| 
	  VT0281  
	KINH BẢN NGHIỆP CỦA BỒ-TÁT 
	Hán dịch: Đời Ngô, Ưu-bà-tắc Chi Khiêm, người nước Nhục Chi. 
	Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh 
	Nghe như vầy:  
	Một thời, Phật đi đến đạo tràng Ma-kiệt, khi vừa đắc quả Phật, hào quang rực sáng, ngồi nơi tòa Sư tử hoa sen báu tự nhiên của chư Phật trong quá khứ đã ngồi. Đạo đức, oai nghi, tướng tốt, hoàn toàn như nhau, thân, ý thanh tịnh, phước hạnh đủ khắp. Ánh sáng chiếu suốt khắp pháp giới cõi con người, từ quá khứ, hiện tại đến vị lai không hề ngăn ngại, thành tựu ở đời, tất cả đều như nhau.  
	Lúc này ở trong hội, các Bồ-tát đều là bậc Nhất sinh bổ xứ, thần thông đạt đến chỗ cao tột biến khắp mười phương, chỉ dẫn đường tốt cho chúng sinh, mở bày tạng pháp của chư Phật, chỉ dạy con đường Niết-bàn, thâm nhập vào căn tánh của mỗi người; trí đức đời trước, phương tiện được vận dụng khéo léo, dạy bảo dần dần rồi hiểu rõ các pháp trong và ngoài, trước sau không dao động, biết được tất cả cảnh giới chư Phật, sự phân biệt cũng không còn, khen ngợi các danh hiệu Phật, xưng tụng không thể hết. Tất cả sự việc trong ba đường ác, cũng đều thông suốt, các Bồ-tát cùng khen ngợi: “Phật vì nghĩ đến chúng ta mà phát ra chí nguyện lớn, biểu hiện cho chúng ta thấy tất cả cảnh giới tốt xấu của chư Phật và cõi nước thù thắng nơi Phật thường qua lại để giáo hóa và phát triển đạo pháp, thần thông chói sáng, chỉ dạy cho trời người hiểu rõ giáo pháp. Bản nghiệp của Phật là Thập địa, Thập trí, Thập hạnh, Thập đầu, Thập tạng, Thập nguyện, Thập minh, Thập định, Thập hiện, Thập ấn, chặt đứt các lỗi lầm và các nghi ngờ vọng tưởng của chúng ta, vì chúng ta mà hiển hiện hạnh Phật, trí Phật, thần Phật, định Phật, tùy lúc mà hiến hóa vô lượng, luôn luôn tự tại. Bốn Vô sở úy, mười pháp Bất cộng, tất cả trí tuệ đều sáng suốt, đạo đức vô thượng, tất cả các việc ấy đều hiện bày rõ ràng.  
	Rất xa phương Đông  
	Có cõi Hương lâm  
	Phật Nhập Tinh Tấn  
	Bồ-tát Kính Thủ.  
	Rất xa phương Nam  
	Có cõi Lạc lâm  
	Phật Bất Xả Nhạo  
	Bồ-tát Giác Thủ.  
	Rất xa phương Tây  
	Có cõi Hoa lâm  
	Phật Tập Tinh Tấn  
	Bồ-tát Tuệ Thủ.  
	Rất xa phương Bắc  
	Có cõi Đạo lâm  
	Phật Hành Tinh Tấn  
	Bồ-tát Tuệ Thủ  
	Phương xa Đông bắc  
	Có cõi Thanh liên  
	Phật Bi Tinh Tấn  
	Bồ-tát Đức Thủ  
	Phương xa Đông nam  
	Có cõi Kim luân  
	Phật Tận Tinh Tấn  
	Bồ-tát Mục Thủ  
	Phương xa Tây nam  
	Có cõi Bảo lâm  
	Phật Thượng Tinh Tấn  
	Bồ-tát Minh Thủ  
	Phương xa Tây bắc  
	Có cõi Kim cang  
	Phật Nhất Thừa Độ  
	Bồ-tát Pháp Thủ   
	Rất xa phương Dưới  
	Có cõi Thủy tinh  
	Phật Phạm Tinh Tấn  
	Bồ-tát Trí Thủ  
	Rất xa phương Trên  
	Có cõi Dục lâm  
	Phật Chí Tinh Tấn  
	Bồ-tát Hiền Thủ.  
	Bấy giờ, Bồ-tát Hiền Thủ dẫn đầu vô số những Thượng nhân cùng đi đến cúi đầu sát chân Phật, rồi ngồi trên tòa sen một bên Phật.  
	Khi ấy, Bồ-tát Kính Thủ nương thánh chỉ của Phật, khen:  
	–Sung sướng thay! Được gặp Thượng nhân đang hội họp là việc chưa từng có. Quán sát nơi Ngài đến: Cõi Phật là cõi thanh tịnh, cho đến việc ăn mặc của Như Lai cũng đầy giới đức, thể hiện sự tu hành vi diệu, thành tựu hiểu biết về căn lực, giảng dạy kinh pháp, được oai thần của Phật, tùy cõi sạch, nhơ mà độ người nhiều vô số, truyền giáo pháp đến khắp nơi. Ngay trong cõi Phật này, cõi nước của những người đặc biệt có đến trăm vạn ức; nào hiền, ngu, tốt, xấu, thọ, yểu cùng vô số ngôn ngữ khác nhau, họ đều nghe đức độ của Phật, đều tự tôn xưng danh hiệu Phật. Hoặc có người tôn xưng Phật là bậc Thánh giả nhân; người tôn xưng Phật là Đại Sa-môn; hoặc gọi Chúng Hựu, hoặc gọi Thần Nhân, hoặc khen Dũng Trí, hoặc khen Thế Tôn, hoặc gọi là Năng Nhu, hoặc gọi là Thăng Tiên, hoặc kêu Thiên Sư, hoặc kêu Tối Thắng. Chư Thiên, nhân dân trong mười phương, tôn xưng danh hiệu Phật bằng vô số vạn ức tên như vậy. Đấy là do những người này đều nhờ vào bản nguyện của Phật từ xưa đến nay đã tuyên bố, giáo hóa đạo pháp cho họ.  
