KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM THUẦN ĐÀ THỨ HAI
Bấy giờ trong đại hội có vị ưu-bà-tắc, con nhà thợ thuyền trong thành Câu-Thi-Na, tên là Thuần- Đà cùng với mười lăm bạn đồng nghiệp, v́ muốn đem qủa lành đến cho người đời nên đến trước Phật, quỳ gối chắp tay cúi lạy chơn Phật, buồn khóc rơi lệ, bạch rằng : “ Ngửa mong đức Thế- Tôn và Tỳ-Kheo-Tăng thương xót nhận phần cúng dường cuối cùng của chúng con, cho vô-lượng chúng sanh được độ.
Bạch Thế-tôn ! Chúng con từ nay nghèo cùng đói khổ không ai cứu giúp, không nơi nương nhờ, muốn xin phước lộc tương lai ở Đức thế-Tôn (17). Cúi xin xót thương nhận chút lễ mọn rồi sẽ nhập Niết-bàn. Bạch Thế-Tôn ! Ví như có người nghèo cùng đến xứ xa lạ ra sức làm ruộng, đặng trâu cày giỏi, ruộng đất tốt màu, bằng phẳng sạch cỏ, chỉ c̣n chờ trời mưa.Trâu giỏi dụ cho bảy nghiệp của thân và miệng, ruộng tốt bằng phẳng dụ cho trí huệ, sạch cỏ dụ cho trừ sạch phiền năo. Bạch Thế-tôn ! Nay đây con đă có trâu giỏi ruộng tốt sạch cỏ, chỉ c̣n trông chờ trận mưa pháp cam-lồ của Như-Lai. Người nghèo kia chính là con đây,nghèo nơi của báu pháp-bảo vô-thượng. ngửa mong xót thương dứt trừ sự nghèo cùng khốn khổ của chúng con và cả vô-lượng chúng-sanh. Cúng phẩm của con dầu kém mọn, cũng mong đức Như-Lai và chư Tăng dùng được đủ. ngày nay con không nơi nương nhờ, không ai nưng đỡ, xin đức Thế-tôn rủ ḷng thương xót coi con như La-Hầu-La (18).
Đức Thế-Tôn, bực nhứt-thiết chủng- trí vô- thượng điều-ngự, bảo Thuần-Đà rằng Lành thay !Lành thay ! Hôm nay Như-Lai trừ sự nghèo cùng cho ông, mưa pháp vô-thượng xuống cho ruộng thân tâm ông mọc mầm pháp. Ông muốn cầu thọ-mạng, sắc, lực, an-lạc vô ngại, biện-tài nơi Như-Lai. Như-Lai sẽ ban cho ông các thứ ấy. “ Thuần-Đà ! Thí- thực có hai, đồng một quả báo; một là thọ xong liền chứng vô- thượng chánh-đẳng chánh-gíac, hai là thọ xong liền nhập Niết-Bàn. Hôm nay Như-Lai nhận phần cúng dường cuối cùng của ông, cho ông đầy đủ bố-thí ba-la-mật” 19).
Thuần-Đà liền bạch Phật rằng ;” Như Đức Thế-Tôn vừa dạy rằng hai lúc cúng-thí quả-báo đồng nhau, theo ư con nghĩ, e rằng không đúng ngĩa. V́ vị thọ-thí trước là bực chưa sạch phiền năo, chưa chứng nhứt-thiết-chủng-trí (20) cũng chưa có thể làm cho chúng sanh đầy đủ bố-thí ba-la-mật. C̣n vị thọ thí sau là bực nhứt-thiết chủng-trí, đă sạch phiền-năo, có thể làm cho khắp chúng sanh đầy đủ bố-thí-ba-la-mật. Vị thọ-thí trước c̣n là chúng sanh, vị thọ-thí sau là bực trời trong các trời. Vị thọ-thí trước là thân tạp-thực, thân phiền-năo, thân vô-thường cuối cùng; vị thọ-thí sau là thân kim-cang không phiền- năo, là pháp-thân chơn-thường vô cùng. Sao lại cho rằng hai sự cúng-thí quả báo đồng nhau ? Vị thọ thí trước chưa được đầy đủ đàn-ba-la-mật nhẫn đến bát-nhă ba-la-mật, chỉ có nhục nhăn chưa có huệ nhăn nhẫn đến Phật-nhăn (21). Vị thọ thí sau đă được đầy đủ cả sáu ba-la-mật nhẫn đến Phật-nhăn. Sao lại cho rằng hai sự cúng-thí được quả-báo