KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM AI THÁN THỨ BA
Ông Thuần-Đà ra đi không bao lâu, khắp cả đại-địa nhẫn đến trời phạm thiên bỗng chấn động sáu cách (36). Phàm địa động có hai : đại động và tiểu động. Có tiếng nhỏ, chỉ riêng nơi mặt đất chấn động, chỉ động một chiều, đây là tiểu địa động. Có tiếng lớn, cả đất liền cùng núi biển sông rạch cây cối đều động, động xoay nhiều chiều, lúc động có thể làm động cả tâm chúng sanh, đây là đại địa động. Đức Phật ra đời có những lần đại địa động : Từ cung trời Đâu-Suất giáng thần xuống nhơn gian, sơ sanh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, và nhập Niết-bàn. Giờ đây Như-Lai sắp nhập Niết-bàn nên có điềm đại-địa-động như vậy. Thiên-Long bát bộ (37) cả ḿnh rởn ốc, đồng thanh buồn khóc mà nói kệ rằng : Cúi đầu lạy Thế-Tôn Chúng con đồng khuyến thỉnh, Chúng con mà xa Phật Thời không ai cứu hộ. Đức Phật nhập Niết-bàn Chúng con ch́m biển khổ Khác nào nghé mất mẹ Sầu lo rất buồn khổ, Nghèo cùng không ai giúp Cũng như người bịnh ngặt Không lương y săn sóc Tự ư ăn uống lầm Chúng sanh bịnh phiền năo Thường bị kiến-chấp hại Xa ĺa đấng y-vương (38) Uống ăn thuốc tà độc Ngửa mong Phật Thế-Tôn Chớ bỏ rơi chúng con. Ví như mặt trời mọc Quang minh rất sáng chói Đă có thể tự soi Cũng từ tất cả tối, Phật phóng thần thông quang Trừ khổ năo chúng sanh Ở giữa các chúng hội Ví như núi Tu-di (39) Bạch Tjhế-Tôn ! Ví như quốc-vương sanh các vương tử diện mạo xinh đẹp, Vua rất yêu mến dạy cho rành nghề văn nghiệp vơ rồi sai người đem giết. Ngày nay chúng con là con của Phật, nhờ Phật dạy dổ có đủ chánh kiến, xin chớ bỏ con. Nếu bỏ chúng con thời chúng con khác nào các vương tử kia. Ngửa mong đức Phật ở luôn nơi đời, chớ nhập niết-bàn. Bạch Thế-tôn ! Ví như có người học giỏi nơi các bộ luận rồi lại sanh ḷng sợ đối với các bộ luận ấy, cũng thế, đức Như-Lai thông đạt các pháp mà lại sợ các pháp. Nếu được đức Như-Lai ở luôn nơi đời giảng pháp cam lồ cho chúng sanh được thấm nhuần đầy đủ, thời các chúng sanh đây chẳng c̣n lại sợ phải bị sa vào địa ngục. Bạch Thế-tôn ! Ví như có người mới vừa học làm nghề, kế bị quan bắt giam vào ngục, có hỏi thăm hiện tại thế nào ? Người ấy tất đáp : Nay tôi rất buồn khổ. Nếu người ấy được thả, thời được an vui. Cũng thế, đức Thế-Tôn v́ chúng con mà tu các khổ hạnh, hiện nay chúng con chưa được thoát khỏi sanh tử, thế sao đức Như-Lai đặng thọ hưởng an vui. Bạch Thế-Tôn ! Ví như y vương hiểu rành các phương thuốc, đem phương bí truyền dạy riêng cho con ḿnh, mà khôngh dạy cho các tṛ khác. Cũng thế, đức Như-Lai đem tạng pháp thậm thâm bí mật dạy riêng cho Văn-Thù Sư-Lợi, mà chẳng thưong chẳng dạy cho chúng con. Như ông thầy thuốc kia v́ ḷng c̣n riêng tư thân sơ, nên sự dạy không b́nh đẳng rộng răi, chỉ dạy riêng cho con ḿnh môn bí-phương, mà không truyền cho các tṛ khác. Đức Như-Lai trọn không có ḷng thân sơ tư vị, tại sao chẳng dạy dổ chúng con. Ngửa mong đức Phật ở lâu nơi đời, chớ nhập Niết-bàn. Bạch đức Thế-Tôn ! Ví như những người già trẻ bịnh khổ đi nơi đường hiểm rất khốn khó gian lao, có bực dị nhơn thấy vậy xót thương bèn chỉ cho con đường tốt bằng thẳng. Chúng con cũng như vậy. Người trẻ dụ cho những kẻ chưa tăng trưởng pháp thân, người già dụ cho những kẻ nặng phiền năo, bịnh khổ dụ cho sanh tử, đường hiểm nạn dụ cho tam giới. Cúi xin đức Như-Lai chỉ dẫn con đường chơn chánh giải thoát cho chúng con, ở lâu nơi đời, chớ nhập Niết-bàn.” Đức Thế-Tôn bảo các Tỳ-kheo :” Các thầy đừng ưu sầu khóc kể như hàng trời người phàm phu kia.
