VT 0453
Phật Thuyết Kinh Di Lặc Hạ Sanh
Hán Dịch Đời Tây Tần Nguyệt Thị Tam Tạng Trúc Pháp Hộ Hán Dịch-
Việt Dịch: Thích Nữ Chơn Ngộ
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật ở tại nước Xá Vệ, trong vườn Kỳ Thọ của trưởng giả Cấp Cô Độc, cùng với năm trăm vị đại Tỳ Kheo câu hội.
Lúc bấy giờ, ngài A Nan trịch áo bày cánh vai phải, gối phải quỳ sát đất bạch với đức Phật rằng:
“Như Lai y theo tự tánh mà quan sát! Không việc ǵ không thấu rơ, ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, thảy đều thông suốt. Tên họ cùng danh hiệu, chúng đệ tử và các vị Bồ Tát, chúng tùy tùng quyến thuộc của chư Phật thuở quá khứ nhiều ít thảy đều biết rơ; Cho đến một kiếp, trăm kiếp, hay vô số kiếp, thảy đều quán sát và biết rơ cũng lại như vậy. Như Lai đều có thể phân biệt tên họ của quốc vương, đại thần cùng dân chúng nơi đó. Như hiện tại ở trong nước này có bao nhiêu chúng sanh, cũng lại biết rơ như thế. Trong tương lai lâu xa về sau Đức Di Lặc sẽ xuất hiện ở thế gian, để thành bậc Chí Chân, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Nay chúng con muốn nghe việc ấy, Ngài có bao nhiêu chúng đệ tử, quyến thuộc, cơi nước Phật an vui như thế nào và sẽ kéo dài bao lâu?”
Phật bảo ngài A Nan: “Ông trở về chỗ ngồi xuống và lắng nghe Ta nói về sự xuất hiện của Đức Di Lặc cùng cơi nước an vui, chúng đệ tử nhiều hay ít. Ông hăy khéo tư duy và luôn nhớ nghĩ.”
Lúc bấy giờ, ngài A Nan vâng lời Phật dạy và liền trở về chỗ ngồi.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài A Nan rằng: Trong tương lai lâu xa về sau, ở thế giới này sẽ có một thành quách tên là Sí Đầu, hướng đông tây mười hai do tuần, nam bắc bảy do tuần, đất đai màu mỡ, cuộc sống của dân chúng thịnh vượng, và có đường lộ thẳng tắp.
Lúc bấy giờ, trong thành có một long vương tên là Thủy Quang. Ban đêm vua rồng mưa hương thơm thấm ướt đất, c̣n ban ngày th́ làm cho không khí ôn ḥa mát mẻ.
Lúc ấy, trong thành Sí Đầu có một quỷ La Sát tên là Diệp Hoa, việc làm luôn thuận theo giáo Pháp và không vi phạm chánh giáo. Sau khi mọi người đă an giấc, nó đi đến những nơi bất tịnh để tẩy trừ đồ ô uế, rồi lấy nước hương mà rưới lên chỗ đất đó và làm cho sạch sẽ và thơm ngát vô cùng.
A Nan, ông nên biết, lúc bấy giờ đất đai ở châu Diêm Phù, đông tây nam bắc là ngàn vạn do tuần. Các núi non, sông hồ và vách đá thảy đều tự diệt mất. Nước của bốn biển lớn, trong mỗi biển sẽ giảm bớt đi một vạn. Khi ấy, mặt đất ở châu Diêm Phù sẽ cực kỳ bằng phẳng, giống như tấm gương sáng. Khắp đất đai ở trong châu Diêm Phù đều có ngũ cốc tươi tốt, cuộc sống nhân dân thịnh vượng, có rất nhiều đồ trân bảo, các thôn xóm kề cận và chỉ cách xa bằng tiếng gà gáy. Lúc ấy, những loại hoa quả cùng cây cối khô héo và hôi xấu đều cũng sẽ tự biến mất. Duy chỉ c̣n lại cây đẹp quả ngọt. Những giống cây thơm ngát và tuyệt đẹp sanh nở khắp trên mặt đất.