đồng nhau ? Bạch đức Thế-Tôn ! Vị thọ-thí trước, thọ xong ăn nuốt vào bụng tiêu hóa đặng sống c̣n, đặng sức khỏe, xinh đẹp, an vui, vô-ngại-biện. Vị thọ thí sau chẳng ăn chẳng tiêu, không năm sự quả. Sao lại cho rằng hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau ?” Đức Phật phán ;” Thuần-Đà ! Như-lai đă từ vô-lượng vô-biên vô số kiếp (22) không có những thân ăn uống, thân phiền năo, thân sau cùng, mà là thân chân-thường, thân kim- cang, là pháp- thân. Thuần-Đà ! Người chưa thấy Phật- tánh gọi là thân tạp-thực, phiền măo, cuối cùng. Lúc đó Bồ- tát thọ đồ ăn uống rồi nhập kim-cang tam-muội, đồ ăn tiêu hóa xong liền thấy Phật-tánh, chứng vô- thượng chánh đẳng chánh giác. V́ lẽ ấy nên Như-Lai nói hai sự cúng-thí được quả báo đồng nhau. Lúc thành đạo, Bồ-tát phá hoại bốn ma (23), nay nhập Niết-bàn cũng phá hoạI bốn ma , nên Như-Lai nói hai quả-báo không sai khác. Lúc trước dẫu Bồ-tát chẳng rộng giảng-diễn mười hai bộ kinh nhưng đă thông đạt rồi, nay nhập Niết- bàn rộng v́ chúng sanh phân biệt giảng dạy. V́ thế nên Như-Lai nói hai quả báo đồng nhau. Thuần-Đà ! Thân của Như-Lai đă từ vô-lượng vô số kiếp chẳng thọ sự ăn uống. V́ hàng Thanh-Văn mà nói rằng trước thọ cháo sửa của hai nàng chăn ḅ là Nan-Đà và Nan- Đà Ba- La, rồi sau mới chứng quả vô- thượng chánh-giác, nhưng chính thiệt Như-Lai không ăn. Hôm nay v́ đại-chúng trong hội nầy, mà Như-Lai nhận sự cúng dường cuối cùng của ông dưng. thiệt ra Như-Lai không ăn”. Đại-chúng nghe đức Thế-Tôn khắp v́ đại-hội mà nhận sự cúng dường cuối cùng của Thuần-Đà, đều vui mừng hớn hở. Đồng rập tiếng khen rằng : Lành thay ! Lành thay ! Hi hữu thay cho Thuần- Đà ! Thiệt ông không uổng tên là Thuần-Đà. V́ hai chữ Thuần-Đà là “hiểu diệu-nghĩa”. Ông nay kiến lập diệu-nghĩa như thế, cứ nghĩa đặt tên gọi là Thuần-Đà. Hiện đời đây ông được đầy đu ûcả danh tiếng, tài lợi, đức hạnh, chí nguyện. Rất lạ cho ông Thuần-Đà ! Sanh trong loài người lại được quả lành vô- thượng rất khó đươc. Lành thay cho Thuần-Đà ! Trong đời khó có người thứ hai. khác nào hoa Ưu-Đàm. Đức Phật ra đời là rất khó. Gặp Phật sanh ḷng tin, được nghe chánh pháp, lại là rất khó. Đức Phật sắp nhập Niết-Bàn, thỉnh được đức Phật nhận phần cúng dường cuối cùng lại càng khó hơn. Nam-mô Thuần-Đà ! Nam-mô Thuần-Đàø ! Nay ông đă đầy đủ bố-thí ba-la-mật. Đại chúng liền nói kệ rằng :
Ông dầu sanh nhơn đạo Đă siêu trời thứ sáu Tôi cùng tất cả chúng Nay xin yêu cầu ông : Đấng tối-thắng trong người Nay sẽ nhập Niết-bàn, Ông nên thương chúng tôi Xin kíp thỉnh đức Phật Ở lâu lại thế gian Diễn thuyết pháp vô-thượng Mà bực trí tán thán Hầu lợi ích chúng sanh. Nếu ông không thỉnh Phật Mạng tôi ắt khó toàn Ông nên v́ chúng tôi Đănh lễ đức Điều-Ngự. Thuần-Đà vui mừng hớn hở như người có cha mẹ vừa chết bỗng sống lại. Ông đăng lễ Phật mà nói kệ rằng : Vui thay được lợi ḿnh ! Khéo thọ nơi thân người Dẹp trừ tham sân si Thoát hẳn ba ác đạo (24) Thích thay được lợi ḿnh ! Được gặp kho vàng báu Gặp gỡ đức Điều-Ngự Chẳng sợ đọa súc sanh Phật như hoa Ưu-Đàm (25) Khó gặp gỡ tin kính Gặp rồi trồng căn lành Dứt hẳn khổ ngạ-quỷ, Laị cũng hay tổn giăm Chủng loại A-Tu-La. Hột cải ghim đầu kim (26) Phật ra đời khó hơn, Tôi đă đủ đàn độ (27) Độ thiên nhơn sanh tử. Phật chẳng nhiễm việc đời Như hoa sen ở nước Khéo dứt giống tam-giới (28) Thoát hẳn gịng sanh tử, Sanh làm người là khó Gặp đời Phật cũng khó Dường như trong biển lớn Rùa mù gặp bọng cây. Nay tôi dưng thực phẩm Nguyện đặng báo vô thượng Xô phá phiền –năo kiết Tất cả không bền chắc. Nay tôi ở nơi đây Chẳng cầu thân nhơn thiên Dầu có được thân ấy Cũng không ḷng ham thích Được Phật nhận cúng phẩm Con vui sướng không lường Khác nào bông Y-Lan (29) Ngát mùi hương chiên đàn. Thân tôi như Y-Lan Thế-Tôn nhận cúng phẩm Như ngát hương chiên đàn V́ thế tôi vui mừng. Tôi nay được hiện báu Chỗ tối-thắng thượng-diệu Đế-Thích cùng Phạm-Thiên (30) Đều đến cúng dường tôi, Tất cả các thế gian Đều sanh ḷng buồn khổ V́ biết Phật Thế-tôn Muốn nhập đại-niết-bàn Đồng cất tiếng xướng to : Đời sẽ không Điều-Ngự Chẳng nên bỏ chúng sanh Phải xem như con một Phật ở giữa chư tăng Diễn thuyết pháp vô thượng Như núi báu Tu-di Cao vọi giữa biển cả. Trí Phật vay khéo dứt Tối vô-minh của tôi Dường như giữa hư không Mây nổi đặng mát mẻ Như –Lai khéo dứt trừ Tất cả các phiền năo(31) Như mặt trời mọc lên Tan mây sáng khắp soi Các loài chúng sanh đây Khóc than sưng cả mắt Đều bị ḍng sanh tử Đẩy trôi rất khốn khổ. Đức Thế-Tôn cần phải Thêm căn lành chúng sanh V́ dứt khổ sanh tử Ở nán lại thế gian. Phật bảo Thuần-Đà:” Đúng như lời ngươi nói. Phật ra đời là khó như hoa Ưu-đàm. Gặp Phật sanh ḷng tin lại khó hơn. Phật sắp nhập Niết-Bàn, dược cúng dường lần cuối cùng đầy đủ bố-thí ba-la-mật, lại là việc rất khó gấp bội. Nay ông chớ buồn khổ, nên phải vui mừng v́ đă được dịp cúng dường Như-Lai lần cuối cùng, do đây thành-tựu bố-thí ba-la-mật. Ông chẳng nên thỉnh Phật ở lại nơi đời, mà phải quan sát cảnh giới của chư Phật thảy đều vô-thường, tánh và tướng của các hành-pháp cũng như vậy”.
Đức Phật liền v́ Thuần-Đà mà nói kệ rằng :
Tất cả các thế gian Có sanh đều có tử, Dầu thọ-mạng vô-lượng Tất có kỳ phải hết. Có thạnh tất có suy, Sum hiệp có biệt ly, Tuổi trẻ chẳng dừng lâu Khỏe mạnh bị bịnh xâm, Sự chết nuốt mạng người Không có ǵ thường c̣n. Bực vua chúa tự-tại Thế-lực không ai bằng Tất cả đều dời đổi Mạng sống cũng như vậy. Sự khổ xoay không ngằn Lưu-chuyển không thôi dừng Ba cơi đều vô thường Mọi loài không có vui. Tánh tướng của pháp có Tất cả đều trống không, Pháp sanh diệt lưu-chuyển Luôn có những lo khổ, Sợ sệt, các lỗi ác, Già, bịnh, chết, buồn rầu. Những khổ ấy không ngằn Hư ră nhiều tai hại, Phiền năo bao gói kín Khác nào tầm ở kén, Là người có trí huệ Đâu nên thích chốn nầy. Các khổ nhóm nơi thân Tất cả đều nhơ nhớp, Tai nạn, ghẻ nhọt thảy Cội gốc của khổ đau, Dầu là thân chư-Thiên Đều cũng giống