyên này mà mọi người gọi ngài là Ba-la-lưu-chỉ. Ta nghe việc đó, tâm sinh lo buồn, mà lại không thể nói ra. Đề-bà-đạt-đa đem những việc ác như vậy xúi giục thái tử giết vua cha, ‘Nếu ngài giết cha th́ ta cũng có thể giết Sa-môn Cù-đàm’. Thái tử Thiện Kiến hỏi một vị đại thần tên là Vũ Hành: - Đại vương v́ sao đặt tên ta là ‘Oán chưa sinh’? Vị đại thần kể hết đầu đuôi chuyện ấy cho thái tử, đúng như lời của Đề-bà-đạt-đa không khác. Thái tử Thiện Kiến nghe rồi, liền cùng với đại thần bắt giam vua cha, nhốt ở ngoại thành, sai bốn đội binh canh giữ. Phu nhân Vi-đề nghe được việc này, liền đi đến thăm vua th́ bị người canh giữ vua ngăn cản không cho vào. Bấy giờ, phu nhân rất giận dữ, trách mắng họ. Những người canh giữ liền báo cho thái tử: - Thưa đại vương! Phu nhân muốn vào thăm tiên vương, không rơ có được phép? Thiện Kiến nghe xong, giận dữ đi đến chỗ mẹ, nắm tóc, vung gươm muốn chém. Bấy giờ, ông Kỳ-bà thưa: - Đại vương đă nắm được đất nước, dù tội rất nặng cũng không xử nữ nhân, huống là mẹ đẻ. Thái tử Thiện Kiến nghe lời nói đó rồi, v́ Kỳ Bà nên liền buông tha phu nhân, nhưng cấm cung cấp các thứ quần áo, đồ nằm, thức ăn uống, thuốc men cho vua cha. Qua bảy ngày th́ vua cha mất mạng. Thái tử Thiện Kiến thấy cha chết rồi mới sinh ḷng hối hận. Đại thần Vũ Hành lại nói với vua bằng những pháp tà ác: - Thưa đại vương! Tất cả nghiệp hành đều không có tội, v́ sao nay ngài sinh ḷng hối hận? Kỳ-bà lại nói: - Thưa đại vương! Ngài nên biết nghiệp như vậy là gồm hai tội: một là, giết vua cha; hai là, giết Tu-đà-hoàn. Tội như vậy th́ ngoại trừ Đức Phật, không ai có thể trừ diệt được. Vua Thiện Kiến nói: - Đức Như Lai thanh tịnh không có uế trược, tội nhân như chúng ta th́ làm sao được gặp? - Này thiện nam tử! Ta biết việc như vậy nên bảo A-nan, ‘Sau ba tháng nữa, Ta sẽ nhập Niết-bàn’. Vua Thiện Kiến nghe tin này liền đến chỗ Ta. Như Lai v́ Thiện Kiến mà thuyết pháp, nhờ đó tội nặng được nhẹ, thu hoạch được niềm tin vô căn. Này thiện nam tử! Những đệ tử của Ta nghe lời nói này rồi, không hiểu ư Ta, nên nói rằng, ‘Như Lai chắc chắn thuyết rằng, rốt ráo có nhập Niết-bàn’. Này thiện nam tử! Bồ-tát có hai hạng: một là, thật nghĩa; hai là, giả danh. Bồ-tát giả danh nghe Ta ba tháng sẽ nhập Niết-bàn th́ đều sinh tâm thoái lui mà nói: ‘Như Đức Như Lai c̣n vô thường, không trú ở, tại sao chúng ta v́ sự vô thường ấy mà phải thọ khổ năo lớn trong vô lượng đời? Như Lai Thế Tôn thành tựu đầy đủ vô lượng công đức mà không hủy hoại được ma chết như vậy, huống là bọn chúng ta có thể hủy hoại được?’ Này thiện nam tử! Thế nên Ta v́ những Bồ-tát như vậy mà nói rằng, ‘Như Lai thường trụ, không có biến dịch’. Này thiện nam tử! Những đệ tử của Ta nghe lời này rồi, không hiểu ư Ta, nên quyết định nói rằng, ‘Như Lai trọn không rốt ráo có nhập Niết-bàn’.”
(118) Do đó, nay y cứ lời dạy chân thật của Đức Phật, ‘Khó giáo hóa ba hạng người, khó chữa trị ba căn bệnh’, hăy cậy nhờ Đại bi hoằng thệ và quay về biển cả ‘lợi tha tín tâm’ . Đức Phật bi mẫn mà sửa chữa người, thương xót mà trị liệu bệnh, ví như diệu dược đề-hồ chữa trị mọi bệnh tật. Muôn loài thời kỳ vẩn đục, quần sinh ác độc dơ bẩn, hăy t́m kiếm và suy nghĩ về chân tâm ‘Kim cương bất hoại’, nên chấp tŕ Bản nguyện, v́ là diệu dược đề hồ. Nên biết điều này.
(119) Trong các kinh điển Đại thừa, có nói đến căn cơ khó hóa độ. Đại Kinh nói: “Trừ kẻ phạm tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp.” Và [Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai] nói: “Chỉ trừ kẻ [tạo nghiệp] ngũ vô gián, phỉ báng chánh pháp và các bậc Thánh.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói kẻ phạm ngũ nghịch được văng sinh , không nói kẻ phỉ báng chánh pháp. Kinh Niết Bàn nói về căn cơ và bệnh khó chữa trị. Những giáo lư chân chính này được hiểu như thế nào?
(120) Giải đáp như sau: Luận Chú nói: “Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ có nói, ‘Người nguyện sinh về nước ấy đều được văng sinh, chỉ trừ kẻ phạm tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp’. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói, ‘Ngũ nghịch, thập ác, đủ các bất thiện, cũng được văng sinh’. Hai kinh này, phải được hiểu như thế nào? Đáp: Một kinh nói đủ hai thứ trọng tội: một là, ngũ nghịch; hai là, phỉ báng chánh pháp; bởi v́ hai thứ tội này mà không được văng sinh. Một kinh chỉ nói tạo các tội thập ác, ngũ nghịch, không nói phỉ báng chánh pháp; bởi v́ không phỉ báng chánh pháp cho nên được sinh. Hỏi: Giả sử một người có đủ năm tội nghịch, mà không phỉ báng chánh pháp, kinh chấp thuận ‘được sinh’. Lại có một người chỉ phỉ báng chánh pháp, không có năm tội nghịch, mà nguyện văng sinh th́ có được sinh hay không? Đáp: Nếu mà phỉ báng chánh pháp, dù không có tội khác, chắc chắn không được sinh. Tại sao nói như vậy? Kinh nói: người ngũ nghịch tội th́ đọa đại địa ngục A-tỳ, chịu đủ một kiếp trọng tội. Người phỉ báng chánh pháp th́ đọa đại địa ngục A-tỳ, hết kiếp này lại chuyển đến đại địa ngục A-tỳ ở phương khác, cứ thế triển chuyển qua trăm ngàn đại địa ngục A-tỳ. Phật không xác nhận khi nào được thoát ra, bởi v́ phỉ báng chánh pháp là tội cực trọng. Lại nữa, chánh pháp tức là Phật pháp. Người ngu si này đă sinh phỉ báng, th́ đâu có lư nào nguyện sinh cơi Phật. Giả sử chỉ tham sự an lạc cơi kia mà nguyện sinh, th́ cũng như mong băng không phải nước, mong lửa không có khói, đâu có lư ấy. Hỏi: Những tướng ǵ là phỉ báng chánh pháp? Đáp: Nếu nói không Phật, không pháp Phật, không Bồ-tát, không pháp Bồ-tát, những cái thấy như vậy, hoặc tâm tự hiểu, hoặc nghe lời người khác, tâm ấy quyết định, đều gọi là phỉ báng chánh pháp. Hỏi: Những suy nghĩ như thế chỉ là việc riêng, đối với chúng sinh có khổ năo ǵ mà hơn cả ngũ nghịch trọng tội? Đáp: Nếu không có chư Phật, Bồ-tát thuyết thiện đạo thế gian và xuất thế gian để giáo hóa chúng sinh, th́ đâu biết có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín? Như vậy, tất cả thiện pháp thế gian đều đoạn, tất cả hiền thánh xuất thế gian đều diệt. Ông chỉ biết ngũ nghịch tội là nặng, mà không biết ngũ nghịch tội do không có chánh pháp mà sinh ra. Cho nên kẻ phỉ báng chánh pháp, tội ấy nặng nhất. Hỏi: Kinh Nghiệp Đạo nói, ‘Nghiệp đạo như cái cân, bên nào nặng kéo trước’. Như kinh Vô Lượng Thọ nói, ‘Có chúng sinh tạo nghiệp bất thiện, ngũ nghịch, thập ác, đủ các bất thiện. Người ngu như vậy, do các ác nghiệp phải đọa ác đạo, trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Khi sắp mạng chung, gặp được thiện tri thức dạy xưng Nam mô Vô Lượng Thọ Phật, như vậy chí tâm, khiến tiếng không dứt, đầy đủ mười niệm, liền được văng sinh tịnh độ An Lạc’, tức nhập chánh định tụ của Đại thừa, rốt ráo không thối chuyển, xa hẳn các khổ của ba đường. Nghĩa ‘Kéo trước’, theo lư là thế nào? Lại nữa, nhiều kiếp đến nay, tạo đủ các pháp hữu lậu của chư hành, hệ thuộc ba cơi, chỉ lấy việc niệm A Di Đà Phật được mười niệm, liền ra khỏi ba cơi, vậy nghĩa ‘hệ nghiệp’, lại muốn thế nào? Đáp: Ông cho ngũ nghịch, thập ác, hệ nghiệp, v.v. là nặng, cho mười niệm của người hạ hạ phẩm là nhẹ, nên phải là tội bị kéo trước, đọa địa ngục hệ thuộc ba cơi. Nay xin lấy nghĩa để xét lường. Nghĩa ‘nặng’ hay ‘nhẹ’ là tại tâm, tại duyên, tại quyết định, không tại thời gian, lâu, gần, nhiều, ít vậy. Thế nào là tại tâm? Người tạo tội kia tự y chỉ cái thấy điên đảo hư vọng mà sinh. Người được mười niệm nương phương tiện an ủi của thiện tri thức, nghe được các pháp thật tướng mà sinh. Một thật một hư, đâu được sánh nhau. Ví như căn pḥng ngàn năm tối tăm, khi ánh sáng tạm đến th́ liền sáng sủa. Đâu được nói rằng, bóng tối ở trong căn pḥng được ngàn năm rồi nên không chịu đi? Đó gọi là tại tâm. Thế nào là tại duyên? Người tạo tội kia tự y chỉ tâm vọng tưởng, dựa vào phiền năo, quả báo hư vọng và chúng sinh mà sinh. Người được mười niệm y chỉ tín tâm vô thượng, nương theo danh hiệu phương tiện trang nghiêm, chân thật thanh tịnh, vô lượng công đức của A Di Đà Như Lai mà sinh. Ví như có người bị trúng tên độc, đứt gân gẫy xương, vừa nghe tiếng trống thuốc Diệt trừ, th́ mũi tên liền rơi ra. Đâu được nói rằng, tên sâu độc dữ kia, nghe tiếng trống nổi mà không nhổ được tên, trừ được độc? Đó gọi là tại duyên. Thế nào là tại quyết định? Người tạo tội kia y chỉ tâm có sau, tâm có cách hở mà sinh. Người được mười niệm y chỉ nơi tâm không có sau, tâm không cách hở mà sinh. Đó gọi là tại nơi quyết định. So lường ba nghĩa, người được mười niệm là nặng, nặng th́ được kéo trước, có thể ra khỏi ba hữu. Hai kinh một nghĩa vậy. Hỏi: Bao nhiêu thời gian gọi là một niệm? Đáp: Một trăm lẻ một sinh diệt, gọi là một sát-na. Sáu mươi sát-na, gọi là một niệm. Ở đây nói ‘niệm’, là không dựa theo thời gian, chỉ nói là ức niệm Đức Phật A Di Đà, hoặc tổng tướng, hoặc biệt tướng, theo duyên mà quán, tâm không tưởng ǵ khác. Mười niệm tương tục, gọi là mười niệm. Chỉ xưng danh hiệu th́ cũng lại như vậy. Hỏi: Tâm nếu duyên theo ǵ khác, phải gom nhiếp nó trở về, th́ có thể biết là bao nhiêu niệm. Đă biết được nhiều ít th́ không phải không cách hở. Nếu ngưng dứt tâm, chuyên chú tưởng, th́ nương đâu để ghi nhớ niệm được nhiều ít? Đáp: Kinh nói ‘mười niệm’, nghĩa là nói nghiệp sự đă thành rồi, không cần phải biết con số. Như nói ‘Ve sầu không biết Xuân Thu, con sâu đó đâu hay tiết mùa Hạ’. ‘Mười niệm nghiệp thành’, là bậc thông thần nói vậy. Chỉ tích niệm tương tục, không duyên sự ǵ khác là xong rồi, không cần phải biết số lượng của niệm. Nếu cần biết th́ cũng có phương tiện, phải khẩu truyền, không được dùng ng̣i bút để diễn đạt.”
(121) Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Hỏi: Như trong bốn mươi tám lời nguyện, ‘Chỉ trừ kẻ phạm tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp’ th́ không được văng sinh, nay trong Quán Kinh, phần Hạ phẩm hạ sinh, lược bỏ ‘phỉ báng’, nhiếp lấy ‘ngũ nghịch’ , đó là ư thế nào? Đáp: Nghĩa này được hiểu theo Ức chỉ môn . Như trong bốn mươi tám lời nguyện, trừ những người phỉ báng chánh pháp và phạm tội ngũ nghịch, v́ hai nghiệp này là tội chướng cực nặng; nếu chúng sinh phạm phải th́ vào thẳng địa ngục A-tỳ, nhiều kiếp kinh sợ, không cách thoát ra. Đức Như Lai sợ chúng sinh gây tạo hai tội lỗi này, nên phương tiện nói lời ngăn chặn, ‘không được văng sinh’, nhưng không phải không nhiếp thọ. Lại trong Hạ phẩm hạ sinh, lấy ‘ngũ nghịch’, bỏ ‘báng pháp’. Người đă phạm tội ngũ nghịch th́ Phật không thể bỏ họ khiến lưu chuyển, càng phát đại bi tâm mà nhiếp thủ họ văng sinh. Nhưng với tội phỉ báng chánh pháp mà chưa làm, lại nói lời ngăn chặn, ‘Nếu khởi báng pháp, liền không được văng sinh’. Đây được hiểu là người chưa tạo nghiệp. Nếu đă tạo nghiệp, Phật vẫn nhiếp thủ để được sinh. Tuy được sinh về nước kia, nhưng hoa búp trải qua nhiều kiếp. Các người tội này lúc ở trong hoa cũng có ba thứ chướng: 1. Không được thấy Phật và các Thánh chúng; 2. Không được lắng nghe chánh pháp; 3. Không được phụng sự cúng dường. Ngoài ba chướng này, không có các khổ. Kinh chép: ‘Như Tỳ-kheo đă thể nhập cái vui của cơi trời Tam thiền’ , nên biết. Tuy ở trong hoa nhiều kiếp không nở, nhưng cũng c̣n hơn ở trong địa ngục A-tỳ trường thời vĩnh kiếp chịu các thống khổ. Nghĩa này được hiểu theo Ức chỉ môn, đă xong.”
(122) Lại nói: “[Nước ấy thanh tịnh đủ bốn đức trang nghiêm,] dứt hẳn cơ hiềm không c̣n ưu năo. Người trời thiện ác đều được sinh về, đến đó không c̣n khác biệt, đều đồng địa vị bất thối. Là ư ǵ vậy? Chính v́ nhân địa của Đức Phật A Di Đà, từ chỗ Đức Phật Thế Nhiêu Vương , bỏ ngôi xuất gia, liền khởi tâm bi và trí, quảng hoằng bốn mươi tám nguyện. Do nguyện lực của Phật, ngũ nghịch và thập ác, tội diệt được sinh; báng pháp và xiển-đề, hồi tâm đều văng.”
(123) “Ngũ nghịch: Nếu y theo ngài Tri Châu , ngũ nghịch có hai: Một là, ngũ nghịch của ba thừa: 1. Cố ư giết cha; 2. Cố ư giết mẹ; 3. Cố ư giết một vị A-la-hán; 4. Phá ḥa hợp Tăng bởi điên đảo kiến; 5. Làm thân Phật chảy máu bởi ác tâm.
Bởi v́ bội ân điền, nghịch phước điền, gọi đó là Nghịch. Người phạm năm tội nghịch này, khi thân hoại mạng chung, chắc chắn bị đọa vào địa ngục Vô Gián. Trong một đại kiếp họ phải chịu khổ đau không gián đoạn, nên gọi là Vô gián nghiệp. Lại nữa, trong Luận Câu-xá có nói đến Ngũ vô gián đồng loại nghiệp: Làm nhục mẹ, Vô học ni Giết một Bồ-tát trụ định Giết một Thánh giả hữu học Đoạt điều kiện Tăng ḥa hợp Phá hoại tháp tốt-đổ-ba Là tội vô gián đồng loại. Hai là, ngũ nghịch của Đại thừa: Như Kinh Đại Tát-già Ni-kiền-tử có nói: 1. Phá hoại tháp, thiêu đốt kinh tượng, hoặc lấy dùng tài vật của Tam bảo; 2. Phỉ báng giáo pháp của Ba thừa, nói không phải Thánh giáo, bằng cách chướng phá, lưu nạn, ngăn cản, che giấu; 3. Tất cả người xuất gia – tŕ giới, không tŕ giới, phá giới - mà bị đánh đập, chưởi mắng, sai khiến làm việc, moi móc lỗi lầm, giam cầm, bắt buộc hoàn tục, lao dịch khổ sai, chặt tay chân, đoạt mạng sống; 4. Giết cha, hại mẹ, làm thân Phật chảy máu, phá ḥa hợp Tăng và giết A-la-hán; 5. Phỉ báng không có nhân quả, trường thời thường hành mười nghiệp bất thiện. Kinh [Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân] cũng nói: [Lại có bốn ác nghiệp căn bản tội gần với năm đại tội vô gián. Những ǵ là bốn?] 1. Sinh tâm bất thiện, sát hại Độc giác, là đại tội giết hại sinh mạng; 2. Dâm với A-la-hán bí-sô-ni tăng, là đại tội muốn tà hạnh; 3. Xâm tổn tài vật cúng dường Tam bảo, là đại tội không cho mà lấy; 4. Phá ḥa hợp Tăng chúng bởi điên đảo kiến, là đại tội lời nói hư dối. ”
(Bốn) Hiển Tịnh Độ Chân Thật Chứng Văn Loại
Ngu ngốc Thích Thân Loan biên tập.
(1) Kính nói về sự chứng chân thật, đó là diệu vị ‘Lợi tha viên măn’, cực quả của ‘Vô thượng Niết-bàn’. Nó xuất sinh từ nguyện ‘Tất chí diệt độ’ , cũng gọi là nguyện ‘Chứng đại Niết-bàn’. Tuy nhiên, những phàm phu mà phiền năo thành tựu , những quần manh mà sinh tử tội uế , có được tâm hành Văng tướng hồi hướng , ngay lúc ấy nhập vào số Chánh định tụ của Đại thừa. Trú Chánh định tụ nên ‘ắt phải đến Diệt độ’. Ắt phải đến Diệt độ tức là thường lạc. Thường lạc tức là rốt ráo Tịch diệt. Tịch diệt tức là Vô thượng Niết-bàn . Vô thượng Niết-bàn tức là Vô vi Pháp thân. Vô vi Pháp thân tức là Thật tướng. Thật tướng tức là Pháp tánh. Pháp tánh tức là Chân như. Chân như tức là Nhất như. Như vậy, A Di Đà Như Lai từ “Như’ mà đến, mà sinh, thị hiện các thứ thân: Báo thân, Ứng thân, Hóa thân.
(2) ‘Tất chí diệt độ nguyện’ được ghi trong Đại Kinh là: “Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhân ở nước tôi, chẳng trú chánh định tụ, ắt phải đến diệt độ, th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.”
(3) Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai nói: “Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhân ở nước tôi, chẳng nhất định thành Đẳng chánh giác, chứng Đại Niết-bàn, th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.”
(4) Đoạn văn ‘Nguyện thành tựu’ trong Đại Kinh nói: “Nếu có chúng sinh nào sinh về nước kia th́ thảy đều trú Chánh định tụ. V́ sao? V́ trong nước Phật kia không có những tà tụ và bất định tụ.”
(5) Lại nói: “Cơi nước của Đức Phật ấy thanh tịnh an ổn, vi diệu khoái lạc, gần với vô vi và đạo Niết-bàn. Các Thanh văn, Bồ-tát, thiên nhân ở đó đều có trí tuệ cao minh, thần thông tự tại. Tất cả đều đồng một loại thân, không có tướng khác biệt. Chỉ v́ thuận theo phương khác mà có tên là trời, người. H́nh dáng đoan chánh, hiếm có siêu việt thế gian, diện mạo vi diệu, chẳng phải trời, chẳng phải người; đều bẩm thọ tự nhiên cái thân hư vô, cái thể vô cực.”
(6) Lại nói: “Chúng sinh nước kia, hoặc người sẽ sinh, tất cả đều là rốt ráo Vô thượng Bồ-đề, đến Niết-bàn xứ. V́ sao? Nếu là người tà định tụ và bất định tụ, th́ không thể biết rơ được nhân tố kiến lập kia.”
(7) Tịnh Độ Luận nói: “Công đức thành tựu về Diệu thanh trang nghiêm: Kệ tụng: ‘Phạm thanh ngộ sâu xa, Vi diệu nghe mười phương.’ Công đức thành tựu ở đây v́ sao không thể nghĩ bàn? Kinh nói: ‘Nếu người nào chỉ nghe quốc độ kia thanh tịnh an lạc, khắc niệm nguyện sinh, cũng được văng sinh, liền nhập chánh định tụ. Đây là tên gọi quốc độ làm Phật sự, sao có thể nghĩ bàn được? Công đức thành tựu về Chủ trang nghiêm: Kệ tụng: ‘Chánh giác A Di Đà, Pháp vương thiện [lực] trụ tŕ.” Công đức thành tựu ở đây v́ sao không thể nghĩ bàn? Chánh giác A Di Đà th́ không thể nghĩ bàn. Tịnh độ An Lạc kia được trụ tŕ bởi thiện lực của Chánh giác A Di Đà, th́ làm sao có thể nghĩ bàn được. Trụ, là không biến đổi, không hủy diệt. Tŕ, là không phân tán, không mất đi. Như dùng thuốc ‘không hủy hoại’ bôi lên hạt giống, th́ hạt giống đó không thối rữa trong nước, không bị cháy trong lửa, và gặp nhân duyên liền sinh trưởng. V́ sao? V́ năng lực của thuốc ‘không hủy hoại’. Nếu người nào sinh về tịnh độ An Lạc, ư nguyện sau đó là sinh vào ba cơi để giáo hóa chúng sinh. Người ấy bỏ mạng Tịnh độ, tùy nguyện được sinh. Tuy sinh vào ba cơi, sinh tạp nhiễm nơi [nhà] lửa, hạt giống Vô thượng Bồ-đề vô thượng hoàn toàn không hủy hoại. V́ sao? V́ được trực tiếp trụ tŕ bởi thiện lực của Chánh giác A Di Đà. Công đức thành tựu về Trang nghiêm quyến thuộc: Kệ tụng: ‘Như Lai tịnh hoa chúng, Chánh giác hoa hóa sinh’ . Công đức thành tựu ở đây v́ sao không thể nghĩ bàn? Hễ là sinh tạp nhiễm nơi các thế giới: thai sinh, noăn sinh, thấp sinh, hay hóa sinh, quyến thuộc bao nhiêu, khổ vui vạn phẩm, đều v́ nghiệp tạp nhiễm [và phiền năo tạp nhiễm]. Ở quốc độ An Lạc kia, không ai không phải là chánh giác tịnh hoa hóa sinh của A Di Đà Như Lai, đồng một câu niệm Phật, không con đường nào khác. Nó kéo dài suốt cả thế giới này, để tất cả người tu niệm trong bốn biển đều là anh em một nhà. Quyến thuộc nhiều vô số, sao có thể nghĩ bàn được?”
(8) Lại nói: “Người nguyện văng sinh vốn là phẩm vị ba ba, nay không có một hai sai khác, cũng như sông Tri và sông Thằng [mỗi sông] một vị , sao có thể nghĩ bàn được?”
(9) Lại nữa, Luận nói: “Công đức thành tựu Trang nghiêm thanh tịnh: Kệ tụng: ‘Quán tướng thế giới kia, Thắng hơn Tam giới đạo.’ Công đức thành tựu ở đây v́ sao không thể nghĩ bàn? Có người phàm phu mà phiền năo thành tựu, cũng được sinh về tịnh độ kia. Những nghiệp trói buộc của Tam giới hoàn toàn không lôi kéo họ được, đó là không đoạn phiền năo mà được phần Niết-bàn, sao có thể nghĩ bàn được?”
(10) An Lạc Tập nói: “Thần thông của hai Phật th́ ngang nhau, chỉ là Thích Ca Như Lai không nói năng lực của ḿnh, mà nói sự trường thọ của Đức Phật A Di Đà, để mong tất cả chúng sinh đều quy mạng. Do đó, trong nhiều kinh điển, Đức Thích Ca Mâu Ni ca ngợi sự quy mạng Đức Phật A Di Đà, phải biết ư này. Thế nên, Pháp sư Đàm Loan gợi ư quy hướng Tây phương, dựa theo Đại Kinh mà phụng tán: An Lạc Thanh văn, Bồ-tát chúng Thiên nhân trí tuệ đều thấu triệt Thân tướng trang nghiêm không sai khác Thuận theo phương khác mà lập tên Dung nhan đoan chánh không thể sánh Thân tướng vi diệu chẳng trời người Thân hư vô và thể vô cực Nên con đảnh lễ B́nh đẳng lực.”
(11) Quán Kinh Sớ của Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Nói về hoằng nguyện, như trong Đại Kinh nói: Tất cả phàm phu thiện ác mà được văng sinh th́ đều nương vào đại nguyện nghiệp lực của Đức Phật A Di Đà làm tăng thượng duyên. Lại nữa, mật ư của Phật sâu rộng, giáo môn khó hiểu, các bậc Tam hiền, Thập thánh chẳng thể thấy biết, huống chi niềm tin của chúng ta dao động, bồng bềnh như một chiếc lông vũ, th́ sao biết được chỉ thú. Ngưỡng mong Đức Thích Ca ở phương này chỉ dạy (phát khiển), Đức Di Đà ở nước kia liền đến đón (lai nghinh), kia mời gọi, đây chỉ bảo, há không đi ư? Cách duy nhất là ân cần cống hiến cuộc đời ḿnh cho giáo pháp, khi từ bỏ cái thân nhơ nhớp này liền chứng ngộ sự thường lạc của pháp tánh kia.”
(12) Lại nói: “Tây phương tịch tĩnh, vô vi lạc Rốt ráo tiêu diêu ĺa hữu vô Đại bi huân tâm dạo pháp giới Phân thân lợi vật đẳng không khác Hoặc hiện thần thông mà nói pháp Hoặc hiện tướng tốt nhập vô dư Biến hiện trang nghiêm tùy ư xuất Chúng sinh trông thấy tội đều trừ. Lại ca tụng: Về đi thôi, cơi ma không thể dừng Nhiều kiếp nay trôi lăn Sáu đường đều trải qua Đến chỗ hoàn toàn vui Chỉ nghe tiếng sầu than Sau khi bỏ thân này Nhập thành Niết-bàn kia.”
(13) [Thứ nhất,] Suy ngẫm về Giáo, Hành, Tín, Chứng của Chân tông, tôi thấy đó là lợi ích mà Như Lai hồi hướng đến chúng ta bằng tâm đại bi. Cho nên, dù là nhân hay quả, không có một sự nào [của chúng ta] được thành tựu mà chẳng phải là sự hồi hướng của nguyện tâm thanh tịnh của A Di Đà Như Lai. Nhân thanh tịnh nên quả cũng thanh tịnh. Nên biết như vậy.
(14) Thứ hai, nói về Hoàn tướng hồi hướng, đó là sự lợi ích ‘Lợi tha’ của Giáo hóa địa, và sự lợi ích ấy xuất sinh từ ‘Tất chí Bổ xứ nguyện’ , c̣n được gọi là ‘Nhất sinh bổ xứ nguyện’, cũng có thể gọi là ‘Hoàn tướng hồi hướng nguyện’. Xuất hiện trong chú thích của luận, nên tôi không trích dẫn nguyện văn. Có thể lật sách Luận Chú.
(15) Tịnh Độ Luận nói: “Xuất đệ ngũ môn: Với tâm đại từ bi, Bồ-tát quán sát tất cả chúng sinh khổ năo, thị hiện Ứng hóa thân, trở vào trong vườn sinh tử, rừng phiền năo, thần thông du hư, đạt đến Giáo hóa địa, đem bản nguyện lực mà hồi hướng. Đó là Xuất đệ ngũ môn.”
(16) “Hoàn tướng, là sinh về tịnh độ kia rồi, được thành tựu phương tiện lực là xa-ma-tha và tỳ-bát-xá-na, quay trở vào rừng rậm sinh tử, giáo hóa tất cả chúng sinh cùng hướng về Phật đạo. Dù là văng tướng hay hoàn tướng, đều v́ cứu chúng sinh qua khỏi biển sinh tử, thế nên nói ‘Hồi hướng làm đầu, v́ được thành tựu tâm đại bi’.”
(17) “Liền thấy Đức Phật A Di Đà, các Bồ-tát chưa chứng ‘tịnh tâm’ rốt ráo được chứng Pháp thân b́nh đẳng, cùng với Bồ-tát Tịnh tâm và các Bồ Tát ở thượng địa, rốt ráo đồng đắc Tịch diệt b́nh đẳng. Pháp thân b́nh đẳng, là Bồ-tát Pháp tánh sinh thân , từ địa thứ tám sắp lên. Tịch diệt b́nh đẳng, là ngay pháp thân này, Bồ-tát chứng Pháp tịch diệt b́nh đẳng. V́ có được pháp tịch diệt b́nh đẳng này, nên gọi là Pháp thân b́nh đẳng. Pháp thân b́nh đẳng mà Bồ Tát có được, nên gọi là Pháp tịch diệt b́nh đẳng vậy. Bồ Tát này được tam-muội Báo sinh. Do thần lực của tam muội, Bồ-tát này có thể một xứ, một niệm, một thời, biến khắp các thế giới mười phương, đem các thứ cúng dường tất cả chư Phật và biển cả đại hội chúng của chư Phật; có thể ở những nơi không có Phật Pháp Tăng trong vô lượng thế giới, thị hiện đủ thứ, giáo hóa đủ loại, độ thoát tất cả chúng sinh; thường làm Phật sự. Ban đầu không có tưởng văng lai, tưởng cúng dường, tưởng độ thoát, cho nên thân này gọi là Pháp thân b́nh đẳng, pháp này gọi là Pháp tịch diệt b́nh đẳng. Bồ Tát chưa chứng Tịnh tâm là các Bồ-tát từ địa thứ nhất sắp lên, địa thứ bảy trở xuống. Các Bồ-tát này cũng có thể hiện thân hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, hoặc ức, hoặc trăm ngàn vạn ức, ở quốc độ không có Phật mà thực thi Phật sự. Điều quan trọng là phải tác tâm để nhập cho được tam-muội, chẳng phải không tác tâm. Bởi v́ tác tâm, nên gọi là Chưa chứng Tịnh tâm. Bồ-tát này nguyện sinh tịnh độ An Lạc, liền thấy Đức Phật A Di Đà. Khi thấy Đức Phật A Di Đà, th́ có thân và pháp rốt ráo ngang bằng với các Bồ-tát ở thượng địa. Bồ-tát Long Thọ, Bồ-tát Bà-tẩu-bàn-đầu nguyện sinh cơi kia, sẽ được như vậy. Hỏi: Xét kinh Thập Địa, Bồ-tát bước tới thềm bậc, dần có vô lượng công đức, trải qua nhiều kiếp số, rồi sau mới đạt được như vầy. V́ sao khi thấy Đức Phật A Di Đà, th́ có thân và pháp rốt ráo b́nh đẳng với các Bồ-tát ở thượng địa? Đáp: Rốt ráo là chưa nói ư ‘tức khắc ngang bằng’. Rốt ráo không mất [thân và pháp] ngang bằng này, nên nói ‘b́nh đẳng’. Hỏi: Nếu không ‘tức khắc ngang bằng’, th́ nói làm chi? Bồ-tát chỉ bước lên địa đầu tiên, từ từ tăng tiến, tự nhiên sẽ ngang bằng với Phật, sao phải nói là ngang bằng với các Bồ-tát ở thượng địa? Đáp: Bồ-tát ở địa thứ bảy được đại tịch diệt, trên không thấy chư Phật để cầu, dưới không thấy chúng sinh để độ, muốn bỏ Phật đạo, chứng ở Thật tế. Bấy giờ, nếu không được thần lực của mười phương chư Phật khuyến tấn, th́ Bồ-tát sẽ diệt độ, cùng với Nhị thừa chẳng khác. Bồ-tát nếu văng sinh An Lạc, thấy Đức Phật A Di Đà, th́ sẽ không có nạn ấy. Thế nên phải nói là ‘Rốt ráo ngang bằng’. Lại nữa, trong kinh Vô Lượng Thọ, bản nguyện của A Di Đà Như Lai có nói: ‘Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở Phật độ phương khác sinh về nước tôi, rốt ráo ắt phải đến bậc Nhất sinh bổ xứ, trừ người có bản nguyện tự tại, v́ chúng sinh mà mặc giáp hoằng thệ, tích lũy cội đức, độ thoát tất cả, đi qua các Phật quốc tu Bồ-tát hạnh, cúng dường mười phương chư Phật Như Lai, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sinh, khiến họ đứng nơi đạo Vô thượng Chánh chân, siêu xuất công hạnh của các địa thông thường, hiện tiền tu tập công đức Phổ Hiền. Nếu không như vậy th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.’ Xét đoạn kinh này có thể suy luận rằng, Bồ-tát trong nước kia có thể không từ một địa lên đến một địa. Cái gọi là thứ bậc của Thập địa, đó là một đạo ứng hóa của Thích Ca Như Lai ở Diêm-phù-đề, chứ Tịnh độ phương khác chắc ǵ là như vậy. Trong năm thứ bất khả tư nghị , Phật pháp là điều bất khả tư nghị nhất. Nếu nói Bồ-tát phải từ một địa lên đến một địa, không có nguyên lư ‘siêu việt’, th́ là chưa dám tường tận. Thí như có loại cây tên là Hảo kiên (vững chắc tuyệt vời). Cây này đâm chồi từ mặt đất, phải trăm năm mới đủ lớn. Cây đó một ngày cao lớn một trăm trượng, ngày nào cũng vậy. Tính sự tăng trưởng một trăm năm, có giống như cây tùng cao không? Thấy cây tùng sinh trưởng, một ngày không quá một tấc, nghe đến cây Hảo kiên kia, làm sao chẳng nghi ngờ? Cũng như có người nghe rằng: Đức Thích Ca Như Lai thuyết pháp, chứng La-hán trong một lần nghe, đạt Vô sinh trong buổi sáng sớm, bèn bảo đó là kiểu nói dẫn dụ, chẳng đúng theo sự thật. Nghe sự việc trong luận này, họ sẽ không tin. Phàm là lời phi thường sẽ không lọt tai kẻ tầm thường. Khi họ nói ‘không đúng’, v́ nó hợp với nhận thức của họ vậy. Lược nói tám câu , hiển thị tự lợi lợi tha, công đức trang nghiêm, thứ tự thành tựu của Như Lai, hăy nên biết. Thứ tự của tám câu này như thế nào? Mười bảy câu trước đó chính là trang nghiêm quốc độ công đức thành tựu . Đă biết tướng quốc độ, nên biết vị chủ của quốc độ. V́ thế, kế quán công đức trang nghiêm của Phật. Đức Phật ấy nếu là trang nghiêm, th́ ngồi ở đâu? V́ thế, trước hết quán ṭa. Đă biết ṭa rồi, nên biết chủ của ṭa. V́ thế, kế quán thân nghiệp trang nghiêm của Phật. Đă biết thân nghiệp, nên biết có danh tiếng ǵ? V́ thế, kế quán khẩu nghiệp trang nghiêm của Phật. Đă biết danh tiếng, nên biết được danh tiếng do đâu? V́ thế, kế quán trang nghiêm tâm nghiệp. Đă biết ba nghiệp đầy đủ, đáng làm bậc Đại sư của trời người, th́ người chịu tiếp nhận giáo hóa là ai? V́ vậy, kế quán công đức của đại chúng. Đă biết đại chúng có vô lượng công đức, nên biết thượng thủ là ai? V́ thế, kế quán thượng thủ. Thượng thủ là Phật. Đă biết thượng thủ, sợ lớn nhỏ đồng nhau. V́ thế, kế quán chủ. Đă biết là chủ, chủ có tăng thượng ǵ? V́ thế, kế quán bất hư tác trụ tŕ trang nghiêm. Thứ tự của tám câu đă thành.
Quán Bồ Tát: Hỏi: Thế nào là quán sát công đức thành tựu Bồ-tát trang nghiêm? Đáp: Quán sát công đức thành tựu Bồ-tát trang nghiêm là quán Bồ Tát ấy có bốn thứ chánh tu hành công đức thành tựu, nên biết. Chân như là bản thể của các pháp. Bản thể Chân như mà hành th́ là chẳng hành. Chẳng hành mà hành, th́ gọi là Như thật tu hành. Bản thể chỉ là ‘Nhất như’, nhưng nghĩa chia làm bốn. V́ thế, bốn hạnh được tổng hợp thành một.
Những ǵ là bốn? Một là, nơi một Phật độ, thân không dao động mà biến khắp mười phương đủ thứ ứng hóa, như thật tu hành, thường làm Phật sự. Kệ rằng: An Lạc quốc thanh tịnh Thường chuyển vô cấu luân Trời Hóa Phật, Bồ-tát Như Tu-di trụ tŕ. V́ hoa nở từ bùn lầy các chúng sinh. Bồ Tát từ địa thứ tám sắp lên thường an trú tam-muội. Do sức tam-muội, thân bất động ở bản xứ mà có thể đi đến khắp mười phương, cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh. Vô cấu luân, là công đức của Phật địa. Công đức của Phật địa th́ không có tập khí phiền năo cấu. Phật v́ các Bồ-tát thường chuyển pháp luân này. Các đại Bồ-tát cũng có thể dùng pháp luân này để khai mở dẫn đạo tất cả, không tạm thời ngưng nghỉ, cho nên nói là Thường chuyển. Pháp thân như mặt trời, mà ánh sáng Ứng hóa thân chiếu khắp các thế giới. Mặt trời chưa đủ nói rơ sự bất động, nên nói thêm Như Tu-di trụ tŕ. Hoa nở từ bùn lầy, như kinh nói: ‘Ví như cao nguyên đất liền không sinh hoa sen, trong bùn lầy thấp ướt mới sinh hoa sen.’ Đây dụ cho phàm phu ở trong bùn phiền năo, được Bồ-tát khai mở dẫn đạo, có thể sinh hoa Chánh giác của Phật. Tôi cho rằng, tiếp nối rạng rỡ Tam bảo, thường khiến chẳng dứt mất.
Hai là, Ứng hóa thân ấy trong tất cả thời, không trước không sau, nhất tâm, nhất niệm, phóng đại quang minh, đều có thể đi đến khắp mười phương thế giới, giáo hóa chúng sinh, bằng mọi phương tiện, tu hành làm việc diệt trừ khổ đau của tất cả chúng sinh. Kệ rằng: Vô cấu trang nghiêm quang Một niệm và một thời Chiếu khắp các Phật hội Lợi ích chư quần sinh. Phần trên nói ‘bất động mà đi đến’, có thể hiểu là đi đến có trước và sau. Cho nên ở đây nói, Một niệm và một thời, là không có trước hay sau.
Ba là, các Bồ Tát ấy ở trong tất cả thế giới, chiếu khắp đại chúng hội của chư Phật không sót, cúng dường vô lượng quảng đại không sót, cung kính tán thán công đức của chư Phật Như Lai. Kệ rằng: Mưa thiên nhạc, áo hoa Diệu hương để cúng dường Khen công đức chư Phật Không có tâm phân biệt. Không sót, là đến khắp tất cả thế giới, tất cả đại hội của chư Phật, không có thế giới nào, không Phật hội nào chẳng đến. Ngài Tăng Triệu viết: ‘Pháp thân vốn vô tướng, nhưng lại ứng hiện theo từng h́nh tướng đặc thù. Vần điệu chí cao th́ vẫn không lời, mà thư tịch huyền vi khắp nơi quảng bá. Thiện quyền bí ẩn th́ không toan tính, mà động tĩnh thảy tương ưng sự thể’ , chính là ư này.
