Phẩm Ly Thế Gian
Thứ ba mươi tám
Bấy giờ đức Thế-Tôn ở nước Ma-Kiệt-Đề trong đạo-tràng Bồ-Đề A-Lan-Nhă điện
Phổ-Quang-Minh, ngồi ṭa Liên-Hoa-Tạng Sư-Tử diệu ngộ viên-măn, tuyệt hẳn hai
hạnh, đạt pháp vô-tướng, an trụ nơi chỗ trụ của Phật, được phật b́nh-đẳng, đến
chỗ không chướng ngại pháp chẳng thể chuyển, chỗ làm vô-ngại lập bất-tư-ngh́,
thấy khắp tam-thế, thân hằng đầy khắp tất cả quốc độ, trí hằng sáng thấu tất cả
pháp, rơ tất cả hạnh, hết tất cả nghi, thân không thể lường, trí đồng với chỗ
cầu của tất cả Bồ-Tát, đến bỉ-ngạn rốt ráo không hai của Phật, đầy đủ b́nh-đẳng
giải-thoát của Như-Lai, chứng bực Phật b́nh-đẳng không trung biên, tột nơi
pháp-giới, khắp hư-không-giới, cùng bất-khả-thuyết trăm ngàn na-do-tha phật-sát
vi-trần-số đại Bồ-Tát câu hội.
Chư
đại Bồ-Tát nầy đều là bực một đời sẽ được vô-thượng bồ-đề, đều từ những cơi
nước phương khác mà đồng đến tập họp, đều đủ Bồ-Tát phương-tiện trí-huệ: những
là khéo hay quán-sát tất cả chúng-sanh, dùng sức phương-tiện khiến họ điều-phục
trụ nơi pháp Bồ-Tát. Khéo hay quan-sát tất cả thế-giới, dùng sức phương-tiện
đều khắp qua đến. Khéo hay quán-sát cảnh-giới niết-bàn, tư duy suy lường ĺa
hẳn tất cả hí-luận phân-biệt mà tu diệu-hạnh không có gián-đoạn. Khéo hay nhiếp
thọ tất cả chúng-sanh. Khéo vào vô-lượng pháp phương-tiện. Biết các chúng-sanh
rỗng không chẳng có mà chẳng hoại nghiệp quả. Khéo biết tâm sử, chư căn,
cảnh-giới, phương-tiện các loại sai-biệt của chúng-sanh. Đều hay thọ-tŕ tam-thế
phật-pháp, tự được hiểu rơ lại v́ người giải-thuyết. Đều khéo an-trụ nơi
vô-lượng pháp thế và xuất-thế, biết tánh chơn-thiệt của tất cả pháp. Nơi tất cả
pháp hữu-vi vô-vi
đều khéo quán-sát biết không có hai. Ở trong một niệm đều có thể chứng được
trí-huệ của tam-thế chư Phật. Ở trong mỗi niệm đều hay thị-hiện thành
đẳng-chánh-giác, làm cho tất cả chúng-sanh phát tâm thành-đạo. Nơi cảnh
sở-duyên của một chúng-sanh đều biết cảnh-giới của tất cả chúng-sanh. Dầu nhập
Như-Lai nhứt-thiết-trí-địa mà chẳng bỏ hạnh bồ-tát, cũng chẳng bỏ sự nghiệp,
trí-huệ, phương-tiện của Bồ-Tát, mà vẫn không sở-tác. V́ mỗi mỗi chúng-sanh trụ
vô-lượng kiếp, mà trong vô-số kiếp khó gặp được. Chuyển chánh pháp-luân, điều
phục chúng-sanh đều không bỏ luống. Hạnh nguyện thanh-tịnh của tam-thế chư Phật
đều đă đầy đủ.
Thành
tựu vô-lượng công-đức như vậy. Tất cả Như-Lai trong vô-biên kiếp nói chẳng hết
được.
Tên của các ngài
là:
Phổ-Hiền Bồ-Tát,
Phỗ-Nhăn Bồ-Tát, Phổ-Hóa Bồ-Tát, Phổ-Huệ Bồ-Tát, Phổ-Kiến Bồ-Tát, Phổ-Quang
Bồ-Tát, Phổ-Quán Bồ-Tát, Phổ-Chiếu Bồ-Tát, Phổ-Tràng Bồ-Tát, Phổ-Giác Bồ-Tát.
Mười
bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha phật-sát vi-trần-số chư đại Bồ-Tát như
vậy, thảy đều thành-tựu hạnh nguyện Phổ-Hiền, thâm tâm đại-nguyện đều đă
viên-măn. Chỗ của tất cả chư Phật xuất thế đều có thể qua đến thỉnh chuyển
pháp-luân. Khéo hay thọ-tŕ pháp-nhăn của chư Phật. Chẳng dứt chủng-tánh của
tất cả chư Phật. Khéo biết tất cả chư Phật ra đời, thứ đệ thọ kư danh-hiệu,
quốc-độ, thành Phật chuyển pháp-luân. Thế-giới không Phật hiện thân thành Phật.
Hay khiến chúng-sanh tạp nhiễm đều được thanh-tịnh. Hay diệt tất cả
nghiệp-chướng của Bồ-Tát, vào nơi pháp-giới thanh-tịnh vô-ngại.
Bấy giờ Phổ-Hiền
đại Bồ-Tát nhập quảng đại tam-muội tên là phật-hoa-trang-nghiêm.
Lúc Bồ-Tát nhập
tam-muội nầy, tất cả thế-giới mười phương chấn động sáu cách mười tám tướng,
pháp âm-thanh lớn không đâu chẳng nghe. Sau đó Bồ-Tát mới từ tam-muội xuất
định.
Bấy giờ Phổ-Huệ
Bồ-Tát biết đại-chúng đă vân tập, hỏi Phổ-Hiền Bồ-Tát rằng:
Thưa Phật-tử !
Xin ngài diễn thuyết:
Những ǵ là
y-chỉ của đại Bồ-Tát ? Những ǵ là kỳ-đặc-tưởng ? Những ǵ là hạnh ? Những ǵ
là thiện-tri-thức ? Những ǵ là siêng tinh-tấn ? Những ǵ là tâm được an-ổn ?
Những ǵ là thành-tựu chúng-sanh? Những ǵ là giới ? Những ǵ là tự biết thọ kư
? Những ǵ là nhập Bồ-Tát ? Những ǵ là nhập Như-Lai ? Những ǵ là nhập tâm
hành của chúng-sanh ? Những ǵ là nhập thế-giới ? Những ǵ là nhập kiếp ? Những
ǵ là nói tam-thế ? Những ǵ là biết tam-thế ? Những ǵ là phát tâm không mỏi
nhàm ? Những ǵ là trí sai-biệt ? Những ǵ là đà-la-ni ? Những ǵ là diễn
thuyết Phật ? Những ǵ là phát tâm Phổ-Hiền ? Những ǵ là Phổ-Hiền hạnh pháp ?
Do những cớ ǵ mà sanh ḷng đại-bi? Những ǵ là nhơn-duyên phát bồ-đề tâm ? Những
ǵ là sanh tâm tôn trọng đối với thiện-tri-thức ? Những ǵ là thanh-tịnh ?
Những ǵ là các ba-la-mật ? Những ǵ là trí tùy giác ? Những ǵ là chứng tri ?
Những ǵ là lực ? Những ǵ là b́nh-đẳng ? Những ǵ là phật-pháp thiệt-nghĩa cú
? Những ǵ là thuyết-pháp ? Những ǵ là tŕ ? Những ǵ là biện-tài ? Những ǵ
là tự-tại ? Những ǵ là tánh vô trước ? Những ǵ là tâm b́nh-đẳng ? Những ǵ là
xuất sanh trí-huệ ? Những ǵ là biến hóa? Những ǵ là lực-tŕ ? Những ǵ là
được đại hân-ủy ? Những ǵ là thâm nhập phật-pháp ? Những ǵ là y-chỉ ? Những
ǵ là phát tâm vô-úy ? Những ǵ là phát tâm không nghi hoặc ? Những ǵ là
bất-tư-ngh́ ? Những ǵ là xảo-mật-ngữ ? Những ǵ là xảo phân-biệt trí ? Những
ǵ là nhập tam-muội ? Những ǵ là biến nhập ? Những ǵ là môn giải-thoát ?
Những ǵ là thần-thông ? Những ǵ là minh ? Những ǵ là giải thoát ? Những ǵ
là viên-lâm ? Những ǵ là cung-điện ? Những ǵ là sở-nhạo ? Những ǵ là
trang-nghiêm ? Những ǵ là phát tâm bất-động ? Những ǵ là chẳng bỏ tâm thâm
đại ? Những ǵ là quán-sát ? Những ǵ là thuyết pháp ? Những ǵ là thanh-tịnh ?
Những ǵ là ấn ? Những ǵ là trí-quang-chiếu? Những ǵ là vô-đẳng-trụ ? Những
ǵ là tâm không hạ liệt? Những ǵ là tâm tăng thượng như núi ? Những ǵ là trí
như biển nhập vô-thượng bồ-đề ? Những ǵ là như-thiệt-trụ ? Những ǵ là phát
tâm đại-thừa thệ nguyện như kim-cang ? Những ǵ là đại phát khởi ? Những ǵ là
cứu-cánh đại-sự ? Những ǵ là bất-hoại-tín ? Những ǵ là thọ-kư ? Những ǵ là
thiện-căn hồi-hướng ? Những ǵ là được trí-huệ ? Những ǵ là phát tâm vô-biên
quảng-đại ? Những ǵ là phục-tạng ? Những ǵ là luật-nghi ? Những ǵ là tự-tại
? Những ǵ là vô-ngại dụng ? Những ǵ là chúng-sanh vô-ngại dụng ? Những ǵ là
quốc-độ vô-ngại dụng ? Những ǵ là pháp vô-ngại dụng ? Những ǵ là thân vô-ngại
dụng ? Những ǵ là nguyện vô-ngại dụng ? Những ǵ là cảnh-giới vô-ngại dụng ?
Những ǵ là trí vô-ngại dụng ? Những ǵ là thần-thông vô-ngại dụng ? Những ǵ
là thần-lực vô-ngại dụng ? Những ǵ là lực vô-ngại dụng ? Những ǵ là du-hí ?
Những ǵ là cảnh-giới ? Những ǵ là lực ? Những ǵ là vô-úy ? Những ǵ là pháp
bất-cộng ? Những ǵ là nghiệp ? Những ǵ là thân ? Những ǵ là thân-nghiệp ?
Những ǵ là ngữ ? Những ǵ là tịnh tu ngữ-nghiệp ? Những ǵ là được thủ hộ ?
Những ǵ là thành xong việc lớn ? Những ǵ là tâm ? Những ǵ là phát tâm ?
Những ǵ là tâm châu-biến ? Những ǵ là chư căn ? Những ǵ là thân tâm ? Những
ǵ là thâm-tâm tăng thượng ? Những ǵ là siêng tu ? Những ǵ là quyết định giải
? Những ǵ là quyết định giải nhập thế-giới? Những ǵ là quyết định giải nhập
chúng-sanh-giới ? Những ǵ là tập-khí? Những ǵ là thủ ? Những ǵ là tu ? Những
ǵ là thành tựu phật-pháp ? Những ǵ là thối thất phật-pháp-đạo ? Những ǵ là
ly-sanh-đạo ? Những ǵ là quyết-định-pháp ? Những ǵ là xuất sanh phật-pháp-đạo
? Những ǵ là đại-trượng-phu danh-hiệu ? Những ǵ là đạo ? Những ǵ là
vô-lượng-đạo ? Những ǵ là trợ-đạo ? Những ǵ là tu đạo ? Những ǵ là
trang-nghiêm đạo ? Những ǵ là chưn ? Những ǵ là tay ? Những ǵ là bụng ?
Những ǵ là tạng ? Những ǵ là tâm ? Những ǵ là mặc giáp ? Những ǵ là khí
trượng ? Những ǵ là đầu ? Những ǵ là mắt ? Những ǵ là tai ? Những ǵ là mũi
? Những ǵ là lưỡi ? Những ǵ là thân ? Những ǵ là ư ? Những ǵ là đi ? Những
ǵ là đứng ? Những ǵ là ngồi ? Những ǵ là nằm ? Những ǵ là chỗ sở-trụ ?
Những ǵ là chỗ sở-hành ? Những ǵ là quán sát ? Những ǵ là khắp quán-sát ?
Những ǵ là phấn-tấn ? Những ǵ là sư-tử-hống ? Những ǵ là thanh-tịnh thí ?
Những ǵ là thanh-tịnh giới ? Những ǵ là thanh-tịnh-nhẫn ? Những ǵ là
thanh-tịnh tinh-tấn ? Những ǵ là thanh-tịnh định ? Những ǵ là thanh-tịnh huệ
? Những ǵ là thanh-tịnh từ ? Những ǵ là thanh-tịnh bi ? Những ǵ là
thanh-tịnh hỉ ? Những ǵ là thanh-tịnh xả ? Những ǵ là nghĩa ? Những ǵ là
pháp? Những ǵ là phước-đức trợ-đạo cụ ? Những ǵ là trí-huệ trợ-đạo cụ ? Những
ǵ là minh-túc ? Những ǵ là cầu pháp ? Những ǵ là minh-liễu pháp ? Những ǵ
là tu hành pháp? Những ǵ là ma ? Những ǵ là ma-nghiệp ? Những ǵ là bỏ rời
ma-nghiệp ? Những ǵ là thấy Phật ? Những ǵ là phật-nghiệp ? Những ǵ là mạn-nghiệp
? Những ǵ là trí-nghiệp ? Những ǵ là ma nhiếp tŕ ? Những ǵ là Phật
nhiếp-tŕ ? Những ǵ là pháp nhiếp-tŕ ? Những ǵ là công-nghiệp trụ
Đâu-Suất-thiên ? Cớ ǵ nơi Đâu-Suất-Thiên-Cung mất? Cớ ǵ hiện ở thai ? Những
ǵ là hiện vi-tế-thú ? Cớ ǵ hiện sơ-sanh ? Cớ ǵ hiện vi-tiếu ? Cớ ǵ hiện đi
bảy bước ? Cớ ǵ hiện đồng-tử ? Cớ ǵ hiện ở nội-cung ? Cớ ǵ hiện xuất-gia ?
Cớ ǵ hiện khổ-hạnh ? Qua đến đạo-tràng thế nào? Ngồi đạo-tràng thế nào ? Những
ǵ là tướng kỳ-đặc khi ngồi đạo-tràng ? Cớ ǵ hiện hàng ma ? Những ǵ thành
Như-Lai lực? Chuyển pháp-luân thế nào ? Cớ ǵ nhơn chuyển pháp-luân được pháp
bạch tịnh ? Cớ ǵ đức Như-Lai Đẳng-Chánh-Giác hiện nhập niết-bàn ?
Lành thay
Phật-tử ! Những pháp như vậy xin ngài diễn nói cho.
Bấy giờ Phổ-Hiền
Bồ-Tát bảo Phổ-Huệ và chư Bồ-Tát rằng :
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười chỗ y-chỉ :
Dùng bồ-đề tâm
làm y-chỉ, v́ hằng chẳng quên mất.
Dùng
thiện-tri-thức làm y-chỉ, v́ ḥa hiệp như một.
Dùng thiện-căn
làm y-chỉ, v́ tu tập tăng-trưởng.
Dùng ba-la-mật
làm y-chỉ, v́ tu hành đầy đủ.
Dùng nhứt-thiết
pháp làm y-chỉ, v́ rốt ráo xuất ly.
Dùng đại-nguyện
làm y-chỉ, v́ tăng-trưởng bồ-đề.
Dùng các hạnh
làm y-chỉ, v́ khắp đều thành-tựu.
Dùng tất cả
Bồ-Tát làm y-chỉ, v́ đồng một trí-huệ.
Dùng cúng-dường
chư Phật làm y-chỉ, v́ tín tâm thanh-tịnh.
Dùng tất cả
Như-Lai làm y-chỉ, v́ như từ-phụ dạy răn chẳng dứt.
Nếu chư Bồ-Tát
an trụ nơi pháp y-chỉ nầy thời được là chỗ sở-y đại trí vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ tưởng kỳ-đặc :
Nơi tất cả
thiện-căn tưởng là tự thiện-căn.
Nơi tất cả
thiện-căn tưởng là chủng-tử bồ-đề.
Nơi tất cả
chúng-sanh tưởng là căn-khí bồ-đề.
Nơi tất cả
nguyện tưởng là tự-nguyện.
Nơi tất cả pháp
tưởng xuất ly.
Nơi tất cả hạnh
tưởng là tư-hạnh.
Nơi tất cả pháp
tưởng là phật-pháp.
Nơi tất cả pháp
ngữ ngôn tưởng là đạo ngữ ngôn.
Nơi tất cả Phật
tưởng là từ-phụ.
Nơi tất cả
Như-Lai tưởng không hai.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ nơi mười pháp tưởng nầy thời được tưởng thiện-xảo vô-thượng.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ hạnh :
Tất cả chúng-sanh
hạnh, v́ làm cho khắp được thành-thục.
Tất cả cầu-pháp
hạnh, v́ tu học tất cả.
Tất cả thiện-căn
hạnh, v́ đều khiến tăng trưởng.
Tất cả tam-muội
hạnh, v́ nhứt tâm bất loạn.
Tất cả trí-huệ
hạnh, v́ không chi chẳng biết rơ.
Tất cả tu tập
hạnh, v́ không chi chẳng tu được.
Tất cả phật-sát
hạnh, v́ thảy đều trang-nghiêm.
Tất cả thiện-hữu
hạnh, v́ cung-kính cúng-dường.
Tất cả Như-Lai
hạnh, v́ tôn trọng thừa sự.
Tất cả
thần-thông hạnh, v́ biến-hóa tự-tại.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ nơi mười hạnh nầy thời được hạnh đại trí-huệ vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười bực thiện-tri-thức :
Thiện-tri-thức
khiến an-trụ bồ-đề tâm.
Thiện-tri-thức
khiến sanh thiện-căn.
Thiện-tri-thức
khiến thật hành các môn ba-la-mật.
Thiện-tri-thức
khiến giải-thoát tất cả pháp.
Thiện-tri-thức
khiến thành-thục tất cả chúng-sanh.
Thiện-tri-thức
khiến được quyết định biện-tài.
Thiện-tri-thức
khiến chẳng nhiễm trước tất cả thế-gian.
Thiện-tri-thức
khiến trong tất cả kiếp tu hành không nhàm mỏi.
Thiện-tri-thức
khiến an-trụ hạnh phổ-hiền.
Thiện-tri-thức
khiến nhập nơi trí của chư Phật đă nhập.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười sự siêng tinh-tấn :
Siêng tinh-tấn
giáo-hóa tất cả chúng-sanh.
Siêng tinh-tấn
thâm nhập tất cả pháp.
Siêng tinh-tấn
nghiêm-tịnh tất cả thế-giới.
Siêng tinh-tấn
tu hành tất cả sở-học của Bồ-Tát.
Siêng tinh-tấn
diệt trừ tất cả ác của chúng-sanh.