Các thầy phải siêng năng tinh tấn giữ vững chánh niệm”. Nghe đức Phật phán như vậy, hàng trời người bát bộ liền nín khóc. Đức Thế-Tôn v́ đại chúng mà nói kệ rằng :
Đại chúng phải sáng suốt Chẳng nên quá sầu khổ. Chư Phật đều vậy cả V́ thế nên im lặng, Thích nơi hạnh tinh tấn Ǵn ḷng giữ chánh niệm Xa ĺa các điều quấy Hớn hở được an vui. Lại nầy các thầy Tỳ-kheo ! Nếu có chỗ nào nghi ngờ đều phải bạch hỏi. Ở trong những pháp không,bất không, thừơng, vô thường, khổ, phi khổ, y, phi y, khứ, bất khứ, quy, phi quy, hằng, phi hằng, đoạn, phi đoạn, chúng sanh, phi chúng sanh, hữu, vô hữu, thiệt, bất thiệt, chơn, bất chơn, diệt, bất diệt, mật, bất mật, nhị, bất nhị, v.v… nếu c̣n nghi ngờ nay nên bạch hỏi, Như-Lai sẽ giải quyết cho. Như-Lai trứơc nói pháp cam-lộ cho các thầy rồi, sau mới nhập Niết-bàn. Nầy các thầy Tỳ-kheo ! Phật ra đời là khó, thân người khó được, gặp Phật sanh tín- tâm, việc đây cũng khó, nhẫn sự khó nhẫn lại là khó hơn, đầy đủ giới hạnh chứng quả A-La-Hán (40) cũng là việc khó. Như t́m cát vàng cùng hoa ưu-đàm-bát-la. Các thầy khỏi bát nạn được thân người là sự khó, nay gặp Như-Lai chẳng nên để luống uổng. Ngày xưa, Như-Lai tu nhiều hạnh khổ, nay được phương tiện vô thượng như thế, trong vô lượng kiếp v́ các thầy mà xả thí thân thịt tay chơn đầu mắt tủy năo. Ví thế các thầy chẳng nên phóng dật. Nầy các thầy Tỳ-kheo ! Thành báu chánh pháp trang nghiêm, đầy đủ các thứ công đức trân bảo, giới, định, và trí huệ làm tường thành và hào thành. Nay các thầy gặp được thành báu Phật pháp, chẳng nên lượm lấy những vật hư ngụy. Ví như nhà thương măi gặp thành chơn bảo, lượm lấy ngói sạn rồi trở về nhà. Các thầy chớ để tâm hạ liệt, cam đủ nơi chút ít pháp mọn. Các thầy dầu xuất gia mà không ham mộ pháp đại thừa. Thân các thầy dầu được đắp cà sa mà tâm chưa được nhuộm pháp đại thừa thanh tịnh. Các thầy dầu khất thực ở nhiều nơi mà chưa từng khất pháp-thực đại- thừa. Các thầy dầu cạo bỏ râu tóc mà chưa v́ chánh pháp cạo sạch kiết-sử. Nầy các thầy Tỳ-kheo ! Nay Như-Lai bảo thiệt các thầy, hiện nay Như-Lai đại chúng ḥa hiệp pháp tánh chơn thiệt chẳng điên đảo. V́ thế các thầy phải nhiếp tâm dơng mănh tinh tấn xô dẹp các kiết sử. Khi mặt trời Phật huệ lặn mất rồi, các thầy sẽ bị vô minh trùm đậy. Nầy các thầy ! Ví như những cỏ thuốc trên mặt đất để chúng sanh dùng, Phật pháp cũng vậy, sanh ra pháp vị cam lồ diệu thiện làm thuốc hay chữa bịnh phiền năo của chúng sanh. Nay Như-Lai sẽ làm cho tất cả chúng sanh cùng bốn bộ chúng đều được an trụ trong tạng bí mật. Cũng như chữ y, nếu ba điểm đứng chung hàng, hoặc đứng ngay, hoặc khác nhau đều không thành chữ y. Ba điểm phải như ba con mắt trên mặt Đại-Tự-Tại-Thiên mới thành chữ y. Như-Lai cũng thế, pháp giải thoát không phải Niết- bàn, thân Như-Lai không phải Niết-bàn, ma-ha-bát-nhă cũng