Bốn là, ở trong tất cả thế giới mười phương, xứ sở không có Tam bảo, các Bồ-tát ấy trụ tŕ trang nghiêm biển cả công đức của Phật Pháp Tăng bảo, dạy khắp để hiểu mà như thật tu hành. Kệ rằng: Thế giới nào không có Phật pháp công đức bảo Tôi nguyện đều văng sinh Dạy Phật pháp như Phật. Ba câu trước tuy nói là ‘đến khắp’ nhưng đều là đến những quốc độ có Phật. Nếu không có câu này th́ Pháp thân có chỗ vô pháp, thượng thiện có chỗ bất thiện. Phần Quán hành thể tướng đă xong.
Từ đây trở đi là mục thứ tư trong phần Giải Nghĩa , được gọi là Tịnh nhập nguyện tâm. Tịnh nhập nguyện tâm: Lại nói về Quán sát: (a) Trang nghiêm công đức của Phật độ thành tựu, (b) Trang nghiêm công đức của Phật thành tựu, (c) Trang nghiêm công đức của Bồ-tát thành tựu. Ba thứ thành tựu này đều do nguyện tâm trang nghiêm. Nên biết. Nên biết: Nên biết rằng ba thứ trang nghiêm thành tựu là do được trang nghiêm bằng nguyện tâm thanh tịnh biểu lộ qua bốn mươi tám bản nguyện. Nhân thanh tịnh nên quả thanh tịnh. Chẳng phải không có nguyên nhân, hay do nhân nào khác, mà có được. Lược thuyết là đi vào một pháp cú. Một pháp cú là thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú là Pháp thân vô vi của trí tuệ chân thật. Mười bảy câu về Quốc độ trang nghiêm, tám câu về Như Lai trang nghiêm của và bốn câu về Bồ-tát trang nghiêm ở trên là quảng thuyết. Đi vào một pháp cú là lược thuyết. V́ sao biểu thị quảng lược tương nhập? Chư Phật, Bồ-tát có hai thứ Pháp thân: Một là, Pháp tánh Pháp Thân; hai là, Phương tiện Pháp thân. Do Pháp tánh Pháp thân mà sinh Phương tiện Pháp thân. Do Phương tiện Pháp thân mà xuất Pháp tánh Pháp thân. Hai thứ Pháp thân này, tuy khác mà không thể phân tách, tuy một mà không thể đồng nhất. V́ thế, quảng lược tương nhập, gọi chung là Pháp. Nếu Bồ-tát không biết quảng lược tương nhập, th́ không thể tự lợi và lợi tha. Một pháp cú là thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú là Pháp thân vô vi của trí tuệ chân thật. Ba câu này triển chuyển tương nhập. Theo nghĩa ǵ gọi đó là pháp? Bởi v́ thanh tịnh. Theo nghĩa ǵ gọi là thanh tịnh? Bởi v́ là Pháp thân vô vi của trí tuệ chân thật. Trí huệ chân thật là trí tuệ thật tướng. Thật tướng th́ vô tướng, nên là Chân trí vô tri. Pháp thân vô vi là Pháp tánh thân. Pháp tánh th́ tịch diệt, nên là Pháp thân vô tướng. V́ vô tướng, nên có khả năng ‘không ǵ không là tướng’. V́ thế, tướng hảo trang nghiêm chính là Pháp thân. V́ vô tri, nên có khả năng ‘không ǵ không biết’. V́ thế, Nhất như chủng trí chính là trí tuệ chân thật. Dùng chân thật để thấy trí tuệ, rơ ràng trí tuệ là phi tác, phi phi tác. Dùng vô vi để kiến lập Pháp thân, rơ ràng Pháp thân là phi sắc, phi phi sắc. Phi đi với phi, đâu phải là phủ định của phủ định, bởi v́ không phủ định đó gọi là khẳng định. Tự thân sự khẳng định không đợi trở thành phủ định của khẳng định. Phủ định của khẳng định (非是), phủ định của phủ định (非非), và bách phi (百非) đều không thể ví dụ, v́ vậy nói là Thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú là ‘Pháp thân vô vi của trí tuệ chân thật’ vậy. Sự thanh tịnh này có hai thứ, nên biết. Trong phần chuyển nhập cú ở trên, gồm một pháp đi vào thanh tịnh, gồm thanh tịnh đi vào pháp thân. Nay v́ đem sự thanh tịnh riêng nêu ra hai thứ mà nói ‘nên biết’. Những ǵ là hai thứ? Một là, khí thế gian thanh tịnh; hai là, chúng sinh thế gian thanh tịnh. Khí thế gian thanh tịnh là như mười bảy thứ trang nghiêm công đức của Phật độ thành tựu, đó gọi là khí thế gian thanh tịnh. Chúng sinh thế gian thanh tịnh là tám thứ trang nghiêm công đức của Phật thành tựu và bốn thứ trang nghiêm công đức của Bồ-tát thành tựu, đó gọi là chúng sinh thế gian thanh tịnh. Như vậy, một pháp cú bao gồm nghĩa của hai thứ thanh tịnh, nên biết. Chúng sinh là thể của biệt báo, quốc độ là dụng của cộng báo. Thể và dụng chẳng một, là lư do nên biết. Nhưng các pháp từ tâm sinh thành, không có cảnh giới nào khác. Chúng sinh và khí thế gian cũng không khác. ‘Chẳng một’ th́ nghĩa phân, ‘không khác’ th́ đồng thanh tịnh. Khí: là dụng vậy. Nghĩa là tịnh độ kia là sở thọ dụng của chúng sinh thanh tịnh kia, nên gọi là Khí. Như thức ăn sạch mà dùng đồ đựng bất tịnh, do đồ đựng bất tịnh, thức ăn cũng bất tịnh. Thức ăn bất tịnh dùng đồ đựng sạch sẽ, do thức ăn bất tịnh, đồ đựng cũng bất tịnh. Cả hai phải sạch sẽ mới được gọi là tịnh. Do vậy, chỉ một sự thanh tịnh ắt nhiếp cả hai thứ. Hỏi: Nói ‘chúng sanh thanh tịnh’ th́ là Phật và Bồ-tát, c̣n hàng thiên nhân quốc độ kia có được vào số thanh tịnh này không? Đáp: Được gọi là thanh tịnh, chẳng phải thanh tịnh thật sự. Ví như Thánh nhân xuất gia, do giết giặc phiền năo nên gọi là tỳ kheo; phàm phu xuất gia đều gọi là tỳ kheo. Lại như quán đảnh vương tử, lúc mới sanh ra đă có đủ ba mươi hai tướng, lập tức sở hữu bảy món báu, tuy chưa thể làm sự Chuyển luân vương, vẫn gọi là Chuyển luân vương, v́ vương tử ấy sẽ làm Chuyển luân vương. Các hàng thiên nhân ấy cũng giống như thế, đều thuộc vào Chánh định tụ của Đại thừa, rốt ráo sẽ được Pháp thân thanh tịnh. V́ sẽ được Pháp thân thanh tịnh, nên được gọi là thanh tịnh.
Thiện xảo nhiếp hóa: Như vậy Bồ Tát đối với xa-ma-tha và tỳ-bà-xá-na tu hành quảng lược, thành tựu nhu nhuyễn tâm. Nhu nhuyễn tâm: là chỉ quán quảng lược, tu hành thuận nhau, thành tựu tâm không hai. Thí như dùng nước lấy bóng, do trong và lắng giúp nhau mà thành tựu. Như thật biết chư pháp quảng lược. Như thật biết: là như thật tướng mà biết. Quảng thuyết có hai mươi chín câu, lược thuyết có một câu, toàn là thật tướng. Như vậy thành tựu xảo phương tiện hồi hướng. Như vậy: như trước sau quảng thuyết và lược thuyết toàn là thật tướng. Biết thật tướng th́ biết chúng sinh trong tam giới là tướng hư vọng. Biết chúng sinh là hư vọng, th́ phát sinh từ bi chân thật. Biết Pháp thân chân thật, th́ khởi sự quy y chân thật. Xảo phương tiện về từ bi và quy y sẽ nói dưới đây. Xảo phương tiện hồi hướng của Bồ-tát là ǵ? Xảo phương tiện hồi hướng của Bồ-tát là nói về năm thứ tu hành: lễ bái, tán thán, phát nguyện, quán sát và hồi hướng, tất cả công đức thiện căn đă tích tập, Không t́m cầu an lạc trụ tŕ cho bản thân, muốn cứu vớt khổ đau cho tất cả chúng sinh, cho nên phát nguyện nhiếp thủ tất cả chúng sinh cùng nhau sinh về Phật độ An Lạc kia. Đó gọi là thành tựu xảo phương tiện hồi hướng của Bồ-tát. Dựa theo kinh Vô Lượng Thọ được nói tại thành Vương Xá, trong ba hạng người cầu sinh nước An Lạc, tuy hành nghiệp có hơn kém, nhưng không ai không phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Tâm Vô thượng Bồ-đề này tức là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật tức là tâm độ chúng sinh. Tâm độ chúng sinh tức là tâm nhiếp thủ chúng sinh sinh về quốc độ có Phật. Thế nên, nguyện sinh tịnh độ An Lạc kia, th́ phải phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Nếu người nào không phát tâm Vô thượng Bồ-đề, chỉ nghe quốc độ kia hưởng lạc không gián đoạn, v́ lạc mà nguyện sinh, th́ sẽ không được văng sinh. Cho nên luận nói, “Không t́m cầu an lạc trụ tŕ cho bản thân, muốn cứu vớt khổ đau cho tất cả chúng sinh”. ‘An Lạc trụ tŕ’, là nói tịnh độ An Lạc kia được trụ tŕ bởi bản nguyện lực của A Di Đà Như Lai , nên hưởng lạc không gián đoạn vậy. Giải thích về danh nghĩa ‘hồi hướng’, là đem tất cả công đức mà ḿnh tích tập được thí cho tất cả chúng sinh, cùng hướng về Phật đạo. Xảo phương tiện: là Bồ-tát nguyện dùng lửa trí tuệ của ḿnh đốt cỏ cây phiền năo của tất cả chúng sinh. Nếu có một chúng sinh không thành Phật, tôi không làm Phật. Nhưng chúng sinh chưa thành Phật hết cả, mà Bồ-tát đă tự thành Phật. Thí như que củi nhóm lửa, muốn dùng để đốt sạch tất cả cỏ cây, cỏ cây chưa cháy hết mà que củi nhóm lửa đă cháy sạch. Đặt ḿnh đằng sau mà ḿnh lại ở trước , nên gọi là phương tiện. Phương tiện được nói ở đây là ‘nguyện nhiếp thủ tất cả chúng sinh cùng nhau sinh về Phật độ An Lạc kia’. Phật độ kia chính là phương tiện vô thượng của đạo lộ rốt ráo thành Phật.
Chướng Bồ-đề môn: Bồ-tát như vậy khéo biết hồi hướng thành tựu, tức có thể rời xa ba pháp trái nghịch Bồ-đề môn. Những ǵ là ba pháp? Một là, nương theo Trí tuệ môn, không cầu an lạc riêng ḿnh, rời xa cái tâm ngă mạn, tham đắm tự thân. Biết tiến pḥng lùi là Trí; biết tánh Không, Vô ngă là Tuệ. V́ nương theo Trí nên ‘không cầu an lạc riêng ḿnh’. V́ nương theo Tuệ nên ‘rời xa chấp ngă, tham đắm tự thân’. Hai là, nương theo Từ bi môn, cứu khổ đau của tất cả chúng sinh, rời xa cái tâm không làm cho chúng sinh an lạc. Cứu khổ đau là Từ; trao an lạc là Bi. V́ nương theo Từ, nên ‘cứu khổ đau của tất cả chúng sinh’. V́ nương theo Bi, nên ‘rời xa cái tâm không làm cho chúng sinh an lạc’. Ba là, nương theo Phương tiện môn, sinh tâm thương xót tất cả chúng sinh, rời xa cái tâm cung kính, cúng dường bản thân. Chánh trực gọi là Phương; đặt ḿnh sang một bên gọi là Tiện. V́ nương theo tâm chánh trực, nên ‘sinh tâm thương xót tất cả chúng sinh’. V́ nương theo sự đặt ḿnh sang một bên, nên ‘rời xa cái tâm cung kính cúng dường bản thân’. Đó gọi là rời xa ba pháp trái nghịch Bồ-đề môn.
Thuận Bồ-đề môn: Bồ-tát rời xa ba pháp trái nghịch Bồ-đề môn như thế, sẽ được đầy đủ ba pháp tùy thuận Bồ-đề môn. Những ǵ là ba pháp? Một là, tâm thanh tịnh vô nhiễm, là không v́ bản thân mà cầu an lạc. Bồ-đề là thanh tịnh xứ vô nhiễm. Nếu v́ bản thân mà cầu an lạc, tức là trái nghịch Bồ-đề. V́ vậy, tâm thanh tịnh vô nhiễm là thuận Bồ-đề môn. Hai là, tâm thanh tịnh an, là cứu khổ đau cho tất cả chúng sinh. Bồ-đề là thanh tịnh xứ an ổn tất cả chúng sinh. Nếu không khởi tâm cứu chúng sinh ĺa khổ đau sinh tử, th́ là trái nghịch Bồ-đề. V́ vậy, cứu tất cả chúng sinh khổ đau là tùy thuận Bồ-đề môn. Ba là, tâm thanh tịnh lạc, là làm cho tất cả chúng sinh đắc đại Bồ-đề, nhiếp thủ chúng sinh sinh về quốc độ kia. Bồ-đề là rốt ráo thường lạc xứ. Nếu chẳng làm cho tất cả chúng sinh đắc rốt ráo thường lạc xứ th́ là trái nghịch Bồ-đề. Rốt ráo thường lạc xứ này y theo ǵ mà được? Y theo Đại nghĩa (thừa) môn. Đại nghĩa (thừa) môn chính là Phật quốc độ An Lạc vậy. V́ vậy mà nói ‘v́ nhiếp thủ chúng sinh sinh về quốc độ kia’. Đó gọi là đầy đủ ba pháp tùy thuận Bồ-đề môn, nên biết.
Danh nghĩa nhiếp đối: Trên nói ba loại môn trí huệ, từ bi, phương tiện nhiếp thủ Bát-nhă. Bát-nhă nhiếp thủ phương tiện, nên biết. Bát-nhă, là thuật ngũ chỉ cái tuệ đạt Như. Phương tiện, là thuật ngữ chỉ cái trí thông Quyền. Đạt Như th́ tâm hành tịch diệt. Thông Quyền th́ biết hết các căn cơ. Cái trí biết hết mà vô tri. Cái tuệ tịch diệt cũng vô tri, mà biết hết. Tuy vậy, trí tuệ và phương tiện vin nhau mà động, vin nhau mà tĩnh. Động không mất tĩnh, là công năng của trí tuệ. Tĩnh không bỏ động, là sức mạnh của phương tiện. V́ thế, trí tuệ, từ bi và phương tiện cùng nhiếp thủ Bát-nhă. Bát-nhă nhiếp thủ phương tiện. Nên biết: là nên biết trí tuệ và phương tiện là cha mẹ của Bồ-tát. Nếu không y theo trí tuệ và phương tiện, th́ Bồ-tát pháp sẽ không thành tựu. V́ sao? Nếu không có trí tuệ, th́ khi độ chúng sinh sẽ rơi vào điên đảo . Nếu không có phương tiện, th́ khi quán Pháp tánh sẽ chứng Thật tế . V́ vậy, ‘nên biết’. Trên nói rời xa cái tâm ngă mạn, tham đắm tự thân; rời xa cái tâm không làm cho chúng sinh an lạc; rời xa cái tâm cung kính cúng dường bản thân. Ba pháp này giúp rời xa các chướng ngại cho Bồ-đề tâm, nên biết. Mỗi pháp đều có tướng chướng ngại. Như gió có thể chướng tĩnh, đất có thể chướng nước, ướt có thể chướng lửa, ngũ nghịch thập ác chướng nhân thiên, bốn điên đảo chướng Thanh văn quả. Không rời xa ba pháp này th́ chướng ngại Bồ-đề tâm. Nên biết: Nếu muốn không có chướng ngại, hăy rời xa ba thứ chướng ngại này. Trên nói tâm thanh tịnh vô nhiễm, tâm thanh tịnh an và tâm thanh tịnh lạc. Ba loại tâm này thành tựu một chỗ, nói gọn là tâm chân thắng diệu lạc, nên biết. Lạc có ba loại: Một là, ngoại lạc, tức lạc được sinh từ năm thức; hai là, nội lạc, tức lạc được sinh từ ư thức của Sơ thiền, Nhị thiền và Tam thiền; ba là, là lạc của pháp lạc, tức lạc được sinh từ trí tuệ. Lạc được sinh từ trí tuệ ấy là do ưa thích công đức Phật [nguyện sinh Tịnh độ] mà sinh khởi, chính là ‘rời xa cái tâm chấp ngă, tham đắm tự thân; rời xa cái tâm không làm cho chúng sinh an lạc; rời xa cái tâm cung kính cúng dường bản thân’. Ba loại tâm ấy thanh tịnh tăng tiến, nói gọn là tâm chân thắng diệu lạc. Diệu là tốt đẹp, do lạc này duyên Phật mà sinh. Thắng là thắng xuất các thứ lạc trong tam giới. Chân là không hư ngụy, không điên đảo.
Nguyện sự thành tựu: Như vậy, Bồ-tát do trí tuệ tâm, phương tiện tâm, vô chướng tâm và thắng chân tâm, mà có khả năng sinh về Phật quốc độ thanh tịnh, nên biết. Nên biết: là nên biết bốn loại công đức thanh tịnh này có khả năng sinh về Phật quốc độ thanh tịnh kia, không phải do duyên khác mà sinh. Đó gọi là Bồ-tát ma-ha-tát tùy thuận năm loại pháp môn, việc làm tùy ư, tự tại thành tựu. Như trên đă nói, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp, trí nghiệp, phương tiện trí nghiệp đều tùy thuận pháp môn. Tùy ư tự tại: là nói sức mạnh của năm thứ công đức này có thể sinh trong Phật độ thanh tịnh, tự tại xuất hiện hay ẩn mất. Thân nghiệp là Lễ bái. Khẩu nghiệp là Tán thán. Ư nghiệp là Tác nguyện. Trí nghiệp là Quán sát. Phương tiện trí nghiệp là Hồi hướng. Có nghĩa là năm thứ nghiệp ấy ḥa hợp, th́ là tùy thuận pháp môn Văng sinh Tịnh độ, tự tại nghiệp thành tựu.
Lợi hành măn túc: Lại có năm loại môn, lần lượt thành tựu năm loại công đức, nên biết. Những ǵ là năm môn? Một là, cận môn; hai là, đại hội chúng môn; ba là, trạch môn; bốn là, ốc môn; năm là, viên lâm du hư địa môn. Năm môn này chỉ rơ tướng xuất nhập theo thứ tự. Tướng của nhập môn là: mới đến Tịnh độ là cận tướng, tức là dự vào Chánh định tụ của Đại thừa, gần với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; đă vào trong Tịnh độ, bèn dự vào đại chúng trong pháp hội của Như Lai; đă dự vào hàng đại chúng, sẽ đến được căn nhà “an tâm tu hành”; đă vào nhà rồi, sẽ đến pḥng ốc dành cho tu hành. Khi đă tu hành thành tựu, sẽ đạt đến Giáo hóa địa. Giáo hóa địa chính là tự ngu lạc địa của Bồ-tát. V́ thế, tướng của xuất môn được gọi là viên lâm du hư địa môn. Năm loại môn này, bốn loại môn đầu là thành tựu nhập công đức, môn thứ năm là thành tựu xuất công đức. Các môn công đức xuất nhập này như thế nào? Giải thích như sau: Nhập đệ nhất môn là dùng sự lễ bái A Di Đà Phật để sinh về quốc độ kia, được sinh thế giới An Lạc. Đó gọi là Nhập đệ nhất môn. Lễ Phật, nguyện sinh Phật quốc, là tướng công đức đầu tiên. Nhập đệ nhị môn là dùng sự tán thán A Di Đà Phật, tùy thuận danh nghĩa mà xưng danh Như Lai, nương quang minh trí tướng của Như Lai mà tu hành, được dự vào số đại hội chúng. Đó gọi là Nhập đệ nhị môn. Y theo danh nghĩa của Như Lai để tán thán, là tướng công đức thứ hai. Nhập đệ tam môn là dùng sự nhất tâm chuyên niệm, tác nguyện sinh cơi kia, v́ tu Xa-ma-tha tịch tĩnh tam-muội hạnh mà được vào thế giới Liên Hoa Tạng. Đó gọi là Nhập đệ tam môn. V́ tu ‘tịch tĩnh chỉ’ nên nhất tâm nguyện sinh về quốc độ kia, là tướng công đức thứ ba. Nhập đệ tứ môn là dùng sự chuyên niệm mà quán sát sự diệu trang nghiêm của cơi kia, v́ tu Tỳ-bà-xá-na mà được đến cơi ấy, thọ dụng đủ loại lạc của pháp vị. Đó gọi là Nhập đệ tứ môn. Đủ loại lạc của pháp vị: trong Tỳ-bà-xá-na, có quán Phật quốc độ thanh tịnh vị, nhiếp thọ chúng sinh Đại thừa vị, rốt ráo trụ tŕ bất hư tác vị, loại sự khởi hạnh nguyện thủ Phật độ vị, có vô lượng trang nghiêm Phật đạo vị như thế, cho nên nói ‘đủ loại’. Đó là tướng công đức thứ tư. Xuất đệ ngũ môn là dùng tâm đại từ bi mà quán sát tất cả chúng sinh khổ năo, thị hiện Ứng hóa thân, trở vào trong vườn sinh tử, rừng phiền năo, thần thông du hư, đạt đến Giáo hóa địa, đem bản nguyện lực mà hồi hướng. Đó là Xuất đệ ngũ môn. Thị hiện Ứng hóa thân: Là các thứ thị hiện như trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa có nói. Du hư: Có hai nghĩa: (a) Nghĩa tự tại: Bồ-tát độ chúng sanh ví như sư tử bắt nai, chẳng khó khăn ǵ, giống như vui chơi. (b) Nghĩa ‘độ vô sở độ’: Bồ-tát quán chúng sinh, rốt ráo vô sở hữu, dù độ vô lượng chúng sinh mà thật sự không có một chúng sinh được diệt độ, thị hiện độ chúng sinh giống như vui chơi. Bản nguyện lực: Là nói ở trong Pháp thân, các đại Bồ-tát thường tại tam-muội mà hiện đủ loại thân, các thứ thần thông, các thứ thuyết pháp, đều từ bản nguyện lực sinh khởi. Thí như cây đàn của A-tu-la, tuy không có ai khảy mà tự nhiên phát ra âm khúc. Đó gọi là Giáo hóa địa, tướng công đức thứ năm.”
(18) Như vậy, chúng ta thực sự biết lời dạy chân thật của Đức Phật rằng, sự chứng ngộ Đại Niết-bàn là nhờ nguyện lực hồi hướng. Hoàn tướng lợi ích, là nói chánh ư của ‘Lợi tha’. Theo đó, luận chủ [Thế Thân] tuyên bố “Quảng đại vô ngại nhất tâm” , khai hóa rộng khắp cho tất cả quần manh kham nhẫn và tạp nhiễm . Tông sư [Đàm Loan] hiển thị “Đại bi Văng Hoàn hồi hướng”, ân cần giảng rộng thâm nghĩa ‘Lợi tha, tha lợi’ . Ngưỡng mong đại chúng hăy vâng giữ, đặc biệt hăy đem đỉnh đầu đội lên.
(Năm) Hiển Tịnh Độ Chân Phật Độ Văn Loại
Ngu ngốc Thích Thân Loan biên tập.
(1) Cung kính quán sát Đức Phật chân thật và quốc độ chân thật: Đức Phật là Bất Khả Tư Nghị Quang Như Lai và quốc độ cũng là Vô Lượng Quang Minh Độ. Bởi v́ là ‘thệ nguyện đại bi’ được đền đáp, nên gọi là Báo Phật chân thật và Báo độ chân thật. Có những thệ nguyện đă được lập: nguyện Quang minh và nguyện Thọ mạng.
(2) Đại Kinh nói: “Giả sử khi tôi thành Phật, quang minh có hạn lượng, tối thiểu chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na do tha cơi nước chư Phật th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.”
(3) Lại nói: “Giả sử khi tôi thành Phật, thọ mạng có hạn lượng, tối thiểu là trăm ngàn ức na do tha kiếp th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.”
(4) Nguyện Thành Tựu Văn nói: “Đức Phật dạy: Này A-nan! Đức Phật Vô Lượng Thọ oai thần quang minh tối tôn đệ nhất, quang minh của chư Phật chẳng bằng. [Quang minh của Ngài hoặc chiếu trăm thế giới, ngàn thế giới, nhẫn chiếu đến chiếu suốt hằng sa thế giới chư Phật ở phương Đông, chín phương kia cũng vậy. C̣n chư Phật khác, hoặc có Phật quang chiếu bảy thước, hoặc chiếu một do tuần, hai ba bốn năm do tuần, gấp bội như vậy cho đến hoặc có Phật quang chiếu một cơi nước Phật.] V́ thế nên đức Phật Vô Lượng Thọ hiệu là Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đối Quang Phật, Viêm Vương Ngại Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ Quang Phật, Trí Tuệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật và Siêu Nhựt Nguyệt Quang Phật. Có chúng sinh nào gặp được quang minh ấy th́ ba cấu (tham sân si) tiêu trừ, thân ư nhu nhuyến, hớn hở vui mừng, tâm lành phát sinh. Nếu là kẻ ở tam đồ, chỗ vô cùng khổ, thấy được quang minh ấy th́ khổ sở thôi dứt không c̣n, sau khi mạng chung đều được giải thoát. Quang minh của đức Phật Vô Lượng Thọ sáng rỡ chiếu đến quốc độ của chư Phật mười phương, không cơi nước nào chẳng chiếu thấu. Chẳng riêng ǵ Ta hôm nay khen quang minh của Ngài, mà tất cả chư Phật, chúng Bồ-tát, Thanh văn và Duyên giác đều cũng ca ngợi như vậy. Nếu có chúng sinh nào nghe oai thần công đức của quang minh Đức Phật Vô Lượng Thọ, rồi ngày đêm khen nói, chí tâm chẳng ngớt, th́ tùy ư sở nguyện của họ mà được sinh về quốc độ của Đức Phật ấy, được đại chúng Bồ-tát, Thanh văn đồng khen ngợi công đức của họ. Đến lúc tối hậu, khi họ thành Phật, khắp được mười phương chư Phật, Bồ-tát khen ngợi quang minh của họ cũng như hiện nay [khen ngợi quang minh của Đức Phật Vô Lượng Thọ].
Đức Phật dạy: Ta nói oai thần quang minh ṿi vọi kỳ diệu của Đức Phật Vô Lượng Thọ cả ngày đêm, suốt một kiếp, cũng chưa hết được. Lại này A-nan! Đức Phật Vô Lượng Thọ thọ mạng dài lâu không thể tính kể. Ông có biết không, giả sử vô lượng chúng sinh ở trong thế giới mười phương đều được thân người, và làm cho hết thảy thành tựu Thanh văn, Duyên giác, họ cùng nhau hội họp, thiền tư nhất tâm, dồn mọi trí lực, trải trăm ngàn muôn kiếp cùng suy tính, đếm số hạn lượng thọ mạng dài lâu của Đức Phật ấy cũng chẳng biết cùng tận được.”
(5) Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai nói: “Này A-nan! Bởi v́ nghĩa ấy mà Đức Phật Vô Lượng Thọ c̣n có tên khác là Vô Lượng Quang, Vô Biên Quang, Vô Trước Quang, Vô Ngại Quang, Quang Chiếu Vương Đoan Nghiêm Quang, Ái Quang, Hỷ Quang, Khả Quán Quang, Bất Tư Nghị Quang, Vô Đẳng Quang, Bất Khả Xưng Lượng Quang, Ánh Tế Nhật Quang, Ánh Tế Nguyệt Quang, Yểm Đoạt Nhật Nguyệt Quang. Quang minh của Đức Phật ấy thanh tịnh quảng đại, khiến khắp cả chúng sinh thân tâm an lạc, lại khiến tất cả thiên, long, dạ-xoa, a-tu-la, v.v. trong các cơi Phật khác thảy đều vui mừng.”
(6) Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác nói: “Nhanh chóng vượt lên đến Thế giới tên An Lạc quốc Cơi có vô lượng ánh sáng Cúng dường nơi vô số Phật.”
(7) Kinh Phật Thuyết Chư Phật A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo nói: “Đức Phật dạy: Ánh sáng của Đức Phật A Di Đà tối thượng bậc nhất, mà ánh sáng của chư Phật không thể nào sánh kịp. Vô số chư Phật trong mười phương, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 2 dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 5 dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 10 dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 20 dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 40 dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 80 dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 160 dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 320 dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 640 dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 1 ngàn 300 dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 2 ngàn 600 dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 5 ngàn 200 dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 1 vạn 400 dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 2 vạn 1 ngàn dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 4 vạn 2 ngàn dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 8 vạn 4 ngàn dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 17 vạn dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 35 vạn dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 70 vạn dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 150 vạn dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 300 vạn dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 600 vạn dặm, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 1 cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 2 cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 4 cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 8 cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 15 cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 30 cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 60 cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 120 cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 240 cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 500 cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 1 ngàn cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 2 ngàn cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 4 ngàn cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 8 ngàn cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 1 vạn 6 ngàn cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 3 vạn 2 ngàn cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 6 vạn 4 ngàn cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 13 vạn cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 26 vạn cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 50 vạn cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 100 vạn cơi nước, có Phật trên đảnh ánh sáng tỏa chiếu đến 200 vạn cơi nước. Đức Phật dạy: Khắp mười phương vô số chư Phật đều có ánh sáng tỏa chiếu ở trên đảnh như vậy. Ánh sáng trên đảnh của Đức Phật A Di Đà tỏa chiếu đến ngàn vạn cơi nước. V́ sao ánh sáng của các Đức Phật tỏa chiếu có gần có xa? Bởi v́ thuở xưa, khi các Đức Phật ấy c̣n là Bồ-tát, sở nguyện và công dức của mỗi vị có lớn có nhỏ, nên đến khi thành Phật mỗi vị tự đạt phước báo khác nhau, và v́ thế làm cho ánh sáng ấy tỏa chiếu không bằng nhau. Oai thần của các Đức Phật bằng nhau, cho nên các Ngài tự tại hành động theo ư muốn, chứ không có dự tính. Ánh sáng của Đức Phật A Di Đà tỏa chiếu rộng lớn mênh mông đến tận cùng, mà ánh sáng của các Đức Phật khác đều không thể sánh kịp. Đức Phật ca ngợi ánh sáng cực kỳ tốt đẹp của Phật A Di Đà: Ánh sáng của Đức Phật A Di Đà vô cùng tốt đẹp, ánh sáng tốt đẹp nhất trong mọi sự tốt đẹp, thật là khả ái không thể so sánh được, v́ nó tuyệt diệu vô cùng tận. Ánh sáng của Đức Phật A Di Đà trong suốt, không gợn một vết nhơ hay giảm thiếu. Ánh sáng của Đức Phật A Di Đà thù thắng hơn cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng gấp trăm ngàn vạn ức lần, là ánh sáng tuyệt diệu nhất trong ánh sáng của các đức Phật, là tốt đẹp nhất trong các ánh sáng, hùng vĩ nhất trong các ánh sáng, khả ái nhất trong các ánh sáng, là vua trong các đức Phật v́ nó cao tột nhất trong các ánh sáng, là ánh sáng vô cùng tối thượng trong các ánh sáng. Ánh sáng của Đức Phật A Di Đà tỏa chiếu khắp vô số cơi nước, kể cả chốn tối tăm cũng đều được rực rỡ sáng soi. Chư thiên, nhân dân hay loài côn trùng sinh vật, không ai mà không trông thấy ánh sáng của Đức Phật A Di Đà. Những ai trông thấy ánh sáng đó đều phát khởi từ tâm hoan hỷ, không c̣n ba nghiệp sân hận, dâm dục, ngu si của thế gian. Những ai được trông thấy ánh sáng của Đức Phật A Di Đà đều sẽ làm việc thiện. Những chúng sanh nào đang bị tra khảo, bị đau khổ đọa đày nơi chốn địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ mà được thấy ánh sáng của Đức Phật A Di Đà chiếu đến th́ những h́nh phạt ấy sẽ đ́nh chỉ ngay và không c̣n bị tra khảo nữa. Sau khi chết, những chúng sinh ấy sẽ được giải thoát khỏi sự lo buồn, khổ đau về h́nh phạt chốn địa ngục trước kia. Ánh sáng của Đức Phật A Di Đà vang khắp mười phương, nơi vô cùng vô tận, vô số các cơi nước, chư thiên, loài người, không ai mà không nghe biết. Và đă nghe biết rồi, tất cả đều được độ thoát. Đức Phật dạy: Không những chỉ riêng Ta ca ngợi ánh sáng của Đức Phật A Di Đà, mà vô số chư Phật, Bích-chi Phật, Bồ-tát, A-la-hán ở khắp mười phương cũng đều ca ngợi như vậy. Đức Phật dạy: Có người dân hay người thiện nam, thiện nữ nào được nghe tiếng ngợi khen về ánh sáng của Đức Phật A Di Đà, và từ sáng đến chiều thường ca ngợi ánh sáng tốt đẹp đó, ḷng chí thành không gián đoạn, sở nguyện tại tâm, những người ấy sẽ được văng sinh về quốc độ của Đức Phật A Di Đà.”
(8) Kinh Bất Không Quyến Sách Thần Biến Chân Ngôn nói: “Nơi ngươi sẽ sinh ra là Báo độ thanh tịnh của Đức Phật A Di Đà, hóa sinh trong hoa sen, thường thấy chư Phật, chứng các Pháp nhẫn, thọ mạng vô lượng trăm ngàn kiếp số, thẳng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không c̣n thối chuyển, và Ta (Quán Thế Âm Bồ-tát) thường bảo hộ.”
(9) Kinh Niết Bàn nói: “Lại nữa, giải thoát gọi là hư vô. Hư vô tức là giải thoát. Giải thoát tức là Như Lai. Như Lai tức là hư vô, không tạo tác và không có đối tượng tạo tác. Phàm là cái tạo tác như là thành quách, đài quan sát pḥng ngự. Chân giải thoát th́ không như vậy. Thế nên, giải thoát tức là Như Lai. Lại nữa, giải thoát tức là pháp vô vi. Ví như người thợ gốm tạo tác [đủ thứ đồ dùng], rồi bị phá hoại. Giải thoát không phải như vậy. Chân giải thoát là không sinh không diệt. Thế nên, giải thoát tức là Như Lai. Như Lai cũng vậy, không sinh, không diệt, không già, không chết, không phá, không hoại, chẳng phải pháp hữu vi. Do nghĩa này nên gọi là Như Lai nhập Đại Niết-bàn. (…) Lại nữa, giải thoát gọi là trên cả tột bậc. Ví như phương Bắc đối với phương Đông là trên cả tột bậc. Giải thoát cũng vậy, không c̣n có bậc nào trên nữa. Trên cả tột bậc tức là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai. (…) Lại nữa, giải thoát gọi là ĺa tham ái. Ví như người có tâm tham ái, mong cầu làm Thích-đề-hoàn-nhân, Đại Phạm thiên vương, Tự Tại thiên vương. Giải thoát không phải như vậy. Khi thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi th́ không có ái, không nghi. Không ái, không nghi tức là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai. Nếu nói ‘giải thoát có ái, có nghi’, th́ không có điều đó. (…) Như Lai tức là Niết-bàn. Niết-bàn tức là vô tận. Vô tận tức là Phật tánh. Phật tánh tức là quyết định. Quyết định tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bồ-tát Ca Diếp thưa Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu Niết-bàn, Phật tánh, quyết định, Như Lai là một nghĩa danh th́ sao nói rằng có Tam quy y? Đức Phật dạy ngài Ca Diếp: Này thiện nam tử! Tất cả chúng sinh kinh sợ sinh tử nên cầu Tam quy. Nhờ Tam quy nên biết Phật tánh, quyết định, Niết-bàn. Này thiện nam tử! Có pháp th́ danh một nghĩa khác, có pháp th́ danh nghĩa đều khác. Danh một nghĩa khác, là Phật thường, Pháp thường, Tỳ kheo Tăng thường, Niết-bàn, hư không cũng đều là thường. Đó gọi là danh một nghĩa khác. Danh nghĩa đều khác, là Phật gọi là giác, pháp gọi là bất giác, Tăng gọi là ḥa hợp, Niết-bàn gọi là giải thoát, hư không gọi là phi thiện, cũng gọi là vô ngại. Đó là danh nghĩa đều khác. Này thiện nam tử! Tam quy y cũng lại như vậy, danh nghĩa đều khác.”
(10) Lại nói: “Quang minh th́ gọi là không yếu đuối. Không yếu đuối th́ gọi là Như Lai. Lại nữa, quang minh th́ gọi là trí tuệ.”
(11) Lại nói: “Này thiện nam tử! Tất cả hữu vi đều là vô thường. Hư không vô vi, thế nên là thường. Phật tánh vô vi, thế nên là thường. Hư không tức là Phật tánh, Phật tánh tức là Như Lai, Như Lai tức là vô vi, vô vi tức là thường. Thường tức là Pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là vô vi, vô vi tức là thường. (…) Này thiện nam tử! Ví như từ con ḅ có ra sữa, từ sữa ra lạc (váng sữa), từ lạc ra váng sinh tô (bơ), từ sinh tô ra thục tô (kem), từ thục tô ra đề hồ (sữa chua). Đề hồ là tối thượng, nếu có người uống th́ mọi bệnh đều tiêu trừ, các thuốc sẵn có đều vào trong đề hồ ấy. Này thiện nam tử! Phật cũng như vậy, từ Phật có ra mười hai bộ kinh, từ mười hai bộ kinh ra Tu-đa-la, từ Tu-đa-la ra kinh Phương Đẳng, từ kinh Phương Đẳng ra Bát-nhă Ba-la-mật, từ Bát-nhă Ba-la-mật ra Đại Niết-bàn, giống như đề hồ. Nói đề hồ là dụ cho Phật tánh, mà Phật tánh th́ tức là Như Lai. Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên nói rằng, công đức mà Như Lai sở hữu nhiều vô lượng vô biên không thể xưng kể.”
(12) Lại nói: “Này thiện nam tử ! Đạo có hai thứ: một là, thường; hai là, vô thường. Tướng Bồ-đề cũng có hai thứ: một là, thường; hai là, vô thường. Niết-bàn cũng vậy. Đạo của ngoại đạo gọi là vô thường. Đạo của nội đạo gọi là thường. Thanh văn, Duyên giác sở hữu Bồ-đề th́ gọi là vô thường. Bồ-tát, chư Phật sở hữu Bồ-đề th́ gọi là thường. Giải thoát bên ngoài gọi là vô thường. Giải thoát bên trong gọi là thường. Này thiện nam tử! Đạo cùng với Bồ-đề và Niết-bàn đều gọi là thường. Tất cả chúng sinh thường bị che phủ bởi vô lượng phiền năo, không có tuệ nhăn nên chẳng thể thấy được. Nhưng các chúng sinh v́ muốn thấy nên tu giới, định, tuệ. Do tu hành nên họ thấy Đạo, Bồ-đề và Niết-bàn. Đó gọi là Bồ-tát được Đạo, Bồ-đề và Niết-bàn. Tánh tướng của Đạo thật không sinh diệt. Do nghĩa này nên chẳng thể cầm nắm. Này thiện nam tử! Đạo tuy không sắc tượng để có thể thấy, xưng lường, có thể biết mà thật có tác dụng. Này thiện nam tử! Như tâm chúng sinh tuy chẳng phải là sắc, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng thô, chẳng tế, chẳng buộc, chẳng mở, là pháp chẳng thấy, mà cũng là có.”