	Bấy giờ, từ tướng dưới bàn chân, Phật phóng bánh xe ánh sáng, chiếu khắp các cõi nước nhỏ thuộc thế giới chư Phật. Ở một cõi nước nhỏ, có một núi Tu-di, một mặt trời, một mặt trăng, chiếu sáng xoay quanh bốn châu thiên hạ. Phía Đông là Phất-vu-lệ, phía Nam là Diêm-phù-đề, phía Tây là Câu-da-ni, phía Bắc là Uất-đơn-việt. Chung quanh bốn biển lớn, có tường sắt bao bọc, ở trên có hai mươi tám tầng trời. Như vậy, làm thành một cõi nước nhỏ, khắp cả mười phương họp lại, có cả trăm ức cõi nước nhỏ như vậy.  
	Bấy giờ, lại hiện ra trăm ức núi Tu-di, trăm ức mặt trời, mặt trăng và các cõi trời như trời Tứ Thiên vương, trời Đao-lợi, trời Diệm ma, trời Đâu-thuật, trời Bất khiếu nhạo, trời Hóa ứng thanh, trời Phạm thiên, trời Phạm chúng thiên, trời Phạm phụ, trời Đại phạm, trời Thanh minh, trời Thủy hành, trời Thủy vi, trời Thủy vô lượng, trời Thủy âm, trời Ước tịnh, trời Biến tịnh, trời Tịnh minh, trời Thủy diệu, trời Vi diệu, trời Quảng diệu, trời Cực diệu, trời Phước ái, trời Ái thắng, trời Cận tế, trời Thiện quán, trời Khoái kiến, trời Vô kết ái, trời Thức tuệ thiên, trời Vô sở niệm tuệ, cho đến trời Vô sắc thứ hai mươi tám. Có cả trăm ức cõi nước nhỏ như vậy làm thành một cõi Phật, gọi là thế giới Nhẫn. Đức Phật Thích-ca Văn, phân thân thành trăm ức thân, biến đầy khắp ở trong đó.  
	Khi ấy, khắp cõi trời người đều thấy các cõi nước nhỏ, chư Phật, Bồ-tát như đang ở gần nhau.  
	Phẩm HẠNH NGUYỆN  
	Bồ-tát Trí Thủ hỏi Bồ-tát Kính Thủ:  
	–Nhân giả tu hạnh gì mà được thành tựu thánh đạo của Phật, thân, khẩu, ý trong sạch, không nghĩ điều xấu của người, cũng làm cho mọi người không phạm các lỗi đó, nhân từ rộng lớn, nội tính quang minh sáng suốt, đặc biệt vượt hẳn lên trên, để giác ngộ cho hàng đệ tử, tất cả tà vạy không thể làm lay động, thân thể đoan chánh, các tướng không ai sánh bằng, dòng họ tôn quý, biết kính trọng Phật pháp, tự giữ vững chí hướng, thường thực hành Tứ đẳng, tài cao, trí tuệ rõ suốt, tinh tấn dũng mãnh, tu học theo các căn bản đạo đức, đầy đủ các pháp Ba-la-mật, đã làm vô lượng các việc, thường sinh chỗ phước đức, nghe nói tin theo, tâm ý ngay thẳng, nhập thiền định, thâu giữ các niệm, hiểu rõ lợi ích của các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, xuất ra nhập vào bốn đại; năm ấm, sáu nhập, mười hai duyên khởi, bảy Giác chi không trở ngại, thông hiểu mười Trí lực, thể nhập tất cả các đường, giải cứu nguy ách, được Thích, Phạm cung kính, như đèn đuốc trừ diệt sự tối tăm; như mặt trời, mặt trăng soi sáng khắp thiên hạ, như thuyền trưởng cứu độ mọi người, đức hạnh vượt ba cõi và làm người đứng đầu, muốn thành tựu đạo như vậy, phải tu tập như thế nào?  
	Bồ-tát Kính Thủ đáp:  
	–Lành thay! Phật tử, chí ngưỡng mộ cao xa, tâm từ bi rộng lớn, thương xót mười phương. Nếu thiện nam, thiện nữ muốn thành đạo, trước hết thân phải ngay thẳng, lời nói và ý nghĩ phải đi đôi, miệng học tập kinh điển, tâm nghĩ đến việc đáng làm; đổi cũ, sửa mới, không thoái ý đạo; dồn chứa đức lành, ban ân không mỏi mệt, được như thế thì học hỏi điều gì cũng đều có thể được.  
	Là Bồ-tát, cần phải học một cách đúng đắn, theo như giáo Phật pháp dạy, không được thêm bớt, lấy thệ nguyện làm chủ yếu, luôn nghĩ đến việc an vui cho thế gian, nguyện phụng thờ giới hạnh, để lập căn bản đạo đức.  
	Tại gia giữ giới  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Hiểu rõ tham dục  
	Vào trong pháp Không.  