Siêng tinh-tấn
ngăn dứt tất cả ba ác-đạo khổ.
Siêng tinh-tấn
dẹp phá tất cả quân ma.
Siêng tinh-tấn
nguyện v́ tất cả chúng-sanh làm mắt thanh-tịnh.
Siêng tinh-tấn
cúng-dường tất cả chư Phật.
Siêng tinh-tấn
khiến tất cả Như-Lai đều hoan-hỷ.
Nếu chư Bồ-Tát
an trụ nơi mười pháp siêng tinh-tấn nầy thời được đầy đủ tinh-tấn ba-la-mật
vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ tâm được an-ổn :
Ḿnh trụ bồ-đề
tâm cũng phải khiến người trụ bồ-đề tâm, nên tâm được an-ổn.
Ḿnh rốt ráo rời
giận hờn đấu tranh cũng phải khiến người rời giận hờn đấu tranh, nên tâm được
an-ổn.
Ḿnh rời pháp
phàm ngu cũng khiến người rời pháp phàm ngu, nên tâm được an-ổn.
Ḿnh siêng tu
thiện-căn cũng khiến người siêng tu thiện-căn, nên tâm được an-ổn.
Ḿnh trụ đạo
ba-la-mật cũng khiến người trụ đạo ba-la-mật, nên tâm được an-ổn.
Ḿnh sanh tại
nhà Phật cũng phải khiến người sanh tại nhà Phật, nên tâm được an-ổn.
Ḿnh thâm nhập
pháp chơn-thiệt không tự-tánh cũng khiến người nhập pháp chơn-thiệt không
tự-tánh, nên tâm được an-ổn.
Ḿnh không phỉ
báng tất cả Phật-pháp, cũng khiến người không phỉ báng tất cả phật-pháp, nên
tâm được an-ổn.
Ḿnh viên-măn
nhứt-thiết-trí bồ-đề nguyện cũng khiến người viên-măn nhứt-thiết-trí bồ-đề
nguyện, nên tâm được an-ổn.
Ḿnh thâm nhập
trí-tạng vô-tận của tất cả Như-Lai cũng khiến người nhập trí-tạng vô-tận của
tất cả Như-Lai, nên tâm được an-ổn.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ nơi tâm an-ổn nầy thời được sự an-ổn đại-trí vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười cách thành-tựu chúng sanh:
Dùng bố-thí để
thành-tựu chúng-sanh.
Dùng sắc-thân để
thành-tựu chúng sanh.
Dùng thuyết-pháp
để thành-tựu chúng-sanh.
Dùng đồng hạnh
để thành-tựu chúng-sanh.
Dùng không nhiễm
trước để thành-tựu chúng sanh.
Dùng khai-thị
bồ-tát hạnh để thành-tựu chúng-sanh.
Dùng thị-hiện rơ
ràng tất cả thế-giới để thành-tựu chúng-sanh.
Dùng thị-hiện
oai-đức lớn của phật-pháp để thành-tựu chúng-sanh.
Dùng những
thần-thông biến hiện để thành-tựu chúng-sanh.
Dùng những
phương-tiện vi-mật thiện-xảo để thành-tựu chúng-sanh.
Bồ-Tát dùng mười
pháp nầy để thành-tựu chúng-sanh-giới.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười loại giới :
Giới chẳng bỏ
bồ-đề tâm.
Giới xa ĺa bực
nhị-thừa.
Giới quán-sát
lợi ích tất cả chúng-sanh.
Giới khiến tất
cả chúng-sanh an trụ nơi phật-pháp.
Giới tu tất cả
sở-học của Bồ-Tát.
Giới nơi tất cả
pháp vô-sở-sắc.
Giới đem tất cả
thiện-căn hồi-hướng bồ-đề.
Giới chẳng tham
trước tất cả thân Như-Lai.
Giới tư duy tất
cả pháp ĺa nhiễm trước.
Giới chư căn
luật nghi.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ nơi giới nầy thời được giới quảng-đại ba-la-mật vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp thọ kư, Bồ-Tát do đây mà biết ḿnh thọ-kư:
Dùng ư thù-thắng
phát bồ-đề tâm, tự biết thọ-kư.
Trọn chẳng nhàm
bỏ hạnh bồ-tát, tự biết thọ kư.
Trụ tất cả kiếp
thật hành hạnh bồ-tát, tự biết thọ kư.
Tu tất cả
phật-pháp, tự biết thọ kư.
Nơi tất cả
phật-giáo một bề thâm tín, tự biết thọ kư.
Tu tất cả
thiện-căn đều khiến thành-tựu, tự biết thọ kư.
Đặt tất cả chúng-sanh
nơi phật bồ-đề, tự biết thọ kư.
Với tất cả
thiện-tri-thức ḥa hiệp không hai, tự biết thọ kư.
Nơi tất cả
thiện-tri-thức tưởng là Phật, tự biết thọ kư.
Hằng siêng thủ
hộ bổn-nguyện bồ-đề, tự biết thọ kư.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp nhập Bồ-Tát:
Nhập bổn-nguyện.
Nhập hạnh. Nhập tụ. Nhập ba-la-mật. Nhập thành-tựu. Nhập sai-biệt nguyện. Nhập
các thứ tri giải. Nhập trang-nghiêm phật-độ. Nhập thần-lực tự-tại. Nhập
thị-hiện thọ sanh.
Bồ-Tát dùng mười
pháp nầy nhập khắp tam-thế tất cả Bồ-Tát.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp nhập Như-Lai :
Nhập vô-biên
thành chánh-giác. Nhập vô-biên chuyển pháp-luân. Nhập vô-biên pháp phương-tiện.
Nhập vô-biên âm-thanh sai-biệt. Nhập vô-biên điều-phục chúng sanh. Nhập vô-biên
thần-lực tự-tại. Nhập vô-biên những thân sai-biệt. Nhập vô-biên tam-muội. Nhập
vô-biên lực vô-úy. Nhập vô-biên thị-hiện niết-bàn.
Bồ-Tát dùng mười
pháp nầy nhập khắp tam-thế tất cả Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp nhập chúng-sanh hạnh :
Nhập tất cả
chúng-sanh quá-khứ hạnh.
Nhập tất cả
chúng-sanh vị-lai hạnh.
Nhập tất cả
chúng-sanh hiện-tại hạnh.
Nhập tất cả
chúng-sanh thiện-hạnh.
Nhập tất cả
chúng-sanh bất-thiện-hạnh.
Nhập tất cả
chúng-sanh tâm-hạnh.
Nhập tất cả
chúng-sanh căn-hạnh.
Nhập tất cả
chúng-sanh giải-hạnh.
Nhập tất cả
chúng-sanh phiền-năo tập-khí hạnh.
Nhập tất cả
chúng-sanh giáo-hóa điều-phục thời phi-thời hạnh.
Bồ-Tát dùng pháp
nầy vào khắp hạnh của tất cả chúng-sanh.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười cách nhập thế-giới :
Nhập thế-giới
nhiễm. Nhập thế-giới tịnh. Nhập thế-giới nhỏ. Nhập thế-giới lớn. Nhập thế-giới
trong vi-trần. Nhập thế-giới vi-tế. Nhập thế-giới úp. Nhập thế-giới ngửa. Nhập
thế-giới có Phật. Nhập thế-giới không Phật.
Bồ-Tát dùng đây
vào khắp tất cả thế-giới ở mười phương.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ nhập kiếp :
Nhập kiếp
quá-khứ. Nhập kiếp vị-lai. Nhập kiếp hiện-tại. Nhập kiếp đếm được. Nhập kiếp
không đếm được. Nhập kiếp đếm được tức là kiếp không đếm được. Nhập kiếp không
đếm được tức là kiếp đếm được. Nhập tất cả kiếp tức là phi-kiếp. Nhập phi-kiếp
tức là tất cả kiếp. Nhập tất cả kiếp tức một niệm.
Bồ-Tát dùng pháp
nầy vào khắp tất cả kiếp.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp nói tam-thế :
Quá-khứ thế nói
quá-khứ thế. Quá-khứ thế nói vị-lai thế. Quá-khứ thế nói hiện-tại thế. Vị-lai
thế nói quá khứ thế. Vị-lai thế nói hiện-tại thế. Vị-lai thế nói vô-tận.
Hiện-tại thế nói quá-khứ thế. Hiện-tại thế nói vị-lai thế. Hiện-tại thế nói
b́nh-đẳng. Hiện-tại thế nói tam-thế tức một niệm.
Bồ-Tát dùng pháp
nầy nói khắp tam-thế.
Đại Bồ-Tát có
mười pháp biết tam-thế :
Biết những an
lập. Biết những ngữ ngôn. Biết những luận nghi. Biết những quy tắc. Biết những
xưng tán. Biết những chế lịnh. Biết kia giả-danh. Biết kia vô-tận. Biết kia
tịch-diệt. Biết tất cả không.
Bồ-Tát dùng đây
biết khắp tất cả những pháp tam thế.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát phát mười thứ tâm không mỏi nhọc nhàm chán :
Cúng-dường tất
cả chư Phật tâm không mỏi nhàm.
Gần-gũi tất cả
thiện-tri-thức tâm không mỏi nhàm.
Cầu tất cả pháp
tâm không mỏi nhàm.
Nghe chánh-pháp
tâm không mỏi nhàm.
Tuyên nói
chánh-pháp tâm không mỏi nhàm.
Giáo-hóa
điều-phục tất cả chúng-sanh tâm không mỏi nhàm.
Đặt tất cả
chúng-sanh nơi Phật bồ-đề tâm không mỏi nhàm.
Nơi mỗi mỗi
thế-giới trải qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp thật hành bồ-tát hạnh tâm
không mỏi nhàm.
Du hành tất cả
thế-giới tâm không mỏi nhàm.
Quán-sát tư-duy
tất cả phật-pháp tâm không mỏi nhàm.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời được đại-trí vô-thượng không mỏi nhàm của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ sai-biệt-trí :
Trí sai-biệt biết
chúng-sanh. Trí sai-biệt biết các căn. Trí sai-biệt biết nghiệp báo. Trí
sai-biệt biết thọ sanh. Trí sai-biệt biết thế-giới. Trí sai-biệt biết
pháp-giới. Trí sai-biệt biết chư Phật. Trí sai-biệt biết các pháp. Trí sai-biệt
biết tam-thế. Trí sai-biệt biết tất cả đạo ngữ ngôn.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ nơi pháp nầy thời được trí sai-biệt quảng-đại vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ đà-la-ni :
Văn-tŕ
đà-la-ni, v́ tŕ tất cả pháp chẳng quên mất.
Tu-hành
đà-la-ni, v́ như thiệt khéo quán tất cả pháp.
Tư-duy đà-la-ni,
v́ biết rơ tánh của tất cả pháp.
Pháp quang-minh
đà-la-ni, v́ chiếu bất-tư-ngh́ Phật pháp.
Tam-muội
đà-la-ni, v́ ở khắp chỗ hiện-tại tất cả Phật nghe chánh-pháp tâm chẳng loạn.
Viên-âm
đà-la-ni, v́ hiểu rơ bất-tư-ngh́ âm thanh ngữ ngôn.
Tam-thế
đà-la-ni, v́ diễn nói tam thế những phật-pháp bất-tư-ngh́.
Chủng-chủng
biện-tài đà-la-ni, v́ diễn nói vô-biên những phật-pháp.
Xuất sanh
vô-ngại-nhĩ đà-la-ni, v́ đều có thể nghe được pháp của bất-khả-thuyết chư Phật
đă nói.
Nhứt-thiết-phật-pháp
đà-la-ni, v́ an-trụ nơi lực vô-úy của Như-Lai.
Nếu chư Bồ-Tát
muốn được đà-la-ni nầy phải siêng tu học.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát nói mười Phật :
Thành chánh-giác
Phật. Nguyện Phật. Nghiệp báo Phật. Trụ-tŕ Phật. Niết-bàn Phật. Pháp-giới
Phật. Tâm Phật. Tam-muội Phật. Bổn-tánh Phật. Tùy nhạo Phật.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát phát mười tâm Phổ-Hiền :
Phát tâm đại-từ,
v́ cứu hộ tất cả chúng-sanh.
Phát tâm đại-bi,
v́ chịu khổ thay cho tất cả chúng-sanh.
Phát tâm thí tất
cả, v́ đều xả bỏ tất cả sở-hữu.
Phát tâm nhớ
nhứt-thiết-trí làm trước nhứt, v́ thích cầu tất cả phật-pháp.
Phát tâm
công-đức trang-nghiêm, v́ học tất cả hạnh Bồ-Tát.
Phát tâm như
kim-cang, v́ tất cả chỗ thọ sanh không quên mất.
Phát tâm như
biển, v́ tất cả pháp trắng trong đều chảy vào.
Phát tâm như
Tu-Di sơn, v́ tất cả ác ngôn đều nhẫn thọ.
Phát tâm an-ổn,
v́ ban sự vô-úy cho tất cả chúng-sanh.
Phát tâm bát-nhă
ba-la-mật cứu-cánh, v́ khéo quán sát tất cả pháp vô-sở-hữu.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ tâm nầy thời mau được thành-tựu trí thiện-xảo của Phổ-Hiền.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười Phổ-Hiền hạnh pháp :
Phổ-Hiền hạnh
pháp nguyện trụ tất cả kiếp vị-lai.
Phổ-Hiền hạnh
pháp nguyện cúng-dường cung kính tất cả Phật vị-lai.
Phổ-Hiền hạnh
pháp nguyện an-trí tất cả chúng-sanh nơi hạnh của Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Phổ-Hiền hạnh
pháp nguyện chứa nhóm tất cả thiện căn.
Phổ-Hiền hạnh
pháp nguyện nhập tất cả ba-la-mật.
Phổ-Hiền hạnh
pháp nguyện đầy đủ tất cả Bồ-Tát hạnh.
Phổ-Hiền hạnh
pháp nguyện trang-nghiêm tất cả thế-giới.
Phổ-Hiền hạnh
pháp nguyện sanh tất cả cơi Phật.
Phổ-Hiền hạnh
pháp nguyện khéo quán-sát tất cả pháp.
Phổ-Hiền hạnh
pháp nguyện nơi tất cả Phật quốc-độ thành vô-thượng bồ-đề.
Nếu chư Bồ-Tát
siêng tu pháp nầy thời mau được viên-măn hạnh nguyện Phổ-Hiền.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát dùng mười pháp quán sát chúng-sanh mà khởi đại-bi :
Quán-sát
chúng-sanh không nương không dựa mà khởi đại-bi.
Quán-sát
chúng-sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi đại-bi.
Quán-sát
chúng-sanh nghèo không căn lành mà khởi đại-bi.
Quán-sát
chúng-sanh măi măi ngủ mê mà khởi đại-bi.
Quán-sát
chúng-sanh làm pháp bất thiện mà khởi đại-bi.
Quán-sát
chúng-sanh bị trói bởi dục-phược mà khởi đại-bi.
Quán-sát
chúng-sanh ch́m biển sanh-tử mà khởi đại-bi.
Quán-sát
chúng-sanh măi mang bịnh khổ mà khởi đại-bi.
Quán-sát
chúng-sanh không muốn pháp lành mà khởi đại-bi.
Quán-sát
chúng-sanh mất những phật-pháp mà khởi đại-bi.
Bồ-Tát hằng dùng
tâm nầy quán-sát chúng-sanh.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười nhơn-duyên phát bồ-đề tâm :
V́ giáo-hóa
điều-phục tất cả chúng-sanh mà phát bồ-đề tâm.
V́ trừ diệt tất
cả khổ cho chúng-sanh mà phát bồ-đề tâm.
V́ ban cho tất
cả chúng-sanh đầy đủ sự an-lạc mà phát bồ-đề tâm.
V́ dứt sự ngu-si
của tất cả chúng-sanh mà phát bồ-đề tâm.
V́ ban phật-trí
cho tất cả chúng-sanh mà phát bồ-đề tâm.
V́ cung-kíng
cúng-dường tất cả chư Phật mà phát bồ-đề tâm.
V́ thuận theo
phật-giáo cho chư Phật hoan-hỉ mà phát bồ-đề tâm.
V́ thấy sắc thân
tướng hảo của tất cả Phật mà phát bồ-đề tâm.
V́ nhập trí-huệ
quảng-đại của tất cả Phật mà phát bồ-đề tâm.
V́ hiển hiện lực
vô-úy của tất cả Phật mà phát bồ-đề tâm.
Nếu Bồ-Tát phát
tâm vô-thượng bồ-đề để được ngộ nhập nhứt-thiết-chủng trí, lúc thân cận
cúng-dường thiện-tri-thức phải khởi mười tâm :
Khởi tâm cung
cấp hầu hạ. Tâm hoan-hỉ. Tâm không trái. Tâm tùy thuận. Tâm không cầu lạ. Tâm
nhứt hướng. Tâm đồng thiện-căn. Tâm đồng-nguyện. Tâm Như-Lai. Tâm đồng viên-măn
hạnh.
Nếu đại Bồ-Tát
đă khởi tâm như vậy thời được mười thứ thanh-tịnh :
Thâm-tâm
thanh-tịnh, v́ đến nơi rốt ráo không mất hư.
Sắc-thân
thanh-tịnh, v́ tùy sở-nghi để thị-hiện.
Âm-thanh
thanh-tịnh, v́ rơ thấu tất cả ngữ ngôn.
Biện-tài
thanh-tịnh, v́ khéo nói vô-biên phật-pháp.
Trí-huệ
thanh-tịnh, v́ bỏ rời tất cả tối ngu-si.
Thọ-sanh
thanh-tịnh, v́ đầy đủ sức tự-tại của Bồ-Tát.
Quyến-thuộc
thanh-tịnh, v́ thành-tựu những thiện-căn cho các chúng-sanh đồng hạnh thuở
quá-khứ.
Quả-báo
thanh-tịnh, v́ trừ diệt tất cả những nghiệp-chướng.
Đại nguyện
thanh-tịnh, v́ cùng chư Bồ-Tát tánh không hai.
Công-hạnh
thanh-tịnh, v́ dùng hạnh Phổ-Hiền mà xuất ly.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ ba-la-mật :
Thí ba-la-mật,
v́ xả bỏ tất cả sở-hữu.
Giới ba-la-mật,
v́ thanh-tịnh phật-giới.
Nhẫn ba-la-mật,
v́ an-trụ phật-nhẫn.
Tinh-tấn
ba-la-mật, v́ tất cả chỗ làm chẳng thối chuyển.
Thiền ba-la-mật,
v́ nhớ một cảnh.
Bát-nhă
ba-la-mật, v́ như thiệt quán sát tất cả pháp.
Trí ba-la-mật,
v́ nhập phật-lực.
Nguyện
ba-la-mật, v́ đầy đủ những đại-nguyện Phổ-Hiền.
Thần-thông
ba-la-mật, v́ thị-hiện tất cả công-dụng tự-tại.
Pháp ba-la-mật,
v́ sao khắp tất cả phật-pháp.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời được đầy đủ đại-trí ba-la-mật vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười trí tùy-giác :
Trí tùy giác tất
cả thế-giới vô-lượng sai-biệt.