(13) Lại nói: “Này thiện nam tử! Có đại lạc nên gọi là Đại Niết-bàn. Niết-bàn th́ không có lạc. Do bốn thứ lạc nên gọi là Đại Niết-bàn. Những ǵ là bốn? Một là, đoạn chư lạc. Không đoạn được lạc th́ gọi là khổ, mà nếu có khổ th́ không gọi là đại lạc. V́ đoạn được lạc th́ không có khổ, mà không khổ, không lạc mới gọi là đại lạc. Tánh của Niết-bàn không khổ, không lạc. Thế nên, Niết-bàn gọi là đại lạc. Do nghĩa này nên gọi là Đại Niết-bàn. Lại nữa, này thiện nam tử! Lạc có hai thứ: một là, lạc của phàm phu; hai là, lạc của chư Phật. Lạc của phàm phu th́ vô thường, bại hoại, thế nên không có lạc. Chư Phật th́ thường lạc, không có biến dị, nên gọi là đại lạc. Lại nữa, này thiện nam tử! Có ba thứ thọ: một là, khổ thọ; hai là, lạc thọ; ba là, bất khổ bất lạc thọ. Bất khổ bất lạc cũng là khổ. Niết-bàn tuy đồng bất khổ bất lạc, nhưng gọi là đại lạc. Do đại lạc nên gọi là Đại Niết-bàn. Hai là, đại tịch tịnh nên gọi là đại lạc. Tánh Niết-bàn là đại tịch tịnh. V́ sao? V́ xa ĺa tất cả pháp rối loạn, ồn ào. Do đại tịch tịnh nên gọi là Đại Niết-bàn. Ba là, nhất thiết trí nên gọi là đại lạc. Chẳng phải nhất thiết trí th́ không gọi là đại lạc. Nhất thiết trí của chư Phật Như Lai nên gọi là đại lạc. Do đại lạc nên gọi là Đại Niết-bàn. Bốn là, thân bất hoại nên gọi là đại lạc. Thân nếu có thể hoại th́ không gọi là lạc. Thân của Như Lai là thân Kim cương bất hoại, chẳng phải thân phiền năo, thân vô thường nên gọi là đại lạc. Do đại lạc nên gọi là Đại Niết-bàn.”
(14) Lại nói: “Này thiện nam tử! Ví như có pháp không thể xưng lường, không thể nghĩ bàn, nên gọi là đại. Niết-bàn cũng vậy, không thể xưng lường, không thể nghĩ bàn, nên được gọi là Đại Bát Niết-bàn. V́ thuần tịnh nên gọi là Đại Niết-bàn. Sao gọi là thuần tịnh? Tịnh có bốn thứ. Những ǵ là bốn? Một là, hai mươi lăm hữu, gọi là bất tịnh, mà có thể vĩnh viễn đoạn dứt, được gọi là tịnh. Tịnh tức là Niết-bàn. Niết-bàn như vậy cũng được gọi là hữu. Nhưng Niết-bàn ấy thật chẳng phải là hữu. Chư Phật Như Lai theo thế tục nên nói Niết-bàn là hữu. Ví như người đời, chẳng phải cha mà nói là cha, chẳng phải mẹ mà nói là mẹ. Thật chẳng phải là cha mẹ mà nói là cha mẹ. Niết-bàn cũng vậy, theo thế tục mà nói ‘Chư Phật có Đại Niết-bàn’. Hai là, nghiệp thanh tịnh. Nghiệp của tất cả phàm phu không thanh tịnh nên không có Niết-bàn. Nghiệp của chư Phật Như Lai thanh tịnh nên gọi là đại tịnh. V́ đại tịnh nên gọi là Đại Niết-bàn. Ba là, thân thanh tịnh. Thân vô thường th́ gọi là bất tịnh. Thân Như Lai thường hằng nên gọi là đại tịnh. V́ đại tịnh nên gọi là Đại Niết-bàn. Bốn là, tâm thanh tịnh. Tâm hữu lậu th́ gọi là bất tịnh. Tâm Phật vô lậu nên gọi là đại tịnh. V́ đại tịnh nên gọi là Đại Niết-bàn. Này thiện nam tử! Đó gọi là thiện nam tử, thiện nữ nhân [tu hành kinh Đại Niết Bàn như vậy th́ thành tựu đầy đủ công đức thứ nhất.]”
(15) Lại nói: “Này thiện nam tử ! Chư Phật Như Lai không khởi phiền năo, đó gọi là Niết-bàn. Sở hữu trí tuệ vô ngại đối với các pháp, đó là Như Lai. Như Lai không phải là phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, đó gọi là Phật tánh. Thân tâm trí tuệ của Như Lai đầy khắp vô lượng vô biên a tăng kỳ cơi, không ǵ chướng ngại, đó gọi là hư không. Như Lai thường trụ, không có biến dịch, đó gọi là thật tướng. V́ những nghĩa này, Như Lai thật không rốt ráo [có nhập] Niết Bàn. Đó gọi là Bồ-tát [tu hành kinh điển vi diệu Đại Niết Bàn, thành tựu đầy đủ công đức thứ bảy.]”
(16) Lại nói: “Bồ-tát Ca Diếp thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Phật tánh là thường, giống như hư không, v́ sao Như Lai nói rằng, [Phật tánh] vị lai? Nếu Như Lai nói nhất-xiển-đề không có thiện pháp, nhưng hạng nhất-xiển-đề ấy đối với đồng học, đồng sư, cha mẹ, thân tộc, vợ con của họ đâu thể không sinh tâm ái niệm? Nếu họ sinh tâm ấy th́ chẳng phải là thiện pháp ư? Đức Phật dạy: Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ông hỏi vấn đề ấy hay lắm! Phật tánh giống như hư không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Tất cả chúng sinh có ba thứ thân, đó là thân quá khứ, thân vị lai và thân hiện tại. Thân chúng sinh vị lai trang nghiêm đầy đủ thanh tịnh th́ được thấy Phật tánh. Vậy nên Ta nói Phật tánh vị lai. Này thiện nam tử! Ta v́ chúng sinh hoặc có khi nói ‘nhân là quả’ , hoặc có lúc nói ‘quả là nhân’ . Vậy nên trong kinh nói, ‘mạng là ăn’, ‘thấy sắc gọi là xúc’. Thân vị lai tịnh nên nói Phật tánh. Bạch Đức Thế Tôn! Như Đức Phật đă nói nghĩa như vậy, v́ sao nói rằng, ‘Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh’? Này thiện nam tử! Phật tánh của chúng sinh tuy hiện tại không có, nhưng không thể nói ‘không có’. Như hư không, tánh chất tuy không có, nhưng hiện tại không được nói ‘không có’. Tất cả chúng sinh tuy lại vô thường, nhưng Phật tánh ấy thường trụ, không biến đổi. Vậy nên, ở trong kinh này, Ta nói rằng, Phật tánh của chúng sinh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, giống như hư không chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Như hư không ấy có trong ngoài th́ hư không chẳng gọi là một, là thường, cũng chẳng được nói rằng, ‘tất cả xứ đều có’. Hư không tuy lại chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, mà các chúng sinh thảy đều có nó. Phật tánh của chúng sinh cũng lại như vậy. Như lời ông nói, hạng nhất-xiển-đề có thiện pháp th́ nghĩa này không đúng. V́ sao? V́ hạng nhất-xiển-đề nếu có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp, thủ nghiệp, cầu nghiệp, thí nghiệp, giải nghiệp, v.v. những nghiệp như vậy đều là tà nghiệp. V́ sao? V́ không cầu nhân quả vậy. Này thiện nam tử! Như quả, rễ, thân, cành, lá, hoa của cây Ha-lê-lặc đều đắng, nghiệp của nhất-xiển-đề cũng lại như vậy.”
(17) Lại nói: “Này thiện nam tử! Như Lai đầy đủ trí lực biết các căn tánh, cho nên khéo hiểu và phân biệt các căn thượng, trung, hạ của chúng sinh. Như Lai biết người ấy chuyển hạ thành trung, biết người ấy chuyển trung thành thượng, biết người ấy chuyển thượng thành trung, biết người ấy chuyển trung thành hạ. V́ vậy nên biết, căn tánh của chúng sinh không có cố định. V́ không cố định nên đoạn thiện căn, đoạn rồi lại sinh. Nếu căn tánh của chúng sinh là cố định th́ sẽ không việc trước đoạn [thiện căn], đoạn rồi lại sinh; cũng không nên nói rằng, ‘Hạng nhất-xiển-đề đọa vào địa ngục, thọ mạng một kiếp’. Này thiện nam tử! Thế nên Như Lai nói rằng, ‘Tất cả các pháp không có tướng cố định’. Bồ-tát Ca Diếp thưa Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Đức Như Lai đầy đủ trí lực biết các căn tánh, th́ nhất định biết ông Thiện Tinh sẽ đoạn thiện căn. V́ nhân duyên ǵ mà cho phép ông ấy xuất gia? Đức Phật dạy: Này thiện nam tử! Vào thuở trước, khi Ta mới xuất gia, em ta là Nan-đà, em họ Ta là A-nan, Đề-bà-đạt-đa, con Ta là La-hầu-la, những người như vậy đều theo Ta xuất gia tu đạo. Nếu Ta không cho ông Thiện Tinh xuất gia th́ người ấy theo thứ tự sẽ được nối ngôi vua. Sức lực ông ấy tự tại th́ sẽ hủy hoại Phật pháp. Do nhân duyên này nên ta cho ông ấy xuất gia tu đạo. Này thiện nam tử! Tỳ kheo Thiện Tinh nếu chẳng xuất gia cũng đoạn thiện căn, ở vô lượng đều không có lợi ích. Nay ông ấy xuất gia rồi, tuy đoạn thiện căn nhưng có thể thọ tŕ giới, cúng dường cung kính bậc kỳ cựu trưởng túc và người có đức, tu tập Sơ thiền cho đến Tứ thiền. Đó gọi là thiện nhân. Thiện nhân như vậy có thể sinh ra thiện pháp. Thiện pháp đă sinh th́ có thể tu tập đạo. Đă tu tập đạo th́ sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy nên Ta cho ông Thiện Tinh xuất gia. Này thiện nam tử! Nếu ta chẳng cho tỳ kheo Thiện Tinh xuất gia thọ giới th́ mới chẳng được xưng Ta là Như Lai đầy đủ mười lực. (…) Này thiện nam tử! Như Lai khéo biết chúng sinh thượng căn, trung căn và hạ căn như vậy. Thế nên xưng Phật đầy đủ trí lực biết các căn tánh. Bồ-tát Ca Diếp thưa Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Như Lai đầy đủ trí lực biết các căn tánh th́ có thể biết các căn thượng, trung, hạ của chúng sinh, lợi độn sai biệt, tùy người, tùy ư, tùy thời , nên gọi là Trí lực biết các căn tánh của Như Lai. (…) Hoặc có người nói rằng, người phạm bốn trọng cấm, tạo tội ngũ nghịch, nhất-xiển-đề đều có Phật tánh. (…) Như Lai Thế Tôn v́ quốc độ, v́ thời tiết, v́ lời nói người khác, v́ người, v́ mọi căn tánh, nên nơi một pháp tạo ra hai thứ thuyết [là danh và nghĩa]. Đối với pháp, nơi một danh nói ra vô lượng danh, nơi một nghĩa nói ra vô lượng danh, nơi vô lượng nghĩa nói ra vô lượng danh. Sao gọi là một danh nói ra vô lượng danh? Giống như Niết-bàn, cũng tên là Niết-bàn, cũng tên là Vô sinh, cũng tên là Vô xuất, cũng tên là Vô tác, cũng tên là Vô vi, cũng tên là Quy y, cũng tên là Quật trạch, cũng tên là Giải thoát, cũng tên là Quang minh, cũng tên là Đăng minh, cũng tên là Bỉ ngạn, cũng tên Vô úy, cũng tên là Vô thối, cũng tên là An xứ, cũng tên là Tịch tịnh, cũng tên là Vô tướng, cũng tên là Vô nhị, cũng tên là Nhất hạnh, cũng tên là Thanh lương, cũng tên là Vô ám, cũng tên là Vô ngại, cũng tên là Vô tránh, cũng tên là Vô trược, cũng tên là Quảng đại, cũng tên là Cam lộ, cũng tên là Cát tường. Đó gọi là một danh tạo ra vô lượng danh. Sao gọi là một nghĩa nói ra vô lượng danh? Giống như Đế Thích, [cũng tên là Đế Thích, cũng tên là Kiều-thi-ca, cũng tên là Bà-tha-bà, cũng tên là Phú-lan-đà-la, cũng tên là Ma-khư-bà, cũng tên là Nhân-đà-la, cũng tên là Thiên Nhăn, cũng tên là Xá-chỉ-phù, cũng tên là Kim Cương, cũng tên là Bảo Đỉnh, cũng tên là Bảo Tràng. Đó là một nghĩa nói ra vô lượng danh.] Sao gọi là vô lượng nghĩa nói ra vô lượng danh? Như danh Phật Như Lai là Như Lai, nghĩa khác danh khác, cũng gọi là A-la-ha, nghĩa khác danh khác, cũng gọi là Tam-miệu Tam-phật-đà, nghĩa khác danh khác, cũng gọi là Thuyền Sư, cũng gọi là Đạo Sư, cũng gọi là Chánh Giác, cũng gọi là Minh Hạnh Túc, cũng gọi là Đại Sư Tử Vương, cũng gọi là Sa-môn, cũng gọi là Bà-la-môn, cũng gọi là Tịch Tịnh, cũng gọi là Thí Chủ, cũng gọi là Đáo Bỉ Ngạn, cũng gọi là Đại Y Vương, cũng gọi là Đại Tượng Vương, cũng gọi là Đại Long Vương, cũng gọi là Thí Nhăn, cũng gọi là Đại Lực Sĩ, cũng gọi là Đại Vô Úy, cũng gọi là Bảo Tụ, cũng gọi là Thương Chủ, cũng gọi là Đắc Thoát, cũng gọi là Đại Trượng Phu, cũng gọi là Thiên Nhân Sư, cũng gọi là Đại Phân-đà-lợi, cũng gọi là Độc Vô Đẳng Lữ, cũng gọi là Đại Phước Điền, cũng gọi là Đại Trí Tuệ Hải, cũng gọi là Vô Tướng, cũng gọi là Cụ Túc Bát Trí. Như vậy hết thảy nghĩa khác danh khác. Này thiện nam tử! Đó gọi là trong vô lượng nghĩa nói vô lượng danh. Lại có một nghĩa nói vô lượng danh. Cái gọi là Ấm, cũng gọi là Ấm, cũng gọi là Điên đảo, cũng gọi là Đế, cũng gọi là Tứ niệm xứ, cũng gọi là Tứ thực, cũng gọi là Tứ thức trụ xứ, cũng gọi là Hữu, cũng gọi là Đạo, cũng gọi là Thời, cũng gọi là Chúng sinh, cũng gọi là Vi thế, cũng gọi là Đệ nhất nghĩa, cũng gọi là Tam tu: thân, giới và tâm, cũng gọi là Nhân quả, cũng gọi là Phiền năo, cũng gọi là Giải thoát, cũng gọi là Thập nhị nhân duyên, cũng gọi là Thanh văn, Bích-chi Phật, cũng gọi là Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, Nhân, Thiên, cũng gọi là Quá khứ, Hiện tại, Vị lai. Đó gọi là một nghĩa mà nói vô lượng danh. Này thiện nam tử! Như Lai Thế Tôn v́ chúng sinh nên trong rộng nói lược, trong lược nói rộng. Đệ nhất nghĩa đế nói là Thế đế, nói Thế đế pháp là Đệ nhất nghĩa đế.”
(18) Lại nói: “Ca Diếp lại nói: Bạch Đức Thế Tôn! Đệ nhất nghĩa đế cũng gọi là Đạo, cũng gọi là Bồ-đề, cũng gọi là Niết-bàn.”
(19) Lại nói: “Này thiện nam tử! Ở trong kinh Ta nói, thân Như Lai có hai thứ: một là, Sinh thân; hai là, Pháp thân. Sinh thân tức là thân ứng hóa phương tiện. Thân như vậy th́ có thể nói rằng có sinh già bệnh chết, dài, ngắn, trắng, đen, là đây, là kia, là hữu học, là vô học. Các đệ tử của Ta nghe lời đó rồi, không hiểu ư Ta, xướng rằng: ‘Đức Như Lai chắc chắn nói thân Phật là pháp hữu vi’. Pháp thân tức là thân thường lạc ngă tịnh, vĩnh ly tất cả sinh già bệnh chết, chẳng trắng, chẳng đen, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng đây, chẳng kia, chẳng hữu học, chẳng vô học. Nếu Phật xuất thế hay không xuất thế, th́ Pháp thân thường bất động, không có biến dịch. Này thiện nam tử! Các đệ tử của Ta nghe lời đó rồi, không hiểu ư Ta, xướng rằng: ‘Đức Như Lai chắc chắn nói thân Phật là pháp vô vi’.”
(20) Lại nói: “Này thiện nam tử! Như Ta đă nói, mười hai bộ kinh, hoặc theo ư ḿnh mà thuyết, hoặc theo ư người mà thuyết, hoặc theo ư ḿnh người mà thuyết. (…) Này thiện nam tử! Như Ta đă nói, ‘Bồ-tát Thập trụ thấy ít phần Phật tánh’ , đó gọi là theo ư người mà thuyết. V́ sao gọi là thấy ít phần? V́ Bồ-tát Thập trụ chứng đắc các tam muội: Thủ Lăng Nghiêm, v.v., ba ngàn pháp môn, thế nên tự biết rơ ràng sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà không thấy tất cả chúng sinh nhất định được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. V́ vậy Ta nói, ‘Bồ-tát Thập trụ thấy ít phần Phật tánh’. Này thiện nam tử! Ta thường tuy nói rằng, ‘Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh’, đó gọi là theo ư ḿnh mà thuyết. ‘Tất cả chúng sinh không đoạn không diệt [giống như đèn cháy], cho đến được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác’ , đó gọi là theo ư ḿnh mà thuyết. ‘Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, v́ phiền năo che phủ nên không thể được thấy’, Ta nói như vậy, ông nói cũng vậy. Đó gọi là theo ư ḿnh người mà thuyết. Này thiện nam tử! Như Lai hoặc có lúc v́ một pháp mà thuyết vô lượng pháp. ”
(21) Lại nói: “Nhất thiết giác gọi là Phật tánh. Bồ-tát Thập trụ không được gọi là Nhất thiết giác. Thế nên Bồ-tát ấy tuy thấy mà không rơ ràng. Này thiện nam tử! Thấy có hai thứ: một là, mắt thấy; hai là, nghe thấy. Chư Phật Thế Tôn mắt thấy Phật tánh như xem quả A-ma-lặc ở trong ḷng bàn tay. Bồ-tát Thập trụ nghe thấy Phật tánh nên không rơ ràng. Bồ-tát Thập trụ chỉ có thể tự biết chắc chắn được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà không thể biết tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Này thiện nam tử! Lại có mắt thấy, chư Phật Như Lai và Bồ-tát Thập trụ mắt thấy Phật tánh. Lại có nghe thấy, tất cả chúng sinh cho đến Bồ-tát Cửu địa nghe thấy Phật tánh. Bồ tát nếu nghe tất cả chúng sinh đều có Phật tánh mà tâm không sinh tín, th́ không gọi là nghe thấy. [Này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn thấy Như Lai th́ cần phải tu tập mười hai bộ kinh, thọ tŕ, đọc tụng, biên chép, giải thuyết.] Đại Bồ-tát Sư Tử Hống thưa rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả chúng sinh không thể được biết tâm tướng của Như Lai th́ phải quán sát thế nào để được biết? Này thiện nam tử! Tất cả chúng sinh thật không thể biết tâm tướng của Như Lai. Nếu muốn quán sát để được biết th́ có hai nhân duyên: một là, mắt thấy; hai là, nghe thấy. Nếu thấy thân nghiệp Như Lai sở hữu th́ phải biết chính là Như Lai. Đó gọi là mắt thấy. Nếu quán sát khẩu nghiệp Như Lai sở hữu th́ phải biết chính là Như Lai. Đó gọi là nghe thấy. Nếu thấy sắc mạo mà tất cả chúng sinh không thể sánh được th́ phải biết chính là Như Lai. Đó gọi là mắt thấy. Nếu nghe âm thanh vi diệu tối thắng không đồng âm thanh chúng sinh sở hữu th́ phải biết chính là Như Lai. Đó gọi là nghe thấy. Nếu thấy thần thông Như Lai sở tác là v́ chúng sinh hay v́ lợi dưỡng. Nếu v́ chúng sinh, không v́ lợi dưỡng, th́ phải biết chính là Như Lai. Đó gọi là mắt thấy. Nếu khi quán sát Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát chúng sinh là v́ lợi dưỡng mà thuyết hay v́ chúng sinh mà thuyết. Nếu v́ chúng sinh, không v́ lợi dưỡng, th́ phải biết chính là Như Lai. Đó gọi là nghe thấy.”
(22) Tịnh Độ Luận nói: “Thế Tôn con nhất tâm Quy mạng hết mười phương Vô Ngại Quang Như Lai Nguyện sinh An Lạc quốc. (…) Quán tướng thế giới kia Thắng hơn Tam giới đạo. Cứu cánh như hư không Quảng đại không biên tế.”
(23) Chú Luận ghi: “Công đức thành tựu Trang nghiêm thanh tịnh: Kệ tụng: ‘Quán tướng thế giới kia, Thắng hơn Tam giới đạo.’ Công đức thành tựu ở đây v́ sao không thể nghĩ bàn? Có người phàm phu mà phiền năo thành tựu, cũng được sinh về tịnh độ kia. Những nghiệp trói buộc của Tam giới hoàn toàn không lôi kéo họ được, đó là không đoạn phiền năo mà được phần Niết-bàn, sao có thể nghĩ bàn được?”
(24) Lại nói: “Chánh đạo đại từ bi Thiện căn xuất thế sinh. Hai câu này là ‘công đức thành tựu Trang nghiêm tánh’. (…) Tánh là nghĩa ‘bản’. Nói tịnh độ này tùy thuận Pháp tánh, không trái Pháp bản. Sự thể đồng nghĩa với phẩm Bảo Vương Như Lai Tánh Khởi của kinh Hoa Nghiêm. Lại nói, ‘Tích tập thành tánh’ , ư nói Bồ-tát Pháp Tạng do tu tập các Ba-la-mật mà tích tập thành [trang nghiêm tánh của tịnh độ An Lạc]. Cũng nói, ‘Tánh là Thánh chủng tánh’, ư nói Bồ-tát Pháp Tạng ngộ Vô sinh nhẫn từ Thế Tự Tại Vương Phật, địa vị bấy giờ được gọi là Thánh chủng tánh. Trụ trong tánh ấy, phát ra bốn mươi tám đại nguyện, tu tập và khởi tạo cơi này, bèn gọi là Tịnh độ An Lạc. Cơi ấy do nhân kia được thành. Từ trong quả mà nói đến nhân, nên gọi là Tánh. Lại nói, Tánh, có nghĩa là ‘tất nhiên’, hoặc là nghĩa ‘không biến đổi’. Như tánh biển là một vị, các sông đổ vào biển đều thành một vị, vị [mặn] của biển không theo các sông mà biến đổi. Lại như tánh chất thân thể con người là bất tịnh, dù có đưa đủ loại sắc hương, mỹ vị tốt đẹp vào trong thân cũng trở thành bất tịnh. Những người văng sinh tịnh độ An Lạc, không ai có sắc bất tịnh, có tâm bất tịnh, rốt ráo đều đạt được Pháp thân vô vi thanh tịnh b́nh đẳng, v́ tánh thanh tịnh của quốc độ An Lạc đă thành tựu. Chánh đạo đại từ bi, thiện căn xuất thế sinh: là đại đạo b́nh đẳng vậy. Đạo b́nh đẳng, sở dĩ được gọi là chánh đạo, v́ b́nh đẳng là thể tướng của các pháp. V́ các pháp b́nh đẳng nên phát tâm b́nh đẳng, phát tâm b́nh đẳng nên đạo b́nh đẳng, đạo b́nh đẳng nên đại từ bi b́nh đẳng. Đại từ bi là chánh nhân của Phật đạo, nên mới nói là ‘Chánh đạo đại từ bi’. Từ bi có ba duyên: một là, chúng sinh duyên, là tiểu bi; hai là, pháp duyên, là trung bi; ba là, vô duyên, là đại bi. Đại bi tức là thiện căn xuất thế vậy. Tịnh độ An Lạc sinh ra từ đại bi này, nên gọi đại bi này là căn bản của tịnh độ, nên mới nói ‘Thiện căn xuất thế sinh’.”
(25) “Hỏi: Khi nh́n vào bản nguyện lực của Bồ-tát Pháp Tạng và những bài kệ tán thán của Bồ-tát Long Thọ, họ dường như coi số lượng lớn chúng Thanh văn trong cơi nước kia là kỳ diệu, điều này có nghĩa ǵ? Đáp: Thanh văn lấy thật tế làm chứng ngộ, từ đó không thể sinh mầm rễ tuệ giác của Phật. Tuy nhiên, với thần lực bất tư nghị của bản nguyện, Đức Phật A Di Đà nhiếp thủ và đưa họ sinh về Tịnh Độ, rồi lại dùng thần lực để phát khởi nơi họ tâm cầu Vô thượng đạo. Ví như loài chim độc rớt vào nước, cá cua đều chết, loài tê giác chạm vào, các loài chết đều sống dậy. Cũng vậy, lẽ ra họ không thể sinh [mầm rễ tuệ giác của tâm Phật] mà lại được sinh, đó thực sự là kỳ diệu. Trong năm thứ bất tư nghị, Phật pháp là tối bất khả tư nghị. Đức Phật có thể khiến hàng Thanh văn phát tâm cầu Vô thượng đạo, quả thật, đây là tối thượng bất khả tư nghị.”
(26) Lại nói: “Bất khả tư nghị lực : tổng chỉ cái lực của mười bảy thứ công đức trang nghiêm ở quốc độ của Đức Phật kia th́ bất khả tư nghị. Các kinh nói có năm thứ bất khả tư nghị: một là, chúng sinh nhiều ít th́ không thể nghĩ bàn; hai là, nghiệp lực th́ không thể nghĩ bàn; ba là, lực của loài rồng th́ không thể nghĩ bàn; bốn là, thiền định lực th́ không thể nghĩ bàn; năm là, Phật pháp lực th́ không thể nghĩ bàn. Ở đây, Phật độ th́ không thể nghĩ bàn, có hai thứ lực: một là, nghiệp lực, nghĩa là thiện căn xuất thế của Bồ-tát Pháp Tạng được thành bởi ‘đại nguyện nghiệp lực’ ; hai là, Chánh giác A Di Đà như Pháp vương được nhiếp bởi ‘thiện trụ tŕ lực’ .”
(27) Lại nói: “Hiển thị tự lợi lợi tha: Lược nói mười bảy thứ công đức về sự trang nghiêm quốc độ của Đức Phật A Di Đà kia, chỉ bày sự thành tựu đại công đức lực cho lợi ích tự thân Như Lai và sự thành tựu công đức lợi ích tha nhân. Lược nói: nói công đức của tịnh độ kia là vô lượng, không phải chỉ có mười bảy thứ. Núi Tu-di nhét vừa hạt cải, lỗ chân lông chứa trọn biển lớn. Có phải núi hay biển có thần, lỗ chân lông hay hạt cải có lực? Cái làm nên thần lực mới có thần lực.”
(28) Lại nói: “Thế nào là thành tựu công đức Bất hư tác trụ tŕ trang nghiêm? Kệ rằng: Quán Phật Bản nguyện lực Ai gặp không luống qua Khiến được mau đầy đủ Biển báu lớn công đức. Sự thành tựu công đức ‘Bất hư tác trụ tŕ trang nghiêm’: Đó là bản nguyện lực của A Di Đà Như Lai. Nay lược nói tướng ‘hư tác’ không thể trụ tŕ, để nêu rơ nghĩa ‘bất hư tác trụ tŕ’. (…) Nói ‘Bất hư tác trụ tŕ’, là y theo bốn mươi tám bản nguyện của Bồ-tát Pháp Tạng, ngày nay là thần lực tự tại của A Di Đà Như Lai. Nguyện để thành lực, lực để tựu nguyện. Nguyện chẳng luống không, lực chẳng dối bày. Lực nguyện hợp nhau, rốt cuộc không sai, nên gọi là thành tựu.”
(29) Tán A Di Đà Phật Kệ nói: [Ḥa thượng Đàm Loan tạo] “Nam mô A Di Đà Phật. {Thích danh: Bên cạnh Kinh, phụng tán Vô Lượng Thọ, cũng gọi An Dưỡng}
Thành Phật đến nay trải mười kiếp Thọ mạng dài lâu thật vô cùng Pháp thân vầng sáng khắp pháp giới Chiếu cơi tối tăm nên đảnh lễ.
Ánh sáng trí tuệ chẳng thể lường Nên Phật lại hiệu Vô Lượng Quang Hữu lượng các tướng đều sáng tỏ Thế nên kính lạy Chân Thật Minh.
Giải thoát sáng trưng không hạn lượng Nên Phật lại hiệu Vô Biên Quang Được quang chạm đến ĺa vô, hữu Thế nên kính lạy B́nh Đẳng Giác.
Mây sáng vô ngại như hư không Nên Phật lại hiệu Vô Ngại Quang Tất cả chất ngại đều thấu suốt Thế nên kính lạy Nan Tư Nghị.
Thanh tịnh sáng suốt không có đối Nên Phật lại hiệu Vô Đối Quang Người gặp sáng này nghiệp hệ dứt Thế nên kính lạy Tất Cánh Y.
Ánh sáng Phật chiếu vào bậc nhất Nên Phật lại hiệu Quang Viêm Vương Tam đồ đen tối mong được sáng Thế nên kính lạy Đại Ứng Cúng.
Luồng ánh sáng sáng rỡ siêu tuyệt Nên Phật lại hiệu Thanh Tịnh Quang Một khi sáng chiếu tội cấu hết Đều được giải thoát nên đảnh lễ.
Ánh từ quang khắp thí an lạc Nên Phật lại hiệu Hoan Hỷ Quang Sáng chiếu đến nơi được pháp hỷ Cúi đầu đảnh lễ Đại An Ủy.
Phật quang hay phá tối vô minh Nên Phật lại hiệu Trí Tuệ Quang Tất cả chư Phật chúng Tam Thừa Đều cùng khen ngợi nên kính lạy.
Tất cả ánh sáng luôn khắp chiếu Nên Phật lại hiệu Bất Đoạn Quang Văn quang lực nên tâm không dứt Đều được văng sinh nên đảnh lễ.
Sáng ấy ngoài Phật đâu thể lường Nên Phật lại hiệu Nan Tư Quang Mười phương chư Phật khen văng sinh Khen công đức ấy nên kính lạy.
Thần quang ĺa tướng chẳng có tên Nên Phật lại hiệu Vô Xưng Quang Nhân sáng thành Phật sáng rực rỡ Chư Phật khen ngợi nên đảnh lễ.
Ánh sáng chói ḷa hơn nhật nguyệt Nên Phật hiệu Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật Thích Ca khen c̣n không hết Nên con kính lạy Vô Đẳng Đẳng. (…) Bổn sư Long Thọ Ma-ha-tát Bậc h́nh tượng chỉnh lư suy tàn Đóng cửa giáo tà, mở Chánh pháp Là Diêm-phù-đề tất cả mắt Nối tiếp lời Phật, Hoan hỷ địa Quy A Di Đà sinh An Dưỡng.
Con từ vô thủy theo ba cơi Bánh xe hư vọng luôn hồi chuyển Một niệm một thời đă tạo nghiệp Đủ buộc sáu đường rớt tam đồ. Xin nguyện từ quang hộ niệm con Khiến con không mất Bồ-đề tâm Con khen Phật tuệ công đức âm Nguyện nghe mười phương người hữu duyên Ai muốn được văng sinh An Lạc Khắp đều như ư không chướng ngại Bao nhiêu công đức lớn hay nhỏ Hồi thí tất cả cùng văng sinh Nam mô Bất Khả Tư Nghị Quang Nhất tâm quy mạng con kính lễ.
Mười phương ba đời Vô lượng tuệ Đồng nhờ nhất như hiệu Chánh giác Hai trí đầy đủ, đạo b́nh đẳng Nhiếp hóa tùy duyên nên như thế Con về Tịnh độ A Di Đà Tức là quy mạng các Phật độ Con dùng nhất tâm khen một Phật Nguyện khắp mười phương người vô ngại Như thế mười phương vô lượng Phật Cùng đều chí tâm đầu mặt lạy.”
(30) Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Hỏi: Tịnh quốc Di Đà là báo hay là hóa? Đáp: Là báo không phải hóa. V́ sao biết được? Như trong kinh Đại Thừa Đồng Tánh nói, Tây phương An Lạc là Báo độ và A Di Đà Phật là Báo Phật. Lại nữa, kinh Vô Lượng Thọ nói, vào thời Thế Nhiêu Vương Phật, tỳ kheo Pháp Tạng đă thực hành Bồ-tát đạo, phát bốn mươi tám lời nguyện, mỗi nguyện đều nói: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh trong mười phương xưng niệm danh hiệu của tôi, [muốn sinh về nước tôi] nhẫn đến mười niệm, mà không được văng sinh, th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.” Nay đă thành Phật, tức là cái thân đáp lại nhân đó. Lại nữa, trong Quán Kinh nói, ba hạng người thuộc Thượng phẩm, khi sắp mạng chung, đều được Đức Phật A Di Đà và các hóa Phật đến rước người ấy. Báo thân và hóa thân đều đến duỗi tay dắt dẫn, nên gọi là ‘cùng’. Dùng văn này làm bằng chứng để biết là Báo thân. Nhưng Ứng thân và Báo thân là ‘nhăn mục dị danh’ . Trước dịch Báo thân là Ứng thân, sau dịch Ứng thân là Báo thân. Nói đến Báo thân, tức là nhân và hạnh không luống dối, chắc chắn sẽ được quả, do quả ứng với nhân, nên gọi là Báo. Lại nữa, do trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp tu tập vạn hạnh, chắc chắn sẽ được Bồ-đề, nay đă thành đạo, tức là Ứng thân. Ở đây, chư Phật quá khứ và hiện tại được lập qua ba thân, ngoài ba thân này không c̣n thân nào khác. Dù cho bất tận tám tướng và danh hiệu nhiều như cát bụi, nhưng từ quan điểm bản thể, tất cả đều thuộc Hóa thân. Hiện nay, Đức Phật A Di Đà là Báo thân. Hỏi: Đă nói về Báo. Báo thân là thường trụ, vĩnh viễn không sinh diệt, v́ sao trong kinh Quán Âm Thọ Kư nói, Đức Phật A Di Đà cũng có lúc nhập Niết-bàn, điều này giải thích ra sao? Đáp: Nghĩa nhập hay không nhập, chỉ là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải thiển trí ba thừa nhắm đến, huống là tiểu phàm có thể hiểu được. Tuy nhiên, nếu người nào muốn biết, dám dẫn kinh Phật để minh chứng v́ sao, th́ như phẩm Niết-Bàn Phi Hóa trong Kinh Đại Phẩm Bát Nhă có nói: “Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Ư ông nghĩ sao? Nếu có hóa nhân làm hóa nhân th́ hóa nhân này có thật sự chẳng trống không? Tu-bồ-đề đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Không có. (…) Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Sắc tức là hóa. Thọ, tưởng, hành, thức tức là hóa, cho đến Nhất thiết chủng trí cũng tức là hóa. Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Nếu pháp thế gian là hóa, pháp xuất thế gian cũng là hóa: đó là bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ư túc, năm căn, năm lực, bảy bồ-đề phần, tám Thánh đạo phần, ba giải thoát môn, mười lực của Phật, bốn vô sở úy, bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất cộng, các pháp quả và các bậc Hiền thánh: đó là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi Phật, Đại Bồ-tát, chư Phật. Bạch Đức Thế Tôn! Pháp ấy cũng là hóa? Phật bảo Tu-bồ-đề: Tất cả pháp đều là hóa, trong pháp ấy có pháp Thanh văn biến hóa, có pháp Bích-chi Phật biến hóa, có pháp Bồ-tát biến hóa, có pháp chư Phật biến hóa, có pháp phiền năo biến hóa, có pháp nghiệp nhân duyên biến hóa. Do nhân duyên đó, này Tu-bồ-đề! Tất cả pháp đều là hóa. Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các phiền năo được đoạn trừ, th́ gọi là quả Tu-đà-hoàn, quả A-la-hán, đạo Bích-chi Phật. Đoạn trừ tập chủng của các phiền năo có phải đều là biến hóa chăng? Phật dạy Tu-bồ-đề: Nếu tướng pháp có sinh diệt th́ đều thuộc về biến hóa? Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Vậy pháp nào không phải biến hóa? Phật dạy: Pháp nào không sinh diệt th́ pháp đó không phải biến hóa. Tu-bồ-đề bạch Phật: Những pháp nào không sinh diệt, không phải biến hóa? Phật bảo: Niết-bàn không có tướng dối gạt, là pháp không phải biến hóa. Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Như Đức Phật thường nói các pháp là b́nh đẳng, không do Thanh văn làm ra, không do Bích-chi Phật làm ra, không do các vị Đại Bồ-tát làm ra, không do chư Phật làm ra. Có Phật hay không Phật, th́ tánh các pháp thường Không, tánh Không tức là Niết-bàn. V́ sao Đức Phật lại nói một pháp Niết-bàn chẳng phải như hóa? Phật bảo Tu-bồ-đề: Đúng vậy, đúng vậy! Các pháp b́nh đẳng, không phải do Thanh văn làm ra, cho đến tánh Không tức là Niết-bàn. Nếu Bồ-tát mới phát tâm, nghe nói tất cả pháp đều rốt ráo tánh Không, cho đến Niết-bàn cũng đều như hóa, th́ tâm vị đó sẽ khiếp sợ. Đó là v́ Bồ-tát mới phát tâm mà phân biệt pháp sinh diệt là như hóa, pháp bất sinh bất diệt không phải như hóa.” Nay dùng Thánh giáo này mà nghiệm biết, Đức Phật A Di Đà chắc chắn là hóa thân, về sau dù có nhập Niết-bàn, th́ nghĩa này cũng không ngại. Người có trí tuệ nên biết như vậy. Hỏi: Đức Phật A Di Đà và quốc độ của Ngài đă gọi là báo, pháp báo thật cao diệu, tiểu Thánh khó bước lên, th́ phàm phu cấu chướng làm sao được nhập? Đáp: Nếu bàn về chúng sinh cấu chướng th́ thật khó ưa thích, nhưng nhờ cậy nguyện lực của Phật làm cường duyên, giúp cho chúng sinh năm thừa đều được nhập.”
(31) Lại nói: “7. ‘Nay tôi thích sinh về Cực Lạc thế giới, chỗ của Đức Phật A Di Đà’: Là phu nhân Vi Đề Hy chọn riêng theo sở cầu. Điều này cho thấy bản quốc Di Đà được hoàn thành bằng bốn mươi tám nguyện. Mỗi nguyện đều phát sinh thắng nhân tăng thượng. Nương vào nhân mà khởi thắng hạnh; dựa vào hạnh mà cảm được thắng quả. Nương vào quả mà cảm thành thắng báo; dựa vào báo mà cảm thành Cực Lạc. Nương vào lạc mà hiển thông bi hóa; dựa vào bi hóa mà mở cửa trí tuệ. Nhưng bi tâm là vô tận, trí cũng vô cùng; bi trí song hành, tức mở rộng cửa cam lộ, nhờ đó mà giáo pháp thấm nhuần, nhiếp khắp quần sinh. Các kinh điển khác khuyến khích [nguyện sinh Tịnh dộ] th́ nhiều vô kể, và các bậc Thánh đều đồng ḷng chỉ dạy và khen ngợi. Nhờ nhân duyên này mà Đức Như lai mật ư bảo phu nhân tuyển chọn riêng.”
(32) Lại nói: “Tây phương vắng lặng, vui vô vi Rốt ráo tiêu dao, ĺa hữu vô Đại bi huân tâm, dạo pháp giới Phân thân lợi vật đẳng không khác.
Về đi thôi, Cơi ma không thể dừng Nhiều kiếp luôn luân chuyển Sáu đường đều trải qua Đến chỗ vui vô dư Chỉ nghe tiếng sầu than Sau khi bỏ thân này Nhập thành Niết-bàn kia.”
(33) Lại nói: “Cực Lạc vô vi, Niết-bàn giới Tùy duyên tạp thiện e khó sinh Bởi thế Như Lai tuyển yếu pháp Dạy niệm Di Đà chuyên càng chuyên.”
(34) Lại nói: “Từ Phật tiêu dao quy tự nhiên Tự nhiên tức là cơi Di Đà Vô lậu, vô sinh lại là chân Đi đến dừng luôn thường theo Phật Chứng được vô vi Pháp tánh thân.”
(35) Lại nói: “Di Đà diệu quả, hiệu là Vô thượng Niết-bàn.”