Lúc bấy giờ, khí hậu ôn ḥa mát mẻ, thời tiết bốn mùa thuận ḥa. Dân chúng trong cơi nước kia đều không có 108 loại hoạn nạn. Họ không có tham dục, sân nhuế, ngu si và không hoan hỷ không siêng năng. Ḷng người b́nh an và đều cùng một tâm ư, khi gặp nhau, họ đều vui mừng và nói với nhau những điều tốt lành. Họ có cùng một ngôn ngữ không có sai khác, giống như người ở Bắc Câu Lô châu, không có sai khác.
Khi ấy ở trong châu Diêm Phù, dân chúng lớn nhỏ đều cùng một chí hướng, không có sự sai biệt. Khi họ muốn đi đại tiểu tiện, thời đất sẽ tự nhiên hé ra và sau khi việc xong đất liền khép lại.
Lúc bấy giờ, đất đai ở trong châu Diêm Phù sẽ tự nhiên mọc ra lúa gạo không có vỏ trấu, cực ḱ thơm ngon, khi ăn vào thời sẽ không có bệnh khổ. Các châu báu như là vàng, bạc, trân bảo, xa cừ, mă năo, trân châu và hổ phách, chúng nằm rải khắp nơi trên đất mà chẳng có ai trông coi. Lúc bấy giờ, nhân dân cầm những châu bảo này và đều tự nói lời như vầy: “Người xưa v́ những châu báu này mà tàn hại lẫn nhau, khiến cho phải bị nhốt giam vào lao ngục để thọ lấy vô số khổ năo. Ngày hôm nay, các châu báu này ví như ngói đá, không có ai bảo quản.'
Lúc bấy giờ, Đấng Pháp Vương sẽ xuất hiện, ngài tên là Nhương Khư. Ngài dùng Chánh Pháp cai trị giáo hóa, thành tựu bảy món bảo. Bảy món bảo đó là: luân bảo, voi bảo, ngựa bảo, châu bảo, ngọc nữ bảo, binh bảo, thần bảo, gọi là bảy món báu. Bảy báu này trấn giữ trong châu Diêm Phù, không dùng đến dao gậy mà hết thảy đều tự nhiên thuần phục.
Lúc bấy giờ, A Nan! Có bốn bảo tàng: Bảo tàng Y La Bát ở tại nước Càn Đà Việt, có rất nhiều các trân bảo ḱ lạ, số không thể kể xiết. Thứ hai, Đại bảo tàng Trù La ở tại nước Di Đề La, cũng có rất nhiều trân bảo. Thứ ba, Đại bảo tàng ở tại nước Tu La Tra, cũng có rất nhiều trân bảo. Thứ tư, Đại bảo tàng Nhương Khư ở tại nước Ba La Nại, có vô số trân bảo, nhiều không thể kể xiết. Bốn đại bảo tàng này tự nhiên ứng hiện, những người canh giữ đều đến tâu với nhà vua rằng: “Kính mong đại vương hăy lấy các vật báu của những bảo tàng này mà bố thí cho các kẻ bần cùng.” Lúc bấy giờ, đại vương Nhương Khư có được những bảo tàng này rồi, cũng không tính đếm ghi chép lại, ḷng không nghĩ tưởng đến những tài bảo ấy.
Lúc bấy giờ, trong châu Diêm Phù, trên cây tự nhiên sanh ra y phục, cực ḱ mềm mại, dân chúng lấy mặc. Giống như người ở Bắc Câu Lô châu lúc bấy giờ, trên cây tự nhiên sanh ra y phục, không một chút sai khác.
Lúc bấy giờ, vua kia có một vị đại thần tên là Tu Phạm Ma, là bạn tốt thời niên thiếu của đức vua, rất được nhà vua hết mực kính trọng. Ngài lại có tướng mạo đoan chánh, không cao không thấp, không mập không ốm, không trắng không đen, không già không trẻ.