Trí tùy giác tất
cả chúng-sanh-giới bất-tư-ngh́.
Trí tùy giác tất
cả pháp, một vào nhiều pháp, nhiều vào một pháp.
Trí tùy giác tất
cả pháp-giới rộng lớn.
Trí tùy giác tất
cả hư-không-giới rốt ráo.
Trí tùy giác tất
cả thế-giới nhập quá-khứ thế.
Trí tùy giác tất
cả thế-giới nhập vị-lai thế.
Trí tùy giác tất
cả thế-giới nhập hiện-tại thế.
Trí tùy giác tất
cả Như-Lai vô-lượng hạnh nguyện đều ở nơi một trí mà được viên-măn.
Trí tùy giác tam
thế chư Phật đều đồng một hạnh mà được xuất-ly.
Nếu chư Bồ-Tát
an trụ pháp nầy thời được tất cả pháp tự-tại quang-minh, sở-nguyện đều
viên-măn, trong khoảng một niệm đều hay hiểu rơ tất cả phật-pháp thành đẳng
chánh-giác.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười điều chứng tri :
Biết tất cả pháp
một tướng.
Biết tất cả pháp
vô-lượng tướng.
Biết tất cả pháp
tại một niệm.
Biết tất cả
chúng-sanh tâm hành vô-ngại.
Biết tất cả
chúng-sanh các căn b́nh-đẳng.
Biết tất cả
chúng-sanh phiền-năo tập-khí hiện hành.
Biết tất cả
chúng-sanh tâm sử hiện hành.
Biết tất cả
chúng-sanh thiện và bất-thiện hiện hành.
Biết tất cả
Bồ-Tát nguyện hạnh tự tại trụ tŕ biến-hóa.
Biết tất cả
Như-Lai đầy đủ thập-lực thành Đẳng-Chánh-Giác.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời được tất cả phương-tiện thiện-xảo.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ năng-lực :
Năng-lực nhập
tự-tánh của tất cả pháp.
Năng-lực nhập
tất cả pháp như hóa.
Năng-lực nhập
tất cả pháp như huyễn.
Năng-lực nhập tất
cả pháp đều là phật-pháp.
Năng-lực nơi tất
cả pháp không nhiễm-trước.
Năng-lực nơi tất
cả pháp rất hiểu rơ.
Năng-lực nơi tất
cả thiện-tri-thức hằng chẳng bỏ rời tâm tôn trọng.
Năng-lực làm cho
tất cả thiện-căn thuận đến trí-vương vô-thượng.
Năng-lực nơi tất
cả phật-pháp thâm tín chẳng hủy báng.
Năng-lực làm cho
nhứt-thiết-trí tâm bất thối thiện-xảo.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời đủ những năng-lực vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ b́nh-đẳng :
Nơi tất cả
chúng-sanh b́nh-đẳng. Tất cả pháp b́nh-đẳng. Tất cả cơi b́nh-đẳng. Tất cả thâm
tâm b́nh-đẳng. Tất cả thiện-căn b́nh-đẳng. Tất cả Bồ-Tát b́nh-đẳng. Tất cả
nguyện b́nh-đẳng. Tất cả ba-la-mật b́nh-đẳng. Tất cả hạnh b́nh-đẳng. Tất cả
Phật b́nh-đẳng.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời được pháp vô-thượng b́nh-đẳng của chư Phật.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười câu thiệt nghĩa phật-pháp :
Tất cả pháp chỉ
có danh. Tất cả pháp dường như huyễn. Tất cả pháp dường như bóng. Tất cả pháp
chỉ duyên-khởi. Tất cả pháp nghiệp thanh-tịnh. Tất cả pháp chỉ văn tự làm ra.
Tất cả pháp thiệt-tế. Tất cả pháp vô-tướng. Tất cả pháp đệ nhứt nghĩa. Tất cả
pháp là pháp-giới.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời khéo nhập nhứt-thiết-chủng trí vô-thượng chơn-thiệt nghĩa.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát nói mười pháp :
Nói pháp
thậm-thâm. Nói pháp quảng-đại. Nói các loại pháp. Nói pháp nhứt-thiết-trí. Nói
pháp tùy thuận ba-la-mật. Nói pháp xuất sanh Như-Lai lực. Nói pháp tam-thế
tương-ưng. Nói pháp làm cho Bồ-Tát chẳng thối. Nói pháp tán-thán Phật công-đức.
Nói pháp tất cả Bồ-Tát học tất cả Phật b́nh-đẳng, tương-ưng với cảnh-giới của
tất cả Như-Lai.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời được pháp xảo thuyết vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp tŕ :
Tŕ tất cả
phước-đức thiện-căn đă chứa nhóm.
Tŕ pháp của tất
cả Như-Lai diễn-thuyết.
Tŕ tất cả
ví-dụ.
Tŕ môn lư-thú
của tất cả pháp.
Tŕ tất cả môn
xuất sanh đà-la-ni.
Tŕ tất cả trừ
nghi hoặc.
Tŕ pháp
thành-tựu tất cả Bồ-Tát.
Tŕ môn
b́nh-đẳng tam-muội của tất cả Như-Lai nói.
Tŕ môn chiếu
minh của tất cả pháp.
Tŕ năng-lực
thần-thông du-hí của tất cả chư Phật.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ nơi pháp nầy thời được năng-lực trụ tŕ đại trí vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ biện-tài :
Biện-tài
vô-phân-biệt nơi tất cả pháp.
Biện-tài vô-sở-tác
nơi tất cả pháp.
Biện-tài
vô-sở-trước nơi tất cả pháp.
Biện-tài thấu rơ
tánh không nơi tất cả pháp.
Biện-tài không
nghi tối nơi tất cả pháp.
Biện-tài Phật
gia-bị nơi tất cả pháp.
Biện-tài tự
giác-ngộ nơi tất cả pháp.
Biện-tài văn cú
sai biệt thiện xảo nơi tất cả pháp.
Biện-tài nói
chơn-thật nơi tất cả pháp.
Biện-tài tùy
theo tâm của tất cả chúng-sanh làm cho họ hoan-hỷ.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời được biện-tài xảo diệu vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ tự-tại :
Tự-tại giáo-hóa
điều-phục tất cả chúng-sanh.
Tự-tại chiếu
khắp tất cả pháp.
Tự-tại tu tất cả
hạnh thiện-căn.
Tự-tại trí
quảng-đại.
Tự-tại cấm giới
vô-sở-ư.
Tự-tại tất cả
thiện-căn hồi-hướng bồ-đề.
Tự-tại tinh-tấn
bất-thối-chuyển.
Tự-tại trí-huệ
dẹp phá tất cả chúng ma.
Tự-tại tùy
sở-thích khiến phát tâm bồ-đề.
Tự-tại tùy
sở-ưng hóa hiện thành chánh-giác.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ nơi pháp nầy thời được tự-tại đại-trí vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp vô-trước :
Vô-trước nơi tất
cả thế-giới.
Vô-trước nơi tất
cả chúng-sanh.
Vô-trước nơi tất
cả pháp.
Vô-trước nơi tất
cả sở-tác.
Vô-trước nơi tất
cả thiện-căn.
Vô-trước nơi tất
cả chỗ thọ sanh.
Vô-trước nơi tất
cả nguyện.
Vô-trước nơi tất
cả hạnh.
Vô-trước nơi tất
cả Bồ-Tát.
Vô-trước nơi tất
cả Phật.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ nơi pháp nầy thời có thể mau chuyển tất cả tưởng được trí-huệ thanh-tịnh
vô-thượng.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ tâm b́nh-đẳng :
Tâm b́nh-đẳng
chứa nhóm tất cả công-đức.
Tâm b́nh-đẳng
phát tất cả nguyện sai-biệt.
Tâm b́nh-đẳng
nơi tất cả thân chúng-sanh.
Tâm b́nh-đẳng
nơi nghiệp báo của tất cả chúng-sanh.
Tâm b́nh-đẳng
nơi tất cả pháp.
Tâm b́nh-đẳng
nơi tất cả quốc-độ tịnh-uế.
Tâm b́nh-đẳng
nơi tất cả tri-giải của chúng-sanh.
Tâm b́nh-đẳng
nơi tất cả hạnh không phân-biệt.
Tâm b́nh-đẳng
nơi lực và vô-úy của tất cả Phật.
Tâm b́nh-đẳng
nơi trí-huệ của tất cả Như-Lai.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ trong đây thời được tâm đại b́nh-đẳng vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp xuất sanh trí-huệ :
Biết tất cả chúng-sanh
tri-giải xuất sanh trí-huệ.
Biết tất cả cơi
Phật nhiều thứ sai-biệt xuất sanh trí-huệ.
Biết chừng ngằn
mười phương xuất sanh trí-huệ.
Biết tất cả
thế-giới úp ngửa vân vân xuất sanh trí huệ.
Biết tất cả pháp
một tánh, nhiều tánh, trụ rộng lớn xuất sanh trí-huệ.
Biết tất cả
nhiều loại thân xuất sanh trí-huệ.
Biết tất cả
thế-gian điên-đảo vọng-tưởng đều vô-sở-trước xuất sanh trí-huệ.
Biết tất cả pháp
rốt ráo đều do một đạo xuất ly xuất sanh trí-huệ.
Biết Như-Lai
thần-lực hay nhập tất cả pháp-giới xuất-sanh trí-huệ.
Biết tam-thế tất
cả chúng-sanh phật-chủng không dứt xuất sanh trí-huệ.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời nơi tất cả pháp đều hiểu thấu tất cả.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp biến-hóa :
Tất cả
chúng-sanh biến-hóa. Tất cả thân biến-hóa. Tất cả cơi biến-hóa. Tất cả
cúng-dường biến-hóa. Tất cả âm-thanh biến-hóa. Tất cả hạnh nguyện biến-hóa. Tất
cả giáo-hóa điều-phục chúng-sanh biến-hóa. Tất cả thành chánh-giác biến-hóa.
Tất cả thuyết pháp biến-hóa. Tất cả gia-tŕ biến-hóa.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ
pháp nầy thời được đầy đủ tất cả pháp biến-hóa vô-thượng.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp lực-tŕ :
Phật lực-tŕ.
Pháp lực-tŕ. Chúng-sanh lực-tŕ. Nghiệp lực-tŕ. Hạnh lực-tŕ. Nguyện lực-tŕ.
Cảnh-giới lực-tŕ. Thời lực-tŕ. Thiện lực-tŕ. Trí lực-tŕ.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời nơi tất cả pháp được lực-tŕ tự-tại vô-thượng.
Chư Phật-tử
! Đại Bồ-Tát có mười pháp đại hân-ủy :
Chư Bồ-Tát phát
tâm như vầy : Tột đời vị-lai có bao nhiêu chư Phật xuất thế tôi đều sẽ được
theo gần hầu hạ cho Phật hoan-hỷ. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Lại nghĩ rằng :
Chư Phật đó xuất thế, tôi đều đem đồ cúng-dường vô-thượng mà cung kính dâng lên
chư Phật. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Lại nghĩ rằng :
Tôi ở chỗ chư Phật, lúc cúng-dường, chư Như-Lai đó tất dạy chánh-pháp cho tôi,
tôi đều dùng thâm tâm cung kính nghe
nhận, tu hành
đúng theo lời Phật dạy, nơi bực Bồ-Tát tất được đă sanh, nay sanh, sẽ sanh. Suy
nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Lại nghĩ rằng :
Tôi phải nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp thật hành bồ-tát hạnh. Thường
cùng tất cả chư Phật Bồ-Tát ở chung. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Lại nghĩ rằng :
Tôi thuở xưa chưa phát tâm vô-thượng bồ-đề có những bố-úy : Sợ chẳng đủ nuôi sống,
sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ đọa ác-thú, sợ oai-ức của đại-chúng. Từ khi một phen
phát tâm thời đều xa ĺa chẳng c̣n kinh sợ. Tất cả chúng ma và các ngoại đạo
không phá hoại được. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ làm cho tất cả chúng-sanh thành vô-thượng bồ-đề. Thành bồ-đề rồi, tôi sẽ
ở nơi đức Phật đó tu hạnh bồ-tát, trọn đời dùng ḷng tin lớn sắm sửa những đồ
đáng cúng-dường chư Phật để dâng cúng. Sau khi chư Phật nhập diệt, tôi đều dựng
vô-lượng tháp để cúng dường xá-lợi và thọ-tŕ thủ-hộ pháp của Phật để lại. Suy
nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Lại nghĩ rằng :
Mười phương có bao nhiêu thế-giới, tôi phải đều dùng đồ vô-thượng trang-nghiêm
để trang-nghiêm, đều làm cho đầy đủ các thú kỳ diệu b́nh-đẳng thanh-tịnh. Lại
dùng những sức đại thần-thông trụ tŕ chấn-động quang-minh chói sáng cùng khắp
tất cả. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Lại nghĩ rằng :
Tôi phải dứt nghi hoặc cho tất cả chúng-sanh, làm sạch tất cả dục lạc của tất
cả chúng-sanh, mở tâm ư cho tất cả chúng-sanh, diệt phiền-năo cho tất cả
chúng-sanh, đóng cửa ác-đạo cho tất cả chúng-sanh, mở cửa thiện-đạo cho tất cả
chúng-sanh, phá hắc ám cho tất cả chúng-sanh, ban quang-minh cho tất cả
chúng-sanh, khiến tất cả chúng-sanh rời những nghiệp ma, khiến tất cả
chúng-sanh đến chỗ an-ổn. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Lại nghĩ rằng :
Chư Phật Như-Lai như hoa ưu-đàm khó gặp được, trong vô-lượng kiếp chẳng được
thấy một lần, tôi phải ở đời vị-lai muốn thấy Như-Lai thời bèn được thấy. Chư
Phật Như-Lai thường chẳng bỏ tôi, hằng ở chỗ tôi cho tôi được thấy, thuyết pháp
cho tôi không dứt mất, đă nghe pháp rồi tâm ư tôi thanh-tịnh, xa rời siểm khúc,
chất trực không hư ngụy, trong mỗi niệm thường thấy chư Phật. Suy nghĩ như vậy
tâm rất hân-ủy.
Đại Bồ-Tát lại
nghĩ rằng : Tôi thuở vị-lai sẽ được thành Phật, do thần-lực của Phật nơi tất cả
thế-giới v́ tất cả chúng-sanh đều riêng thị-hiện thành Đẳng Chánh-Giác,
thanh-tịnh vô-úy đại-sư-tử hống, do bốn đại nguyện cùng khắp pháp-giới, đánh
đại pháp-cổ, mưa đại pháp-vũ, làm đại pháp-thí. Trong vô-lượng kiếp thường diễn
chánh-pháp, đại-bi nhiếp tŕ, thân ngữ ư ba nghiệp không nhàm mỏi. Suy nghĩ như
vậy tâm rất hân-ủy.
Đây là mười pháp
đại hân-ủy của đại Bồ-Tát. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được trí-huệ đại
hân-ủy vô-thượng thành Đẳng-Chánh-Giác.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười điều thâm nhập phật-pháp :
Nhập tất cả
thế-giới đời quá-khứ. Nhập tất cả thế-giới đời vị-lai. Nhập tất cả thế-giới đời
hiện-tại, thế-giới hạnh, thế-giới thuyết, thế-giới thanh-tịnh. Nhập các thứ
tánh của tất cả thế-giới. Nhập các thứ nghiệp báo của tất cả chúng-sanh. Nhập
các thứ hạnh của tất cả Bồ-Tát. Biết quá-khứ tất cả Phật thứ đệ. Biết vị-lai
tất cả Phật thứ đệ. Biết hiện-tại thập phương hư-không pháp-giới tất cả Phật,
quốc-độ, chúng-hội, thuyết pháp, điều phục. Biết thế-gian pháp, Thanh-Văn pháp,
Độc-Giác pháp, Bồ-Tát pháp, Như-Lai pháp, dầu biết các pháp đều không phân-biệt
mà thuyết các pháp, v́ đều nhập pháp-giới mà không sở-nhập, như chỗ thuyết pháp
không hề thủ trước.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ nơi pháp nầy thời được nhập nơi tánh thậm-thâm đại trí-huệ vô-thượng
chánh-đẳng chánh-giác.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp y-chỉ, Bồ-Tát nương ở nơi đây mà thật hành hạnh Bồ-Tát
:
Y-chỉ cúng-dường
tất cả chư Phật thật hành hạnh Bồ-Tát.
Y-chỉ điều-phục
tất cả chúng-sanh thật hành hạnh Bồ-Tát.
Y-chỉ gần-gũi
tất cả thiện-hữu thật hành hạnh Bồ-Tát.
Y-chỉ chứa nhóm
tất cả thiện-căn thật hành hạnh Bồ-Tát.
Y-chỉ
nghiêm-tịnh tất cả cơi Phật thật hành hạnh Bồ-Tát.
Y-chỉ chẳng bỏ
tất cả chúng-sanh thật hành hạnh Bồ-Tát.
Y-chỉ thâm nhập
tất cả ba-la-mật thật hành hạnh Bồ-Tát.
Y-chỉ đầy đủ tất
cả Bồ-Tát nguyện thật hành hạnh Bồ-Tát.
Y-chỉ vô-lượng
bồ-đề tâm thật hành hạnh Bồ-Tát.
Y-chỉ tất cả
Phật bồ-đề thật hành hạnh Bồ-Tát.
Bồ-Tát nương nơi
đây để thật hành hạnh Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! Đại
Bồ-Tát có mười pháp phát tâm vô-úy :
Diệt tất cả
nghiệp chướng-ngại, phát tâm vô-úy.
Sau khi Phật
diệt độ hộ tŕ chánh-pháp, phát tâm vô-úy.
Hàng phục tất cả
ma, phát tâm vô-úy.
Chẳng tiếc thân
mạng, phát tâm vô-úy.
Xô dẹp tất cả
ngoại-đạo tà-luận, phát tâm vô-úy.
Khiến tất cả
chúng-sanh hoan-hỷ, phát tâm vô-úy.
Khiến tất cả
chúng-hội đều hoan-hỷ, phát tâm vô-úy.
Điều phục tất cả
Thiên, Long, Bát-Bộ, phát tâm vô-úy.
Rời bực nhị-thừa
nhập pháp thậm-thâm, phát tâm vô-úy.
Trong
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp thật hành hạnh Bồ-Tát, tâm không mỏi nhàm,
phát tâm vô-úy.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời được tâm vô-sở-úy đại trí vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát phát mười tâm không nghi, nơi tất cả phật-pháp tâm không nghi lầm :
Đại Bồ-Tát phát
tâm như vầy : Tôi sẽ dùng bố-thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh-tấn, thiền-định,
trí-huệ, từ, bi, hỉ, xả, nhiếp tất cả chúng-sanh. Lúc phát tâm nầy quyết-định
không nghi.