(36) Sư Cảnh Hưng nói: “Ánh sáng Phật chẳng phải toán số biết được, nên là Vô lượng quang. Không điều kiện nào mà không soi chiếu, nên là Vô biên quang. Không có nhân và pháp nào có thể chướng ngại, nên là Vô ngại quang. Các Bồ-tát không sánh bằng, nên là Vô đối quang. Ánh sáng tự tại, không ǵ trên, nên là Viêm vương quang. Từ thiện căn vô tham của Phật mà hiện, cũng trừ hết tâm tham trược của chúng sinh, nên là Thanh tịnh quang. Từ thiện căn vô sân của Phật mà sinh, trừ được sân giận, lo buồn của chúng sinh, nên gọi là Hoan hỷ quang. Từ thiện căn vô si của Phật mà khởi, lại dứt trừ vô minh phẩm tâm của chúng sinh, nên gọi là Trí tuệ quang. Thường quang của Phật hằng soi chiếu làm lợi ích, nên gọi là Bất đoạn quang. Ánh sáng ấy hàng Nhị thừa không lường biết được, nên gọi là Nan tư quang. Cũng chẳng phải các thừa khác có thể nói được, nên gọi là Vô xưng quang. Ngày đêm thường soi chiếu không giống với hai vầng nhật nguyệt ở Ta-bà, nên là Siêu nhật nguyệt quang. Đều là nhờ ánh sáng chạm thân, tức là nhờ Thân tâm nhu nhuyễn nguyện mà có được.”
(37) Như vậy, từ lời dạy chân thật của Như Lai và luận giải của Tông sư, chúng ta biết rơ rằng, cơi tịnh An Dưỡng là Báo độ chân thật. Chúng sinh hoặc nhiễm ở Ta-bà không thể thấy Phật tánh, v́ bị che phủ bởi phiền năo. Kinh [Niết Bàn] nói: “Như Ta đă nói, Bồ-tát Thập trụ thấy ít phần Phật tánh.” Nên biết, đến được Phật độ An Lạc th́ tức khắc Phật tánh hiển lộ. Điều này là nhờ bản nguyện lực hồi hướng [của Đức Phật A Di Đà]. Lại nữa, kinh [Niết Bàn] nói: “Thân chúng sinh vị lai trang nghiêm đầy đủ thanh tịnh th́ được thấy Phật tánh.”
(38) “Khởi Tín Luận nói: ‘Nếu biết tất cả pháp, tuy thuyết mà không có chủ thể thuyết và đối tượng thuyết; tuy niệm mà không có chủ thể niệm và đối tượng niệm, th́ thế là tùy thuận [chân như]. Tách rời niệm th́ thế là đắc nhập [chân như].’ Đắc nhập là Chân như tam-muội vậy. Huống nữa, địa vị Vô niệm là ở bậc Diệu giác. Bởi v́ nhận ra tâm là biết cái tướng bắt đầu sinh của tâm, nên nói rằng, biết sơ tướng là vô niệm, không phải là sở tri của hàng Bồ-tát Thập Địa. Nay chúng ta c̣n chưa đạt giai vị Thập Tín th́ phải y theo lời Đại sĩ Mă Minh, ‘từ thuyết nhập vào vô thuyết, từ niệm nhập vào vô niệm’ .”
(39) Xem xét chữ ‘Báo’, là do ‘Như Lai nguyện hải, thù báo quả thành độ’. Tuy nhiên, ‘Nguyện hải’ có chân và có giả. V́ vậy, ‘Phật độ’ cũng có chân và có giả. Do chánh nhân của ‘tuyển trạch bản nguyện’ mà thành tựu Phật độ chân thật. Báo Phật chân thật: Đại Kinh nói: “Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật.” Lại nữa, “Là ánh sáng vua trong các ánh sáng của chư Phật, là ánh sáng cực tôn trong các ánh sáng.” Tịnh Độ Luận nói: “Quy mạng hết mười phương, Vô Ngại Quang Như Lai.” Báo độ chân thật: Đại Kinh nói: “Quốc độ vô lượng quang minh” , hoặc nói, “Quốc độ của các trí”. Tịnh Độ Luận nói: “Cứu cánh như hư không, Quảng đại không biên tế.” Người văng sinh: Đại Kinh nói: “Đều bẩm thọ tự nhiên cái thân hư vô, cái thể vô cực.” Tịnh Độ Luận nói: “Như Lai tịnh hoa chúng, Chánh giác hoa hóa sinh.” Lại nữa, “[Không ai không phải là chánh giác tịnh hoa hóa sinh của A Di Đà Như Lai,] đồng một câu niệm Phật, không con đường nào khác.” Lại nữa, là ‘Nan tư nghị văng sinh’ đó vậy. Phật và độ giả tạm, dưới đây nên biết. Đă biết [Phật và độ] chân thật và giả tạm đều là từ biển cả ‘Thù báo Đại bi nguyện’ . V́ vậy biết rằng, cả hai đều là Báo Phật và Báo độ. Bởi v́ Đức Phật giả tạm và quốc độ giả tạm có hàng ngàn sự khác biệt về nghiệp nhân, cho nên có hàng ngàn sự khác biệt về quốc độ. Chúng được gọi là ‘Hóa thân phương tiện’ và ‘Hóa độ phương tiện’. V́ không biết phân biệt giữa chân thật và giả tạm nên chúng sinh hiểu lầm và đánh mất ân đức quảng đại của Như Lai. V́ lư do này, Đức Phật chân thật và quốc độ chân thật được làm sáng tỏ ở đây. Đây là chánh ư của Chân tông. Đối với giáo thuyết chân chính của các bậc thầy về Kinh và các bậc thầy về Luận, cũng như đối với sự giải thích nghĩa lư của các bậc thầy về Tịnh độ, ngưỡng mong đại chúng cung kính và tin tưởng, đặc biệt có thể phụng tŕ. Nên biết điều này.
(Sáu) Hiển Tịnh Độ Phương Tiện Hóa Thân Độ Văn Loại
Ngu ngốc Thích Thân Loan biên tập.
(1) Kính nói về Hóa thân và quốc độ. Phật là Đức Phật được thuyết trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Chân thân quán là quán tưởng Phật vậy. Độ là Tịnh độ được mô tả trong Quán Kinh. Chính là Giải mạn giới được nói trong Kinh Bồ Tát Xử Thai . Cũng như Nghi thành Thai cung được đề cập trong Kinh Đại Vô Lượng Thọ.
(2) Những quần manh trong thế giới ô nhiễm và những hàm thức đầy ác độc dơ bẩn, đă từ bỏ chín mươi lăm thứ tà đạo và bước vào các pháp môn khác nhau – bất toàn hay viên măn, tạm thời hay chân thật – th́ người chân thành th́ khó thấy, người thật tu th́ hiếm có, người giả dối th́ có nhiều và người rỗng tuếch th́ đầy dẫy. Thế cho nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đă chỉ dạy về ân đức tạng để dụ dẫn biển cả ‘quần sinh’, và Đức Phật A Di Đà vốn phát những thệ nguyện để phổ hóa biển cả ‘chư hữu’. Có bi nguyện đă phát, gọi là ‘Tu chư công đức nguyện’, cũng gọi là ‘Lâm chung hiện tiền nguyện’, cũng gọi là ‘Hiện tiền đạo sinh nguyện’, cũng gọi là “Lai nghinh dẫn tiếp nguyện’, cũng có thể gọi là “Chí tâm phát nguyện nguyện’.
(3) Ở đây, hăy đến với bi nguyện được nêu trong Đại Kinh: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương phát Bồ-đề tâm, tu các công đức, chí tâm phát nguyện muốn sinh về nước tôi. Lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh, hiện ra trước mặt họ. Nếu không như vậy th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.”
(4) Kinh Bi Hoa, phẩm Bồ Tát Bản Thọ Kư nói: “Nguyện khi tôi thành ngôi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, ở vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thế giới chư Phật khác, có chúng sinh nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà tu các thiện căn, muốn sinh về cơi tôi, khi họ lâm chung, tôi sẽ cùng đại chúng vây quanh ở trước mắt người đó. Người đó thấy tôi, liền được tâm hoan hỷ với tôi. Nhờ được thấy tôi nên ĺa các chướng ngại, lập tức xả thân mạng, sinh đến cơi tôi.”
(5) Ở đây, Nguyện thành tựu văn [của Đại Kinh] chính là Tam bối văn , và là Định tán, cửu phẩm văn của Quán Kinh.
(6) Lại nữa, Đại Kinh nói: “Lại c̣n cây đạo tràng của đức Vô Lượng Thọ Phật cao bốn trăm vạn dặm. Gốc cây đạo tràng ấy chu vi năm ngàn do tuần, nhánh lá rợp bốn phía hai mươi vạn dặm. Cây ấy do tất cả những thứ báu tự nhiên hiệp thành, trang nghiêm với vua châu báu, nguyệt quang ma ni tŕ hải luân bảo. (…) Này A-nan! Nếu hàng thiên nhân ở nước An Lạc thấy cây đạo tràng ấy th́ được ba pháp nhẫn: một là âm hưởng nhẫn, hai là nhu thuận nhẫn, ba là vô sinh pháp nhẫn. Những sự ấy là đều do sức oai thần của đức Vô Lượng Thọ Phật, cũng là do sức bản nguyện, sức nguyện đầy đủ, sức nguyện sáng tỏ, sức nguyện kiên cố rốt ráo của đức Vô Lượng Thọ Phật vậy. (…) Ở nước An Lạc, những giảng đường, tinh xá, cung điện, lâu đài đều toàn bảy báu trang nghiêm tự nhiên hóa thành. Lại c̣n có chân châu, minh nguyệt châu, châu ma ni, và các châu báu làm thành dây hoa giăng che phía trên nhà. Bốn phía nhà có những ao tắm bằng bảy báu hoặc rộng mười do tuần hoặc rộng hai mươi, ba mươi, nhẫn đến hoặc rộng trăm ngàn do tuần, ngang rộng sâu cạn đều riêng một thứ. Trong ao, nước bát công đức lặng đầy trong thơm, mùi vị như cam lộ.”
(7) Lại nói: “Loài thai sinh đó, ở nơi cung điện, rộng trăm do tuần, hoặc năm trăm do tuần, họ thọ hưởng mọi sự khoái lạc tự nhiên như trên cơi trời Đao Lợi vậy. Lúc ấy Bồ-tát Di Lặc bạch Đức Phật: Bạch đức Thế Tôn! Duyên cớ ǵ mà người nước An Lạc có thai sinh và hóa sinh? Đức Phật dạy: Này A-dật-đa! Nếu có chúng sinh, với tâm nghi hoặc mà tu các công đức, nguyện sinh về nước kia, th́ là không hiểu Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, Đại thừa quảng trí, vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Với những trí ấy nghi hoặc chẳng tin, nhưng c̣n biết tin tội phước, tu tập thiện bản, nguyện sinh về nước An Lạc. Chúng sinh ấy sinh về nước An Lạc, ở trong cung điện kia, thọ năm trăm tuổi, thường chẳng thấy Phật, chẳng nghe kinh pháp, chẳng thấy Bồ-tát và Thánh chúng Thanh văn. V́ thế nên quốc độ kia gọi là thai sinh. (…) Di Lặc nên biết, bậc hóa sinh th́ có trí tuệ rộng lớn, c̣n hạng thai sinh th́ trí tuệ thấp kém. (…) Đức Phật bảo Di Lặc: Ví như Chuyển Luân Thánh Vương, có nhà tù bằng bảy thứ báu, trang hoàng đẹp đẽ, trần thiết giường mùng, treo các dây lọng. Nếu có hàng tiểu vương tử đắc tội với vua, liền bị giam vào trong đó, cột bằng khóa vàng. (…) Đức Phật bảo Di Lặc: Những chúng sinh này cũng lại như thế, v́ nghi hoặc Phật trí mà sinh vào thai cung kia. (…) Nếu chúng sinh ấy, biết tội lỗi ḿnh, rất tự hối trách, cầu rời chỗ ấy. (…) Nầy A-dật-đa! Có Bồ-tát nào sinh ḷng nghi hoặc đối với Phật trí th́ mất lợi lớn.”
(8) Như Lai Hội nói: “Đức Phật bảo Di Lặc: Nếu có chúng sinh, thuận theo nghi hối, tích tập thiện căn, mong cầu Phật trí, phổ biến trí, bất tư nghị trí, vô đẳng trí, uy đức trí, quảng đại trí, nhưng với thiện căn của ḿnh, không thể sinh tín. V́ nhân duyên ấy mà phải trú trong cung điện suốt năm trăm năm. (…) A-dật-đa! Ông xem người thù thắng trí, họ nhờ quảng tuệ lực mà được hóa sinh ở nước Cực Lạc kia, ở trong hoa sen ngồi kiết già. Ông xem hạng hạ liệt (…) không biết tu tập các công đức, nên không có nhân lành phụng sự Đức Phật Vô Lượng Thọ. Những người này đều là do duyên xưa nghi hối mà được như thế. (…) Đức Phật bảo Di Lặc: Đúng vậy, đúng vậy! Nếu có người thuận theo nghi hối, tích tập thiện căn, mong cầu Phật trí, cho đến quảng đại trí, nhưng với thiện căn của ḿnh, không thể sinh tín. Do nghe danh hiệu của Phật mà khởi tín tâm, dù sinh về nước kia vẫn ở trong hoa sen không được xuất hiện. Những chúng sinh ấy ở trong thai hoa mà tưởng như đang ở trong cung điện, hoa viên.”
(9) Đại Kinh nói: “C̣n hàng tiểu Bồ-tát và người tu tập công đức ít th́ số đông chẳng thể kể nói, sẽ được sinh về nước ấy.”
(10) Lại nói: “Huống chi các Bồ-tát khác do thiện căn nhỏ được sinh về nước kia, không thể tính đếm được.”
(11) Ḥa thượng chùa Quang Minh giải thích: “[Tuy được văng sinh] phải ẩn trong hoa chưa ra ngoài, hoặc sinh vào biên giới, hoặc đọa vào thai cung.”
(12) Sư Cảnh Hưng nói: “Do nghi ngờ Phật trí, tuy sinh về nước kia mà ở tại biên địa, không nhận sự Thánh hóa. Nếu bị thai sinh th́ nên từ bỏ.”
(13) Văng Sinh Yếu Tập , do Thủ Lăng Nghiêm Viện Sa-môn Nguyên Tín soạn, dẫn lời giải thích của thiền sư Hoài Cảm: “Hỏi: Kinh Bồ Tát Xử Thai, quyển hai , nói: ‘Về phương Tây, cách cơi Diêm-phù-đề này mười hai ức na-do-tha có cơi nước tên là Giải Mạn, [dân trong quốc độ ấy ưa thích ca hát; y phục, trang sức, hương hoa, trang hoàng giường cửa bằng bảy báu. Đưa mắt về phía Đông th́ giường báu cũng chuyển theo, nh́n về phía Tây, Nam, Bắc đều cũng chuyển như vậy.] Tất cả chúng sinh đều phát tâm muốn sinh về cơi Phật A Di Đà, nhưng họ đều bị đắm nhiễm quốc độ Giải Mạn, không thể tiến lên để sinh về cơi Phật A Di Đà. Trong ức ngàn vạn người th́ có một người sinh về cơi Phật A Di Đà, v́ sao?’ Lấy kinh này làm chuẩn, th́ là nạn có thể được sinh? Đáp: Quần Nghi Luận dẫn đoạn văn trước của Ḥa thượng Thiện Đạo để giải thích nạn này, và hơn nữa, chính tác giả cũng nói thêm: Đoạn tiếp theo trong kinh nói, ‘V́ đều do họ giăi đăi, ngă mạn, tâm không kiên định.’ Như vậy, người tạp tu là người có quyết tâm yếu ớt, cho nên họ bị sinh vào nước Giải Mạn. Nếu không tạp tu mà chuyên hành nghiệp này , th́ tâm chí vững vàng, nhất định sẽ được sinh nước Cực Lạc. (…) Lại nữa, người sinh về Báo tịnh độ th́ rất ít, người sinh về Hóa tịnh độ th́ nhiều. V́ vậy, những lời dạy khác nhau trong kinh thật ra không trái ngược nhau.”
(14) V́ vậy, suy ngẫm về sự giải nghĩa của Ḥa thượng Lăng Nghiêm, tôi thấy trong ‘Niệm Phật chứng cứ môn’, lời nguyện thứ mười tám là hiển thị biệt nguyện trong các biệt nguyện [của Đức Phật A Di Đà] . Ngài khuyến khích các căn định thiện và tán thiện được dạy trong Quán Kinh rằng, “Người ác cực trọng, không cách nào khác, chỉ xưng Di Đà, được sinh Cực Lạc.” Người đạo và kẻ tục của thế giới ác trược này nên khéo tự suy xét khả năng của ḿnh. Nên biết điều này.
(15) Hỏi: Sự khác biệt giữa ba tâm của Đại Bản (Đại Kinh) và ba tâm của Quán Kinh là ǵ? Đáp: Theo ư kiến của thích gia (Thiện Đạo) và theo Vô Lượng Thọ Phật Quán Kinh, có cái nghĩa ‘hiển chương ẩn mật’ . Chữ ‘hiển’ có nghĩa là hiển bày các thiện định tán, khai mở ba bối và ba tâm. Tuy nhiên, hai thiện và ba phước không phải là nhân thực sự của Báo độ. Ba tâm của tất cả căn cơ là sự tự lợi khác nhau, chứ không phải ‘nhất tâm’ của sự lợi tha. Đó là ‘phương tiện lạ’ của Như Lai, là thiện căn ‘hân mộ Tịnh độ’. Đây là ư của kinh này, tức là nghĩa ‘hiển thuyết’ vậy. Chữ ‘chương’ có nghĩa là tuyên dương hoằng nguyện của Như Lai và truyền bá sự lợi tha thông nhập ‘nhất tâm’. Duyên nơi ác nghịch của Đề-bà-đạt-đa và A-xà-thế mà biểu lộ sự mỉm cười, thương tưởng của Đức Thích Ca. Nhân do chánh ư chọn lựa đặc biệt của Vi Đề Hy mà mở ra tâm đại bi bản nguyện của Đức Di Đà. Đây là nghĩa ‘ẩn chương’ của kinh này. Như vậy, Quán Kinh nói: “Dạy tôi quán nơi nghiệp xứ thanh tịnh.” Nói “Nghiệp xứ thanh tịnh”, đó là bản nguyện thành tựu Báo độ. Nói “Dạy con tư duy”, tức là phương tiện. Nói “Dạy con chánh thọ”, tức là Kim cương chân tâm. Nói “Quán kỹ nước ấy th́ tịnh nghiệp được thành”, là nên quán biết bản nguyện thành tựu tận thập phương Vô Ngại Quang Như Lai. Nói “Nói rộng các pháp quán”, là mười ba pháp quán. Nói “Bà là phàm phu, tâm tưởng yếu kém”, là tỏ rơ rằng căn cơ người ác được văng sinh. Nói “Chư Phật Như Lai có phương tiện lạ”, đó là ‘các thiện định tán’, biểu thị giáo lư phương tiện. Nói “Nhờ oai lực của Đức Phật mà được thấy quốc độ ấy”, đây là diễn tả ư ‘tha lực’. Nói “Nếu sau khi Đức Phật diệt độ, các chúng sinh [trược ác, bất thiện, bị ngũ khổ bức ngặt, họ làm thế nào có thể được thấy A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới?], tức là ‘chúng sinh vị lai’ biểu thị cho ‘văng sinh chánh cơ’ . Nói “Nếu có hợp th́ gọi là thô tưởng”, là nói ‘định quán’ khó thành. Nói “Nơi thân hiện tại được Niệm Phật tam-muội”, là nói lợi ích của ‘định quán’ thành tựu. Đạt được Niệm Phật tam-muội là lợi ích của quán, tức lấy quán môn làm giáo lư phương tiện. Nói “Phát ba thứ tâm liền được văng sinh”, lại nói, “Có ba hạng chúng sinh sẽ được văng sinh”, theo những đoạn này, liên quan đến ba bối, có ba hạng [chúng sinh] có ba tâm, và cũng có hai thứ văng sinh . Khéo biết rằng, kinh này có nghĩa ‘hiển chương ẩn mật’. Tôi sẽ bàn về sự giống nhau và khác nhau của ba tâm trong hai kinh, phải khéo suy lường. Đại Kinh và Quán Kinh, theo nghĩa ‘hiển’ th́ khác nhau, theo nghĩa ‘chương’ th́ giống nhau. Nên biết điều này.
(16) Do đó, Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Đức Ta-bà Hóa chủ nhận lời thỉnh cầu của phu nhân Vi Đề Hy, liền rộng mở yếu môn Tịnh độ, Đức An Lạc Năng nhân bày tỏ hoằng nguyện ‘biệt ư’ . Yếu môn đó chính là hai môn định và tán của Quán Kinh này. Định tức là dẹp lo để lắng tâm, tán tức là bỏ ác để tu thiện, hồi hướng hai hạnh này để cầu nguyện văng sinh. Nói ‘hoằng nguyện’, như trong Đại Kinh nói: ‘Tất cả phàm phu thiện ác mà được văng sinh th́ đều nương vào đại nguyện nghiệp lực của Đức Phật A Di Đà làm tăng thượng duyên’.”
(17) Lại nói: “Nay Quán kinh này, lấy Quán Phật tam-muội làm tông, cũng lấy Niệm Phật tam-muội làm tông, nhất tâm hồi nguyện văng sinh Tịnh độ làm thể. Nói về Đại giáo, Tiểu giáo. Hỏi: Kinh này thuộc tạng nào trong hai tạng? Thuộc giáo nào trong hai giáo? Đáp: Quán Kinh này thuộc Bồ-tát tạng và nhiếp về Đốn giáo.”
(18) Lại nói: “Lại nữa, nói ‘Như thị’, chỉ cho ‘pháp’, tức là hai môn định và tán. Thị, là một từ xác định, chúng sinh thực hành chắc chắn được lợi ích. Đây là nói rơ lời dạy của Đức Như Lai th́ không có sai lầm, nên gọi là Như thị. Lại nữa, nói ‘như’, tức là như ư chúng sinh, tùy tâm ưa thích mà Đức Phật liền hóa độ họ. Căn cơ và giáo pháp tương ưng, cũng gọi là ‘thị’, nên nói là Như thị. Lại nữa, nói ‘Như thị’, là muốn nói rơ về lời dạy của Đức Như lai: Ngài nói tiệm đúng như tiệm, nói đốn đúng như đốn, nói tướng đúng như tướng, nói không đúng như không, nói nhân pháp đúng như nhân pháp, nói thiên pháp đúng như thiên pháp, nói tiểu đúng như tiểu, nói đại đúng như đại, nói phàm đúng như phàm, nói Thánh đúng như Thánh, nói nhân đúng như nhân, nói quả đúng như quả, nói khổ đúng như khổ, nói lạc đúng như lạc, nói xa đúng như xa, nói gần đúng như gần, nói đồng đúng như đồng, nói dị đúng như dị, nói tịnh đúng như tịnh, nói uế đúng như uế, nói tất cả pháp th́ muôn ngàn sai biệt. Đức Như Lai thấy biết rơ ràng thấu đáo, tùy tâm chúng sinh mà khởi hạnh, làm lợi ích cho mỗi người theo những cách khác nhau. Nghiệp quả và các pháp là như thế đó, chúng không sai chạy, cũng gọi là ‘thị’, nên nói là Như thị.”
(19) Lại nói: “Từ ‘Muốn sinh về nước kia’ cho đến ‘gọi là tịnh nghiệp’ , là phần khuyên tu hành ba thứ phước. Ở đây nói về căn cơ của tất cả chúng sinh, có hai thứ là: một là, định; hai là, tán. Nếu y theo định thiện quán hạnh, tức là nhiếp lấy chúng sinh vẫn không hết, do đó mà Đức Như lai phương tiện mở bày ba thứ phước, để đáp ứng cho căn cơ tán động.”
(20) Lại nói: “Lại, chân thật có hai loại: Tự lợi chân thật và Lợi tha chân thật. Tự lợi chân thật cũng có hai loại: (a) Trong tâm chân thật, chế ngự và xả bỏ các điều ác của ḿnh và người, xả bỏ thế giới uế trược, đi đứng ngồi nằm tưởng đồng tất cả Bồ-tát chế ngự và xả bỏ các điều ác, tôi cũng như thế. (b) Trong tâm chân thật, siêng tu các điều thiện của ḿnh người, phàm Thánh. [Lại nữa, ba nghiệp thân, khẩu, ư có sáu thứ:] (i) Khẩu nghiệp với tâm chân thật: khen ngợi y báo và chánh báo của Đức Phật A Di Đà. (ii) Lại nữa, khẩu nghiệp với tâm chân thật: chán chê ba cơi sáu đường, hai báo y chánh khổ đau xấu ác của ḿnh và người, và cũng khen ngợi tất cả chúng sinh thực hành ba nghiệp thiện lành. Đối với người chẳng có thiện nghiệp th́ kính trọng nhưng không gần gũi, cũng không tùy hỷ. (iii) Lại nữa, thân nghiệp với tâm chân thật: chắp tay kính lễ, cúng dường tứ sự, v.v. y báo và chánh báo của Đức Phật A Di Đà. (iv) Lại nữa, thân nghiệp với tâm chân thật: coi thường chán bỏ tam giới sinh tử và hai báo y chánh của ḿnh và người. (v) Lại nữa, ư nghiệp với tâm chân thật: tư tưởng quán sát, nhớ nghĩ y báo và chánh báo của Đức Phật A Di Đà, như hiện ở trước mắt. (vi) Lại nữa, ư nghiệp với tâm chân thật: khinh rẻ chán bỏ tam giới sinh tử và hai báo y chánh của ḿnh và người. [Ba nghiệp bất thiện ắt phải xả bỏ với tâm chân thật. Lại nữa, nếu khởi ba nghiệp thiện th́ phải thực hiện với tâm chân thật. Bất kể trong ngoài, sáng tối đều phải chân thật, đó gọi là Chí thành tâm.] (…) Lại nữa, quyết định thâm tín: Đức Phật Thích Ca thuyết Quán Kinh này, ba phước, chín phẩm, định thiện và tán thiện là để chứng minh, khen ngợi y báo và chánh báo của Đức Phật A Di Đà, khiến người ưa thích ngưỡng mộ. (…) Lại nữa, thâm tâm thâm tín: quyết định kiến lập tự tâm, thuận theo giáo pháp tu hành, dứt hẳn sự nghi ngờ sai lầm, đừng v́ tất cả các biệt giải, biệt hành, dị học, dị kiến, dị chấp mà làm cho ḿnh khuynh động thối thất. (…) Tiếp theo, dựa vào hành mà lập tín. Nhưng hành có hai thứ: một là, chánh hành; hai là, tạp hành. Chánh hành là hành giả chuyên y theo kinh Văng Sinh mà thực hành, đó gọi chánh hành. Thực hành ấy như thế nào? Nhất tâm chuyên đọc tụng Quán Kinh, Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ; nhất tâm chuyên chú tư tưởng, quán sát, nhớ nghĩ hai báo trang nghiêm của cơi Cực Lạc. Lễ bái th́ nhất tâm chuyên lễ Đức Phật A Di Đà, xưng niệm th́ nhất tâm chuyên xưng Đức Phật A Di Đà, ca ngợi cúng dường th́ nhất tâm ca ngợi cúng dường Đức Phật A Di Đà, đó gọi là chánh hành. Lại nữa, trong chánh hành này cũng có hai thứ:
Lại nữa, trong phần chánh hành này cũng có hai thứ: (a) Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, đi đứng ngồi nằm, không kể thời gian lâu mau, niệm niệm bất xả, đó gọi là Chánh định nghiệp, v́ thuận theo bản nguyện của Đức Phật A Di Đà. (b) Nếu nương vào sự lễ bái, đọc tụng, v.v. th́ gọi là Trợ nghiệp. Ngoài hai hành chánh trợ này, các thiện hành khác của ḿnh, đều gọi là Tạp hành. Nếu tu cả hai hành chánh trợ, th́ tâm thường gần gũi, nhớ nghĩ không ngừng, gọi là Vô gián hành. Nếu tu tạp hành, th́ tâm thường gián đoạn, tuy có thể hồi hướng được sinh, nhưng được gọi là Sơ tạp hành. Đó gọi là thâm tâm. Ba là, hồi hướng phát nguyện tâm: là từ quá khứ đến đời nay, thân khẩu ư nghiệp của ḿnh tu tập thiện căn thế gian và xuất thế gian, và tùy thuận thân khẩu ư nghiệp của người - tất cả phàm Thánh - tu tập thiện căn thế gian và xuất thế gian. Bằng cái tâm chân thật và thâm tín, đem thiện căn tu tập của ḿnh và người thảy đều hồi hướng nguyện sinh quốc độ Cực Lạc, đó gọi là Hồi hướng phát nguyện tâm.” (…)
(21) Lại nói: “Định thiện hiển thị quán duyên.”
(22) Lại nói: “Tán thiện hiển thị hành duyên.”
(23) Lại nói: “Yếu nghĩa của Tịnh độ th́ khó thấy.”
(24) Lại nói: “Như Quán Kinh nói: Trước phải đầy đủ ba tâm ắt được văng sinh. Những ǵ là ba: (a) Chí thành tâm: thân nghiệp th́ lễ bái Đức Phật A Di Đà, khẩu nghiệp th́ tán thán, xưng dương Đức Phật A Di Đà, ư nghiệp th́ chuyên niệm quán sát Đức Phật A Di Đà. Hễ ba nghiệp khởi lên đều phải chân thật, gọi là Chí thành tâm. (b) Thâm tâm: tin biết tự thân là phàm phu có đủ phiền năo, thiện căn ít ỏi, bị lưu chuyển trong ba cơi, không ra khỏi nhà lửa. Nay tin biết bản hoằng thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà và xưng niệm danh hiệu, tối thiểu mười tiếng một tiếng, th́ nhất định được văng sinh, và dù chỉ một niệm mà không có ḷng nghi, nên gọi là thâm tâm. (c) Hồi hướng phát nguyện tâm: đem tất cả thiện căn đă làm đều hồi hướng nguyện văng sinh, nên gọi là Hồi hướng phát nguyện tâm. Đầy đủ ba tâm này th́ nhất định được văng sinh. Nếu thiếu một tâm th́ không được văng sinh, như trong kinh Quán nói đầy đủ, nên biết.
Lại nữa, các vị Bồ Tát đă ra khỏi sinh tử, những thiện pháp đă làm đều hướng cầu Phật quả, tức là tự lợi. Giáo hóa chúng sinh cho đến cùng tận biên tế thời gian, tức là lợi tha. Thế nhưng, chúng sinh đời nay đều bị phiền năo trói buộc, chưa thoát khỏi khổ đau của sinh tử và ba đường ác, phải tùy duyên khởi sự tu tập, tất cả thiện căn đều mau hồi hướng, nguyện văng sinh quốc độ của Đức Phật A Di Đà. Đến quốc độ kia rồi th́ không c̣n sự sợ hăi. Bốn pháp tu nói trên tự nhiên nhậm vận, tự lợi lợi tha đều được đầy đủ, nên biết. ”
(25) Lại nói: “Nếu như xả bỏ sự chuyên tâm mà tu tạp nghiệp, th́ trăm người tu, chỉ có được một hai người văng sinh, ngàn người tu chỉ có năm ba người văng sinh. V́ sao? V́ tạp duyên loạn động làm mất chánh niệm, v́ không tương ưng với bản nguyện của Phật, v́ đi ngược với giáo lư, v́ không thuận theo lời Phật dạy, v́ buộc niệm không tương tục, v́ ức tưởng có gián đoạn, v́ hồi hướng không ân cần chân thật; v́ phiền năo, tham sân, chư kiến đến làm gián đoạn, v́ không có tâm hổ thẹn sám hối. (…) Sám hối có ba phẩm: thượng, trung, hạ. Thượng phẩm sám hối, nghĩa là các lỗ chân lông đều rỉ máu, hai mắt cũng rỉ máu. Đây gọi là thượng phẩm sám hối. Trung phẩm sám hối, nghĩa là toàn thân nóng ran, mồ hôi tiết ra từ các lỗ chân lông, hai mắt rỉ máu. Đây gọi là trung phẩm sám hối. Hạ phẩm sám hối, nghĩa là toàn thân nóng ran, hai mắt đẫm lệ. Đây gọi là hạ phẩm sám hối. Ba phẩm này tuy có sự sai khác tức là do người từ lâu đă trồng thiện căn giải thoát phần, khiến cho đời nay kính Pháp, trọng Tăng, không tiếc thân mạng. Cho đến dù một tội nhỏ cũng như pháp sám hối th́ có thể thấu tâm thấu tủy. Người nào có thể sám hối như đây, th́ không kể lâu mau, bao nhiêu nghiệp chướng nặng nề đều diệt hết. Nếu không như vậy, mặc cho ngày đêm mười hai thời trôi nhanh, [khẩn cầu giải thoát] cuối cùng cũng là vô ích. Người không làm sự sám hối, nên biết: tuy không rơi lệ, chảy máu, nhưng chỉ cần thấu đạt được chân tâm, th́ cũng như [sự sám hối] đă nói ở trên. ”
(26) Lại nói: “Hoàn toàn chẳng chiếu nhiếp những người hành tạp nghiệp khác.”
(27) Lại nói: “Như Lai xuất hiện nơi ngũ trược Tùy nghi phương tiện độ quần sinh Hoặc nói nghe nhiều mà được độ Hoặc nói hiểu ít chứng tam minh Hoặc dạy phước tuệ cùng trừ chướng Hoặc dạy thiền niệm ngồi suy lường Các thứ pháp môn đều giải thoát.”
(28) Lại nói: “Muôn kiếp tu công thật khó liền Một khi phiền năo trăm ngàn khoảng Nếu đợi Ta-bà chứng Pháp nhẫn Sáu đạo trần kiếp chưa biết ngày. (...) Môn môn chẳng đồng gọi Tiệm giáo Muôn kiếp khổ hạnh chứng vô sinh Trọn đời cam kết chuyên niệm Phật Phút chốc lâm chung Phật đến rước. Trong một bữa ăn c̣n cách hở Làm sao muôn kiếp chẳng tham sân Tham sân cản đường đến người trời Ba ác, bốn thú được an thân.”
(29) Lại nói: “Định tán đều hồi nhập nước báu Tức là Như Lai phương tiện lạ Vi Đề tức là tướng người nữ Tham sân đầy đủ phàm phu vị.”
(30) Luận Chú nói: “Tướng công đức chân thật: Có hai loại công đức: 1. Từ tâm hữu lậu mà sinh, không thuận pháp tánh, cái gọi là các thiện của phàm phu nhân thiên. Các quả báo của nhân thiên, mặt nhân mặt quả, đều là điên đảo, đều là hư dối, nên gọi là ‘công đức không thật’.”
(31) An Lạc Tập nói: “Kinh Đại Tập, phần Nguyệt Tạng có nói: 'Trong thời mạt pháp của Đức Thế Tôn, ức ức chúng sinh khởi hạnh tu đạo, nhưng chưa có một người đắc đạo.' Nay đang thời kỳ mạt pháp, hiện trong ‘ngũ trược ác thế’, chỉ có một môn Tịnh độ là con đường thông suốt để vào đạo.”
(32) Lại nói: “[Ở cơi này dùng nhiều thời gian tu thí, giới, nhẫn, tiến, định, tuệ, mà] chưa măn một muôn kiếp trở lên, thường không thoát khỏi nhà lửa, điên đảo sa đọa, nên gọi dụng công rất nhiều mà được quả báo dối trá.”
(33) Tuy nhiên, theo Đại Bản , đó là siêu phát ‘nguyện phương tiện’ của chân thật, và theo Quán Kinh, đó là hiển lộ ‘giáo chân thật’ của phương tiện. C̣n Tiểu Bản chỉ khai mở ‘chân môn’ , không có ‘thiện phương tiện’. Như vậy, ‘chân thật’ trong ba kinh lấy ‘tuyển trạch bản nguyện’ làm tông chỉ. C̣n ‘phương tiện’ trong ba kinh tức là ‘tu chư thiện căn’ làm thiết yếu. Y theo đây mà xét, ‘nguyện phương tiện’ có giả có chân, cũng có hành có tín. Nguyện, chính là nguyện của ‘lâm chung hiện tiền nguyện’ . Hành, chính là thiện của ‘tu các công đức’. Tín, chính là tâm của ‘chí tâm, phát nguyện, dục sinh’ . Y theo hành và tín của nguyện ấy, hiển khai ‘phương tiện quyền giả’ của yếu môn Tịnh độ. Từ yếu môn này xuất sinh ba hành: chánh hành, trợ hành và tạp hành. Đối với chánh hành và trợ hành, có chuyên tu và có tạp tu. Xét căn cơ th́ có hai hạng: một là, định cơ; hai là, tán cơ. Lại có hai thứ ‘ba tâm’, cũng có hai thứ văng sinh. Hai thứ ‘ba tâm’: một là, ba tâm của định; hai là, ba tâm của tán. Định tâm và tán tâm là hai tâm khác nhau của tự lợi. Hai thứ văng sinh: một là, tức văng sinh; hai là, tiện văng sinh. Tiện văng sinh, chính là thai sinh biên địa, song thọ lâm hạ văng sinh . Tức văng sinh, chính là Báo độ hóa sinh. Trong Quán Kinh, chúng ta cũng thấy khía cạnh của ‘chân thật’. Đó là sự khai mở Kim cương chân tâm, qua đó sự ‘nhiếp thủ bất xả’ của Đức Phật A Di Đà được hiển lộ. Như vậy, Đức Thích Ca Mâu Ni, bậc Thiện Thệ, giáo hóa chúng sinh trong cơi uế trược này, đă tuyên thuyết nguyện tâm ‘Chí tâm tín lạc’ , v́ ‘Tín lạc’ là chánh nhân sinh về Báo độ chân thật. Do đó, Đại Kinh nói rằng ‘Tín lạc’. Thệ nguyện của Như Lai không bị nghi cái xen lẫn, nên nói là ‘Tín’. Quán Kinh Quán gọi nó là ‘Thâm tín’. Đối chiếu với căn cơ ‘thiển tín’ nên gọi là ‘Thâm tín’. Tiểu Kinh gọi đó là ‘Nhất tâm’. Không có xen lẫn hai loại thực hành nên gọi là ‘Nhất’. Hơn nữa, về ‘Nhất tâm’, có thâm và có thiển. ‘Thâm’, là tâm lợi tha chân thật. ‘Thiển’, là tâm định tán tự lợi.
(34) Theo ư của Tông sư [Thiện Đạo], nói rằng: “Nương vào tâm để khởi thắng hạnh, ngoài môn có tám muôn bốn ngàn, đốn hay tiệm đều phù hợp căn cơ chúng sinh, những ai tùy duyên tu tập đều được giải thoát.” Nhưng đối với kẻ phàm ngu thường ch́m đắm: định tâm khó tu, v́ phải dứt tâm lo nghĩ; tán tâm khó hành, v́ phải bỏ ác tu thiện. V́ vậy, ‘lập tướng trụ tâm’ c̣n khó thành. Cho nên nói, “Dù sống đến ngàn năm, mắt pháp chưa từng mở.” Huống là ‘vô tướng ly niệm’, thực sự khó đạt được. Cho nên nói, “Đức Phật biết trước các phàm phu tội trược trong đời mạt pháp, ‘lập tướng trụ tâm’ c̣n không thể được, huống chi ly tướng mà cầu sự, giống như người không có phép thuật thần thông mà muốn xây một ngôi nhà giữa hư không.” Nói ‘ngoài môn’ (門餘, môn dư): Môn (門), là bốn muôn tám ngàn giả môn. Ngoài (餘), là biển cả ‘Bản nguyện Nhất thừa’ .
(35) Giáo pháp mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đă dạy trong suốt cuộc đời của Ngài, nhập Thánh chứng quả ở thế gian này, gọi là Thánh đạo môn , cũng được gọi là Nan hành đạo. Trong Thánh đạo môn này, có Đại thừa và Tiểu thừa, Tiệm giáo và đốn giáo; Nhất thừa, Nhị thừa và Tam thừa; Quyền giáo và Thật giáo, Hiển giáo và Mật giáo, Thụ xuất và Thụ siêu, đều là đạo lộ của Tự lực, Lợi tha giáo hóa địa, Phương tiện quyền môn. Nhập Thánh chứng quả ở Tịnh độ An Dưỡng, gọi là Tịnh độ môn, cũng được gọi là Dị hành đạo. Trong Tịnh độ môn này, có hoành xuất, hoành siêu, giả chân, tiệm đốn, trợ hành, chánh hành, tạp hành, tạp tu, chuyên tu. Chánh [hành], là năm thứ chánh hành. Trợ [hành], là bốn thứ hành, ngoại trừ xưng danh. Tạp hành, là các hành khác ngoài chánh hành và trợ hành, gọi là tạp hành. Đây chính Tự lực giả môn , bao gồm hoành xuất, tiệm giáo, định tán, ba phước, tam bối, cửu phẩm. Hoành siêu, là ức niệm bản nguyện, tâm lư tách rời tự lực, đó gọi là Hoành siêu tha lực. Đây tức là chuyên trong chuyên, đốn trong đốn, chân trong chân, Nhất thừa trong các thừa. Đây chính là Chân tông. Điều này đă nói xong trong Hiển Chân Thật Hành.