không phải Niết-bàn, ba pháp đều khác nhau cũng không phải Niết-bàn. Như-Lai này an trụ ba pháp ấy, v́ chúng sanh mà nói là nhập Niết-bàn, như chữ y trong đời.” Các Tỳ-kheo nghe đức Phật Thế-Tôn nói quyết định sẽ nhập Niết-bàn, ai nấy đều lo rầu, cả ḿnh rởn ốc, lệ tràn đầy mắt, cúi lạy chơn Phật mà bạch rằng :’ Đức Thế-Tôn khéo dạy vô thường, khổ, không, vô-ngă. Bạch Thế-Tôn ! Ví như các dấu chưn của muông thú, dấu chưn voi là hơn cả. Vô thường quán cũng lại như vậy là pháp quán tưởng bực nhứt trong các pháp quán tưởng. Nếu ai tinh cần tu tập pháp nầy, thời có thể trừ tất cả sự ái nhiễm cơi dục, cơi sắc và cơi vô sắc, trừ vô minh kiêu mạn và vô thường tưởng. Đức Như-Lai nếu đă ĺa hẳn vô thường tưởng thời nay chẳng nên nhập Niết-bàn. C̣n nếu chẳng ĺa hẳn, cớ sao lại dạy rằng tu vô thường quán trừ được sự ái nhiễm ba cơi, vô minh, kiêu mạn và vô thường tưởng. Bạch Thế-Tôn ! Ví như đế vương biết mạng sắp chết, bèn ân xá ngục tù trong thiên hạ rồi sau mới băng. Ngày nay đức Như-Lai cũng nên như vậy, độ cho tất cả chúng sanh thoát khỏi lao ngục vô tri vô minh rồi sẽ nhập Niết-bàn. Hiện tại chúng con đều chưa được giải thoát, sao đức Thế-Tôn lại vất bỏ mà muốn nhập Niết-bàn ? Bạch Thế-Tôn ! Như người say rượu mê loạn nói xàm, không c̣n biết thân sơ, mẹ con, chị em,nằm vùi trong phẩn nhơ, nhờ lương y cho uống thuốc, ói sạch rượu ra mới được tỉnh lại, ḷng rất hổ thẹn tự răn trách lấy ḿnh, rượu là thứ hại, là cội gốc của các tội lỗi, nếu chừa được rượu thời khỏi tội lỗi. Chúng con cũng thế, từ nhiều đời đến nay luân chuyển sanh tử, t́nh sắc làm say mê tham đắm trong ngũ dục, không phải mẹ, tưởng là mẹ, không phải con, chị, em, mà tưởng là con, chị, em, không phải chúng sanh mà tưởng là chúng sanh, v́ cớ ấy nên luân chuyển chịu khổ sanh tử, như người say kia nằm trong phẩn nhơ. Nay đức Như-Lai nên ban pháp dược cho chúng con uống để ói rượu độc phiền năo, chúng con c̣n chưa được tỉnh ngộ, sao đức Như-Lai lại vất bỏ mà muốn nhập Niết- bàn. Bạch Thế-Tôn ! Không có cớ ǵ khen cây chuối là cứng chắc được. Chúng sanh cũng thế, không co cớ ǵ khen ngă, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng- dục, tri- kiến, tác-giả, thọ-giả là chơn thiệt được. Chúng con tu vô ngă quán cũng như vậy. Bạch Thế-Tôn ! V́ như bă xác không c̣n dùng được, bông thất diệp không có mùi thơm, cũng vậy, thân thể của người không ngă không chủ. Chúng con thường tu tập pháp quán tưởng vô ngă như vậy. Như đức Phật từng dạy tất cả các pháp không ngă và không ngă sở, các Tỳ-kheo phải tu tập. Tu như đây thời trừ ngă mạn, rời ngă mạn thời chứng Niết-bàn. Bạch Thế-Tôn ! Không bao giờ có dấu chim bay nơi hư không. Người hay tu tập pháp quán vô-ngă không bao giờ có các kiến-chấp”. Đức Phật khen các Tỳ-kheo : Lành thay ! Lành thay ! Các thầy khéo hay tu tập pháp quán