	Hiếu thờ cha mẹ  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Giúp cho tất cả  
	Khiến được Phật đạo.  
	Dạy bảo vợ con  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Ra khỏi ngục ái  
	Tâm không lưu luyến.  
	Nếu được năm dục  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Vào pháp thanh tịnh  
	Tâm không tham đắm.  
	Ở nơi kỹ nhạc  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Được hưởng pháp lạc  
	Nhẫn là hoan hỷ.  
	Đeo báu anh lạc  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Trút bỏ gánh nặng  
	Luôn được vừa ý.  
	Thấy các thể nữ  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Vứt bỏ sắc ái  
	Dâm dật không còn.  
	Nếu lên lầu gác  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Như lên pháp đường  
	Lãnh thọ kinh Phật.  
	Thân ở trong phòng  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Biết rõ đường ác  
	Không có gì vui.  
	Bố thí của cải  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Làm phước giúp nghèo  
	Chẳng còn tham tiếc.  
	Nhàm chán gia đình  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Mau được giải thoát  
	Không còn trói buộc.  
	Nếu bỏ xuất gia  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Xa lìa tội lỗi  
	Theo chánh được yên.  
	Vào điện thờ Phật  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Gần Phật hành pháp  
	Không còn trở ngại.  
	Đến chỗ thầy bạn  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Hiểu rõ đúng đắn  
	Sẽ được như nguyện.  
	Cầu xin xả tội  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Được chí thành tựu  
	Học không bị lỗi.  
	Cởi bỏ bạch y  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Rõ đường tu đức  
	Không còn biếng nhác.  
	Mặc áo ca-sa  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Áo pháp thực hành  
	Tâm không nhiễm nhơ.  
	Cạo bỏ râu tóc  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Bỏ trang sức đẹp  
	Không còn lo toan  
	Đã làm Sa-môn  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Thực hành ý Phật  
	Hướng dẫn thiên hạ.  
	Thọ giới thành tựu  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Được đạo phương tiện  
	Trí tuệ Bát-nhã.  
	Giữ gìn cấm giới  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Vâng giữ Phật pháp  
	Không phạm giáo pháp.  
	Được Hòa thượng dạy  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Được như thiền định  
	Giải thoát suy nghĩ.  
	Học thầy lớn nhỏ  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Nương thánh giáo Phật  
	Học không quên mất.  
	Tự quy y Phật  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Hiểu rõ Đạo lớn  
	Phát tâm vô thượng.  
	Tự quy y Pháp  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Vào sâu Kinh tạng  
	Trí tuệ như biển.  
	Tự quy y Tăng  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Nương tựa Thánh chúng  
	Theo chánh được độ.  
	Phàm mở cửa nẻo  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Mở bày đạo pháp  
	Đến chốn Niết-bàn.  
	Đóng bít cửa nẻo  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Che lấp đường ác  
	Tội được trừ sạch.  
	Vào nhà nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	An ổn vắng lặng  
	Tâm được chỉ quán.  
	Trải gường nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Vào đạo Đại thừa  
	Giúp an thiên hạ.  
	Khi ngồi nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Ngồi cây Bồ-đề  
	Tâm không vướng mắc.  
	Nhập chúng nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Thành Giới, Định, Tuệ  
	Giải thoát tri kiến.  
	Sổ tức nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Bỏ được gia đình  
	Không nghĩ thế gian.  
	Giữ ý nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Tâm không buông lung  
	Suy nghĩ không tạp.  
	Dậy sớm nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Rõ biết vô thường  
	Dốc tâm tin tấn.  
	Xuống gường nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Theo dấu chân Phật  
	Tâm không dao động.  
	Mặc áo nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Thường biết xấu hổ  
	Nhiếp ý giữ đạo.  
	Buộc đai nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Bó đai tu thiện  
	Chí không lười biếng.  
	Tiếp mặc áo trong  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Cung kính, lo sợ  
	Không dám khinh thường.  
	Mặc áo pháp trên  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Áo tiêu biểu thánh  
	Gắng tu đạo hạnh.  
	Đi đại, tiểu tiện  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Trừ sạch ô uế  
	Không tham, sân, si.  
	Việc xong dùng nước  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Nhu hòa, khiêm nhượng  
	Thanh tịnh siêng năng.  
	Dùng nước rửa sạch  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Dùng pháp tự rửa  
	Không còn thói xấu.  
	Cầm tăm xỉa răng  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Học được pháp cú  
	Vứt bỏ nhơ nhớp.  
	Đánh răng, súc miệng  
	Nên nguyện chúng sinh  
	Rửa sạch tánh tình  
	An trú thanh tịnh.  
	Rửa tay nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Được tay mềm sạch  
	Giữ gìn đạo pháp.  
	Rửa mặt nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Thường hướng thanh tịnh  
	Tâm không lầm lỗi.  
	Ra cửa nguyện cho  
	Tất cả chúng sinh  
	Mong được vượt qua  
	Ba cõi như Phật.  
	Lên đường nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Hướng đạo Vô thượng  
	Chí không thoái lui.  
	Đi đường nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Đến nơi vô tế  
	Không dừng nửa chừng.  
	Lên núi nên nguyện  
	Tất cả chúng sinh  
	Thích lên Thượng đạo  
	Không còn ngại khó.  
	Xuống núi nguyện cho  
	Tất cả chúng sinh  
	Thâm nhập rộng rãi  
	Trong pháp vi diệu.  