như vậy. Dục ái đều vô-thường Nên Phật chẳng tham ưa, Ly dục khéo tư duy Đặng chứng quả chơn thiệt Rốt ráo dứt sanh tử Nay sẽ vào Niết-bàn. Phật đăvượt bờ kia Đă thoát hẳn các khổ V́ thế nên hiện nay Thuần hưởng những diệu-lạc, Do các nhơn duyên ấy Chứng quả vị chơn thiệt Dứt hẳn những triền phược Hôm nay vào Niết-bàn. Phật không già, bịnh, chết, Thọ mạng vô cùng tận, Phật nay vào Niết-bàn Như ngọn lửa lớn tắt. Thuần-Đà ! Ông chẳng nên Suy lường nghĩa Như-Lai, Nên xét tánh Như-Lai Dường như núi Tu Di. Phật nay vào Niết-bàn Thọ-tŕ bệ nhứt lạc, Pháp chư Phật như vậy Các ông chớ nên khóc. Thuần-Đà bạch Phật rằng : Bạch đức Thế-Tôn ! Đúng như lời Phật dạy. Trí huệ của con kém nhỏ như muỗi ṃng, đâu có thể nghĩ bàn được nghĩa Niết-bàn sâu kín của Như-Lai. Bạch Thế-Tôn ! Ví như người tuổi thơ ấu mới xuất gia, dầu chưa thọ giới cụ-túc, mà đă được dự vào số chúng tăng. Con nay cũng vậy, nhờ thần lực của Phật và BồTát, mà con được dự vào số đại Bồ-Tát, đă được cùng hàng với các bực Đại-Long-Tượng (32) dứt phiền năo, như ngài Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương –Tử v.v… Thế nên hôm nay con muốn đức Như-Lai thường ở nơi đời mà chẳng vào Niết-bàn . Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương-Tử (33) bảo Thuần-Đà rằng : Ông chẳng nên nói rằng muốn đức Như-Lai thường ơ nơi đời mà chẳng vào Niết-bàn. Ông phải quán-sát tánh tướng của hành pháp, quán sát như thế đặng “không” tam-muội. Muốn cầu chánh pháp nên học pháp quán-sát như vậy. Thuần-Đà nói ;” Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Đức Như-Lai là bực cao cả nhứt trong người trên trời. Đức Như-Lai như thế há lại là hành pháp sao ? (34) Nếu là hành- pháp thời là pháp sanh diệt. Ví như bóng nước chóng nổi chóng tan, qua lại xoay vần như bánh xe lăn, các hành- pháp cũng thế. Tôi nghe chư Thiên sống rất lâu, tại sao đức Thế-Tôn là bực trời trong các trời mà lại sống chẳng đầy trăm tuổi. Cách hành-pháp là pháp sanh tử, nếu đức Như-Lai nhập diệt thời đồng với hành-pháp, đâu được gọi là bực trời trong các trời, là pháp vương tự- tại. V́ thế chẳng nên xem đức Như-Lai đồng với hành-pháp. Đức Như-Lai hàng phục phiền- năo ma, ngũ-ấm ma, thiên-ma, tử ma do nhơn duyên ấy mà thành-tựu đầy đủ vô-lượng công-đức chơn thiệt, nên hiệu là Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến- Tri, hiệu là Tam-Giới-Tôn. Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi : Chẳng nên ức-tưởng phân biệt mà đem pháp Như-Lai cho đồng với các hành pháp. Ví như phú ông sanh con trai, nhà tướng số xem trẻ ấy có tướng đoản mạng. Phú ông biết rằng trẻ ấy không thể nối lấy gia nghiệp, nên chẳng ái trọng. Vả kẻ đoản thọ thời chẳng được mọi người kính trọng. Nếu đức Như-Lai đồng với các hành-pháp, ắt chẳng được sa-môn bà-la-môn tất cả trời người kính thờ, mà pháp chơn thiệt bất biến bất dị của Như-Lai dạy ra cũng không ai tín thọ. V́ lẽ ấy, ngài chẳng nên nói rằng Như-Lai đồng với các hành-pháp.
Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Như bần-nữ đang có mang mà lại đói khát không nhà cửa, đẻ nhờ dưới mái nhà kia, chủ nhà xua đuổi, bần nữ bồng con muốn đến xứ khác để mưu sinh. Dọc đường phải lội qua con sông, ra giữa ḍng bị nước chảy, xoáy mạnh, không nỡ buông con nên mẹ con đồng bị chết đuối. V́ tấm ḷng từ ái ấy, bần nữ được sanh lên cơi phạm- thiên. Nếu có thiện-nam-tử muốn hộ tŕ chánh-pháp, chớ nói Như-Lai đồng với các hành-pháp hay chẳng đồng với các hành-pháp. Chỉ nên tự trách ḿnh ngu si không có huệ- nhăn, chánh-pháp của Như-Lai không thể nghĩ bàn, không nên tuyên nói Như-Lai quyết định là hữu-vi, hay vô-vi. Nếu là người chánh-kiến nên nói Như-Lai quyết định là vô- vi. V́ sao thế ? V́ nói Như- Lai là vô-vi thời có thể sanh pháp lành cho chúng sanh. Thiện-nam-tử hộ-tŕ chánh-pháp thà chết chớ chẳng nói Như-Lai đồng với pháp hữu-vi, mà chỉ nên nói Như-Lai đồng với pháp vô-vi. Nhơn v́ hộ- tŕ chánh-pháp nói Như-Lai đồng với pháp vô-vi mà đặng quả vô-thượng chánh-giác. Như bần-nữ thà chết đuối giữa ḍng chớ không chịu buông con, nhơn đó mà được sanh lên cơi phạm-thiên. Thiện nam-tử này chẳng cầu giải thoát mà giải thoát tự đến. Khác nào bần nữ kia chẳng cầu sanh phạm-thiên mà quả phạm- thiên tự đến. Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Như người đi xa giữa đường mỏi mệt, nghỉ nhờ nhà người. Giữa lúc ngũ, nhà ấy bổng bốc lửa to. Người ấy choàng dậy biết chắc phải chết, ḷng hổ thẹn sọ thân thể lơa lồ bèn lấy y áo vấn thân mà chết, liền được sanh lên cơi trời Đạo-Lợi. sau đó tám mươi đời làm Đại-Phạm-Vương, trăm ngàn đời làm Chuyển- Luân- vương, người ấy măi hưởng phước lành như vậy, hẳn không bị đọa vào ác đạo. V́ duyên cớ ấy, nếu là người có tâm tàm-quư chẳng nên xem Như-Lai đồng với các hành- pháp. Bọn ngoại đạo tà-kiến mới được nói Như-Lai đồng với pháp hữu-vi. Là Tỳ-Kheo tŕ-giới đâu nên có quan niệm rằng Như-Lai là pháp hữu-vi. Nếu nói Như-lai là pháp hữu-vi, đó chính là vọng-ngữ. Phải biết người nầy sẽ đọa địa ngục. Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Như-Lai chơn thiệt, chính là pháp vô-vi, chẳng nên lại nói là hữu-vi. Từ nay ở trong đường sanh tử, ngài nên bỏ vô-trí mà cầu nơi chính-trí. Phải biết Như-Lai chính là vô-vi. Được chánh- quán như thế, sẽ đầy đủ ba mươi hai tướng, chóng thành tựu quả vô-thượng bồ-đề.” Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát khen Thuần-Đà rằng :”Lành thay ! Lành thay ! Nay ông đă tạo nhơn duyên trường thọ, ông biết được Như-Lai là pháp thường-trụ, là pháp chẳng biến-dị, là pháp vô-vi. Nay ông khéo che đậy tướng hữu-vi của Như-Lai, sau nầy ông sẽ đặng đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi tùy h́nh, mười tám pháp bất cộng, thọ mạng vô-lượng, luôn được an vui, không c̣n sanh tử sẽ thành bực Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri. Như người lữ khách bị lửa thiêu mà có ḷng hổ thẹn lấy y áo vấn thân, nhờ tâm lành ấy nên được sanh lên cơi Đao-Lợi, lại nhiều đời làm Phạm-Vương, Chuyển- Luân-Vương, luôn được an vui chẳng sa ác đạo. Tôi cùng ông cũng đều nên che đậy tướng hữu-vi của Như-Lai. Lát nữa