vô- ngă.” Các Tỳ-kheo bạch Phật : Bạch Thế-T6n ! Chẳng những chúng con tu pháp quán vô-ngă tưởng, mà chúng con cũng tu tập các pháp quán khác như : khổ, vô thường. Bạch Thế-Tôn ! Như nguời say, tâm trí mê loạn thấy nhà cửa cây cỏ núi sông thảy đều xoay lộn. Ngươiø không tu các pháp quán khổ, vô thường, vô ngă thời chẳng gọi là bực Thánh, người nầy nhiều phóng dật trôi lăn trong ṿng sanh tử. V́ thế nên các con khéo tu tập các quán ấy”. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo :” Lóng nghe ! Lóng nghe ! Vừa rồi các thầy tŕnh bày ví dụ người say đó, các thầy chỉ biết danh tự mà chưa hiểu thấu “thật nghĩa”. Thế nào là “thật nghĩa” ? Như ngườ say kia thấy nhà cửa núi sông vốn thiệt không xoay lộn, mà tưởng cho là xoay lộn. Cũng vậy, bị những phiền năo vô minh trùm đậy nên chúng sanh khởi tâm điên đảo : ngă cho là vô ngă, thường cho là vô thường, tịnh cho là bất tịnh, lạc cho là khổ. V́ mắc phải phiền năo trùm che, nên dầu nghĩ tưởng như vậy mà không thấu rơ thật nghĩa”, như người say kia đối với sự không xoay lộn mà tưởng cho là xoay lộn. “ Ngă” chính là thật nghĩa của “Phật”, “Thường” chính là thật nghĩa của”Pháp-Thân”, “Lạc” là thật nghĩa của “Niết-bàn”, “Tịnh” là thật nghĩa của “Pháp”. Các thầy sao lại nói người có ngă thời kiêu-mạn cống-cao lưu chuyển sanh tử. Nếu các thầy nói rằng, tôi cũng tu tập pháp quán vô thường, khổ, vô ngă. Ba môn tu tập này không có thiệt nghĩa”. Như-Lai sẽ nói ba pháp tu đặc thắng. ` Khổ cho là vui, vui cho là khổ, là pháp điên đảo. Vô thường cho là thường, thường cho là vô thường, là pháp điên đảo. Vô-ngă cho là ngă, ngă cho là vô ngă, là pháp điên đảo. Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh, là pháp điên đảo. Có bốn pháp điên đảo như vậy thời là người chẳng rơ pháp tu chơn chánh. Các thầy ở trong pháp khổ tướng cho là vui, ở trong vô thường tưởng cho là thường, ở trong vô-ngă tưởng cho là ngă, ở trong bất tịnh tưởng cho là tịnh. Thế gian cũng có thường, lạc, ngă, tịnh. Xuất thế cũng co thường, lạc, ngă tịnh. Pháp thế gian có văn tự mà không thật nghĩa. Xuất thế có văn tự có thật nghĩa. Tại sao vậy ? V́ pháp thế gian có bốn sự điên đảo nên chẳng biết thật nghĩa. Lại có tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. V́ có ba sự điên đảo nầy nên người thế gian ở trong lạc thấy là khổ, trong thường thấy vô thường, trong ngă thấy vô ngă, trong tịnh thấy bất tịnh, đây gọi là điên đảo. V́ điên đảo nên thế gian biết văn tự mà chẳng biết thật nghĩa. Ǵ là thật nghĩa? Vô ngă gọi là sanh tử, c̣n ngă gọi là Như-Lai. Vô thường là Thanh-văn Duyên- giác, c̣n thường là Như-Lai pháp thân. Khổ là tất cả ngoại đạo, c̣n lạc là Niết-bàn. Bất tịnh là pháp hữu vi, c̣n tịnh là chánh pháp của chư Phật và Bồ-Tát. Đây gọi là chẳng điên đảo. V́ chẳng điên đảo nên biết văn tự biết thật nghĩa. Nếu