	Đi nơi đường cong  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Bỏ ý tà vạy  
	Hạnh không ganh ghét.  
	Đi trên đường thẳng  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Được ý chân chánh  
	Lời nói ngay thẳng.  
	Thấy gió thổi bụi  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Tu hạnh sáng suốt  
	Tâm không rối loạn.  
	Thấy mưa thấm đất  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Đại từ nhiếp ý  
	Không khởi các tưởng.  
	Dưới cây hóng mát  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Buộc tâm tại đạo  
	Ý không mệt mỏi.  
	Vào trong đầm rừmg  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Đạo rừng phải học  
	Dùng đức nuôi dưỡng.  
	Đi đường thấy núi  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Chí được lớn cao  
	Tích đức không chán.  
	Đi thấy gai góc  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Tiêu diệt ba độc  
	Không kẻ hại tâm.  
	Được cây lá tốt  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Dùng Đạo tự che  
	Nhập thiền Tam-muội.  
	Cây hoa sum suê  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Ba mươi hai tướng  
	Đẹp đẽ vẹn toàn.  
	Trái ngon, quả nhiều  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Trồng cây đạo hạnh  
	Thành quả Vô thượng.  
	Thấy dòng nước chảy  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Được rãnh nước chánh  
	Vào biển Phật trí.  
	Thấy các vũng nước  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Tất cả công đức  
	Tuệ, hạnh đầy đủ.  
	Nếu thấy suối nước  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Vào sâu trí Phật  
	Học hỏi vô cùng.  
	Xa trông sông biển  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Vào sâu Phật tạng  
	Pháp là vô tận.  
	Thấy người múc nước  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Mở tâm nhận Phát  
	Được đạo Nhất vị.  
	Đi qua cầu, đò  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Dựng xây cầu Pháp  
	Không dừng độ người.  
	Thấy dọn vườn rau  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Dọn cỏ nhơ nhớp  
	Không sinh rễ dục.  
	Thấy ruộng lúa tốt  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Phước đức nở rộng  
	Không bị tai họa.  
	Thấy vườn rau tốt  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Được giữ đạo pháp  
	Đầy đủ cùng khắp.  
	Thấy xóm trên gò  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Thường ở nhân trí  
	Đi không nguy ngập.  
	Nhìn thấy giảng đường  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Giảng đọc kinh pháp  
	Ngày càng thăng tiến.  
	Thấy người nhóm hợp  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Được đầy công đức  
	Thành đệ tử Phật.  
	Thấy người nhàn rỗi  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Điềm đạm vô vi  
	Thông thạo sách sử.  
	Được thấy Sa-môn  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Nghe nhiều, đủ giới  
	Dạy người không mệt.  
	Thấy người khác đạo  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Xả bỏ tà kiến  
	Vào tám Chánh đạo.  
	Được thấy tiên nhân  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Ý hạnh đầy đủ  
	Ước mong thành tựu.  
	Đi đến thành quách  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Giữ giới trọn vẹn  
	Tâm không thiếu khuyết  
	Xa thấy cổng thành  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Thông minh chiếu xa  
	Điều lành dựng khắp  
	Nếu thấy Đế vương  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Vâng lời Thánh dạy  
	Như lời chánh đạo  
	Thấy con Đế vương  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Theo hạnh con Phật  
	Hóa sinh trong pháp.  
	Nếu thấy quan chức  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Sáng tỏ lý đạo  
	Giúp ích thiên hạ.  
	Thấy các quan lại  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Ngay thẳng hiền lành  
	Không tâm bạo ác.  
	Thấy mặc áo giáp  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Mặc áo giáp pháp  
	Không trái bản nguyện.  
	Thấy người đần độn  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Vững nơi đạo nghĩa  
	Thành bốn Vô úy.  
	Thấy người sầu khổ  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Xa lìa sợ hãi  
	Không còn lo buồn.  
	Thấy người vui vẻ  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Bỏ vui vô thường  
	Năm dục tự vui  
	Thấy người siêng năng  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Được đạo Niết-bàn  
	Vượt khỏi nguy ách.  
	Thấy người an vui  
	Nguyện cho chúng sinh  
	An vui như Phật  
	Thanh thản không lo.  
	Thấy người bệnh tật  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Biết thân chẳng có  
	Ý không khổ đau.  
	Thấy người mạnh khỏe  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Được thân Kim cang  
	Không bị suy hao.  
	Thấy người xấu xí  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Bỏ điều xấu ác  
	Dùng thiện trang sức.  
	Thấy người đoan chánh  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Hạnh ý ngay thẳng  
	Ưa thích đạo pháp.  
	Thấy người báo ân  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Nhớ ân Đức Phật  
	Tu hạnh Bồ-tát.  
	Thấy người bội ân  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Hàng phục tâm, ý  
	Trừ sạch các ác.  
	Thấy người tham dục  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Cho thiên hạ Pháp  
	Tâm không tham tiếc.  
	Đi cầm tích trượng  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Nương gậy như pháp  
	Lưu bố đức hạnh.  
	Tay bưng bình bát  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Nhận mà biết cho  
	Tu pháp sáu Độ.  
	Vào làng khất thực  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Như cầu giới pháp  
	Không được nghi ngờ.  
	Đến cửa nhà người  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Vào cửa Tổng trì  
	Thấy hết các pháp.  
	Vào phòng nhà người  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Lên nhà Phật thánh  
	Hạnh sâu vi diệu.  
	Người không cúng dường  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Được ý Bát-nhã  
	Không mong không tiếc.  
