佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

VT0080

PHẬT V̀ THỦ CA TRƯỞNG GIẢ THUYẾT KINH NGHIỆP BÁO SAI BIỆT

Hán Dịch: Cù Đàm Pháp Trí Quận Dương Xuyên - Đời Tuỳ

Việt Dịch: Thích Nữ Chơn Ngộ

Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ đức Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc. Lúc bấy giờ, đức Phật bảo trưởng giả Đao Đề Da Tử Thủ Ca rằng: “Này Trưởng giả Thủ Ca! Ta sẽ v́ ông giảng nói pháp môn sự sai biệt của nghiệp báo thiện ác. Ông nên một ḷng lắng nghe, khéo ghi nhớ và suy nghĩ về pháp này.”

Lúc bấy giờ Thủ Ca bạch đức Phật rằng: “Vâng bạch đức Thế Tôn! Con nguyện vui mừng muốn nghe.”

Đức Phật bảo ngài Thủ Ca: “Tất cả chúng sanh bị nghiệp trói buộc, nương tựa nơi nghiệp, theo nghiệp của ḿnh mà xoay chuyển. Do nhân duyên ấy, nên có thượng, trung, hạ, sai khác không giống nhau:

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo mạng sống ngắn ngủi;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo mạng sống lâu dài;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo nhiều bệnh tật;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo ít bệnh tật;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo thân xấu xí;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo đoan chánh;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo oai đức thế lực yếu kém;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo oai đức thế lực lớn mạnh;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo ḍng họ thấp kém;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo ḍng họ cao sang;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo của cải vật dụng thiếu thốn;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo nhiều của cải vật dụng;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo trí tuệ tà kiến;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được báo trí tuệ chân chánh;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo địa ngục;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo súc sanh;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo ngạ quỷ;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo A-tu-la;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo loài người;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo cơi trời dục giới;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo cơi trời sắc giới;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo cơi trời vô sắc giới;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh nhất định thọ nhận quả báo;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh không nhất định thọ nhận quả báo;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo sanh vào chỗ biên địa;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo sanh chỗ trung tâm Phật giáo;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo chịu hết tuổi thọ ở địa ngục;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo phân nửa tuổi thọ ở địa ngục;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo tạm vào liền ra;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh tạo tác nhưng không tích tập;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh tích tập nhưng không tạo tác;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh vừa tạo tác vừa tích tập;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh không tạo tác không tích tập;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh trước vui sau khổ;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh trước khổ sau vui;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh trước khổ sau khổ;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh trước vui sau vui;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh nghèo mà thích bố thí;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh giàu mà xan tham;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh giàu mà có thể bố thí;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh nghèo mà xan tham;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được thân vui mà tâm không vui;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được tâm vui mà thân không vui;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh được thâm tâm đều vui;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh thân tâm đều không vui;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh tuổi thọ tuy hết mà nghiệp chẳng hết;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh nghiệp tuy hết mà tuổi thọ không hết;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh nghiệp và tuổi thọ đều hết;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh nghiệp và tuổi thọ đều không hết, nhưng có thể đoạn trừ tất cả phiền năo;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh đoạ vào đường ác, mà thân h́nh thù thắng vi diệu, đôi mắt đoan nghiêm, màu da tươi sáng, mọi người thích nh́n;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh sanh vào đường ác, mà thân h́nh xấu xí, da dẻ thô nhám, người không thích nh́n;

Hoặc có nghiệp có thể khiến chúng sanh sanh vào đường ác, thân miệng hôi thối, các căn khiếm khuyết.

Hoặc có chúng sanh quen làm mười nghiệp bất thiện, bị quả báo bên ngoài xấu ác;

Hoặc có chúng sanh quen làm mười điều thiện nghiệp, được quả báo bên ngoài thù thắng.

Lại nữa, Này trưởng giả! Nếu có chúng sanh, lễ lạy chùa tháp của Phật, được mười thứ công đức; Cúng dường bố thí bảo cái (lọng báu), được mười thứ công đức; Cúng dường bố thí tràng phan, được mười thứ công đức; Cúng dường bố thí chuông linh, được mười thứ công đức; Cúng dường bố thí quần áo, được mười thứ công đức; Cúng dường bố thí đồ dùng, được mười thứ công đức; Cúng dường bố thí thức ăn nước uống, được mười thứ công đức; Cúng dường bố thí giày dép được mười thứ công đức; Cúng dường bố thí hương hoa, được mười thứ công đức; Cúng dường bố thí đèn sáng, được mười thứ công đức; Cung kính chắp tay, được mười thứ công đức. Đó là nói sơ lược pháp môn các nghiệp sai khác của thế gian”.

Phật bảo Thủ Ca: “Có mười thứ nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo mạng sống ngắn ngủi: Một là, tự ḿnh làm việc sát sanh; Hai là, khuyên bảo người khác đi sát sanh; Ba là, khen ngợi việc giết hại; Bốn là, thấy giết hại sanh ḷng vui theo; Năm là, đối với chỗ ḿnh oán ghét, muốn khiến họ bị tiêu diệt; Sáu là, thấy người ḿnh oán ghét bị tiêu diệt rồi, sanh tâm vui mừng; Bảy là, phá hoại bào thai người khác; Tám là, dạy người huỷ hoại; Chín là, xây dựng miếu đ́nh, giết mổ chúng sanh; Mười là, dạy người chiến đấu, tàn hại lẫn nhau. Do mười nghiệp này nên bị quả báo mạng sống ngắn ngủi.