Lúc bấy giờ, Tu Phạm Ma có một vị thê tử tên là Phạm Ma Việt. Trong các cô con gái của nhà vua, nàng là vị công chúa tài sắc vẹn toàn nhất và có dung nhan như phi hậu của thiên đế. Trong miệng tỏa ra mùi hương của hoa sen xanh, trên thân toát ra mùi hương chiên đàn. Tám mươi bốn thói xấu của các người nữ vĩnh viễn không c̣n sanh khởi, cũng không có tật bệnh cùng mọi ư tưởng sai quấy.
Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát ở cơi trời Đâu Suất, quán thấy cha mẹ ḿnh không già và cũng không trẻ, rồi ngài giáng thần vào thai mẹ và từ hông bên phải hạ sanh. Cũng giống như Ta ngày nay đă sanh ra từ hông bên phải, không một chút sai khác. Di Lặc Bồ Tát cũng lại như thế. Khi đó mỗi vị chư thiên ở cơi trời Đâu Suất đều xướng lên rằng: “Di Lặc Bồ Tát đă giáng thần hạ sanh.”
Lúc bấy giờ, đại thần Tu Phạm Ma liền đặt tên cho con là Di Lặc. Di Lặc Bồ Tát thân màu vàng kim có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẽ đẹp trang nghiêm thân ḿnh.
Vào thời ấy, tuổi thọ của loài người rất dài, không có các hoạn nạn và đều sống đến tám vạn bốn ngàn tuổi. Khi người nữ được 500 tuổi họ mới đi xuất giá.
Lúc bấy giờ, Đức Di Lặc sống tại gia khoảng một thời gian không lâu, liền sẽ xuất gia học Đạo. Lúc bấy giờ, ngài rời khỏi thành Sí Đầu và cách đó không xa có một Đạo thọ tên là Long Hoa, cao một do tuần, rộng 500 bước. Di Lặc Bồ Tát sẽ ngồi ở dưới cây kia mà thành Đạo quả Vô Thượng.
Lúc giữa đêm Đức Di Lặc xuất gia, ngay trong đêm đó ngài thành tựu Vô Thượng Đạo. Lúc bấy giờ, Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới chấn động sáu cách, mỗi một vị địa thần đều bảo với nhau rằng: “Bây giờ Đức Di Lặc đă thành Phật.”
Sau đó tiếng vang chuyển đến cung trời của Tứ Thiên Vương: “Đức Di Lặc đă thành Phật Đạo.”
Tiếp đó tiếng vang lan đến khắp cơi trời Đao Lợi, trời Tu Diệm Ma, trời Đâu Suất Đà, trời Hóa Tự Tại, trời Tha Hóa Tự Tại, và âm thanh đó triển chuyển vang đến tận cơi Phạm Thiên: “Đức Di Lặc đă thành Phật Đạo.”
Lúc bấy giờ, có ma vương tên là Đại Tướng, dùng Pháp trị v́ giáo hóa. Khi nghe được danh hiệu của Như Lai, vui mừng hớn hở không thể dừng lại, đến nỗi suốt bảy ngày bảy đêm không ngủ nghỉ. Lúc ấy, ma vương dẫn theo vô số thiên nhân từ cơi trời dục giới đến chỗ của Đức Phật Di Lặc để cung kính lễ bái.
Thánh Tôn Di Lặc v́ các hàng trời người mà lần lượt giảng nói bàn luận về các pháp vi diệu. Bàn luận về những ǵ, bàn luận về bố thí, tŕ giới, bàn về việc sanh lên cơi trời, ư tưởng tham dục bất tịnh, con đường xuất yếu vi diệu.
Lúc bấy giờ, Đức Di Lặc nh́n thấy mọi người đă phát khởi tâm hoan hỷ, Ngài v́ chư thiên mà rộng răi phân biệt nghĩa lư về Pháp Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo của chư Phật Thế Tôn thường giảng nói. Lúc ấy, có tám vạn bốn ngàn thiên tử, dứt sạch các trần cấu, đắc Pháp nhăn thanh tịnh.