	Người dọn chưa xong  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Lìa ba đường ác  
	Không tưởng đói khát.  
	Trao bình bát không  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Đạt rốt ráo không  
	Không còn tánh dục.  
	Nhận đầy bình bát  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Tất cả đầy đủ  
	Pháp khí của đạo.  
	Bưng bát cơm ăn  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Vì pháp cúng dường  
	Chí ở đạo lớn.  
	Bên người ngay thẳng  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Liêm khiết biết thẹn  
	Không quên việc làm.  
	Ngồi với người tham  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Không có tướng xấu  
	Tâm tham hẹp hòi.  
	Được thức ăn ngon  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Biết điều tiết dục  
	Tâm không đắm trước.  
	Được thức ăn dở  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Biết thân huyễn pháp  
	Tốt xấu không khác.  
	Và cơm vào miệng  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Được tất cả kinh  
	Pháp vị chư Phật.  
	Ăn uống nhiều vị  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Mỗi vị như Phật  
	Hóa thành cam lồ.  
	Ăn cơm xong rồi  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Đức hạnh tràn đầy  
	Thành đủ mười Lực.  
	Giảng kinh, thuyết pháp  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Tâm chí rõ suốt  
	Nghe pháp chứng ngộ.  
	Chú nguyện cúng dường  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Thông suốt mười hai  
	Bộ kinh của Phật.  
	Rời tòa đứng dậy  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Rốt ráo tất cả  
	Được ba cam lộ.  
	Muốn lội vào nước  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Sạch thân, khẩu, ý  
	Và sạch ba đường.  
	Tắm rửa thân thể  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Xoá sạch tâm nhơ  
	Thấy bờ sinh tử.  
	Nóng bức thiêu đốt  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Được định mát lành  
	Diệt tất cả khổ.  
	Băng giá rét buốt  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Dứt trừ tâm ái  
	Không còn tình dục.  
	Đọc tụng kinh kệ  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Hiểu rộng các pháp  
	Không để thiếu sót.  
	Nếu được thấy Phật  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Thường được gặp Phật  
	Hành bảy Giác ý.  
	Thấy tranh ảnh Phật  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Thấy khắp mười phương  
	Không bị ngăn ngại.  
	Khi lễ lạy Phật  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Được đạo như Phật  
	Không ai vượt hơn.  
	Lạy rồi đứng dậy  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Đều như ý Phật  
	Tôn quí vô thượng.  
	Muốn đi quanh tháp  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Thi hành phước đức  
	Rõ suốt ý đạo.  
	Nhiễu tháp ba vòng  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Được ý nhất hướng  
	Không lìa bốn vui.  
	Tụng kinh ca ngâm  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Nhớ ân Đức Phật  
	Hành pháp cúng dường.  
	Tán thán chư Phật  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Thần lực sáng suốt  
	Như Pháp thân Phật.  
	Chiều đến rửa chân  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Được bốn Thần túc  
	Đi khắp mười phương.  
	Ban đêm ngủ nghỉ  
	Nguyện cho chúng sinh  
	Xa lìa năm cái  
	Không còn tối tăm.  
	Thức dậy nguyện cho  
	Hết thảy chúng sinh  
	Được mười tám pháp  
	Bất cộng của Phật.  
	Đấy là Bồ-tát  
	Giới nguyện phải làm  
	Thương yêu thí khắp  
	Không bỏ mười phương.  
	Phẩm MƯỜI ĐỊA  
	Ở nơi thế giới Nhẫn, có trăm ức Thiên đế Thích, đều ở trên cung điện xanh biếc nơi trời Đao-lợi; hóa làm tòa Sư tử bảy báu, dùng phướng trang trí chỗ giao nhau, dùng lụa trải lên chỗ ngồi, rồi cúi đầu thỉnh Phật. Phật biết ý, liền phân thân biến khắp các cung điện của Đế Thích. Mỗi mỗi Đức Phật, có chúng Bồ-tát theo hầu. Tất cả Thiên đế Thích đều rất an vui mừng rỡ. Trăm ngàn nước nhỏ ở dưới Thiên đế Thích cũng tiếp tục tự thấy được Phật như trước không giảm bớt.  
	Bấy giờ, hàng Bồ-tát từ các cõi trong mười phương đều đi đến nhóm họp. Các Bồ-tát Pháp Ý, Bồ-tát Thủ Ý, Bồ-tát Hiền Ý, Bồ-tát Cần Ý, Bồ-tát Tư Ý, Bồ-tát Tri Ý, Bồ-tát Thẩm Ý, Bồ-tát Chuyên Ý, Bồ-tát Trọng Ý, Bồ-tát Tận Ý cùng vô số Thượng nhân từ mười phương đến cúi đầu lạy sát chân Phật và lui ra ngồi một bên.  
	Bồ-tát Pháp Ý, ngồi trên hoa sen, giống như bức tượng, ngồi ngay thẳng, định ý, nhập vào Tam-muội Vô lượng hội kiến, thấy rõ vô số chư Phật nơi mười phương đều duỗi cánh tay phải, xoa trên đầu mình. Các vị đều bảo:  
	–Lành thay! Pháp Ý! Ông là Bồ-tát dũng mãnh mới được định này. Mười phương các Đức Như Lai và Phật Thích-ca Mâu-ni đều cung kính đối với sự thành tựu công đức Phật của ông; biết ông tu hành biện tài vi diệu, biết rõ tất cả đều không, không đắm vào sự hành hóa, hiểu rõ pháp yếu, thông suốt lời Phật dạy, biết ý nguyện của chúng sinh, biết đầy đủ những việc làm của ông; không bao lâu ông sẽ được thành Phật. Nay ông được lệnh thuyết Mười Trụ Địa Bồ-tát, để làm cho các vị đang tu học biết được hết các việc phải làm.  