muốn ĺa khỏi bốn sự điên đảo thời phải rơ biết thường, lạc, ngă, tịnh như vậy. Các Tỳ-kheo bạch Phật :”Bạch Thế-Tôn ! Như lời đức Thế-Tôn dạy rằng dứt ĺa bốn sự điên đảo ấy thời được rơ biết thường, lạc, ngă, tịnh. Nay đức Như-Lai trọn không có bốn sự điên đảo thời đă rơ biết thường, lạc, ngă, tịnh. Nếu đă rơ biết thường, lạc, ngă, tịnh sao đức Như-Lai không ở đời một kiếp hoặc nửa kiếp để dạy dổ chúng con, cho chúng con khỏi ĺa bốn sự điên đảo, mà lại vất bỏ chúng con muốn nhập Niết-bàn. Nếu được đức Như-Lai đoái thương dạy bảo, chúng con sẽ hết ḷng tuân lời tu tập. Nếu đức Như-Lai nhập Niết-bàn, chúng con không thể mang thân độc hại nầy mà tu phạm hạnh. Chúng con cũng sẽ nhập Niết-bàn theo Phật.” Phật bảo các Tỳ-kheo :” Các thầy chớ nói như vậy. Bao nhiêu vô thượng chánh pháp của Phật, Như-Lai đều đem giao phó cho Ma-Ha-Ca-Diếp. Ma-Ha-Ca-Diếp sẽ là chổ y-chỉ hoàn toàn cho các thầy, cũng như đức Như-Lai là chổ y-chỉ của tất cả chúng sanh. Ví như quốc vương lúc đi tuần du, đem quốc sự giao phó cả cho đại thần. Cũng vậy, Như-Lai đem chánh pháp giao phó cho Ma-Ha-Ca-Diếp. Các thầy nên biết rằng chỗ tu pháp khỗ vô thường trước kia chẳng phải là chơn thật. Ví như mùa xuân, có một nhóm người chơi thuyền trong hồ lớn làm rớt ch́m ngọc lưu ly.Nhóm người ấy ,liền cùng nhau hụp lặn t́m ngọc, bóc nhằm ḥn sơi viên đá, bụng mừng cho là ngọc, đến lúc đem ra khỏi nước mới rơ là không phải. Lúc ấy ngọc lưu ly vẫn ở dưới nước, do thế lực của ngọc mà nước hồ đều đứng trong. Bấy giờ nhóm người ấy mới nh́n thấy viên ngọc. Có một người trí t́m cách khéo chẫm răi lặn xuống t́m vớt được ngọc. Các thầy chớ nên cho sự tu tập pháp quán vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh như vậy là thật nghĩa .Như nhóm người kia lặn xuống nước bốc nhằm sạn đá mà cho là ngọc. Các thầy phải khôn khéo nơi nơi chỗ chỗ .luôn tu pháp quán ngă, thường, lạc, tịnh. Lại cần nên biết tướng mạo tu tập bốn pháp trước kia đều là điên đảo. Muốn được chơn thiệt tu các pháp quán, tức là quán ngă, thường, lạc, tịnh thời phải như người trí khéo vớt được ngọc kia. Các Tỳ-kheo bạch Phật :” Bạch Thế-Tôn ! Ngày trước đức Phật dạy rằng các pháp vô ngă, các ông phải tu học. Tu học pháp vô ngă sẽ ĺa sự chấp ngă, ĺa chấp ngă thời ĺa kiêu mạn, ĺa kiêu mạn, thời chứng Niết-bàn. Nghĩa ấy thế nào ? Đức Phật bảo các Tỳ-kheo : “ Lành thay ! Lành thay ! Nay các thầy có thể bạch hỏi nghĩa ấy để tự dứt chỗ nghi ngờ. Nầy các thầy ! Ví như quốc vương kém sáng suốt, tin dùng một y sư vụng về, tánh t́nh lại cao ngạo, Phàm trị bịnh ǵ cũng thuần dùng sửa để làm thuốc cả , thêm nỗi chẳng rơ căn do của bịnh, dầu biết dùng sửa mà chẳng hiểu rành, chẳng biện biệt sửa tốt xấu, lành, không lành. Một hôm, từ phương xa lại một minh y thông cả tám nghề, rành các phương thuốc, trị bịnh rất giỏi. Cựu-y