Lại có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh được mạng sống lâu dài:

Một là, tự ḿnh không sát sanh; Hai là, khuyên người không sát sanh; Ba là, khen ngợi việc không sát sanh; Bốn là, thấy người khác không sát sanh, sanh tâm vui mừng; Năm là, thấy người bị giết, tạo phương tiện cứu giúp; Sáu là, thấy người sợ chết, an ủi tâm họ; Bảy là, thấy người sợ hăi, ban bố sự không sợ hăi; Tám là, thấy những người gặp các thống khổ hoạn nạn, khởi tâm thương xót; Chín là, thấy người gặp các hoạn nạn cấp bách, liền khởi tâm đại bi; Mười là, dùng các thức ăn uống, bố thí chúng sanh. Do mười nghiệp trên nên được quả báo mạng sống lâu dài.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo nhiều bệnh tật: Một là, vui thích đánh đập tất cả chúng sanh; Hai là khuyên người khác bảo họ đánh đập; Ba là, khen ngợi việc đánh đập; Bốn là, thấy người đánh đập sanh tâm vui mừng; Năm là, năo loạn cha mẹ, khiến tâm lo buồn xúc năo; Sáu là, năo loạn Hiền Thánh; Bảy là, thấy người ḿnh oán ghét bị bệnh tật khổ đau, ḷng rất vui mừng; Tám là, thấy người ḿnh oán ghét bệnh được lành, sanh tâm không ưa vui; Chín là, đối với người ḿnh oán ghét, bố thí thuốc giả; Mười là do ăn đêm chưa tiêu hóa, mà lại ăn thêm. Do mười nghiệp trên nên bị quả báo nhiều bệnh tật.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo ít bệnh tật:

Một là, không thích đánh đập tất cả chúng sanh; Hai là, khuyên người khác không nên đánh đập; Ba là, khen ngợi việc không dùng các cách thức đánh đập; Bốn là, thấy người không đánh đập, sanh tâm vui mừng; Năm là, cung kính cúng dường cha mẹ và những người bệnh tật; Sáu là, nh́n thấy bậc Hiền Thánh đau bệnh, cung kính chăm sóc cúng dường; Bảy là, thấy người ḿnh oán ghét bệnh được lành, sanh tâm vui vẻ hoan hỷ; Tám là, thấy người bệnh khổ, th́ cho thuốc tốt, và khuyên người giúp đỡ; Chín là, đối với chúng sanh bệnh khổ, khởi tâm thương xót giúp đỡ; Mười là, đối với các thức ăn nước uống, tự biết điều chỉnh liều lượng. Do mười nghiệp trên nên được quả báo ít bệnh tật.

C̣n có, có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo xấu xí.

Một là, thích làm việc sân hận; Hai là, thích ôm ḷng ghét hận hiềm khích; Ba là, mê hoặc lừa gạt  người; Bốn là, năo loạn chúng sanh; Năm là, đối với cha mẹ không có tâm kính trọng yêu thương; Sáu là, ở chỗ các bậc Hiền Thánh, không sanh tâm cung kính; Bảy là chiếm đoạt của cải vật dụng ruộng vườn của Hiền Thánh; Tám là, ở nơi chùa tháp thờ Phật tắt đèn làm mất ánh sáng; Chín là, thấy người xấu xí, chê bai khinh miệt; Mười là, làm các việc ác. Do mười nghiệp này mà bị quả báo xấu xí.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo đoan chánh: Một là, không sân hận; Hai là, bố thí quần áo; Ba là, yêu kính cha mẹ; Bốn là, tôn trọng bậc Hiền Thánh; Năm là, trang sức tháp thờ Phật; Sáu là, quét dọn sạch sẽ chánh điện thờ Phật; Bảy là, quét dọn chỗ ở của chúng Tăng; Tám là, quét rửa tháp Phật; Chín là, thấy người xấu xí, không sanh ḷng khinh chê, mà lại khởi tâm cung kính; Mười là, thấy người đoan chánh, biết rơ nhân đời trước. Do mười nghiệp này nên được quả báo đoan chánh.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo oai đức thế lực yếu kém:

Một là, sanh khởi tâm đố kị với các chúng sanh; Hai là, thấy người khác được lợi lộc, sanh tâm phiền năo; Ba là, thấy người mất lợi, sanh tâm vui mừng; Bốn là, thấy người khác được danh dự, khởi ác tâm đố kị; Năm là, thấy người mất danh dự, sanh tâm rất vui mừng; Sáu là, thối thất tâm Bồ đề, phá huỷ h́nh tượng Phật; Bảy là, đối với cha mẹ của ḿnh và bậc Hiền Thánh không có tâm hầu hạ cung kính; Tám là, khuyên người tu tập nghiệp oai đức yếu kém; Chín là, chướng ngại người khác tu hành, có oai đức lớn; Mười là, thấy người oai đức yếu kém, sanh tâm khinh chê. Do mười nghiệp này nên bị quả báo oai đức thế lực yếu kém.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo oai đức thế lực lớn mạnh: Một là, đối với chúng sanh tâm không đố kị; Hai là, thấy người khác được lợi, sanh tâm vui mừng; Ba là, thấy người khác thất lợi, khởi tâm thương xót; Bốn là, đối với danh dự của người khác, sanh tâm vui mừng; Năm là, thấy người mất danh dự, th́ khuyên chớ ôm ḷng buồn phiền; Sáu là, phát tâm Bồ đề, tạo h́nh tượng Phật; Bảy là, đối với cha mẹ ḿnh và Hiền Thánh, cung kính phụng thờ; Tám là, khuyên người xả bỏ nghiệp oai đức yếu kém; Chín là, khuyên người tu hành nghiệp oai đức lớn; Mười là, thấy người không có oai đức, không sanh ḷng khinh chê. Do mười nghiệp trên được quả báo uy thế lớn.

C̣n có, mười nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo ḍng họ thấp hèn: Một là, không biết kính cha; Hai là, không biết kính mẹ; Ba là, không biết kính Sa môn; Bốn là, không biết kính Bà La Môn; Năm là, đối với các bậc thầy tôn trưởng không biết kính ngưỡng; Sáu là, đối với các bậc sư trưởng không phụng thờ cung đón cúng dường; Bảy là, thấy các bậc tôn trưởng không cung đón tiếp rước mời ngồi; Tám là, không vâng theo những lời dạy bảo của cha mẹ; Chín là, cũng không tiếp nhận lời dạy của các bậc Hiền Thánh; Mười là, khinh miệt ḍng họ thấp hèn. Do mười nghiệp này nên bị quả báo sanh vào ḍng họ thấp hèn.

C̣n có, mười nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo ḍng họ cao sang:

Một là, khéo biết kính cha; Hai là, khéo biết kính mẹ; Ba là, khéo biết kính Sa môn; Bốn là, khéo biết kính Bà la môn; Năm là, cung kính hộ tŕ các bậc tôn trưởng; Sáu là, phụng thờ kính ngưỡng bậc Sư trưởng; Bảy là, thấy các bậc tôn trưởng nghinh đón mời ngồi; Tám là, cung kính vâng theo những lời dạy bảo của cha mẹ; Chín là, cung kính tiếp nhận những lời dạy bảo của bậc Hiền Thánh; Mười là, không khinh bỉ ḍng họ thấp hèn. Do mười nghiệp này nên được quả báo ḍng họ cao sang.

C̣n có, mười nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo ḍng họ cao sang:

Một là, khéo biết kính cha; Hai là, khéo biết kính mẹ; Ba là, khéo biết kính Sa môn; Bốn là, khéo biết kính Bà la môn; Năm là, cung kính hộ tŕ các bậc tôn trưởng; Sáu là, phụng thờ kính ngưỡng bậc Sư trưởng; Bảy là, thấy các bậc tôn trưởng nghinh đón mời ngồi; Tám là, cung kính vâng theo những lời dạy bảo của cha mẹ; Chín là, cung kính tiếp nhận những lời dạy bảo của bậc Hiền Thánh; Mười là, không khinh bỉ ḍng họ thấp hèn. Do mười nghiệp này nên được quả báo ḍng họ cao sang.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo của cải vật dụng thiếu thốn: Một là, tự làm việc trộm cướp; Hai là, khuyên người khác trộm cướp; Ba là, khen ngợi việc trộm cướp; Bốn là, thấy trộm cướp sanh tâm vui mừng; Năm là, thường dùng tiền tài của cải của cha mẹ; Sáu là, xâm đoạt chiếm lấy tài sản của bậc Hiền Thánh; Bảy là, thấy người khác được lợi ích, tâm không hoan hỷ vui mừng; Tám là, làm chướng ngại lợi ích của người khác, chướng ngại việc tốt của người; Chín là, thấy người khác bố thí, không sanh tâm tuỳ hỷ; Mười là, thấy đời đói khát thiếu thốn, không sanh tâm thương xót mà lại sanh tâm vui mừng. Do mười nghiệp này nên bị quả báo của cải tài sản thiếu thốn.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo nhiều của cải tài sản vật dụng;

Một là, tự ḿnh ĺa bỏ việc trộm cướp; Hai là, khuyên người khác không trộm cướp; Ba là khen ngợi việc không trộm cướp; Bốn là, thấy người khác không trộm cướp, sanh tâm vui mừng; Năm là, cúng dường tài vật cần thiết nuôi sống cha mẹ; Sáu là, đối với các bậc Hiền Thánh cung cấp những vật dụng cần thiết; Bảy là, thấy người được lợi, sanh tâm vui mừng; Tám là, thấy người cầu lợi, th́ tạo phương tiện giúp đỡ; Chín là, thấy người bố thí, sanh tâm vui mừng; Mười là, thấy đời đói khổ, sanh ḷng thương xót. Do mười nghiệp này nên được quả báo nhiều của cải tài sản vật dụng.

C̣n có, mười nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo trí tuệ tà kiến:

Một là, không thể thưa hỏi các bậc Sa môn, Bà la môn có trí tuệ; Hai là, diễn giảng pháp ác; Ba là, không thể thọ tŕ tu tập chánh pháp; Bốn là, khen ngợi pháp chẳng phải chánh định, cho là pháp chánh định; Năm là, tiếc rẻ pháp không giảng nói; Sáu là, gần gũi người trí tuệ tà kiến; Bảy là, xa ĺa bậc chánh trí; Tám là, khen ngợi cái thấy tà ác; Chín là, xả bỏ cái thấy chân chánh; Mười là, thấy người ác ngu si, khinh chê huỷ báng. Do mười nghiệp này nên bị quả báo trí tuệ tà kiến.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo trí tuệ chân chánh. Một là, có thể khéo léo thưa hỏi bậc Sa Môn, Bà la môn trí tuệ; Hai là, diễn bày giảng nói pháp lành; Ba là, nghe và giữ ǵn chánh pháp; Bốn là, thấy nói pháp thiền định, khen ngợi tán thán; Năm là, thích giảng nói chánh pháp; Sáu là, gần gũi người trí tuệ chân chánh; Bảy là, tiếp nhận giữ ǵn chánh pháp; Tám là, tinh tấn tu tập nghe nhiều; Chín là, xa ĺa tà kiến; Mười là, thấy người ác ngu si, không sanh tâm khinh chê. Do mười nghiệp này nên được quả báo trí tuệ chân chánh.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo đoạ vào địa ngục: Một là, thân làm việc cực ác; Hai là, miệng nói lời cực ác; Ba là, ư nghĩ điều cực ác; Bốn là, sanh khởi chấp trước đoạn kiến; Năm là, sanh khởi chấp trước thường kiến; Sáu là, sanh khởi cái thấy không có nhân; Bảy là, sanh khởi cái thấy không có người tạo tác; Tám là, sanh khởi cái thấy không trống rỗng; Chín là, sanh khởi cái thấy thiên lệch một bên; Mười là, không biết báo ân. Do mười nghiệp này nên bị quả báo đọa vào địa ngục.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo đọa làm súc sanh: Một là, thân làm nghiệp ác bậc trung; Hai là, miệng nói điều ác bậc trung; Ba là, ư tạo tác nghiệp ác bậc trung; Bốn là, theo phiền năo tham lam, mà tạo các nghiệp ác; Năm là, theo phiền năo sân hận, mà tạo các nghiệp ác; Sáu là, theo phiền năo ngu si, mà tạo các nghiệp ác; Bảy là, chửi mắng chúng sanh; Tám là, năo hại chúng sanh; Chín là, bố thí vật không thanh tịnh; Mười là, làm việc tà dâm. Do mười nghiệp này nên bị quả báo đọa làm súc sanh.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo đọa làm ngạ quỷ: Một là, thân làm nghiệp ác nhẹ; Hai là, miệng nói nghiệp ác nhẹ; Ba là, ư tạo nghiệp ác nhẹ; Bốn là, sanh khởi nhiều ḷng tham; Năm là, sanh khởi tham việc ác; Sáu là, đố kị; Bảy là, tà kiến; Tám là, cho dù mất mạng cũng keo kiệt luyến tiếc tài sản; Chín là, do đói mà chết; Mười là, khô khát mà chết. Do mười nghiệp này nên bị quả báo đọa làm ngạ quỷ.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo làm A-tu-la: Một là, thân làm nghiệp ác hơi nhẹ; Hai là, miệng nói điều ác hơi nhẹ; Ba là, ư suy nghĩ điều ác hơi nhẹ; Bốn là, kiêu mạn; Năm là, ngă mạn; Sáu là, tăng thượng mạn; Bảy là, đại mạn; Tám là, tà mạn; Chín là, mạn mạn;  Mười là, hồi hướng các việc lành, về cơi A-tu-la. Do mười nghiệp này nên bị quả báo đọa làm A-tu-la.

C̣n có mười nghiệp hay khiến chúng sanh được quả báo làm người: Một là, không sát sanh; Hai là, không trộm cướp; Ba là, không tà dâm; Bốn là, không nói dối; Năm là, không nói lời thêu dệt; Sáu là, không nói lưỡi đôi chiều; Bảy là, miệng không nói lời ác; Tám là, không tham; Chín là, không sân; Mười là, không tà kiến. Đối với mười nghiệp lành này, khiếm khuyết không giữ ǵn toàn vẹn. Do mười nghiệp này nên được quả báo sanh làm người.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo cơi trời Dục Giới, đó là tu hành đầy đủ làm tăng tiến mười nghiệp lành.

C̣n có mười nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo cơi trời Sắc Giới, đó là tu hành mười nghiệp lành hữu lậu và các bậc thiền định tương ứng.

C̣n có bốn nghiệp hay khiến chúng sinh được quả báo trời Vô Sắc Giới: Một là, vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt những tưởng có đúng sai, vào định không vô biên xứ. Hai là vượt qua tất cả không xứ định, thức xứ định. Ba là vượt qua tất cả thức xứ định vào vô sở hữu xứ định. Bốn là vượt qua vô sở hữu xứ định vào phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Do bốn nghiệp trên được quả báo Trời vô sắc giới.