(36) Khái niệm ‘Tạp hành’ và ‘Tạp tu’ là một, nhưng có ư nghĩa khác nhau. Tạp, là nắm lấy và đi vào muôn hành. Ngược lại với năm thứ chánh hành, có năm thứ tạp hành . Tạp, là xen tạp những kiến giải và thực hành thuộc về nhân loại, chư thiên và Bồ-tát [mà nguyện sinh về Tịnh độ Cực Lạc]. Tạp hành vốn không phải nhân tố văng sinh, chỉ là thiện hành ‘hồi tâm hồi hướng’ , cho nên được gọi là ‘Tạp hành của Tịnh độ’. Lại nữa, tạp hành có chuyên hành và chuyên tâm. Lại có, tạp hành có tạp tâm. Chuyên hành: chuyên tu một thiện pháp, nên gọi là chuyên hành. Chuyên tâm: chuyên hồi hướng, nên gọi là chuyên tâm. Tạp hành và tạp tâm: chư thiện kiêm hành, nên gọi là tạp hành. Định tâm và tán tâm xen lẫn, nên gọi là tạp tâm. Về chánh trợ, có chuyên tu và tạp tu. Về tạp tu, có chuyên tâm và tạp tâm. Về chuyên tu, có hai thứ: một là, chỉ xưng danh hiệu Phật; hai là, có năm chuyên. Về hành nghiệp, có chuyên tâm và tạp tâm. Năm chuyên là: một chuyên lễ bái, hai chuyên đọc tụng, ba chuyên quán sát, bốn chuyên xưng danh, năm chuyên tán thán, đây gọi là năm chuyên tu. Khái niệm ‘chuyên tu’ có một, nhưng có ư nghĩa khác nhau, tức là có định chuyên tu và có tán chuyên tu. Chuyên tâm: là chuyên năm chánh hành mà không có hai tâm, nên gọi là chuyên tâm. Đây tức là định chuyên tâm, và cũng là tán chuyên tâm. Tạp tu: trợ và chánh kiêm hành, nên gọi là tạp tu. Tạp tâm: định tâm và tán tâm xen lẫn, nên gọi là tạp tâm. Nên biết những điều này. Đối với tất cả các hành của Tịnh độ, ḥa thượng Đạo Xước gọi là ‘Vạn hành’ , ḥa thượng Thiện Đạo gọi là ‘Tạp hành’, thiền sư Hoài Cảm gọi là ‘Chư hành’ . [Trong việc sử dụng những thuật ngữ này,] ḥa thượng Nguyên Tín y theo thiền sư Hoài Cảm, Thánh nhân Nguyên Không y theo ḥa thượng Thiện Đạo. Y cứ các bậc thầy về Kinh và các bậc thầy về Luận, trong tạp hành có ‘tạp hành tạp tâm’, ‘tạp hành chuyên tâm’ và ‘chuyên hành tạp tâm’. Và trong chánh hành có ‘chuyên tu chuyên tâm’, ‘chuyên tu tạp tâm’ và ‘tạp tu tạp tâm’. Đây đều là nghiệp nhân của Biên địa thai cung và Giải mạn giới, cho nên tuy sinh Cực Lạc mà không thấy Tam bảo, ánh sáng tâm Phật không chiếu soi và nhiếp thủ hành giả tu tạp nghiệp. Thệ nguyện ‘Giả lệnh” thật là thâm sâu biết bao! Giáo lư của Giả môn và thích nghĩa về Hân mộ [Cực Lạc] càng thêm sáng tỏ. Ba tâm của ba kinh, theo Hiển nghĩa, chúng khác nhau; theo Ẩn nghĩa, chúng là một. Nghĩa ‘ba tâm là một hay khác’ đă trả lời xong.
(37) Lại hỏi: ‘Ba tâm’ trong Đại Bản và Quán Kinh cùng với ‘nhất tâm’ trong Tiểu bản th́ là một hay khác? Đáp: Nay nói về thệ nguyện của ‘Phương tiện chân môn’ , có hành, có tín, cũng có chân thật, có phương tiện. Nguyện, chính là nguyện ‘thực chư đức bản’ . Hành, ở đây có hai thứ: một là, thiện bản; hai là, đức bản. Tín, là cái tâm ‘chí tâm hồi hướng dục sinh’. Nói về căn cơ, có định cơ và tán cơ. Văng sinh: Đây là ‘Nan tư văng sinh’ . Phật: Là Hóa thân. Độ: Chính là Nghi thành thai cung. Bằng cách lấy Quán Kinh làm mẫu mực, chúng ta biết rằng Kinh này (Tiểu kinh) cũng nên có cái nghĩa ‘Hiển chương ẩn mật’. Về nghĩa ‘Hiển thuyết’, các bậc thầy về Kinh chê trách ‘tất cả các hành thiểu thiện’, khai thị ‘Chân môn của thiện bản đức bản’, cổ vơ ‘tự lợi nhất tâm’, khích lệ ‘Nan tư văng sinh’. Đó là theo Kinh dạy, “Đa thiện căn, đa công đức, đa phước đức nhân duyên” . Giải thích rằng, “Chín phẩm đều về được bất thối.” Hoặc nói, “Không bằng niệm Phật đến Tây phương, … Ba niệm năm niệm Phật đến đón.” Đây là Hiển nghĩa của kinh này, là phương tiện của chân môn. Về nghĩa ‘Ẩn chương’, kinh mở bày ‘cái pháp khó tin’ của chân thật. Đây là làm cho rạng rỡ biển cả ‘bất khả tư nghị nguyện’, muốn đưa chúng sinh trở về biển cả ‘vô ngại đại tín tâm’. Quả thật, khuyên bảo th́ hằng sa khuyên bảo, tin tưởng th́ hằng sa tin tưởng, nên nói ‘rất khó’ . Giải thích rằng, “Thực là Di Đà hoằng thệ lớn, Làm cho phàm phu niệm liền sinh.” Ở đây là triển khai nghĩa ‘Ẩn chương’. Kinh nói ‘Chấp tŕ’, cũng nói ‘Nhất tâm’. Chấp, nghĩa là cái tâm vững chăi và không chuyển đổi. Tŕ, nghĩa là không tán loạn, không quên mất. Nhất, nghĩa là ‘không hai’. Tâm, nghĩa là chân thật. Trong Đại thừa tu-đa-la, kinh ấy là thể loại kinh ‘vô vấn tự thuyết’. Như vậy, lư do Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai xuất hiện ở thế gian và chánh ư hằng sa chư Phật chứng thành cùng hộ niệm, nằm ở kinh này. Theo đó, các vị Đại sĩ tứ y truyền kinh , cũng như các vị Tông sư Tịnh độ Tam quốc, hướng dẫn những kẻ tà ngụy của thế giới uế trược bằng cách khai mở cho họ Chân tông niệm Phật. Đại cương của ba kinh, tuy có cái nghĩa ‘Hiển chương ẩn mật’, nhưng mỗi bộ kinh đều lấy ‘tín tâm’ làm cơ sở để đi vào [giáo pháp]. Do đó, mỗi bộ kinh đều mở đầu bằng câu: “Như thị [ngă văn]…” Như thị, là h́nh thái của ‘thiện tín’. Suy ngẫm về ba bộ kinh, tôi thấy rằng tất cả đều dạy, ‘Kim cương chân tâm’ là điều thiết yếu nhất. Chân tâm tức là Đại tín tâm. Đại tín tâm là hy hữu, tối thắng, chân thật và thanh tịnh. V́ sao? Biển cả ‘đại tín tâm’ vô cùng khó vào, v́ từ Phật lực mà được phát khởi; Lạc bang chân thật cực kỳ dễ đến, v́ nhờ nguyện lực mà liền văng sinh. Bây giờ, tôi sắp bàn về nghĩa ‘Nhất tâm là một hay khác’, và đây chính là điều tôi muốn nói. Nghĩa ‘Nhất tâm’ đă trả lời xong.
(38) Người xuất gia và người tại gia của thế giới uế trược này nên nhanh chóng bước vào ‘Chân môn viên tu chí đức’ và phát nguyện ‘Nan tư văng sinh’. Về phương tiện của chân môn, có thiện bản và đức bản, c̣n có định chuyên tâm, c̣n có tán chuyên tâm, c̣n có định tán tạp tâm. Tạp tâm: phàm Thánh – dù là Đại thừa hay Tiểu thừa, tất cả [chúng sinh] thiện ác mà xưng niệm danh hiệu với cái tâm xen tạp trợ nghiệp và chánh định nghiệp , bởi v́, giáo là đốn, mà căn là tiệm cơ; hành th́ chuyên, mà tâm th́ xen tạp, nên gọi là Tạp tâm. Định chuyên tâm hay tán chuyên tâm mà nguyện cầu bản nguyện lực bằng cái tâm tin tội phước, đó gọi là Tự lực chuyên tâm. Thiện bản: là gia danh của Như Lai. Gia danh ấy là vạn đức viên bị, là căn bản của tất cả thiện pháp, nên gọi là Thiện bản. Đức bản: là đức hiệu của Như Lai. Đức hiệu ấy mà xưng niệm một tiếng th́ chí chí đức thành măn, các tội lỗi đều chuyển hóa, là căn bản của đức hiệu [chư Phật] mười phương ba đời, nên gọi là Đức bản. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khai diễn ‘công đức tạng’ để khuyến hóa chúng sinh trược thế ở mười phương. A Di Đà Như Lai vốn phát thệ nguyện ‘Quả toại’ để từ bi tiếp dẫn biển cả ‘chư hữu quần sinh’ . Đại nguyện từ bi đă có rồi, đó là ‘Thực chư đức bản nguyện’, c̣n gọi là ‘Hệ niệm định sinh nguyện’, c̣n gọi là ‘Bất quả toại giả nguyện’, cũng có thể gọi là ‘Chí tâm hồi hướng nguyện’.
(39) Trong Đại Kinh, Lời nguyện được nêu rơ: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi , trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sinh về nước tôi mà chẳng được toại nguyện th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.”
(40) Lại nói: “Với những trí ấy nghi hoặc chẳng tin, nhưng c̣n biết tin tội phước, tu tập thiện bản, nguyện sinh về nước An Lạc. Chúng sinh ấy sinh về nước An Lạc, ở trong cung điện kia.”
(41) Lại nói: “Người nào không thiện bản Chẳng được nghe kinh này Người có giới thanh tịnh Mới được nghe chánh pháp.”
(42) Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai nói: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh ở vô lượng quốc độ, nghe nói danh hiệu của tôi, đem thiện căn của ḿnh hồi hướng Cực Lạc, nếu không được sinh th́ tôi chẳng lấy ngôi Bồ-đề.”
(43) Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác nói: “Người không có công đức ấy Không được nghe tên kinh này Chỉ người có giới thanh tịnh Mới đến nghe chánh pháp này. (…) Ác, kiêu mạn và giải đăi Khó tin đối với pháp này Ai từng gặp Phật đời trước Ưa lắng nghe lời Thế Tôn. (…) Khó thay làm được thân người Phật tại thế càng khó gặp Có tín tuệ chưa thể đạt Nếu nghe thấy tinh tiến cầu.”
(44) Quán Kinh nói: “Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Này A-nan! Ông phải tŕ lời này cho tốt. Người tŕ lời này tức là tŕ danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật.”
(45) Kinh A Di Đà nói: “Không thể chỉ đem chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sinh về cơi đó. [Xá-lợi-phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào] nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp tŕ danh hiệu của Ngài.”
(46) Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Các hạnh khác tuy cũng gọi là thiện, nhưng so với hạnh Niệm Phật th́ hoàn toàn không thể so sánh. Thế nên trong các kinh, mọi chỗ đều khen ngợi về công năng Niệm Phật. Như bốn mươi tám lời nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ, chỉ nói chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật th́ được sinh. Lại như kinh A Di Đà nói, chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật, hoặc một ngày, hoặc bảy ngày, th́ được sinh. Lại nữa, hằng hà sa số chư Phật trong mười phương chứng minh lời nói thành thật không hư dối. Lại nữa, trong đoạn văn ‘định thiện và tán thiện’ của kinh này (Quán Kinh) , chỉ nêu chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật th́ được sinh. Do đó, kinh nói về hạnh Niệm Phật chẳng phải chỉ có một. Nói rộng về Niệm Phật tam-muội xong.” (47) Lại nói: “Lại nữa, thâm tín là xác quyết rằng, kinh A Di Đà có nói, hằng hà sa số các Đức Phật ở mười phương đă chứng thật và khuyến khích tất cả phàm phu quyết định được sinh. (…) Ngôn hạnh của Chư Phật không bao giờ trái ngược nhau. Giả sử hôm nay Đức Thích Ca dạy khuyên: “Tất cả các phàm phu, trọn một đời này, chuyên niệm chuyên tu, sau khi xả mạng, chắc sinh nước kia”, th́ chư Phật mười phương cũng đồng khen ngợi, đồng khuyến khích, đồng chứng thật. V́ sao? V́ là đồng thể đại bi. Một Phật giáo hóa tức là tất cả Phật giáo hóa. Tất cả Phật giáo hóa tức là một Phật giáo hóa. Ngay trong kinh A Di Đà có nói: ‘Đức Phật Thích Ca khen ngợi các thứ trang nghiêm ở quốc độ Cực Lạc, lại khuyên tất cả phàm phu, một ngày hoặc bảy ngày, nhất tâm chuyên niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, th́ chắc được văng sinh.’ Đoạn văn tiếp theo nói: ‘Hằng hà sa số chư Phật ở mười phương đều khen ngợi Đức Thích Ca ở trong thời kỳ đầy cả năm thứ ác trược: thế giới độc ác, chúng sinh độc ác, kiến thức độc ác, phiền năo độc ác, thời kỳ thịnh hành tà ác và không có đức tin, lại có thể chỉ dạy và khen ngợi danh hiệu Đức Phật A Di Đà, khuyến khích chúng sinh xưng niệm th́ nhất định được văng sinh.’ Đây là lời chứng thật của chư Phật mười phương. Lại nữa, chư Phật mười phương sợ rằng chúng sinh không tin lời Đức Phật Thích Ca nói, nên các Ngài cùng đồng tâm, đồng thời, đưa ra tướng luỡi rộng dài, trùm khắp Đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: “Chúng sinh các vị, nên tin tưởng những lời Đức Thích Ca đă nói, khen ngợi và chứng thật: ‘Tất cả phàm phu, không kể tội phước nhiều ít, thời gian xa gần, có thể suốt một trăm năm, thậm chí một ngày hoặc bảy ngày, nhất tâm chuyên niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, th́ chắc được văng sinh, quyết không nghi ngờ’.” Thế nên, một Đức Phật nói ra th́ tất cả Đức Phật đồng làm chứng cho lời thành thật ấy. Đây gọi là ‘tựu nhân lập tín’ . ”
(48) Lại nói: “Nhưng xét thâm ư của Phật nguyện, chỉ khuyên ‘chánh niệm xưng danh’, nghĩa ‘văng sinh’ là gấp rút, không đồng với nghiệp ‘tạp tán’. Như kinh này và trong các bộ kinh, chỗ nào cũng rộng khen ngợi và khuyên dạy xưng danh được lợi ích thiết thực, nên biết.”
(49) Lại nói: “Từ ‘Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Này A-nan! Ông phải tŕ lời này cho tốt.…’ trở xuống: Đức Thích Ca phó chúc danh hiệu Đức Phật A Di Đà được lưu thông đến nhiều đời sau. Từ trên đến đây tuy nói về lợi ích của Định thiện và Tán thiện, nhưng xét thâm ư của Phật bản nguyện đối với chúng sinh, th́ là nhất hướng chuyên xưng danh hiệu Đức Phật A Di Đà.”
(50) Lại nói: “Cực Lạc vô vi, Niết-bàn giới Tùy duyên tạp thiện e khó sinh Bởi thế Như Lai tuyển yếu pháp Dạy niệm Di Đà chuyên càng chuyên.”
(51) Lại nói: “Khi kiếp sắp hết, ngũ trược thịnh Chúng sinh tà kiến rất khó tin Chuyên chuyên dạy truyền quy Tây lộ V́ người phá hoại vẫn như cũ Nhiều kiếp đến nay thường như thế Chẳng phải đời này mới tự ngộ Chính do chẳng gặp duyên tốt thôi Dẫn đến luân hồi khó được độ.”
(52) Lại nói: “Các thứ pháp môn đều giải thoát Không bằng niệm Phật đến Tây phương Trọn cả một đời đến mười niệm Ba niệm năm niệm Phật đến đón Thực là Di Đà hoằng thệ lớn Làm cho phàm phu niệm liền sinh.”
(53) Lại nói: “Tất cả Như Lai bày phương tiện Cũng đồng ngày nay Thích Ca Tôn Tùy cơ thuyết pháp đều lợi ích Đều được ngộ giải nhập chân môn. (…) Phật giáo nhiều môn tám vạn tư Chính v́ chúng sinh cơ chẳng đồng. Muốn t́m chỗ an thân thường trú Trước cầu yếu hạnh nhập chân môn.”
(54) Lại nói: “Gần đây, tôi tự thấy nghe người tăng kẻ tục ở khắp nơi, giải hành bất đồng, chuyên tạp sai khác. Giả sử người chuyên tu tác ư, th́ mười người văng sinh cả mười, c̣n người tu tạp không chí tâm, th́ ngàn người không có một người văng sinh.”
(55) Trong A Di Đà Kinh Nghĩa Sớ, Luật sư Nguyên Chiếu nói: “Do Đức Như Lai muốn nói về công đức tŕ danh, chê trách các điều thiện khác đều là ít thiện căn. Các việc bố thí, tŕ giới, xây chùa, đúc tượng, ngồi thiền, lễ tụng, sám niệm, khổ hạnh tất cả phước nghiệp, nếu không có chánh tín hồi hướng nguyện cầu, đều là thiện nhỏ, không phải nhân văng sinh. Nếu y theo Kinh này, chấp tŕ danh hiệu th́ chắc chắn được văng sinh, v́ biết xưng danh là nhiều thiện căn, nhiều phước đức. Xưa giải thích điều này, mọi người c̣n do dự không quyết. Gần đây Tương Dương có bản kinh khắc trong bia đá, văn lư sâu xa phù hợp với căn cơ chúng sinh nên chúng sinh mới có tâm tin sâu. Bản Kinh đó chép: ‘Thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe nói Đức Phật A Di Đà, mà nhất tâm bất loạn, chuyên tŕ danh hiệu, do xưng danh nên các tội tiêu diệt, tức là nhiều công đức, nhiều thiện căn, nhiều phước đức nhân duyên’.”
(56) Cô Sơn Sớ nói: “Chấp, nghĩa là chấp thọ ; tŕ, nghĩa là trụ tŕ . Do tín lực mà chấp thọ ở trong tâm và do niệm lực mà trụ tŕ không quên mất.”
(57) Đại Bản nói: “Đức Như Lai ra đời khó gặp khó thấy, kinh pháp của chư Phật khó được khó nghe. Các môn Ba-la-mật, các pháp thù thắng của Bồ-tát được nghe cũng khó. Gặp thiện tri thức nghe pháp mà làm được cũng là khó. Nếu nghe kinh này mà tin ưa thọ tŕ th́ là khó trong khó, không ǵ khó hơn. V́ thế nên pháp của Ta, làm như vậy, nói như vậy, dạy như vậy, phải nên tin thuận như pháp tu hành.”
(58) Kinh Niết Bàn nói: “Như trong kinh có nói, nhân của tất cả Phạm hạnh là thiện tri thức; tất cả Phạm hạnh tuy có vô lượng nhân, nhưng nếu nói thiện tri thức th́ đă nhiếp hết thảy. Như ta có nói, nhân của tất cả ác hạnh là tà kiến; tất cả ác hạnh tuy có vô lượng nhân, nhưng nếu nói tà kiến th́ đă nhiếp hết thảy. Hoặc nói, quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác lấy tín tâm làm nhân. Nhân của Bồ-đề này tuy có vô lượng, nhưng nếu nói tín tâm th́ đă nhiếp hết thảy.”
(59) Lại nói: “Thiện nam tử! Tín có hai thứ: một là, tín; hai là, cầu. Người như vậy tuy có tín tâm nhưng không thể t́m cầu, đó gọi là Tín không đầy đủ. Tín lại có hai thứ: một là, tín sinh từ nghe; hai là, tín sinh từ tư duy. Tín tâm của người này từ nghe mà sinh, không từ tư duy mà sinh, đó gọi là Tín không đầy đủ. Lại có hai thứ: một là, tín có đạo; hai là, tín có người đắc đạo. Tín tâm của người này tuy tin có đạo nhưng hoàn toàn không tin có người đắc đạo, đó gọi là Tín không đầy đủ. Lại có hai thứ: một là, tín theo chánh; hai là, tín theo tà. Cho rằng có nhân quả, có Phật Pháp Tăng, đó gọi là tín theo chánh. Cho rằng không có nhân quả, tánh Tam bảo khác nhau, tin theo những lời tà vạy của ngoại đạo như Phú-lan-na, v.v., đó gọi là tín theo tà. Người ấy tuy tin Phật Pháp Tăng bảo nhưng không tin Tam bảo đồng nhất tánh tướng, tuy tin nhân quả nhưng không tin có người đắc đạo, đó gọi là Tín không đầy đủ. Người ấy thành tựu Tín không đầy đủ, [thọ giới cấm cũng không đầy đủ.] (…) Thiện nam tử! Có bốn thiện sự nhận lấy ác quả. Những ǵ là bốn? một là, v́ muốn hơn người nên đọc tụng kinh điển; hai là, v́ lợi dưỡng nên giữ ǵn giới cấm; ba là, v́ muốn người khác lệ thuộc mà thực hành bố thí; bốn là, v́ Phi tưởng phi phi tưởng xứ nên buộc niệm tư duy. Đó là bốn thiện sự chịu quả báo ác. Nếu người nào tu tập theo bốn thiện sự như vậy th́ gọi là Ch́m. Ch́m rồi lại nổi, nổi rồi lại ch́m. V́ sao gọi là Ch́m? V́ ưa thích ba cơi. V́ sao gọi là Nổi? V́ thấy ánh sáng. Ánh sáng tức là nghe pháp, tŕ giới, bố thí, thiền định. V́ sao nổi trở lại ch́m? V́ tăng trưởng tà kiến, sinh khởi kiêu mạn. Do đó, ở trong kinh, Ta nói kệ: Nếu có chúng sinh thích chư hữu V́ có tạo tác nghiệp thiện ác Người ấy lạc mất đường Niết-bàn Đó gọi tạm nổi rồi lại ch́m. Đi trong biển sinh tử tối tăm Tuy được giải thoát xen phiền năo Người ấy lại chịu quả báo ác Đó gọi tạm nổi rồi lại ch́m. (…) Như Lai có hai thứ Niết-bàn: một là, hữu vi; hai là, vô vi. Niết-bàn hữu vi không có thường, lạc, ngă, tịnh. Niết-bàn vô vi có thường, lạc, ngă, tịnh. ” [Lại có hai thứ giới: một là, thiện giới; hai là, ác giới. Thân khẩu ư thiện lành là thiện giới. Giới ḅ, giới chó, gọi là ác giới.] Người ấy thâm tín rằng, ‘hai thứ giới này đều có thiện quả’, đó gọi là Giới không đầy đủ. Người ấy không có đủ hai sự: tín và giới, nên sự ưa thích đa văn cũng không đầy đủ. Sao gọi là Nghe không đầy đủ? Mười hai bộ kinh do Như Lai thuyết giảng, chỉ tin sáu bộ, chưa tin sáu bộ, đó gọi là Nghe không đầy đủ. Lại nữa, tuy có thọ tŕ sáu bộ kinh này nhưng không thể đọc tụng, v́ người khác giải thuyết, không chỗ lợi ích, đó gọi là Nghe không đầy đủ. Lại nữa, tuy thọ tŕ sáu bộ kinh này rồi, nhưng v́ luận nghị, v́ thắng tha, v́ lợi dưỡng, v́ chư hữu mà thọ tŕ, đọc tụng, giải thuyết, đó gọi là Nghe không đầy đủ. ”
(60) Lại nói: “Thiện nam tử! Thiện tri thức chân thật bậc nhất là Bồ-tát, chư Phật Thế Tôn. V́ sao? V́ thường lấy ba thứ thiện để điều phục và chế ngự. Những ǵ là ba? Một là, toàn lời dịu ngọt; hai là, toàn lời quở trách; ba là, vừa lời dịu ngọt vừa lời quở trách. V́ nghĩa ấy nên Bồ-tát, chư Phật chính là thiện tri thức chân thật. Lại nữa, thiện nam tử! Phật và Bồ-tát là vị đại lương y nên gọi là thiện tri thức. V́ sao? V́ biết bệnh, biết thuốc, có thể tùy bệnh mà cho thuốc. Ví như vị lương y thông thạo tám phép trị bệnh, trước hết phải xem tướng bệnh. Có ba tướng khác nhau là phong, nhiệt và thủy. Người bị bệnh phong th́ cho uống dầu tô; người bị bệnh nhiệt th́ cho uống nước đường phèn; người bị bệnh thủy th́ cho uống nước gừng. Nhờ biết bệnh căn cho đúng thuốc liền khỏi bệnh, nên gọi là lương y. Phật và Bồ-tát cũng như vậy, biết bệnh của phàm phu có ba loại: tham dục, sân khuể và ngu si. Người bệnh tham dục th́ dạy họ quán tướng xương; người bệnh sân khuể th́ dạy họ quán tướng từ bi; người bệnh ngu si th́ dạy họ quán tướng mười hai duyên. Do nghĩa ấy nên chư Phật, Bồ-tát được gọi là thiện tri thức. Thiện nam tử! Ví như vị thuyền sư khéo đưa người, nên được gọi là đại thuyền sư. Chư Phật, Bồ-tát cũng như vậy, đưa chúng sinh qua biển cả sinh tử. Do nghĩa ấy nên được gọi là thiện tri thức.”
(61) Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ngươi nghĩ thiện tri thức Sinh ta như cha mẹ Nuôi ta như nhũ mẫu Thêm ta bồ-đề phần. Như y sư trị bệnh Như trời rưới cam lộ Mặt trời soi chánh đạo Mặt trăng chuyển tịnh luân.”
(62) Lại nói: “Như Lai đại từ bi Xuất hiện ở thế gian Khắp v́ các chúng sinh Chuyển vô thượng pháp luân. Như Lai vô số kiếp Cần khổ v́ chúng sinh Làm sao các thế gian Báo đáp ân Đại sư?”
(63) Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Chỉ hận chúng sinh nghi chẳng nghi Tịnh độ đối mặt chẳng ngang hướng Chớ luận Di Đà nhiếp chẳng nhiếp Ư tại chuyên tâm hồi chẳng hồi. (…) Hoặc nói từ nay đến Phật quả Nhiều kiếp khen Phật báo Từ ân Chẳng nhờ sức hoằng thệ Di Đà Khi nào kiếp nào thoát Ta-bà? (…) Nào ngờ ngày nay đến nước báu Thật là sức Bổn sư Ta-bà Nếu chẳng Bổn sư tri thức khuyên Tịnh độ Di Đà làm sao nhập? [Cái vui của Bát-chu tam-muội] Được sinh Tịnh độ báo Từ ân.”
(64) Lại nói: “Phật tại thế khó gặp Người có tín tuệ khó Gặp nghe pháp hy hữu Đây lại rất là khó. Tự tin, bảo người tin Chuyển trong khó càng khó Đại bi hóa rộng khắp Chân thành báo Phật ân.”
(65) Lại nói: “Tới lui tha hương chẳng thể dừng Theo Phật về nhà nơi bổn quốc Tất cả hạnh nguyện tự nhiên thành. (...) Buồn vui lẫn lộn, rất tự mừng Chẳng do Thích Ca Phật khai ngộ Di Đà danh nguyện khi nào nghe [Cái vui của Bát-chu tam-muội] Từ ân của Phật thật khó báo.”
(66) Lại nói: “Mười phương sáu đường, đồng luân hồi này, tuần hoàn không ngằn, ch́m sóng ái nên ch́m biển khổ. Phật đạo, thân người khó được nay đă được; Tịnh độ khó nghe nay đă nghe, tín tâm khó phát nay đă phát.”
(67) Thực sự biết rằng, người chuyên tu mà tạp tâm th́ không có được đại khánh hỷ tâm . Do đó, Tông sư [Thiện Đạo] nói: “Không tương tục nghĩ nhớ việc báo ân Phật. Tâm sinh khinh mạn, tuy tác nghiệp hạnh nhưng thường tương ưng với danh lợi. Nhân ngă tự che, nên không thân cận, đồng hành với thiện tri thức. Ưa gần tạp duyên, nên chướng ngại chánh hạnh văng sinh của ḿnh và người.” Thật đáng buồn thay, từ vô thỉ kiếp đến nay, những phàm phu uế chướng đă xen tạp giữa chánh hành và trợ hành, lẫn lộn giữa định tâm và tán tâm, nên họ không có thời hạn xuất ly. Sự lưu chuyển luân hồi mà chúng ta trải qua, nó hơn cả số kiếp vi trần , chúng ta không thể trở về nguyện lực của Phật, không thể bước vào biển cả ‘Đại tín’. Thật là buồn thảm! thật là đau đớn! Thánh giả – dù là Đại thừa hay Tiểu thừa, và tất cả thiện nhân, đem bản nguyện và gia hiệu làm thiện căn của ḿnh, cho nên không thể sinh tín, không hiểu Phật trí. Không biết rơ nhân duyên kiến lập thế giới Cực Lạc , cho nên không thể đi vào Báo độ.
(68) V́ vậy, Ngu Ngốc Thích [Thân] Loan, dựa vào sự giải nghĩa của Luận chủ [Thế Thân], y theo sự khuyến hóa của Tông sư [Thiện Đạo], từ lâu tôi rời khỏi ‘Giả môn của vạn hạnh chư thiện’, măi từ bỏ ‘Song thọ lâm hạ văng sinh’, hồi nhập ‘Chân môn của thiện bản đức bản’, và riêng phát tâm ‘Nan tư văng sinh’. Tuy nhiên, giờ đây tôi đă dứt khoát ra khỏi ‘Phương tiện chân môn’ để chuyển nhập biển cả ‘Tuyển trạch nguyện’, mau rời tâm ‘Nan tư văng sinh’, muốn thỏa thích ‘Nan tư nghị văng sinh’. Thệ nguyện ‘Quả toại’ thật là thâm sâu biết bao! Rồi th́, tôi vào măi Nguyện hải, thâm hiểu Phật ân. Để báo tạ Chí đức, tôi sưu tập những đoạn văn trọng yếu giản lược của Chân tông, hằng thường xưng niệm danh hiệu ‘bất khả tư nghị đức hải’ , càng yêu thích đây, riêng đầu đội đây.
(69) Tôi tin biết rằng, chư giáo Thánh Đạo là giáo pháp thời Phật tại thế và thời kỳ Chánh pháp, nhưng chúng hoàn toàn không phù hợp với thời đại và căn cơ của thời kỳ Tượng pháp, Mạt pháp và Pháp diệt. Thời kỳ Chánh pháp đă qua rồi, và căn cơ cũng không c̣n phù hợp nữa. Tịnh độ Chân tông, nghĩa là chúng sinh trược ác, bất kể họ thuộc thời kỳ Phật tại thế, Chánh pháp, Tượng pháp, Mạt pháp hay Pháp diệt , đều được đại bi dẫn đạo.
(70) Dựa vào các bậc Thầy về Kinh và lật lại lời chú giải của Thầy [Thiện Đạo] về ‘Biện thuyết nhân sai biệt’, chép rằng: “Các kinh khởi thuyết không ngoài năm loại: 1. Đức Phật thuyết; 2. Đệ tử Phật thuyết; 3. Thiên tiên thuyết; 4. Quỷ thần thuyết; 5. Biến hóa thuyết.” Như vậy, bốn loại [sau] được thuyết th́ tín dụng không đủ. Ba bộ kinh [Tịnh độ] đây là Đại Thánh tự thuyết.
(71) Luận Đại Trí Độ giải thích Tứ y như sau: “Khi sắp nhập Niết-bàn, Phật dạy các Tỳ kheo: ‘Từ hôm nay nên y pháp không y người, nên y nghĩa không y ngữ, nên y trí không y thức, nên y kinh liễu nghĩa không y kinh bất liễu nghĩa.’ Y pháp: Pháp có mười hai bộ, nên y theo pháp ấy, không nên y theo người. Y nghĩa: Trong nghĩa không có sự tranh căi về tốt xấu, tội phúc, hư thật. Ngữ là để được nghĩa, nghĩa không phải ngữ. Như người lấy ngón tay chỉ mặt trăng để bảo cho người mê muội, nhưng người mê muội lại thấy ngón tay mà không thấy mặt trăng. Người kia lại nói với nó rằng, ‘Ta lấy ngón chỉ mặt trăng, là để cho ngươi biết mặt trăng, sao ngươi lại thấy ngón tay mà không thấy mặt trăng?’ Đây cũng như thế. Ngữ để chỉ nghĩa, nghĩa không phải là ngữ, cho nên nói ‘không nên y ngữ’. Y trí: Trí hay so lường phân biệt thiện ác, c̣n thức th́ thường t́m vui, không vào được chánh yếu, cho nên nói ‘không nên y thức’. Y kinh liễu nghĩa: Trong các người có Nhất thiết trí, th́ Phật là bậc nhất. Trong tất cả các kinh thư, th́ Phật pháp là bậc nhất. Trong tất cả chúng, th́ chúng Tỳ kheo Tăng là bậc nhất. Bố thí th́ được phước lớn, giữ giới được sinh thiên, đại loại như vậy là kinh liễu nghĩa. Lại nói, ‘Trong chín mươi mốt kiếp, ba kiếp có Phật, các kiếp khác không có Phật, [chúng sinh] thật đáng thương xót’ . Phật v́ hạng người tội nặng không gieo trồng thiện căn thấy Phật đó, [nên nói ‘Phật ra đời khó gặp, như hoa cây Ưu-đàm-bát-la, lâu lâu mới có một lần’.”
(72) Như vậy, người xuất gia và người tại gia ở trược thế mạt đại nên thực hành pháp với ư thức rơ ràng về Tứ y.
(73) Căn cứ vào mục đích của giáo lư chánh chân, và lật lại những lời dạy được trao truyền bởi các bậc cổ đức, tôi sẽ nói về chân giả liên quan đến Thánh đạo và Tịnh độ, cũng như những giáo huấn tà ngụy, dị chấp của ngoại giáo. Xác định thời đại Đức Thích Ca Như Lai nhập Niết-bàn, tôi sẽ giải thích đặc điểm của thời kỳ Chánh pháp, thời kỳ Tượng pháp và thời kỳ Mạt pháp.
(74) Về điều này, Ḥa thượng Đạo Xước chùa Huyền Trung nói: “Thân người tu đạo phải tương tục chẳng dứt, trải qua một muôn kiếp mới chứng được địa vị Bất thối. Hàng phàm phu hiện nay được gọi là ‘Tín ngoại khinh mao’ , cũng gọi là ‘Giả danh’, cũng gọi là ‘Bất định tụ’, cũng gọi là ‘Ngoại phàm phu chưa ra khỏi nhà lửa’ . V́ sao biết được? Căn cứ Kinh Bồ-tát Anh Lạc, có phân biệt đầy đủ ‘nhập đạo hành vị’ . Pháp [hành] như thế, nên gọi là Nan hành đạo.”
(75) Lại nói: “Nói về nguyên do hưng khởi giáo pháp: Xét thời cơ thích hợp, khuyên quy hướng Tịnh độ: Nếu giáo hợp với thời và cơ, th́ dễ tu dễ ngộ. Nếu cơ, giáo và thời trái nhau, th́ khó tu khó nhập. Thế nên Kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Khi hành giả nhất tâm cầu đạo, Thườnng phải quán sát thời, phương tiện, Nếu không đúng thời, không phương tiện, Đó là bị mất, không có lợi.” V́ sao? Như dùi củi ướt để lấy lửa, lửa không thể có, v́ không đúng thời. Như chặt cây khô để t́m nước, nước không thể có, v́ không có trí. Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng nói: ‘Sau khi Phật diệt độ, năm trăm năm thứ nhất, các đệ tử của Ta học tuệ được kiên cố; năm trăm năm thứ hai, học định được kiên cố; năm trăm năm thứ ba, học đa văn, đọc tụng được kiên cố; năm trăm năm thứ tư, tạo lập chùa tháp, tu phước, sám hối được kiên cố; năm trăm năm thứ năm, bạch pháp bị phế bỏ và mất đi, có nhiều tranh căi, ít có thiện pháp được kiên cố.’ (…) Tính đến thời gian bây giờ, chúng ta đang ở trong thời kỳ năm trăm năm thứ tư sau khi Đức Phật rời khỏi thế gian, chính là thời kỳ sám hối tu phước, là thời kỳ nên xưng danh hiệu của Phật. Nếu một niệm xưng danh ‘A Di Đà Phật’, tức tiêu trừ hết tội lỗi trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Một niệm c̣n như vậy, huống chi là thường tu thường niệm, tức là người hằng sám hối vậy.”
(76) Lại nói: “Bàn về sự trụ diệt của kinh điển: Một đời [giáo pháp] của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Chánh pháp năm trăm năm, Tượng pháp một ngàn năm, Mạt pháp mười ngàn năm. Khi chúng sinh giảm tận, kinh điển thảy đều diệt. ‘Đức Như Lai thương xót chúng sinh thống khổ, đặc biệt lưu lại Kinh này, trụ thêm một trăm năm.’ ”
(77) Lại nói: “Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng nói: ‘Trong thời Mạt pháp, ức ức chúng sinh khởi hạnh tu đạo, chưa có một người đắc đạo.’ Nay đang Mạt pháp, hiện là ngũ trược ác thế, chỉ có một môn Tịnh độ là con đường có thể thông nhập.”
(78) Vậy th́, quần sinh trong thế giới dơ bẩn và độc ác này, không biết sự thật của thời kỳ Mạt pháp, cứ chê bai oai nghi của Tăng Ni. Nhưng tất cả mọi người hiện nay, dù là tu sĩ hay tại gia, đều phải tự lượng sức ḿnh.
(79) Y cứ Ba thời của giáo pháp, chúng ta biết rằng Như Lai nhập bát Niết-bàn vào thời vua Mục vương năm thứ 53 (Nhâm Thân), vị vua thứ năm của nhà Chu. Từ năm Nhân Thâm đó cho đến năm đầu tiên của thời đại Nguyên Nhân (Giáp Thân) của chúng ta là 2.173 năm. Lại nữa, y cứ vào lời dạy của Kinh Hiền Kiếp , Kinh Nhân Vương , Kinh Niết Bàn, chúng ta đă đi vào thời kỳ Mạt pháp được 673 năm .
