Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc
 
Thiền Tứ Niệm Xứ
Thích Trí Siêu
Pháp quốc, 1987 (hiệu đính 2001)

Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đă được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ dịch từ Discourse on the Applications of Mindfulness (Satipatthanasutta) trong Middle Length Sayings I của Pali Text Society I.B. Horner 1967.

Mục Lục
1. Vài Lời Cùng Bạn Đọc
2. Mở Đầu
3. Tứ Niệm Xứ và Bát Nhă Tâm Kinh
4. Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông
5. Thiền và Tịnh Độ
6. Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Đạo
7. Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ
8. Kết Luận
9. Phụ Lục - Kinh Quán Niệm
10. Vài Nét về Tác giả



Vài Lời Cùng Bạn Đọc
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quư đọc giả đang đi t́m giải thoát, và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ư, đó là pháp Thiền Tứ Niệm Xứ.
Đức Phật Thích Ca xưa kia do tu Thiền mà giác ngộ giải thoát. Nhưng khi nói đến Thiền th́ nhiều người hoang mang v́ có cả một rừng Thiền, nào là Như Lai Thiền, Tổ Sư Thiền, Thiền Đốn Ngộ, Thiền Xuất Hồn, Thiền Yoga, Thiền Tây Tạng, Thiền Zen... không biết theo ai bây giờ? V́ không ai chỉ dạy nên người chán nản th́ theo đại một phái Thiền nào đó. Nếu là Thiền Phật giáo như Tây Tạng hay Zen th́ c̣n đỡ, nhưng nếu chẳng may rơi vào Thiền ngoại đạo th́ ôi thôi, không những uổng một kiếp này mà c̣n uổng cả muôn ngàn kiếp sau, v́ sai một ly đi ngàn dặm. Cổ đức có câu: "Thà đành ngàn năm không ngộ, không cam một phút sai lầm".
Tứ Niệm Xứ là một pháp hành Thiền do chính Đức Phật xưa kia đă đích thân chỉ dạy cho các đệ tử. Nhờ hành theo đó, các đệ tử của ngài đă giải thoát đắc quả vô sanh (A La Hán). Những người theo Đại Thừa ngày nay thường bỏ qua và lăng quên pháp môn này, cho đó là pháp Tiểu Thừa, đây là một điều rất đáng tiếc.


Mở đầu
"Tu là cơi phúc, T́nh là giây oan", "Đời là bể khổ, Tu là giải thoát". Nhưng tu là tu cái ǵ? Tu làm sao? Tu có phải ăn hiền ở lành, ăn chay niệm Phật không? Hay phải vào chùa cạo tóc xuất gia là tu chăng?
Ở đây xin miễn nói về triết lư đạo Phật, v́ Kinh sách nói về triết lư đạo Phật đă có rất nhiều, nhưng quy tụ cũng không ngoài Tứ Diệu Đế. Quư vị có thể t́m sách nghiên cứu, hoặc là đến chùa thăm hỏi quư Thầy, quư Cô chỉ cho.
Về Tứ Diệu Đế, trong các kinh sách thường nói như vầy: Khổ đế là quả luân hồi. Tập đế là nhân luân hồi. Diệt đế là quả Niết Bàn. Đạo đế là nhân Niết Bàn. Chắc chắn Tứ Diệu Đế là chân lư cao thượng, nhưng theo tôi nghĩ th́ Đạo đế quan trọng hơn cả. V́ chỉ có Đạo đế mới làm đạo Phật khác hẳn các đạo khác. V́ sao? V́ các đạo khác cũng biết đời là khổ, biết tu hành để cầu sự sung sướng, nhưng con đường đi của họ không thể đưa tới sự giải thoát rốt ráo.
Khổ th́ chúng ta đă khổ rồi, nguyên nhân của khổ th́ chúng ta đă tạo rồi, Niết Bàn th́ chưa đạt tới, chỉ có con đường đưa đến Niết Bàn mà chúng ta cần và đang tiến bước là hiện tại. Chỉ có giờ phút hiện tại là chúng ta có thể sung sướng hay khổ đau, là tốt hay xấu mà thôi. Ngày hôm qua anh B có thể đă giết bao mạng người, nhưng ngày hôm nay đây anh đang cứu sống tôi. Nói như thế, đọc giả có thấy được tầm quan trọng của giờ phút hiện tại không?
Nếu thấy được chỉ có trong giờ phút hiện tại mà ta có thể là một người hiền hay ác, sung sướng hay đau khổ, giác ngộ hay vô minh, th́ các bạn sẽ cảm thấy hứng thú hành theo pháp Thiền này. Tu Thiền v́ sao ít có người hành? V́ đa số chỉ thấy ngày hôm qua và ngày mai thôi, họ ít thấy được hiện tại. Những người tu theo Tịnh Độ th́ ỷ y nương vào tha lực của Phật A Di Dà tiếp dẫn, sau khi chết sẽ về Cực Lạc nên hiện tại không chịu tu tập quán chiếu nội tâm để tu tâm sửa tánh. Người tu theo pháp môn tụng Kinh th́ chỉ ưa tụng những Kinh Đại Thừa nổi tiếng như Pháp Hoa, Niết Bàn, Hoa Nghiêm, Kim Cang v,v ... Mỗi khi đến chùa, có ai hỏi độ này tu hành ra sao, th́ trả lời: "Độ này tôi tụng được 7 bộ Pháp Hoa, 4 bộ Niết Bàn ..." rồi lấy đó làm hănh diện cho là ḿnh tu nhiều. Kỳ thực tham, sân, si ngă mạn của ḿnh không giảm, mà có điều lại tăng thêm. Đến chùa th́ chỉ hay ăn nói khoe khoang, khen Thầy này, chê Thầy kia, thế này thế nọ, v.v...
C̣n Thiền th́ sao? T́nh trạng tâm lư của những người tu Thiền có hơn ǵ người tu Tịnh Độ không? Người tu ngày nay chỉ chuyên nghiên cứu Thiền, rơ biết lịch sử của chư Thiền Đức thuở xưa, mỗi khi nói đến Thiền, thường đem ra kể cho Phật tử nghe, để rồi gieo cho họ ư nghĩ là Thiền dành cho những hàng thượng căn thượng trí, c̣n thời nay mạt pháp, chúng ta là hạ căn độn trí chỉ nên niệm Phật cho chắc ăn. Những hành động, cũng như thành tích của các Thiền Sư chứng ngộ đều có tính cách lạ kỳ, phá chấp, nên nhiều người học Thiền thời nay đều hay bắt chước để rồi tưởng ḿnh cũng phá chấp, phá ngă, đó thật là một điều tai hại và lầm lẫn. Là bậc Thầy, nên chỉ dẫn cho Phật tử phương pháp hành Thiền, chứ đừng nên kể chuyện Thiền. Dĩ nhiên khi nói về phương pháp hành Thiền th́ thấy khô khan và dễ làm cho người nghe chán nản, c̣n nếu kể chuyện Thiền th́ hấp dẫn và vui hơn. Đó có khác chi một đàng chỉ dẫn cách thức làm bánh, và đàng khác là tả sự ngon ngọt của một cái bánh đă thành h́nh. Một đàng là nhân, một đàng là quả. Người trí học tạo nhân v́ biết quả sẽ do đó mà tự thành, người thường chỉ lo biết quả bỏ quên nhân. Đức Phật xưa kia không nói nhiều về cảnh giới của Niết Bàn, ngược lại, Ngài đă giảng dạy suốt 45 năm về những phương pháp đưa đến giải thoát mà ngày nay chúng ta quen gọi là Đạo Phật.
Điều sai lầm của một số người "tu Thiền" (hay là học Thiền) thời nay là chỉ thích đem Kinh sách Thiền ra bàn luận và giảng giải xuyên qua sự hiểu biết của ḿnh, trong đạo gọi đó là hư luận, hay là sở tri chướng.
Thay v́ nói nhiều về Thiền, một vị Thầy có thể bảo Thiền sinh nhẹ nhàng ngồi xuống, bắt chéo chân theo tư thế bán già hoặc kiết già rồi theo dơi hơi thở. Thay v́ ăn uống vội vàng hấp tấp cho xong để c̣n lo đi làm việc khác, một vị Sư có thể lặng lẽ, điềm đạm nâng tách trà lên uống thong thả, đó là dạy Thiền một cách trực tiếp, không cần dùng ngôn ngữ danh từ. Thay v́ bắt một chú tiểu học thuộc làu bộ Tỳ Ni, Oai Nghi rồi bắt chú trả bài có lệ trước khi cho thọ giới, vị Thầy đó có thể kiểm soát trực tiếp hoặc cho đệ tử biết giữ chánh niệm, làm việc thong thả, chậm răi, theo dơi từng cử động của thân thể v.v... Thiền cần được thực tập ngay trong đời sống hàng ngày chứ không phải để bàn nói.
Những người thanh niên tuổi trẻ, ưa chuộng đạo Phật lại thường không hay đến chùa, không khí ở chùa không hợp với họ. Họ là những người thích tự lực, không thích nương tựa măi nơi cha mẹ, muốn tạo dựng hạnh phúc với chính hai bàn tay của ḿnh. Đến với đạo Phật, họ chỉ thích tu Thiền, nói Thiền. Nhưng tu Thiền là tu làm sao? Có nhiều người chỉ "quy y sách Thiền" chứ không quy y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). V́ không thích lạy Phật, không biết Phật pháp căn bản, không biết kính trọng chư Tăng. Có việc phải đến chùa th́ ra vào nghênh ngang tự tại như "Tổ Đạt Ma", họ bảo Thiền là phá chấp, "gặp Phật giết Phật, gặp Ma giết Ma". Họ đâu có biết là đang gây cái nhân đọa địa ngục. Tuy vậy ta cũng không nên trách cứ mà ngược lại nên cảm thương họ th́ đúng hơn.
Như vậy nếu có người muốn tu Thiền th́ phải làm sao? Phải tu theo Thiền nào? Sách viết về Thiền tông tương đối có khá nhiều, nhưng đa số viết về Thiền học, về văn chương ngôn ngữ Thiền, về triết lư Thiền, về Thiền Trung Hoa ... Ở đây tôi muốn giới thiệu, hay đúng hơn là nhắc lại một phương pháp hành Thiền do đích thân đức Phật Thích Ca đă dạy cho các đệ tử, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.

Để giới thiệu và giúp cho đọc giả có một ư niệm về tầm quan trọng của pháp này, tôi sẽ so sánh trong phần đầu Kinh Niệm Xứ với Bát Nhă Tâm Kinh, Thiền Niệm Xứ hay Minh Sát với Tổ Sư Thiền, và sau đó sẽ nói về phương thức tu tập Thiền Tứ Niệm Xứ.
V́ không ngoài mục đích giới thiệu sơ qua về "pháp hành" Thiền Tứ Niệm Xứ, chắc chắn đọc giả sẽ cảm thấy nó khô khan, vô vị, và không mấy hứng thú. Nhưng không có một sự giác ngộ nào có thể có nếu chính ta không chịu thực hành, không chịu trở về quan sát nội tâm, theo dơi và ghi nhận tất cả những hoạt động biến chuyển của thân tâm, không chịu nương theo Giới, Định, Huệ mà tu tập. Các bạn hăy suy nghĩ và tu tập theo Tứ Niệm Xứ, nếu thấy hợp và đem lại nhiều chuyển hóa trong đời sống hàng ngày th́ các bạn hăy chịu khó lên đường t́m thầy hoặc bạn để học hỏi thêm, nếu ngược lại th́ chắc bạn không có nhân duyên rồi, tốt hơn là nên đi t́m phương pháp khác vậy.


Mùa Thu năm Đinh Măo 1987,
tại Thiền Đường Sakyamuni, Montbéon, Pháp Quốc.
Thích Trí Siêu


Tứ Niệm Xứ và Bát Nhă Tâm Kinh
Tứ Niệm Xứ là một pháp hành Thiền do từ Kinh Niệm Xứ (Satipatthàna Sutta, kinh thứ 10 trong Trung Bộ Kinh) là một Kinh rất quan trọng trong Phật giáo Nam Tông. C̣n Bát Nhă Tâm Kinh là một bài Kinh ngắn thường được tụng trong tất cả các thời Kinh trong Phật giáo Đại Thừa Việt Nam. Hai Kinh này ư nghĩa có xung khắc nhau không?