Lại có nghiệp có thể khiến chúng sanh nhất định thọ nhận quả báo.

Nếu người ở chỗ Phật Pháp Tăng và người tŕ giới, dùng tâm rất quư kính mà bố thí. Do nghiệp thiện này phát nguyện hồi hướng, liền được văng sanh. Đó gọi là nhất định thọ nhận quả báo.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh không nhất định thọ nhận quả báo.

Nếu lúc tạo nghiệp không dùng tâm dơng mănh chí thành, càng không tu tập, lại không phát nguyện, hồi hướng thọ sanh. Đó gọi là không nhất định thọ nhận quả báo.

`       C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo sanh vào vùng biên địa: Nếu ở chỗ của Phật, Pháp, Tăng, người tŕ giới thanh tịnh và đại chúng, không dùng tâm vui mừng tha thiết mà bố thí, dùng thiện căn nguyện sanh vào vùng biên địa. Do nguyện lực này, liền sanh vào vùng biên địa, thọ nhận quả báo thanh tịnh, hoặc không thanh tịnh.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh được quả báo sanh vào chỗ Phật pháp hưng vượng: Nếu lúc tạo nghiệp, nơi Phật Pháp Tăng thanh tịnh tŕ giới, bên cạnh người và đại chúng khởi tâm bố thí không luyến tiếc và siêng năng. Do thiện căn này, quyết định phát nguyện cầu sinh trung quốc (giữa đất nước) lại được gặp Phật và nghe chính Pháp, được nơi quả báo thanh tịnh thượng diệu.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh chịu hết tuổi thọ ở địa ngục: Nếu có chúng sanh tạo nghiệp địa ngục rồi, không có tâm hổ thẹn và không nhàm ĺa, tâm không sợ hăi, ngược lại c̣n sanh tâm vui mừng, lại không sám hối, mà c̣n tạo thêm ác nghiệp nặng nề, như Đề Bà Đạt Đa vv... Do nghiệp này nên phải chịu hết tuổi thọ ở địa ngục.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh đọa vào địa ngục, đến phân nửa tuổi thọ liền chết yểu, không thọ nhận hết tuổi thọ trong địa ngục: Nếu có chúng sanh tạo nghiệp địa ngục, tích luỹ thành rồi, sau đó sanh tâm lo sợ, hổ thẹn nhàm ĺa, sám hối từ bỏ, tâm không tạo thêm. Do nghiệp này nên đọa vào địa ngục, đọa vào địa ngục; sau đó hối hận, nên chỉ thọ phân nửa số tuổi nơi địa ngục rồi chết yểu, không sống hết tuổi thọ ở địa ngục.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh đọa vào địa ngục, tạm vào liền ra: Nếu có chúng sanh, tạo nghiệp địa ngục, là xong rồi lo sợ, khởi ḷng tin thâm sâu, sanh tâm hổ thẹn, nhàm chán ĺa bỏ, ân cần sám hối, lại không bao giờ tái phạm, giống như Vua A Xà Thế phạm tội giết cha, tạm vào địa ngục, liền được thoát ra.”

Do đó Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:

"Nếu người tạo tội nặng,

Làm xong rất ăn năn,

Sám hối chẳng tái phạm,

Diệt được nguồn gốc của nghiệp".

C̣n có nghiệp tạo tác nhưng không thành tựu: Nếu có chúng sanh thân, khẩu, ư vv... tạo các nghiệp ác, tạo rồi sanh tâm lo sợ, hổ thẹn ĺa xa, tự ḿnh rất ăn năn, càng không tạo nữa, đó gọi là tạo tác nhưng không thành tựu.

C̣n có nghiệp thành tựu nhưng không tạo tác: Nếu có chúng sanh tự ḿnh không tạo nghiệp, do dùng tâm ác, mà khuyên người làm ác. Đó gọi là thành tựu nhưng không tạo tác.

C̣n có nghiệp vừa tạo tác vừa thành tựu: Nếu có chúng sanh tạo các nghiệp ác rồi, tâm không hối cải, mà lại tiếp tục tạo thêm, cũng khuyên người khác tạo. Đó gọi là vừa tạo tác vừa thành tựu.

C̣n có nghiệp không tạo tác cũng không thành tựu. Nếu có chúng sanh tự ḿnh không tạo nghiệp, cũng không dạy người không ghi nhớ nghiệp v.v... Đó gọi là không tạo tác cũng không thành tựu.

C̣n có nghiệp ban đầu vui sau khổ: Nếu có chúng sanh được người khuyên bảo, hoan hỷ thực hành bố thí, tâm bố thí không keo kiệt, nhưng sau đó lại hối hận. Do nhân duyên đó sanh ở loài người, trước tuy giàu có vui sướng, sau lại nghèo khổ. Do đó gọi là trước vui sau khổ.

C̣n có nghiệp ban đầu khổ sau vui: Nếu có chúng sanh được người khuyên bảo, cố gắng bố thí chút ít, bố thí rồi hoan hỷ vui mừng, không sanh tâm hối tiếc. Do nhân duyên đó, sanh vào nhân gian, ban đầu nghèo khổ, sau lại giàu có vui sướng. Đó gọi là ban đầu khổ sau vui.