Lúc bấy giờ, Đại Tướng Ma Vương bảo dân chúng của các thế giới kia rằng: “Các ông hăy mau xuất gia. V́ sao? Bởi v́ hôm nay Đức Di Lặc đă qua bờ bên kia, nên Ngài cũng sẽ độ thoát các ông khiến đến được bờ bên kia.”
Lúc bấy giờ, ở trong thành Sí Đầu có một trưởng giả tên là Thiện Tài, nghe lệnh chỉ dạy của ma vương, lại nghe thanh âm của Phật, nên đă dẫn theo tám vạn bốn ngàn người đến chỗ Đạo Tràng của Đức Phật Di Lặc, đầu mặt tiếp đất đảnh lễ dưới chân Phật, và ngồi qua một bên.
Lúc ấy, Đức Di Lặc lần lượt giảng nói bàn luận các pháp vi diệu. Bàn luận về những ǵ: Bàn luận về bố thí, tŕ giới, bàn về việc sanh lên cơi trời, ư tưởng tham dục bất tịnh, con đường xuất yếu vi diệu.
Lúc bấy giờ, Đức Di Lặc nh́n thấy tâm ư của mọi người đă thông hiểu, Ngài v́ chư thiên mà rộng răi phân biệt nghĩa lư về Pháp Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo của chư Phật Thế Tôn thường giảng nói.
Lúc ấy, có tám vạn bốn ngàn thiên tử, dứt sạch các trần cấu, đắc Pháp nhăn thanh tịnh. Lúc ấy, trưởng giả Thiện Tài và tám vạn bốn ngàn người liền đến trước Phật thưa thỉnh cầu xin xuất gia, khéo tu Phạm hạnh, đều được thành tựu Đạo A La Hán.
“Lúc bấy giờ, Pháp hội lúc ban sơ của Đức Di Lặc có tám vạn bốn ngàn người đắc quả A La Hán.
Khi ấy, Vua Nhương Khư nghe Đức Di Lặc đă thành Phật Đạo, liền đến chỗ của đức Phật muốn được nghe Pháp. Lúc đó, Đức Phật Di Lặc thuyết Pháp cho nhà Vua về pháp thiện ban đầu, pháp thiện chặng giữa, pháp thiện sau cùng và các nghĩa lư thâm thúy. Lúc ấy, Đại Vương sau một thời gian bèn lập thái tử lên ngôi Vua, cúng dường cho bậc thầy thế phát xuất gia các đồ trân bảo, lại dùng những châu báu khác nhau để thí cho hàng Phạm Chí. Rồi dẫn tám vạn bốn ngàn người đến chỗ của đức Phật cầu được làm Sa môn, thảy đều thành tựu Đạo quả và chứng đắc A La Hán.
“Lúc bấy giờ, đại trưởng giả Tu Phạm Ma nghe Đức Di Lặc đă thành Phật Đạo, dẫn theo tám vạn bốn ngàn chúng Phạm Chí đến chỗ của đức Phật cầu xin làm Sa môn, đều đắc quả A La Hán—Chỉ riêng một ḿnh Tu Phạm Ma đoạn trừ ba kết sử diệt sạch các thống khổ.
Lúc ấy, Phật mẫu Phạm Ma Việt cũng dẫn theo tám vạn bốn ngàn chúng thể nữ đến chỗ của đức Phật cầu xin làm Sa Môn. Lúc ấy, các vị nữ nhân này thảy đều đắc quả A La Hán—chỉ riêng một ḿnh Phạm Ma Việt đoạn trừ ba kết sử thành tựu Tu Đà Hoàn.
Lúc bấy giờ, khi các phu nhân của hàng sát đế lợi nghe Đức Di Lặc Như Lai xuất hiện ở thế gian và thành Đẳng Chánh Giác, hàng ngàn vạn chúng đến chỗ của đức Phật, đầu mặt tiếp đất đảnh lễ dưới chân Phật và ngồi qua một bên. Trong ḷng họ ai nấy đều muốn làm Sa Môn, xuất gia học Đạo, hoặc có người vượt bậc chứng quả, hoặc có người th́ không được chứng quả.