Tứ Niệm Xứ
Kinh Niệm Xứ là một trong những kinh trọng yếu nhất mà Đức Phật đă thuyết giảng hơn 2500 năm về trước, để rèn luyện, uốn nắn, làm cho quân b́nh và thanh lọc thân tâm.
Pháp Niệm Xứ được thiết lập trên sự áp đặt tâm niệm (Satipatthàna). "Sati" là niệm, "patthàna" là một h́nh thức rút ngắn của chữ Upatthàna có nghĩa là để gần lại tâm của ḿnh.
Mở đầu bài Kinh có chỉ dẫn rơ ràng :
"Sau đây là những lời mà tôi đă được nghe Đức Thế Tôn dạy, hồi Ngài c̣n đang cư ngụ ở Kammassadhamma, một khu phố của giống dân Kuru. Một hôm Đức Thế Tôn gọi chư Tăng: "Này các Tỳ Kheo". Chư Tăng đáp: "Thưa Đức Thế Tôn, có chúng con đây". Phật nói: " Này quư vị, đây ta chỉ cho quư vị con đường duy nhất (ekàyano maggo) để có thể gạn lọc bản thân, vượt thoát mọi phiền năo, tiêu diệt ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng ngộ Niết Bàn: Đó là Pháp Niệm Xứ".
Pháp Niệm Xứ có bốn phần, đó là :
Tinh chuyên chú niệm vào :
1/ Thân (Kàyànupassanà). Niệm thân.
2/ Thọ hay cảm giác (Vedanànupassanà). Niệm Thọ.
3/ Tâm (Cittànupassanà). Niệm Tâm.
4/ Pháp (Dhammànupassanà) là những đối tượng của Tâm. Niệm Pháp.
Điểm chánh yếu ở đây là niệm (Sati) và sự chú tâm hay sự quan sát (anupassanà). Ở đây tôi chỉ tóm tắt đại ư của Kinh thôi.
1. Niệm thân.
Hành giả quán niệm thân thể nơi thân thể. Xin đọc giả lưu ư chữ quán niệm thân thể nơi thân thể, chứ không phải quán niệm thân thể nơi cảm thọ, hoặc quán niệm thân thể nơi tâm thức, v.v...
V́ đó có nghĩa là ngay nơi thân thể, hành giả quán niệm về thân thể, chứ không phải nương theo nơi một cảm giác hay ư tưởng mà quán niệm về thân thể. Quán niệm về thân thể là quán sát và ghi nhận tất cả những ǵ liên quan và đang xảy ra nơi thân thể.
Quán niệm về thân thể gồm có: hơi thở vô-ra, bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi), các động tác thông thường, các bộ phận ở trong thân thể, tứ đại và chín giai đoạn tan ră của thân thể.
Trong pháp niệm thân, đặc biệt là phần niệm hơi thở vô-ra (ànàpànasati). Hành giả ngồi xếp bằng thoải mái, đặt hết tâm ư vào sự theo dơi và ghi nhận hơi thở vào hơi thở ra. Khi hỉt vào một hơi dài, hành giả biết ḿnh đang hít vào một hơi dài; khi thở ra một hơi dài, hành giả biết ḿnh đang thở ra một hơi dài... Đây là một phương pháp hành thiền rất phổ thông, v́ nó có thể thích hợp cho mọi người, để lắng tâm, cũng như để gom tâm an trụ. Chính đức Phật xưa kia đă tận lực hành tŕ để chứng đạo quả vô thượng Bồ Đề, và ngài cũng quả quyết khẳng định tầm quan trọng của pháp hành này.
2. Niệm thọ hay cảm giác.
Hành giả quán niệm cảm giác nơi cảm giác, có nghĩa là giác tỉnh chú tâm ghi nhận "một cách khách quan" những cảm giác hay cảm thọ của ḿnh: vui sướng (lạc thọ), đau khổ (khổ thọ), hoặc không vui sướng cũng không đau khổ (xả thọ), xem chúng khởi lên ra sao và biến mất như thế nào. Thí dụ khi có một cảm giác vui, hành giả liền biết và ghi nhận: "có một cảm giác vui", và như thế hành giả hay biết các cảm thọ khác và chứng nghiệm một cách giác tỉnh các cảm giác ấy theo đúng thực tế, nó như thế nào th́ ghi nhận nó như thế ấy; không thêm không bớt.
Thường lệ, người ta hay thất vọng khi chứng nghiệm một cảm thọ khổ và phấn khởi vui sướng khi có cảm thọ lạc. Công tŕnh tu tập niệm thọ giúp cho hành giả chứng nghiệm tất cả cảm giác một cách khách quan với tâm xả (b́nh thản), và tránh cho con người khỏi bị cảm giác của ḿnh chi phối, khỏi phải làm nô lệ hay lệ thuộc nơi cảm giác.
3. Niệm tâm hay những hoạt động của tâm.
Trong khi hành thiền, nếu có những ư nghĩ hay tư tưởng phát sanh th́ hành giả phải liền ư thức và ghi nhận chúng. Những tư tưởng ở đây có thể là tốt, là xấu, thiện hay bất thiện. Hành giả quán sát, theo dơi, nh́n cả hai mà không luyến ái hay bất măn. Phương pháp quán sát tâm ḿnh một cách khách quan giúp cho hành giả thấu đạt bản chất và hoạt động thật sự của tâm. Những ai thường xuyên niệm tâm sẽ học được phương cách kiểm soát và điều khiển tâm ḿnh.
4. Niệm Pháp hay đối tượng tâm thức.
Trong phần này hành giả quán niệm về: năm hiện tượng ngăn che hay ngũ cái (Nivaranà): tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử, nghi hối - Năm nhóm tụ hợp hay ngũ uẩn (Khanda): sắc, thọ, tưởng, hành, thức - Sáu giác quan và sáu loại đối tượng hay lục căn và lục trần (Ayatana): mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư và h́nh sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm, tư tưởng - Bảy yếu tố của sự ngộ đạo, thất giác chi (Bojhangà): niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, hành xả - Bốn sự thật cao quư, Tứ diệu đế (Cattari Ariya Sacca): khổ đau, nguyên nhân đưa đến khổ đau, sự chấm dứt khổ đau, và con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.
Và cuối cùng trong Kinh nói rằng người nào thực hành bốn phép quán niệm trên, người ấy có thể có khả năng đạt được quả vị chánh trí (A La Hán) ngay ở đây và trong kiếp này, hoặc nếu c̣n dư báo th́ cũng đạt được quả vị không c̣n trở lại (A Na Hàm).
Đặc biệt trong Kinh này, được lập đi lập lại câu: "Vị ấy (hành giả) sống tự do và không c̣n bám víu vào một thứ ǵ trong thế gian". "Tự do" ở đây có nghĩa là thoát ra khỏi ái dục (tanhà) và tà kiến (ditthi), cùng tất cả sự ràng buộc của danh sắc, một bản ngă thường c̣n hay một cái "Ta" vĩnh cửu.
Cũng cần nhấn mạnh là Pháp Tứ Niệm Xứ phải được thực hành một cách khách quan, có nghĩa là hành giả chỉ quán sát suông mà không nên dính mắc vào đề mục, không thấy ḿnh liên hệ với đề mục. Khi ấy hành giả mới có thể nh́n thấy thực tướng của sự vật, thấy sự vật đúng như chúng là (yathàbhutam), chớ không phải thấy phớt bên ngoài, thấy h́nh như sự vật là như vậy.
Tứ Niệm Xứ phải được xem như là một phương pháp hành thiền, chứ không phải một lư thuyết suông. Trong Phật giáo Đại Thừa, 37 phẩm trợ đạo thường không được khai thác triệt để đúng với danh từ của nó, mà chỉ được xem như những lư thuyết cần để biết thôi, trong các sách Phật Học căn bản khi nói đến Tứ Niệm Xứ thường định nghĩa và tóm tắt như sau :
1/. Quán thân bất tịnh.
2/. Quán thọ thị khổ.
3/. Quán tâm vô thường.
4/. Quán pháp vô ngă.
Qua sự tóm tắt trên, ta thấy Tứ Niệm Xứ bị đóng khung và tạo cho đọc giả một thành kiến sai lầm về Tứ Niệm Xứ. Như quư vị đă xem qua ở phần trước là Tứ Niệm Xứ phải được áp dụng một cách khách quan.
- Về Niệm Thân, có 6 đề mục quán niệm, trong đó có quán niệm về những bộ phận bên trong thân thể, và niệm về sự tan ră của một xác chết. Không thể v́ hai đề mục này mà nói là quán thân bất tịnh. Nếu muốn đề cao đề mục quan trọng của niệm thân th́ phải lấy đề mục quán niệm về hơi thở vô-ra, v́ đề mục này đă được Đức Phật dạy riêng trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở (Anàpànasati Sutta).
Trong các sách Phật Học, khi nói Quán thân bất tịnh, cốt dạy cho đọc giả quán tưởng làm sao để thấy được sự bất tịnh của thân, nhằm mục đích nhàm chán, ghê tởm thân xác để không c̣n bám víu vào nó nữa, và nhờ vậy có thể trị bệnh tham sắc dục. Đó cũng là một phép quán hữu ích nhưng không đúng với ư nghĩa niệm thân của Tứ Niệm Xứ.
- Về Niệm Thọ là quán niệm và ghi nhận nhưng cảm giác dễ chịu (lạc thọ), khó chịu (khổ thọ) hay b́nh thường (xả thọ), biết rơ tính cách sanh diệt của chúng, nhờ đó hành giả thoát ra được sự ràng buộc và sai sử của những cảm giác.
Trong các sách Phật Học, khi nói về niệm thọ đă ngụ ư bảo đọc giả quán tưởng làm sao để thấy thọ là khổ, v́ có nhận lănh là có khổ. Chữ thọ được giảng với ư nghĩa là nhận lănh một thứ đồ vật ǵ bên ngoài. "Thọ th́ khổ" được xem là một phép quán dạy cho người ta bớt tham, nhưng đó không phải ư nghĩa của niệm thọ trong Tứ Niệm Xứ .
- Về Niệm Tâm và Niệm Pháp cũng vậy. Nếu bảo quán tâm vô thường th́ không đúng. Chính v́ sự hoạt động của tâm tạo ra những ư niệm sinh diệt, diệt sinh trong khoảnh khắc nên gọi là vô thường. Vô thường là những ư niệm đó chứ không phải tâm. C̣n bảo "Pháp vô ngă" th́ đúng nhưng không phải ư nghĩa niệm pháp của Tứ Niệm Xứ .

 

 Bát Nhă Tâm Kinh
Trong Phật giáo Bắc tông, chúng ta có thông lệ mỗi khi tụng một thời Kinh nào, đều mở đầu bằng thần chú Đại Bi và cuối cùng kết thúc bằng Tâm Kinh Bát nhă. Hầu hết các phật tử đến chùa, không ai là không thuộc Bát nhă, v́ thế nó được xem như một Kinh quan trọng vậy.
Bài Kinh này được Ngài Huyền Trang đời nhà Đường dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán vào năm 649 Tây lịch. Toàn bài chỉ có 262 chữ.
Bát nhă Tâm Kinh là nói tắt, nếu gọi cho đủ là Ma ha Bát nhă Ba la mật đa Tâm Kinh (Maha Prajnàpàramitàhrdaya Sùtra). Ma ha có nghĩa là lớn, Bát nhă là trí tụê, Ba la mật đa là đến bờ bên kia, Tâm (Hrdaya) là cốt lơi hay tinh yếu, chứ không phải tâm ư (citta). Đại ư Kinh này nói về trí huệ rộng lớn có thể đưa hành giả sang bờ bên kia, tức bờ giải thoát.
Kinh này là Kinh nhật tụng của Phật tử tại gia cũng như xuất gia, và đă có rất nhiều sách giảng giải về ư nghĩa Kinh này, v́ thế ở đây sẽ không đi sâu vào chi tiết, mà chỉ hạn chế b́nh luận những điểm chính yếu của Kinh và sau đó so sánh nó với Kinh Tứ Niệm Xứ.
Toàn bộ Kinh có 262 chữ, nhưng đại ư của Kinh nằm gọn trong 25 chữ đầu: "Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhă Ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách". Nghĩa là có một vị Bồ Tát tên là Quán Tự Tại khi thực hành sâu về Trí huệ Bát nhă th́ ngài soi thấy 5 uẩn đều "không", và từ đó thoát mọi khổ nạn. Chữ "không" ở đây thường được giảng theo nhiều nghĩa, có sách nói "không" là không thiệt, có chỗ để nguyên chữ không, có chỗ nói tánh nó là không. Chữ "không" ở đây nên được hiểu là không có tự tánh (vide de nature propre), chứ không phải không thiệt hay là "không" đối với "có". Chữ "không" (sùnyatà, emptiness, vide) này rất quan trọng, nó được xem như nền tảng của hệ thống giáo lư Đại Thừa.
Tiếp theo sau câu "Quán Tự Tại... nhất thiết khổ ách", đến câu "Xá Lợi tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị ". Dịch nghĩa là Xá Lợi tử, Sắc chẳng khác Không. Không chẳng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
Trong phần Bát nhă Tâm Kinh ở đây chỉ b́nh luận hai câu đầu này thôi v́ nó tóm lược tất cả những ư nghĩa quan trọng của Kinh, c̣n nhưng phần sau chỉ giảng giải thêm về tánh Không, về những diệu dụng của nó, tôi thấy không đem lại nhiều lợi ích cho người sơ cơ học đạo, mà ngược lại có thể biến họ thành những biện luận sư về tánh Không.
Kinh Bát nhă dạy chúng ta nếu muốn thoát khỏi mọi khổ nạn, đạt đến an vui, tự tại của Niết Bàn, th́ phải thực hành Trí huệ Bát nhă, tức là quán chiếu làm sao để thấy rơ năm uẩn không có tự tánh. Nhưng phải quán chiếu thế nào? Cách thức tu tập ra sao? Theo tôi thấy th́ Kinh này không chỉ dạy cách thức tu tập. Người đọc Kinh này rồi, không thể đem ra áp dụng tu tập liền được nếu không hiểu rơ nghĩa Kinh. Họ cần phải nghiên cứu t́m ṭi, suy luận về những lư nhân duyên, bất nhị, tương tức, từ đó mới có thể hiểu được tánh Không của ngũ uẩn. Nhưng hiểu rồi th́ đó cũng chỉ là trên phương diện kiến thức hay ư thức mà thôi, chứ không phải thực chứng hay trực nghiệm. Những người hiểu được năm uẩn giai không có thể có rất nhiều, nhưng người thực nghiệm được năm uẩn giai không th́ rất hiếm.
Lại có nhiều người lấy câu " Sắc tức là Không " của Kinh Bát nhă ra làm một triết lư đạo đức. V́ hiểu Kinh Phật dạy rằng tất cả đều Không, nên họ bảo rằng: "cái xe hơi này tôi chạy thả ga, nếu hư th́ bỏ, hoặc nếu có mất, th́ tôi cũng không buồn, v́ (tôi coi) nó là Không". Họ lấy lư Không này mà bảo mọi người đừng chấp vào tất cả mọi sự, rồi từ đó nẩy ra hai hạng người: một hạng bất chấp tất cả, phóng túng, muốn làm ǵ th́ làm, một hạng khác th́ ngược lại, yếm thế, chán đời, không làm ǵ cả, v́ tất cả là Không, có làm cũng chả được lợi ích ǵ. V́ lư do này Kinh Bát nhă cần phải được giảng dạy cẩn thận và tế nhị.
Trong Kinh câu "Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc" quan trọng và cần được giảng nhiều hơn câu "Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc". Trước khi nói tại sao, tôi xin đưa ra vài thí dụ thông thường để bạn đọc hiểu rơ hai câu trên.
Lấy thí dụ cái bàn. Cái bàn không thể tự nhiên mà có, nó có là do sự kết hợp của những yếu tố "không phải là bàn" như gỗ, cây, cưa, đinh, người thợ mộc, tiều phu, rừng, đất, nước, mưa, mặt trời .v.v... Nếu thiếu một trong những yếu tố đó th́ cái bàn không thể hiện hữu được. Sự có mặt của cái bàn tùy thuộc và liên quan mật thiết với những cái "không bàn". Do đó ta có thể nói cái bàn chẳng khác ǵ cái "không bàn", những cái "không bàn" khi đủ nhân duyên hội hợp lại thành cái bàn, nên ta nói những cái "không bàn" chẳng khác ǵ cái bàn.
Chữ "bất dị" (không khác) trong câu "Sắc bất dị không" muốn nói lên sự liên quan mật thiết của tất cả sự vật (tương quan). Cái này có v́ cái kia có, cái kia có v́ cái này có; cái này không thể có nếu không có cái kia, và ngược lại cũng vậy.
Một thí dụ khác nói về bất dị: em bé 10 tuổi và ông già 70 tuổi. Em bé 10 tuổi theo thời gian lớn lên rồi già đi thành ông già 70. Em bé và ông già không phải là hai người mà cũng không hẳn là một người. Em bé theo thời gian trở thành ông già, có em bé nên mới có ông già, nên em bé chẳng khác ǵ ông già (bất dị). Nhưng em bé 10 tuổi xưa kia tóc xanh đen, nhỏ người, ngây thơ, c̣n ông già 70 tuổi hôm nay tóc bạc, cao gầy, nhiều kinh nghiệm, hai h́nh dáng, hai tâm tư khác nhau, ta không thể nói em bé chính là ông già, hay em bé và ông già là một được (bất nhất). V́ nếu là một tại sao lại có hai danh từ, em bé và ông già? Tại sao lại có hai h́nh dáng khác nhau?
Tất cả sự vật đều biến chuyển không ngừng từng giây phút, từng sát na. Từ một vật A chuyển thành vật B, ta không thể nói B khác A, mà cũng không thể nói B là A được. Đây chính là lư Bất dị, Bất nhất trong Bát Bất Trung Đạo của Bồ Tát Long Thọ (Nagarjuna). Có nhiều vị nói Bát nhă thuộc pháp môn "bất nhị", theo tôi nghĩ Bất nhị gồm có Bất dị và Bất nhất. V́ lư do này, thay v́ nói theo trong Kinh "Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc" ta có thể nói là "Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Sắc, Không tức thị Không". Sắc chẳng khác ǵ không, nhưng Sắc vẫn là Sắc, Không vẫn là Không. Nhờ biết được Sắc chẳng khác ǵ Không, nên ta thấy được tánh không của cái bàn, nhưng Sắc vẫn là Sắc, nên ta không từ bỏ cái bàn, mà ngược lại cũng thấy được diệu dụng của cái bàn. "Thật tế lư địa bất thọ nhất trần, vạn sự môn trung bất xả nhứt pháp", tuy biết rằng không có cái ǵ có thể gọi là cái bàn được, nhưng nếu có người chỉ vào cái bàn mà hỏi ta đó là ǵ? Ta cũng phải trả lời là cái bàn. Đó là Trung-Đạo.