	Lúc này, Bồ-tát Pháp Ý, được Phật chỉ dạy rõ ràng, chính xác, đúng đắn, không thể quên, không thấy khó; từ trong định hiểu ý, xuất khỏi định và nói:  
	–Các thiện nam! Ai muốn cầu thành Phật thì đã có mười trụ địa, từ xưa đến nay đều từ đấy mà thành tựu; các Đức Phật đều khen ngợi, pháp này thích hợp với vô lượng; nay xin trình bày đầy đủ, như chư Phật đã dạy. Những gì là mười?  
	1.     Phát ý.  
	2.     Trị địa.  
	3.     Ứng hành.  
	3.     Sinh quý.  
	5.     Tu thành.  
	6.     Hạnh đăng.  
	7.     Bất thoái.  
	8.     Đồng chân.  
	9.     Liễu sinh.  
	10.    Bổ xứ.  
	Thế nào là Phát ý?  
	Bồ-tát trụ ở pháp này, có mười việc phải làm, nghĩa là Bồ-tát mới vừa thấy Phật thì phát khởi mười công đức:  
	1.     Thấy Phật đoan nghiêm.  
	2.     Thân sắc tướng đầy đủ.  
	3.     Thần túc biến hóa.  
	4.     Đạo đức thâm sâu.  
	5.     Uy nghi không ai sánh kịp.  
	6.     Biết ý của người.  
	7.     Giảng dạy rõ ràng kinh điển.  
	8.     Nói lời chân thật, dễ hiểu.  
	9.     Thấy nỗi khổ về sinh tử.  
	10.    Bản thân ưa thích Phật pháp, hiểu rõ chút ít, liền phát đạo tâm.   
	Muốn hiểu ngay tất cả mười Trí lực của Phật, pháp học này có mười:  
	1.     Phải biết thờ kính chư Phật.  
	2.     Phải nói rõ công đức của Bồ-tát.  
	3.     Phải xét rõ nguồn gốc sinh tử.  
	4.     Phải nguyện tu hành quý trọng phước báu.  
	5.     Phải làm cho hạnh vượt hơn ba cõi.  
	6.     Phải học nghiệp công đức của chư Phật.  
	7.     Phải cầu gặp lại chư Phật.  
	8.     Phải học tập các Tam-muội sâu xa.  
	9.     Phải Từ bi nghĩ đến các tội khổ.  
	10.    Phải tùy theo sự di chuyển xoay vòng của sinh tử.  
	Đó là nguyện đầu tiên của Phát ý Địa.  
	Thế nào là Trị địa?  
	Bồ-tát trụ pháp này, có mười việc lần lượt phải học:  
	1.     Nhớ nghĩ người hiền.  
	2.     Tâm trong sạch.  
	3.     Ý mềm mỏng.  
	4.     Chí an tĩnh.  
	5.     Thường bố thí.  
	6.     Hành từ ái.  
	7.     Lợi ích thiên hạ.  
	8.     Giúp đỡ đồng đều.  
	9.     Thấy người khác cũng như mình.  
	10.    Kính người như thầy mình.  
	Lại có mười pháp học:  
	1.     Phải tụng kinh nhiều.  
	2.     Phải xa quê hương.  
	3.     Phải gần Minh sư.  
	4.     Phải học lời hay.  
	5.     Phải biết thời.  
	6.     Phải tinh tấn.  
	7.     Phải thể nhập giáo pháp.  
	8.     Phải biết rõ việc.  
	9.     Phải không quên.  
	10.    Phải yên chí.  
	Đó là thứ lớp để thực hành Trị địa. Thế nào là Ứng hành?  
	Bồ-tát trụ pháp này, có mười việc phải trải qua:  
	1.     Thấy vô thường.  
	2.     Thấy sinh khổ.  
	3.     Thấy hành đều không.  
	4.     Thấy chẳng có thân.  
	5.     Thấy không có chủ.  
	6.     Thấy không có gì để tham.  
	7.     Không có gì để chìm đắm.  
	8.     Vô vi.  
	9.     Vô dục.  
	10.    Vô cầu.  
	Lại có mười môn học:  
	1.     Phải nghĩ đến người.  
	2.     Phải nghĩ đến cảnh giới.  
	3.     Phải nghĩ đến pháp.  
	4.     Phải nghĩ đến loại đất.  
	5.     Phải nghĩ đến loại nước.  
	6.     Phải nghĩ đến loại lửa.  
	7.     Phải nghĩ đến loại gió.  
	8.     Phải nghĩ đến Dục giới.  
	9.     Phải nghĩ đến Sắc giới.  
	10.    Phải nghĩ đến Vô sắc giới, với tâm không quyến luyến.  
	Đó là sự phân biệt về địa Ứng hành.  
	Thế nào là Sinh quý?  
	Bồ-tát trụ pháp này, có mười việc làm theo hạnh Phật:  
	1.     Không trở lại đường tà.  
	2.     Chuyên tâm hướng đến Phật.  
	3.     Ý luôn suy nghĩ giáo pháp.  