Lại nghĩ rằng :
Vị-lai chư Phật xuất thế, tôi sẽ thừa sự cúng-dường tất cả. Lúc phát tâm nầy
quyết định không nghi.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ dùng các thứ lưới quang-minh kỳ-diệu cùng khắp trang-nghiêm tất cả
thế-giới. Lúc phát tâm nầy quyết định không nghi.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ tột kiếp vị-lai tu hạnh Bồ-Tát, vô-số, vô-lượng, vô-biên, vô-đẳng,
bất-khả-sổ, bất-khả-xưng, bất-khả-tư, bất-khả-lượng, bất-khả-thuyết,
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết, quá những toán số, rốt ráo pháp-giới
hư-không-giới tất cả chúng-sanh, tôi sẽ dùng pháp giáo-hóa điều-phục vô-thượng
mà thành-thục họ. Lúc phát tâm nầy quyết định không nghi.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ tu Bồ-Tát hạnh, viên măn đại nguyện, đủ nhứt-thiết-trí an-trụ trong đó.
Lúc phát tâm nầy quyết định không nghi.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ khắp v́ tất cả thế-gian mà thật hành hạnh Bồ-Tát, làm quang-minh thanh-tịnh
của tất cả pháp chiếu sáng tất cả Phật-pháp. Lúc phát tâm nầy quyết định không
nghi.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ biết tất cả pháp đều là phật-pháp, tùy tâm chúng sanh mà v́ họ diễn
thuyết đều khiến khai ngộ. Lúc phát tâm nầy quyết-định không nghi.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ ở nơi tất cả pháp được môn vô-chướng-ngại, v́ biết tất cả chướng-ngại
vô-sở-đắc. Tâm như vậy không có nghi hoặc, trụ tánh chơn thiệt nhẫn đến thành
vô-thượng bồ-đề. Lúc phát tâm nầy quyết định không nghi.
Lại nghĩ rằng :
Tôi phải biết tất cả pháp đều là pháp xuất-thế-gian, xa ĺa tất cả vọng-tưởng
điên-đảo. Dùng một trang-nghiêm để tự trang-nghiêm, mà không chỗ trang-nghiêm.
Nơi đây tự tỏ biết không do người. Lúc phát tâm nầy quyết định không nghi.
Đại Bồ-Tát lại
nghĩ rằng : Tôi sẽ ở nơi tất cả pháp thành Tối-Chánh-Giác, v́ ĺa tất cả
vọng-tưởng điên-đảo, v́ được nhứt niệm tương ưng trí, v́ bất-khả-đắc hoặc một
hoặc khác, v́ rời tất cả số, v́ rốt ráo vô-vi, v́ rời tất cả ngôn thuyết, v́
trụ bất-khả-thuyết cảnh-giới-tế. Lúc phát tâm nầy quyết định không nghi.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời nơi tất cả phật-pháp tâm không chỗ nghi.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp bất-tư-ngh́ :
Tất cả thiện-căn
bất-tư-ngh́.
Tất cả thệ
nguyện bất-tư-ngh́.
Biết tất cả pháp
như huyễn bất-tư-ngh́.
Phát tâm bồ-đề
tu hạnh Bồ-Tát, thiện-căn chẳng mất, không chỗ phân-biệt, bất-tư-ngh́.
Dầu thâm-nhập
tất cả pháp cũng chẳng lấy diệt độ, v́ tất cả nguyện chưa thành măn,
bất-tư-ngh́.
Tu Bồ-Tát đạo mà
thị-hiện giáng thần, nhập thai, đản sanh, xuất gia, khổ hạnh, đến đạo-tràng,
hàng phục chúng ma, thành tối-chánh-giác, chuyển chánh pháp-luân, nhập đại
niết-bàn, thần-biến tự-tại không thôi nghỉ, chẳng bỏ bi nguyện cứu hộ
chúng-sanh, bất-tư-ngh́.
Dầu hay thị-hiện
thập-lực thần-biến tự-tại của Như-Lai mà chẳng bỏ tâm khắp pháp-giới giáo-hóa
chúng-sanh, bất-tư-ngh́.
Biết tất cả pháp
vô-tướng là tướng, tướng là vô-tướng, vô-phân-biệt là phân-biệt, phân-biệt là
vô-phân-biệt, phi-hữu là hữu, hữu là phi-hữu, vô-tác là tác, tác là vô-tác, phi
thuyết là thuyết, thuyết là phi thuyết, bất-tư-ngh́.
Biết tâm cùng
bồ-đề đồng, biết bồ-đề cùng tâm đồng. Tâm và bồ-đề cùng chúng-sanh đồng. Cũng
chẳng sanh tâm điên-đảo, tưởng điên-đảo, kiến điên-đảo, bất-tư-ngh́.
Ở trong mỗi niệm
nhập diệt-tận định sạch hết tất cả hữu-lậu, mà chẳng chứng thiệt-tế, cũng chẳng
hết thiện-căn hữu-lậu. Dầu biết tất cả pháp vô-lậu, mà biết lậu tận cũng biết
lậu diệt. Dầu biết phật-pháp tức thế-gian pháp, thế-gian pháp tức phật-pháp, mà
chẳng ở trong phật-pháp phân biệt thế-gian pháp, chẳng ở trong thế-gian pháp phân-biệt
phật-pháp. Tất cả pháp đều nhập pháp-giới v́ vô-sở nhập. Biết tất cả pháp đều
không hai v́ không biến đổi. Đây là pháp bất-tư-ngh́ thứ mười của đại Bồ-Tát.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ trong mười pháp bất-tư-ngh́ nầy thời được pháp bất-tư-ngh́ vô-thượng của
chư Phật.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười xảo-mật ngữ :
Xảo-mật-ngữ ở
trong tất cả phật kinh.
Xảo-mật-ngữ nơi
tất cả chỗ thọ sanh.
Xảo-mật-ngữ nơi
tất cả Bồ-Tát thần-thông biến hiện thành đẳng-chánh-giác.
Xảo-mật-ngữ nơi
tất cả chúng-sanh nghiệp báo.
Xảo-mật-ngữ nơi
tất cả chúng-sanh phát khởi nhiễm tịnh.
Xảo-mật-ngữ nơi
môn tất cả pháp rốt ráo vô chướng-ngại.
Xảo-mật-ngữ nơi
tất cả hư-không-giới, mỗi nơi mỗi chỗ đều có thế-giới hoặc thành hoặc hoại,
trong đó không có chỗ trống.
Xảo-mật-ngữ nơi
tất cả pháp-giới tất cả mười phương nhẫn đến chỗ vi-tế, đều có Như-Lai thị-hiện
sơ-sanh nhẫn đến thành Phật nhập đại niết-bàn đầy khắp pháp-giới, đều phân-biệt
thấy.
Xảo-mật-ngữ ở
chỗ thấy tất cả chúng-sanh b́nh-đẳng niết-bàn v́ không biến-đổi mà chẳng bỏ
đại-nguyện, v́ tất cả trí-nguyện chưa được viên-măn làm cho viên-măn.
Xảo-mật-ngữ ở
chỗ dầu biết tất cả pháp tỏ ngộ chẳng do người khác mà chẳng rời bỏ các bực
thiện-tri-thức, đối với Như-Lai càng thêm tôn kính, cùng thiện-tri-thức ḥa
hiệp không hai. Nơi những thiện-căn thời tu tập gieo trồng hồi-hướng an-trụ.
Đồng một sở-tác, đồng một thể-tánh, đồng một xuất-ly, đồng một thành-tựu.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ trong đây thời được vi-mật-ngữ thiện-xảo vô-thượng của Như-Lai.
Đại Bồ-Tát có
mười trí-xảo phân-biệt :
Trí-xảo
phân-biệt nhập tất cả cơi.
Trí-xảo
phân-biệt nhập tất cả chỗ của các chúng-sanh.
Trí-xảo
phân-biệt nhập tất cả tâm hành của các chúng-sanh.
Trí-xảo
phân-biệt nhập căn-tánh của tất cả chúng-sanh.
Trí-xảo
phân-biệt nhập nghiệp-báo của tất cả chúng-sanh.
Trí-xảo
phân-biệt nhập tất cả hạnh Thanh-Văn.
Trí-xảo
phân-biệt nhập tất cả hạnh Độc-Giác.
Trí-xảo
phân-biệt nhập tất cả hạnh Bồ-Tát.
Trí-xảo
phân-biệt nhập tất cả pháp thế-gian.
Trí-xảo
phân-biệt nhập tất cả phật-pháp.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ trong đây thời được trí phân-biệt các pháp thiện-xảo vô-thượng của tất
cả chư Phật.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp nhập tam-muội :
Nơi tất cả
thế-giới nhập tam-muội.
Nơi thân tất cả
chúng-sanh nhập tam-muội.
Nơi tất cả pháp
nhập tam-muội.
Thấy tất cả Phật
nhập tam-muội.
Trụ tất cả kiếp
nhập tam-muội.
Từ tam-muội khởi
hiện bất-tư-ngh́ thân nhập tam-muội.
Nơi thân tất cả
Phật nhập tam-muội.
Giác-ngộ tất cả
chúng-sanh b́nh-đẳng nhập tam-muội.
Trong một niệm
nhập trí tam-muội của tất cả Bồ-Tát, nhập tam-muội.
Trong một niệm
dùng vô-ngại-trí thành-tựu tất cả bồ-tát hạnh nguyện chẳng thôi nghỉ, nhập
tam-muội.
Nếu chư Bồ-Tát
an trụ trong đây thời được pháp tam-muội thiện-xảo vô-thượng của tất cả chư
Phật.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp biến nhập :
Vào khắp chúng-sanh.
Vào khắp quốc-độ. Vào khắp các loại h́nh tướng của thế-gian. Vào khắp hỏa-tai.
Vào khắp thủy-tai. Vào khắp Phật. Vào khắp trang-nghiêm. Vào khắp thân vô-biên
công-đức của Như-Lai. Vào khắp tất cả sự thuyết pháp. Vào khắp những sự
cúng-dường tất cả Như-Lai.
Nếu chư Bồ-Tát
an trụ trong đây thời được pháp biến nhập đại-trí vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười môn giải-thoát :
Môn giải-thoát
một thân cùng khắp tất cả thế-giới.
Môn giải-thoát
thị-hiện vô-lượng những loại sắc-tướng nơi tất cả thế-giới.
Môn giải-thoát
đem tất cả thế-giới vào một cơi Phật.
Môn giải-thoát
khắp gia-tŕ tất cả chúng-sanh-giới.
Môn giải-thoát
dùng thân trang-nghiêm của tất cả Phật đầy khắp tất cả thế-giới.
Môn giải-thoát
trong thân ḿnh thấy tất cả thế-giới.
Môn giải-thoát
trong một niệm qua tất cả thế-giới.
Môn giải-thoát
thị-hiện tất cả Như-Lai xuất-thế.
Môn giải-thoát
một thân đầy khắp tất cả pháp-giới.
Môn giải-thoát
trong một niệm thị-hiện tất cả Phật du-hí thần-thông.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ trong đây thời được môn giải-thoát vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp thần-thông :
Phương-tiện trí
thông ghi nhớ túc-mạng.
Phương-tiện trí
thông thiên-nhĩ vô-ngại.
Phương-tiện trí
thông biết bất-tư-ngh́ tâm hành của chúng-sanh.
Phương-tiện trí
thông thiên-nhăn quán-sát vô-ngại.
Phương-tiện trí
thông tùy theo tâm chúng-sanh hiện bất-tư-ngh́ đại thần-thông-lực.
Phương-tiện trí
thông một thân hiện khắp vô-lượng thế-giới.
Phương-tiện trí
thông một niệm vào khắp bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thế-giới.
Phương-tiện trí
thông xuất sanh vô-lượng đồ trang-nghiêm để trang-nghiêm bất-tư-ngh́ thế-giới.
Phương-tiện trí
thông thị-hiện bất-khả-thuyết thân biến-hóa.
Phương-tiện trí
thông tùy theo bất-tư-ngh́ tâm chúng-sanh nơi bất-khả-thuyết thế-giới thị-hiện
thành vô-thượng chánh-giác.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ trong đây thời được thần-thông đại thiện-xảo vô-thượng của Như-Lai, v́
tất cả chúng-sanh thị-hiện nhiều sự việc khiến họ tu học.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ Minh :
Trí-minh
thiện-xảo biết nghiệp báo của tất cả chúng-sanh.
Trí-minh
thiện-xảo biết cảnh-giới tịch-diệt thanh-tịnh không hí-luận của tất cả
chúng-sanh.
Trí-minh
thiện-xảo biết những cảnh sở-duyên của tất cả chúng-sanh chỉ là một tướng đều
bất-khả-đắc, tất cả pháp đều như kim-cang.
Trí-minh thiện-xảo
hay dùng vô-lượng âm-thanh, vi-diệu vang khắp thập phương thế-giới.
Trí-minh
thiện-xảo phá hoại khắp tất cả tâm nhiễm trước.
Trí-minh
thiện-xảo hay dùng phương-tiện thọ sanh hay chẳng thọ sanh.
Trí-minh
thiện-xảo bỏ rời tất cả cảnh-giới thọ tưởng.
Trí-minh
thiện-xảo biết tất cả pháp chẳng tướng chẳng vô-tướng, một tánh vô tánh
vô-phân-biệt mà hay rơ biết các loại pháp, trong vô-lượng kiếp phân biệt diễn
thuyết, trụ nơi pháp-giới, thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
Trí-minh
duyên-khởi thiện-xảo biết tất cả chúng-sanh, sanh vốn không sanh v́ tỏ thấu thọ
sanh bất-khả-đắc. Mà biết nhơn, biết duyên, biết sự, biết cảnh-giới, biết hạnh,
biết sanh, biết diệt, biết ngôn thuyết, biết mê hoặc, biết ĺa mê hoặc, biết
điên-đảo, biết ĺa điên-đảo, biết tạp nhiễm, biết thanh-tịnh, biết sanh tử,
biết niết-bàn, biết khả-đắc, biết bất-khả-đắc, biết chấp trước, biết không chấp
trước, biết trụ, biết động, biết đi, biết về, biết khởi, biết chẳng khởi, biết
hư mất, biết xuất ly, biết thành thục, biết các căn, biết điều phục, tùy theo
sở nghi mà nhiều cách giáo-hóa, chưa từng quên mất công-hạnh bồ-tát. V́ Bồ-Tát
chỉ v́ lợi-ích chúng-sanh nên phát tâm vô-thượng bồ-đề không bỏ sót việc làm v́
chúng-sanh. Thế nên Bồ-Tát thường giáo-hóa chúng-sanh thân không mỏi nhọc,
chẳng trái tất cả chỗ làm của thế-gian.
Trí-minh
thiện-xảo nơi Phật vô-trước chẳng sanh tâm nhiễm trước, nơi pháp vô-trước chẳng
sanh tâm nhiễm trước, nơi cơi vô-trước chẳng sanh tâm nhiễm trước, nơi
chúng-sanh vô-trước chẳng sanh tâm nhiễm trước. Chẳng thấy có chúng-sanh mà
thật hành giáo-hóa điều-phục thuyết pháp, nhưng cũng chẳng bỏ bồ-tát đại-bi
đại-nguyện, thấy Phật, nghe Pháp, tùy thuận tu hành, y-chỉ nơi những thiện-căn
của Như-Lai cung-kính cúng-dường không thôi nghỉ. Hay dùng thần-lực chấn-động
thập phương vô-lượng thế-giới, v́ tâm quảng đại khắp pháp-giới. Biết những cách
thuyết pháp, biết số chúng-sanh, biết chúng-sanh sai-biệt, biết khổ sanh, biết
khổ diệt, biết tất cả hạnh đều như bóng tượng, thật hành hạnh Bồ-Tát dứt hẳn
tất cả căn-bổn thọ sanh. Chỉ v́ cứu hộ tất cả chúng-sanh nên thật hành hạnh
bồ-tát mà không chỗ làm, tùy thuận chủng-tánh của tất cả chư Phật mà phát tâm
quảng-đại như Tu-Di. Biết tất cả hư-vọng điên đảo vào môn nhứt-thiết chủng-trí.
Trí-huệ rộng lớn chẳng lay động được, sẽ thành chánh-giác. Ở biển sanh-tử
b́nh-đẳng tế độ tất cả chúng-sanh.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp giải-thoát :
Phiền-năo
giải-thoát. Tà-kiến giải-thoát. Những chấp thủ giải-thoát. Uẩn, xứ, giới
giải-thoát. Siêu nhị-thừa giải-thoát. Vô-sanh pháp-nhẫn giải-thoát.
Nơi tất cả
thế-gian, tất cả cơi, tất cả chúng-sanh, tất cả pháp, ĺa chấp trước
giải-thoát.
Vô-biên-trụ
giải-thoát.
Phát khởi tất cả
hạnh bồ-tát nhập bực Phật vô-phân-biệt giải-thoát.
Ở trong một niệm
đều có thể rơ biết tất cả tam-thế giải-thoát.
Nếu chư Bồ-Tát
an trụ pháp giải-thoát nầy thời có thể ra làm phật-sự vô-thượng, giáo-hóa
thành-thục tất cả chúng-sanh.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười viên-lâm :
Sanh tử là
viên-lâm của Bồ-Tát, v́ không nhàm bỏ.
Giáo-hóa
chúng-sanh là viên-lâm của Bồ-Tát, v́ không mỏi nhọc.
Trụ tất cả kiếp
là viên-lâm của Bồ-Tát, v́ nhiếp những hạnh lớn.
Thanh-tịnh
thế-giới là viên-lâm của Bồ-Tát, v́ là chỗ dừng ở của Bồ-Tát.
Tất cả cung-điện
ma là viên-lâm của Bồ-Tát, v́ hàng phục chúng ma.
Tư duy pháp đă
được nghe là viên-lâm của Bồ-Tát, v́ đúng như lư quán-sát.
Sáu pháp
ba-la-mật, bốn nhiếp pháp, ba mươi bảy pháp bồ-đề phần là viên-lâm của Bồ-Tát,
v́ là cảnh-giới tiếp nối đức Từ-Phụ.
Thập lực, tứ
vô-úy, thập bát pháp bất-công, nhẫn đến tất cả phật-pháp là viên-lâm của
Bồ-Tát, v́ chẳng niệm nhớ những pháp khác.
Thị-hiện tất cả
bồ-tát oai-lực tự-tại thần-thông là viên-lâm của Bồ-Tát, v́ dùng đại thần-lực
chuyển chánh pháp-luân điều phục chúng-sanh không thôi nghĩ.
Một niệm ở tất
cả xứ v́ tất cả chúng-sanh thị hiện thành chánh-giác là viên-lâm của Bồ-Tát, v́
pháp-thân cùng khắp hư-không tất cả thế-giới.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời được hạnh đại an-lạc ĺa ưu-năo vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ cung-điện :
Bồ-đề tâm là
cung điện của Bồ-Tát, v́ hằng không quên mất.
Thập thiện
nghiệp đạo phước-đức trí-huệ là cung điện của Bồ-Tát, v́ giáo-hóa chúng-sanh
cơi dục.
Tứ phạm-trụ
thiền-định là cung điện của Bồ-Tát, v́ giáo-hóa chúng-sanh cơi sắc.
Sanh
Tịnh-Cư-Thiên là cung điện của Bồ-Tát, v́ tất cả phiền-năo chẳng nhiễm.