So Sánh Tứ Niệm Xứ và Bát Nhă Tâm Kinh
Kinh Tứ Niệm Xứ nói về bốn lănh vực quán niệm. Bát nhă Tâm Kinh nói về quán chiếu năm uẩn là không.
Một Kinh quan trọng của Nam Tông - Một Kinh thông dụng bên Bắc Tông. Một Kinh nói về cách thức tu tập. Một Kinh nói về triết lư cao siêu. Hai Kinh này có liên quan ǵ với nhau không? Mới nh́n qua ta thấy h́nh như khác nhau, nhưng thật ra cả hai Kinh đều nói về ngũ uẩn.
Không phải chỉ có Bát nhă Tâm Kinh nói về năm uẩn là không, trong các Kinh điển Pali, Đức Phật đă thường nhấn mạnh tánh cách vô thường, khổ, vô ngă của năm uẩn.
"Này chư Tỳ Kheo, ngũ uẩn là vô thường (anicca); bất luận cái ǵ vô thường, đó là khổ (dukkha), đó là vô ngă (anatta), không phải là "của ta", không phải là "Ta", không phải là "bản ngă của ta". Vậy phải thấy nó bằng trí tuệ tuyệt hảo, đúng như thật sự nó là như vậy. Người thấy được thực tướng của nó bằng trí tuệ tuyệt hảo, tâm người ấy không cố bám vào, xa ĺa phiền năo, được giải thoát (Tương ưng bộ Kinh, Samyutta Nikàya, quyển III).
Trong Kinh Tứ Niệm Xứ, bốn lănh vực quán niệm đều liên quan đến năm uẩn :
- Niệm thân thuộc về vật chất liên quan đến Sắc uẩn.
- Niệm thọ thuộc về cảm giác liên quan đến Thọ uẩn.
- Niệm tâm thuộc về sự nhận định biết ḿnh liên quan đến Tưởng và Hành uẩn.
- Niệm pháp thuộc về tánh cách khác biệt chủ quan liên quan đến Thức uẩn.
Có một điều khác biệt giữa hai Kinh là: trong Kinh Tứ Niệm Xứ chỉ dạy hành giả quán niệm (quán sát và ghi nhận) trực tiếp và khách quan tánh cách sanh diệt của ngũ uẩn, chứ không phải suy tưởng chúng qua một lư thuyết nào, trong khi Bát Nhă Tâm Kinh dạy "chiếu kiến ngũ uẩn giai không", điều này có thể khiến cho hành giả cố gắng t́m ṭi, dùng lư trí suy tưởng mượn những lư thuyết có thể giúp cho hành giả hiểu được tánh không của ngũ uẩn.
Kinh Tứ Niệm Xứ dạy phương pháp thực hành mà không nói nhiều về lư thuyết. Tuy nhiên nếu hành giả tinh tấn thực tập th́ sẽ đích thân trực nghiệm tánh cách vô thường của ngũ uẩn, và nếu hiểu được vô thường th́ tự nhiên sẽ hiểu được vô ngă. Hai danh từ vô ngă (anatta) và không (sunyatà), không khác nhau là mấy. V́ vô ngă là đứng trên phương diện một chúng sanh mà nói, c̣n Không là trên phương diện pháp giới mà nói.
Tóm lại Kinh Tứ Niệm Xứ chỉ dạy cách thức tu tập, dẫn đến kết quả là thấu đạt được ngũ uẩn là Không (vô ngă). C̣n Bát Nhă Tâm Kinh nói về lư thuyết từ ngũ uẩn là Không trở đi (tức về tánh Không).
Người hành giả một khi thành tựu được phép quán Tứ Niệm Xứ th́ tâm sẽ an nhiên tự tại không c̣n bám víu vào bất cứ sự vật ǵ trong thế gian, câu này có khác ǵ "chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách" .
Muốn thực chứng Bát Nhă hăy nên thực hành Tứ Niệm Xứ.


Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông
Như bạn đọc đă xem qua, Tứ Niệm Xứ là một pháp hành thiền rất quan trọng mà xưa kia tất cả Thánh Tăng đă hành theo đó mà đắc quả vô sanh (A La Hán). Dù quan trọng như vậy, nhưng sau khi Đức Phật nhập diệt, Tứ Niệm Xứ dần dần bị lăng quên. Riêng ở Việt Nam th́ chư Tổ xưa kia đều là Thiền Sư, và Thiền ở Việt Nam bắt nguồn từ Thiền tông Trung Hoa.
Ở đây tôi sẽ so sánh pháp Thiền Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông để bạn đọc thấy rằng hai pháp môn này không khác nhau là mấy.


Thiền Tông
Theo Bắc tông th́ vị Thiền Tổ thứ nhứt là ngài Ma Ha Ca Diếp (Maha Kassapa). Sau đó gịng Thiền được truyền đến vị Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma), đến đây gịng Thiền ở Ần Độ được truyền sang Trung Hoa. Ở Trung Hoa Bồ Đề Đạt Ma được xem là Sơ Tổ, và gịng Thiền tiếp tục truyền đến Lục Tổ Huệ Năng, sau đó y bát không c̣n được truyền xuống nữa. Nhưng bắt đầu từ Lục Tổ trở đi th́ Thiền Tông rất hưng thịnh, và đă truyền sang các nước lân bang như Cao Ly, Nhật Bản, Việt Nam.
Thiền Tông có cả thảy 33 vị Tổ, nhưng được đề cao nhất là Tổ Bồ Đề Đạt Ma, chính vị Tổ này đă cho Thiền Tông một sắc thái đặc biệt khi sang Trung Quốc tuyên bố rằng đây chính là:
Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
Do từ khẩu hiệu này mà Thiền Tông (ở Trung Hoa) c̣n được gọi là Tổ Sư Thiền, tức là Thiền xuất phát từ các Tổ Sư.
Đến đời Lục Tổ Huệ Năng th́ Thiền lại chia làm hai phe. Nam đốn, Bắc tiệm (Tổ Huệ Năng xiển dương đốn ngộ ở phương Nam, Ngài Thần Tú chủ trương tiệm tu ở phương Bắc). Sau một thời gian th́ chỉ c̣n lại Thiền phương Nam là thịnh hành hơn cả, nên Thiền Tông lại được gọi với một danh từ khác là Thiền Đốn Ngộ. Chính phái Thiền này được truyền thừa từ Trung Hoa sang Việt Nam do Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi, và chư Tổ sau này đều thuộc gịng Thiền này.
Chủ trương của Thiền Tông là ǵ? Vẫn là bốn câu kệ của Tổ Đạt Ma: "Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo lư, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật".
Chính bài kệ này đă làm cho Thiền Tông nổi bật với tánh cách kỳ dị của nó. Người ngoài mới nh́n vào có thể lầm lẫn, tưởng Thiền là một pháp môn đặc biệt, tu theo đó mau thành Phật. Nhưng thật ra bài kệ trên nếu đem áp dụng vào thực tế th́ nó không c̣n đúng hẳn với ư nghĩa của nó nữa. Xưa kia các Thiền Sư mỗi ngày đều thượng đường nói pháp, lời lẽ câu văn của các Ngài có thể thô tục, tầm thường, không văn hoa như những danh từ dùng trong Kinh điển, nhưng tất cả đều ngụ ư giảng giải giáo lư của Phật, làm sao có thể nói "chẳng lập văn tự, truyền ngoài giáo lư "được.
Các Thiền Sư thường đánh đập, la hét, dùng đủ mọi phương tiện để cho đệ tử nhận ra ông chủ, hay tánh giác của ḿnh, "chỉ thẳng tâm người" chỉ là một cách nói mà thôi. Nếu thấy tánh thành Phật liền th́ 33 vị Tổ Thiền Tông đều đă là Phật cả rồi, nên nói đúng hơn là thấy tánh thành Tổ.
Tuy vậy nếu so sánh với các Tông phái khác th́ Thiền Tông vẫn đặc biệt hơn, với tánh cách phóng khoáng tự tại trong việc dùng phương tiện để chỉ cho người tu nhận lại tánh giác hay "bản lai diện mục". Khi nhận được tánh giác rồi, người tu phải tiếp tục tinh tấn thực hành chánh niệm (Samma-Sati) xả trừ vọng tưởng đến ngày hoàn toàn sống với tánh giác (hằng giác) th́ lúc đó gọi là chứng ngộ. Có chứng ngộ mới thoát khỏi sanh tử luân hồi, c̣n giác ngộ chỉ mới là chánh kiến (Samma Ditthi) phần đầu trong Bát Chánh Đạo (Ariya Magga).
Người mà nhân nghe nửa câu hoặc một câu ngộ đạo, hay bị một đạp, một gậy giác ngộ, th́ được gọi là "truyền tâm ấn". Những người này thường là những người lanh trí lẹ mắt, v́ thế nên Thiền Tông được xem như chỉ dành cho hàng thượng căn. Nhưng hàng thượng căn th́ bao giờ cũng ít, mà hạ căn th́ bao giờ cũng nhiều, nên lần lần theo thời gian Tâm ấn bị thất truyền. Phần khác, sau này Tông Tịnh Độ được xiển dương rất hưng thịnh, nên những ai muốn tu Thiền không biết nương vào đâu. Nếu muốn nương vào nhà Sư th́ tâm ấn thất truyền, lấy ai cho ta thoại đầu, công án hay đánh đập đúng lúc cho ta giác ngộ. Thật ra các công án, thoại đầu, đánh đập, la hét chỉ là những phương tiện thiện xảo của các Thiền Sư tùy bệnh cho thuốc, rút đinh nhổ chốt, quả dưa chín một phen xúc chạm liền rớt. Các ngài không để lại phương thức tu tập nào cả, nếu để sẽ trái với câu "Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền". V́ các ngài cố ư không theo một thứ lớp tu tập nào cả, nên có một số người tu theo Tiểu Thừa cho Thiền Tông là một quái thai của Phật giáo.
Ngày nay gịng Tổ Sư Thiền gần như đă mất, trừ ra có Hoà Thượng Thanh Từ đang cố gắng hoằng dương lại. Kinh băng và sách của Thầy đă được phổ biến rộng răi ở hải ngoại. Tuy nhiên nếu chỉ nghe kinh băng hoặc đọc sách để mong chờ ngày giác ngộ th́ đó là một ảo tưởng. V́ Thiền là một pháp hành, không phải pháp học, tự ḿnh phải chiêm nghiệm thấy rơ được sự lưu chuyển của tâm thức mới mong thấy được tự tánh.
Kinh sách Thiền Tông ít có ghi lại những phương thức tu tập, đa số chỉ ghi lại những biến cố giác ngộ của các Thiền Sư, mang nhiều tính cách ly kỳ, hấp dẫn như các trường hợp giác ngộ khi bị đánh, hét, hoặc khi thấy hoa nở, nghe tiếng mưa rơi v.v... khi đọc những trang sách này, người tu Thiền thường có khuynh hướng mong cầu được giác ngộ giống như vậy.
Nếu đọc Kinh sách Nguyên Thủy như trong Trưởng Lăo tăng kệ (Theragatha), ta sẽ thấy trong đó cũng có ghi lại những trường hợp mà chư Thánh Tăng trong thời đức Phật đă giác ngộ. Thí dụ trường hợp của Ngài A Nan chứng quả A la Hán trong khi đang quay ḿnh đặt lưng xuống nghỉ, ngài Châu lợi Bàn Đà Già ngộ đạo trong khi đang quét nhà v.v... Những sự việc này ít được nói đến, v́ đó chỉ là kết quả hiển nhiên của một sự tu tập chánh niệm hoặc Minh Sát Tuệ đến mức thành tựu.
Chân lư là cái ǵ tuyệt đối, Pháp thân th́ bất khả thuyết, bất khả tư ngh́, v́ thế Thiền Tông chủ trương chỉ thẳng (cho người nhận ra) bổn tánh, không dài gịng văn tự. Càng nói lư bao nhiêu, càng đi xa Thiền bấy nhiêu. Việc đó chỉ dành cho những học giả muốn thỏa măn tài phân tách lư giải của ḿnh mà thôi.
Chúng ta thường hay học thuộc ḷng những câu kệ, chú của các Thiền Sư đắc đạo, rồi mỗi khi nói đến Thiền th́ đem ra lập lại, giảng nghĩa bàn luận, có biết đâu là ḿnh đang nhai đi nhai lại cặn bă của kẻ khác. Người nào tu người đó biết, người nào chứng người đó hay, những câu thơ câu kệ xưa kia là của riêng các Thiền Sư, không dính líu ǵ đến ta cả, không nên si mê dại dột mà nhận của người làm của ḿnh. V́ nhận lầm như thế nên đa số người học Thiền đều tưởng lầm là ḿnh phá chấp và sắp sửa thành Tổ cả rồi.
Xưa kia Tổ Đạt Ma đem Thiền vào Trung Quốc với một h́nh thái kỳ dị nhằm mục đích giải tỏa sự chấp chặt vào văn tự Kinh điển của một số người thuở đó ưa học Phật mà không chịu tu Phật. Ngày nay tŕnh độ học Phật rất kém, nên ta không thể chấp vào Kinh điển được, nhưng ngược lại chúng ta lại đi chấp chặt vào những thi kệ của chư Tổ, nhất là Thiền đốn ngộ. V́ lư do này, tôi nghĩ rằng những ai muốn truyền bá Thiền, hăy nên truyền bá Thiền của Ngài Thần Tú hơn là Thiền của Tổ Huệ Năng. Làm như vậy có thể có lỗi với Lục Tổ, nhưng chắc không phụ ơn đức Phật. V́ đức Phật chỉ muốn làm sao cho chúng ta thoát khỏi sanh tử luân hồi, chứ Ngài đâu có muốn chúng ta thành Tổ?
Thiền Tông đặt nặng và đề cao sự đốn ngộ quá, để rồi những người theo Thiền sau này quên đi con đường dẫn đến giác ngộ, nó chỉ là một trợ duyên cuối cùng giúp cho hành giả ngộ đạo mà thôi.
Cũng cần nhắc lại là ngộ đạo chưa phải hoàn toàn giải thoát (sanh tử). Ngộ đạo (satori) chỉ là bước đầu, đồng nghĩa với kiến tánh, hay giải ngộ. Trong Kinh Pháp Hoa có nói Khai Thị Ngộ Nhập tri kiến Phật. Ngộ rồi phải tu tiếp đến khi nhập mới thôi, lúc đó gọi là chứng ngộ, hay hoàn toàn giải thoát. Từ lúc ngộ đạo cho đến lúc hoàn toàn giải thoát, con đường c̣n lại vẫn c̣n cam go và khó khăn, hành giả phải khéo léo, kiên nhẫn đối phó với mọi sự cám dỗ, thu hút của trần cảnh bên ngoài, và sự lừa bịp, lôi kéo của vọng tưởng bên trong. Không phải một sớm, một chiều mới cất bước lên đường mà đă tới đích rồi đâu.
Thiết nghĩ, chúng ta không nên dùng chữ Thiền Đốn Ngộ mà đúng hơn nên dùng chữ Tổ Sư Thiền. V́ chữ Thiền Đốn Ngộ hay làm cho người ta hiểu lầm là nếu tu theo Thiền này sẽ mau giác ngộ. Nhưng " tu nhất kiếp, ngộ nhất thời ", hay tu vạn kiếp ngộ nhất thời cũng có. Đạo Phật dạy về nhân quả, có gieo nhân giác ngộ mới mong gặt được quả giác ngộ. Khi có đầy đủ " nhân và duyên " th́ quả giác ngộ tự thành. Nếu có người nào bảo rằng không học mà biết, không tu mà thành th́ người đó không nói đạo Phật. Thí dụ trường hợp của Ngài Huyền Giác (tác giả Chứng đạo Ca) đương thời gọi Ngài là "Nhứt túc giác" (một đêm giác ngộ). Trước khi đến tham vấn Lục Tổ, Ngài đă tu hành giới hạnh trang nghiêm, chuyên tu chỉ quán (Samatha-Vipassanà). Nhân duyên đă đầy đủ, đến khi gặp Lục Tổ liền được ấn chứng.