C̣n có nghiệp ban đầu khổ sau khổ: Nếu có chúng sanh xa ĺa Thiện tri thức, không người khuyên bảo, thậm chí không thể thực hành bố thí chút ít. Do nhân duyên ấy, sanh ở nhân gian, ban đầu nghèo khổ, sau vẫn nghèo khổ. Đó gọi là ba đầu khổ sau khổ.

C̣n có nghiệp ban đầu vui sau vui: C̣n có chúng sanh gần gũi Thiện tri thức, khuyên dạy thực hành bố thí, liền sanh hoan hỷ, kiên quyết tu nghiệp bố thí. Do nhân duyên đó, sanh ở nhân gian, ban đầu giàu có vui sướng, sau cũng giàu có vui sướng.

Lại có nghiệp nghèo mà vui thích bố thí: Nếu có chúng sanh trước từng làm việc bố thí, không gặp được ruộng phước, lưu chuyển trong sanh tử, sanh vào loài người. Do không gặp bậc ruộng phước, nên quả báo thấp kém, lúc được lúc mất; do thói quen bố thí, tuy ở chỗ nghèo cùng, nhưng thích thực hành bố thí.

C̣n có nghiệp giàu nhưng tham lam bỏn xẻn: Nếu có chúng sanh chưa từng bố thí, gặp thiện tri thức, tạm thời thực hành một lần bố thí, gặp ruộng phước lành. Do ruộng phước thù thắng, nên tài sản đầy đủ, nhưng trước kia chưa từng có thói quen bố thí, nên tuy giàu mà xan tham bỏn xẻn.

C̣n có nghiệp giàu mà có thể bố thí: Nếu có chúng sanh gặp Thiện tri thức, siêng tu hạnh bố thí, lại gặp ruộng phước lành. Do nhân duyên đó, giàu có nhiều của cải, mà thích thực hành bố thí.

C̣n có nghiệp nghèo mà xan tham bỏn xẻn: Nếu có chúng sanh xa ĺa Thiện tri thức, không  người khuyên dạy, không thể thực hành bố thí. Do nhân duyên đó, sanh chỗ bần cùng, mà lại xan tham bỏn xẻn.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh được thân an vui, mà tâm không an vui, như phàm phu mà có phước.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh được tâm an vui, mà thân không vui, như La Hán không có phước.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh được thân tâm đều an vui, như La Hán có phước báo.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh thân tâm đều không vui, như phàm phu vô phước.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh mạng sống hết mà nghiệp không hết:  Nếu có chúng sanh từ địa ngục chết rồi, trở lại sanh vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, cho đến Trời, người, A-tu-la vv... cũng lại như thế. Đó gọi là mạng sống hết, mà nghiệp không hết.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh nghiệp hết mà mạng sống không hết: Nếu có chúng sanh vui hết th́ chịu khổ, khổ hết th́ hưởng vui... Đó gọi là nghiệp hết, mà mạng sống không hết.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh nghiệp và mạng sống đều hết: Nếu có chúng sanh từ địa ngục chết rồi sanh vào loài súc sanh cho đến ngạ quỷ, thậm chí Trời người, A-tu-la vv... Đó gọi là nghiệp và mạng sống đều hết.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh nghiệp và mạng sống đều không hết: Nếu có chúng sanh hết các phiền năo, nghĩa là các bậc Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A La Hán v.v... Đó gọi là nghiệp và mạng sống đều không hết.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh, tuy sanh vào đường ác, mà dung mạo vi diệu thù thắng, mặt mày đoan nghiêm, da dẻ tươi sáng, mọi người thích nh́n: Nếu có chúng sanh do phiền năo tham dục mà tạo nghiệp phá giới. Do nhân duyên ấy, tuy sanh vào đường ác, nhưng dung mạo vi diệu thù thắng, mặt mày đoan nghiêm, da dẻ tươi sáng, mọi người thích nh́n.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh sanh vào đường ác, nhưng dung mạo xấu xí, da dẻ xù x́ thô thiển, người chẳng thích nh́n: Nếu có chúng sanh theo phiền năo sân hận tạo nghiệp phá giới. Do nhân duyên ấy, sanh vào đường ác, dung mạo xấu xí, da dẻ xù x́ thô thiển, người chẳng thích nh́n.

C̣n có nghiệp có thể khiến chúng sanh đọa vào đường ác, thân miệng hôi thối, các căn tàn tật khiếm khuyết: Nếu có chúng sanh, theo phiền năo ngu si mà tạo nghiệp phá giới, do nhân duyên ấy, sinh vào đường ác, thân miệng hôi thối, các căn tàn tật khiếm khuyết.