	4.     Quán sát hạnh công đức.  
	5.     Thấy người như huyễn.  
	6.     Thấy cảnh như chiêm bao.  
	7.     Thấy họa phước đều không.  
	8.     Thấy các pháp như ảo.  
	9.     Thấy khổ và vui không khác.  
	10.    Hiểu rõ Niết-bàn là trong sạch.  
	Lại có mười pháp học, cần phải suy nghĩ:  
	1.     Ý Phật quá khứ không.  
	2.     Ý Phật hiện tại không.  
	3.     Ý Phật vị lai không.  
	4.     Phật pháp quá khứ thanh tịnh.  
	5.     Phật pháp hiện tại thanh tịnh.  
	6.     Phật pháp vị lai thanh tịnh.  
	7.     Phật pháp quá khứ tự nhiên.  
	8.     Phật pháp hiện tại tự nhiên.  
	9.     Phật pháp vị lai tự nhiên  
	10.    Chư Phâït hoàn toàn hưng thạnh như nhau không khác.  
	Đó là sự bình đẳng của địa Sinh quý.  
	Thế nào gọi là Tu thành?  
	Bồ-tát trụ pháp này, có mười việc làm để cứu giúp người:  
	1.     Làm phương tiện cho người.  
	2.     Làm cho người yên ổn.  
	3.     Cứu giúp mọi người trong khắp thiên hạ.  
	4.     Tâm Từ nghĩ đến tất cả.  
	5.     Tâm Bi thương xót chúng sinh.  
	6.     Làm cho người hoan hỷ.  
	7.     Giúp đỡ người và vật.  
	8.     Khuyên người tu hành đạo.  
	9.     Làm cho hiện tại được thanh tịnh.  
	10.    Làm cho đạt được Niết-bàn.  
	Lại có mười điều phải học: Nên biết chúng sinh không có cốt yếu, không chủng loại, không số lượng, không tạo tác, không chánh đáng, không nghĩ bàn, không tính kể, không thể cứu giúp, không thể nói hết, vì tất cả đều không.  
	Đó là Thánh hạnh của địa Tu thành.  
	Thế nào gọi là Hạnh đăng?  
	Bồ-tát trụ pháp này, có mười việc phải vượt qua, mới được thành tựu:  
	1.     Nghe khen ngợi Phật, chê bai Phật; tâm không thay đổi.  
	2.     Nghe khen ngợi Pháp, hủy báng Pháp; tâm không thay đổi.  
	3.     Nghe nói tốt về Bồ-tát, nói xấu Bồ-tát; tâm không thay đổi.  
	4.     Nghe người phê bình nhau; tâm không thay đổi.  
	5.     Nghe nhiều người hay ít người; tâm không thay đổi.  
	6.     Nghe nhiều kinh ít kinh; tâm không thay đổi.  
	7.     Nghe đời sống khổ, đời sống vui; tâm không thay đổi.  
	8.     Nghe người khó độ, người dễ độ; tâm không thay đổi.  
	9.     Nghe pháp thịnh, pháp suy; tâm không thay đổi.  
	10.    Gặp người có đạo, không có đạo; tâm không thay đổi.  
	Lại có mười pháp học: Tâm vô tưởng, không thọ tưởng, không chấp thân, không ngã sở, không có kiến chấp, không có chủ thể, không có thọ, vì như hóa, vì không thành, không sở hữu.  
	Đó là tin rốt ráo về địa Hạnh đăng.  
	Sao gọi là Bất thoái chuyển?  
	Bồ-tát trụ pháp này có mười việc, chí phải vững mạnh:  
	1.     Nói có Phật hay không có Phật, tâm không thoái lui.  
	2.     Nói có Pháp hay không có Pháp, tâm không thoái lui.  
	3.     Nói có Bồ-tát hay không có Bồ-tát, tâm không thoái lui.  
	4.     Nói có cầu Phật hay không cầu Phật, tâm không thoái lui.  
	5.     Nói có đắc quả vị Phật hay không đắc quả vị Phật, tâm không thoái lui.  
	6.     Nói xưa có Thánh đạo hay không Thánh đạo, tâm không thoái lui.  
	7.     Nói nay có Thánh đạo hay không Thánh đạo, tâm không thoái lui.  
	8.     Nói về sau có Thánh đạo hay không Thánh đạo, tâm không thoái lui.  
	9.     Nói giống ba đường hay khác ba đường, tâm không thoái lui.  
	10.    Nói trí Phật hữu tận hay trí Phật vô tận, tâm không thoái lui.  
	Lại có mười pháp học:  
	1.     Mở tuệ nhỏ nhập vào trí lớn.  
	2.     Mở trí lớn nhập vào tuệ nhỏ.  
	3.     Hiện ra một pháp nhập vào các kinh.  
	4.     Hiện ra các kinh nhập vào một pháp.  
	5.     Hiểu rõ chúng sinh nhập vào pháp yếu Không.  
	6.     Hiểu rõ pháp yếu Không nhập vào chúng sinh.  
	7.     Bỏ có tưởng để vào định tịch tĩnh.  
	8.     Bỏ định tịch tĩnh để vào có tưởng.  
	9.     Thuyết Thiểu tịnh để nhập đa tưởng.  
	10.    Thuyết đa tưởng để nhập Thiểu tịnh. Đó là tiến tới địa Bất thoái.  
	Thế nào gọi là Đồng chân?  