đức Thế-Tôn sẽ giảng rộng về ư nghĩa ấy. Nên để hữu-vi vô-vi lại đó. Ông nên kíp lo cúng-dường cơm nước cho kịp giờ, và cũng nên sắm sữa đồ cần thiết cho hàng tứ-chúng từ xa hội về đang mơi mệt. Cúng đường như thế chính là đầy đủ chủng-tử căn-bổn của đàn-ba-la-mật. Thuần-Đà ! Nếu cúng dường đức Phật và chư Tăng lần cuối cùng, hoặc nhiều hay ít, đủ hay thiếu đều phải sớm lo cho kịp giờ. Đức Như-Lai sẽ nhập Niế-bàn”. Thuần-Đà nói : “ Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Sao ngài lại tham chút uống ăn mànói hoặc ít hoặc nhiều, đủ hay chẳng đủ, rồi bảo tôi lo cho kịp giờ ? Xưa kia đức Như-Lai khổ hạnh trọn sáu năm c̣n chịu nổi, huống là giây lát hôm nay. Ngài thiệt cho rằng đức Như-Lai chánh giác thọ đồ uống ăn nầy ư ? Tôi thời biết quyết định thân Như-Lai chính là pháp-thân, không phải thực-thân. Phật bảo Văn-thù Sư-Lợi :’ Thật đúng như lời của Thuần-đà ! Lành thay Thuần-Đà ! Ông đă thành-tựu đại trí-huệ, khéo thâm nhập kinh- điển đại-thừa”. Văn-Thù Sư-Lợi nói với Thuần-Đà : “ Ông cho rằng Như-Lai là vô-vi, thân Như-Lai là trường-thọ, hiểu biết như vậy đức Phật rất hài ḷng”. Thuần-Đà nói :” Đức Như-Lai chẳng riêng ǵ hài ḷng nơi tôi, mà cũng hài ḷng với tất cả chúng sanh”. Văn-Thù Sư-Lợi nói :” Đức Như-Lai đối với ông, với tôi, với tất cả chúng sanh, đều hài ḷng”. Thuần-Đà nói :’ Ngài chẳng nên nói đức Như-Lai hài ḷng. Luận về hài ḷng, chính là đảo-tưởng. Phàm có đảo-tưởng thời là sanh tử, có sanh tử thời là pháp hữu-vi. V́ lẽ ấy ngài chẳng nên cho Như- Lai là hữu-vi. Nếu nói Như-Lai là hữu-vi thời ngài cùng tôi đều điên-đảo cả. Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Đức Như-Lai không có ái- niệm. Luận về ái- niệm , như trâu mẹ kia ái-niệm con của nó, dầu là đói khát đi t́m cỏ nước, hoặc no hay chưa no, bỗng nhiên nhớ con liền trở về. Chư Phật Thế-Tôn không có ái-niệm như vậy, b́nh đẳng xem tất cả chúng sanh như La-Hầu-La. Từ-niệm b́nh đẳng như vậy chính là cảnh-giới trí-huệ của chư Phật. Thưa ngài Văn-thù Sư-Lợi ! Ví nnư quốc vương ngự trên xe tứ mă, có người muốn cho xe ḅ theo kịp xe vua, tất không thể được. Ngài cùng tôi muốn cùng tận chỗ vi-mật thâm-áo của Như-Lai cũng không thể được. Ví như Kim-Sí-Điểu (35) bay vọt trên cao vô lượng do-tuần, nh́n xuống biển cả thấy rơ những loài thủy tộc cùng loài rồng và bóng của nó. Kẻ phàm tục trí kém, không thể suy lường chỗ thấy của Kim-Sí-Điểu. Cũng thế, ngài cùng tôi không thể suy lường được trí huệ của Như-Lai”. Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát bảo Thuần-Đà rằng : “ Đúng như lời ông vừa nói. Đối với những việc ấy không phải là tôi không hiểu. Chẳng qua v́ muốn đem việc của Bồ-Tát thử ông đó thôi”. Bấy giờ đức Thế-tôn từ trên mặt phóng ra nhiều tia sáng chiếu thân ngài Văn-Thù. Ngài Văn- Thù liền bảo Thuần-Đà rằng :” Nay đây đức Nnhư-Lai hiện thoại-tướng từ trên mặt phóng ra nhiều tia sáng như thế chẳng phải là không duyên cớ, đó là điềm đức Phật sắp nhập Niết-bàn. Ông phải sớm lo dưng lễ cúng dường lên đức Phật và chư Tăng cho kịp giờ.” Đức Phật bảo Thuần-Đà :” Đă phải giờ cho ông dưng thực phẩm cúng dường Phật và đại- chúng. Như-Lai sẽ nhập Niết-bàn.” Đức Phật bảo luôn ba lần như vậy. Thuần-Đà nghe đức Phật dạy như vậy, bất giác nghẹn ngào khóc than nức nở:
“ Khổ thay ! Khổ thay ! Thế gian sẽ trống rỗng.” Rồi ông lại thưa cùng đại-hội :
“ Hôm nay chúng ta phải đồng tha-thiết đảnh lễ cầu đức Phật đừng nhập Niết-bàn.” Đức Thế-Tôn lại bảo Thuần-Đà :”Ông chớ nên khóc than tiều-tụy như vậy. Ông phải quán sát thân nầy như cây chuối, như ánh nắng, như bọt nước, như huyễn-hóa, như thành Càn-thát-bà, như đồ gốm chưa hầm, như làn chớp, như h́nh vẽ trên nước, Như tù sắp hành h́nh, như trái muồi, như cục thịt, như bức dệt đă hết khổ, như chày giă lên xuống. Phải quán sát các hành-pháp như món ăn lẫn chất độc, pháp hữu-vi nhiều tai hại.” Thuần-Đà bạch Phật :” Đức Thế-Tôn chẳng muốn ở lại đời làm sao con không buồn khóc cho được. Khổ thay ! Khổ thay ! Thế-gian sẽ trống rỗng. Ngữa mong Đức Thế-Tôn thương xót chúng con và chúng sanh mà ở luôn nơi đời, chẳng nhập Niết-bàn”. Phật bảo Thuần-Đà : Ông chẳng nên nói rằng thương xót các ông mà ở luôn nơi Đời. Chính v́ thương xót ông và các chúng sanh mà hôm nay Phật mới muốn nhập Niết-bàn. V́ sao thế ? Chư Phật pháp-nhĩ như vậy. Pháp hữu-vi cũng thế. Nên chư Phật nói kệ rằng :
Các pháp hữu-vi Tánh nó vô thường Sanh rồi chẳng trụ Tịch-diệt là vui. Thuần-Đà ! Ông nên quán-sát các hành pháp là tạp độc. Các pháp hữu-vi là vô-ngă vô-thường chẳng trụ. Tấm thân nầy có rất nhiều tai hại như bóng nước. V́ lẽ ấy ông chớ nên khóc lóc”. Thuần-Đà bạch Phật :” Thật đúng như lời Thế-Tôn dạy. Mặc dầu con vốn biết đức Như-Lai phương tiện thị-hiện nhập Niết-bàn, nhưng con không làm sao ngăn sự buồn thảm được. Giờ đây tự suy xét, con lại sanh ḷng vui mừng.” Phật khen Thuần-Đa :” Lành thay ! Lành thay ! Ông có thể rơ biết Như-Lai thị-hiện đồng với chúng sanh mà phương tiện nhập Niết-bàn. Thuần-Đà ! Ông nên nghe đây : Như mùa xuân chim ta-la-tà đều nhóm nơi ao A-Dậu-Đạt. Chư Phật cũng thế đều đến chỗ ấy. Ông chẳng nên suy nghĩ chư Phật là trường thọ hay đoản thọ. Tất cả các pháp đều nnhư tướng huyễn-thuật. Như-Lai ở trong ấy do sức phương tiện không có nhiễm trước. V́ sao thế ? V́ chư Phật pháp-nhĩ như vậy. Thuần-Đà ! Nay Như-Lai nhận phần cúng dường của ông là v́ muốn cho ông thoát khỏi các ḍng sanh tử trong ba cơi. Hàng nhơn-thiên ở nơi sự cúng dường cuối cùng đối với Như-Lai đây, đều sẽ được quả-báo bất động, luôn được an vui. V́ sao thế ? V́ Như-Lai là phước điền tốt của chúng sanh. Nếu ông muốn v́ chúng sanh mà làm phước-điền, thời phải kíp sắm sửa cúng phẩm, chẳng nên để trể”. Bấy giờ Thuần-Đà v́ các chúng sanh được độ thoát nên cúi đầu lau lệ mà bạch Phật :” Lành thay đức Thế-Tôn ! Nếu lúc con kham có thể làm phước-điền, thời có thể biết rơ Như-Lai là nhập Niết- bàn hay chẳng phải nhập Niết-bàn. Nay trí huệ của chúng con cùng Thanh-Văn Duyên-Giác nhỏ kém như kiến muỗi, thiệt không thể suy lường Như-Lai nhập Niết-bàn hay chẳng phải nhập Niết-bàn”. Bạch xong, Thuần-Đà cùng quyến thuộc buồn rầu khóc lóc, thiêu hương rải hoa, hết ḷng cung kính, rồi liền cùng ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát đi lo sắm sữa thực phẩm.