Sanh vô-sắc giới
là cung điện của Bồ-Tát, v́ khiến tất cả chúng-sanh ĺa chỗ nạn.
Sanh thế-giới
tạp nhiễm là cung điện của Bồ-Tát, v́ khiến tất cả chúng-sanh dứt phiền-năo.
Thị hiện ở
nội-cung thê tử quyến-thuộc là cung điện của Bồ-Tát, v́ thành-tựu chúng-sanh
đồng hạnh thuở xưa.
Thị hiện ở ngôi
Luân-Vương-Tứ-Thiên-Vương, Đế-Thích, Phạm-Vương là cung điện của Bồ-Tát, v́
điều-phục chúng-sanh tâm tự-tại.
Trụ tất cả
bồ-tát hạnh du hí thần-thông đều được tự-tại là cung điện của Bồ-Tát, v́ giỏi
du-hí các thiền giải-thoát tam-muội trí-huệ.
Tất cả chư Phật
thọ kư nhứt-thiết-trí quán-đảnh tự-tại vô-thượng là cung điện của Bồ-Tát, v́
trụ thập-lực trang-nghiêm làm việc tự-tại của Pháp-Vương.
Nếu chư Bồ-Tát
an trụ trong đây thời được pháp quán-đảnh nơi tất cả thế-gian thần-lực tự-tại.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười điều vui thích :
Thích
chánh-niệm, v́ tâm chẳng tán loạn.
Thích trí-huệ,
v́ phân biệt các pháp.
Thích qua đến
tất cả chỗ Phật, v́ nghe pháp không nhàm.
Thích chư Phật,
v́ đầy khắp mười phương không biên tế.
Thích Bồ-Tát
tự-tại, v́ tất cả chúng-sanh dùng vô-lượng môn mà hiện thân.
Thích các môn
tam-muội, v́ nơi một môn tam-muội nhập tất cả môn tam-muội.
Thích đà-la-ni,
v́ thọ-tŕ pháp chẳng quên, dạy lại cho chúng-sanh.
Thích vô-ngại
biện-tài, v́ nơi một đoạn một câu, phân-biệt diễn thuyết trải qua
bất-khả-thuyết kiếp không cùng tận.
Thích thành
chánh-giác, v́ tất cả chúng-sanh dùng vô-lượng môn mà thị-hiện thân thành
chánh-giác.
Thích chuyển
pháp-luân, v́ dẹp trừ tất cả pháp dị-đạo.
Nếu chư Bồ-Tát
an trụ pháp nầy thời được pháp lạc vô-thượng của chư Phật Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thứ trang-nghiêm :
Lực
trang-nghiêm, v́ chẳng thể hư-hoại.
Vô-úy
trang-nghiêm, v́ hay dẹp phục.
Nghĩa
trang-nghiêm, v́ nói bất-khả-thuyết nghĩa vô cùng tận.
Pháp
trang-nghiêm, v́ quán-sát diễn thuyết không quên mất tám vạn bốn ngàn pháp-tu.
Nguyện
trang-nghiêm, v́ không thối chuyển nơi hoằng thệ của chư Bồ-Tát đă phát.
Hạnh
trang-nghiêm, v́ tu hạnh phổ-hiền mà xuất ly.
Sát độ
trang-nghiêm, v́ đem tất cả cơi làm một cơi.
Phổ âm
trang-nghiêm, v́ mưa pháp-vũ cùng khắp tất cả thế-giới của chư Phật.
Lực tŕ
trang-nghiêm, v́ trong tất cả kiếp thật hành vô-số hạnh chẳng đoạn tuyệt.
Biến-hóa
trang-nghiêm, v́ nơi thân một chúng-sanh thị-hiện thân bằng số tất cả chúng-sanh,
khiến tất cả chúng-sanh đều thấy biết cầu nhứt-thiết-trí không thối chuyển.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời được tất cả pháp trang-nghiêm vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát phát mười tâm bất động :
Tâm bất động :
nơi tất cả sở-hữu thảy đều xả được.
Tâm bất động :
tư-duy quán-sát tất cả phật-pháp.
Tâm bất động :
ghi nhớ cúng-dường tất cả chư Phật.
Tâm bất động :
nơi tất cả chúng-sanh thệ không năo hại.
Tâm bất động :
khắp nhiếp chúng-sanh chẳng lựa oán thân.
Tâm bất động :
cầu tất cả phật-pháp không thôi nghỉ.
Tâm bất động :
số kiếp bằng số chúng-sanh thật hành hạnh bồ-tát chẳng mỏi nhàm, cũng không
thối chuyển.
Tâm bất động :
thành-tựu hữu-căn tín, vô-trược tín, thanh-tịnh tín, cực thanh-tịnh tín, ly-cấu
tín, minh-triệt tín, cung-kính cúng-dường tất cả chư Phật tín, bất-thối-chuyển
tín, bất khả tận tín, vô năng hoại tín, đại hoan-hỉ dũng-dước tín.
Tâm bất động :
thành-tựu đạo phương-tiện xuất sanh nhứt-thiết-trí.
Tâm bất động :
nghe tất cả bồ-tát hạnh pháp thời tin thọ chẳng hủy báng.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời được tâm bất động nhứt-thiết-trí vô-thượng.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp chẳng bỏ tâm thâm đại :
Chẳng bỏ tâm
thâm đại thành-tựu viên-măn tất cả Phật bồ-đề.
Chẳng bỏ tâm
thâm đại giáo-hóa điều-phục tất cả chúng-sanh.
Chẳng bỏ tâm
thâm đại chẳng dứt chủng-tánh của Phật.
Chẳng bỏ tâm
thâm đại gần-gũi tất cả thiện-tri-thức.
Chẳng bỏ tâm
thâm đại cúng-dường tất cả chư Phật.
Chẳng bỏ tâm
thâm đại chuyên cầu tất cả pháp công-đức đại-thừa.
Chẳng bỏ tâm
thâm đại ở chỗ chư Phật tu phạm-hạnh, hộ tŕ tịnh-giới.
Chẳng bỏ tâm
thâm đại thân-cận tất cả Bồ-Tát.
Chẳng bỏ tâm
thâm đại cầu tất cả phật-pháp phương-tiện hộ-tŕ.
Chẳng bỏ tâm
thâm đại thành măn tất cả bồ-tát hạnh nguyện, chứa nhóm tất cả phật-pháp.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ trong đó thời có thể chẳng bỏ tất cả phật-pháp.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười trí-huệ quán-sát :
Trí-huệ quán-sát
thiện-xảo phân-biệt diễn thuyết tất cả pháp.
Trí-huệ quán-sát
biết rơ tam-thế tất cả thiện-căn.
Trí-huệ quán-sát
biết rơ tất cả bồ-tát hạnh biến hóa tự-tại.
Trí-huệ quán-sát
biết rơ nghĩa môn của tất cả pháp.
Trí-huệ quán-sát
biết rơ oai-lực của tất cả chư Phật.
Trí-huệ quán-sát
biết rơ tất cả môn đà-la-ni.
Trí-huệ quán-sát
nơi tất cả thế-giới khắp nói chánh-pháp.
Trí-huệ quán-sát
nhập tất cả pháp-giới.
Trí-huệ quán-sát
biết tất cả thập-phương bất-tư-ngh́.
Trí-huệ quán-sát
biết tất cả phật-pháp trí huệ quang-minh vô-ngại.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ trong đó thời được trí-huệ quán-sát vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười thuyết pháp :
Nói tất cả pháp
đều từ duyên khởi.
Nói tất cả pháp
thảy đều như huyễn.
Nói tất cả pháp
không chống trái.
Nói tất cả pháp
không biên-tế.
Nói tất cả pháp
không y-chỉ.
Nói tất cả pháp
dường như kim-cang.
Nói tất cả pháp
thảy đều như như.
Nói tất cả pháp
thảy đều tịch-tịnh.
Nói tất cả pháp
thảy đều xuất ly.
Nói tất cả pháp
đều trụ một nghĩa bổn-tánh thành-tựu.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ trong đây thời có thể thiện-xảo nói tất cả pháp.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười pháp thanh-tịnh :
Thâm tâm
thanh-tịnh. Đoạn nghi thanh-tịnh. Ly-kiến thanh-tịnh. Cảnh-giới thanh-tịnh. Cầu
nhứt-thiết-trí thanh-tịnh. Biện-tài thanh-tịnh. Vô-úy thanh-tịnh. Trụ tất cả
bồ-tát trí thanh-tịnh. Thọ tất cả bồ-tát luật nghi thanh-tịnh. Đầy đủ thành-tựu
vô-thượng bồ-đề, ba mươi hai tướng trăm phước, pháp bạch-tịnh, tất cả thiện-căn
thanh-tịnh.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ trong đó thời được pháp thanh-tịnh vô-thượng của tất cả Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười ấn :
Đại Bồ-Tát biết
khổ khổ, hoại khổ, hành khổ, chuyên cầu phật-pháp chẳng sanh giải-đải, thật
hành bồ-tát hạnh không mỏi lười, chẳng kinh sợ, chẳng bỏ đại nguyện cầu
nhứt-thiết-trí kiên cố bất thối rốt ráo vô-thượng bồ-đề. Đây là ấn thứ nhứt.
Đại Bồ-Tát thấy
có chúng-sanh ngu si cuồng loạn hoặc dùng lời ác thô tệ để hủy nhục, hoặc dùng
dao gậy ngói đá để làm tổn hại, trọn không v́ việc nầy mà bỏ tâm bồ-tát, chỉ
nhẫn nhục nhu ḥa chuyên tu phật-pháp, trụ đạo tối-thắng, nhập ngôi ly-sanh.
Đây là ấn thứ hai.
Đại Bồ-Tát nghe
phật-pháp thậm thâm tương-ưng với nhứt-thiết-trí, có thể dùng tự trí thâm tín
nhẫn khả hiểu rơ xu nhập. Đây là ấn thứ ba.
Đại Bồ-Tát lại
nghĩ rằng : Tôi phát thâm tâm cầu nhứt-thiết-trí, tôi sẽ thành Phật được
vô-thượng bồ-đề. Tất cả chúng-sanh lưu chuyển năm loài chịu vô-lượng khổ, tôi
cũng làm cho họ phát tâm bồ-đề thâm tín hoan-hỉ, siêng tu tinh-tấn kiên-cố
bất-thối. Đây là ấn thứ tư.
Đại Bồ-Tát biết
Như-Lai trí vô-biên nên chẳng dùng chừng ngằn đo lường. Tất cả văn tự thế-gian
nói ra đều có chừng ngằn, đều chẳng biết được Như-Lai trí-huệ. Đây là ấn thứ
năm.
Đại Bồ-Tát nơi
vô-thượng bồ-đề được sự mong muốn tối-thắng, sự mong muốn thậm thâm, sự mong
muốn rộng, sự mong muốn lớn, nhiều sự mong muốn, sự mong muốn không ǵ hơn, sự
mong muốn vô-thượng, sự mong muốn kiên cố, sự mong muốn mà chúng ma ngoại-đạo
và quyến-thuộc không phá hoại được, sự mong muốn cầu nhứt-thiết-trí không
thối-chuyển. Bồ-Tát an trụ nơi những sự mong muốn nầy nơi vô-thượng bồ-đề rốt
ráo bất thối. Đây là ấn thứ sáu.
Đại Bồ-Tát thật
hành bồ-tát hạnh chẳng kể thân mạng không ǵ trở hoại được, v́ phát tâm xu
hướng nhứt-thiết-trí, v́ nhứt-thiết-trí-tánh thường hiện-tiền, v́ được tất cả
phật trí quang-minh, trọn chẳng bỏ rời phật bồ đề, trọn chẳng bỏ rời
thiện-tri-thức. Đây là ấn thứ bảy.
Đại Bồ-Tát nếu
thấy thiện-nam-tử thiện-nữ-nhơn xu hướng đại-thừa, thời làm cho họ tăng trưởng
tâm cầu phật-pháp, khiến họ an-trụ tất cả thiện-căn, khiến họ nhiếp thủ tâm
nhứt-thiết-trí, khiến họ bất thối vô-thượng bồ-đề. Đây là ấn thứ tám.
Đại Bồ-Tát làm
cho tất cả chúng-sanh được tâm b́nh-đẳng, khuy khiến siêng tu đạo
nhứt-thiết-trí, dùng tâm đại-bi mà v́ họ thuyết pháp, khiến họ trọn chẳng thối
chuyển nơi vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Đây là ấn thứ chín.
Đại Bồ-Tát cùng
tam thế chư Phật đồng một thiện-căn, chẳng dứt chủng-tánh của tất cả chư Phật,
rốt ráo được đến nhứt-thiết-chủng-trí. Đây là ấn thứ mười.
Bồ-Tát dùng mười
ấn nầy mau thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, đầy đủ trí-ấn nhứt-thiết-pháp
vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười trí-quang-chiếu :
Trí-quang-chiếu
quyết định sẽ thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
Trí-quang-chiếu
thấy tất cả Phật.
Trí-quang-chiếu
thấy tất cả chúng-sanh chết đây sanh kia.
Trí-quang-chiếu
hiểu tất cả tu-đa-la pháp-môn.
Trí-quang-chiếu
y-chỉ thiện-tri-thức phát tâm bồ-đề tích tập thiện-căn.
Trí-quang-chiếu
thị-hiện tất cả chư Phật.
Trí-quang-chiếu
giáo-hóa tất cả chúng-sanh đều khiến an-trụ Như-Lai địa.
Trí-quang-chiếu
diễn thuyết bất-tư-ngh́ quảng-đại pháp-môn.
Trí-quang-chiếu
thiện-xảo biết rơ tất cả chư Phật thần-thông oai-lực.
Trí-quang-chiếu
đầy đủ tất cả các ba-la-mật.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ pháp nầy thời được trí-quang-chiếu vô-thượng của tất cả chư Phật.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát có mười vô-đẳng-trụ, tất cả chúng-sanh, thanh-văn, độc-giác đều
không sánh bằng :
Đại Bồ-Tát dầu
quán thiệt-tế mà không thủ chứng, v́ tất cả nguyện chưa thành-tựu viên-măn. Đây
là vô-đẳng-trụ thứ nhứt.
Đại Bồ-Tát gieo
tất cả thiện-căn đồng pháp-giới, mà ở trong đó chẳng có một chút chấp lấy. Đây
là vô-đẳng-trụ thứ hai.
Đại Bồ-Tát tu
bồ-tát hạnh biết đó như hóa, bởi tất cả pháp đều tịch-diệt, mà chẳng nghi hoặc
nơi phật-pháp. Đây là vô-đẳng-trụ thứ ba.
Đại Bồ-Tát dầu
rời những vọng-tưởng thế-gian, nhưng hay tác ư trong bất-khả-thuyết kiếp thật
hành hạnh Bồ-Tát đầy đủ đại-nguyện, trong khoảng giữa trọn chẳng sanh tâm mỏi
nhàm. Đây là vô-đẳng-trụ thứ tư.
Đại Bồ-Tát nơi
tất cả pháp không chấp trước, v́ tất cả pháp bổn-tánh tịch-diệt. Mà chẳng chứng
niết-bàn v́ đạo nhứt-thiết-trí chưa thành măn. Đây là vô-đẳng-trụ thứ-năm.
Đại Bồ-Tát biết
tất cả kiếp đều là phi-kiếp, mà chơn-thiệt nói tất cả kiếp số. Đây là vô-đẳng
trụ thứ sáu.
Đại Bồ-Tát biết
tất cả pháp đều vô-tác, mà chẳng bỏ thật hành đạo-hạnh cầu tất cả phật-pháp.
Đây là vô-đẳng-trụ thứ bảy.
Đại Bồ-Tát biết
tam-giới duy-tâm, tam-thế duy-tâm, mà biết rơ tâm đó vô-lượng vô-biên. Đây là
vô-đẳng-trụ thứ tám.
Đại Bồ-Tát v́
một chúng-sanh, trong bất-khả-thuyết kiếp thật hành hạnh Bồ-Tát, muốn cho
chúng-sanh đó an-trụ bực nhứt-thiết-trí. Như v́ một chúng-sanh, v́ tất cả
chúng-sanh cũng như vậy, mà chẳng nhàm mỏi. Đây là vô-đẳng-trụ thứ chín.
Đại Bồ-Tát dầu
tu hành viên măn mà chẳng chứng bồ-đề. V́ Bồ-Tát nghĩ rằng tôi tu hành vốn là
v́ chúng-sanh, thế nên tôi phải ở lâu nơi sanh tử phương-tiện làm lợi-ích cho
họ đều an-trụ phật-đạo vô-thượng. Đây là vô-đẳng-trụ thứ mười.
Nếu chư Bồ-Tát
an-trụ trong đây thời được đại-trí vô-thượng, tất cả phật-pháp vô-đẳng-trụ.
Chư Phật tử ! Đại Bồ Tát phát mười tâm chẳng hạ
liệt :
Đại Bồ Tát nghĩ
rằng : Tôi sẽ hàng phục tất cả thiên ma và quyến thuộc của chúng.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ phá tất cả ngoại đạo và tà pháp của họ.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ ở nơi tất cả chúng sanh dùng lời khéo lành để khai thị dạy bảo cho họ
đều hoan hỷ.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ thành măn tất cả hạnh Ba la mật khắp pháp giới.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ tích tập tạng tất cả phước đức.
Lại nghĩ rằng :
Vô thượng Bồ đề quảng đại khó thành, tôi sẽ tu hành đến viên măn.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ dùng sự giáo hóa vô thượng, sự điều phục vô thượng để giáo hóa điều phục
tất cả chúng sanh.
Lại nghĩ rằng :
Tất cả thế giới nhiều thứ chẳng đồng, tôi sẽ dùng vô lượng thân thành Đẳng
Chánh Giác.
Lại nghĩ rằng :
Lúc tôi tu Bồ Tát hạnh, nếu có chúng sanh đến xin tôi những tay, chân, tai,
mũi, máu, thịt, xương, tủy, vợ, con, voi, ngựa, nhẫn đến ngôi vua. Tất cả như
vậy thảy đều có thể bỏ, chẳng sanh một niệm tâm lo lắng ăn năn, chỉ v́ lợi ích
tất cả chúng sanh chẳng cầu quả báo, lấy đại bi làm đầu, đại từ cứu cánh.