	Bồ-tát trụ pháp này, có mười việc tùy thuận mà thâm nhập:  
	1.     Thân, khẩu, ý không phạm.  
	2.     Tất cả không có tỳ vết xấu.  
	3.     Tâm chí ở ngay nơi đời sống hiện tại.  
	4.     Thấy người biết trong tâm có từ bi.  
	5.     Biết sự tin ưa trong tâm người.  
	6.     Biết rõ ý người.  
	7.     Không nhận ý nghĩ xen tạp.  
	8.     Biết sự thành bại của các cõi.  
	9.     Thần túc nhanh chóng đến khắp mười phương.  
	10.    Giữ gìn đầy đủ tất cả các pháp.  
	Lại có mười việc phải học:  
	1.     Học để biết về thế giới của chư Phật.  
	2.     Học về khả năng của trí tuệ chư Phật.  
	3.     Học hạnh thần túc của Phật hiện ra.  
	4.     Học trang nghiêm các cõi Phật.  
	5.     Học đi khắp các cõi nước.  
	6.     Học pháp đối đáp khi chúng sinh hỏi.  
	7.     Học biến hóa khắp nơi.  
	8.     Học âm thanh Phật diễn thuyết các pháp.  
	9.     Học cách chuyển vòng quanh khắp mười phương trong chốc lát.  
	10.    Học khởi một niệm thấy vô số Phật. Đó là Địa Đồng chân thanh tịnh.   
	Thế nào là địa Liễu sinh?  
	Bồ-tát trụ pháp này, có mười việc để nhận thấy trí tuệ:  
	1.     Biết tất cả sinh về đường nào.  
	2.     Biết thói quen của chúng sinh.  
	3.     Biết những chỗ đã ở và đến của con người.  
	4.     Biết quả báo tội hay phước về hành đôïng của con người.  
	5.     Biết con người lãnh thọ, hành trì pháp nào.  
	6.     Biết tâm niệm tốt xấu của người.  
	7.     Biết ý nghĩ của người thay đổi vô số.  
	8.     Biết sự sạch nhơ của mười phương.  
	9.     Biết vô lượng trí tuệ ở trong ba đường.  
	10.    Biết cần phải nói đúng sự thật.  
	Lại có mười việc phải học:  
	1.     Học hạnh chân chánh của Pháp vương.  
	2.     Học lễ nghi của Pháp vương.  
	3.     Học sự kiến lập hưng thịnh theo Pháp vương.  
	4.     Học ra vào theo Pháp vương.  
	5.     Học sự chu toàn của Pháp vương.  
	6.     Học oai nghiêm của Pháp vương.  
	7.     Học cách ngồi đứng của Pháp vương.  
	8.     Học giáo lệnh của Pháp vương.  
	9.     Học cách kính người của Pháp vương.  
	10.    Học cánh hoằng hóa các cõi nước của Pháp vương.  
	Đó là nhận một cách chắc chắn về địa Liễu sinh.  
	Thế nào gọi là Bổ xứ?  
	Bồ-tát trụ pháp này có mười việc mà trí phàm không đạt được:  
	1.     Sẽ luôn nhớ thương vô số nước.  
	2.     Sẽ vì vô số nước mà hiện ánh sáng.  
	3.     Sẽ vì vô số nước mà kiến lập Pháp.  
	4.     Sẽ hóa độ cho vô số nước.  
	5.     Sẽ đem lợi ích, an vui cho vô số nước.  
	6.     Sẽ hiểu tiếng nói của vô số người.  
	7.     Sẽ quán sát để biết ý chúng sinh.  
	8.     Sẽ biết suy nghĩ của chúng sinh là vô cùng tận.  
	9.     Sẽ làm cho vô số chúng sinh nhập vào pháp.  
	10.    Thứ tự chỉ rõ cho người thể nhập trí tuệ.  
	Sự khó đạt được về Bổ xứ, là có mười điều khó biết: sự việc của thân, hoạt động của tâm, thần túc, định niệm, biết xưa, rõ nay, thấy rõ việc về sau và biết tu các cõi pháp, các việc của Thánh ý, sự muốn đạt đến Bổ xứ.  
	Lại có mười việc phải học:  
	1.     Học trí tuệ Phật để biết ba đường là không có bờ mé.  
	2.     Học đầy đủ các Phật pháp.  
	3.     Học từng pháp, từng pháp không có chỗ tham đắm.  
	4.     Học tận cùng các Tạng của chư Phật.  
	5.     Học trí thần thông để thành tựu được các cõi.  
	6.     Học chiếu ánh sáng đến mười phương.  
	7.     Học Phật định về tâm thương cảm các nước.  
	8.     Học đạo quyền biến tùy ý giáo hóa.  
	9.     Học cách dạy khắp khiến được thành tựu.  
	10.    Học cách tụ họp để chuyển pháp luân.  
	Sở dĩ muốn biết tất cả, khi đã hiểu biết tất cả rồi thì không còn gì phải học. Đó gọi là Bổ xứ. Thành tựu được một trăm giới pháp này, đời này sẽ được kế tục đạo Vô thượng Chánh chân, làm bậc Chánh giác cao tột, độ thoát khắp thiên hạ.  
	Phật dạy:  
	–Lành thay! Lành thay! Bồ-tát Pháp Ý! Có thể gọi ông là Phật tử. Tất cả chư Phật ở quá khứ, hiện tại, vị lai trong mười phương, đều do pháp đây mà hưng thịnh. Pháp này không bờ bến, chiếu khắp vô lượng, cứu độ người đến vô cùng, tâm trí vô tận.  
	Phật thuyết kinh này xong, tất cả đều rất vui mừng, cùng đảnh lễ Phật.  
	KINH BẢN NGHIỆP CỦA BỒ-TÁT 
	  
	  
	 |