(80) Lật đọc Mạt Pháp Đăng Minh Kư , có viết: “Một bậc Pháp vương là y trên bản thể nhất như, pḥng hộ bằng đạo pháp để lưu phương giáo hóa. Một vị Nhân vương là dựa vào giang sơn tứ hải, trường tồn bằng yên định để cưỡi gió rẽ sóng. Nhân vương và Pháp vương, hỗ tương hiển lộ để khai thị chúng sinh. Chân đế và tục đế, đắp đổi làm nhân để hoằng truyền giáo pháp. Thế nên, thư tịch huyền vi khắp gầm trời, quy hoạch tốt đẹp đầy bờ cơi. Ngu Tăng chúng ta bị mắc vào lưới trời, cúi ngẩng trước pháp luật nghiêm khắc, không có chỗ nào yên nghỉ. Nhưng, pháp có ba thời, người có ba phẩm. Ư chỉ của hóa giáo và chế giáo y theo thời kỳ mà hưng thịnh hay suy tàn, và những lời chỉ trích hay khen ngợi được chấp nhận hoặc từ chối tùy thuộc vào mỗi người. Vận mệnh của ba thời cổ đại phát sinh và suy giảm theo những cách khác nhau. Trí tuệ và giác ngộ của chúng sinh trong năm thời kỳ sau khi Đức Phật nhập diệt cũng khác nhau. Làm sao dựa vào một con đường để cứu độ, đi theo một đạo lư để chỉnh đốn? Do đó, chúng ta sẽ phân biệt kỹ lưỡng về Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp, và cố gắng làm rơ các Tăng sĩ đă tuân thủ hoặc vi phạm giới luật như thế nào. Có ba phần: trước hết là xác định Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp; tiếp theo là xác định Tăng sự trong việc tŕ giới hay phá giới; cuối cùng là giáo pháp được xem xét và so sánh với hành vi của Tăng sĩ. Đầu tiên là xác định Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp: Có những lư thuyết khác nhau về vấn đề này. Hăy thử tŕnh bày một thuyết: Ngài Đại Thừa Cơ trích dẫn Kinh Hiền Kiếp rằng: “Sau khi Phật nhập Niết-bàn, Chánh pháp kéo dài năm trăm năm và Tượng pháp kéo dài một ngàn năm. Sau thời gian 1.500 năm này, giáo lư của Đức Thích Ca Mâu Ni sẽ hoàn toàn biến mất.” Kinh này không đề cập đến thời kỳ Mạt pháp. Theo những thuyết khác, [thời kỳ Chánh pháp kéo dài một ngàn năm. Tuy nhiên,] v́ chư Ni không tuân theo Bát kỉnh pháp và giải đăi nên [chánh] pháp không kéo dài thêm [năm trăm năm]. Do vậy chúng ta không theo thuyết này. Lại nữa, Kinh Niết Bàn nói: “Trong thời kỳ [Tượng pháp và] Mạt pháp, có chúng đại Bồ-tát 120.000 vị ǵn giữ cho pháp không bị diệt mất.” V́ câu kinh này nói đến các Bồ-tát thượng vị, nên không liên quan đến cuộc thảo luận ở đây. Hỏi: Nếu đúng như vậy, hành sự của Tăng sĩ trong khoảng thời gian 1.500 năm này là ǵ? Đáp: Y theo Kinh Đại Thuật có nói: ‘Sau khi Phật nhập Niết-bàn, năm trăm năm đầu tiên, tôn giả Ca-diếp cùng bảy vị Hiền thánh tăng lần lượt hộ tŕ chánh pháp không cho diệt mất. Năm trăm năm sau, chánh pháp diệt tận [, chỉ c̣n giáo pháp tương tợ]. Sáu trăm năm sau, 95 thứ ngoại đạo sẽ xuất hiện và tranh giành lẫn nhau, nhưng Mă Minh xuất thế và khuất phục các ngoại đạo. Bảy trăm năm sau, Long Thọ xuất thế và phá hủy những ngọn cờ của tà kiến. Tám trăm năm sau, các Tỳ kheo sẽ buông thả phóng túng và chỉ có một hai người đắc đạo quả. Chín trăm năm sau, tôi trai làm Tỳ kheo, tớ gái làm Tỳ kheo ni. Một ngàn năm sau, giảng nói bất tịnh quán, Tỳ kheo sẽ phẫn nộ không muốn nghe. Một ngàn một trăm năm sau, Tăng ni lấy vợ lấy chồng, hủy báng Tỳ-ni. Một ngàn hai trăm năm sau, các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni làm phi Phạm hạnh, có con cái [, nam làm Tỳ kheo, nữ làm Tỳ kheo ni]. Một ngàn ba trăm năm sau, áo cà sa thay đổi màu trắng. Một ngàn bốn trăm năm sau, bốn bộ đệ tử giống như kẻ thợ săn, đem bán vật dụng của Tam bảo. Một ngàn năm trăm năm sau, hai Tỳ kheo ở nước Câu-thiểm-di sẽ tranh chấp đúng sai và cuối cùng giết hại nhau, kết quả là giáo pháp sẽ được cất giữ ở long cung.’ Đoạn này cũng được t́m thấy trong Kinh Niết Bàn, quyển 18, Kinh Nhân Vương, và các kinh khác. Theo những đoạn kinh này, sau 1.500 năm, sẽ không có giới luật, thiền định và trí tuệ. V́ vậy, Kinh Đại Tập, quyển 51, nói: ‘Sau khi Ta diệt độ, năm trăm năm đầu, các chúng Tỳ kheo ở trong pháp Ta, Giải thoát được kiên cố. (Sơ đắc Thánh quả gọi là giải thoát.) Năm trăm năm nữa, trong chánh pháp Ta, Thiền định [tam-muội] được trú kiên cố. Năm trăm năm nữa, đọc tụng Đa văn được trú kiên cố. Năm trăm năm nữa, ở trong pháp Ta, nhiều sự tạo lập chùa tháp được trú kiên cố. Năm trăm năm nữa, đấu tranh kiện cáo, bạch pháp ẩn trệ, tổn giảm kiên cố.’ Đoạn này có nghĩa là, trong ba thời kỳ năm trăm năm đầu tiên, ba pháp Giới, Định, Tuệ được an trú kiên cố. Nói cách khác, trong phần trích dẫn trên, Chánh pháp kéo dài 500 năm và Tượng pháp kéo dài 1.000 năm. Khoảng thời gian ‘tạo lập chùa tháp’ trở đi là thuộc thời kỳ Mạt pháp. Thế nên, trong Kim Cương Bát Nhă Luận Hội Thích, ngài Đại Thừa Cơ viết: ‘Chánh pháp năm trăm năm, Tượng pháp một ngàn năm. Sau 1.500 năm này, chánh pháp diệt tận.’ Nên biết, thời kỳ sau đó là thuộc về Mạt pháp. Hỏi: Nếu đúng như vậy, chính xác đời nay thuộc về thời kỳ nào? Đáp: Có nhiều thuyết liên quan đến niên đại sau Phật nhập diệt, hăy nêu ra hai thuyết: Đầu tiên, Pháp sư Pháp Thượng và những người khác, dựa trên Chu Thư Dị Kư , nói rằng: ‘Đức Phật nhập diệt vào năm thứ 53 (Nhâm Thân, 949 TCN) đời Mục Vương Măn, vị vua thứ năm của triều đại Chu.’ Nếu chấp nhận lư thuyết này, th́ từ năm Nhâm Thân đến năm Diên Lịch 20 (Tân Tỵ, 801) của chúng ta là 1.750 năm. Thứ hai, Phí Trường Pḥng và những người khác, dựa vào Kinh Xuân Thu , biên niên sử của nước Lỗ, nói: ‘Đức Phật nhập diệt vào năm thứ tư (Nhâm Tư, 609 TCN) đời vua Khuông Vương Ban , vị vua thứ 20 của nhà Chu.’ Nếu chấp nhận lư thuyết này, th́ từ năm Nhâm Tư đến năm Diên Lịch 20 (Tân Tỵ, 801) của chúng ta là 1.410 năm. Như vậy, thời nay là giai đoạn cuối của thời kỳ Tượng pháp, và hành sự của giai đoạn ấy đă giống Mạt pháp. Trong thời kỳ Mạt pháp, chỉ có ngôn giáo mà không có thực hành và chứng ngộ. Nếu có giới pháp th́ có thể có phá giới. Nhưng đă không có giới pháp, do phá giới ǵ mà nói là phá giới? Phá giới c̣n không có, huống hồ là tŕ giới! V́ thế Kinh Đại Tập nói: ‘Sau khi Phật Niết-bàn, Tỳ kheo vô giới đầy cả Nam Thiệm Bộ châu, v.v.’ Hỏi: Trong các kinh và luật, chế định người phá giới không được phép nhập chúng. Ngay cả người phá giới đă vậy, huống chi người vô giới. Nhưng bây giờ bàn thêm ‘Mạt pháp th́ vô giới’, há không có vết thương mà tự cảm thấy đau sao? Đáp: Lư lẽ này không đúng. Hành sự [của Tỳ kheo] trong thời kỳ Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt Pháp được ghi trong nhiều kinh điển. Ai ở thời kỳ đó - dù là nội giáo hay ngoại đạo, dù là tu sĩ hay cư sĩ - mà chưa đọc nó? Há có lối sống sai lầm, tham cầu cho tự thân mà che giấu chánh pháp của sự hộ tŕ quốc độ ? Tuy nhiên, trong thời kỳ Mạt pháp mà chúng ta đang bàn ở đây, chỉ có Danh tự Tỳ kheo . Những Danh tự Tỳ kheo là chân bảo của thế gian, là đại phước điền . Trong thời mạt pháp, nếu có người tŕ giới, th́ đó là sự quái dị, giống như ‘con hổ giữa chợ’. Ai sẽ tin vào điều này? Hỏi: Những sự thể của thời kỳ Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp đă được thấy trong các kinh điển. Tuy nhiên, ‘Danh tự Tỳ kheo của thời kỳ Mạt pháp là chân bảo của thế gian’ có phải xuất từ Thánh điển? Đáp: Kinh Đại Tập [Nguyệt Tạng], quyển 9, có ghi: ‘Ví như vàng ṛng là báu vô giá. Nếu không có vàng ṛng th́ bạc là báu vô giá. Như không có bạc th́ đồng thau là báu vô giá. Nếu không có đồng thau th́ đồ báu giả tạo là vô giá. Nếu không có đồ báu giả tạo th́ các thứ đồng đỏ, kẽm, bạch lạp , ch́, thiếc là những báu vô giá. Cũng như thế, so với hết thảy mọi vật trong thế gian, th́ Phật bảo là vô thượng. Như không có Phật bảo th́ bậc Duyên giác là vô thượng. Nếu không có Duyên giác th́ bậc A-la-hán là vô thượng. Như không có A-la-hán th́ Hiền thánh chúng khác là vô thượng. Nếu không có Hiền thánh chúng th́ phàm phu đắc định là vô thượng. Nếu không có đắc định th́ người tŕ giới thanh tịnh là vô thượng. Nếu không có tŕ giới thanh tịnh th́ Tỳ kheo tŕ giới nhiễm ô là vô thượng. Nếu không có tŕ giới nhiễm ô th́ Tỳ kheo trên danh tự, cạo bỏ râu tóc, thân mặc cà sa là vô thượng; nếu so với 95 thứ ngoại đạo th́ là bậc nhất, nên xứng đáng nhận sự cúng dường của thế gian để làm phước điền cho họ. V́ sao? V́ họ có thể chỉ rơ cho chúng sinh về những điều đáng kinh sợ. Nếu có sự hộ tŕ, nuôi dưỡng, an trí họ, th́ những thí chủ ấy chẳng bao lâu được trú nơi nhẫn địa.’ Trong đoạn này nói đến tám loại báu vô giá: Như Lai, Duyên giác, Thanh văn (A-la-hán) và ba quả đầu (Tu-đàn-hoàn, Tư-đàm-hàm, A-na-hàm); phàm phu đắc định, Tỳ kheo tŕ giới, Tỳ kheo phá giới, và Tỳ kheo danh tự vô giới. Đây là những báu vật vô giá của các thời kỳ Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp. Bốn báu đầu tiên thuộc về thời kỳ Chánh pháp, ba báu tiếp theo thuộc về thời kỳ Tượng pháp, và báu cuối cùng thuộc về thời kỳ Mạt pháp. Do đây biết rơ, người phá giới và người vô giới đều là chân bảo của thế gian. Hỏi: Đọc đoạn kinh trên, thấy Phá giới Tỳ kheo và Danh tự Tỳ kheo đều là chân bảo. V́ sao trong Kinh Niết Bàn và Kinh Đại Tập lại nói, ‘Nếu quốc vương và đại thần cúng dường Tỳ kheo phá giới, th́ đất nước khởi lên tam tai , cuối cùng vị ấy bị sinh vào địa ngục.’ Người phá giới đă vậy, huống chi người vô giới. Như vậy, đối với một vị Tỳ kheo phá giới, Như Lai có lúc chê bai, có lúc khen ngợi, trong lời nói của Phật có cái lỗi nhận định trái ngược hay không? Đáp: Lư ấy không đúng. Trong kinh Niết Bàn và các kinh khác, chỉ chế định phá giới trong thời kỳ Chánh pháp, chứ không nói đến các Tỳ kheo thời kỳ Tượng pháp và Mạt pháp. Mặc dù các học xứ là như nhau, nhưng đôi khi có khác, tùy thời mà chế định và khai hứa. Đây là ư định của Đại Thánh. Nơi Đức Phật Thế Tôn, không có lỗi của hai nhận định trái ngược. Hỏi: Nếu quả như vậy th́ làm sao biết kinh Niết Bàn và các kinh khác ngăn cấm phá giới trong thời kỳ Chánh pháp và nó không áp dụng cho Tỳ kheo thời kỳ Tượng pháp và Mạt pháp? Đáp: Như đă dẫn tám thứ chân bảo được dạy trong Kinh Đại Tập, th́ đây là bằng chứng. V́ tùy theo thời đại, tất cả Tỳ kheo đều được coi là vô giá. Tuy nhiên, Tỳ kheo nào phá giới trong thời kỳ Chánh pháp, làm ô uế Tăng đoàn thanh tịnh, th́ Phật nghiêm cấm không cho nhập chúng. Thế nên, trong kinh Niết Bàn, quyển ba, có nói: ‘Nay Như Lai đem chánh pháp vô thượng phó chúc cho các quốc vương, đại thần, tể tướng, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Các quốc vương và bốn bộ chúng nên khuyên răn, khích lệ những người tu học khiến được tăng trưởng giới – định – tuệ. Nếu có người không học ba phẩm pháp này mà lười biếng, phá giới, hủy hoại chánh pháp, th́ quốc vương, đại thần, bốn bộ chúng nên trừng trị nghiêm khắc. Như vậy, các quốc vương, đại thần, v.v. được vô lượng công đức. (…) [Tỳ kheo giữ ǵn giới pháp cũng vậy, thấy có người phá giới, hủy hoại chánh pháp liền quở trách, cử tội, đuổi đi. Có Tỳ kheo tŕ giới thấy người phá hoại chánh pháp nếu bỏ qua không khiển trách, cử tội, đưởi đi, th́ nên biết Tỳ kheo ấy là giặc trong pháp Phật; nếu khiển trách, cử tội, đuổi đi, th́ Tỳ kheo ấy] là đệ tử Thanh văn chân thật của Ta. Nên biết, người ấy được phước vô lượng.’ [Lại nữa, Kinh Đại Tập, quyển 28 nói: ‘Nếu có quốc vương thấy chánh pháp bị diệt mà không bảo hộ th́ tất cả thiện căn tu tập thí, giới, tuệ trong vô số kiếp đều sẽ bị mất. Nước ấy sẽ gặp tam tai, tất cả thiện thần bỏ đi nơi khác, dân chúng không tuân theo lời vua, các nước láng giềng thường xâm phạm, lửa dữ nổi lên, mưa băo, lũ lụt cuốn trôi dân chúng, hoàng thân quốc thích mưu toan chiếm đoạt, không bao lâu nhà vua bị bệnh nặng, sau khi chết bị đọa vào địa ngục.’ Đồng kinh ấy, quyển 31, nói: ‘Đức Phật dạy: Đại vương bảo hộ một vị Tỳ kheo như pháp tu hành, không bảo hộ vô lượng các Tỳ kheo xấu ác. Ta nay chỉ cho phép hai hạng người thủ hộ [vật của chúng Tăng]: Tỳ kheo A-la-hán đủ tám giải thoát và người đắc quả Tu-đà-hoàn.’] Những lời văn chế định như vậy xuất hiện ở nhiều nơi trong kinh điển. Rơ ràng những lời văn chế định ấy đều chỉ cho thời kỳ Chánh pháp, không phải là những lời dạy cho thời kỳ Tượng pháp và Mạt pháp. Sở dĩ nói vậy là v́ chánh pháp không được thực hành trong thời kỳ Tượng pháp và Mạt pháp. Không có pháp nào để hủy hoại, sao gọi là hủy pháp; không có giới nào bị phá vỡ, sao gọi là phá giới? Hơn nữa, trong thời kỳ như vậy, không có sự thực hành chánh pháp nào để một đại vương bảo hộ. Do đâu có ra tam tai và do đâu đánh mất giới - tuệ? Lại nữa, trong thời kỳ Tượng pháp và Mạt pháp, không có ai chứng quả. Tại sao nói chỉ cho phép hai bậc Thánh thủ hộ? Nên biết, những lời dạy trong các đoạn kinh trên đều đề cập đến thời kỳ Chánh pháp, khi giới luật được tuân giữ, v́ chỉ khi đó mới có thể phạm giới. Tiếp theo, liên quan đến 1.000 năm của thời kỳ Tượng pháp, trong 500 năm đầu tiên, tŕ giới dần giảm và phá giới dần tăng. Mặc dù các giới được tuân giữ và các hành được thực hiện, nhưng không có sự chứng quả. Do đó, kinh Niết Bàn, quyển bảy, nói rằng: ‘Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Như Phật đă nói có bốn thứ ma. Những điều ma thuyết và những ǵ Phật thuyết, con làm thế nào mà phân biệt được? Có những chúng sinh chạy theo ma hạnh và có những chúng sinh thuận theo lời Phật, những người như vậy làm sao biết được? Đức Phật bảo Ca-diếp: Bảy trăm năm sau khi Ta nhập niết bàn, ma Ba-tuần sẽ dần mạnh lên và sẽ không ngừng hành động để phá hoại chánh pháp của Ta. Ví như một người thợ săn mặc áo nhà sư, ma Ba-tuần cũng như vậy. Khi mang h́nh tướng Tỳ kheo, h́nh tướng Tỳ kheo ni, h́nh tướng Ưu-bà- tắc, Ưu-bà-di, đại loại như vậy (…), [ma sẽ nói:] Các Tỳ kheo được phép nhận giữ của cải, tôi tớ, ḅ, cừu, voi, ngựa, kể cả ấm vạc đồng sắt, chậu đồng lớn nhỏ và các đồ dùng sinh hoạt; họ có thể làm ruộng trồng trọt, mua bán đổi chác, tích trữ lúa gạo. V́ ḷng đại bi, thương xót chúng sinh, Đức Phật cho phép họ tham gia những hoạt động như vậy. Tất cả các kinh và luật như vậy đều là ma thuyết.’ Đă nói, ‘Bảy trăm năm sau khi Ta nhập niết bàn, ma Ba-tuần sẽ dần mạnh lên’, cho nên biết rằng, lúc bấy giờ các Tỳ kheo sẽ dần tham chứa tám vật bất tịnh . Việc tạo ra những giáo thuyết sai lầm là công việc của ma vương. Trong những kinh này chỉ rơ niên đại, nói đủ hành sự [của các Tỳ kheo], không nên nghi ngờ. Tôi đă nêu một đoạn văn, người khác theo đó mà biết. Kế đến, trong nửa sau của thời kỳ Tượng pháp, việc tŕ giới sẽ giảm ít và việc phá giới sẽ tăng nhiều. Do đó, trong kinh Niết Bàn, quyển sáu, có nói rằng: ‘….’ Lại nữa, Kinh Thập Luân nói: ‘Nếu theo pháp Ta xuất gia mà tạo tác ác hành. [Tỳ kheo như vậy là mù tối không thấy.] Đây không phải sa-môn mà tự xưng sa-môn, không phải phạm hạnh mà tự xưng phạm hạnh. Tỳ kheo tu hành ác pháp như thế c̣n có thể khai thị giáo hóa cho tất cả Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đều được tất cả kho tàng công đức thiện pháp, v́ chúng sinh mà làm thiện tri thức. Tuy không có ‘ít muốn biết đủ’, nhưng cạo bỏ râu tóc, đắp mặc pháp phục, do nhân duyên này họ có thể làm cho chúng sinh tăng trưởng thiện căn, và có thể khai thị thiện đạo cho chư thiên và loài người. [Cho nên Tỳ kheo theo Ta xuất gia, nếu tŕ giới hay phá giới, Ta đều không cho phép Chuyển luân Thánh vương, đại thần, tể tướng dùng h́nh phạt giam cầm, cắt bỏ tay chân, cho đến đoạn mạng.] Huống nữa là Tỳ kheo phá giới, tuy là người chết nhưng vẫn c̣n cái lực của giới. Giống như ngưu hoàng , con ḅ đă chết nhưng người ta thu giữ nó. Cũng như xạ hương , con cầy hương đă chết vẫn hữu dụng.’ Như chúng ta thấy, [trong kinh Niết Bàn] có nói, ‘Trong rừng Ca-la-ca, có một loại cây tên là Trấn-đầu-ca’ . Ví dụ này cho thấy thời kỳ Tượng pháp đă suy tàn, và ‘phá giới trược thế’ chỉ có một hai Tỳ kheo tŕ giới. Lại nói: ‘ Tỳ kheo phá giới, tuy là người chết nhưng vẫn c̣n cái lực của giới, giống như xạ hương , con cầy hương đă chết vẫn hữu dụng. Vị ấy làm bậc thiện tri thức của chúng sinh.’ Chúng ta biết rơ rằng, trong thời kỳ này, dần cho phép [Tỳ kheo] phá giới [vẫn] là ruộng phước cho thế gian. Điều này giống đoạn kinh Đại Tập ở trên. Tiếp theo, sau khi kết thúc thời kỳ Tượng pháp, hoàn toàn là vô giới. Thấy biết thời vận, v́ muốn cứu chúng sinh Mạt thế, Đức Phật ca ngợi những người xuất gia trên danh tự, tuyên bố họ là ruộng phước cho thế gian. Kinh Đại Tập, quyển 52, có nói: ‘Nếu mạt thế sau này, trong chánh pháp của Ta, người nào cạo bỏ râu tóc, thân mặc cà sa, nhưng hủy phá cấm giới, hành không như pháp, th́ chỉ là Tỳ kheo danh tự. Tỳ kheo danh tự phá giới như thế, nếu có người đàn-việt xả thí cúng dường, hộ tŕ nuôi dưỡng, Ta nói người ấy có được vô lượng a-tăng-kỳ đại phước đức.’ Lại nữa, Kinh Hiền Ngu nói: ‘Mạt thế tương lai, khi pháp sắp diệt tận, Tỳ kheo nuôi vợ giấu con, nhưng bốn người trở lên là chúng Tăng danh tự, nên phải lễ kính, xem như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, v.v.’ Lại nói: ‘Nếu đánh chửi người phá giới, vô giới, thân mặc cà sa cạo tóc, th́ tội đồng với tội làm thân muôn ức Đức Phật chảy máu.’ ‘Nếu có chúng sinh theo pháp Ta mà xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, giả như không tŕ giới, th́ những người ấy đă thực hiện xong sự ấn chứng cho Niết-bàn ấn.’ Cho đến Kinh Đại Bi nói: ‘Trong đời vị lai, khi giáo pháp sắp diệt tận, sẽ có các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, sau khi xuất gia trong giáo pháp của Ta, nắm tay trẻ nít cùng nhau rong chơi, từ quán rượu này đến quán rượu khác, sống trong giáo pháp của Ta mà làm việc phi phạm hạnh. Tuy họ sống với nhân duyên rượu, nhưng ở Hiền kiếp này, tất cả đều sẽ đắc Bát Niết-bàn. (...) Ở trong kiếp này sẽ có một ngàn Đức Phật ra đời, v́ nhân duyên ấy mà kiếp này được gọi là Hiền kiếp. Này A-nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trong Hiền kiếp này, sẽ c̣n 996 Đức Phật ra đời: đầu tiên là Đức Phật Câu Lưu Tôn, thứ tư là Ta, sau đó là Di Lặc sẽ thay Ta, cho đến cuối cùng là Lô Chí Như Lai. Thứ tự như thế, ông nên biết. Này A-nan! Ở trong giáo pháp của Ta, giả sử có người tánh là sa-môn mà làm ô nhiễm hạnh sa-môn, tự xưng là sa-môn v́ có h́nh tướng giống sa-môn, mặc áo cà sa. Trong Hiền kiếp này, kể từ Di Lặc đứng đầu cho đến cuối cùng là Lô Chí Như Lai, những vị sa-môn ở chỗ của các Đức Phật như vậy, đều an trú cảnh giới Vô dư Niết-bàn, tuần tự sẽ đắc nhập Bát Niết-bàn, không sót một ai. V́ sao? Này A-nan! Tất cả những vị sa-môn ấy đă có một lần xưng danh hiệu Phật, một đời sinh tín tâm, những công đức đă tạo đó không bao giờ hư mất. Này A-nan! Như Lai dùng Phật trí quán sát pháp giới, không có điều ǵ mà không biết.’ Tất cả những kinh này đều chỉ rơ niên đại, cho rằng những Tỳ kheo trên danh tự ở đời Mạt pháp tương lai đều là những vị thầy đáng được tôn trọng. Nếu đem văn bản chế định của thời kỳ Chánh pháp mà chế định cho Tăng sĩ trên danh tự của thời kỳ Mạt pháp, th́ giáo lư và căn cơ sẽ rơi vào thế đối lập; con người và giáo pháp sẽ không c̣n phù hợp nữa. Theo đó, Tứ Phần Luật nêu rơ: ‘Phi chế lại chế, đă chế th́ đoạn tam minh . [Thế Tôn] đă kư thuyết việc này là có tội.” Trên đây đă trích dẫn các kinh văn phân phối theo các thời kỳ giáo pháp đă xong. Sau cùng, tôi sẽ nêu giáo pháp để so sánh. Mạt pháp là như thế [trong bản chất] th́ chánh pháp [đương nhiên] hủy hoại. Do đó, ba nghiệp thân miệng ư không thể được điều chỉnh, bốn uy nghi đi đứng ngồi nằm đều bị vi phạm. Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói: [‘Bấy giờ người đạo kẻ tục tuy xây chùa cất tháp, cúng dường Tam Bảo, nhưng không sinh tâm kính trọng. Thỉnh Tăng đến ở chùa, nhưng không cúng dường cơm nuớc, y phục, đồ nằm, thuốc thang, trái lại mượn cớ lấy xin đồ ăn của Tăng, không sợ một mai rớt vào ba đuờng khổ. Bấy giờ, hết thảy người tục, bất luận sang hèn, chỉ muốn trong chúng Tăng làm điều bất lợi, xâm tổn năo loạn. Bọn người như thế măi đọa trong tam đồ.’] Di Giáo Pháp Luật nói: [‘Nếu người xuất gia sử dụng ngựa xe một ngày th́ trừ bớt 500 ngày trai; một năm có 360 ngày sử dụng, tính ra trừ bớt 18 vạn ngày trai. Xá-lợi-phất thưa hỏi Đức Phật: V́ sao Tỳ kheo sử dụng ngựa xe một ngày mà trừ bớt năm trăm ngày trai? Đức Phật dạy: Tỳ kheo là người biết rơ luật cấm, người khác trông thấy sinh tâm bài báng, khiến cho người ta mang tội, trừ người già yếu bệnh tật tạm thời sử dụng th́ không phạm.’ ] Kinh Tỳ Kheo Ứng Cúng Pháp Hành nói: [‘Đệ tử của Ta nếu thọ thỉnh riêng biệt, th́ người ấy nhất định mất Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, Tứ quả, không gọi là Tỳ kheo. Người ấy không được đi trên đất của quốc vương, uống nước của quốc vương. Có năm trăm đại quỷ thường án trước mặt người ấy mà bảo với nhau rằng, đó là Tỳ kheo bảy kiếp không gặp Phật, Phật không trao tay, không được thọ nhận tài vật của thí chủ. Năm ngàn đại quỷ đi sau người ấy mắng rằng, đó là tên giặc lớn của Phật pháp.’] Kinh Lộc Tử Mẫu nói: [‘Biệt thỉnh năm trăm A-la-hán, cũng không được gọi phước điền. Nếu cúng thí cho một Tỳ kheo tương tợ xấu ác được vô lượng phước.’] Kinh Nhân Vương nói: [‘Này đại vương! Trong đời vị lai, quốc vương, thái tử, vương tử, bốn bộ đệ tử, hành xử ngang ngược với đệ tử Phật, chế ra cấm giới như pháp bạch y, như pháp binh nô. Nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni ghi tên làm sứ giả cho quan lại, th́ đều chẳng phải đệ tử của Ta, v́ đó là pháp binh nô. Lập thống quan để quản lư Tăng chúng, coi xét Tăng tịch; các Tăng sĩ lớn nhỏ bị ràng buộc với nhau, như pháp ngục tù, như pháp binh nô, nên biết khi ấy Phật pháp không c̣n bao lâu, sẽ bị hoại diệt.’] ”
(81) Ở đây, dựa trên Tu-đa-la, xem xét và xác định những chân giả [liên quan đến Thánh đạo và Tịnh độ], cũng như những giáo huấn tà ngụy, dị chấp của ngoại giáo.
(82) Kinh Niết Bàn nói: “Người quy y nơi Phật [Thật gọi Ưu-bà-tắc] Không bao giờ quy y Những thiên thần nào khác.”
(83) Kinh Bát Chu Tam Muội nói: “Nếu Ưu-bà-di nghe Tam-muội này mà muốn tu học, th́ phải giữ năm giới, tự quy nơi ba [ngôi báu]. Những ǵ là ba? Tự quy mạng Phật, quy mạng Pháp, quy mạng Tỳ kheo Tăng, không được thờ ngoại đạo, không được bái chư Thiên, không được cúng quỷ thần, không được coi ngày tốt xấu, [không được đùa bỡn, không được buông lung có sắc tưởng, không được có tâm tham dục, phải luôn nhớ bố thí, ưa thích muốn nghe kinh, gắng sức học hỏi, kính trọng bậc thiện sư, tâm luôn chuyên chú, không được lười biếng, nếu có vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đến phải cung kính mời ngồi, cúng dường thực phẩm.]”
(84) Lại nói: “Ưu-bà-di muốn học Tam-muội Kính giữ năm giới chớ sai phạm Phụng sự thiện sư xem như Phật Không được bái thiên, thờ cúng thần.”
(85) Kinh Đại Thừa Đại Phương Đẳng Nhật Tạng, quyển 8, phẩm Quỷ Vương Ba-tuần Tinh Tú, phần 2 trong 8, nói: “Bấy giờ, Khư-lô-sắt-tra bảo chư thiên: – Mỗi tháng đều có một chủ đương, các vị làm sao cứu giúp bốn loại chúng sinh. Những ǵ là bốn? Loài trên mặt đất: loài người, các loài rồng, dạ-xoa, và xa hơn nữa là ḅ cạp. Tất cả những chúng sinh như vậy sẽ được cứu mà không có ngoại lệ. Để mang lại an lạc cho tất cả chúng sinh, tôi đă bố trí các ngôi sao trong cḥm sao của chúng. Mỗi trong số này có sự phân chia không gian và thời gian riêng, cho đến phút , giờ. Tôi sẽ giải thích từng chi tiết. Tùy theo quốc độ và hướng đi của các cḥm sao mà những sự nghiệp tạo tác cũng theo đó tăng trưởng. Khư-lô-sắt-tra đối trước đại chúng chắp tay nói rằng: – “Tôi đă đặt mặt trời và mặt trăng, các mùa hàng năm và các thiên thể lớn và nhỏ vào đúng vị trí của chúng. Sáu mùa là ǵ? Tháng Giêng và tháng Hai là thời gian ấm áp. Tháng Ba và tháng Tư là thời điểm gieo hạt. Tháng Năm và tháng Sáu là thời điểm mưa. Tháng Bảy và tháng Tám là thời điểm chín muồi. Tháng Chín và tháng Mười là thời gian lạnh giá. Tháng Mười một và tháng Chạp là thời điểm tuyết rơi nhiều. Do đó, mười hai tháng được chia thành sáu mùa. Hơn nữa, có đại tinh tú, trong đó có tám ngôi sao chính, đó là: sao Mộc, sao Hỏa, sao Thổ, sao Kim, sao Thủy, mặt trời, mặt trăng và sao Hà-la-hầu. Ngoài ra, có 28 tiểu tinh tú: các cḥm sao trải dài từ cḥm sao Măo đến cḥm sao Vị. Tôi đă sắp xếp chúng theo thứ tự như vậy và đă giải thích quy luật về vị trí của chúng. Tất cả chư vị hăy nh́n và lắng nghe! Tất cả đại chúng, những suy nghĩ của chư vị là ǵ? Các phương pháp mà tôi xếp đặt chúng có đúng không? Các hoạt động và sự vận hành của 28 cḥm sao và 8 ngôi sao có làm chư vị thích thú hay không? Những người nói là đúng và những người nói là sai, mỗi người đều tuyên bố quan điểm của ḿnh. Bấy giờ, tất cả trời, người, tiên nhân, A-tu-la, rồng và Khẩn-na-la đều chắp tay, bày tỏ cảm xúc: – Như nay Đại tiên là bậc tối tôn trọng trong chư thiên và loài người, cho dù các rồng, A-tu-la cũng không ai hơn được, là bậc có trí tuệ từ bi đệ nhất, trải qua vô lượng kiếp không quên thương xót tất cả chúng sinh nên có được phước báo, thệ nguyện tṛn đầy, công đức như biển, biết rơ tất cả sự việc ở quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong trời người không ai có trí tuệ như vậy. Những quy luật và sự vận hành của ngày và đêm, của sát-na và giờ, của các ngôi sao lớn và nhỏ, của trăng tṛn khuyết và chu kỳ của năm. Tất cả chúng tôi đều thích thú với điều này và t́m thấy sự an lạc trong đó. Lành thay, Đại đức! đă tạo sự an ổn cho chúng sinh. Khi ấy, tiên nhân Khư-lô-sắt-tra nói thêm rằng: – Những phương tiện như chu kỳ của một năm bao gồm mười hai tháng, và quy luật chi phối các v́ sao chính và phụ, cũng như sát-na và giờ, tất cả đều đă được giải thích rồi. Lại nữa, an trí bốn vị Thiên đại vương ở bốn mặt của núi Tu-di, mỗi mặt có một đại vương cai quản chúng sinh ở phương đó. Thiên vương Tỳ-sa-môn ở phương Bắc, trong cơi này có rất nhiều Dạ-xoa. Thiên vương Tỳ-lưu-trà-câu ở phương Nam, trong cơi này có rất nhiều Cưu-bàn-trà. Thiên vương Tỳ-lưu-bác-xoa ở phương Tây, trong cơi này có rất nhiều loài rồng. Thiên vương Đề-đầu-lệ-trá ở phương Đông, trong cơi này có rất nhiều Càn-thát-bà. Ở bốn phương và bốn góc thảy đều ủng hộ những vị Thiên vương này. Tất cả ḥn đảo và thành ấp cũng an trí các quỷ thần thủ hộ. Khi tiên nhân Khư-lô-sắt-tra nói pháp xong, chư thiên, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân, v.v., tất cả đại chúng đều xưng ‘Lành thay’, hoan hỷ vô lượng. Lúc ấy, trời, rồng, dạ-xoa, A-tu-la, v.v., ngày đêm cúng dường cho Khư-lô-sắt-tra. Về sau qua vô lượng đời, có một tiên nhân tên là Già-lực-già xuất hiện ở đời, một lần nữa giảng dạy các định luật chi phối các tinh tú, tháng đủ, tháng thiếu, và những điều cơ bản về thời tiết. Bấy giờ, có tiên nhân Quang Vị đă thuyết giảng những điều trên. Các long vương ở núi Khư-lô-để, trú xứ của Thánh nhân, tôn trọng cung kính tiên nhân Quang Vị, dốc hết tâm lực của loài rồng mà cúng dường.”
(86) Kinh Đại Thừa Đại Phương Đẳng Nhật Tạng, quyển 9, phẩm Niệm Phật Tam-muội, thứ 10, nói: “Bấy giờ, tất cả các loài rồng đều tin lời Bồ-tát Quang Vị, chí tâm quy y Phật, Pháp, Tăng. Thấy vậy, ma Ba-tuần càng khổ sầu, tức giận, bức tóc, nói kệ. (…) Nói kệ xong, trong chúng của ma Ba-tuần, có một ma nữ tên là Lư Ám, từng gieo trồng các đức bản ở quá khứ, nói lời rằng: – Sa-môn Cù-đàm là bậc phước đức, có tiếng tăm lớn. Chúng sinh nào nghe danh hiệu Phật, nhất tâm quy y, th́ tất cả các ma đối với chúng sinh ấy không thể làm hại. Huống nữa là chúng sinh được gặp Phật, nghe Pháp, thấy Tăng, được các thứ ‘phương tiện tuệ giải’ rộng sâu. Phụ vương nay muốn sinh khởi ác tâm đối với Phật và người học Phật đạo nhưng trọn không thể được. Ma vương nói: – Sa-môn Cù-đàm hiểu thấu chân như, trí tuệ rộng lớn, ở trong pháp Không thâm nhập kiên cố, tự đă độ thoát biển lớn sinh tử. Ma nữ thưa: – Như cha vừa nói, ‘Nếu người ở trong pháp Không mà ngộ nhập thực tế, th́ dù trong chốc lát, ngàn vạn ức tất cả ma quân trọn không thể làm hại’. Hiện nay Như Lai khai mở con đường Niết-bàn, con muốn đến đó quy y nơi Phật. Liền v́ cha mà nói kệ: Bậc thắng loài người ly tướng chấp Như như thường trú tôn trong trời Đạt bờ giác, thành tŕ trí tuệ Con nay muốn đến quy y Phật. Tu học ba đời các Phật pháp Độ thoát tất cả khổ chúng sinh Khéo nơi các pháp được tự tại Tương lai nguyện con sẽ như Phật. Bấy giờ, Ly Ám nói kệ ấy rồi, trong vương cung của cha, có năm trăm ma nữ chị em quyến thuộc, tất cả đều phát tâm Bồ-đề. Lúc đó, ma vương thấy năm trăm ma nữ ở trong cung của ông đều quy y Phật, phát tâm Bồ-đề, khiến ông càng sầu khổ, tức giận, lo sợ. (…) Vào lúc đó, năm trăm ma nữ v́ ma Ba-tuần mà nói kệ: Có chúng sinh nào quy y Phật Không hề lo sợ trước ngàn ma Huống ǵ muốn thoát ḍng sinh tử Đến được bờ Niết-bàn vô vi. Những ai đem dâng một hương hoa Nắm rải Tam bảo Phật Pháp Tăng Huống nữa người quyết cầu làm Phật. Phát tâm kiên cố và dũng mănh Tất cả chúng ma không thể hoại Những ai tinh thành giữ một giới Lại c̣n chí tâm đến bên Phật Nghe nhận một câu pháp vi diệu. (…) Chúng con quá khứ vô lượng ác Tất cả đều diệt không c̣n sót Chí thành chuyên tâm quy y Phật rồi Quyết được Chánh đẳng Bồ-đề quả. Ma vương nghe các ma nữ nói kệ, lại càng tức giận, sợ hăi, khổ sở, tiều tụy, ưu sầu, ngồi một ḿnh trong cung. Lúc ấy, đại Bồ-tát Quang Vị nghe Phật thuyết pháp, tất cả chúng sinh đang ở trước Phật ĺa hết phan duyên, được bốn Phạm hạnh, từ hư không xuống đến chỗ Phật. Bồ-tát Quang Vị cùng đại chúng của Ngài đến nơi, lạy Phật, đi quanh chỗ Phật ba ṿng, lui đứng một bên. (…) [Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Bồ-tát Quang Vị: – Thiện nam tử, lắng nghe, lắng nghe! Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc nam nữ có tín tâm, muốn ở Tam thừa và trong đạo khác, nguyện mau chứng đắc Niết-bàn, hết tất cả khổ; muốn mọi điều nghe được nắm giữ nơi tâm, tất cả thân khẩu ư nghiệp thanh tịnh; muốn hộ tŕ Phật pháp, muốn cầu các thứ lợi ích, được đầy đủ các thức ăn mặc; tự tại, thù thắng, đoan chánh, đại lực; quyến thuộc đông nhiều, đất nước an b́nh giàu mạnh, chức vị cao được người tôn kính, thông minh trí tuệ tối tôn tối thắng, đủ bốn oai nghi, thích tu thí, giới và tọa thiền; có được các Tam-muội, kể cả tất cả Tam-muội của trời Hữu đảnh của cơi Vô sắc; lại cũng ưa thích bốn hạnh Phạm thiên và ưa thích người tu đà-la-ni, th́ mong được các thứ chúng sự như vậy. Nhưng ác nghiệp của người ấy kiên cố, nặng nề, các nghiệp chướng ngại, phiền năo chướng ngại, cho đến muốn sinh cơi Phật thanh tịnh, th́ những chướng ngại không phát sinh. Bởi nếu có những chướng ngại như vậy th́ các thứ thiện nguyện không được xứng ư vừa ḷng. Muốn cho các thứ ác nghiệp mau chóng diệt tận, th́ chúng sinh này nên] tắm gội sạch sẽ, ăn mặc tươm tất, trường trai chay tịnh, chớ ăn cay hôi, nơi tịch tịnh xứ trang nghiêm đạo tràng, chánh niệm kiết già, kinh hành hoặc thiền tọa, nhớ nghĩ thân tướng Phật không cho loạn tâm, cũng không phan duyên nghĩ việc nào khác; hoặc một ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, không tác nghiệp ǵ khác, chí tâm niệm Phật, cho đến thấy Phật, niệm nhỏ thấy Phật nhỏ, niệm lớn thấy Phật lớn , cho đến vô lượng niệm th́ thấy sắc thân Phật vô lượng vô biên. [Sắc thân Phật ấy có ba mươi hai tướng, ở mỗi một tướng, vừa niệm vừa quán đều phải rơ ràng. Theo tướng được thấy mà thấy ánh sáng xanh, và ở trong tướng sáng ấy, chuyên tinh buộc niệm, không cho tâm loạn.]”