C̣n có mười nghiệp bị quả báo bên ngoài xấu ác: Nếu có chúng sanh đối với mười nghiệp bất thiện, siêng tu tập thực hành, chiêu cảm các vật dụng bên ngoài thảy đều không đầy đủ. Một là, do nghiệp sát sinh, nên khiến các quả báo bên ngoài, đất đai có vị mặn, cây thuốc không có sức lực. Hai là, do nghiệp trộm cắp, nên chiêu cảm quả báo bên ngoài sương muối, dịch sâu bọ côn trùng vv…, khiến gặp thời đói khát. Ba là, do nghiệp tà dâm, nên chiêu cảm gió băo mưa sa và bụi lốc cát đá; Bốn là, do nghiệp nói dối, nên chiêu cảm ra vật bên ngoài, thảy đều hôi thối. Năm là, do nghiệp nói lưỡi đôi chiều, nên chiêu cảm bề mặt đất đai cao thấp không bằng phẳng, nhiều núi đồi, hang cốc, gốc cây, hầm hố. Sáu là, do nghiệp ác khẩu, chiêu cảm quả báo bên ngoài ngói, đá, cát, sỏi thô xấu, ác vật không thể tiếp cận. Bảy là, do nói lời thêu dệt, chiêu cảm ra quả báo bên ngoài, khiến cây cỏ dày đặc, cành nhỏ nhiều gai. Tám là, do nghiệp tham lam, chiêu cảm quả báo bên ngoài, khiến ruộng lúa cây cối, trái quả nhỏ lép. Chín là do nghiệp sân hận, chiêu cảm quả báo bên ngoài, khiến các cây cối, trái quả đáng chát. Mười là, do nghiệp tà kiến, chiêu quả báo bên ngoài, lúa mạ yếu ớt, thu hoạch rất ít. Do mười nghiệp này chiêu cảm quả báo bên ngoài xấu ác.

C̣n có mười nghiệp được quả báo bên ngoài thù thắng: Nếu có chúng sanh tu mười nghiệp lành, trái với mười điều ác ở trên, nên biết sẽ có được mười quả báo bên ngoài thù thắng.

Nếu có chúng sanh lễ bái chùa tháp thờ Phật, sẽ được mười thứ công đức: Một là, được sắc đẹp vi diệu và giọng nói thanh tao; Hai là, có nói ra điều ǵ, mọi người đều tin phục; Ba là, ở giữa đại chúng không sợ sệt; Bốn là, người Trời yêu mến bảo hộ; Năm là, đầy đủ oai đức thế lực; Sáu là, những chúng sanh có uy thế đều đến gần gũi giúp đỡ; Bảy là, thường được gần gũi chư Phật, Bồ Tát; Tám là, đầy đủ phước báo to lớn; Chín là, mạng chung sanh lên cơi Trời; Mười là, mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là lễ bái chùa tháp thờ Phật được mười thứ công đức.

Nếu có chúng sanh cúng thí lọng báu được mười thứ công đức: Một là, xử lí việc đời như ô dù, che chở bảo hộ chúng sanh; Hai là, thân tâm an ổn, ĺa các nhiệt năo; Ba là tất cả thế gian kính trọng, không giám khinh khi. Bốn là, có uy thế lớn; Năm là, thường được gần gũi chư Phật, Bồ Tất, bậc oai đức lớn, cùng làm quyến thuộc; Sáu là, thường làm Chuyển Luân Thánh Vương; Bảy là, Thường làm người đứng đầu, tu tập nghiệp lành; Tám là, đầy đủ phước báo lớn; Chín là, mạng chung sanh lên cơi Trời; Mười là, mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là cúng thí lọng báu được mười thứ công đức.

Nếu có chúng sanh cúng dường bố thí tràng phan lụa được mười thứ công đức: Một là, xử lí việc đời giống như tràng phan, quốc vương, đại thần, người thân bạn bè, người quen biết cung kính cúng dường; Hai là, giàu có tự tại, đầy đủ của cải trân bảo lớn; Ba là, danh thơm tiếng tốt lưu truyền, rộng răi khắp nơi; Bốn là, h́nh mạo đoan nghiêm, tuổi thọ lâu dài; Năm là, dù sanh ra ở đâu, cũng giữ vững hạnh bố thí; Sáu là, có danh tiếng lớn; Bảy là, có oai đức lớn; Tám là, sanh vào ḍng họ cao quư; Chín là, thân hoại mạng chung, sanh lên cơi Trời; Mười là, mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là cúng dường bố thí tràng phan lụa được mười thứ công đức.

Nếu có chúng sinh cúng dường bố thí chuông linh, được mười thứ công đức: Một là, được âm thanh Phạm thiên; Hai là, có danh tiếng lớn; Ba là, tự biết mạng sống đời trước; Bốn là, có nói ra điều ǵ, mọi người đều kính nhận; Năm là, thường có bảo cái để tự trang nghiêm; Sáu là, có ṿng ngọc báu, để làm trang sức; Bảy là, diện mạo đoan nghiêm, người thấy hoan hỷ; Tám là, đầy đủ phước báo lớn; Chín là, mạng chung sanh lên cơi Trời; Mười là mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là cúng dường bố thí chuông linh được mười thứ công đức.

Nếu có chúng sanh cúng dường bố thí quần áo, được mười thứ công đức: Một là, diện mạo đoan nghiêm; Hai là, da dẻ trơn láng; Ba là, bụi nhơ không dính; Bốn là, sanh ra liền đầy đủ quần áo sang trọng vi diệu; Năm là, giường nệm quư tốt, che chở thân ḿnh; Sáu là, đầy đủ ḷng hổ thẹn; Bảy là, người thấy đều yêu kính; Tám là, đầy đủ của báu lớn; Chín là, mạng chung sanh lên cơi Trời; Mười là, mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là cúng dường bố thí quần áo được mười thứ công đức.