So sánh Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông
Thiền Tông được truyền xuống từ chư Tổ nên gọi là Tổ Sư Thiền. C̣n Tứ Niệm Xứ được gọi là Thiền ǵ? Tứ Niệm Xứ là phương pháp hành thiền mà chính đức Phật đă áp dụng cách đây trên 2531 năm và đă dạy lại cho các đệ tử, nên được gọi là Như Lai Thiền. Một Thiền của Tổ Sư, một Thiền của Như Lai, vậy Thiền nào đúng, Thiền nào sai, Thiền nào cao hơn Thiền nào?
Cả hai đều nhằm mục đích đưa hành giả đến chỗ giác ngộ giải thoát, nên đều được coi là chánh pháp cả. C̣n Thiền nào cao hơn Thiền nào? Ai mà đặt ra câu hỏi này th́ thiệt là ..... không biết nói sao? V́ vấn đề không ở cao hay thấp mà ở chỗ người bệnh nào th́ cho thuốc đó mà thôi. Vậy cao hay thấp th́ không, nhưng khác nhau th́ có. Tuy thấy khác nhưng thật ra cũng không thể gọi là khác được. V́ một bên đặt nặng về lư, c̣n một bên chỉ dạy về sự. Về lư th́ Thiền Tông quả là độc nhất vô nhị, với sự đánh đập, la hét khiến người cầu đạo ngỡ ngàng, cố gắng t́m những lư thuyết sâu xa ở đó. Nhưng về sự, tức phần thực hành tu tập th́ Thiền Tông vẫn nằm gọn trong Tứ Niệm Xứ.
Cổ Đức xưa có câu :
Đốn ngộ tuy đồng Phật
Đa sanh tập khí thâm
Phong đ́nh ba thượng dũng
Lư hiện niệm du xâm.
Dịch nghĩa là :
Đốn ngộ tuy đồng Phật
Nhiều đời tập khí sâu
Gió ngừng sóng vẫn đập
Lư hiện niệm c̣n xâm.
(Trích Yếu chỉ Thiền tông, H.T Thanh Từ)
Khi đốn ngộ th́ chỗ thấy không khác chư Phật, song tập khí chất chứa từ nhiều đời, nhiều kiếp không thể một lúc mà sạch hết. Cần phải nổ lực buông xả vọng tưởng, lâu ngày mới hết, như gió đă dừng mà sóng chưa lặng, phải đợi thời gian từ từ nó mới yên. Chân lư đă thấy rơ rồi mà vọng niệm vẫn c̣n xâm lấn măi. V́ thế sau khi giải ngộ cần phải cố gắng tu hành mới được chứng ngộ.
Về lư th́ Thiền nói trăng, nói cuội, chỉ đây nói đó, nhưng về sự th́ không ngoài việc "diệt trừ vọng tưởng". Muốn diệt trừ vọng tưởng không có pháp nào khác hơn ngoài Chánh niệm (Samma-Sati) là chi thứ bảy trong Bát Chánh đạo (Ariya-Magga).
Trên phương diện hành Thiền, Chánh niệm cần được hiểu là quán niệm một cách chân chánh, chân chánh ở đây c̣n có nghĩa là khách quan. Vậy chánh niệm là quán niệm hay rơ hơn là quán sát và ghi nhận một cách khách quan. Phải quán niệm khi nào, lúc nào? Việc thực hành quán niệm không thể nằm ngoài bốn lănh vực (bốn niệm xứ), đó là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp.
Trở về Thiền Tông, ta thường nghe nói: gánh nước, bửa củi là Thiền, lặt rau, hái cỏ cũng là Thiền. Có người hỏi Thiền Sư Huệ Hải: "Tu Thiền dụng công thế nào?". Thiền Sư trả lời: "Khi đói th́ ăn, khi mệt th́ ngủ!". Người kia lại hỏi: "Ai mà chả đói th́ ăn, mệt th́ ngủ. Tất cả mọi người đều như vậy, có ǵ là khác?". Thiền Sư bảo: "Khi ăn ta biết đang ăn, khi ngủ ta biết đang ngủ. C̣n người đời th́ khi ăn chẳng chịu ăn, đ̣i trăm thứ cần dùng, khi ngủ chẳng chịu ngủ, tính toán ngàn chuyện!". [1] Xem ra ở đây có khác ǵ niệm thân của Tứ Niệm Xứ: "Khi thở vào một hơi dài, hành giả biết ḿnh đang thở vào một hơi dài...". Trong mỗi cử động của thân thể: đi, đứng, nằm, ngồi Thiền Sư đều giữ chánh niệm, không cho tâm phóng đi một cách bừa băi theo vọng tưởng, đó chính là niệm thân vậy.
Các Thiền Sư có lúc đánh đau điếng hoặc xô đệ tử què chân, đó không phải đánh thức người đệ tử trở về hiện tại với niệm thọ là ǵ? Thay v́ rong ruổi theo vọng tưởng.
Nhà Thiền có câu: "Không sợ niệm khởi mà chỉ sợ giác chậm" có nghĩa là không sợ vọng niệm khởi lên, mà chỉ sợ không tỉnh giác nhận liền ra nó. Đó có khác ǵ niệm Tâm của Tứ Niệm Xứ? Xưa kia Tổ Huệ Khả không chịu niệm Tâm, phải chờ đến lúc gặp Tổ Đạt Ma bảo: "đem tâm ra ta an cho", mới chịu trở về t́m tâm.
Nhân nghe tiếng mưa rơi, nh́n thấy hoa nở.v.v... mà nhận ra bổn tánh, đó phải chăng thuộc về niệm pháp?
Tu Thiền cần phải diệt vọng tưởng. Muốn diệt vọng tưởng phải có chánh niệm, mà chánh niệm không ngoài Tứ Niệm Xứ. Vậy Tứ Niệm Xứ là phép thực hành căn bản của Thiền.
Thế c̣n đặc tánh giác ngộ của Thiền Tông th́ sao? Đặc tánh giác ngộ của Thiền không phải vô duyên cớ. Vào khoảng thế kỷ thứ 5, sau khi Kinh điển vừa được đem từ Ần độ sang Trung Hoa, các học giả Phật dồn hết tâm lực vào công cuộc phiên dịch Kinh điển từ Phạn ra Hán văn. Sau đó mọi người đều hăng say đi t́m chân lư nơi văn tự của Kinh điển. Dần dần họ bị như thu hút vào mê hồn trận của giáo lư cao siêu Đại Thừa, để rồi quên đi những Kinh điển căn bản nhưng giản dị và thiết thực của Tiểu Thừa. Càng đi sâu vào triết lư văn tự của Kinh điển, họ càng hoang mang không biết đâu là đạo, đâu là chân lư. Đến lúc cùng đường, bí lối th́ may thay, Bồ Đề Đạt Ma đă xuất hiện như một vị cứu tinh với câu: "Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật". Và từ đó Thiền Tông nổi tiếng là một pháp môn đốn ngộ. Ai nấy đều đi t́m Thiền Sư chỉ cho giác ngộ. Giác ngộ cần được thực hiện chứ không phải để mong cầu. Chỉ có những người quên và không biết sống với thực tại, lo đi t́m chân lư ở những ǵ cao xa mới đi t́m giác ngộ.
Xưa kia Tổ Đức Sơn đi đâu cũng giảng Kinh Kim Cang, ngài Pháp Đạt tụng làu ba ngàn bộ Kinh Pháp Hoa, mà vẫn không ngộ đạo, phải chờ đến khi có người chỉ cho chỗ tầm thường nhất mới chịu nhận ra.
Người tu theo Đại thừa cũng vậy, chỉ lo tụng Kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Niết Bàn, Hoa Nghiêm, v.v.... mà không chịu đọc Kinh Pháp cú, Chuyển pháp luân, Tứ thập nhị chương, Kinh Niệm Xứ, v.v... Thiền Tông đă khéo tô điểm "giác ngộ", để người ta tưởng rằng nó chỉ nằm trong tay của các Thiền Sư, rồi đua nhau đi t́m Thiền Sư chỉ cho giác ngộ.
Hỡi những người đang đi t́m giác ngộ chân chánh, hăy dừng chân lại! Tại sao phải đi t́m giác ngộ? Tại v́ bất giác. Bất giác chánh niệm, hay là thất niệm: ăn không biết ḿnh đang ăn, mặc không biết ḿnh đang mặc, thở không biết ḿnh đang thở; giận không biết ḿnh đang giận ... Thiền Tông thường nói giác ngộ là nhận ra ông chủ, hay bản lai diện mục. Nhưng theo tinh thần Tứ Niệm Xứ th́ giác ngộ là nhận biết được bản chất của thực tại, vô thường, vô ngă và muốn vậy th́ phải thực hành chánh niệm. Người đời thường ưa chữ giác ngộ hơn chánh niệm, v́ họ cho rằng giác ngộ là một điều rất khó, c̣n chánh niệm th́ quá dễ. "�n mà biết ḿnh đang ăn" th́ ai chả biết? Đó là chánh niệm đă bị tầm thường hóa rồi. Chỉ có những người không biết hoặc chưa thực hành đúng đắn mới coi thường chánh niệm mà thôi. Chánh niệm không phải là ư thức suông việc đang ăn của ḿnh, mà phải thấy rơ, trực nghiệm tất cả tiến tŕnh của sự ăn, tức là từ lúc bắt đầu ăn, đang ăn, cho đến hết ăn, và tất cả những ǵ xẩy ra trong lúc ăn. V́ vậy chánh niệm phải được thực hiện trong từng giây phút, từng sát na, và việc đó không phải dễ, mà ngược lại vô cùng khó khăn, đ̣i hỏi nhiều thời giờ và kiên nhẫn, nếu không th́ ta đă thành A La Hán rồi!
Tóm lại Thiền Tông và Tứ Niệm Xứ không xung khắc nhau mà ngược lại c̣n bổ khuyết cho nhau. Thiền Tông chuyên về lư (mặc dù nói bất lập văn tự). Người tu Thiền t́m phương pháp chắc chắn phải đi qua con đường Tứ Niệm Xứ. Trong Kinh Tứ Niệm Xứ không nói lư cao siêu, nhưng người tu Thiền đừng nên xem thường nó, v́ không phải ai cũng có thể tu theo Tứ Niệm Xứ đâu, chỉ có những người hiểu được "b́nh thường tâm thị đạo" mới chịu khó kiên nhẫn hành theo mà thôi.
Chú thích:
[1] Trích Thiền Đốn Ngộ. HT Thanh Từ


Thiền và Tịnh độ
Ngày nay trong Phật giáo c̣n lại ba tông phái chính là Thiền tông, Mật tông và Tịnh Độ tông. Riêng ở Việt Nam th́ chỉ có Thiền Tông và Tịnh Độ tông là thịnh hành hơn cả. Đại khái th́ Thiền chủ trương tự lực, Tịnh Độ nương vào tha lực của Phật A Di Đà. Mới xem qua dường như hai pháp môn này chống trái nhau, nhưng xét cho kỹ Thiền là trở về với bổn tánh thanh tịnh, đó không phải là tịnh sao? C̣n Niệm Phật mà không có chánh niệm th́ Tín, Hạnh, Nguyện không tṛn làm sao văng sanh, mà chánh niệm há chẳng phải là Thiền?
Người ta thường có khuynh hướng cho rằng Thiền cao hơn Tịnh Độ. Thật ra vấn đề không phải ở cao thấp mà ở chỗ bịnh nào thuốc nấy mà thôi.
Đức Phật xưa kia đă tận tụy suốt 45 năm nói Pháp, từ cao xuống thấp, từ thấp lên cao, tùy căn cơ của chúng sanh mà chỉ bệnh cho thuốc. Ngài không quảng cáo một pháp môn nào cả. Sự phân biệt cao thấp, Đại Tiểu là do người sau này, căn cơ không được như đức Phật, không có nhất thiết chủng trí, không biết nhiều pháp môn, chuyên tu pháp môn nào th́ chỉ đề xướng pháp môn đó thôi. Người thích tu Thiền không nên tưởng ḿnh là thượng căn, người tu Tịnh Độ không nên có mặc cảm là hạ căn. Người tu khi lựa chọn pháp môn phải dùng trí huệ sáng suốt, biết bệnh của ḿnh hợp với phương thuốc nào. Thượng căn hay hạ trí thực ra không có nghĩa ǵ cả, đó chỉ là những khái niệm đối đăi nhị biên do chúng ta phân biệt đặt ra mà thôi. Một ông bác sĩ giỏi chữa hết bệnh đau mắt, không thể nói với một người đau tim rằng: "thuốc của tôi hay lắm, v́ đă chữa khỏi nhiều người, ông nên uống vào sẽ hết bệnh". Cũng vậy, ta không thể nói Kinh nào hay Pháp môn nào hay hơn cả.
Tịnh Độ có thể được xem là một phần của Mật Tông. Theo Mật Tông hay đúng hơn là Mật thừa (Mantrayanà) c̣n gọi tên khác là Kim Cang thừa (Vajrayanà), mỗi một vị Phật hay Bồ Tát đều có một câu thần chú tượng trưng cho bản nguyện của vị đó. Đức Phật Thích Ca có câu thần chú "Om muni muni maha muniye svahà", Phật A Di Đà có "Om Amitabhà Hrih ", Quan Thế Ấm Bồ Tát có " Om mani padmé hùm ", v.v... Phật A Di Đà ở phương Tây là một trong năm vị Thiền Phật (Dhyàni Bouddha), và cơi Cực lạc của Ngài là một trong muôn ngàn cơi tịnh độ trong pháp giới.
Nhân tiện đây xin nhắc nhở những ai tu Mật tông theo truyền thống Tây Tạng tức quán tưởng các h́nh tướng (déités, Yidams, Dakinis...) hoặc mandala, cần phải có bậc thầy truyền cho trực tiếp lễ quán đảnh (Initiation, dbang). Nếu chỉ tu theo sách vở, hoặc học lóm tu luyện với tâm mong cầu, sở đắc thần thông này nọ th́ sẽ dễ lạc đường đi vào tà đạo lúc nào không hay.
Tịnh Độ thuộc Đại thừa, hành giả tu niệm Phật cầu sanh về Cực Lạc, chứng được quả vị Bất thối chuyển rồi từ đó dần dần tiến đến quả vị Phật là cứu cánh. Tuy nhiên trên phương diện thực hành và truyền bá th́ Tịnh Độ nhấn mạnh về việc văng sanh Cực Lạc và quên đi mục đích chính của đạo Phật là tu tâm sửa tánh, giải trừ phiền năo ngay trong kiếp sống hiện tại.
Người tu theo Tịnh Độ thường cho mục đích chính của sự niệm Phật là cầu sanh Cực Lạc, không nghĩ đến chuyện thành Phật để cứu độ chúng sinh. Niệm Phật là để cầu thành Phật và muốn thành Phật th́ phải học làm Phật, đến khi xả bỏ báo thân này th́ sẽ về Cực Lạc để tiếp tục con đường thành Phật. V́ thế người tu Tịnh Độ vẫn cần phải học tất cả pháp môn, phát bồ đề tâm, trau dồi Giới, Định, Huệ ngay khi c̣n ở Ta Bà này.
Tu Tịnh Độ muốn được văng sanh cần phải có đầy đủ Tín, Hạnh, Nguyện. Tín là ḷng tin chắc chắn có đức Phật A Di Đà ở Cực Lạc Phương Tây, và những ai chí tâm niệm danh hiệu Ngài th́ sẽ được văng sanh. Hạnh là một khi tin chắc rồi th́ hành giả phải gia công ngày đêm niệm Phật không gián đoạn, tâm tâm niệm niệm luôn nhớ đến Phật A Di Đà. Nguyện là hành giả đem hồi hướng tất cả công đức tu hành và niệm phật nguyện sanh về Cực Lạc.
Đại khái pháp môn tu Tịnh Độ là như vậy. V́ có rất nhiều sách giảng về Tịnh Độ, đọc giả có thể t́m nghiên cứu thêm, ở đây chỉ nhằm mục đích dung ḥa hai lối tu Thiền và Tịnh.
Tu Tịnh Độ nếu không hiểu lư th́ Tín sẽ biến thành ỷ lại, không chánh niệm th́ Hạnh không tṛn. Không hiểu lư, không chánh niệm th́ sẽ bê trễ lơ là, do đó Nguyện sẽ không thành. V́ thế những người trẻ khi tu theo Tịnh Độ cần phải trau dồi, học hỏi để thông hiểu lư, tập thiền định để không cho phiền năo chi phối, và phải phát nguyện cứu khổ chúng sinh, lập đi lập lại những lời nguyện ấy.
Giáo lư nhà Phật gồm có Chân Không và Diệu Hữu. Thiền tông dựa trên Không, c̣n Tịnh Độ nương vào Hữu.
Tu Thiền mà bác Tịnh Độ cho rằng không có thế giới Cực Lạc ở phương tây th́ đó là chưa hiểu tự tánh (vốn chơn không mà diệu hữu). Tu Tịnh Độ mà bỏ Thiền, th́ chưa hiểu tự Tâm (vốn diệu hữu nhưng không ĺa chơn không).
Thiền và Tịnh đều là những pháp môn của Phật để lại, tùy căn cơ mà chúng ta lựa chọn cho thích hợp.
Người tu Thiền có thể hồi hướng công phu cầu sanh Tịnh Độ nếu chưa hoàn toàn tự chủ và sợ căn cơ c̣n yếu.
Người tu Tịnh Độ nên tập học giữ chánh niệm làm chủ tâm ư để đạt được an lạc ngay trong cuộc sống hiện tại và sau khi chết th́ về Cực Lạc
Ta có thể tu tập cả hai gọi là Thiền Tịnh song tu. Là hành giả Đại Thừa theo Bồ Tát Hạnh, ta cần thực hành Lục Ba La Mật: bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Tu Tịnh Độ cũng cần thiền định để cho tâm an trụ không bị phiền năo sai sử, nhờ vậy niệm Phật mới dễ nhất tâm, và khi lâm chung không sợ tán loạn. Tu Thiền thời nay không phải dễ giác ngộ mà cốt làm chủ tâm ư, thanh lọc thân tâm, sống an vui hạnh phúc, và sau khi chết cầu về Cực Lạc để được gần Phật nghe Pháp, được như thế có lợi hơn không?
Dù theo Thiền hay Tịnh Độ, người tu vẫn cần phải giữ ǵn tâm ư, trau dồi đạo hạnh, tích tụ công đức, bớt dính mắc vào chuyện thế gian, không để cho cuộc đời lôi cuốn. Xưa kia các Thiền Sư sau khi ngộ đạo, đều t́m nơi ở ẩn tu luyện cho đến khi hoàn toàn làm chủ được tâm ư mới ra độ đời. Chư Tổ Tịnh Độ như ngài Huệ Viễn, Thiện Đạo, Vĩnh Minh, không những xiển dương dạy chúng niệm Phật, mà chính ḿnh cũng nhập thất niệm Phật làm gương.


Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát đạo
Bồ Tát, nói cho đủ là Bồ Đề Tát Đỏa dịch âm từ chữ Bodhisattva (Sanscrit) hay Bodhisatta (Pali). Bodhi là giác, Sattva là hữu t́nh. Bồ Tát là những người phát tâm, nguyện đạt cho được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác (Phật). Phát nguyện như vậy có quá đáng không? Có kiêu ngạo quá không? Không! Chỉ v́ Bồ Tát có tâm Đại từ, Đại bi, muốn cứu độ chúng sanh thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi nên mới phát nguyện thành Phật. Xưa kia, đức Phật Thích Ca v́ lư do nào ĺa bỏ cung thành đi tu? Phải chăng v́ thấy cảnh sanh, già, bệnh, chết của chúng sanh mà quyết ra đi t́m giải thoát cho ḿnh và cho người?
Bồ Tát là người cầu thành Phật hay chỉ là người có tâm Đại từ Đại bi thôi? Cầu thành Phật mà không có tâm từ bi th́ không thể được! Đại từ, Đại bi mà không có trí tuệ th́ cũng không thể cứu độ chúng sanh. Cứu khổ trong đạo Phật cần được hiểu là cứu khổ sanh tử luân hồi, chứ không phải khổ vật chất hay tinh thần. Muốn cứu khổ chúng sanh một cách trọn vẹn và rốt ráo cần phải có trí tuệ toàn giác.
Vậy Bồ Tát là những người phát Bồ Đề Tâm (Bodhicitta), tức tâm nguyện thành Phật để cứu độ chúng sanh một cách toàn vẹn và rốt ráo. Đại Từ Bi chỉ là động lực đầu tiên thúc đẩy hành giả tiến bước trên Bồ Tát Đạo, và mục tiêu cuối cùng của Bồ Tát Đạo là quả vị Phật. V́ trong quả vị Phật, có đầy đủ các đức tánh Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xả, Đại Hùng, Đại Lực để cứu độ chúng sanh.
Một khi phát Bồ Đề Tâm một cách vững chắc rồi, Bồ Tát có thể lựa chọn tất cả pháp môn nào tùy theo căn cơ, sở thích và tâm nguyện của ḿnh. Bồ Tát không bắt buộc phải tạo nhiều chùa to, tượng lớn, không bắt buộc phải đi khắp nơi thuyết pháp, giảng đạo. Ngược lại cũng không bắt buộc phải vào rừng núi tu ẩn dật cho đến ngày thành Phật mới ra độ đời. Từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật, Bồ Tát vẫn tiếp tục phát triển tâm Bồ Đề, trau dồi phước huệ, tiếp tục cứu độ và làm lợi ích cho chúng sanh tùy theo căn cơ và khả năng của ḿnh.
Bồ Tát không bắt buộc phải là thượng căn, Thanh Văn không hẳn là hạ trí. Bồ Tát chỉ khác Thanh Văn nơi Bồ Đề Tâm thôi. Tất cả pháp môn Đức Phật để lại, không có pháp nào dành riêng cho Bồ Tát hay Thanh Văn cả. Thí dụ như Tịnh Độ được coi là một pháp môn thuộc Đại Thừa, nhưng nếu người niệm Phật cầu về Cực Lạc với tâm niệm giải thoát cho chính ḿnh khỏi cái khổ Ta Bà thôi, th́ người này đang biến Tịnh Độ thành Tiểu Thừa vậy.
Khi nói về ba Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát), người ta thường nói như vầy: Thanh Văn tu theo Tứ Đế, Duyên Giác tu theo Thập nhị nhân duyên, và Bồ Tát tu theo Lục Độ. Nói như vậy hơi đơn giản. Tứ Đế là một chân lư, trong đó có Đạo Đế, Đạo Đế là con đường đưa đến Niết Bàn. Đạo Đế tức là Đạo Phật. Đạo Đế không phải chỉ có Bát Chánh Đạo, hoặc 37 phẩm trợ đạo thôi, mà tất cả 84.000 pháp môn đều được xem là Đạo Đế. Do đó Thập nhị nhân duyên, và Lục Độ cũng thuộc Đạo Đế. Vậy pháp tu của Duyên Giác hay Bồ Tát cũng không nằm ngoài Tứ Đế.
Trong 84.000 pháp môn của Đức Phật để lại chỉ có một mùi vị, đó là vị giải thoát. Nhưng chúng ta có thói quen hay phân chia, xếp hạng: pháp này là Tiểu Thừa, pháp kia Đại Thừa. Nếu tu theo Đại Thừa mà giảng Tứ Đế th́ không hay, phải giảng Pháp Hoa, Kim Cang mới đúng. Từ sự phân chia và hiểu lầm danh nghĩa Bồ Tát nên người tu theo Đại Thừa thường hay thích thọ "Bồ Tát giới" và coi thường giáo lư Tiểu Thừa.
Theo Phật giáo, có ba hạng Bồ Tát là: Trí Tuệ Bồ Tát (Pannadhika), Tín Đức Bồ Tát (Saddhàdhika) và Tinh Tấn Bồ Tát (Viriyàdhika).
"Trí Tuệ Bồ Tát chú trọng phát triển trí tuệ và thực hành Thiền Định nhiều hơn là nhiệt thành với những h́nh thức lễ bái cúng dường bề ngoài. Các ngài luôn luôn đi theo sự hướng dẫn của lư trí và không chấp thuận điều ǵ một cách mù quáng. Không tự bó tay quy hàng cho một lư thuyết nào, cũng không làm nô lệ cho một quyển sách, một bộ Kinh, hay một cá nhân nào. Trí Tuệ Bồ Tát thích trầm tĩnh yên lặng để trau dồi thiền định. Từ nơi vắng vẻ tịch mịch ấy, Ngài rải những tư tưởng an lành, tuy trầm lặng nhưng hùng dũng, bủa khắp thế gian, để đem lại sự hổ trợ tinh thần cho nhân loại đau khổ.
Tín Đức Bồ Tát đặt trọn niềm tin nơi hiệu lực của tâm thành. Saddhà hay niềm tin chân thành là đặc điểm chánh yếu của Ngài. Cùng với Saddhà (niềm tin nơi Tam Bảo) như người bạn đồng hành trung tín, Ngài thành tựu mục tiêu. Tất cả những h́nh thức cụ thể lễ bái, thờ phượng là sở trường của Tín Đức Bồ Tát. Tượng Phật là một nguồn gợi cảm quan trọng đối với Ngài.
Tinh Tấn Bồ Tát th́ luôn luôn t́m cơ hội để phục vụ kẻ khác. Không có ǵ làm cho vị Tinh Tấn Bồ Tát hoan hỉ bằng tích cực phục vụ. Đối với các Ngài, "làm việc là hạnh phúc, và hạnh phúc là làm việc". Không tích cực hoạt động phục vụ tha nhân th́ các Ngài không có hạnh phúc.
Theo Kinh sách th́ con đường của bậc Trí Tuệ Bồ Tát ngắn nhất, Tín Đức Bồ Tát phải trải qua một thời gian dài hơn, và Tinh Tấn Bồ Tát c̣n dài hơn nữa". [1]
Tứ Niệm Xứ là một phương pháp hành thiền dẫn đến trí tuệ giải thoát, tự tánh nó không phải Thanh Văn hay Bồ Tát, tuy nhiên nếu phải so sánh và xếp loại với Bồ tát đạo, th́ Tứ Niệm Xứ là một trong những con đường đi của Trí Tuệ Bồ Tát.
Nếu hành giả theo Đại Thừa có tâm địa Bồ Tát, th́ song song với việc tu tập Tứ Niệm Xứ (tự thanh lọc bản tâm), hành giả phải thường tự nhắc nhở, phát nguyện và noi theo những gương Đại Bi của Quan Thế Ấm Bồ Tát, Đại Trí của Văn Thù Bồ Tát, và Đại Hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát (nuôi dưỡng chí nguyện độ tha).
Chú thích:
[1] Trích Đức Phật và Phật Pháp. Narada Maha Thera. Phạm Kim Khánh dịch


Phương Pháp Thực Hành

Điều kiện ban đầu
Như chúng ta đă thấy qua ớ các phần trước, phương pháp hành thiền này trông rất tầm thường, không có ǵ cao siêu, nên nhiều người cho nó thấp kém, vô ích và không đưa đến đâu. V́ vậy không phải ai cũng thực tập dễ dàng được, mà phải tùy nhân duyên và điều kiện :
1/ Điều kiện ban đầu là phải ư thức được chân lư không thể có ngoài thực tại, ngoài những ǵ rất tầm thường. Dù có tụng 3000 bộ Pháp Hoa mà không biết trớ về nh́n quán chiếu nội tâm th́ vẫn chưa nếm được mùi vị của Phật Pháp.
2/ Tin tưởng chắc chắn pháp hành thiền này sẽ đưa đến giác ngộ giải thoát (lẽ dĩ nhiên trước đó hành giả phải suy nghĩ thật chín chắn).
3/ Cần phát nguyện mạnh mẽ. Không cần phát những lời nguyện văn hoa, dài gịng như trong các thời Kinh, chỉ cần nguyện hai câu sau: "Nguyện đời đời kiếp kiếp không xa ĺa Tam Bảo. Nguyện mau giải thoát cứu độ chúng sanh".
4/ Phải cố gắng tạo cho ḿnh một bối cảnh thuận duyên. Nếu là tại gia cư sĩ th́ nên theo học những khóa Thiền Minh Sát Tuệ trong dịp nghỉ hè. Nếu là xuất gia th́ nên xa ĺa thế tục, t́m những nơi thanh vắng để tham thiền nhập định, nếu có ai bảo ḿnh căn cơ Nhị Thừa, không có tâm độ đời cũng mặc, v́ họ đâu có tu giùm ḿnh đâu mà phải sợ. Nếu không như thế, suốt ngày lăng xăng việc này, việc nọ, đến tối có ngồi thiền đi nữa cũng chỉ làm mồi cho hôn trầm, loạn tưởng.
5/ Tinh tấn và kiên nhẫn. Tu tập pháp Thiền này rất cần sự trợ duyên ban đầu như nhắc nhở, giảng giải của thiện tri thức là những người đă thực hành và trải qua rồi. Nếu chỉ đọc sơ qua sách vở rồi thực hành theo th́ sẽ mau chán nản v́ không thấy được sự tiến bộ.