Lại nghĩ rằng :
Tam thế có tất cả chư Phật, tất cả Phật pháp, tất cả chúng sanh, tất cả quốc
độ, tất cả thế giới, tất cả tam thế, tất cả hư không giới, tất cả pháp giới,
tất cả ngữ ngôn thi thiết giới, tất cả tịch diệt Niết bàn giới, tất cả pháp như
vậy, tôi phải dùng một niệm tương ưng huệ đều biết, đều thấy, đều chứng, đều
tu, đều đoạn. Nhưng ở trong đó vô phân biệt, ĺa phân biệt, không các thứ sai
biệt, không công đức, không cảnh giới, chẳng có chẳng không, chẳng một chẳng
hai, do trí chẳng hai biết tất cả hai, do trí vô tướng biết tất cả tướng, do
trí vô phân biệt biết tất cả phân biệt, do trí vô dị biết tất cả dị, do trí
không sai biệt biết tất cả sai biệt, do trí không thế gian biết tất cả thế
gian, do trí không thế biết tất cả thế, do trí không chúng sanh biết tất cả
chúng sanh, do trí không chấp trước biết tất cả chấp trước, do trí vô trụ xứ
biết tất cả trụ xứ, do trí không tạp nhiễm biết tất cả tạp nhiễm, do trí vô tận
biết tất cả tận, do trí cứu cánh pháp giới biết tất cả thế giới thị hiện thân,
do trí ĺa ngôn âm thị hiện bất khả thuyết ngôn âm, do trí một tự tánh nhập nơi
không tự tánh, do trí một cảnh giới hiện các thứ cảnh giới, biết tất cả pháp
bất khả thuyết mà hiện đại tự tại ngôn thuyết, chứng bực nhứt thiết trí, v́
giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh nên ở nơi tất cả thế gian thị hiện đại
thần thông biến hóa.
Đây là mười tâm
không hạ liệt của đại Bồ Tát phát. Nếu chư Bồ Tát an trụ tâm này thời được tất
cả Phật pháp tối thượng không hạ liệt.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát nơi Vô thượng Bồ đề có mười tâm tăng thượng như núi :
Đại Bồ Tát
thường tác ư siêng tu pháp nhứt thiết trí. Đây là tâm tăng thượng như núi thứ
nhứt.
Hằng quán sát
tất cả pháp bổn tánh trống không vô sở đắc. Đây là tâm tăng thượng như núi thứ
hai.
Nguyện trong vô
lượng kiếp thật hành hạnh Bồ Tát tu tất cả pháp bạch tịnh. Do trụ nơi tất cả
pháp bạch tịnh nên thấy biết Như Lai vô lượng trí huệ. Đây là tâm tăng thượng
như núi thứ ba.
V́ cầu tất cả
Phật pháp nên tâm b́nh đẳng kính thờ chư thiện tri thức, không trông cầu ǵ
khác, không tâm trộm pháp, chỉ sanh ḷng tôn trọng vị tằng hữu, tất cả sở hữu
thảy đều bỏ được. Đây là tâm tăng thượng như núi thứ tư.
Nếu có chúng
sanh mắng nhục, hủy báng, đánh đập, cắt chém, làm thân h́nh Bồ Tát khổ đau nhẫn
đến chết. Những sự trên đây Bồ Tát đều nhẫn chịu được, trọn không sanh ḷng
động loạn, ḷng sân hại, cũng chẳng thối bỏ hoằng thệ đại bi, trái lại càng
thêm tăng trưởng không thôi ngớt. V́ Bồ Tát nơi tất cả pháp như thiệt xuất ly,
thành tựu hạnh xả, v́ chứng được tất cả Phật pháp, nhẫn nhục nhu ḥa đă tự tại.
Đây là tâm tăng thượng như núi thứ năm.
Bồ Tatù thành
tựu đại công đức tăng thượng. Những là thiên tăng thượng công đức, nhơn tăng
thượng công đức, sắc tăng thượng công đức, lực tăng thượng công đức, quyến
thuộc tăng thượng công đức, dục tăng thượng công đức, vương vị tăng thượng công
đức, tự tại tăng thượng công đức, phước đức tăng thượng công đức, trí huệ tăng
thượng công đức. Dầu thành tựu những công đức như vậy, nhưng chẳng sanh ḷng
nhiễm trước nơi những công đức đó. Chẳng nhiễm trước mùi vị, chẳng nhiễm trước
dục lạc, chẳng nhiễm trước của giàu, chẳng nhiễm trước quyến thuộc. Chỉ rất mến
thích nơi pháp, đi theo pháp, đứng theo pháp, xu hướng theo pháp, rốt ráo theo
pháp. Dùng pháp làm y chỉ, dùng pháp làm cứu hộ, dùng pháp làm quy y, dùng pháp
làm nhà. Ǵn giữ pháp, mến ưa pháp, trông cầu pháp, suy gẫm pháp. Dầu thọ đủ
những pháp lạc mà thường xa ĺa cảnh giới của chúng ma, v́ từ quá khứ Bồ Tát
phát tâm như vầy : Tôi sẽ làm cho tất cả chúng sanh thảy đều xa ĺa cảnh giới
của chúng ma mà an trụ nơi cảnh giới Phật. Đây là tâm tăng thượng như núi thứ
sáu.
Đại Bồ Tát v́ đă
cầu Vô thượng Bồ đề, trong vô lượng vô số kiếp thật hành đạo Bồ Tát siêng năng
tinh tấn, mà c̣n cho là tôi nay mới phát tâm Vô thượng Bồ đề thật hành hạnh Bồ
Tát, cũng chẳng kinh sợ. Dầu có thể khoảng một niệm liền thành Vô thượng Chánh
Giác, nhưng v́ chúng sanh nên trong vô lượng kiếp thật hành Bồ Tát hạnh không
thôi nghỉ. Đây là tâm tăng thượng như núi thứ bảy.
Đại Bồ Tát biết
tất cả chúng sanh tánh chẳng ḥa chẳng lành, khó điều khó độ, chẳng biết ơn
chẳng báo ân. Thế nên Bồ Tát v́ họ mà phát đại thệ nguyện, muốn cho họ đều được
tâm ư tự tại, chỗ làm vô ngại, ĺa bỏ ác niệm, chẳng sanh phiền năo đối với
người khác. Đây là tâm tăng thượng như núi thứ tám.
Đại Bồ Tát lại
nghĩ rằng : Chẳng phải ai khác khiến tôi phát tâm Bồ đề, cũng chẳng chờ người
khác giúp tôi tu hành. Tôi tự phát tâm tích tập Phật pháp, thề hẹn tự cố gắng
tột kiếp vị lai thật hành đạo Bồ Tát thành Vô thượng Bồ đề. Thế nên nay tôi tu
hạnh Bồ Tát phải thanh tịnh tự tâm cũng thanh tịnh tha tâm, phải biết cảnh giới
của ḿnh cũng biết cảnh giới của người. Tôi phải đều b́nh đẳng với cảnh của tam
thế chư Phật. Đây là tâm tăng thượng như núi thứ chín.
Đại Bồ Tát qúan
sát như vầy : Không có một pháp tu
hạnh Bồ Tát,
không có một pháp viên măn hạnh Bồ Tát, không có mộ pháp giáo hóa điều phục tất
cả chúng sanh, không có một pháp cung kính cúng dường tất cả chư Phật, không có
một pháp ở nơi Vô thượng Bồ đề đă thành, hiện thành, sẽ thành, không có một
pháp đă nói, hiện nói, sẽ nói. Người nói và pháp đều bất khả đắc, nhưng cũng
chẳng bỏ nguyện Vô thượng Bồ đề. V́ Bồ Tát cầu tất cầu tất cả pháp đều vô sở
đắc, như vậy xuất sanh Vô thượng Bồ đề. Thế nên nơi pháp dầu vô sở đắc mà siêng
tu tập pháp đối trị tăng thượng thiện nghiệp thanh tịnh, trí huệ viên mản niệm
niệm tăng trưởng tất cả đầy đủ. Nơi đây ḷng Bồ Tát chẳng kinh sợ. Chẳng nghỉ
rằng : nêú tất cả pháp thảy đều tịch diệt thời tôi có nghỉa ǵ mà cầu đạo Vô
thượng Bồ đề. Đây là tâm tăng thượng Bồ đề. Đây là tâm tăng thượng như núi thứ
mười.
Nếu như Bồ Tát
an trụ trong đây thời được tâm tăng thượng như sơn vương
Đại trí vô
thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười trí như biển nhập Vô thượng Bồ đề :
Trí như biển
nhập tất cả vô lượng chúng sanh giới.
Trí như biển
nhập tất cả thế giới mà chẳng sanh tâm phân biệt,
Trí như biển
biết tất cả hư không giới vô lượng vô ngại vào khắp lưới tất cả thế giới sai
biệt ở mười phương.
Trí như biển
khéo nhập pháp giới. Những là nhập vô ngại, nhập chẳng đoạn, nhập chẳng thường,
nhập vô lượng, nhập chẳng sanh, nhập chẳng diệt, nhập tất cả, v́ đều biết rơ
vậy.
Trí như biển nơi
quá khứ vị lai hiện tại chư Phật, Bồ Tát, Pháp Sư, Thanh Văn, Độc Giác và tất
cả phàm phu chứa nhóm thiện căn, đă nhóm, sẽ nhóm, tam thế chư Phật đă thành,
nay thành và sẽ thànhVô thượng Bồ đề, tam thế chư Phật thuyết pháp điều phục
tất cả chúng sanh, đă nói, nay nói, sẽ nói. Có bao nhiêu thiện căn, Bồ Tát đều
rơ biết tất cả, thâm tín tùy hỉ, nguyện thích tu tập không nhàm đủ.
Trí như biển
trong mỗi niệm nhập quá khứ thế bất khả thuyết kiếp. Ở trong một kiếp hoặc có
trăm ức Phật xuất thế, hoặc có ngàn ức Phật xuất thế, hoặc trăm ngàn ức Phật
xuất thế, hoặc có vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc vô đẳng, hoặc bất
khả sổ, hoặc bất khả xưng, hoặc bất khả tư, hoặc bất khả lượng, hoặc bất khả
thuyết, hoặc bất khả thuyết bất khả thuyết, siêu quá toán số chư Phật Thế Tôn
xuất hiện ra đời. Và đạo tràng, chúng hội Thanh Văn, Bồ Tát, thuyết pháp điều
phục tất cả chúng sanh, thọ mạng dài vắn, pháp trụ lâu mau. Tất cả như vậy thảy
đều thấy rơ. Như một kiếp, tất cả các kiếp cũng đều thấy rơ như vậy. Những kiếp
không Phật, có những chúng sanh gieo căn lành nơi Vô thượng Bồ đề cũng đều biết
rơ. Nếu có chúng sanh thiện căn đă thành thục nơi đời vị lai sẽ được thấy Phật
cũng đều biết rơ. Quán sát quá khứ thế bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp như
vậy tâm không nhàm đủ.
Trí như biển
nhập vị lai thế quán sát tất cả kiếp vô lượng vô biên, biết kiếp nào có Phật,
kiếp nào không Phật, kiếp nào có bao nhiêu Như Lai xuất thế. Mỗi Như lai danh
hiệu ǵ, ở thế giới nào, thế giới tên ǵ, độ bao nhiêu chúng sanh, thọ mạng bao
nhiêu thời gian. Quán sát như vậy tột vị lai tế đều biết rơ tất cả chẳng cùng
tận mà không nhàm đủ.
Trí như biển
nhập hiện tại thế quán sát tư duy. Trong mỗi niệm thấy khắp vô biên phẩm loại
mười phương. Nơi bất khả thuyết thế giới đều có chư Phật nơi Vô thượng Bồ đề đă
thành, nay thành, sẽ thành, đi đến đạo tràng dưới cây Bồ đề, ngồi trên cỏ kiết
tường hàng phục ma quân, thành Đẳng Chánh giác. Rời cây Bồ đề vào thành ấp, lên
cung trời chuyển đại pháp luân, thị hiện thần thông điều phục chúng sanh, nhẫn
đến phó chúc Vô thượng Bồ đề, xả thọ mạng nhập niết bàn. Đă nhập Niết bàn kiết
tập pháp tạng khiến c̣n ở lâu tại thế gian. Trang nghiêm Phật pháp nhiều thứ
cúng dường. Cũng thấy thế giới kia, tất cả chúng sanh gặp Phật, nghe pháp, thọ
tŕn cúng tụng nghi nhớ tư duy tăng trưởng huệ giải. Quán sát cùng khắp mười
phương, mà ở nơi Phật pháp không sai lầm. V́ vậy Bồ tát biết rơ chư Phật thảy
đều như mộng, mà hay đến chỗ chư Phật cung kính cúng dường. Bấy giờ Bồ Tát
chẳng chấp tự thân, chẳng chấp nơi Phật, chẳng chấp thế giới, chẳng chấp chúng
hội, chẳng chấp thuyết pháp, chẳng chấp kiếp số, nhưng vẫn thấy Phật, nghe
Pháp, giám sát thế giới vào các kiếp số không nhàn đủ.
Trí như biển nơi
bất khả, bất khả thuyết kiếp, trong mỗi mỗi kiếp cúng dường cung kính bất khả
thuyết bất khả kiếp vô lượng chư Phật, thị hiện tự thân mất đây sanh kia, đem
tất cả đồ cúng hơn hẳn tam giới để cúng dường Phật, cúng dường Bồ tát, Thanh
Văn, tất cả đại chúng. Sau khi mỗi đức như lai nhập Niết bàn, Bồ tát đều dùng
đồ cúng vô thượng để cúng dường Xá lợi và rộng làm sự bố thí để chúng sanh được
đầy đủ. Đại Bồ Tát dùng tâm bất tư ngh́, tâm chẳng cầu báo, tâm rốt ráo, tâm
nhiêu ích, trong bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp v́ Vô thượng Bồ đề mà cúng
dường chư Phật, lợi ích chúng sanh, hộ tŕ chánh pháp khai thị diễn thuyết.
Trí như biển
ngay chỗ của tất cả Phật, chỗ của tất cả Bồ Tát, chỗ của tất cả Pháp Sư, nhứt
hướng chuyên cầu Pháp của Bồ Tát đă thuyết, Pháp của Bồ Tát đă học, Pháp của Bồ
Tát đă dạy, Pháp của Bồ Tát tu hành, Pháp của Bồ Tát thanh tịnh, Pháp của Bồ
Tát thành phục, Pháp của Bồ Tát điều phục, Pháp b́nh đẳng của Bồ Tát, Pháp xuất
ly của Bồ Tát, Pháp tổng tŕ của Bồ Tát. Được Pháp này rồi, Bồ Tát thọ tŕ đọc
tụng phân biệt giải thuyết không nhàm đủ, trí vô lượng chúng sanh trong Phật
Pháp phát tâm tương ứng với nhứt thuyết trí nhập tướng chơn thiệt. Nơi vô
thượng Bồ Đề được bất hối chuyển. Như vậy trong bất khả thuyết bất khả thuyết
kiếp không nhàm đủ.
Đây là mười trí
như biển nhặt vô thượng Bồ đề của đại Bồ tát. nếu chư Bồ Tát an trụ Pháp này
th́ được biển đại trí huệ vô thượng của tất cả chư Phật.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát nơi vô thượng Bồ đề có mười thứ như thiệt trụ :
Đại Bồ Tát đều
có thể qua đến chỗ chư Phật nơi vô số thế giới, chiêm ngưỡng đảnh lễ hầu hạ
cúng dường. Đây là như thiệt trụ thứ nhất.
Ở chỗ của Bất tư
ngh́ chư Phật lắng nghe chánh pháp thọ tŕ nghi nhớ không để quên mất, phân
biệt tư duy giác huệ tăng trưởng. Việc làm như vậy tràn đầy mười phương đây là
như thiệt trụ thứ hai.
Nơi cơi này mất,
thị hiện xứ khác, mà với Phật Pháp không mê hoặc. Đây là như thiệt trụ thứ ba.
Biết từ một Pháp
xuất sanh tất cả Pháp mà hay đều viên phân biệt diễn thuyết, bởi những nghĩa
của tất cả Pháp rốt ráo đều là một nghĩa. Đây là như thiệt trụ thứ tư.
Biết nhàm ĺa
phiền năo, biết ngăn dứt phiền năo, biết pḥng hộ phiền năo, biết trừ đoạn
phiền năo, tu hạnh Bồ Tát chẳng chính thiệt tế, rốt ráo đến nơi thiệt tế bỉ
ngạn, phương tiện thiện xảo học giỏi nơi sở học, làm cho hạnh nguyện thuở xưa
đều được thành măn, thân chẳng mỏi nhọc. Đây là như thiệt trụ thứ năm.
Biết tất cả
chúng sanh, những tâm phân biệt của họ đều không xứ sở mà cũng nói có những
phương xứ. dầu không phân biệt không tạo tác, nhưng v́ muốn điều phục tất cả
chúng sanh nên có tu hành nên có sở tác. Đây là như thiệt trụ thứ sáu.
Biết tất cả Pháp
đều đồng một tánh, nghĩa là vô tánh : không các thứ tánh, không vô lượng tánh,
không khả toán sổ tánh, không khả xứng lượng tánh, không sắc, không tướng, hoặc
một hoặc nhiều đều bất khả đắc, mà quyết định biết rơ đây là Phật Pháp, đây là
Bồ Tát Pháp, Đây là Độc Giác Pháp, đây là Thanh Văn Pháp, đây là Phàm Phu pháp,
đây là Thiện Pháp, đây là Bất Thiện Pháp, đây là Thế Gian Pháp, đây là Xuất Thế
Gian Pháp, đây là Pháp Lỗi Lầm, đây là Pháp Không Lỗi Lầm, đây là Pháp Hữu Lậu,
đây là Pháp Vô Lậu, nhẫn đến đây là Pháp Hữu Vi, đây là Pháp Vô Vi. Đây là như
thiệt trụ thứ bảy.
Đại Bồ Tát cầu
Phật Bất khả đắc, cầu Bồ Tát bất khả đắc, cầu Pháp bất khả đắc cầu chúng sanh
bất khả đắc, mà cũng chẳng bỏ điều phục chúng sanh khiến ở nơi các Pháp nguyện
thành chánh giác. V́ Đại Bồ Tát khéo quan sát biết tất cả chúng sanh phân biệt,
biết tất cả chúng sanh cảnh giới phương tiện hoá đạo khiến dược Niết Bàn, V́
muốn hoàn măn nguyện giáo hoá chúng sanh nên mạnh mẽ tu hành Bồ Tát hạnh. Đây
là như thiệt trụ thứ tám.
Đại Bồ Tát biết
thiện xảo thuyết pháp, thị hiện Niết Bàn. V́ độ chúng sanh nện bao nhiêu phương
tiện đă có, tất cả đều là tâm tưởng kiến lập, chẳng phải là điên đảo, cũng
chẳng phải hư dối. V́ Bồ Tát biết rơ các Pháp tam thế b́nh đẳng như như bất
động thiệt tế vô trụ. Chẳng thấy có một chúng sanh đă thọ hoá độ, nay thọ hoá
độ, sẽ thọ hoá độ. Cũng tự biết rơ không chỗ tu hành. Không có chút Pháp ǵ
hoặc sanh hoặc diệt mà có thể được. Nhưng vẫn nương nơi tất cả Pháp khiến sở
nguyện chẳng luống không. Đây là như thiệt trụ thứ chín.
Đại Bồ Tát nơi
bất tư ngh́ vô lượng chư Phật ở chỗ mỗi đức Phật nghe bất khả thuyết bất khả
thuyết pháp thọ kí danh hiệu đều khác, kiếp số chẳng đồng, từ nơi một kiếp nhẫn
đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp thường nghe như vậy. Nghe rồi tu hành
chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng mê, chẳng hoặc, v́ biết Phật trí bất tư ngh́, v́
đức Như Lai thọ kí không hai lời, v́ tự thân hạnh nguyện sức thu øthắng, v́ tùy
nghi thọ hoákhiến thành vô thượng bồ đề thành măn tất cả nguyện đồng pháp giới.