(87) Kinh Nhật Tạng, quyển 10, phẩm Hộ Tháp thứ 13 nói: “Ma Ba-tuần cùng quyến thuộc tám mươi ức chúng đi đến chỗ Phật, vây quanh trước sau, đến rồi, chạm chân đảnh lễ Đức Thế Tôn, nói kệ như vầy: Phật Lưỡng Túc Tôn thắng trong đời Tự được tịch diệt và dạy người Nhẫn nhục, tinh tiến, thương chúng sinh Chúng con ngu si khởi ác ư. Không biết các nghiệp hành quá khứ Chỉ Phật Thế Tôn biết rơ hết Gồm cả thân tâm và quốc độ Khiến tâm con ĺa những mê hoặc. Chư Phật ba đời đại từ bi Nhận con lễ sám những tai ương Pháp Tăng hai bảo cũng như vậy Chí tâm quy y không ai khác. Hôm nay chúng con xin cúng dường Cung kính tôn trọng Thế Đạo Sư Các ác đoạn tận không sinh nữa Suốt đời quy y pháp Như Lai. Ma Ba-tuần nói kệ này rồi, bạch Phật: – Thế Tôn! Như Lai đối với con và các chúng sinh không hai, tâm thường hoan hỷ, từ bi, nhẫn nại. Phật nói: – Đúng vậy. Bấy giờ, ma Ba-tuần sinh tâm đại hoan hỷ và thanh tịnh, lại ở trước Phật, chạm chân đảnh lễ sát dưới chân cúi lạy nơi chân Phật, nhiễu bên phải ba ṿng, cung kính chắp tay, đứng sang một bên, chiêm ngưỡng Thế Tôn với tâm không chán đủ.”
(88) Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Nguyệt Tạng, quyển 5, phẩm Chư Ác Quỷ Thần Đắc Kính Tín thứ 8, phần thượng, nói: “Này chư nhân giả! Nhân duyên ĺa xa tà kiến th́ có được mười thứ công đức. Những ǵ là mười? 1. Tâm tánh ô nhu, lương thiện; bạn bè hiền lành. 2. Tin tưởng có nghiệp báo, cho dù bị đoạt mạng cũng không khởi điều ác. 3. Quy kính Tam bảo, không tin nơi thiên thần. 4. Luôn có chánh kiến, không chọn sao hạn, ngày tháng, kiết hung. 5. Thường sinh cơi nhân thiên, ĺa xa các đường ác. 6. Có tâm hiền thiện, được người tốt khen ngợi. 7. Vứt bỏ thế tục, thường cầu Thánh đạo. 8. Ĺa thường kiến và đoạn kiến, tin vào pháp nhân duyên. 9. Thường gặp gỡ với người có chánh tín, chánh hành, chánh phát tâm. 10. Được sinh nơi đường thiện. Đem thiện căn ĺa xa tà kiến này hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, người ấy mau chóng viên măn sáu ba-la-mật, ở cơi Phật Thiện Tịnh mà thành Chánh giác. Được Bồ-đề rồi, nơi cơi Phật kia, chúng sinh được trang nghiêm bằng tất cả thiện căn và công đức trí tuệ. Sinh về nước ấy th́ không tin thiên thần, ĺa nỗi sợ rơi vào đường ác, ở nước ấy mạng chung th́ sinh trở lại đường thiện.”
(89) Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Nguyệt Tạng, quyển 6, phẩm Chư Ác Quỷ Thần Đắc Kính Tín thứ 8, phần hạ, nói: “Phật xuất thế rất khó Pháp và Tăng cũng khó Chúng sinh tịnh tín khó Ĺa các nạn cũng khó Thương xót chúng sinh khó Tri túc bậc nhất khó Được nghe chánh pháp khó Năng tu bậc nhất khó Biết được khó, b́nh đẳng Ở đời thường thọ lạc Mười b́nh đẳng xứ này Bậc trí sẽ mau biết. (…) Bấy giờ, Đức Thế Tôn thuyết pháp cho các chúng ác quỷ thần xong, trong chúng ác quỷ thần kia, có một số ác quỷ thần trước đây đă phát khởi niềm tin xác quyết đối với Phật pháp. Tuy nhiên, thời gian sau họ gần gũi với ác tri thức, tâm lư thấy lỗi người khác, do nhân duyên ấy mà được sinh làm ác quỷ thần.”
(90) Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, quyển 6, phần Nguyệt Tạng, phẩm Thiên Vương Hộ Tŕ thứ 9, nói: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn, nhằm chỉ rơ cho thế gian được biết, nên hỏi vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương: – Này Đại phạm Thiên vương! Nơi bốn châu thiên hạ này, ai là người có thể làm được việc hộ tŕ nuôi dưỡng? Vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương thưa: – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Đâu-suất-đà Thiên vương cùng với vô lượng trăm ngàn vị Thiên tử nơi cơi Đâu-suất-đà sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Bắc Uất-đơn-việt. Tha hóa tự tại Thiên vương cùng với vô lượng trăm ngàn vị Thiên tử nơi cơi Tha hóa tự tại sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Đông Phất-bà-đề. Thiên vương Hóa lạc cùng với vô lượng trăm ngàn vị Thiên tử nơi cơi Hóa lạc sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Nam Diêm-phù-đề. Thiên vương Tu-dạ-ma cùng với vô lượng trăm ngàn vị Thiên tử nơi cơi Tu-dạ-ma sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Tây Cù-đà-ni. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Tỳ-sa-môn Thiên vương cùng với vô lượng trăm ngàn Dạ-xoa chúng sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Bắc Uất-đơn-việt. Đề-đầu-lại-tra Thiên vương cùng với vô lượng trăm ngàn Càn-thát-bà chúng sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Đông Phất-bà-đề. Tỳ-lâu-lặc-xoa Thiên vương cùng với vô lượng trăm ngàn Cưu-bàn-trà chúng sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Nam Diêm-phù-đề. Tỳ-lâu-bác-xoa Thiên vương cùng với vô lượng trăm ngàn Long chúng sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Tây Cù-đà-ni. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Thiên tiên thất tú, Tam diệu, [Bắc] tam thiên đồng nữ , sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Bắc Uất-đơn-việt. Thiên tiên thất tú là sao Hư, sao Nguy, sao Thất, sao Bích, sao Khuê, sao Lâu và sao Vị. Tam diệu là Trấn tinh, Tuế tinh và Huỳnh hoặc tinh. Tam thiên đồng nữ là Cưu-bàn, Di-na và Mê-sa. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Trong Thiên tiên thất tú ấy, ba ngôi sao Hư, Nguy và Thất là thổ cảnh của Trấn tinh, và Cưu-bàn là Thần ; hai ngôi sao Bích và Khuê là thổ cảnh của Tuế tinh, và Di-na là Thần; hai ngôi sao Lâu và Vị là Huỳnh hoặc tinh thổ cảnh, và Mê-sa là Thần. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Như vậy là Thiên tiên thất tú, Tam diệu, [Bắc] tam thiên đồng nữ ấy sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Bắc Uất-đơn-việt. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Thiên tiên thất tú, Tam diệu, [Đông] tam thiên đồng nữ sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Đông Phất-bà-đề. Thiên tiên thất tú là sao Măo, sao Tất, sao Tuy, sao Sâm, sao Tỉnh, sao Quỷ và sao Liễu. Tam diệu là sao Thái bạch tinh, Tuế tinh và Nguyệt tinh. Tam thiên đồng nữ là Tỳ-lợi-sa, Di-thâu-na và Yết-ca-trá-ca. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Trong Thiên tiên thất tú ấy, hai ngôi sao Măo và Tất là thổ cảnh của Thái bạch tinh, và Tỳ-lợi-sa là Thần. Ba ngôi sao Tuy, Sâm và Tỉnh là thổ cảnh của Tuế tinh, và Di-thâu-na là Thần. Hai ngôi sao Quỷ và Liễu là thổ cảnh của Nguyệt tinh, và Yết-ca-trá-ca là Thần. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Như vậy là Thiên tiên thất tú, Tam diệu, [Đông] tam thiên đồng nữ ấy sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Đông Phất-bà-đề. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Thiên tiên thất tú, Tam diệu, [Nam] tam thiên đồng nữ sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Nam Diêm-phù-đề. Thiên tiên thất tú là sao Tinh, sao Trương, sao Dực, sao Chẩn, sao Giác, sao Cang và sao Đê. Tam diệu là Nhật tinh, Thần tinh và Thái bạch tinh. Tam thiên đồng nữ là Tỷ-ha, Ca-nhă và Đâu-la. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Trong Thiên tiên thất tú ấy, ba ngôi sao Tinh, Trương và Dực là thổ cảnh của Nhật tinh, và Tỷ-ha là Thần. Hai ngôi sao Chẩn và Giác là thổ cảnh của Thần tinh, và Ca-nhă là Thần. Hai ngôi sao Cang và Đê là thổ cảnh của Thái bạch tinh, và Đâu-la là Thần. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Như vậy là Thiên tiên thất tú, Tam diệu, [Nam] tam thiên đồng nữ ấy sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Nam Diêm-phù-đề. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Thiên tiên thất tú, Tam diệu, [Tây] tam thiên đồng nữ sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Tây Cù-đà-ni. Thiên tiên thất tú là sao Pḥng, sao Tâm, sao Vĩ, sao Cơ, sao Đẩu, sao Ngưu và sao Nữ. Tam diệu là Huỳnh hoặc tinh, Tuế tinh và Trấn tinh. Tam thiên đồng nữ là Tỳ-ly-chi-ca, Đàn-nậu-bà và Ma-già-la. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Trong Thiên tiên thất tú ấy, hai ngôi sao Pḥng và Tâm là thổ cảnh của Huỳnh hoặc tinh, và Tỳ-lợi-chi-ca là Thần. Ba ngôi sao Vĩ, Cơ và Đầu là thổ cảnh của Tuế tinh, và Đàn-nậu-bà là Thần. Hai ngôi sao Ngưu và Nữ là thổ cảnh của Trấn tinh, và Ma-già-la là Thần. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Như vậy là Thiên tiên thất tú, Tam diệu, [Tây] tam thiên đồng nữ ấy sẽ hộ tŕ nuôi dưỡng châu Tây Cù-đà-ni. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Trong bốn châu thiên hạ ấy th́ châu Nam Diêm-phù-đề là thù thắng. V́ sao? V́ con người ở châu ấy dũng mănh, thông tuệ và Phạm hạnh luôn ḥa hợp. Chư Phật Ba-già-bà cũng xuất thế nơi cơi ấy. Do vậy mà bốn vị đại Thiên vương, đối với cơi ấy luôn gia tăng gấp bội sự hộ tŕ nuôi dưỡng. Cơi Diêm-phù-đề có mười sáu nước lớn, đó là: (1) Nước Ương-già Ma-già-đà, nước Bàng-già Ma-già-đà, nước A-bàn-đa, nước Chi-đề. Bốn nước lớn này, Tỳ-sa-môn Thiên vương cùng với chúng Dạ-xoa vây quanh lo việc hộ tŕ nuôi dưỡng. (2) Nước Ca-thi, nước Đô-tát-la, nước Bà-tha, nước Ma-la, bốn nước lớn này, Đề-đầu-lại-trá Thiên vương cùng với chúng Càn-thát-bà vây quanh lo việc hộ tŕ nuôi dưỡng. (3) Nước Cưu-la-bà, nước Tỳ-th́, nước Bát-già-la, nước Sơ-na, bốn nước lớn này, Tỳ-lâu-lặc-xoa Thiên vương cùng với chúng Cưu-bàn-trà vây quanh lo việc hộ tŕ nuôi dưỡng. (4) Nước A-thấp-bà, nước Tô-ma, nước La-tô-trá, nước Cam-măn-xà, bốn nước lớn này, Tỳ-lâu-bác-xoa Thiên vương cùng với Long chúng vây quanh lo việc hộ tŕ nuôi dưỡng. – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Ở quá khứ, Thiên tiên [Khư-lô-sắt-tra] đă hộ tŕ nuôi dưỡng, nên bốn châu thiên hạ đây cũng đều được phân bố đặt để như thế. Về sau này, tùy theo từng quốc độ, với những thành ấp, thôn xóm, chùa tháp, rừng cây, vườn cảnh, g̣ mả, hang núi, đồng rộng, sông suối, ao hồ, cho đến đảo châu báu trong biển, đền thờ các vị thần - các chúng Long, Dạ-xoa, La-sát, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na, đều được sinh ra ở đó, hoặc noăn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh. Họ cư trú ở những nơi đó nhưng không có lănh thổ riêng. Họ chưa nhận được chỉ dẫn từ người khác. V́ vậy, chúng con cầu xin Đức Phật phân bố các vị quỷ thần này, an trí họ khắp cơi Diêm-phù-đề, để họ hộ tŕ những vùng đất này và hộ tŕ tất cả chúng sinh. Chúng con muốn tùy hỷ với họ khi nhận được sự chỉ dạy này.” Đức Phật nói: – Này Đại Phạm! Đúng như chỗ ông đă nêu bày. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ thêm nghĩa trên mà nói kệ rằng: V́ thị hiện thế gian Đạo sư hỏi Phạm vương Nơi bốn thiên hạ này Ai hộ tŕ nuôi dưỡng. Như thế Thiên sư, Phạm Chư Thiên vương đứng đầu Đâu-suất, Tha hóa thiên Hóa lạc, Tu-dạ-ma. Luôn hộ tŕ nuôi dưỡng Như bốn thiên hạ này Tứ vương cùng quyến thuộc Cũng lại thường hộ tŕ. Hai mươi tám tinh tú Và dùng mười hai thần Mười hai Thiên đồng nữ Hộ tŕ bốn thiên hạ. Tùy nơi chốn sinh ra Chúng Rồng, Quỷ, La-sát Chẳng nhận từ tha giáo Trở lại đây hộ tŕ. Chúng Thiên thần sai biệt Xin Phật dạy phân bố V́ thương xót chúng sinh Thắp sáng đèn chánh pháp. Bấy giờ, Đức Phật nói với Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng: – Này Đại sĩ liễu tri thanh tịnh! Ở Hiền kiếp này, lúc đầu thọ mạng của con người là bốn vạn năm. Thời này, Đức Phật Cưu-lưu-tôn xuất hiện thế gian. Đức Như Lai ấy đă v́ vô lượng a-tăng-kỳ, ức na-do-tha, trăm ngàn chúng sinh mà chuyển bánh xe chánh pháp để đưa họ thoát sinh tử luân chuyển, tránh xa đường ác, gần quen đường thiện và đi vào quả giải thoát. Đức Phật Cưu-lưu-tôn đă đem bốn châu thiên hạ này phó chúc cho vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương, cùng các vị Tha hóa tự tại Thiên vương, Hóa lạc Thiên vương, Đâu-suất-đà Thiên vương, Tu-dạ-ma Thiên vương, để họ hộ tŕ, nuôi dưỡng, thương xót đến chúng sinh; làm cho Tam bảo không đoạn tuyệt, luôn được hưng thịnh [ở thế gian]; khiến cho sinh khí của trái đất, sinh lực của chúng sinh và tinh túy của chánh pháp được cửu trụ và tăng trưởng; nhằm giúp các chúng sinh dứt bỏ ba đường ác, hướng về ba đường thiện. Đức Phật Cưu-lưu-tôn đă đem bốn châu thiên hạ này phó chúc cho Đại phạm và chư Thiên vương. Như vậy, kiếp này dần trôi qua đi đến diệt tận; chư Thiên, nhân loại cũng đi đến diệt tận; tất cả thiện nghiệp và bạch pháp đều tận diệt, chỉ c̣n tăng trưởng cái đại ác, ch́m nghập trong phiền năo. Khi thọ mạng của con người c̣n ba vạn năm, Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni xuất hiện thế gian. Đức Phật đó đă đem bốn châu thiên hạ này phó chúc cho vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương, cùng các vị Tha hóa tự tại Thiên vương, cho đến Tứ Đại Thiên vương và các quyến thuộc, để họ hộ tŕ, nuôi dưỡng, kể cả việc họ sẽ làm cho tất cả chúng sinh dứt bỏ ba đường ác, hướng về ba đường thiện. Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni đă đem bốn châu thiên hạ này phó chúc cho Đại phạm và chư Thiên vương. Như vậy, kiếp này dần trôi qua đi đến diệt tận; chư Thiên, nhân loại cũng đi đến diệt tận; tất cả thiện nghiệp và bạch pháp đều tận diệt, chỉ c̣n tăng trưởng cái đại ác, ch́m nghập trong phiền năo. Khi thọ mạng của con người c̣n hai vạn năm, Đức Ca-diếp Như Lai xuất hiện thế gian. Đức Phật đó đă đem bốn châu thiên hạ này phó chúc cho vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương, cùng các vị Tha hóa tự tại Thiên vương, Hóa lạc Thiên vương, Đâu-suất-đà Thiên vương, Tu-dạ-ma Thiên vương, Kiều-thi-ca Đế thích, cho đến Tứ Đại Thiên vương và các quyến thuộc, để họ hộ tŕ, nuôi dưỡng, kể cả việc họ sẽ làm cho tất cả chúng sinh dứt bỏ ba đường ác, hướng về ba đường thiện. Đức Ca-diếp Như Lai đă đem bốn châu thiên hạ này phó chúc cho Đại phạm, Tứ Đại thiên vương, v.v., và phó chúc cho chư Thiên tiên chúng, Thất diệu , Thập nhị thiên đồng nữ, Nhị thập bát tú , v.v. để họ hộ tŕ, nuôi dưỡng. Này Đại sĩ liễu tri thanh tịnh! Như vậy là lần lượt đến nay, nơi thế gian ác độc đầy dẫy sự đấu tranh do bởi kiếp trược, phiền năo trược, chúng sinh trược, đại ác phiền năo trược, và khi thọ mạng của con người chỉ c̣n trăm năm, th́ tất cả bạch pháp diệt tận, trái lại, tất cả sự độc ác các thứ pháp xấu ác phủ mờ cả thế gian. Cũng như nước biển có một vị mặn bao trùm, mùi vị đại phiền năo đầy khắp thế gian, tập hợp những bè đảng xấu ác, tay cầm đầu lâu người, máu nhuộm ḷng bàn tay, cùng nhau sát hại. Trong thời đại chúng sinh độc ác như thế, Ta nay xuất hiện thế gian, dưới cội Bồ-đề, sơ thành Chánh Giác, đă thọ dụng bữa ăn đầu tiên do hai thương gia Đề-vị (Tapussa) và Ba-lợi (Bhallika) dâng cúng. Chính là sự cúng dường ấy, nên đối với cơi Diêm-phù-đề này, đă từng phân bố các chúng Thiên, Long, Càn-thát-bà, Cưu-bàn-trà, Dạ-xoa để hộ tŕ, nuôi dưỡng. Do đó, với cuộc đại tập hợp này, tất cả chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát, không sót một vị, ở các cơi Phật trong mười phương, đều đi đến hội họp. Ở Phật độ Ta-bà này, những cơi gồm lại có trăm ức nhật nguyệt, trăm ức Tứ thiên hạ, trăm ức Tứ đại hải, trăm ức Thiết vi sơn và Đại Thiết vi sơn, trăm ức Tu-di sơn, trăm ức Tứ A-tu-la thành, trăm ức Tứ Đại Thiên vương, trăm ức Tam thập tam thiên, cho tới trăm ức Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy nói sơ số lượng cơi ở Phật độ Ta-bà, Ta ở những cơi đó mà làm Phật sự. Ở Phật độ Ta-bà này, tất cả chư vị, từ Phạm Thiên vương và quyến thuộc, Ma Thiên vương, Tha hóa tự tại Thiên vương, Hóa lạc Thiên vương, Đâu-suất-đà Thiên vương, Tu-dạ-ma Thiên vương, Đế Thích Thiên vương, Tứ Đại Thiên vương, A-tu-la vương, Long vương, Dạ-xoa vương, La-sát vương, Càn-thát-bà vương, Khẩn-na-la vương, Ca-lâu-la vương, Ma-hầu-la-già vương, Cưu-bàn-trà vương, Ngạ quỷ vương, Tỳ-xá-già vương, Phú-đơn-na vương, Ca-trá phú-đơn-na vương, cùng với hết thảy quyến thuộc có mặt đông đủ nơi cuộc đại tập hợp này, đều v́ nghe pháp. Kể cả chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát và chư vị Thanh văn của Phật độ Ta-bà này, tất cả không sót, thảy đều đi đến tập hội này, cũng v́ nghe pháp. Ta nay v́ đại chúng đă tập hội về đây mà hiển thị giáo pháp sâu xa của Phật. Lại v́ hộ tŕ thế gian, nên đă dùng cơi Diêm-phù-đề này làm nơi tập hợp chúng quỷ thần, phân bố họ để hộ tŕ, an trí họ để nuôi dưỡng. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại hỏi vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương: – Này Đại phạm Thiên vương! Chư Phật quá khứ đă từng đem bốn đại châu thiên hạ phó chúc cho ai để làm công việc hộ tŕ nuôi dưỡng? Đại Phạm thiên thưa: – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chư Phật quá khứ đă từng đem bốn đại châu thiên hạ này phó thác cho tôi và Kiều-thi-ca nhận lănh công việc hộ tŕ. Nhưng tôi đă có lỗi là không nêu rơ tên ḿnh cùng tên của Đế Thích, chỉ nêu tên các vị Thiên vương khác và các vị cai quản Nhị thập bát tú, Thất diệu, Thập nhị thần trong công việc hộ tŕ nuôi dưỡng. Lúc này, vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương cùng với Kiều-thi-ca Đế Thích cung kính đảnh lễ nơi chân Phật và thưa: – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Đại Đức Tu-già-đà! Chúng tôi nay xin tạ lỗi. Chúng tôi như những đứa trẻ ngu si không trí, ở nơi trước Đức Như Lai đă không nêu rơ tên ḿnh. Kính xin Đại Đức Bà-già-bà dung thứ! Kính xin Đại Đức Tu-già-đà dung thứ! Cũng mong chư vị đại chúng về đây dung thứ. Chúng tôi đối với cảnh giới và ngôn thuyết giáo lệnh, có được chỗ tự tại, để hộ tŕ nuôi dưỡng, cho đến khiến chúng sinh hướng về đường thiện. Chúng tôi ở nơi Đức Phật Cưu-lưu-tôn từng thọ nhận lời chỉ dạy, để làm cho ḍng giống của Tam bảo sáng ngời. Dưới sự chỉ dạy của Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni và Đức Phật Ca-diếp, chúng tôi lại nhận được những chỉ dạy tương tự, khiến cho ḍng giống của Tam Bảo sáng ngời. Điều này là để sinh khí của trái đất, sinh lực của chúng sinh và tinh túy của vị đề-hồ chánh pháp được cửu trụ và tăng trưởng. Cũng như hôm nay, chúng tôi ở trước Đức Thế Tôn, cung kính thọ nhận sự chỉ dạy, đối với cảnh giới và ngôn thuyết giáo lệnh, có được chỗ tự tại, để dứt trừ hết thảy mọi sự tranh giành xung đột và mất mùa đói kém, kể cả việc làm cho ḍng giống của Tam bảo không bị đoạn tuyệt, ba thứ tinh khí được cửu trụ và tăng trưởng, ngăn chận chúng sinh có hành động ác độc, hộ tŕ nuôi dưỡng chúng sinh thực hành chánh pháp, giúp chúng sinh dứt trừ ba đường ác, hướng về ba đường thiện, cũng để làm cho Phật pháp trụ thế lâu dài, nói chung là siêng năng làm công việc hộ tŕ. Đức Phật nói: – Lành thay, lành thay! Diệu trượng phu! Các ông nên làm như thế. Bấy giờ, Đức Phật nói với trăm ức vị Đại phạm Thiên vương: – Những việc hành pháp, trụ pháp, thuận pháp, từ bỏ điều ác ấy, nay đều phó chúc vào tay chư vị. Này chư vị Hiền thủ! Đối với trăm ức Tứ châu thiên hạ, nơi mỗi một cảnh giới và ngôn thuyết giáo lệnh, có được chỗ tự tại, chư vị thấy những chúng sinh tệ ác, thô lỗ, năo hại nào, với người khác không chút thương xót, không lo sợ về đời sau, xúc năo tâm trí của hàng Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, ngay cả xúc năo tâm trí của loài súc sinh. Bằng cách này, họ tạo nhân duyên sát sinh, kể cả tạo nhân duyên tà kiến. Thông qua những hành động này, họ tạo ra những trận mưa gió trái thời tiết, kể cả làm cho sinh khí của trái đất, sinh lực của chúng sinh và tinh túy của chánh pháp bị tổn giảm. Chư vị phải ngăn chặn họ, và hướng dẫn họ trú nơi thiện pháp. Như có những chúng sinh, người muốn được điều thiện, người muốn có chánh pháp, người muốn vượt đến bờ bên kia sinh tử, người có sự tu hành bố thí ba-la-mật cho đến tu hành bát-nhă ba-la-mật, người có sự hành pháp và trú pháp, người v́ hành pháp mà quản lư công việc, đối với những chúng sinh đó, chư vị phải nên hộ tŕ nuôi dưỡng. Như có những chúng sinh, thọ tŕ đọc tụng, v́ người khác diễn thuyết các thứ kinh luận giải thoát, th́ chư vị nên giúp cho chúng sinh đó phương tiện niệm tŕ để có được kiên cố lực, thể nhập trí tuệ ‘những ǵ được nghe không quên’, tin tưởng các pháp tướng, khiến ĺa sinh tử, tu Tám Thánh đạo, tương ưng với Tam-muội căn . Như có những chúng sinh, ở nơi cảnh giới của chư vị, trú pháp Xa-ma-tha và Tỳ-bà-xá-na, là phương tiện thứ lớp, cùng tương ưng với các Tam-muội, từ đó tinh cần mong cầu ba thứ Bồ-đề, th́ chư vị phải nên ngăn chặn [điều ác], hộ tŕ và nhiếp thọ họ, siêng làm việc xả thí, chớ để họ thiếu thốn. Như có chúng sinh thực hành bố thí bằng cách bố thí đồ ăn thức uống, y phục, đồ nằm, thuốc men trị bệnh, th́ chư vị phải nên giúp cho những thí chủ ấy có được năm thứ lợi tăng trưởng. Những ǵ là năm? 1. Thọ mạng tăng trưởng; 2. Của cải tăng trưởng; 3. An lạc tăng trưởng; 4. Hành thiện tăng trưởng; 5. Trí tuệ tăng trưởng. Chư vị trong đêm dài [sinh tử] được lợi ích an lạc; nhờ nhân duyên ấy, chư vị có thể thực hiện viên măn sáu Ba-la-mật, không bao lâu sẽ thành tựu Nhất thiết chủng trí. Bấy giờ, vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương làm thượng thủ, cùng với trăm ức chư vị Phạm Thiên vương, thảy đều thưa: – Đúng vậy, đúng vậy! Kính bạch Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi, mỗi người nơi cảnh giới của ḿnh, đối với những chúng sinh tệ ác, thô lỗ, năo hại mà với người khác không chút thương xót, không lo sợ về đời sau, … chúng tôi sẽ ngăn chặn họ, và …. giúp cho những thí chủ ấy tăng trưởng năm sự. Đức Phật nói: – Lành thay, lành thay! Chư vị nên làm như vậy. Bấy giờ, lại có tất cả chư Bồ-tát Ma-ha-tát, tất cả chư đại Thanh văn, tất cả chư thiên, loài rồng, kể cả nhân loại và phi nhân loại, thảy đều ca ngợi [chư vị Thiên vương]: – Lành thay, lành thay! Đại hùng mănh sĩ! Chư vị làm việc như thế là để chánh pháp trụ thế lâu dài, khiến cho mọi chúng sinh được ĺa xa đường ác, mau hướng về đường thiện. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ thêm nghĩa trên mà nói kệ rằng: Ta bảo với Nguyệt Tạng Vào đầu Hiền kiếp này Cưu-lưu Phật phó chúc Chư Phạm, bốn thiên hạ. Ngăn chặn tất cả ác Chánh pháp nhăn sáng ngời Ĺa bỏ mọi đường ác Hộ tŕ người hành pháp. Không đoạn giống Tam bảo Ba tinh khí tăng trưởng Dừng dứt các đường ác Khiến hướng về đường thiện. Câu-na-hàm Mâu-ni Lại phó chúc Đại phạm Tha hóa, Hóa lạc thiên Cho tới Tứ Thiên vương. Sau đấy, Phật Ca-diếp Lại phó chúc Phạm thiên Hóa lạc cùng Tứ thiên Đế Thích, Hộ thế vương. Quá khứ chư Thiên tiên V́ lợi các thế gian An trí các diệu tú Khiến hộ tŕ nuôi dưỡng. Đến nơi ác trược thế Khi bạch pháp tận diệt Riêng Ta giác Vô thượng An trí giúp nhân dân. Nay ở trước đại chúng Thường xuyên năo loạn Ta Phải nên bỏ thuyết pháp Để yên Ta hộ tŕ. Chư Bồ-tát mười phương Hết thảy đến tập hội Thiên vương cũng đến đây Phật quốc độ Ta-bà. Ta hỏi Đại Phạm vương Xưa ai người hộ tŕ? Đế Thích, Đại Phạm thiên Chỉ thị Thiên vương khác. Bấy giờ Thích, Phạm vương Tạ lỗi, thưa Đạo sư Chúng tôi, nơi vương xứ Ngăn chặn tất cả ác. Rạng ngời giống Tam bảo Tăng trưởng ba tinh khí Ngăn chặn tổ chức ác Hộ tŕ đoàn thể thiện.”
(91) Kinh Đại Phương Đẳng Nguyệt Tạng, quyển 7, phẩm Chư Quỷ Đắc Kính Tín, thứ 10, nói: “Bấy giờ, lại có trăm ức chư quỷ câu hội đồng thờ, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, và thưa Phật rằng: – Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng sẽ phát đại dũng mănh, hộ tŕ nuôi dưỡng chánh pháp của Phật, làm rạng rỡ ḍng giống của Tam bảo, để trụ thế lâu dài, làm cho sinh khí của trái đất, sinh lực của chúng sinh và tinh túy của chánh pháp được tăng trưởng. Nếu có Thanh văn đệ tử của Thế Tôn mà trú pháp, thuận pháp, ba nghiệp tương ưng mà tu hành, th́ chúng tôi thảy đều hộ tŕ nuôi dưỡng, tất cả nhu yếu không cho thiếu thốn. (…) Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ thêm nghĩa trên mà nói kệ rằng: Nơi cơi Ta-bà này Lúc mới vào Hiền kiếp Như Lai Câu-lưu-tôn Đă phó chúc Tứ thiên Đế Thích, Phạm Thiên vương Khiến hộ tŕ, nuôi dưỡng Giống Tam bảo rạng ngời Tăng trưởng ba tinh khí. Câu-na-hàm Mâu-ni Phó chúc Tứ thiên hạ Phạm, Thích, chư Thiên vương Khiến hộ tŕ, nuôi dưỡng. Phật Ca-diếp cũng thế Phó chúc Tứ thiên hạ Phạm, Thích, Hộ thế vương Hộ tŕ người hành pháp. Quá khứ chư Tiên chúng Cùng với chư Thiên tiên Tinh, thần, các tú diệu Cũng phân bố phó chúc. Ta xuất ngũ ác thế Hàng phục chúng ma oán Tạo được đại tập hội Hiện rơ chánh pháp Phật. Chư Thiên cùng khuyến thỉnh Phân bố Tứ thiên hạ. Ta hỏi Đại Phạm thiên Xưa ai nhận phó chúc Phạm thiên chẳng tự xưng Cùng với Thiên Đế Thích Xem khắp chư Thiên rồi Sau đó sám tạ Phật. Hết thảy các Thiên chúng Đều cùng thưa với Phật Chúng tôi ở vương xứ Đều hộ tŕ chánh pháp Rạng rỡ ḍng Tam bảo Tăng trưởng ba tinh khí Khiến dứt mọi bệnh dịch Đói kém cùng chiến tranh.”
(92) Phẩm Thiên Vương Đề-đầu-lại-trá Hộ Tŕ, nói: “Đức Phật nói: – Nhật Thiên tử, Nguyệt Thiên tử! Chư vị đối với chánh pháp của ta đă hộ tŕ nuôi dưỡng, khiến cho chư vị được trường thọ, không có mọi suy yếu, lo lắng. Bấy giờ, lại có hàng trăm ức chư vị Thiên vương Đề-đầu-lại-trá, Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-xoa, Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa, Thiên vương Tỳ-sa-môn, tất cả đồng thời cùng với quyến thuộc từ nơi chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay kính lễ, thưa với Phật rằng: – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi nơi mỗi một Tứ thiên hạ của ḿnh, xin siêng làm việc hộ tŕ nuôi dưỡng Phật pháp, khiến cho ḍng giống của Tam bảo rạng ngời và trụ thế lâu dài, ba thứ khí chất tinh thuần thảy đều tăng trưởng. (…)” “(…) – Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi kể từ hôm nay xin thành tâm dốc sức thu phục những chúng sinh có tâm xấu ác, siêng năng thực hiện việc hộ tŕ phương Bắc phần thứ tư của cơi Diêm-phù-đề. Tôi nay cùng với vị thượng thủ là Tỳ-sa-môn Thiên vương đồng tâm hộ tŕ chư Phật pháp ở phương Bắc của cơi Diêm-phù-đề.”
(93) Kinh Đại Phương Đẳng Nguyệt Tạng, quyển 8, phẩm Nhẫn Nhục, thứ 16, nói: “Đức Phật nói: – Đúng vậy, đúng vậy! Như những ǵ chư vị nói. Nếu có chúng sinh yêu ḿnh, chán khổ, cầu vui, phải nên hộ tŕ chánh pháp của chư Phật, nhờ đó sẽ được vô lượng phước báo. Nếu có chúng sinh, v́ chánh pháp của Ta mà xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, giả như không tŕ giới, th́ những người ấy đă thực hiện xong sự ấn chứng cho Niết-bàn ấn. C̣n như xuất gia mà không giữ giới, lại đem các thứ phi pháp làm năo hại, nhục mạ, hủy báng kẻ khác, thậm chí tự tay cầm cả dao gậy để đánh đạp chém giết, hoặc cướp đoạt y bát và chiếm lấy các thứ vật dụng sinh hoạt, người ấy đúng là đă hủy hoại Báo thân chân thật của ba đời chư Phật, đă móc bỏ con tất cả con mắt của chư thiên và nhân loại . Người ấy rơ ràng là muốn chánh pháp của chư Phật và ḍng giống Tam bảo biến mất, khiến cho chư thiên và nhân loại không được lợi ích, rơi vào địa ngục, v́ ba đường ác đầy dẫy và tăng trưởng. (…) Bấy giờ, trong những vị đến dự pháp hội, lại có tất cả chư Thiên, Long, cho đến tất cả Ca-tra phú-đơn-na, nhân loại và phi nhân loại, thảy đều chắp tay, nói lời như vầy: – Đối với tất cả Thanh văn đệ tử của Phật, kể cả những vị không thọ tŕ cấm giới, cạo bỏ râu tóc và mặc mảnh cà sa, chúng tôi đều xem là bậc sư trưởng, dốc ḷng hộ tŕ nuôi dưỡng, mọi thứ cần dùng không cho thiếu thốn. (…) Nếu như chư Thiên, Long, cho đến Ca-tra phú-đơn-na, đối với tất cả Thanh văn đệ tử của Phật, mà gây tạo những sự năo loạn, như cướp đoạt phần tinh khí nơi thân của người ấy, thậm chí ác tâm nh́n chằm chằm người ấy, hợp nhau tác động lên chư Thiên, Long, Ca-tra phú-đơn-na kia, khiến mọi căn thân của bọn họ đều bị thiếu giảm, xấu xí, không có xứ sở để nương tựa. Chúng tôi sử dụng thế lực của sở nguyện để thực hiện điều ấy. Những xứ sở chúng tôi du hành đến, dừng chân hoặc trú ngụ, chúng tôi đều khiến cho bọn họ không được cùng ở, cùng ăn uống, kể cả cùng vui đùa với chúng tôi. Sự trừng phạt là như thế đấy.”
(94) Lại nói: “Ĺa các việc coi bói tướng, tu tập chánh kiến, quyết định thâm tín tội phước nhân duyên.”
(95) Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Các loại ma kia , các loại quỉ thần kia , các loại tà đạo kia , đều có đồ chúng, mỗi một tự xưng là thành đạo Vô thượng. Sau khi Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp, có nhiều loại ma kia, có nhiều loại quỉ thần kia, có nhiều loại tà đạo kia, chúng đầy dẫy thế gian. Chúng hành động tham dâm, giả làm thiện tri thức, khiến các chúng sinh sa vào hầm ái kiến, bỏ mất đường Bồ-đề. Chúng tự nói rằng, ăn thịt cũng được đạo Bồ-đề. Chúng lén núp gian dối, xưng là thiện tri thức, mỗi người tự cho là đă được pháp của thượng nhân, lừa gạt người không biết, dọa dẫm khiến họ đánh mất tâm trí. Chúng đi đến đâu, gia đ́nh người ta đều bị hao tán. [A Nan, chúng sinh lục đạo trong thế giới như thế, tuy nơi thân tâm không c̣n sát, đạo, dâm, cả ba hạnh đă được viên măn, nếu mắc phải đại vọng ngữ, th́ Tam-ma-đề không được thanh tịnh,] thành giống ma ái kiến và mất giống Như Lai” (96) Kinh Quán Đảnh nói: “Đó là ba mươi sáu bộ thần vương . Chư thiện thần này, cùng với vạn ức hằng hà sa quỷ thần làm quyến thuộc, sẽ thay phiên nhau bảo vệ những người thọ nhận Tam quy.”
(97) Kinh Địa Tạng Thập Luân nói: “Cụ chánh quy y: Rời xa tất cả vọng chấp cát hung , hoàn toàn không quy y tà thần, ngoại đạo.” (98) Lại nói: “[Có người hoặc thọ tam quy, hoặc thọ năm giới, sinh tâm nghi ngờ Phật, Pháp, Tăng, hoặc quy y theo thầy ngoại đạo,] hoặc chấp đủ thứ, hoặc ít hoặc nhiều các tướng cát hung, cúng tế quỷ thần. Hoặc lại có người đối với chánh pháp chư Như Lai thuyết, hoặc chánh pháp tương ưng với Thanh văn thừa, hoặc chánh pháp tương ưng với Độc giác thừa, hoặc chánh pháp tương ưng với Đại thừa mà phỉ báng, ngăn chận, tự ḿnh không tin nhận, c̣n làm cho người khác nhàm chán, gây chướng ngại người khác đọc tụng, ghi chép, thậm chí gây trở ngại một bài tụng chánh pháp. Như vậy, gọi là chẳng phải tội căn bản, cũng chẳng phải tội Vô gián, nhưng sinh đại tội ác nghiệp cực trọng, gần với tội Vô gián. Người này nếu chưa sám hối trừ diệt đại tội ác nghiệp như vậy th́ không cho xuất gia và thọ giới Cụ túc. Nếu cho xuất gia và thọ giới Cụ túc, th́ Thầy [thế độ] liền mắc tội, nên đuổi người ấy ra khỏi pháp của Ta.”
(99) Kinh Tập Nhất Thiết Phước Đức Tam Muội nói: “Không hướng đến thừa nào khác, không lễ bái trời nào khác.”
(100) Kinh Bản Nguyện Dược Sư: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân có đức tin thuần tịnh, cho đến hết đời, không thờ vị trời nào khác, [chỉ nhất tâm quy y Phật Pháp Tăng, thọ tŕ cấm giới, như năm giới, mười giới, bốn trăm giới của Bồ-tát, hai trăm năm mươi giới của Tỳ kheo, năm trăm giới của Tỳ kheo ni.]”
(101) Lại nói: “Lại tin thầy bà yêu nghiệt của tà ma ngoại đạo thuộc phạm vi thế gian nói vớ vẩn về họa phước, nên đâm ra sợ hăi, dao động. Tâm th́ không tự chánh nó lại, lại đi bói hỏi để t́m lấy tai họa. Giết hại sinh vật mà giải tấu thần minh, van vái yêu quái để xin làm phước giúp đỡ mong muốn thêm tuổi nhưng chung cục không thể đạt được. Ngu si mê lầm, tin theo cái thấy cong và ngược, nên làm chết ḿnh một cách ngang trái, nhập vào địa ngục, không có kỳ hạn thoát ra. (…)Thứ tám, một cách ngang trái trúng chết bởi thuốc độc, ếm vái, chú thư, quỷ khởi thi.”
(102) Kinh Bồ Tát Giới nói: “Cái phép của người xuất gia là không lạy quốc vương, không lạy cha mẹ, không lạy bà con, không lạy quỷ thần.”