Thực hành
Về phần thực tập, hành giả có thể y theo như nguyên văn của Kinh Tứ Niệm Xứ chỉ dạy. Nhưng sợ có nhiều người thấy văn tự trong Kinh quá giản dị mà xem thường hoặc không biết cách áp dụng vào đời sống thực tại, nên ở đây tôi tạm đưa ra vài cách thức giúp cho hành giả trong bước đầu.
Cần nhớ là trong tất cả bốn lănh vực quán niệm (thân, thọ, tâm, pháp) hành giả phải lấy chánh niệm (Sammà Sati) làm đầu, và chỉ giữ chánh niệm mà thôi, có nghĩa là giác tỉnh quan sát và ghi nhận một cách khách quan. Khi bắt đầu thực hành, hành giả sẽ thấy sự xâm chiếm mạnh mẽ của thất niệm, hôn trầm (trạng thái mơ mơ màng màng) và loạn tưởng (những ư nghĩ khởi lên ào ào, liên tục lôi kéo ta theo).
Bắt đầu sự thực tập, hành giả nên t́m đến một nơi vắng vẻ ngoài trời, trong rừng, dưới một cội cây, hay tất cả những nơi nào yên tĩnh xa tiếng náo động ồn ào. Ngồi xuống theo tư thế bán già hoặc kiết già rồi bắt đầu quán niệm.
1/ Niệm Thân
Hành giả có thể bắt đầu bằng phương pháp chú niệm vào hơi thở vô-ra (ànàpànasati). Trong Kinh An Ban Thủ Ư (Anàpànasati Sutta) có dạy 16 cách quán niệm hơi thở. Người nào muốn biết rơ chi tiết có thể t́m đọc Kinh Quán Niệm Hơi Thở do Thầy Nhất Hạnh đă dịch và chú giải. Riêng ở đây chỉ đưa ra nhưng cách thức rất giản dị không nhất thiết phải y theo Kinh.
Hành giả bắt đầu hít vào ba hơi thật dài và thở ra thật mạnh như để tống khứ ra ngoài mọi uế trược. Sau đó hành giả hô hấp một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, không nên gượng ép hơi thở và làm cho nó phải như thế nào. Chỉ để cho luồng hơi thở thong thả trôi ra rồi thong thả trôi vào dưới ánh sáng của tâm hoàn toàn giác tỉnh.
- Khi hít vào một hơi dài, hành giả niệm thầm trong đầu: "Híííít". Chữ Hít phải được kéo dài theo hơi thở vào, có nghĩa là trong suốt thời gian hít vào . [1]
- Khi thở ra, hành giả niệm thầm: "Thởởởởở". Chữ Thở phải được kéo dài trong suốt thời gian thở ra.
Cứ thế hành giả hít thở trong chánh niệm. Trong suốt thời gian ngồi thiền, không có một hơi thở "vô-ra" nào mà hành giả quên niệm. Nếu trong lúc hít thở như vậy, chợt có một ư nghĩ nào xuất hiện th́ hành giả phải nhận biết liền rồi tức khắc trở về sự chú niệm hơi thở "vô-ra".
Ban đầu hành giả có thể ngồi khoảng mười lăm phút, đến lúc thuần thục phải tăng dần lên cho tới ít nhất là một tiếng đồng hồ. Trong bước đầu khởi sự hành thiền, chắc chắn hành giả sẽ cảm thấy chán nản, bực bội, thân tâm bị g̣ bó. V́ thường ngày thân của ta hết làm việc này đến việc nọ, lăng xăng đủ thứ, tâm của ta th́ chưa nghĩ xong chuyện này đă nghĩ đến chuyện kia tựa hồ con khỉ chuyền cành, con ngựa đứt cương (tâm viên, ư mă). Không phải chỉ có ở kiếp này thôi, mà nó đă như vậy từ vô thỉ kiếp trước rồi, bây giờ ta bắt thân ngồi im một chổ, bắt tâm chăm chú vào hơi thở, làm sao tránh khỏi sự khó chịu dày ṿ. V́ vậy hành thiền cần phải tinh tấn và kiên nhẫn mới đi tới đích, phải chịu cực nhọc khó khăn lắm mới thành công, không phải một sớm một chiều mới tu mà thành Tổ Sư liền được.
Sau khi hành giả thuần thục với pháp quán niệm hơi thở vô-ra ở trên, thời gian ngồi từ một hay hai tiếng trở lên, th́ hành giả bắt đầu thực hành sang pháp "phồng xẹp" (của bụng) [2], sẽ thấy sự phồng lên xẹp xuống của nó. Ban đầu, nếu hành giả không thấy được sự "phồng-xẹp" này, th́ có thể để một hay cả hai bàn tay lên bụng để nhận thấy rơ ràng hơn. Khi cảm thấy rơ ràng (chứ không phải tưởng tượng) được sự phồng xẹp rồi, hành giả bắt đầu quan sát và ghi nhận nó.
- Khi bụng phồng lên, hành giả niệm thầm: "bụng phồng" hay "phồồồồng", chữ phồng phải được kéo dài trong suốt lúc bụng phồng lên.
- Khi bụng xẹp xuống, hành giả niệm: "bụng xẹp" hay "xeeeẹp". Chữ xẹp được kéo dài trong suốt thời gian bụng xẹp xuống.
V́ sao ở đây lại có nhưng chữ kéo dài như: "Hiiiít", "Thơơởở", "Phôôôồng ", "Xeeeẹp"? V́ với người sơ sơ mới tu tập, "ư thức suông" chưa phải hoàn toàn chánh niệm. Khi hít vào mà hành giả chỉ ư thức "tôi đang hít vào" hay chỉ niệm một chữ "Hít" th́ ngay lúc đó hành giả có chánh niệm, nhưng trong sát na sau hay giây phút kế tiếp hành giả có thể mất chánh niệm dễ dàng, nên thay v́ phải niệm liên tục "Hít, Hít, Hít..." th́ chỉ niệm một chữ nhưng kéo dài ra: "Hiiiít".
Cứ thế hành giả chú tâm quan sát, theo dơi và ghi nhận sự phồng lên xẹp xuống của bụng trong suốt thời gian ngồi thiền. Không có một cái "phồng-xẹp" nào mà hành giả quên ghi nhận.
Hành giả cố gắng thực hành và tăng lên thời gian ngồi thiền. Ít nhất phải ngồi liên tục hai giờ đồng hồ trở lên, hành giả mới thấy được những ǵ thay đổi và tiến triển. Và khi thấy được những ǵ thay đổi, tiến triển đó th́ hành giả mới cảm thấy hứng thú trong việc thiền tập. V́ phải tinh tấn và kiên nhẫn nên ít có người thực hành pháp này. Ngược lại có rất nhiều người tu theo Thiền ngoại đạo, v́ được quảng cáo mới tu đă xuất hồn, hoặc có thần thông liền! Người tu chân chính cần biết rằng từ đời vô thỉ đến giờ, ta đă bị vô minh, tà kiến, chấp trước bao phủ dầy đặc, làm sao mà trong phút chốc có thể gột rửa cho hoàn toàn được. C̣n những việc như xuất hồn, hay thần thông đều là những ma chướng, vọng cầu của tà ma ngoại đạo, ta đă tích lũy chúng từ nhiều kiếp, nên nay mới khởi vọng cầu liền có một cách dễ dàng. Đó là lư do tại sao người tu theo chánh pháp th́ ít, mà tu theo tà đạo lại nhiều.
2/ Niệm Thọ
Khi hành giả ngồi lâu sẽ có những cảm giác phát sanh như mỏi mệt, đau nhức, ngứa ngáy, khó chịu v.v... Lúc đó hành giả hăy làm như sau :
Đang theo dơi sự "phồng xẹp", bỗng nhiên hành giả cảm thấy đau nhức nơi chân. Hành giả liền niệm: "có một cảm giác đau nhức đang phát sanh (nơi chân)", hoặc hành giả có thể niệm một cách vắn tắt: "đau" hay "có sự đau". Niệm như vậy cũng đủ để cho hành giả ghi nhận một cách khách quan cảm giác đau đang có nơi chân. Hành giả tuyệt đối không được niệm: "Tôi đang đau hay chân tôi đau", v́ thực sự không có cái Tôi nào đau cả. Sau khi niệm như vậy xong, hành giả lập tức trở về sự "phồng-xẹp" của bụng. Tất cả những cảm giác đều trải qua bốn tiến tŕnh: phát sanh, tăng trưởng, suy yếu, và tan biến, chỉ có lâu hay mau mà thôi. Sau một thời gian, cảm giác đó bỗng biến mất, th́ hành giả niệm: "cảm giác đau đă biến mất" hoặc "cái đau đă hết". Nếu cảm giác đau không hết mà lại tăng thêm th́ hành giả niệm: "cảm giác đau đang tăng", rồi sau đó liền trở lại công việc chính là quán niệm sự "phồng xẹp". Nếu cái đau tăng lên quá mức chịu đựng th́ hành giả có thể lấy tay gỡ chân ra, hay sửa đổi tư thế, nhưng phải làm thật chậm, và giữ chánh niệm như sau :
- Trước hết khi muốn lấy tay gỡ chân ra niệm: muốn, muốn, muốn.
- Khi nhấc tay lên niệm: nhấc, nhấc, nhấc.
- Khi tay đụng chân niệm: đụng.
- Khi tay nắm chân gỡ ra niệm: gỡ, gỡ, gỡ.
- Khi gỡ ra xong, rút tay về niệm: rút, rút, rút.
- Khi rút tay về xong, để lại chỗ cũ niệm: để, để, để.
Trên đây chỉ là một sơ đồ giản dị, giúp cho người mới tập giữ chánh niệm, chứ thật ra từ lúc muốn nhấc tay, rồi gỡ chân, cho đến lúc kéo tay trở về chỗ củ, có rất nhiều cử động khác cần phải niệm (chú ư). Trong lúc lấy tay gỡ chân ra hành giả phải làm "thật chậm", v́ thế nên mỗi cử động phải được niệm ít nhất ba lần, giúp cho hành giả giữ được chánh niệm. Khi thuần thục rồi th́ hành giả không cần niệm như vậy nữa mà chỉ cần giác tỉnh quán sát từng cử động trong từng sát na, muốn được vậy đương nhiên các động tác phải được làm thật là chậm.
3/ Niệm Tâm
Niệm Tâm là một việc rất quan trọng trong Tứ Niệm Xứ. Trong Thiền Đốn Ngộ có nói " Kiến tánh khởi tu" hay "Đốn ngộ tiệm tu", tu ở đây là diệt trừ vọng tưởng. Niệm Tâm chính là một phương pháp hay nhất để diệt trừ vọng tưởng. Niệm Tâm là quan sát ghi nhận một cách khách quan những hoạt động của tâm. Hoạt động của tâm là những tư tưởng hay ư nghĩ chợt khởi chợt biến.
Khi đang theo dơi sự "phồng xẹp" của bụng bỗng nhiên có một ư nghĩ dù thiện hay ác khởi lên trong tâm, hành giả liền ghi nhận (niệm) nó: "có một ư nghĩ (đang phát sanh)". Niệm như vậy đủ để ư nghĩ đó tan biến, và hành giả phải lập tức trở về với sự "phồng xẹp", không cần suy tư xem đó là tốt hay xấu. Nếu sau đó ư nghĩ đó trở lại, hoặc có một ư nghĩ khác th́ hành giả cũng lại niệm: "có một ư nghĩ". Niệm một câu ngắn gọn như vậy đủ làm cho hành giả giác tỉnh và không chạy theo vọng tưởng. Trường hợp này giống như Thiền Sư Nhan mỗi ngày thường ngồi trên tảng đá, lâu lâu tự gọi: "ông chủ". Tự đáp: "Dạ". Tự nhắc: "Tỉnh tỉnh chớ để người lừa" [3].
Ban đầu hành giả có thể bị ư nghĩ đưa đi xa, rồi sau đó mới sực tỉnh, th́ lúc đó niệm: "Đó là một ư nghĩ". Khỏi cần phải niệm "ư nghĩ đă diệt", v́ khi ta niệm "đó là một ư nghĩ" th́ ngay khi đó nó đă diệt mất rồi.
Thực tập như vậy, lâu ngày hành giả sẽ không c̣n bị ư tưởng đem đi quá xa nữa mà sẽ nhận ra chúng khi chúng vừa phát sanh.
Người thường không biết tu Thiền, mỗi khi có ư tưởng ǵ khởi lên th́ liền đi theo nó ngay. Thí dụ đang ngồi yên bỗng chợt nghĩ về một người hay một chuyện nào đó rồi khởi lên ưa ghét, phải trái, và cứ thế suy nghĩ liên tu bất tận, bị phiền năo vọng tưởng lôi kéo mà không hề hay biết.
Ngoài giờ ngồi thiền, trong đời sống hằng ngày, nếu có những ư nghĩ tốt khởi lên trong đầu hành giả đừng mừng cho là ta tốt, mà phải nhanh trí nhận ra đó là tâm khởi một ư nghĩ tốt. Khi có một ư nghĩ xấu phát sanh trong đầu, đừng nghĩ là ta xấu rồi ăn năn, bực bội, mà phải nhanh trí nhận ra đó là tâm khởi một ư nghĩ xấu, xong rồi thản nhiên tiếp tục giữ chánh niệm.
Người đời không biết về vọng tưởng, không hiểu giáo lư Vô Ngănên mỗi khi trong tânm khởi lên những ư tưởng hay suy nghĩ th́ lầm cho đó là ta hay tôi suy nghĩ. Trên thực tế không hề có một cái Ta hay Tôi nào suy nghĩ mà chỉ có những ư niệm khởi lên trong tâm mà thôi. [4]
4/ Niệm Pháp
Trong Kinh Niệm Xứ (Satipatthàna Sutta), trong phần Niệm Pháp có đưa ra năm đề mục quán niệm, nhưng ở đây tôi chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể áp dụng vào sự thực tập.
- Đang ngồi thiền, bỗng bên ngoài có tiếng động như tiếng xe hơi, th́ lúc đó hành giả niệm: "nghe, nghe, nghe" (đó là nương theo nhĩ căn), hoặc niệm "có tiếng động" (đó là nương theo thanh trần). Sau khi niệm như vậy xong, hành giả phải liền trở về sự "phồng xẹp" của bụng.
- Khi cảm thấy buồn ngủ, hành giả niệm: "có sự buồn ngủ đang phát sanh" hoặc niệm vắn tắt "có sự buồn ngủ". Tuyệt đối không được niệm "Tôi đang buồn ngủ".
Trên đây chỉ là gợi ư cho hành giả tu tập ban đầu. Về phần niệm pháp này khá phức tạp, v́ chữ Pháp (Dhamma) có thể chỉ tất cả những sự vật trên cơi đời này, muốn nói dễ hiểu hơn là những đối tượng của tâm thức đều gọi là pháp. Ngay cả ba phần niệm Thân, niệm Thọ, niệm Tâm cũng có thể được xem thuộc niệm Pháp.
Người hành giả khôn ngoan, khéo léo, sẽ từ những thí dụ trên tự sáng chế ra những phương thức áp dụng chánh niệm vào tất cả sự việc trong ngày.
Sau đây là một thí dụ khác giúp cho hành giả giữ chánh niệm trong lúc ăn. Hành giả phải cử động một cách chậm chạp và để ư ghi nhận và niệm trong đầu tất cả những chi tiết về hành động đang diễn tiến :
- Khi đưa mắt nh́n đồ ăn, niệm: "nh́n, đang nh́n".
- Khi đưa tay gắp đồ ăn, niệm: "đưa, đang đưa tay".
- Khi tay gắp trúng đồ ăn, niệm: "gắp".
- Khi đem đồ ăn lên miệng, niệm: "đem, đang đem".
- Khi cúi đầu xuống gần đồ ăn, niệm: "cúi, đang cúi".
- Khi há miệng ra, niệm: "há, đang há miệng".
- Khi để đồ ăn vào miệng, niệm: "để, đang để".
- Rút đũa ra, ngậm miệng lại, niệm: "ngậm, đang ngậm".
- Rút tay về để lại trên bàn, niệm: "rút, đang rút tay".
- Khi tay đụng xuống bàn, niệm: "đụng".
- Bắt đầu ngẩng cổ lên lại ngay thẳng, niệm: "ngẩng, đang ngẩng".
- Khi nhai đồ ăn, niệm: "nhai, nhai, nhai..." (niệm tối đa trong lúc nhai).
- Khi nuốt đồ ăn, niệm: "nuốt".
Sau khi đọc những hàng trên, đọc giả có thể buồn cười, cho rằng đó là một việc làm kỳ cục", ăn th́ cứ việc ăn tội ǵ phải để ư làm chậm chạp mất th́ giờ và phải niệm tới niệm lui. Trong số chúng ta đây, có rất nhiều người ăn mà không biết ḿnh đang ăn. V́ trong bữa ăn, miệng nói chuyện, mắt nh́n "ti vi", đầu óc nghĩ chuyện này, chuyện nọ, tay gắp đồ ăn mà mắt chẳng nh́n, rồi bỏ vào miệng nhai như một cái máy. Tất cả những hành động đều "vô ư thức", được làm như một cái máy, và ta cho đó là một cái ǵ rất tự nhiên. Chính cái rất tự nhiên này là nghiệp dẫn dắt ta đó. Những người nào có thiện chí và ư thức được là từ xưa đến nay ḿnh đă làm không biết bao nhiêu hành động "vô ư thức", th́ hăy bắt đầu từ bây giờ trở về làm chủ lại tất cả những hành động cũng như ư nghĩ của ḿnh, hăy tập sống giác tỉnh như đức Phật.
Ban đầu thực tập chánh niệm, hành giả sẽ nhận thấy có rất nhiều động tác bị quên niệm, nhưng với sự kiên nhẫn và tinh tấn, dần dần những động tác bị quên niệm đó sẽ bớt lần.
Trong cuộc sống thường ngày, khi lục căn tiếp xúc với lục trần, hành giả phải tập niệm :
- Khi mắt thấy một vật hay h́nh dáng ǵ, hành giả không cần biết nó đẹp hay xấu, chỉ cần niệm: "thấy, thấy, thấy ".
- Khi có một âm thanh ǵ lọt vào tai, không cần biết nó hay hay dở, dễ chịu hay khó chịu, chỉ cần niệm: "nghe, nghe, nghe".
Lâu lâu hành giả có thể nhắc nhở ḿnh bằng cách tự hỏi:
- Thân bây giờ đang làm ǵ, ở trong tư thế nào?
- Có cảm giác ǵ không?
- Tâm đang nghĩ ǵ?
- Có nghe thấy ǵ không?
Cứ như vậy, trong lúc ngồi cũng như khi đi, đứng, tiếp xúc, hành giả phải luôn luôn nhớ niệm. Đó gọi là chánh niệm.
V́ thế, hành thiền này không cố định ở ngồi mà trong tất cả các thời khác, đi, đứng, nằm, hành giả đều có thể tu tập được.