Đây là như thiệt trụ thứ mười.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời dược đại trí huệ bửu vô thượng của chư Phật.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát phát mười thứ tâm thệ nguyện đại thừa như Kim cang :
Đại Bồ Tát nghĩ
rằng : Tất cả các pháp chẳng có biên tế, chẳng cùng tận tôi sẽ dùng trí tận tam
thếđều giác liễu khắp cả không sót thừa. Đây là tâm thệ nguyện Đại thừa như Kim
cang thứ nhứt.
Lại nghĩ rằng :
Ở chỗ một đầu lông có vô lượng vô biên chúng sanh, huống là tất cả pháp giới.
Tôi sẽ đều dùng vô thượng Niết bàn mà diệc độ họ. Đây là tâm thệ nguyện Đại
thừa như Kim cang thứ hai.
Lại nghĩ rằng :
Mười phương thế giới vô lương vô bienâ không có ngằn mé, không thể cùng tận.
Tôi sẽ dùng Phật độ tối thựơng trang nghiêm, để trang nghiêm tất cả thế giới
như vậy, bao nhiêu sự trang nghiêm thảy đều chơn thiệt. Đây là tâm thệ nguyện
Đại thừa như Kim cang thứ ba.
Lại nghĩ rằng :
Tất cả chúng sanh vô lượng vô biên không có chừng ngằn, không thể cùng tận. Tôi
sẽ đem tất cả thiện căn hồi hướng cho họ. Dùng trí quang vô thượng chiếu diệu
nơi họ. Đây là tâm thệ nguyện Đại thừa như Kim cang thứ tư.
Lại nghĩ rằng :
Tất cả chư Phật vô lượng vô biên không có chừng ngằn, không thể cùng tận. Tôi
sẽ dùng thiện căn đă gieo hồi hướng cúng dường đều khiến cùng khắp không chỗ
kém thiếu, rồi sau tôi sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Đây là tâm thệ nguyện Đại thừa
như Kim cang thứ năm.
Đại Bồ Tát thấy
chư Phật, nghe Phật thuyết pháp, ḷng rất hoan hỷ, chẳng chấp tự thân, Phật
thân Hiểu thân Như Lai chẳng thiệt chẳng hư, chẳng có chẳng không, chẳng tánh
chẳng không tánh, chẳng sắc chẳng không sắc, chẳng tướng chẳng không tướng,
chẳng sanh chẳng diệt, thiệt vô sỡ hữu, cũng chẳng hoại sỡ hữu. V́ chẳng thể
dùng tất cả tánh tướng để chấp lấy. Đây là tâm thệ nguyện Đại thừa như Kim cang
thứ sáu.
Đại Bồ Tát hoặc
bị chúng sanh quở trách mắng nhiếc đánh đập, hoặc chặt tay chân, hoặc thẻo tai
mũi, hoặc móc mắt, hoặc cắt đầu. Tất cả sự khổ nhục như vậy đều nhẫn thọ được.
Trọn không v́ đây mà sanh ḷng sân hại. Trong bất khả thuyết bất khả thuyết
kiếp tu hạnh Bồ Tát nhiếp thọ chúng sanh hằng không phế bỏ. V́ Đại Bồ Tát đă
khéo quán sát tất cả các pháp không có hai tướng, tâm chẳng động loạn, có thể
bỏ thân ḿnh mà nhẫn sự khổ đó. Đây là tâm thệ nguyện Đại thừa như Kim cang thứ
bảy.
Lại nghĩ rằng :
Vị lai thế kiếp số vô lượng vô biên không có chừng ngằn chẳng thể cùng tận. Tôi
sẽ tột kiếp số đó ở một thế giới tu hạnh Bồ Tát giáo hoá chúng sanh. Như một
thế giới, tận pháp giới hư không giới tất cả thế giới cũng đều như vậy mà ḷng
không kinh sợ. V́ đạo Bồ Tát lẽ phải như vậy, v́ tất cả chúng sanh mà tu hành
như vậy. Đây là tâm thệ nguyện Đại thừa như Kim cang thứ tám.
Lại nghĩ rằng :
Vô thượng Bồ đề do tâm làm gốc. Nếu tâm thanh tịnh thời có thể viên măn tất cả
thiện căn, nơi Phật Bồ Đề tất được tự tại, muốn thành Vô thượng Bồ Đề tùy ư
liền thành. Nếu muốn dứt trừ tất cả thủ duyên trụ đạo nhứt hướng, tôi cũng có
thể làm được. Nhưng tôi chẳng dứt, v́ muốn rốt ráo Phật Bồ Đề. Tôi cũng chẳng
liền chứng Vô thượng Bồ Đề, v́ để thành măn bổn nguyện : tận tất cả thế giới
hành đạo Bồ Tát giáo hoá chúng sanh. Đây là tâm thệ nguyện Đại thừa như Kim
cang thứ chín.
Đại Bồ Tát biết
Phật bất khả đắc, Bồ Đề bất khả đắc, Bồ Tát bất khả đắc, tất cả pháp bất khả
đắc, chúng sanh bất khả đắc, tâm bất khả đắc, hạnh bất khả đắc, quá khứ bất khả
đắc, vị lai bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, tất cả thế gian bất khả đắc, hữu
vi vô vi bất khả đắc. Bồ Tát như vậy trụ tịch tịnh, trụ thậm thâm, trụ tịch
diệt, trụ vô tránh, trụ vô ngôn, trụ vô nhị, trụ vô đẳng, trụ tự tánh, trụ như
lư, trụ giải thoát, trụ Niết Bàn, trụ thiệt tế, mà cũng chẳng bơ tất cả đại
nguyện, chẳng bỏ tâm Nhứt thiết trí, chẳng bỏ hạnh Bồ Tát, chẳng bỏ giáo hoá
chúng sanh, chẳng bỏ các Ba la mật, chẳng bỏ điều phục chúng sanh, chẳng bỏ
thừa sự chư Phật, chẳng bỏ diễn thuyết các Pháp, chẳng bỏ trang nghiêm thế
giới. V́ Đại Bồ Tát phát đại nguyện, dầu thấu rơ tất cả pháp tướng mà tâm đại
từ bi lại càng tăng trửơng, vô lượng công đức đều tu hành đủ, với các chúng
sanh ḷng không bỏ rời. V́ tất cả pháp đều vô sở hữu, phàm phu ngu mê chẳng hay
chẳng biết, tôi sẽ làm cho họ đều được khai ngộ, nơi các pháp tánh chiếu rơ
phân minh. V́ tất cả chư Phật an trụ tịch diệt mà dùng tâm đại bi nơi các thế
gian thuyết pháp giáo hoá chưa tùng thôi nghĩ. Nay tôi sao lại rời bỏ đại bi !
Lại trước kia tôi phát tâm thệ nguyện quảng đại, phát tâm quyết định lợi ích
tất cả chúng sanh, phát tâm chứa nhóm tất cả thiện căn, phát tâm an trụ thiện
xảo hồi hướng, phát tâm xuất tâm trí huệ thậm thâm, phát tâm hàm thọ tất cả
chúng sanh, phát tâm b́nh đẳng với tất cả chúng sanh, nói lời chơn thiệt, lời
chẳng hư dối, nguyện ban cho tất cả chúng sanh đại pháp vô thượng, nguyện chẳng
dứt chủng tánh tất cả chư Phật. Nay tất cả chúng sanh chưa được giải thoát,
chua thành Chánh Giác, chưa đủ Phật pháp, đại nguyện tôi chưa viên măn thế nào
tôi lại muốn bỏ rời đại bi ! Đây là tâm thệ nguyện Đại thừa như Kim cang thứ
mười.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được trí đại thần thông vô thượng Kim cang tánh của Như
Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười pháp đại phát khởi :
Đại Bồ Tát nghĩ
rằng : Tôi sẽ cúng dường cung kính tất cả chư Phật. Đây là đại phát khởi thứ
nhứt.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ trưởng dưỡng tất cả thiện căn của Bồ Tát. Đây là đại phát khởi thứ hai.
Lại nghĩ rằng :
Sau khi đức Như Lai nhập Niết bàn, tôi sẽ trang nghiêm Phật pháp. Dùng tất cả
thứ hoa, tất cả tràng hoa, tất cả hương, tất cả hương thoa, tất cả hương bột,
tất cả y, tất cả lọng, tất cả tràng, tất cả phan mà cúng dường tháp. Thọ tŕ
thủ hộ chánh pháp của Phật. Đây là đại phát khởi thứ ba.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh khiến họ được Vô thượng Bồ đề. Đây
là đại phát khởi thứ tư.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ dùng Phật độ vô thượng trang nghiêm để trang nghiêm tất cả thế giới. Đây
là đại phát khởi thứ năm.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ phát tâm đại bi v́ một chúng sanh nơi tất cả thế giới, mỗi mỗi đều tột
kiếp thưở vị lai thật hành Bồ Tát hạnh. Như v́ một chúng sanh v́ tất cả chúng
sanh cũng như vậy, đều khiến họ được Vô thượng Bồ đề, nhẫn đến chẳng sanh một
niệm mỏi lười. Đây là đại phát khởi thứ sáu.
Lại nghĩ rằng :
Chư Như Lai đó vô lượng vô biên, tôi sẽ ở chỗ một đức Như Lai trải qua bất tư
ngh́ kiếp cung kính cúng dường. Như ở nơi một đức Như Lai, nơi tất cả đức Như
Lai cũng đều như vậy. Đây là đại phát khởi thứ bảy.
Lại nghĩ rằng :
Sau khi chư Như Lai đó diệt độ, mỗi đức Như Lai có bao nhiêu Xá lợi, tôi sẽ đều
xây bửu pháp cao rộng bằng bất khả thuyết thế giới. Tạo tượng Phật cũng như
vậy. Trong bất tư ngh́ kiếp dùng tất cả bửu tràng, phan, lọng, hương, hoa, y
phục để cúng dường. Chẳng sanh một tâm niệm nhàm mỏi. V́ cúng dường chư Phật,
v́ thành tựu Phật pháp, v́ giáo hóa chúng sanh, v́ hộ tŕ chánh pháp khai thị
diễn thuyết. Đây là đại phát khởi thứ tám.
Lại nghĩ rằng :
Tôi sẽ dùng thiện căn này thành Vô thượng Bồ đề được nhập Phật địa. Cùng với
tất cả Như Lai thể tánh b́nh đẳng. Đây là đại phát khởi thứ chín.
Lại nghĩ rằng :
Khi tôi đă thành Chánh giác, nơi tất cả thế giới trong bất khả thuyết kiếp diễn
thuyết chánh pháp, thị hiện bất tư ngh́ thần thông tự tại. Thân, ngữ, ư chẳng
nhàm mỏi, chẳng rời chánh pháp. V́ do Phật lực hộ tŕ, v́ tất cả chúng sanh mà
siêng thật hành đại nguyện, v́ đại từ làm đầu, v́ đại bi rốt ráo, v́ đạt pháp
vô tướng, v́ trụ chơn thiệt ngữ, v́ chứng tất cả pháp đều tịch diệt, v́ biết
tất cả chúng sanh đều bất khả đắc mà cũng chẳng trái những công hạnh đă làm, v́
cùng tam thế Phật đồng một thể, v́ cùng khắp pháp giới hư không giới, v́ thông
đạt chư pháp vô tướng, v́ thành tựu bất sanh bất diệt, v́ đầy đủ tất cả Phật
pháp nên dùng sức đại nguyện điều phục chúng sanh làm đại Phật sự không có thôi
nghỉ. Đây là đại phát khởi thứ mười.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời rốt ráo Bồ Tát hạnh, đầy đủ đại trí vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười đại sự rốt ráo :
Đại sự rốt ráo
cung kính cúng dường tất cả Như Lai.
Đại sự rốt ráo
tùy nghĩ nhớ đến chúng sanh nào có thể cứu hộ.
Đại sự rốt ráo
chuyên cầu tất cả Phật pháp.
Đại sự rốt ráo
chứa nhóm tất cả thiện căn.
Đại sự rốt ráo
tư duy tất cả Phật pháp.
Đại sự rốt ráo
đầy đủ tất cả đại nguyện.
Đại sự rốt ráo
thành tựu tất cả hạnh Bồ Tát.
Đại sự rốt ráo
phụng sự tất cả thiện tri thức.
Đại sự rốt ráo
qua đến tất cả thế giới chỗ của chư Phật.
Đại sự rốt ráo
nghe và thọ tŕ chánh pháp của chư Phật.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được sự rốt ráo đại trí huệ Vô thượng Bồ đề.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười thứ bất hoại tín :
Bất hoại tín đối
với tất cả chư Phật.
Bất hoại tín đối
với tất cả Phật pháp.
Bất hoại tín đối
với tất cả Thánh tăng.
Bất hoại tín đối
với tất cả Bồ Tát.
Bất hoại tín đối
với tất cả thiện tri thức.
Bất hoại tín đối
với tất cả chúng sanh.
Bất hoại tín đối
với đại nguyện của tất cả Bồ Tát.
Bất hoại tín đối
với tất cả Bồ Tát hạnh.
Bất hoại tín đối
với sự cung kính cúng dường tất cả chư Phật.
Bất hoại tín đối
với phương tiện thiện xảo giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh của Bồ Tát.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được bất hoại tín đại trí huệ vô thượng của chư Phật.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười điều được thọ kư :
Trong có tri
giải thậm thâm, được thọ kư.
Hai tùy thuận
phát khởi những Bồ Tát thiện căn, được thọ kư.
Tu quảng đại
hạnh, được thọ kư.
Hiện tiền, được
thọ kư.
Chẳng hiện tiền,
được thọ kư.
Nhơn tự tâm
chứng Bồ đề, được thọ kư.
Thành tựu nhẫn,
được thọ kư.
Giáo hóa điều
phục chúng sanh, được thọ kư.
Rốt ráo tất cả
kiếp số, được thọ kư.
Tất cả Bồ Tát
hạnh tự tại, được thọ kư.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này, thời ở chỗ chư Phật được thọ kư.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười thứ thiện căn hồi hướng. Bồ Tát do đây có thể dùng tất cả
thiện căn thảy đều hồi hướng :
Do
thiện căn tôi đồng thiện tri thức nguyện. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Do
thiện căn tôi đồng thiện tri thức hạnh. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Do
thiện căn tôi đồng thiện tri thức căn. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Do
thiện căn tôi đồng thiện tri thức b́nh đẳng. Thành tựu như đây chớ thành tựu
khác.
Do
thiện căn tôi đồng thiện tri thức niệm. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Do
thiện căn tôi đồng thiện tri thức thanh tịnh. Thành tựu như đây chớ thành tựu
khác.
Do
thiện căn tôi đồng thiện tri thức sở trụ. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Do
thiện căn tôi đồng thiện tri thức thành măn. Thành tựu như đây chớ thành tựu
khác.
Do
thiện căn tôi đồng thiện tri thức bất hoại. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thiện căn hồi hướng vô thượng.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp được trí huệ :
Xả
thí tự tại, được trí huệ.
Hiểu
sâu tất cả Phật pháp, được trí huệ.
Nhập
Như Lai trí, được trí huệ.
Hay
đoạn nghi trong tất cả vấn đáp, được trí huệ.
Nhập
nơi nghĩa của trí giả, được trí huệ.
Hay
hiểu sâu ngôn âm thiện xảo trong tất cả Phật pháp của tất cả chư Phật, được trí
huệ.
Hiểu
sâu ở chỗ chư Phật gieo ít căn lành tất có thể đầy đủ tất cả pháp bạch tịnh,
được trí vô lượng của Như Lai, được trí huệ.
Thành
tựu Bồ Tát bất tư ngh́ trụ, được trí huệ.
Ở
trong một niệm đều có thể qua đến bất khả thuyết cơi Phật, được trí huệ.
Giác
ngộ chư Phật Bồ đề, nhập tất cả pháp giới, văn tŕ tất cả pháp của Phật nói,
vào sâu những ngôn âm trang nghiêm của tất cả Như Lai, được trí huệ.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được hiện chứng trí vô thượng của tất cả chư
Phật.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp phát tâm vô lượng vô biên quảng đại tâm :
Ở
chỗ của tất cả chư Phật phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Quán
tất cả chúng sanh giới phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Quán
sát tất cả cơi, tất cả thế, tất cả pháp giới phát vô lượng vô biên quảng đại
tâm.
Quán
sát tất cả pháp đều như hư không phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Quán
sát hạnh quảng đại của Bồ Tát phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Chánh
niệm tam thế tất cả chư Phật phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Quán
sát những nghiệp báo bất tư ngh́ phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Nghiêm
tịnh tất cả cơi Phật phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Vào
khắp đại hội của tất cả chư Phật phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Quán
sát diệu âm của tất cả Như Lai phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ mười tâm quảng đại này thời được biển trí huệ quảng đại vô
lượng vô biên quảng đại tâm.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ mười tâm quảng đại này thời được biển trí huệ quảng đại vô
lượng vô biên tất cả Phật pháp.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười phục tạng :
Biết
tất cả pháp là tạng khởi hạnh công đức.
Biết
tất cả pháp là tạng chánh tư duy.
Biết tất cả pháp
là tạng đà la ni chiếu sáng.
Biết tất cả pháp
là tạng biện tài khai diễn.
Biết tất cả pháp
là tạng bất khả thuyết thiện giác chơn thiệt.
Biết tất cả Phật
tự tại thần thông là tạng quán sát thị hiện.
Biết tất cả pháp
là tạng thiện xảo xuất sanh b́nh đẳng.
Biết tất cả pháp
là tạng thường thấy tất cả chư Phật.
Biết tất cả bất
tư ngh́ kiếp là tạng biết rơ đều như huyễn trụ.
Biết tất cả chư
Phật Bồ Tát là tạng phát sanh hoan hỷ tịnh tín.
Nếu chư Bồ Tát an
trụ pháp này thời được pháp tạng trí huệ vô thượng của tất cả chư Phật. Trọn có
thể điều phục tất cả chúng sanh.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười luật nghi :
Luật nghi chẳng
hủy báng tất cả Phật pháp.
Luật nghi ở chỗ
chư Phật tin mến tâm chẳng hoại được.
Luật nghi tôn
trọng cung kính tất cả Bồ Tát.
Luật nghi trọn
chẳng bỏ tâm mến thích tất cả thiện tri thức.
Luật nghi chẳng
móng ḷng ghi nhớ tất cả Thanh Văn, Độc Giác.
Luật nghi xa lùa
tất cả sự thối chuyển Bồ Tát đạo.
Luật nghi chẳng
khởi tất cả tâm tổn hại chúng sanh.
Luật nghi tu tất
cả thiện căn đều khiến rốt ráo.
Luật nghi đều có
thể hàng phục được tất cả ma.
Luật nghi đều
làm cho đầy đủ tất cả Ba la mật.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được luật nghi đại trí vô thượng.