Nếu có chúng sanh cúng dường bố thí đồ dùng, được mười thứ công đức: Một là, xử sự như đồ đựng; Hai là, được thiện pháp thấm nhuần; Ba là, ĺa các khát ái; Bốn là, nếu khát nhớ nước, th́ ḍng suối tự vọt ra; Năm là, không bao giờ sanh vào đường ngạ quỷ; Sáu là, được đồ dùng cơi Trời vi diệu; Bảy là, xa ĺa bạn ác; Tám là, đủ phước báo lớn; Chín là, mạng chung sanh lên cơi Trời; Mười là, mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là cúng dường bố thí đồ đựng được mười thứ công đức.

Nếu có chúng sanh cúng dường bố thí thức ăn nước uống, được mười thứ công đức: Một là, được mạng sống; Hai là, được sắc đẹp; Ba là, được sức mạnh; Bốn là, tâm được an ổn biện tài vô ngại; Năm là, được không chỗ sợ sệt; Sáu là, không có các việc giải đăi lười nhác, được mọi người kính ngưỡng; Bảy là, mọi người yêu thích; Tám là, đủ phước báu lớn; Chín là, mạng chung sanh lên cơi Trời; Mười là, mau chứng Niết Bàn. Đó là cúng dường bố thí thức ăn nước uống được mười thứ công đức.

Nếu có chúng sanh cúng dường bố thí giày dép, được mười thứ công đức: Một là, đầy đủ phương tiện đi lại tốt đẹp; Hai là, dưới chân bằng phẳng an ổn; Ba là, gót chân mềm mại; Bốn là, bước xa nhẹ khoẻ; Năm là, thân không mệt mỏi; Sáu là, những chỗ đi đến không bị chông gai, ngói gạch làm tổn hoại chân họ; Bảy là, được sức thần thông; Tám là, luôn có người giúp đỡ; Chín là, mạng chung sanh lên cơi trời; Mười là, mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là cúng dường bố thí giày dép được mười thứ công đức.

Nếu có chúng sanh cúng dường bố thí hương hoa, được mười thứ công đức: Một là, xử sự như hoa; Hai là, thân không hôi bẩn; Ba là, được hương phước báo, hương giới hạnh, bay khắp muôn phương; Bốn là, tuỳ theo sanh ra chỗ nào, lỗ mũi không hư hoại; Năm là, vượt hẳn thế gian, được mọi quy y kính ngưỡng; Sáu là, thân thường thơm sạch; Bảy là, yêu thích chánh pháp, thọ tŕ đọc tụng; Tám là, đầy đủ phước báo lớn; Chín là, mạng chung sanh lên cơi trời; Mười là, mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là cúng dường bố thí hương hoa được mười thứ công đức.

Nếu có chúng sanh cúng dường bố thí đèn sáng, được mười thứ công đức: Một là, chiếu sáng thế gian như đèn; Hai là, tuỳ sanh ra chỗ nào, mắt thịt không bị hư hoại; Ba là, được Thiên nhăn; Bốn là, đối với các pháp thiện ác, có trí tuệ sáng suốt; Năm là, diệt trừ bóng tối; Sáu là, được trí tuệ sáng suốt; Bảy là, lưu chuyển thế gian, thường không ở chỗ tối tăm; Tám là, đầy đủ phước báo lớn; Chín là, mạng chung sanh lên cơi Trời; Mười là, mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là cúng dường bố thí đèn sáng được mười thứ công đức.

Nếu có chúng sanh cung kính chắp tay, được mười thứ công đức: Một là, được phước báo thù thắng; Hai là, sanh vào ḍng họ cao quư; Ba là, được thân sắc tốt đẹp thù thắng vi diệu; Bốn là, được âm thanh giọng nói thù thắng vi diệu; Năm là, được phan lọng thù thắng vi diệu; Sáu là, được biện tài thù thắng vi diệu; Bảy là, được ḷng tin thù thắng vi diệu; Tám là, được giới thù thắng vi diệu; Chín là, được đa văn thù thắng vi diệu; Mười là, được trí tuệ thù thắng vi diệu. Đó gọi là cung kính chắp tay được mười thứ công đức.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói pháp này rồi, trưởng giả Thủ Ca ở chỗ Như Lai được ḷng tin thanh tịnh. Lúc bấy giờ Thủ Ca đầu mặt đảnh lễ đức Phật, mà nói như vầy: "Con nay cung thỉnh đức Phật đến thành Xá Bà Đề, về nhà của Cha con là trưởng giả Đao Đề. Nguyện khiến cho cha của con và tất cả chúng sanh ngày đêm được an lạc".

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn v́ lợi ích chúng sanh, nên im lặng nhận lời thỉnh cầu.

Lúc ấy Thủ Ca nghe đức Phật nói xong rồi, tâm rất vui mừng, đảnh lễ và lui ra.

Phật V́ Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt

 

 

 

 

 

 

 

 

-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Uploaded / Updated on 2024-10-18

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0