Những khó khăn ban đầu
- Chân sẽ bị đau nhức như có ai lấy dao chặt chân ḿnh, như xương sắp gẫy ĺa v.v...
- Cảm giác khó chịu: như bọ hay kiến làm ngứa ngáy...
- Ngồi lâu mệt mỏi, buồn ngủ, ngủ gục...
- Vọng tưởng, ư nghĩ khởi lên tới tấp, không ngừng.
C̣n nhiều những hiện tượng khác nữa, đó là tùy theo ḍng nghiệp của mỗi người, không thể tả hết được. Tuy nhiên hành giả chỉ cần nhớ giữ chánh niệm, theo dơi và ghi nhận thôi. Tất cả những ǵ đến th́ sẽ phải đi, không sợ hăi, cũng không vui mừng. Sau một thời gian cố gắng, hành giả sẽ vượt qua mọi trở ngại trên.


Những điều nên tránh
- Bỏ qua không suy nghĩ đến Bản lai diện mục, tánh giác, hay những lư Thiền..., đó chỉ là những danh từ gắng gượng diễn tả những ǵ không thể diễn tả được. Những ǵ bất khả tư ngh́ mà cứ được đem ra bàn luận, giảng giải th́ nó không thực là bất khả tư ngh́, và chỉ gây thêm thành kiến sai lầm về nó.
- Sự mong cầu. Hành Thiền này không có ǵ để mong cầu, mà chỉ ghi nhận một cách khách quan tất cả những ǵ xẩy đến, không bám víu mà cũng không xua đuổi. " Gặp Phật biết Phật, gặp Ma biết Ma ", chỉ cần biết và ghi nhận, rồi sau đó liền trở về với thực tại. Không cần phải quá hung bạo như Thiền Tông "gặp Phật giết Phật, gặp Ma giết Ma".
V́ không có sự mong cầu, bám víu hay xua đuổi nên người hành thiền này không thể điên được, v́ lúc nào cũng làm chủ được ḿnh, không chạy theo vọng tưởng điên đảo. Người tu thiền mà bị điên là v́ trong tâm có sự mong cầu bất chánh (vọng cầu), mong được thần thông hay quyền năng nào đó, không hiểu giáo lư Vô Ngă và Như Huyễn nên khi có vọng tưởng hay gặp cảnh giới kỳ lạ th́ phóng tâm theo nên dễ bị điên.
- Tránh những cuộc đàm luận không ích lợi (hư luận). Xưa kia đức Phật có dạy: "Này các Tỳ Khưu, khi gặp nhau, các thầy có hai việc nên làm: một là nói về Phật Pháp, hai là giữ sự im lặng". Ngay cả về sự hành thiền này cũng vậy, có ai hỏi mới nói, không hỏi th́ thôi. Hành giả luôn giữ tâm vắng lặng để ghi nhận sự vật.


Những điều cần biết
Trong khi tọa thiền, nếu có những trở ngại về phần thể xác (sắc), hành giả có thể nhận biết dễ dàng, nhưng về phần tâm thức (danh) th́ hành giả cẩn thận để ư những điều sau :
- Khi có những ư nghĩ khởi lên tới tấp, hành giả phải giác tỉnh nhận diện ra liền, nếu không thế th́ hành giả có thể trở nên khổ sở, khó chịu về chúng.
- Có nhiều hành giả cố gắng bắt tâm ngưng suy nghĩ, để đầu trống rỗng, sau một thời gian sẽ rơi vào hai trạng thái hôn trầm:
* ngủ gục hay ngủ ngồi, thân tuy c̣n ngồi đó mà chẳng khác ǵ người ngủ trên giường.
* mơ mơ màng màng, không tỉnh hẳn, cũng không ngủ hẳn (vô kư), thân th́ không c̣n cảm giác, tâm th́ không khởi ư nghĩ, như ngưng hoại động, cùng lúc hành giả cũng không c̣n niệm, không c̣n ư thức được ḿnh đang làm ǵ, quên niệm thân, niệm hơi thở, niệm "phồng xẹp", niệm tâm... Nếu hành giả nào mà trụ ở trạng thái này lâu th́ chỉ mất th́ giờ ngồi thiền, không lợi ích ǵ cả, v́ trí huệ không phát sanh, cùng lúc tâm ngưng làm việc, có thể làm nhân đời sau sanh ra làm súc sanh...
- Có hành giả sau một thời gian tu tập quán niệm hơi thở, dần đà thân tâm trở nên yên tịnh, rồi cảm thấy an lạc và trụ ở đó, quên đi việc niệm và ghi nhận. Đó là hành giả đang đi vào Thiền Định hay Thiền Chỉ (Samatha). Hơn 90% người tu thiền, sau khi điều phục được hôn trầm và loạn tưởng đều rơi vào một trạng thái an lạc, rồi cố gắng kéo dài sự nhập định (từ hai ba tiếng đồng hồ cho tới một ngày hoặc hơn nữa) để hưởng an lạc. Khi đến trạng thái an lạc này, cần phải đi t́m thầy hoặc thiện tri thức, tŕnh chỗ sơ đắc của ḿnh để được chỉ dẫn thêm.
Tứ Niệm Xứ thuộc về Thiền Tuệ hay Thiền Minh Sát (Vipassanà-Bhàvanà). Chỉ có Thiền Tuệ mới làm phát sinh trí tuệ, giúp cho hành giả thấy rơ được thực tướng của vạn hữu, diệt trừ tận gốc của vô minh và ái luyến, đưa đến giải thoát. C̣n Thiền Định (Samatha) chỉ đưa hành giả đến những cơn định (Samàdhi) trong đó hành giả hưởng sự an lạc nhất thời, không tạo thêm nghiệp mới, nhưng trí huệ không phát triển, và những phiền năo gốc vẫn c̣n nguyên chưa diệt trừ, do đó không thể đưa đến giải thoát.
Chú thích:
[1] Sự kéo dài chữ Hít và Thở ở đây là do kinh nghiệm cá nhân của tác giả chứ không phải từ truyền thống Thiền Minh Sát
[2] pháp quán niệm sự phồng xẹp của bụng đúng ra không có trong Kinh Niệm Xứ, nó được Đại lăo thiền sư Miến Điện Mahasi Sayadaw phát minh và ngày nay trở thành một pháp tu phổ biến cho Thiền Minh Sát
[3] Trích "Trung Hoa chư Thiền Đức Hành Trạng". HT Thanh Từ
[4] xin xem "Vô Ngă". Thích Trí Siêu


Kết luận
Pháp hành Thiền Tứ Niệm Xứ Minh Sát Tuệ (Satipatthàna-Vipassanà) bao hàm việc thành tựu tri kiến bằng cách quan sát trực tiếp, thấy sự vật đúng theo thực tướng của nó (yathàbhutam). Tri kiến này vượt ra ngoài mọi lư luận hay suy tưởng có được do trí thức, và tiến đến những chứng nghiệm thật sự về đời sống cùng sự vật liên quan đến thực tại.
Hoàn toàn thấu triệt được thực tướng của vạn pháp như vậy, hoàn toàn nhận thức được bản chất thật sự của ngũ uẩn, hành giả sống an nhiên tự tại, không c̣n bám víu vào bất cứ thư ǵ trên thế gian nữa. Không c̣n phiền năo hệ lụy, đây há chẳng phải mục tiêu của mọi Phật tử t́m cầu giải thoát?