THÍCH NGHĨA
(17) THẾ TÔN : Đấng tôn quư nhứt trong tất cả thế gian và xuất thế gian. Từ ngữ này gồm đủ mười điều vô-thượng : 1 – Như-Lai, 2 – Ứng-Cúng. 3- Chánh-Biến-Tri. 4- Minh-Hạnh-Túc. 5- Thiện- Thệ. 6- Thế-Gian-Giải. 7- Vô-Thượng-Sĩ. 8- Điều-Ngự-Trượng-Phu. 9- Thiên-Nhơn-Sư. 10- Phật. (18) LA-HẦU-LA : Con trai của Thái-Tử Sĩ-Đạt-Ta và Da-Du-Đà-La (19) BỐ-THÍ-BA-LA-MẬT : Công hạnh bố thí đă đến từng ngă và pháp đều không, đă rốt ráo viên măn. Biệt-Giáo bực sơ địa viên giáo bực sơ trụ mới thành tựu hạnh nầy. (20) TRÍ-HUỆ CHỨNG-NGĂ-KHÔNG gọi là “Nhứt-thiết-trí” Hàng nhị thừa có trí nầy. Trí-huệ chứng ngă-không và phần chứng pháp không gọi là “Đạo-chủng-trí”. Pháp thân Bồ-Tát có trí nầy. Trí huệ chứng ngă-không và toàn chứng pháp-không gọi là “Nhứt-thiết-chủng-trí” Chỉ bực Phật mới có trí nầy. Trí huệ nầy gồm có bốn trí : 1- Thành-sở-tác-trí. 2- Diệu quán-sát-trí. 3- B́nh-đẳng tánh-trí. 4- Đại-viên cảnh-trí. (21) NGŨ NHĂN : 1- Nhục nhăn. 2- Thiên nhăn. 3- Huệ nhăn. 4 Pháp nhăn. 5- Phật nhăn. Phàm phu chỉ có nhục nhăn, riêng chư Thiên và chư ngũ thông tiên-nhơn gồm có thiên nhăn. A-La-Hán và Bích-Chi-Phật có nhục nhăn, thiên nhăn và huệ nhăn. Pháp thân Bồ-Tát có ba nhăn trên và pháp nhăn Đức Phật có đủ 5 nhăn. (22) KIẾP-BA : là thời gian dài. Có tiểu, trung va đại ba kiếp. Một tiểu kiếp có 16798.000 năm (theo năm của nhơn loại địa cầu). Một trung kiếp có 20 tiểu kiếp. Và một đại kiếp có 4 trung kiếp hay 80 tiểu kiếp, tức là : (16798.000 năm x 80 = 1.343.840.000 năm) (một tỷ, ba trăm bốn mươi ba triệu, tám trăm bốn chục ngàn năm). Phàm trong kinh chỉ nói bao nhiêu kiếp, mà không nói trung hay tiểu, thời thường là nói đại kiếp. (23) BỐN MA ; Ma phiền năo, Ma ngũ-ấm, Ma chết, va Thiên ma. Nói đủ là Ma-La có nghĩa là hay phá hoại thiện căn của chúng sanh, của người tu hành. BA ÁC ĐẠO : Súc sanh, ngạ quỹ và địa ngục. Ba loài nầy v́ phạm tội thập ác nhẹ, vừa và nặng mà phải thọ lấy quả khổ ấy, nên gọi là ác đạo, đây là cứ nơi nghiệp nhơn ác mà đặt tên. Nếu theo quả khổ thời gọi là tam đồ : 1- Huyết đồ, loài súc sanh thường ăn nuốt máu thịt lẫn nhau; 2- Đao đồ, loài ngạ quy thường dùng dao gậy đánh đập nhau; 3- Hỏa đồ- loài địa ngục thường bị lửa thui đốt, nấu rang. ƯU-ĐÀM-BÁT-LA-HOA ; dịch là Linh-Thoại-Hoa. Tục truyền ba ngàn năm mới xuất hiện một lần , là điềm Thánh-Vương, hay Thánh-Nhơn xuất thế. Ném hột cải trúng dính vào đầu nhọn cây kim. “Đàn” là bố thí, “Độ” là ba-la-mật. Đàn-Độ” là bố-thí ba-la-mật. TAM GIỚI : ba cơi : cơi dục, cơi sắc và cơi vô sắc. BÔNG Y-LAN : là một thứ hoa có mùi rất hôi thúi. (30) ĐẾ-THÍCH : nói đủ là Thiên Đế Thích-Đề-Hoàn-Nhơn, vua cơi trời Đao-Lợi. PHẠM-THIÊN : Thiên Vương cơi sắc. (31) PHIỀN NĂO : Phiền nhiễu, năo loạn, tức là những tâm niệm xấu, cùng ư tưởng ác như : tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến v.v… nó làm nhiễu loạn thân tâm người, đồng thời hay phá hoại thiện căn của người, nên cũng gọi kà phiền năo ma. (32) ĐẠI-LONG-TƯỢNG ; Rồng lớn và Voi lớn là loài to mạnh trong các muông thú. Dùng danh từ nầy là dụ cho các bậc siêu nhơn đại Bồ-Tát. Phật là Pháp-Vương, đại Bồ-Tát sẽ thành Phật, là con của đấng Pháp-Vương nên gọi là Pháp-Vương-Tử. (34) HÀNH-PHÁP : Pháp di động chuyển biến. (35) KIM-SÍ-ĐIỂU ; Chim cánh vàng, một loài chim to nhất hay dùng rồng làm món ăn.
[ HOME | 中文主頁 | 經典 | ENGLISH | SUTRA | CHỬ VIỆT | KINH ĐIỂN | GALLERY | CONTACTS ]
|