Lúc bấy giờ, A Nan! Những người không vượt bậc chứng quả đó, đều là những người phụng sự Phật Pháp, nhàm chán mọi việc trên thế gian, tu hành các tưởng không đáng ưa.
Lúc bấy giờ, Đức Di Lặc cũng sẽ nói các giáo Pháp của tam thừa, như Ta hôm nay vậy. Trong chúng đệ tử, Đại Ca Diếp là vị tu hành theo 12 hạnh đầu đà, ở chỗ chư Phật thuở quá khứ khéo tu Phạm hạnh, Vị này sẽ trợ giúp Đức Di Lặc khuyến tấn và giáo hóa dân chúng.”
Lúc bấy giờ, Ngài Ca Diếp đi cách chỗ của Như Lai không xa rồi ngồi kiết già, thân ư chân chánh buộc ư niệm ở ngay hiện tại.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo ngài Ca Diếp rằng: “Ta nay già yếu đă ngoài 80 tuổi. Nay Như Lai có bốn đại Thanh Văn kham nhận đảm đang việc du hóa, với trí tuệ vô tận, đầy đủ phước đức. Bốn vị này là những ai? Đó là: Tỳ Kheo Đại Ca Diếp, Tỳ Kheo Đồ Bát Thán, Tỳ Kheo Tân Đầu Lô và Tỳ Kheo La Vân.
Các ông Tứ đại Thanh Văn đây đừng vội nhập Niết Bàn, phải đợi Pháp của Ta diệt tận, rồi sau đó mới nhập Niết Bàn. Đại Ca Diếp cũng không nên vào Niết Bàn, phải đợi đến khi Đức Di Lặc xuất hiện ở thế gian. V́ sao như vậy? Đệ tử do Đức Di Lặc giáo hóa thảy đều là đệ tử của đức Thích Ca Văn, do Ta phó chúc để giáo hóa và khiến họ dứt trừ sạch hữu lậu.
“Đại Ca Diếp sẽ ở trên một ngọn núi thuộc thôn Tỳ Đề trong nước Ma Kiệt mà nhập định. Khi Đức Di Lặc Như Lai thành Đạo dẫn theo vô số ngàn người đi đến núi kia. Nhờ hồng ân của Phật, các quỷ thần sẽ mở cửa, liền được thấy Đại Ca Diếp đang nhập thiền định trong hang động.
Khi đó, Đức Di Lặc dùng ngón tay bên phải chỉ vào ngài Ca Diếp, bảo với các đại chúng rằng: “Vào thuở quá khứ lâu xa về trước, đức Phật Thích Ca Văn có một đệ tử tên là Ca Diếp, là vị tu hạnh đầu đà đệ nhất. Hôm nay hiện tại chính là người này.”
Lúc ấy, đại chúng thấy việc ấy xong, đều tán thán là việc chưa từng có. Vô số trăm ngàn chúng sanh sẽ dứt sạch các trần cấu và đắc Pháp nhăn thanh tịnh. Hoặc lại có chúng sanh đă thấy được thân tướng của ngài Đại Ca Diếp rồi. Đây gọi là pháp hội đầu tiên và sẽ có chín mươi sáu ức người đắc Đạo A La Hán. Những người này đều là các đệ tử của Ta. V́ sao như vậy? Bởi v́ họ đều do Ta giáo huấn và làm theo bốn sự nhân duyên: huệ thí, nhân ái, và những việc làm lợi ích mọi người.