v́ sẵn tánh cống-cao khinh mạn nên không đếm xỉa tới. Minh y thấy vậy, bèn hạ ḿnh thỉnh cựu-y làm thầy, nhơn đó được vào hầu quốc vương. Minh y tŕnh bày lên quốc vương các phương thuốc và những nghệ thuật khác. Bấy giờ quốc vương tỉnh ngộ, xét biết cựu y là hạng vụng về cao ngạo, liền biếm truất đi, rồi trọng dụng minh y. Minh y mới yêu cầu quốc vương cấm dân chúng uống thuốc sửa của cựu-y, v́ thuốc ấy độc hại, làm thương tổn người bịnh, quốc vương chuẩn lời, ra lệnh cấm hẳn, nếu ai dùng sửa để trị bịnh sẽ bị tử h́nh. Minh y cứ theo phương dược chế các thứ thuốc, phàm dân chúng có bịnh ǵ đều trị lành cả. Ít lúc sau, quốc vương phải bịnh nặng, truyền vời minh y điều trị. Sau khi khám bịnh, biết rằng quốc vương phải dùng thuốc sửa, minh y liền tâu rằng :” Ngày trước tôi yêu cầu cấm dùng sữa làm thuốc, đó là đại vọng ngữ. Nếu uống thuốc sữa rất có thể trị được bịnh. Hiện nhà vua đang phải bịnh nóng, chính nên dùng sữa”. Vua băo :” Có lẽ ông điên cuồng hay bị bịnh loạn óc rồi, mới nói rằng uống sữa trị được bịnh của ta. Cựu-y dùng sửa, ông cho là độc, bảo ta biếm truất và cấm hẳn, nay trở lại nói sửa là tốt hay trị được bịnh.
Ông muốn khi dối ta ư ? Cứ theo lời ông nói thời cựu-y có thể hơn ông rồi”. Minh y tâu : “ Thưa Đại-Vương ! Như mối ăn gỗ ngẫu nhiên thành chữ, con mối nầy tự nó không biết là chữ hay không phải chữ. Ngừơi trí xem thấy trọn không bao giờ tuyên xướng rằng con mối biết chữ và cũng chẳng lấy làm lạ.
Cũng vậy, cựu-y không hiểu căn bịnh, bịnh ǵ cũng dùng thuần sữa để trị, lại không biết sữa là tốt hay xấu, là lành hay không lành” Vua nói :” Xin ông giải thích cho ta rơ” Minh y tâu :” Thuốc sữa kia cũng là độc hại, cũng là cam lộ. Thế nào là thuốc sữa cam lộ ? Nếu là ḅ cái không ăn bă hèm trấu cặn, con nghé của nó rất điều thiện, chỗ thả chăn không phải cao nguyên cũng không quá thấp ướt, nước uống trong sạch, chẳng cho chạy nhảy, chẳng cho chung bầy với ḅ đực, cho nó ăn uống đi đứng vừa chừng phải cách. Sửa của ḅ nầy trị được nhiều bịnh gọi là cam lộ. Ngoài ra các thứ sửa khác thời gọi là độc hại. Nghe minh y giảng giải, vua khen rằng :” Hay lắm ! Hay lắm ! Nay ta mới rơ thế nào là sửa tốt, xấu, lành, cùng chẳng lành “. Sau khi được uống thuốc sửa của minh y, vua được lành mạnh, vua liền truyền lịnh cho dân chúng được dùng sửa để trị bịnh. Dân chúng không vừa ḷng với thái độ của nhà vua, nên hội đến hoàng cung để cật vấn. Quốc vương bảo dân chúng :” Mọi người chẳng nên oán trách nơi ta, về vấn đề thuốc sữa nên uống hay không nên uống đều là ư của y sư cả không phải lỗi của ta”. Dân chúng vui ḷng tuân lời minh y dùng thuốc sữa tốt trị bịnh, được nhiều kết quả tốt. Này các Tỳ-kheo ! Các thầy nên biết đức Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri, Minh-Hạnh- Túc, Thiện-Thệ Thế-Gian-Giải Vô-Thượng-Sĩ Điều-Ngự Trượng-Phu Thiên-Nhơn-Sư Phật Thế-Tôn cũng lạI như vậy. Là bực đại y vương hiện ra nơi đời hàng phục tất cả tà y ngọai đạo. Giữa dại chúng xướng rằng ta là y vương, v́ hàng phục ngọai đạo nên nói không ngă, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giă. Các thầy nên biết ngoại đạo mà nói là ngă đó, như mối ăn cây ngẫu nhiên thành chữ thôi. V́ thế nên trong Phật pháp đức Như-Lai nói là vô ngă để điều phục chúng sanh, và v́ là lúc phải n ói là vô ngă. Rồi cũng v́ có nhơn duyên nên cũng nói có ngă. Như minh y kia biết rơ nơi sữa phải thuốc, hay không phải thuốc. Chẳng phải như chỗ chấp ngô ngă của phàm phu. Phàm phu chấp ngă lớn như ngón tay cái, hoặc như hột cải, hoặc như vi trần. Ngă của Như-Lai nói đều không phải như vậy, v́ thế nên nói các pháp không ngă, mà chính thiệt chẳng phải là không ngă. Thế nào là thiệt ? Nếu Pháp là thiệt, là chơn, là thường, là chủ, là sở-y, tánh không biến đổi, đó gọi là nga.ơ Như minh y kia hiểu rành thuốc sửa. Cũng vậy, Như-Lai v́ chúng sanh mà nói trong các pháp chơn thiệt có ngă. Bốn bộ đệ tử của Như-Lai đều phải tu pháp quán chơn ngă như vậy.
(36) –SÁU CÁCH CHẤN ĐỘNG : 3 CÁCH VỀ TIẾNG : 1. Tiếng nổ, 2. Tiếng loài hữu t́nh kêu la, 3. tiếng loài vô t́nh khua chạm, 3 cách về h́nh : 1 rung động qua lại, 2. vọt lên khỏi chỗ cũ, 3. đang nằm bỗng đứng dậy dựng lên.
(37)- TÁM BỘ THIÊN THẦN ; Thiên thần, Long thần, Dạ xoa thần, Càn-thát-bà thần, A-Tu- La-thần, Ca-Lâu-La thần, Khẩn-Na-La thần , Ma-hầu-la thần.
(38) Y-VƯƠNG : Đức Phật là ông Vua thuốc pháp, hay chữa lành tâm bệnh phiền năo cứu chúng sanh thoát khỏi tất cả khổ thống, sanh tử, để được an vui Niết-bàn thường lạc, ngă, tịnh.
(39)-TU-DI SƠN (Suméru) : Quả núi to nhất ở thế gian, ở giữa biển Hương-Thủy, toàn bằng bốn chất báu Vàng, bạc, lưu ly và pha lê. Đảơnh núi là cơi trời Đao-Lợi, thuộc quyền Đế-Thích thống trị. Giữa núi là Cơi Tứ-Vương, do 4 vị Thiên-Vương cai quản.
(40)- A-La-Hán : Quả thứ tư trong bốn quả thánh xuất thế thuộc tiểu thừa : Tu-Đà-Hoàn (Dự lưu) bực nầy thấy lư tứ đế, dứt ngă chấp, phân biệt hết kiến hoặc, ra khỏi phàm phu, dự vào hàng Thánh xuất thế. Tư-Đà-Hàm (Nhứt-Lai) bực Thánh nầy đă hết kiến hoặc dứt thêm sáu phẩm trong chín phẩm tư-hoặc cơi dục, c̣n một lần sanh trở lại cơi dục mới thoát hẳn.
A-Na-Hàm (Bất-Lai) bực Thánh đă hết kiến –hoặc và dứt cả chín phẩm tư-hoặc cơi dục, không c̣n sanh trở lại cơi dục nữa.
A-La-Hán (Vô-sanh Sát-tặc Ứng-cúng) bực Thánh cao nhứt trong hàng Thanh-văn Tiểu- thừa, đă dứt sạch kiến-hoặc và tư –hoặc tam giới cùng câu-sanh ngă-chấp nên gọi là Sát- Tặc. Đă khỏi hẳn sanh tử luân hồi trong lục đạo, nên hiệu là Vô-sanh, là bực đáng thọ sự cúng dường của Nhơn- Thiên, niên hiệu là Ứng-Cúng.
[ HOME | 中文主頁 | 經典 | ENGLISH | SUTRA | CHỬ VIỆT | KINH ĐIỂN | GALLERY | CONTACTS ]
|