Phụ Lục

Kinh Quán Niệm
(SatipatthanaSutta)
Như vầy, tôi nghe: Một thuở nọ Đức Thế Tôn đang cư trú ở Kammassadhamma, một khu phố của dân Kuru. Lúc bấy giờ ngài gọi chư tăng: "Này các thầy". Chư tăng đáp: "Dạ, thưa Đức Thế Tôn". Phật nói:" Các thầy lắng nghe, có một con đường duy nhất để thanh lọc bản thân, vượt thắng phiền năo, tiêu trừ ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng nhập Niết Bàn, đó là bốn phép quán niệm. Những ǵ là bốn?
Đó là, này các thầy, người hành giả:
1/ Quán niệm thân thể nơi thân thể, tinh chuyên và ư thức rơ ràng về thân thể, làm chủ được mọi tham dục và ưu tư trong cuộc đời.
2/ Quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ, tinh chuyên và ư thức rơ ràng về cảm thọ, làm chủ được mọi tham dục và ưu tư trong cuộc đời.
3/ Quán niệm tâm thức nơi tâm thức, tinh chuyên và ư thức rơ ràng về tâm thức, làm chủ được mọi tham dục và ưu tư trong cuộc đời.
4/ Quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức, ư thức rơ ràng về đối tượng tâm thức, làm chủ được mọi tham dục và ưu tư trong cuộc đời.
* * *
Này các thầy, người hành giả quán niệm thân thể nơi thân thể bằng cách nào?
Người ấy đến một khu rừng hoặc một gốc cây, hoặc một nơi thanh vắng, ngồi xuống theo tư thế kiết già, giữ lưng ngay thẳng và đặt ḿnh trong sự quán niệm. Thở vào người ấy ư thức rơ ràng ḿnh đang thở vào, thở ra người ấy ư thức ḿnh đang thở ra. Hoặc khi thở vào một hơi dài, người ấy ư thức: "Tôi đang thở vào một hơi dài". Khi thở ra một hơi dài, người ấy ư thức: "Tôi đang thở ra một hơi dài". Hoặc khi thở vào một hơi ngắn, người ấy ư thức: "Tôi đang thở vào một hơi ngắn". Khi thở ra một hơi ngắn, người ấy ư thức: "Tôi đang thở ra một hơi ngắn". Người ấy tự ḿnh tập luyện như sau: "Tôi sẽ thở vào và cảm nghiệm toàn thân". "Tôi sẽ thở ra và cảm nghiệm toàn thân". "Tôi sẽ thở vào và làm lắng dịu sự điều hành trong thân thể". "Tôi sẽ thở ra và làm lắng dịu sự điều hành trong thân thể".
Cũng như khi xoay một ṿng dài, một người thợ tiện khéo tay ư thức rằng ḿnh đang xoay một ṿng dài; hoặc khi xoay một ṿng ngắn, ư thức rằng ḿnh đang xoay một ṿng ngắn. Cũng vậy, người hành giả khi thở vào một hơi dài ư thức rằng ḿnh đang thở vào một hơi dài; khi thở ra một hơi ngắn ư thức rằng ḿnh đang thở ra một hơi ngắn. Người ấy tự ḿnh tập luyện như sau: "Tôi sẽ thở vào và cảm nghiệm toàn thân... Tôi sẽ thở ra và làm lắng dịu sự điều hành trong thân thể".
Cứ như thế, hành giả sống trong sự thường trực quán niệm thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc cả bên trong lẫn bên ngoài thân thể. Hoặc quán niệm quá tŕnh sinh khởi nơi thân thể, hoặc quá tŕnh hủy diệt nơi thân thể, hoặc quá tŕnh sinh khởi lẫn quá tŕnh hủy diệt. Hoặc quán niệm: "Có thân thể đây" đủ để quán chiếu và ư thức được sự có mặt của thân thể, và như vậy người ấy sống một cách tự do không bám víu vào bất cứ thứ ǵ trong cuộc đời. Cứ như thế mà người hành giả quán niệm thân thể nơi thân thể.
Lại nữa, này các thầy, khi đi, hành giả cũng ư thức rằng ḿnh đang đi; khi đứng, ư thức rằng ḿnh đang đứng; khi ngồi, ư thức rằng ḿnh đang ngồi; khi nằm, ư thức rằng ḿnh đang nằm. Bất cứ thân thể ḿnh đang được xử dụng trong tư thế nào, hành giả cũng ư thức được về tư thế ấy.
Cứ như thế, hành giả sống trong sự thường trực quán niệm thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc cả bên trong lẫn bên ngoài thân thể. Hoặc quán niệm quá tŕnh sinh khởi nơi thân thể, hoặc quá tŕnh hủy diệt nơi thân thể, hoặc quá tŕnh sinh khởi lẫn quá tŕnh hủy diệt. Hoặc quán niệm: "Có thân thể đây" đủ để quán chiếu và ư thức được sự có mặt của thân thể, và như vậy người ấy sống một cách tự do không bám víu vào bất cứ thứ ǵ trong cuộc đời. Cứ như thế mà hành giả quán niệm thân thể nơi thân thể.
Lại nữa, khi đi tới hoặc đi lui, hành giả cũng ư thức rơ ràng về việc ấy; khi nh́n trước hay nh́n sau...khi cúi xuống hoặc vươn lên... khi mặc áo, mang y bát...khi ăn, uống, nhai, nếm thức ăn...khi đi đại tiện hay tiểu tiện...khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói năng hoặc im lặng, hành giả cũng đều ư thức rơ ràng về mỗi việc.
Cứ như thế, hành giả sống ... quán niệm thân thể nơi thân thể.
Lại nữa, hành giả quán niệm rơ ràng về chính thân thể này, bao bọc trong một lớp da và chứa đầy loại bất tịnh, từ gót chân trở lên và từ đỉnh đầu trở xuống, có nào là: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, bao tử, phân, mật, đờm, máu, mủ, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước bọt, nước ở khớp xương, nước tiểu.
Ví như có một bao tải đựng đủ nhiều loại ngũ cốc, như gạo lứt, gạo hẻo rằng, đậu xanh, đậu ngự, mè, gạo trắng và hai đầu bao tải có thể mở ra. Một người có mắt tốt, khi mở bao ra, thấy rơ mọi loại hạt đựng trong bao: đây là gạo lứt, gạo hẻo rằng, đậu xanh, đậu ngự, mè, gạo trắng. Cũng như thế, khi quán sát về chính thân thể ḿnh, hành giả thấy được mọi thứ từ gót chân lên đỉnh đầu và từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, bao bọc trong một lớp da và chứa đầy loại bất tịnh: thuộc về thân thể này, có nào là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, bao tử, phân, mật, đờm, máu, mủ, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước bọt, nước ở khớp xương, nước tiểu.
Cứ như thế, hành giả sống ... quán niệm thân thể nơi thân thể.
Lại nữa, trong bất cứ tư thế nào của thân thể này, hành giả cũng quán chiếu về những yếu tố tạo nên thân thể: "Trong thân thể này có yếu tố rắn chắc, yếu tố lưu nhuận, yếu tố viêm nhiệt và yếu tố chuyển động". Như một người đồ tể rành nghề giết một con ḅ, ngồi giữa ngă tư mà xẻ con ḅ ra thành nhiều phần, hành giả cũng vậy, trong bất cứ tư thế nào của thân thể này, cũng quán chiếu những yếu tố tạo nên thân thể: "Trong thân thể này có yếu tố rắn chắc, yếu tố lưu nhuận, yếu tố viêm nhiệt và yếu tố chuyển động".
Cứ như thế, hành giả sống ... quán niệm thân thể nơi thân thể.
Lại ví như khi thấy một xác chết, bị liệng bỏ vào băi tha ma đă được một ngày, hai ngày hay ba ngày, śnh lên, thâm tím, thối rữa, hành giả liền quán chiếu về thân thể ḿnh: "Chính thân thể ta đây cũng vậy, sẽ trở thành như thế, không có lối nào tránh thoát".
Cứ như thế, hành giả sống ... quán niệm thân thể nơi thân thể.
Rồi như thấy một xác chết bị liệng bỏ trong băi tha ma, bị quạ rỉa hoặc diều hâu, kên kên, hoặc chó sói rừng ăn và các loài ḍi bọ rúc rỉa, hành giả liền quán chiếu về thân thể ḿnh: "Chính thân thể ta đây cũng vậy, sẽ trở thành như thế, không có lối nào tránh thoát".
Cứ như thế hành giả sống ... quán niệm thân thể nơi thân thể.
Rồi như thấy một xác chết bị liệng bỏ trong băi tha ma, chỉ c̣n là một bộ xương dính ít thịt và máu, c̣n nối liền nhau nhờ gân cốt; ... hoặc không c̣n thịt nhưng c̣n dính chút máu; ... hoặc không c̣n chút thịt và chút máu nào; ... hoặc các khúc xương bị vứt rời rạc đó đây, không c̣n dính liền nhau nữa, chỗ này là xương tay, chỗ kia là xương bàn chân, chỗ này là xương cẳng, chỗ kia là xương mông, đây là xương sống, kia là đầu lâu, hành giả liền quán chiếu về thân thể ḿnh...
Cứ như thế hành giả sống ... quán niệm thân thể nơi thân thể.
Rồi như thấy một xác chết bị liệng bỏ trong băi tha ma, chỉ c̣n lại một mớ xương trắng màu vỏ ốc... một mớ xương khô đă hơn một năm ... một mớ xương mục tan thành bụi, hành giả liền quán chiếu về thân thể ḿnh ...
Cứ như thế hành giả sống ... quán niệm thân thể nơi thân thể.
* * *
Này các thầy, người hành giả quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ bằng cách nào?
Mỗi khi có một cảm thọ khoái lạc, hành giả ư thức rằng: "Ta đang có một cảm thọ khoái lạc". Mỗi khi có một cảm thọ khổ đau, hành giả ư thức rằng: "Ta đang có một cảm thọ khổ đau". Mỗi khi có một cảm thọ không khoái lạc cũng không khổ đau, hành giả ư thức rằng: "Ta đang có một cảm thọ không khoái lạc cũng không khổ đau". Khi có một cảm thọ khoái lạc vật chất, hành giả ư thức rằng ḿnh đang có một cảm thọ khoái lạc vật chất. Khi có một cảm thọ khoái lạc tinh thần, hành giả ư thức rằng ḿnh đang có một cảm thọ khoái lạc tinh thần. Khi có một cảm thọ khổ đau vật chất ... một cảm thọ khổ đau tinh thần, hành giả ư thức rằng ḿnh đang có một cảm thọ khổ đau vật chất ... một cảm thọ khổ đau tinh thần. Khi có một cảm thọ vật chất ... một cảm thọ tinh thần không khoái lạc cũng không khổ đau, hành giả ư thức rằng ḿnh có một cảm thọ vật chất ... một cảm thọ tinh thần không khoái lạc cũng không khổ đau.
Cứ như thế hành giả sống trong sự thường trực quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ, hoặc bên trong hoặc bên ngoài, hoặc cả bên trong lẫn bên ngoài cảm thọ. Hoặc quán niệm quá tŕnh sinh khởi của cảm thọ, hoặc quá tŕnh hủy diệt của cảm thọ, hoặc quá tŕnh sinh khởi lẫn quá tŕnh hủy diệt. Hoặc quán niệm: "Có cảm thọ đây" đủ để quán chiếu và ư thức được sự có mặt của cảm thọ, và như vậy người ấy sống một cách tự do, không bám víu vào bất cứ thứ ǵ trong cuộc đời. Cứ như thế mà hành giả quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ.
* * *
Này các thầy, hành giả quán niệm tâm thức nơi tâm thức bằng cách nào?
Mỗi khi tâm thức có tham dục, hành giả ư thức là tâm thức ḿnh có tham dục. Khi không có tham dục, hành giả ư thức là tâm thức ḿnh không có tham dục. Mỗi khi tâm thức có sân hận, hành giả ư thức là tâm thức ḿnh có sân hận. Khi tâm thức không có sân hận, hành giả ư thức là tâm thức ḿnh không có sân hận. Mỗi khi tâm thức có si mê, hành giả ư thức là tâm thức ḿnh có si mê. Khi không có si mê, hành giả ư thức là tâm thức ḿnh không có si mê. Mỗi khi tâm thức có thu nhiếp ... là tâm thức ḿnh có thu nhiếp. Khi tâm thức đang tán loạn ... là tâm thức ḿnh đang tán loạn. Mỗi khi tâm thức trở thành rộng lớn ... là tâm thức ḿnh trở thành rộng lớn. Mỗi khi tâm thức trở thành hạn hẹp ... là tâm thức ḿnh trở thành hạn hẹp. Mỗi khi tâm thức đạt đến trạng thái cao nhất ... là tâm thức ḿnh đạt đến trạng thái cao nhất. Khi không đạt đến trạng thái cao nhất ... là tâm thức ḿnh không đạt đến trạng thái cao nhất. Mỗi khi tâm thức có định ... là tâm thức ḿnh có định. Khi không có định ... là tâm thức ḿnh không có định. Mỗi khi tâm thức được giải thoát ... là tâm thức ḿnh được giải thoát. Khi không có giải thoát ... là tâm thức ḿnh không có giải thoát.
Cứ như thế, hành giả sống trong sự thường trực quán niệm tâm thức nơi tâm thức, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc cả bên trong lẫn bên ngoài tâm thức. Hoặc quán niệm quá tŕnh sinh khởi nơi tâm thức, hoặc quá tŕnh hủy diệt nơi tâm thức, hoặc quá tŕnh sinh khởi lẫn quá tŕnh hủy diệt. Hoặc quán niệm: "Có tâm thức đây" đủ để quán chiếu và ư thức được sự có mặt của tâm thức, và như vậy người ấy sống một cách tự do không bám víu vào bất cứ thứ ǵ trong cuộc đời. Cứ như thế mà hành giả quán niệm tâm thức nơi tâm thức.
* * *
Này các thầy, hành giả quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức bằng cách nào?
Trước hết hành giả quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức về năm hiện tượng ngăn che. Quán niệm bằng cách nào?
1. Khi có niệm ái dục, hành giả ư thức rằng ḿnh có ái dục. Khi không có ái dục, hành giả ư thức rằng ḿnh không có ái dục. Khi một niệm ái dục chưa sanh, nay bắt đầu phát sanh, hành giả ư thức được sự phát sanh ấy. Khi một niệm ái dục đă sanh, đang được khử diệt, hành giả ư thức được sự khử diệt ấy. Khi một niệm ái dục đă được khử diệt và không c̣n phát khởi lại nữa, hành giả cũng ư thức được điều đó.
2. Khi có sân hận, hành giả ư thức rằng ḿnh có sân hận. Khi không có sân hận, hành giả ư thức rằng ḿnh không có sân hận. Khi một niệm sân hận chưa sanh, nay bắt đầu phát sanh, hành giả ư thức được sự phát sanh ấy. Khi một niệm sân hận đă sanh, đang được khử diệt, hành giả ư thức được sự khử diệt ấy. Khi một niệm sân hận đă được khử diệt và không c̣n phát khởi lại nữa, hành giả cũng ư thức được điều đó.
3. Khi có mê muội và buồn ngủ, hành giả ư thức rằng ḿnh có mê muội và buồn ngủ....
4. Khi có giao động và bất an, hành giả ư thức rằng ḿnh có giao động và bất an....
5. Khi có nghi ngờ, hành giả ư thức rằng ḿnh có nghi ngờ....
Cứ như thế, hành giả sống trong sự thường trực quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc cả bên trong lẫn bên ngoài đối tượng tâm thức. Hoặc quán niệm quá tŕnh sinh khởi nơi đối tượng tâm thức, hoặc quá tŕnh hủy diệt nơi đối tương tâm thức, hoặc quá tŕnh sinh khởi lẫn quá tŕnh hủy diệt. Hoặc quán niệm: "Có đối tượng tâm thức đây" đủ để quán chiếu và ư thức được sự có mặt của đối tượng tâm thức, và như vậy người ấy sống một cách tự do không bám víu vào bất cứ thứ ǵ trong cuộc đời. Cứ như thế mà hành giả quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức về năm hiện tượng ngăn che.
* * *
Tiếp theo, hành giả quán niệm về sự bám víu vào năm uẩn, như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức. Quán niệm bằng cách nào?
Hành giả quán niệm như sau: "Đây là h́nh sắc vật chất, đây là sự phát sinh của h́nh sắc vật chất, và đây là sự hủy diệt của h́nh sắc vật chất. Đây là cảm thọ, đây là sự phát sinh của cảm thọ, và đây là sự hủy diệt của cảm thọ. Đây là tri giác, đây là sự phát sinh của tri giác, và đây là sự hủy diệt của tri giác. Đây là dẫn lực (hành), đây là sự phát sinh của dẫn lực, và đây là sự hủy diệt của dẫn lực. Đây là ư thức, đây là sự phát sinh của ư thức, và đây là sự hủy diệt của ư thức.
Cứ như thế hành giả sống ... quán niệm về sự bám víu vào năm uẩn.
* * *
Tiếp theo, hành giả quán niệm về sáu giác quan và sáu loại đối tượng, như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức. Quán niệm như thế nào?
Hành giả ư thức về mắt và đối tượng của mắt là h́nh sắc, về sự ràng buộc tạo nên do mắt và h́nh sắc. Hành giả ư thức về sự ràng buộc chưa sanh nay đang phát sanh, về sự ràng buộc đă phát sanh nay đang được khử diệt, về sự ràng buộc đă được khử diệt và không c̣n tái phát lại nữa.
Hành giả ư thức về tai và âm thanh, ... ư thức về mũi và mùi hương, ... ư thức về lưỡi và vị nếm, ... ư thức về thân và sự xúc chạm, ... ư thức về ư và tư tưởng...
Cứ như thế hành giả sống ... quán niệm về sáu giác quan và sáu loại đối tượng.
* * *
Tiếp theo, hành giả quán niệm về bảy yếu tố của sự giác ngộ, như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức. Quán niệm như thế nào?
1. Khi có yếu tố chánh niệm, hành giả ư thức là ḿnh có chánh niệm; khi không có chánh niệm, hành giả ư thức là ḿnh không có chánh niệm. Hành giả có ư thức về một chánh niệm chưa sanh nay đang phát sanh, một chánh niệm đă phát sanh nay đang thành tựu.
2. Khi có yếu tố trạch pháp, hành giả ư thức là ḿnh có trạch pháp ...
3. Khi có yếu tố tinh tấn, hành giả ư thức là ḿnh có tinh tấn ...
4. Khi có yếu tố hoan hỷ, hành giả ư thức là ḿnh có hoan hỷ...
5. Khi có yếu tố khinh an, hành giả ư thức là ḿnh có khinh an ...
6. Khi có yếu tố định, hành giả ư thức là ḿnh có định ...
7. Khi có yếu tố hành xả, hành giả ư thức là ḿnh có hành xả ...
Cứ như thế, hành giả sống ... quán niệm về bảy yếu tố của sự giác ngộ.
* * *
Tiếp theo, hành giả quán niệm về bốn sự thật cao quư như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức. Quán niệm như thế nào?
Khi sự kiện là khổ đau, hành giả quán niệm: "Đây là khổ đau". Khi sự kiện là nguyên nhân đưa đến khổ đau, hành giả quán niệm: "Đây là nguyên nhân đưa đến khổ đau". Khi sự kiện là sự chấm dứt khổ đau, hành giả quán niệm: "Đây là sự chấm dứt khổ đau". Khi sự kiện là con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau, hành giả quán niệm: "Đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau".
Cứ như thế, hành giả sống trong sự thường trực quán niệm về bốn sự thật cao quư như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức, hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài đối tượng. Hoặc quán niệm quá tŕnh sinh khởi nơi đối tượng tâm thức, hoặc quá tŕnh hủy diệt nơi tâm thức, hoặc quá tŕnh sinh khởi lẫn quá tŕnh hủy diệt. Hoặc quán niệm: "Có đối tượng tâm thức đây" đủ để quán chiếu và ư thức được sự có mặt của đối tượng tâm thức, và như vậy người ấy sống một cách tự do không bám víu vào bất cứ thứ ǵ trong cuộc đời. Cứ như thế mà hành giả quán niệm về bốn sự thật cao quư như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.
* * *
Này các thầy, người nào thực hành bốn phép quán niệm như trên trong bảy năm, người ấy có thể đạt được quả vị chánh trí [1] ngay ở đây và trong đời này, hoặc nếu c̣n dư báo th́ cũng đạt được quả vị không c̣n trở lại [2]. Này các thầy, đừng nói ǵ đến bảy năm, người nào thực hành bốn phép quán niệm trên trong sáu năm, hoặc năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm hoặc một năm th́ cũng có thể trông chờ đạt được quả vị chánh trí ngay ở đây và trong đời này. Này các thầy, đừng nói ǵ đến một năm, người nào thực hành bốn phép quán niệm trên trong bảy tháng, hoặc sáu tháng, năm tháng, bốn tháng, ba tháng, hai tháng, một tháng, hoặc nửa tháng th́ cũng có thể trông chờ đạt được quả vị chánh trí ...
Này các thầy, đừng nói ǵ đến nửa tháng, người nào thực hành bốn phép quán niệm trên trong một tuần, người ấy cũng có thể trông chờ đạt được quả vị chánh trí ngay ở đây và trong đời này, hoặc nếu c̣n dư báo th́ cũng đạt được quả vị không c̣n trở lại.
* * *
Chính v́ lư do đó mà tôi đă nói: "Có một con đường duy nhất để thanh lọc bản thân, vượt thắng phiền năo, tiêu diệt khổ ưu, đạt tới chánh đạo, chứng nhập Niết Bàn, đó là con đường của bốn phép quán niệm". Đức Thế Tôn nói xong, chư tăng hoan hỷ ghi nhận và làm theo lời ngài.
Chú thích:
[1] Chánh trí có nghĩa là A La Hán
[2] Quả Thánh thứ ba, Băt Lai (A Na Hàm).


Vài nét về tác giả
Thích Trí Siêu (Hoàng Quốc Bảo) sinh năm 1962 tại Sài G̣n. Năm 1985 nhập chúng tu học tại Tự-Viện Linh-Sơn, tỉnh Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987 thọ Cụ túc giới với Ḥa Thượng Thích Huyền-Vi.
Mặc dù xuất thân từ Đại Thừa, Thầy vẫn thích tầm sư học đạo, không ngần ngại du phương tham vấn học hỏi với các thầy thuộc nhiều truyền thống khác như: Nguyên Thủy, Zen, và Kim Cang thừa Tây Tạng.
Để chia xẻ kinh nghiệm và kiến thức của ḿnh, thầy đă viết và dịch:
Thiền Tứ Niệm Xứ (1987)
Bố Thí Ba La Mật (1988)
Đại Thủ Ần (1989)
Vô Ngă (1990)
Bồ Tát Hạnh (1990)
Xin Cứu Độ Mẹ Đất (1993)
Đạo Ǵ? (1996)
Góp Nhặt (1997)


 
Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc
 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0