A Nan! Khi đó Đức Di Lặc Như Lai sẽ lấy y Tăng già lê đắp lên thân của ngài Đại Ca Diếp. Lúc ấy, thân của ngài Đại Ca Diếp an nhiên mát mẻ. Lúc bấy giờ, Đức Di Lặc lại dùng các thứ hương hoa để cúng dường ngài Đại Ca Diếp. V́ sao như vậy? Đó là v́ chư Phật Thế Tôn đều có ḷng cung kính đối với Chánh Pháp. Di Lặc cũng đă thọ Chánh Pháp từ nơi Ta giáo hóa, mà đắc thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
A Nan! Ông nên biết, ở hội thứ hai của Đức Phật Di Lặc có chín mươi bốn ức người, đều là A La Hán. Cũng đều là đệ tử di giáo của Ta, thực hành bốn sự cúng dường cho nên mới được như vậy.
Lại ở hội thứ ba của Đức Phật Di Lặc có chín mươi hai ức người, đều là A La Hán. Cũng đều là đệ tử di giáo của Ta.
Khi đó, danh hiệu của Tỳ Kheo đều gọi là đệ tử của Từ Thị, như Ta hôm nay, các hàng Thanh Văn đều xưng là đệ tử của Thích Ca.
Lúc bấy giờ, Đức Di Lặc sẽ thuyết Pháp cho các đệ tử như vầy: “Tỳ Kheo các ông! Nên tư duy: nghĩ tưởng vô thường; nghĩ tưởng trong vui có khổ; nghĩ tưởng cái ǵ là Ngă, cái ǵ là không có ngă; nghĩ tưởng cái ǵ là thật có cái ǵ là không; nghĩ tưởng sự biến đổi của sắc thân; nghĩ tưởng người chết bắt đầu thối rửa; nghĩ tưởng thân bị phù thũng; nghĩ tưởng ăn không tiêu hóa; nghĩ tưởng máu mủ mụt nhọt; nghĩ tưởng mọi thứ trên thế gian đều chẳng đáng vui. Tại sao như vậy? Các Tỳ Kheo nên biết, mười điều nghĩ tưởng này đều là do Đức Phật Thích Ca Văn trong thuở quá khứ đă giảng nói cho các ông, khiến các ông dứt trừ hữu lậu, tâm được giải thoát. Nếu có ai trong chúng đệ tử của Đức Phật Thích Ca Văn, ở thuở quá khứ tu hành Phạm hạnh, th́ sẽ đến chỗ của Ta. Hoặc đă ở chỗ Đức Phật Thích Ca Văn cúng dường Tam Bảo, sẽ đến chỗ của Ta. Hoặc đă ở chỗ Đức Phật Thích Ca Văn tu căn lành trong chừng thời gian khảy móng tay, th́ sẽ đến chỗ của Ta. Hoặc đă ở chỗ Đức Phật Thích Ca Văn thực hành Tứ Vô Lượng Tâm, th́ sẽ đến chỗ của Ta. Hoặc đă ở chỗ Đức Phật Thích Ca Văn thọ tŕ Ngũ Giới và Tam Quy Y, th́ sẽ đến chỗ của Ta. Hoặc đă ở chỗ Đức Phật Thích Ca Văn dựng xây tháp miếu, th́ sẽ đến chỗ của Ta. Hoặc đă ở chỗ Đức Phật Thích Ca Văn tu bổ chùa tháp, th́ sẽ đến chỗ của Ta. Hoặc đă ở chỗ Đức Phật Thích Ca Văn thọ giới Bát Quan Trai, th́ sẽ đến chỗ của Ta. Hoặc đă ở chỗ Đức Phật Thích Ca Văn cúng dường hương hoa, th́ sẽ đến chỗ của Ta. Hoặc đă ở chỗ Đức Phật Thích Ca Văn rơi lệ thương khóc khi nghe Chánh Pháp, th́ sẽ đến chỗ của Ta. Hoặc đă ở chỗ Đức Phật Thích Ca Văn chuyên tâm lắng nghe thọ tŕ Kinh Pháp, th́ sẽ đến chỗ của Ta. Hoặc lại đến hết thọ mạng khéo tu hành phạm hạnh, th́ sẽ đến chỗ của Ta. Hoặc lại có người biên chép hoặc đọc tụng Kinh điển, th́ sẽ đến chỗ của Ta. Hoặc lại phụng sự cúng dường, th́ sẽ đến chỗ của Ta.'