(103) Kinh Phật Bản Hạnh Tập, quyển 42, phẩm Ưu-bà-tư-na, nói: “Thuở ấy, ba anh em Ca-diếp có người cháu gọi bằng cậu, tu theo Phạm chí Loa Kế, tên là Ưu-ba-tư-na, sống trên một ḥn núi gọi là A-tu-la, thường cùng với hai trăm năm mươi đệ tử Phạm chí Loa Kế tu học đạo tiên. Ưu-ba-tư-na nghe ba người cậu của ḿnh và các đệ tử đi đến bên Đại Sa-môn, tất cả đều cạo bỏ râu tóc xuất gia. Nghe vậy, vị ấy hết sức kinh ngạc, rất đổi bất b́nh mà la lên: ‘Các ông cậu ta thật lạ thay! Bao năm nay tế tự thần lửa, giờ đây bỗng nhiên theo làm đệ tử Sa-môn. Ta nay đến đó quở trách mới được. V́ cớ ǵ làm điều bất thiện như vậy?’ Rồi vị ấy đi đến chỗ ba người cậu, hậm hực trong ḷng, nghẹn họng không nói thành lời. Đến nơi thấy ba người cậu đă cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa. Thấy vậy, vị ấy đối với ba người cậu mà nói kệ: Các cậu uổng thờ lửa trăm năm Lại c̣n uổng tu pháp khổ hạnh Ngày nay đồng bỏ pháp tu ấy Giống như rắn nọ bị lột da. Lúc ấy ba người cậu Ca-diếp dùng kệ đáp lại người cháu Ưu-ba-tư-na: Cậu khi xưa uổng thờ thần lửa Cũng luống uổng tu pháp khổ hạnh Các cậu ngày nay bỏ pháp ấy Thật như rắn nọ bị lột da.”
(104) Luận Khởi Tín nói: “Hoặc có chúng sinh không có sức thiện căn, th́ bị các tà ma, ngoại đạo, quỷ thần mê hoặc phá rối. Như trong lúc tọa thiền, chúng hiện h́nh làm cho sợ hăi, hoặc hiện ra nam nữ xinh đẹp, người ngồi thiền nên niệm cảnh giới duy tâm, th́ những sự biến hiện ấy tan biến, không thể nào quấy phá. Hoặc chúng hiện ra h́nh dáng chư thiên, h́nh dáng Bồ-tát hoặc cả h́nh dáng Như lai, tướng tốt đầy đủ. Với h́nh dáng ấy, chúng nói thần chú, nói bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ; hoặc nói b́nh đẳng, không, vô tướng, vô nguyện, không oán không thân, không nhân không quả, hoàn toàn vắng lặng là Niết-bàn chân thật. Hoặc chúng làm cho người tu thiền biết được đời trước của ḿnh, biết việc quá khứ, biết việc vị lai, được tha tâm thông, được biện tài vô ngại, có thể làm cho người tu thiền này ham thích danh vọng và quyền lợi thế gian. Hoặc chúng làm cho người tu thiền này, khi giận khi mừng, tính t́nh bất thường; làm cho có nhiều ḷng từ ái, ngủ nhiều, bịnh nhiều; hoặc làm cho sinh tâm giải đăi, hay là đột nhiên tinh tiến rồi nghỉ bỏ liền, sinh ḷng bất tín, hoài nghi, lo nghĩ. Hoặc chúng làm cho bỏ lối tu hành thù thắng cũ, lại tu các tạp nghiệp, hay là mắc vào nhiều thứ ràng buộc về thế sự. Chúng cũng làm cho người tu thiền này được những thiền định tương tự phần nào, nhưng toàn là thiền định của ngoại đạo, không phải thiền định chân thật. Có khi chúng làm cho những người ngồi thiền này ở trong thiền định một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến bảy ngày, được ăn uống những thứ tự có và thơm ngon, cơ thể và tâm trí đều vui đẹp, không đói không khát, làm cho những người này sinh ra đam mê; chúng cũng làm cho những người này ăn uống không chừng mực, khi nhiều khi ít, nhan sắc biến đổi. Do những nghĩa đó, người tu hành thường phải dùng trí tuệ mà quán sát, chớ để tâm ḿnh sa vào lưới ma, phải siêng tu chánh niệm, đừng ham đừng vướng mới thoát nổi những chướng ngại trên đây, toàn do nghiệp cũ mà có. Nên biết, mọi thứ thiền định của ngoại đạo toàn là bắt nguồn từ tâm lư ngă kiến, ngă ái và ngă mạn, v́ c̣n ham thích danh vọng, quyền lợi và tôn kính của thế gian.”
(105) Luận Biện Chánh do Thích Pháp Lâm soạn. Thiên Mười dụ chín châm là để trả lời luận điểm ‘Mười dị chín mê’ của Lư đạo sĩ: “[Dụ thứ nhất:] – Dị thứ nhất của ngoại, nói: Thái Thượng Lăo Quân thác thần ở ngọc nữ Huyền Diệu, bổ nách bên trái mà sinh. Thích Ca Mâu Ni gá thai phu nhân Ma-da, mở hông bên phải mà ra. – Dụ thứ nhất của nội, nói: Lăo Quân v́ nghịch với thường nên mới gá mục nữ mà ra bên trái, c̣n Đức Thế Tôn thuận hóa, nên nhân Thánh mẫu mà sinh bên phải. Khai Sĩ nói: “Căn cứ Lô Cảnh Dụ , Đái Sân , Vi Sử Huyền , v.v. tập giải Ngũ Thiên Văn , và vua Nguyên Đế thời Nam Lương, Chu Hoằng Chánh , v.v. trong các loại Khảo Nghĩa, cho rằng: Thái thượng có bốn, đó là Tam Hoàng và Nghiêu Thuấn vậy.” Ư nói thời Thượng cổ có vị vua đức lớn, đi đến và ở trên muôn dân nên gọi là Thái thượng. Trong Trang Tử Chú, Quách Tượng nói: “Thời đó người hiền làm vua, c̣n tài chẳng xứng đời th́ làm thần.” Lăo Tử chẳng phải Đế chẳng phải Hoàng, chẳng tại giới hạn của tứ chủng, có điển cứ ǵ, tạm xưng là Thái thượng ư? Xét Huyền Diệu [Nội Thiên] của Đạo gia, đến các kinh Trung Đài, Chu Thao, Ngọc Trát, kể cả Xuất Tái Kư, đều nói: Lăo là do Lư mẫu sinh ra, chẳng nói có ngọc nữ Huyền Diệu. Đă chẳng phải chánh thuyết, rất giả đàm nói sai nhầm vậy. Tiên Nhân Ngọc Lục nói: “Tiên nhân không vợ, Ngọc nữ không chồng, tuy thọ thân h́nh nữ mà trọn không sinh sản.” Nếu có điềm ấy th́ thật đáng vui mừng, nhưng cớ sao Sử Kư không văn từ, Chu Thư chẳng biên chép? Cầu hư, trách thật, tin lời của kẻ uốn nắn dối vọng vậy. Lễ Kư nói: “Lui quan, không địa vị, là dời sang trái (bị giáng chức).” Luận Ngữ nói: “Vạt áo bên trái, chẳng phải lễ vậy.” Nếu lấy trái hơn phải, cớ sao Đạo sĩ hành đạo chẳng xoay bên trái mà lại chuyển bên phải? Chiếu thư của nước nhà đều nói: “Như Hữu” (如右), chính là lẽ thường thuận theo trời vậy. (…) – Dị thứ tư của ngoại: Ngày của Văn Vương , Lăo Quân làm tông sư cho sự hưng thịnh của nhà Chu. Thời Trang Vương , Thích Ca làm giáo chủ ở nước Kế Tân . – Dụ thứ tư của nội: Bá Dương giữ chức quan nhỏ, sung làm thủ thư Tạng sử, chẳng ở ngày của Văn Vương, cũng chẳng phải bậc thầy cho sự hưng thịnh của nhà Chu. Đức Mâu Ni, địa vị là Thái tử, bản thân chứng Đặc tôn, nhằm năm hưng thịnh của Chiêu Vương, làm giáo chủ ở cơi Diêm-phù. (…) – Dị thứ sáu của ngoại: Lăo Quân xuất hiện nơi đời, mới đầu từ ngày của Văn Vương thời nhà Chu, măi đến thời của Khổng Khâu. Thích Ca mới hạ sinh, mở đầu từ nhà của Tịnh Phạn, tương đương với đời Trang Vương ở Trung Hoa. – Dụ thứ sáu của nội: Ca-diếp sinh năm Đinh Măo ở đời Hoàng Vương, chung cùng vào năm Nhâm Ngọ ở đời Cảnh Vương, tuy măi đến thời của Khổng Khâu, nhưng chẳng sinh ở thời Cơ Xương. Đức Điều Ngự đản sinh năm Giáp Dần thời Chiêu Vương, chung cùng năm Nhâm Thân ở đời Mục Vương, phải là nối dơi của Tịnh Phạn vốn xuất phát trước đời Trang Vương. Khai sĩ bảo: Khổng Tử đến Chu thấy gặp Lăo Đam mà hỏi Lễ, Sử Kư biên ghi rơ đủ, c̣n làm thầy của Văn Vương th́ không có điển chứng. Nói xuất phát ở cuối thời nhà Chu, việc ấy có thể t́m, c̣n ở đầu thời nhà Chu th́ Sử văn chẳng ghi. (…) – Dị thứ bảy của ngoại: Lăo Quân lúc mới sinh ở thời nhà Chu, về già đến Lưu Sa, không lường biết rốt cùng như thế nào, chẳng biết đến sở nào. C̣n Thích Ca sinh ở nước Tây, chung cùng ở Đề Hà kia, đệ tử đánh vàng ngực, bọn người Hồ rống khóc than. – Dụ thứ bảy của nội: Lăo Tử sinh ở Lại Hương, chết chôn tại Ḥe Lư, rơ ràng Tần Dật đến viếng điếu, trách ở H́nh trốn trời; c̣n Cù Đàm xuất sinh tại cung vua kia, ẩn tạc Hạc thọ ấy, truyền lưu ở đời Minh Đế thời nhà Hán, bí tạng ở sách của Lan đài. Khai sĩ bảo: Trang Tử, Nội Thiên nói, “Lăo Đam chết. Tần Dật đến điếu, khóc gào ba tiếng rồi bước ra. Học tṛ hỏi: Không phải bạn của thầy sao? Phải. Vậy th́, điếu như vậy coi được không? Được chứ! Trước ḱa, đó là bạn ta thật. Nay th́ không phải vậy nữa. Lúc năy ta vào điếu, thấy có người già khóc như khóc con, có người trẻ khóc như khóc cha. Mới đầu cho là người ấy vậy, mà nay chẳng phải vậy. Người xưa gọi đó là H́nh thể trốn Trời .” Trốn nghĩa là ẩn, Trời nghĩa là khỏi trói buộc. H́nh nghĩa là thân thể. Nói mới đầu cho Lăo Tử là tiên ẩn h́nh khỏi trói buộc, nay th́ chẳng phải vậy. Ôi! Đó, dua nịnh lấy t́nh của người, nên chẳng khỏi chết, chẳng phải bạn ta vậy. Mười dụ của nội, đáp lại mười dị của ngoại: 1. Theo sinh có hơn kém. 2. Lập giáo có cạn sâu. 3. Đức vị có cao thấp. 4. Hóa duyên có rộng hẹp. 5. Thọ yểu có dài ngắn. 6. Hóa tích có trước sau. 7. Đổi dời có ẩn hiện. 8. Tướng tốt có ít nhiều. 9. Oai nghi có đồng dị. 10. Pháp môn có đốn tiệm. (…) – Dị thứ nhất của ngoại, ‘Theo sinh tả hữu’: Ngoại luận rằng: Thánh nhân ứng vết khác với phàm phu kia, hoặc cưỡi rồng voi để vào bào thai, chợt mở nách hông mà sinh ra đời. Tuy là không liên quan lưỡng khí, chẳng nhờ gá song thân, đến cả sai khác về tả hữu, hơn kém ấy là dị thứ nhất vậy. – Dụ thứ nhất của nội, ‘Theo sinh có hơn kém’: [Mẹ của Lư Thị tức là B́nh Thị ở Lại hương, Lăo Tử đến mà gá chất. Phu nhân Ma-da tức là Vương hậu của vua nước La Vệ, Thích Ca nhân đó mà giáng thần.] Nội dụ rằng: Vạt áo bên tả là chỗ tôn quư của Nhung Địch, mệnh lệnh bên hữu là nơi kính chuộng của Trung Hoa. Nên sách Xuân Thu nói: “Gia khanh không có mệnh, mà giới khanh có đó, chẳng phải bên tả ư?” Sử Kư nói: “Lận Tương Như có công lớn, địa vị bên hữu của đại tướng quân Liêm Pha , Pha xấu hổ về điều đó ”. Lại nói: “Trương Nghi , tướng bên hữu Tần mà bên tả Ngụy; Tê Thủ , tướng bên hữu Hàn mà bên tả Ngụy.” Bởi nói chẳng tiện vậy. Lễ Kư nói: “Tả đạo bày loạn, giết đó.” Há chẳng phải bên hữu hơn mà bên tả kém ư? Cao Sĩ Truyện của Hoàng Phủ Mật nói: “Lăo Tử là tướng phụ của Sở, nhà ở phía tả ngạn Oa Thủy, thờ thầy Thường Tung Tử. Lúc Thường Tung bị bệnh, Lăo Tử biết được liền đến thăm.” Kê Khang bảo: “Lư Nhĩ theo Quyên Tử học phép thuật của Cửu Tiên, kiểm các sách của Thái sử công v.v.” Chẳng nói Lăo Tử vạch nách bên tả mà sinh. Đă không chánh xuất, th́ không thể thừa nhận, tin tưởng vậy. Hiển nhiên rằng, việc khua đao và vẫy bút là sự khởi đầu của vơ văn; năm khí chất thuần khiết và ba vật thể phát sáng , là sự khởi đầu của âm dương. Do đó, Thích môn xoay chuyển phía hữu mà phù hợp với hoạt động của con người. Trương Lăng đi đường phía tả mà tín nghịch với đạo lư của trời. V́ sao? Đức Thích Ca khởi Vô duyên từ, ứng hóa người hữu duyên. Nói về dấu tích ấy, (…) Đức Thích Ca Mâu Ni đứng một ḿnh trên trời dưới đất, chiếm vị trí tôn kính nhất, là bậc siêu việt ba cơi sáu đường, sự siêu tuyệt của Ngài được mọi người kính trọng. [– Dị thứ mười của ngoại, ‘Thuyết quy thuận nghịch’:] Ngoại Luận rằng: Lăo Quân lập ra khuôn phép: duy hiếu duy trung, cứu đời độ người, cực từ cực ái. Do đó, Thanh giáo măi truyền tụng, trăm vua không sửa đổi, Huyền phong luôn bao trùm, muôn xưa không sai khác. V́ vậy, trị nước trị nhà, khải thức thường nhiên. Thích giáo bỏ nghĩa bỏ thân, bất nhân bất hiếu. Xà Vương giết cha, nói trớ không lỗi; Điều Đạt bắn anh, không nghe mắc tội. Lấy đó để hướng dẫn kẻ phàm, thêm lớn điều ác, dùng đó làm khuôn phép cho đời, sao lại sinh thiện? Đó là điều khác thứ mười về nghịch thuận. [– Dụ thứ mười của nội, ‘Pháp môn có đốn tiệm’: Nội Luận rằng: Nghĩa, là sự thấp kém của đạo đức; Lễ, là sự yếu đuối của trung tín. Ḷng nhân nhỏ nhặt bị giễu cợt như thân phận người đàn bà thường, và ḷng hiếu lớn lao được tung hô cho những kẻ giàu có. Hơn nữa, cười hát khi thấy người khác gặp bất hạnh, không phải sự khoan dung của Trung Quốc, và gơ chén trong đám tang chẳng phải những tập tục của Hoa Hạ. {Mẹ của Nguyên Nhượng chết, cưỡi trên ḥm mà ca, Khổng Tử đến trợ tang, chẳng dèm chê. Tử Tang chết, Tử Cống đến viếng điếu, bốn người con cùng trông thấy nh́n mà cười. Vợ Trang Tử chết, ông ta gơ chén mà hát ca}. Thế nên, giáo đó lấy hiếu, th́ phải kính thiên hạ mà làm người cha; giáo đó dùng trung, th́ phải kính thiên hạ mà làm quân vương. Hóa khắp muôn nước, mới rơ đức nhân cao lớn của Minh quân; h́nh tỏa bốn biển, thật là bầy tôi trung hiếu của Thánh vương. Kinh Phật nói: “Thức thể luân hồi, sáu nẻo không ai không là cha mẹ; sinh tử biến dịch, ba cơi người nào nhận rơ oán thân?” Lại nói: “Vô minh che tuệ nhăn, đến đi trong sinh tử, đi đến để tạo tác, làm cha con lẫn nhau, một số oán thân làm tri thức, một số tri thức làm oán thân.” Do đó, Sa-môn xả thế tục hướng đến chân, đồng đều vạn loại trong thuộc tánh của trời; bỏ vinh hoa tức là đạo, ngang bằng hàm hữu nơi thân thích của ḿnh. {Thực hành cái tâm chân chánh cùng khắp, b́nh đẳng cái ư thân thuộc cùng khắp}. Vả lại, Đạo chuộng thanh hư, đó là trọng ân ái; Pháp quư b́nh đẳng, đó là chọn oán thân, há chẳng phải mê hoặc? Thế lực đua tranh th́ cách xa thân thuộc, văn sử ghi rơ việc này. Tề Hoàn Công và Sở Mục Vương , là hạng ấy vậy. Muốn đem lường Thánh, há chẳng sai lầm ư? Đó là điểm kém thứ mười của Đạo. (…) Nhị Hoàng thống hóa {Kinh Tu-di Tứ Vức nói: Bồ-tát Ứng Thanh là Phục Hy, Bồ-tát Cát Tường là Nữ Oa.}, mở đầu ǵn giữ thuần phong. Tam Thánh lập ngôn {Kinh Không Tịch Sở Vấn nói: Ca-diếp là Lăo Tử, Nhu Đồng là Khổng Tử, Quang Tịnh là Nhan Hồi.}, hưng khởi rồi cuối cùng đạm bạc. Ư chỉ của Huyền hư xung nhất , Hoàng Lăo dồi dào luận đàm đó. Văn hiến của thi thư lễ nhạc, Chu Khổng thắm thiết giáo dục đó. Sáng tỏ tánh khiêm nhẫn và ǵn giữ tâm chất trực là thềm thang chứng Thánh. Tam úy , ngũ thường là nguyên nhân tiệm tiến làm trời người. Những lời dạy này mặc nhiên phù hợp với chân lư của Đức Phật, nhưng chúng không soi sáng và thảo luận một cách đúng đắn về nó. Nó giống như hỏi đường nơi người câm điếc, quơ chỉ phương hướng mà chẳng biết bao xa; hỏi bến ở loài thỏ ngựa, biết băng qua sông mà chẳng lường cạn sâu. Nhân đó mà suy luận, triều đại nhà Ân và nhà Chu là thời điểm thuận lợi cho việc truyền bá giáo lư của Đức Thích Ca Mâu Ni. T́nh huống này giống như lửa dữ sáng rực, một đứa trẻ không thể nh́n thẳng vào ngọn lửa rực cháy, hay một người yếu đuối không thể chăm chú lắng nghe tiếng sấm sét dữ dội. V́ vậy, sông hồ nước dâng trào, Chiêu Vương lo sợ Đức Phật ra đời; mây cầu vồng đổi màu, Mục Hậu mừng vui bậc Thánh ẩn mất. {Chu Thư Dị Kư nói: Ngày mồng tám tháng tư năm thứ 24 đời Chiêu Vương, sông rạch ao suối nước đều dâng trào. Ngày Rằm tháng hai năm thứ 52 đời Mục Vương, gió băo bỗng nhiên dấy khởi, cây cối đổ găy, trời râm mây đen tối, có cầu vồng sắc trắng quái lạ hiện lên vậy.} Đâu có thể vượt sông Thông mà bẩm hóa, vượt núi Tuyết mà thành tâm. Kinh Tịnh Danh nói: “Đó là lỗi của người mù, chẳng phải lỗi của mặt trời và mặt trăng.” Ngay cả ông muốn luận nghị đến tận cùng lỗ đục ấy, chỉ sợ tổn thương tánh hỗn độn của ông. Nó ngoài tầm hiểu biết của ông. Đó là mù tối thứ nhất vậy. (…) Châm thứ hai của nội, ‘Kiến tạo tượng tháp’: Từ vua Minh Đế thời Hậu Hán trở xuống đến thời nhà Tề, nhà Lương, có hơn hai trăm người, bao gồm các hàng vương công, thủ mục, thanh tín sĩ nữ, và cả Tỳ kheo, Tỳ kheo ni v.v… đă cảm nhận sâu sắc Chí Thánh, tận mắt nh́n thấy ánh sáng thần kỳ. Đến như thấy dấu chân ở Vạn sơn , tượng nổi ở Hổ Độc . Dưới Thanh [Lương] đài nh́n dáng vẻ măn nguyệt , ngoài Ung môn thấy h́nh ảnh tướng luân . Nam B́nh vương được ứng vào thụy tượng , Văn Tuyên đế cảm mộng răng Thánh . Tiêu Hậu một lần đúc mà thành tựu , Tống Hoàng bốn lần mô phỏng mà chẳng xong. Các loại như vậy thật lắm nhiều, không thể nêu bày đầy đủ hết. Đâu có thể v́ ḿnh không mắt đó mà bài xích sự có linh ứng kia ư? Nhưng mà Đức không ǵ không hoàn bị, cho đó là Niết-bàn; Đạo không ǵ không thông suốt, gọi đó là Bồ-đề; trí không ǵ không cùng khắp, xưng đó là Phật-đà. Dùng Hán ngữ đây mà phiên dịch Phạm ngôn kia, th́ ‘Phật’ kia và đây, rơ ràng đáng tin vậy. Làm sao biết rơ? Phật-đà, Hán ngữ là Đại giác; Bồ-đề, Hán ngữ là Đại đạo; Niết-bàn, Hán ngữ là Vô vi. Ông trọn ngày đạp trên đất Bồ-đề mà chẳng biết Đại đạo, tức dị hiệu của Bồ-đề; bẩm h́nh trong cảnh Đại Giác mà chưa rơ Đại Giác, tức thích danh của Phật-đà. V́ vậy, Trang Chu nói: “Chỉ khi nào mới biết rằng đă qua một đại mộng.” Trang Tử Chú của Quách Gia nói: “Bậc Đại giác là Thánh nhân vậy. Bậc Đại giác mới biết đại hoạn, lo nghĩ cho những người ôm mộng c̣n chưa tỉnh ngộ.” Lại nói: “Phu Tử cùng đệ tử vân du trong mộng, chưa thể quên lời mà được Thần giải, nên chẳng phải là bậc Đại giác vậy.” Người quân tử nói: “Đàm luận của Khổng Khâu chỉ đến đây thôi.” Niết-bàn tịch chiếu, không thể dùng thức để biết, không thể nắm bắt bằng trí, th́ đường ngôn ngữ cắt đứt, chỗ tâm hành không c̣n, nên quên lời vậy. Pháp thân là do ba điểm và bốn đức làm thành . Nó uy nghi, thanh thoát, không lụy phiền, nên xưng là giải thoát. Đó là thần giải nên dứt đại hoạn vậy. Phu Tử được coi như Thánh, nhưng thua xa v́ suy cử công huân với Phật. V́ sao? Căn cứ hai bộ lục cổ xưa, Lưu Hướng nói: “Kinh Phật lưu truyền đến Trung hạ, một trăm năm mươi năm sau, Lăo Tử mới nói năm ngàn văn tự.” Trong trường hợp này, cả Trang Tử và Lăo Tử đều biết [và vay mượn] những ǵ được dạy trong kinh Phật. Có thể nghiệm chứng điều này trong lời dạy của họ. [Như Khổng Tử có nói: “Dịch, chính là vô vi, vô tư, tịch nhiên chẳng động, đến lúc cảm ứng th́ thông suốt được mọi việc trong thiên hạ. Nếu không phải là cái thần tột bực trong thiên hạ th́ cái ǵ có thể sánh với điều ấy?” ] (…) Kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Người chẳng tŕ giới th́ các trời giảm ít, A-tu-la hưng thạnh đông nhiều, rồng thiện không sức lực, rồng ác có sức lực. Rồng ác có sức lực th́ giáng mưa đá phi thời, mưa gió dữ dội, năm thứ lúa thóc không được mùa, bệnh dịch đua nhau nổi dậy, nhân dân đói kém, tàn hại lẫn nhau. Nếu người tŕ giới th́ phần nhiều các trời tăng thêm có đủ oai quang, A-tu-la giảm bớt, rồng ác không sức lực, rồng thiện có thêm sức lực. Rồng thiện có sức lực th́ gió mưa thuận thời, bốn khí ḥa sướng, mưa ngọt đúng lúc, trăm thứ lúa thóc được mùa, nhân dân an lạc, giặc giă chấm dứt, bệnh dịch chẳng lây lan.” Người quân tử nói: “Thái Tiêu Ẩn Thư, Vô Thượng Chân Thư, v.v. của Đạo sĩ, có nói: “Vô thượng Đại đạo quân ngự trị tại núi Ngọc Kinh, trong cơi trời Đại La, trên năm mươi lăm lớp vô cực, nơi có đài bảy báu, giường vàng ghế ngọc, chỗ tiên đồng ngọc nữ hầu canh, ở ngoài ba cơi và ba mươi ba tầng trời.” Căn cứ Thần Tiên Ngũ Nhạc Đồ nói: “Đại Đạo Thiên Tôn ngự ở đô Thái Huyền, châu Ngọc Quang, quận Kim Chân, huyện Thiên Bảo, hương Nguyên Minh, lư Định Chí, chỗ không có tai họa.” Kinh Linh Thư nói: “Đại La là cơi trời trên năm ức năm vạn năm ngàn năm trăm năm mươi lăm lớp trời. Ngũ Nhạc Đồ nói: “Đô (都), là đổ (睹, thấy) vậy. Thái thượng Đại đạo là bậc thần minh quân, trung đạo của đạo, giữ tĩnh lặng, ngự ở kinh đô Thái Huyền.” Chư Thiên Nội Âm nói: “Trời cùng các Tiên gióng trống của Lâu Đô, yến hội triều đ́nh để vui cùng Đạo Quân.” Mục lục kinh của Đạo sĩ tấu tŕnh lên Tống Minh Đế đều nói y theo mục lục của Lục Tu Tĩnh , đạo sĩ đời Tống, nhưng xét kiểm chỉ có 1.228 quyển [kinh thư, phương dược, phù đồ của Đạo giáo]. Nó vốn không có tên Tạp thư của Chư tử, mà Đạo sĩ nay liệt kê có 2.040 quyển, trong đó đa phần lấy từ mục lục của Hán thư Nghệ Văn Chí , có 884 quyển là kinh luận của Đạo giáo. (…) Đào Chu là Phạm Lăi, người thân cận theo hầu Việt vương Câu Tiễn. Vua tôi thảy đều bị bắt giam tù ở nhà Ngô, ăn phẩn uống nước tiểu cũng đành cam chịu. Lại nữa, con Phạm Lăi bị giết ở Tề Phụ. Nếu Phạm Lăi đă có thuật biến hóa, tại sao không biến hóa để thoát khỏi? Căn cứ Đạo Lập Thiên Địa Kư nói: “Lăo Tử thác sinh trong bụng của Hoàng hậu U Vương . Nói cách khác, Lăo Tử là con của U Vương . Lại nói: “Bản thân làm Trụ sử.” Nói cách khác, Lăo Tử là bầy tôi của U Vương. Hóa Hồ Kinh nói: “Lăo Tử ở Hán triều làm Đông Phương Sóc .” Nếu xét vậy, biết U Vương bị Khuyển Nhung giết hại, đâu có thể chẳng mến thương vua cha mà cho thần phù để khiến vua cha không bị giết ư? (…) Đă tham khảo mục lục của Lục Tu Tĩnh rồi, nhưng nó không có bản chánh, sao nói bậy quá vậy! Lục Tu Tĩnh làm danh mục đă là sự lừa dối lớn, mà Huyền Đô Lục [dựa vào đó] lại là sự lừa dối kết hợp với sự lừa dối vậy.”
(106) Lại nói: “Trong Đại Kinh nói: ‘Đạo có 96 thứ, chỉ có một đạo Phật là chánh đạo, ngoài ra, 95 thứ đều là ngoại đạo.’ Trẫm bỏ ngoại đạo đề phụng thờ Như Lai. Nếu công khanh nào có thể cùng vào thệ nguyện này, th́ mỗi người tự có thể phát tâm Bồ-đề. Lăo Tử, Chung Công, Khổng Tử tuy là đệ tử Đức Như Lai, hướng dẫn người khác nhưng đă đi sai đường rối. Những lời dạy của họ chỉ là thiện của thế gian, chẳng thể rời xa phàm trần mà thành Thánh. Công khanh bá quan, hầu vương tôn thất, nên bỏ ngụy trở về chân, xả tà vào chánh. Thế nên, kinh giáo trong luận Thành Thật nói: ‘Nếu tâm phụng sự ngoại đạo sâu nặng, tâm phụng sự Phật pháp thường nhẹ, th́ là tà kiến. Nếu tâm b́nh đẳng như nhau, th́ là vô kư, không tương ứng với thiện hay ác. C̣n tâm phụng sự Phật lớn mạnh, tâm phụng sự Lăo Tử yếu kém, mới thật là Thanh tín.’ Nói về Thanh tín. Thanh, có nghĩa là trong sạch cả trong lẫn ngoài, tất cả cấu uế và hoặc lụy đă được loại bỏ hoàn toàn. Tín, có nghĩa là phó thác bản thân cho điều đúng đắn và thoát khỏi tà kiến. V́ vậy, người ta thường gọi là ‘đệ tử của Đức Phật có đức tin thanh tịnh’. Những đức tin khác đều là tà kiến, chúng không thể được gọi là Thanh tín. (…) Hăy loại bỏ những lời dạy sai lầm của Lăo Tử và đi vào những lời dạy chân chánh của Pháp lưu!
(107) Ḥa thượng chùa Quang Minh nói: “Thượng phương chư Phật như hằng sa Đưa ra tướng lưỡi trùm Ta-bà Thập ác, ngũ nghịch, nhiều nghi báng Tin tà, thờ quỷ, nuôi thần ma Vọng tưởng xin ơn gọi có phước Tai chướng hoạn nạn chuyển càng nhiều Mấy năm nằm bệnh liệt gường chiếu Điếc đui, chân găy, tay co quắp Phụng thờ thần minh được báo này V́ sao không bỏ, niệm Di Đà.”
(108) Pháp Giới Thứ Đệ của Thiên Thai nói: “Một là, quy y Phật. Kinh [Đại Niết Bàn] nói: ‘Người quy y nơi Phật, [Chánh gọi Ưu-bà-tắc,] Trọn đời không quy y, Các thiên thần nào khác.’ Lại nói: ‘Người quy y nơi Phật, Quyết không đọa đường ác.’ Hai là, quy y Pháp, nghĩa là nên quy y và thực hành những ǵ bậc Đại Thánh đă dạy, dù đó là giáo hay lư. Ba là, quy y Tăng, nghĩa là tâm quy y những người xuất gia và thực hành đúng giáo lư của Ba thừa. Thế nên Kinh [Đại Niết Bàn] nói: ‘Trọn đời không quy y, Các ngoại đạo nào khác.’
(109) Đại sư Từ Vân nói: “Về pháp cúng tế, ở Thiên Trúc có kinh Vệ-đà, ở Trung Quốc có sách nghi lễ tế tự, nhưng vẫn chưa dẫn đến sự giải thoát thế gian, mà chỉ là quyền phương tiện để luận bàn chân, khuyên nhủ tục.”
(110) Pháp sư Đế Quán ở Cao Ly nói: “Ngạ quỷ đạo, Phạn ngữ là đồ-lê-đa. Ngạ quỷ đạo ở khắp cả các cơi. Những người có phước đức th́ làm thần trong núi, rừng, g̣ mả, miếu thờ. Những kẻ không phước đức th́ ở chỗ chẳng sạch, chẳng được ăn uống, luôn bị đánh đập, ngăn sông, lấp biển, chịu khổ vô lượng. Những chúng sinh nào có tâm ư siểm cuống , gây tạo ngũ nghịch và thập ác ở hạ phẩm, th́ nhận chịu cái thân của ngạ quỷ đạo.”
(111) Pháp sư Thần Trí giải thích: “Ngạ quỷ đạo: Ngạ, chỉ cho sự đói khát liên tục. Quỷ, chỉ cho sự trở về. Thi Tử nói: “Người xưa gọi người chết là ‘quy nhân’ (歸人, người trở về).” Lại nữa, nhân thần được gọi là quỷ (鬼), địa thần được gọi là kỳ (祇) … Về h́nh thức, họ có thể giống con người hoặc giống động vật. Tâm không chánh trực, gọi là siểm cuống.”
(112) Luật sư Đại Trí nói: “Thần, là quỷ thần. Họ thuộc về bốn cơi: chư thiên, A-tu-la, quỷ và địa ngục.”
(113) Luật sư Giới Độ nói: “Ma là chúng sinh ở đường ác.”
(114) Ma Ha Chỉ Quán, phần Quán ma sự cảnh, ghi: “2. Nói về Ma phát tướng: Điểm chung là ‘quản lănh (chủ) và quyến thuộc’ (dân) đều gọi là ma. T́m kỹ điểm khác biệt, không ngoài ba thứ: một là, nịnh dịch quỷ; hai là, thời mị quỷ; ba là, ma-la quỷ. Ba thứ phát tướng, mỗi một khác nhau.”
(115) Ngài Nguyên Tín dựa vào Luận Chỉ Quán, nói:
“Ma dựa vào phiền năo để cản trở Bồ-đề. Quỷ gây ra bệnh dữ để tước đoạt mạng căn.”
(116) Luận Ngữ nói: “Quư Lộ hỏi đạo thờ quỷ thần. Khổng tử đáp: Chưa biết đạo thờ người, sao biết được đạo thờ quỷ thần?”
(117) Suy ngẫm riêng tôi, thấy rằng trong Thánh đạo chư giáo, việc thực hành và chứng ngộ từ lâu phế bỏ; c̣n ở Tịnh độ Chân tông, con đường dẫn đến chứng ngộ hiện đang hưng thịnh. Tuy nhiên, chư vị Thích môn ở các tự viện đă thiếu cái nh́n sâu sắc về giáo lư, không biết ǵ về cánh cửa chân giả. Các vị Nho lâm ở kinh đô Lạc Dương th́ bối rối về việc thực hành, không phân biệt được con đường chánh tà. V́ vậy, các học đồ của Hưng Phước Tự đă dâng tờ tấu trạng lên Thái thượng Thiên hoàng {hiệu Hậu Điểu Vũ Viện, húy Tôn Thành} và Kim thượng {hiệu Thổ Ngự Môn Viện, húy Vi Nhân}, vào thượng tuần Trọng Xuân, Thánh lịch Thừa Nguyên, năm Đinh Măo (1207). Chúa thượng và quan hạ đă quay lưng với pháp và làm trái với nghĩa, trở nên tức giận và cay đắng. Kết quả là, Pháp sư Nguyên Không – Đại Tổ hưng long Chân tông [ở Nhật Bản] – và một số môn đồ của ông, không nhận được bất kỳ sự cân nhắc kỹ lưỡng nào về tội ác [được cho là] của họ, đă bị kết án tử h́nh, hoặc bị tước bỏ Tăng nghi, đặt tên họ [thế tục] và bị đày đi xa. Do đó, bây giờ tôi không phải là Tăng sĩ, cũng không phải là một người đời. V́ lư do này, tôi đă lấy chữ ‘Ngốc’ làm họ của ḿnh. Thầy Nguyên Không và các đệ tử đă bị đày đến các châu khác nhau, trải qua thời gian 5 năm [lưu đày]. Niên hiệu Kiến Lịch (建暦), ngày 17 tháng 11 năm Tân Mùi (1211), dưới thời trị v́ của hoàng đế Thủ Thành Thánh Đại, Nguyên Không nhận được lệnh ân xá của hoàng gia và trở về Lạc Dương (Kyoto). Sau đó, Thầy sống ở kinh đô, vùng Đại Cốc (Ōtani), phía bắc Điểu Bộ Dă (Toribeno), chân núi phía tây Đông Sơn (Higashiyama). Kiến Lịch thứ hai, năm Nhâm Thân (1212), vào giữa trưa ngày 25 tháng Giêng, ngài Nguyên Không viên tịch. Những dấu hiệu tốt lành [xảy ra lúc đó], quá nhiều để ghi ra đây, có thể xem trong biệt truyện của ngài.
(118) Tôi, Ngu Ngốc Thích Thân Loan, đệ tử của Đức Thích Ca Mâu Ni, đă từ bỏ tạp hành và quy y Bản nguyện vào niên hiệu Kiến Nhân (建仁), năm Tân Dậu (1201). Niên hiệu Nguyên Cửu (元久), năm Ất Sửu (1205), Thầy Nguyên Không, với tâm từ bi, đă cho phép tôi sao chép Tuyển Trạch Bản Nguyện. Cùng năm đó, vào ngày 14 tháng 4, Đạo sư tự tay viết bên trong quyển Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập , với ḍng chữ, “Nam mô A Di Đà Phật – Văng sinh chi nghiệp, niệm Phật vi tiên” và chữ “Thích Xước Không” [, tên ngài ban cho tôi]. Ngày hôm đó, sự thỉnh cầu mượn bức chân dung của Thầy được chấp nhận và tôi đă sao chép lại. Cùng năm đó, vào ngày 9 tháng Bảy nhuận, Đạo sư đă khắc ḍng chữ “Nam mô A Di Đà Phật” trong bản sao bức chân dung, và viết một đoạn văn diễn tả chân giáo: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương nguyện sinh vào nước tôi, xưng danh hiệu tôi, nhẫn đến mười tiếng, nương nguyện lực của tôi, nếu như không được sinh th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác. Đức Phật kia nay đă thành Phật. Nên biết rằng, bản thệ trọng nguyện chẳng phải vô ích, chúng sinh xưng niệm th́ chắc chắn được văng sinh.” Hơn nữa, v́ tên tôi “Xước Không” đă được đổi theo sự chỉ bảo trong một giấc mơ, nên cùng ngày đó, Thầy đă tự tay viết thư pháp tên mới của tôi. Lúc ấy, Bổn sư Thánh nhân được 73 tuổi. Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập được biên soạn theo thỉnh cầu của Thiền Định Bác Lục {Nguyệt Luân điện, Kiêm Thật, pháp danh Viên Chiếu}. Trọng yếu giản lược của Chân tông và nghĩa lư uyên áo của niệm Phật đă được tập hợp trong tác phẩm này. Điều này khiến người đọc dễ dàng hiểu được. Quả thật, tác phẩm này là hoa văn hy hữu tối thắng, là bảo điển vô thượng thậm thâm. Qua nhiều năm tháng, ngàn vạn người thọ nhận giáo lư của Thầy, nhưng dù họ có là thân hay sơ với Thầy, th́ rất ít người có cơ hội đọc và chép cuốn sách này. Tuy nhiên, trên thực tế tôi đă sao chép đồ thư và chế tác chân ảnh của Thầy. Đây là đức hạnh của ‘chuyên niệm chánh nghiệp’ và là biểu hiện của ‘quyết định văng sinh’. V́ vậy, cố nén những giọt nước mắt vừa buồn vừa vui, tôi ghi lại những hoàn cảnh đă dẫn đến [việc tôi biên soạn tác phẩm này]. Mừng thay, tâm trí tôi cắm rễ vào Phật địa Hoằng thệ, ư nghĩ tôi chảy trong Pháp hải Nan tư. Tôi ư thức sâu xa ḷng bi mẫn của Như Lai, và tôi thành tâm tôn kính cái ơn sâu dầy của Sư giáo. Sự mừng vui càng sâu, ḷng chí hiếu càng nặng. V́ vậy, tôi đă sao chép sự giảng giải của Chân tông và chọn lấy điểm tinh yếu của Tịnh độ. Chỉ nhớ đến ơn sâu của Đức Phật, tôi không thấy hổ thẹn khi người ta chế nhạo. Cầu mong những ai thấy và nghe tác phẩm này – hoặc tín thuận làm nhân, hoặc nghi báng làm duyên – hăy công bố tín lạc [của ḿnh] nơi nguyện lực và hiển lộ diệu quả [của Phật] nơi An Dưỡng.
(119) An Lạc Tập nói: “Tôi đă tập hợp những lời chân thật để giúp người tu tập được lợi ích văng sinh. V́ sao? V́ muốn cho người sinh trước dẫn đường người sau, và người sinh sau bắt chước người trước. Như vậy, người văng sinh liên tục không cùng, nguyện chẳng ngừng nghỉ, để cạn kiệt biển cả ‘sinh tử vô biên’.”
(120) Do đó, các Tăng sĩ và cư sĩ ở thời kỳ Mạt pháp nên tín kính tôn trọng [giáo lư này]. Nên biết điều này.
(121) Như kệ tụng trong Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu ai thấy Bồ-tát Tu hành những công hạnh Khởi tâm thiện, bất thiện Bồ-tát đều nhiếp lấy.”
Chuyển dịch xong ngày 9/9/2023 (25/7/Quư Măo) Phật tử Quảng Minh chí tâm đảnh lễ Thập phương Thương trú Tam bảo, nguyện xin Pháp bảo này lưu thông để chúng sinh được lợi ích văng sinh.
Hiển Tịnh Độ Chân Thật Giáo Hành Chứng Văn Loại
|