Lúc ấy, Đức Di Lặc liền nói bài kệ này:
“Siêng nghe tŕ giới tu công đức
Thiền định tư duy làm việc lành
Khéo tu hành các Phạm hạnh
Người đó sẽ đến chỗ của Ta.
Khuyến tấn bố thí tâm hoan hỷ
Phản bổn hoàn nguyên tu tâm tánh
Ư niệm không có các vọng tưởng,
Họ đều sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc phát tâm b́nh đẳng,
Phụng sự cúng dường nơi chư Phật
Thức ăn dâng cúng bậc Thánh chúng
Họ đều sẽ đến chỗ của Ta.
Hoặc tụng Khế Kinh thọ tŕ giới
Tu tập việc lành dạy bảo người
Thắp sáng ngọn đèn của Chánh Pháp
Nay họ sẽ đến chỗ của Ta.
Thích Ca phương tiện thiện xảo khéo giáo hóa,
Cúng dường lễ bái xá lợi Phật
Phụng sự Phật Pháp cúng dường Tăng
Nay họ sẽ đến chỗ của Ta.
Nếu như có người biên chép Kinh
Rộng tuyên truyền ấn tống kinh sách
Cúng dường thọ tŕ Kinh Pháp Phật
Họ đều sẽ đến chỗ của Ta.
Tràng phan lọng lụa cùng mọi vật
Cúng dường tự viện Phật tháp miếu
Trong ḷng nhớ niệm Nam mô Phật
Họ đều sẽ đến chỗ của Ta.
Cúng dường ở hiện tại,
Chư Phật trong quá khứ,
Thiền định chánh b́nh đẳng
Không có tăng và giảm.
Nên ở trong Phật Pháp,
Thừa sự chư Thánh Tăng,
Chuyên tâm phụng sự tam bảo,
Nhất định đến được chỗ vô vi”.
Này A Nan! Ông nên biết, Đức Di Lặc Như Lai sẽ ở trong đại chúng kia mà nói bài kệ đó. Khi ấy, trong chúng kia chư thiên cùng hàng người tư duy về 10 điều nghĩ tưởng trên. Lúc đó có mười một ức người dứt sạch các trần cấu, đắc Pháp nhăn thanh tịnh. Đức Di Lặc Như Lai trong một ngàn tuổi, chúng Tăng không có t́ vết. Lúc ấy, thường dùng một bài kệ để làm giới cấm:
'Khẩu ư không làm ác,
Thân cũng không sai phạm,
Nên trừ ba nghiệp này,
Mau thoát khỏi cửa sanh tử.”
Nhưng sau một ngàn năm, sẽ có người phạm giới, dần dần mới lập giới luật. Đức Di Lặc Như Lai sẽ thọ tám vạn bốn ngàn tuổi. Sau khi nhập Niết Bàn, giáo Pháp sẽ trụ thế tám vạn bốn ngàn năm. V́ sao như vậy? Bởi v́ chúng sanh thời đó đều là những người có căn tánh lanh lợi.
Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào muốn thấy được Đức Phật Di Lặc và chư Thanh Văn trong ba hội, thành Sí Đầu, cùng thấy vua Nhương Khư cùng bốn đại bảo tàng trân bảo, muốn ăn lúa gạo tự nhiên, mặc y phục tự nhiên, và sau khi mạng chung muốn sanh lên cơi trời, th́ thiện nam tử thiện nữ nhân này phải nên tinh tấn, không sanh tâm lười biếng, cũng nên phụng sự cúng dường các Pháp sư cùng lấy đủ mọi hương hoa để cúng dường, chớ để thiếu hụt.
A Nan! Phải nên học và thực hành theo như vậy.”
Lúc bấy giờ, ngài A Nan cùng các đại chúng, nghe đức Phật nói xong, liền hoan hỷ phụng hành.
Phật Thuyết Kinh Di Lặc Hạ Sanh
|