Chư Phật tử ! Đại
Bồ Tát có mười tự tại :
Mạng tự tại, v́
trụ thọ mạng trong bất khả thuyết kiếp.
Tâm tự tại, v́
trí huệ hay nhập vô số tam muội.
Đồ dùng tự tại,
v́ hay dùng vô lượng đồ trang nghiêm để trang nghiêm tất cả thế giới
Nghiệp tự tại,
v́ tùy thời thọ báo.
Thọ sanh tự tại,
v́ thị hiện thọ sanh nơi tất cả thế giới.
Giải tự tại, v́
thấy Phật đầy khắp tất cả thế giới.
Nguyện tự tại,
v́ trong các cơi tùy dục tùy thời mà thành Chánh giác.
Thần lực tự tại,
v́ thị hiện tất cả đại thần thông.
Pháp tự tại, v́
thị hiện vô biên pháp môn.
Trí tự tại, v́
trong mỗi niệm thị hiện Như Lai thập lực vô úy thành Chánh giác
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được viên măn tất cả các môn Ba la mật, Trí huệ thần lực,
Bồ đề tự tại của chư Phật.
Chư Phật tử
! Đại Bồ Tát có mười vô ngại dụng :
Chúng sanh vô
ngại dụng.
Quốc độ vô ngại
dụng
Pháp vô ngại
dụng.
Thân vô ngại
dụng.
Nguyện vô ngại
dụng.
Cảnh giới vô
ngại dụng.
Trí vô ngại
dụng.
Thần thông vô
ngại dụng.
Thần lực vô ngại
dụng
Lực vô ngại
dụng.
Thế nào là chúng
sanh vô ngại dụng của Đại Bồ Tát ?
Đại Bồ Tát có
mười chúng sanh vô ngại dụng :
Biết tất cả
chúng sanh không chúng sanh, vô ngại dụng.
Biết tất cả
chúng sanh chỉ do tưởng chấp tŕ, vô ngại dụng.
V́ tất cả chúng
sanh thuyết pháp chưa từng lỗi thời, vô ngại dụng.
Khắp hoá hiện
tất cả chúng sanh giới, vô ngại dụng.
Để tất cả chúng
sanh ở trong một lỗ lông mà không chật hẹp, vô ngại dụng.
V́ tất cả chúng
sanh thị hiện tất cả thế giới phương khác cho họ đều được thấy, vô ngại dụng.
V́ tất cả chúng
sanh thị hiện những thân trời : Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, vô ngại
dụng.
V́ tát cả chúng
sanh thị hiện Thanh Văn, Bích Chi Phật oai nghi tịch tịnh, vô ngại dụng.
V́ tất cả chúng
sanh thị hiện Bồ Tát hạnh, vô ngại dụng.
V́ tất cả chúng
sanh thị hiện chư Phật, sắc thân tướng hảo, nhứt thiết trí lực, thành Đẳng
Chánh Giác, vô ngại dụng.
Đại Bồ Tát có
mười quốc độ vô ngại dụng :
Tất cả cơi làm
một cơi, vô ngại dụng.
Tất cả cơi vào
một lỗ lông, vô ngại dụng.
Biết tất cả cơi
vô tận, vô ngại dụng.
Một thân ngồi
kiết già đầy khắp tất cả cơi, vô ngại dụng.
Trong một thân
hiện tất cả cơi, vô ngại dụng.
Chấn động tất cả
cơi chẳng khiến chúng sanh kinh sợ, vô ngại dụng.
Dùng đồ trang
nghiêm tất cả cơi để trang nghiêm một cơi, vô ngại dụng.
Dùng đồ trang
nghiêm một cơi để trang nghiêm tất cả cơi, vô ngại dụng.
Đem một Như Lai,
một chúng hội khắp tất cả Phật độ thị hiện cho chúng sanh, vô ngại dụng.
Tất cả cơi nhỏ,
cơi vừa, cơi lớn, cơi rộng, cơi sâu, cơi ngửa, cơi úp, cơi nghiêng, cơi ngay,
khắp các phương vô lượng sai biệt. Đem những cơi này khắp thị hiện cho tất cả
chúng sanh, vô ngại dụng.
Đại Bồ Tát có
mười pháp vô ngại dụng :
Biết tất cả pháp
vào một pháp, một pháp vào tất cả pháp mà chẳng trái tâm giải của chúng sanh,
vô ngại dụng.
Từ Bát nhă Ba la
mật xuất sanh tất cả pháp, v́ người khác giải nói đều làm cho khai ngộ, vô ngại
dụng.
Biết tất cả pháp
ĺa văn tự mà khiến chúng sanh đều được ngộ nhập, vô ngại dụng.
Biết tất cả pháp
nhập một tướng mà hay diễn thuyết vô lượng pháp tướng, vô ngại dụng.
Biết tất cả pháp
ĺa ngôn thuyết mà có thể v́ người nói vô biên pháp môn, vô ngại dụng.
Nơi tất cả pháp
khéo chuyển phổ môn tự luân, vô ngại dụng.
Đem tất cả pháp
vào một pháp môn mà chẳng trái nhau, trong bất khả thuyết kiếp nói chẳng cùng
tận, vô ngại dụng.
Đem tất cả pháp
đều vào Phật pháp, khiến các chúng sanh đều được tỏ ngộ, vô ngại dụng.
Biết tất cả pháp
không có biên te, vô ngại dụng.
Biết tất cả pháp
không ngằn mé chướng ngại, dường như lưới huyễn vô lượng sai biệt, trong vô
lượng kiếp v́ chúng sanh mà nói chẳng thể cùng tận, vô ngại dụng.
Đại Bồ Tát có
mười thân vô ngại dụng :
Đem tất cả thân
chúng sanh vào thân ḿnh, vô ngại dụng.
Đem thân ḿnh
vào thân tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Đem tất cả Phật
thân vào một Phật thân, vô ngại dụng.
Đem một Phật
thân vào tất cả Phật thân, vô ngại dụng.
Đem tất cả cơi
vào thân ḿnh, vô ngại dụng.
Đem một thân đầy
khắp tất cả pháp tam thế thị hiện cho chúng sanh, vô ngại dụng.
Nơi một thân thị
hiện vô biên thân nhập tam muội, vô ngại dụng
Nơi một thân thị
hiện thân đồng số chúng sanh thành Chánh giác, vô ngại dụng.
Nơi thân tất cả
chúng sanh hiện thân một chúng sanh, nơi thân một chúng sanh hiện thân tất cả
chúng sanh, vô ngại dụng.
Nơi thân tất cả
chúng sanh thị hiện pháp thân, nơi pháp thân thị hiện thân tất cả chúng sanh,
vô ngại dụng.
Đại Bồ Tát có
mười nguyện vô ngại dụng :
Đem nguyện của
tất cả Bồ Tát làm nguyện của ḿnh, vô ngại dụng.
Đem nguyện lực
thành Bồ đề của tất cả Phật, thị hiện tự ḿnh thành Chánh giác, vô ngại dụng.
Tùy chúng sanh
được hoá độ, tự ḿnh thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô ngại dụng.
Nơi tất cả vô
biên tế kiếp, đại nguyện chẳng dứt, vô ngại dụng.
Xa ĺa thức
thân, chẳng chấp trí thân, dùng nguyện tự tại hiện tất cả thân, vô ngại dụng.
Xả bỏ thân ḿnh
để thành măn nguyện của người, vô ngại dụng.
Giáo hoá khắp
tất cả chúng sanh mà chẳng bỏ đại nguyện, vô ngại dụng.
Ở tất cả kiếp
thật hành Bồ Tát hạnh mà đại nguyện chẳng dứt, vô ngại dụng.
Ở một lỗ lông
hiện thành Chánh giác, do nguyện lực nên đầy khắp tất cả Phật độ. Ở bất khả
thuyết bất khả thuyết thế giới v́ mỗi mỗi chúng sanh mà thị hiện như vậy, vô
ngại dụng.
Nói một câu pháp
khắp tất cả pháp giới, nổi mây lớn chánh pháp, chói điển quang giải thoát, nổ
tiếng sấm thiệt pháp, rưới mưa vị cam lồ, dùng nguyện lực lớn thấm nhuần khắp
tất cả chúnh sanh giới, vô ngại dụng.
Đại Bồ Tát có
mười cảnh giới vô ngại dụng :
Tại pháp giới
cảnh giới mà chẳng bỏ chúng sanh cảnh giới, vô ngại dụng.
Tại Phật cảnh
giới mà chẳng bỏ ma cảnh giới, vô ngại dụng.
Tại Niết bàn
cảnh giới mà chẳng bỏ sanh tử cảnh giới, vô ngại dụng
Nhập nhứt thiết
trí cảnh giới mà chẳng dứt Bồ Tát chủng tánh cảnh giới, vô ngại dụng.
Trụ cảnh giới
tịch tịnh mà chẳng bỏ cảnh giới tán loạn, vô ngại dụng.
Trụ cảnh giới
như hư không, chẳng khứ, chẳng lai, không hư luận, không tướng trạng, không thể
tánh, không ngôn thuyết mà chẳng bỏ cảnh giới hư luận của tất cả chúng sanh, vô
ngại dụng.
Trụ cảnh giới
những trí lực, giải thoát mà chẳng bỏ cảnh giới của tất cả những phương sở, vô
ngại dụng.
Nhập cảnh giới
vô chúng sanh tế, mà chẳng bỏ giáo hoá tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Trụ cảnh giới
tịch tịnh thiền định giải thoát thần thông minh trí, mà ở tất cả thế giới thị
hiện thọ sanh, vô ngại dụng.
Trụ cảnh giới
Như Lai tất cả hạnh trang nghiêm thành Chánh giác, mà hiện oai nghi tịch tịnh
của tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, vô ngại dụng.
Đại Bồ Tát có
mười trí vô ngại dụng :
Vô tận biện tài,
vô ngại dụng.
Tất cả tổng tŕ
không quên mất, vô ngại dụng.
Hay quyết định
biết, quyết định nói những căn tánh của tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Ở trong một niệm
dùng trí vô ngại biết tâm hành của tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Biết bịnh dục
lạc tùy miên tập khí phiền năo cảu tất cả chúng sanh, tùy theo chỗ thích nghi
mà cho thuốc, vô ngại dụng.
Khoảng một niệm
hay vào được Thập lực của Như Lai, vô ngại dụng.
Dùng trí vô ngại
biết tất cả kiếp tam thế và chúng sanh trong đó, vô ngại dụng.
Ở trong mỗi niệm
hiện thành Chánh giác, thị hiện cho chúng sanh không đoạn tuyệt, vô ngại dụng.
Nơi một chúng
sanh tưởng biết tất cả chúng sanh nghiệp, vô ngại dụng.
Nơi ngôn âm của
một chúng sanh, hiểu lời nói của tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Đại Bồ Tát có
mười môn thần thông vô ngại dụng :
Nơi một thân thị
hiện tất cả thế giới thân, vô ngại dụng.
Nơi chúng hội
một đức Phật, thính thọ lời thuyết pháp trong chúng hội của tất cả chư Phật, vô
ngại dụng.
Ở trong tâm niệm
của một chúng sanh, thành tựu bất khả thuyết Vô thượng Bồ đề, khai ngộ tâm của
tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Dùng một âm
thanh hiện ngôn âm sai biệt của tất cả thế giới, làm cho tất cả chúng sanh đều
được hiểu rơ, vô ngại dụng.
Trong một niệm
hiện hết tất cả kiếp quá khứ có bao nhiêu nghiệp quả nhiều thứ sai khác, làm
cho các chúng sanh đều được thấy biết, vô ngại dụng.
Một vi trần xuất
hiện cơi Phật quảng đại vô lượng trang nghiêm, vô ngại dụng.
Làm cho tất cả
thế giới đầy đủ trang nghiêm, vô ngại dụng.
Vào khắp tất cả
tam thế, vô ngại dụng.
Phóng quang minh
đại pháp, hiện tất cả chư Phật Bồ đề, tất cả chúng sanh hạnh nguyện, vô ngại
dụng.
Khéo thủ hộ tất
cả Thiên, Long, Bát Bộ, Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, Thanh Văn, Độc
Giác, Bồ Tát, bao nhiêu Thập lực của Như Lai, thiện căn của Bồ Tát, vô ngại
dụng.
Nếu chư Bồ Tát
được thần thông vô ngại dụng này thời có thể vào khắp tất cả Phật pháp.
Đại Bồ Tát có
mười thần lực vô ngại dụng :
Đem bất khả
thuyết thế giới để vào một vi trần, vô ngại dụng.
Trong một vi
trần hiện khắp pháp giới tất cả cơi Phật, vô ngại dụng.
Đem nước tất cả
đại hải để vào một lỗ lông qua lại cùng khắp mười phương thế giới mà không làm
xúc năo chúng sanh, vô ngại dụng.
Đem bất khả
thuyết thế giới nạp trong thân ḿnh, thị hiện tất cả việc làm do sức thần
thông, vô ngại dụng.
Dùng một sợi
lông buộc bất khả sổ núi Kim Cang, núi Thiết Vi, cầm đi du hành tất cả thế
giới, chẳng làm cho chúng sanh có ḷng kinh sợ, vô ngại dụng.
Đem bất khả
thuyết kiếp làm một kiếp, một kiếp làm bất khả thuyết kiếp, trong đó thị hiện
sự thành hoại sai biệt, chẳng làm cho chúng sanh có ḷng kinh sợ, vô ngại dụng.
Trong tất cả thế
giới hiện thủy tai, hỏa tai, phong tai, những sự biến hoại mà chẳng năo chúng
sanh, vô ngại dụng.
Tất cả thế giới
lúc tam tai hoại, đều có thể hộ tŕ đồ dùng của tất cả chúng sanh, chẳng để tổn
hư thiếu thốn, vô ngại dụng.
Dùng một tay cầm
bất tư ngh́ thế giới, ném ra ngoài bất khả thuyết thế giới, chẳng làm cho chúng
sanh có tưởng kinh sợ, vô ngại dụng.
Nói tất cả cơi
đồng với hư không, làm cho các chúng sanh đều được tỏ ngộ, vô ngại dụng.
Đại Bồ Tát có
mười lực vô ngại dụng :
Chúng sanh lực
vô ngại dụng, v́ giáo hóa điều phục chẳng bỏ rời.
Sát lực vô ngại
dụng, v́ thị hiện bất khả thuyết trang nghiêm để trang nghiêm.
Pháp lực vô ngại
dụng, v́ làm cho tất cả thân vào một thân.
Kiếp lực vô ngại
dụng, v́ tu hành chẳng dứt.
Phật lực vô ngại
dụng, v́ giác ngộ thùy miên.
Hành lực vô ngại
dụng, v́ nhiếp thủ tất cả Bồ Tát hạnh.
Như Lai lực vô
ngại dụng, v́ độ thoát tất cả chúng sanh.
Vô sư lực vô
ngại dụng, v́ tự giác tất cả các pháp.
Nhứt thiết trí
lực vô ngại dụng, v́ dùng nhứt thiết trí thành Chánh giác.
Đại bi lực vô
ngại dụng, v́ chẳng bỏ tất cả chúng sanh.
Trên đây là mười
môn vô ngại dụng của chư đại Bồ Tát. Nếu có Bồ Tát được mười môn vô ngại dụng
này, thời nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, muốn thành hay chẳng muốn thành
đều tùy ư vô ngại. Dầu thành Chánh giác nhưng vẫn chẳng dứt hạnh Bồ Tát. Tại
sao vậy ? V́ đại Bồ Tát phát thệ nguyện lớn nhập vô biên môn vô ngại dụng mà
thiện xảo thị hiện.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười môn du hư :
Đem thân chúng
sanh làm thân quốc độ, mà cũng chẳng hoại thân chúng sanh, là môn du hư của Bồ
Tát.
Đem thân quốc độ
làm thân chúng sanh, mà cũng chẳng hoại thân quốc độ, là môn du hư của Bồ Tát.
Nơi Phật thân
thị hiện thân Thanh Văn, thân Độc Giác, mà chẳng tổn giảm thân Phật, là môn du
hư của Bồ Tát.
Nơi thân Thanh
Văn, thân Độc Giác thị hiện Phật thân, mà chẳng tăng trưởng thân Thanh Văn,
thân Độc Giác, là môn du hư của Bồ Tát.
Nơi thân Bồ Tát
hạnh thị hiện thân thành Chánh giác mà chẳng đoạn thân Bồ Tát hạnh, là môn du
hư của Bồ Tát.
Nơi thân thành
Chánh giác thị hiện thân tu Bồ Tát hạnh, mà chẳng giảm thân thành Chánh giác,
là môn du hư của Bồ Tát.
Nơi cơi Niết bàn
thị hiện thân sanh tử, mà chẳng nhiễm trước sanh tử, là môn du hư của Bồ Tát.
Nơi cơi sanh tử
thị hiện Niết bàn, mà chẳng rốt ráo nhập nơi Niết bàn, là môn du hư của Bồ Tát.
Nhập tam muội mà
thị hiện tất cả nghiệp đi, đứng, ngồi, nằm, nhưng chẳng bỏ rời tam muội chánh
thọ, là môn du hư của Bồ Tát.
Ở chỗ một đức
Phật nghe pháp thọ tŕ, thân chẳng động mà dùng sức tam muội ở trong bất khả
thuyết Phật hội đều hiện thân mà chẳng phân thân cũng chẳng khởi định, mà nghe
pháp thọ tŕ tương tục chẳng dứt, niệm niệm như vậy nơi mỗi mỗi thân tam muội
đều xuất sanh bất khả thuyết bất khả thuyết thân tam muội. Thứ đệ như vậy, tất
cả kiếp c̣n có thể cùng tận, mà thân tam muội của Bồ Tát chẳng thể cùng tận, là
môn du hư của Bồ Tát.
Đây là mười môn
du hư. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này, thời được đại trí du hư vô thượng của
Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười cảnh giới :
Thị hiện môn vô
biên pháp giới, làm chochúng sanh được nhập, là cảnh giới của Bồ Tát.
Thị hiện tất că
thế giới vô lượng diệu trang nghiêm làm cho chúng sanh được nhập, là cảnh giới
của Bồ Tát.
Hóa hiện ra tầt
cả chúng sanh giới, đều phương tiện khai ngộ, là cảnh giới của Bồ Tát.
Nơi thân Như Lai
xuất hiện thân Bồ Tát, nơi thân Bồ Tát xuất hiện thân Như Lai, là cảnh giới
của Bồ Tát.
Nơi hư không
hiện thế giới, nơi thế giới hiện hư không, là cảnh giới của Bồ Tát.
Nơi sanh tử giới
hiện Niết bàn giới, Nơi Niết bàn giới hiện sanh tử giới, là cảnh giới của Bồ
Tát. Ở trong ngôn ngử của một chúng sanh xuất sanh ngử ngôn của tất c ả Phật
Pháp, là cảnh giới của Bồ Tát.
Đem vô biên thân
hiện làm một thân, một thân hiện làm tất cả thân sai biệt, là cảnh giới của Bồ
Tát.
Đem một thân đầy
khắp tất cả pháp giới, là cảnh giới của Bồ Tát.
Ở trong một niệm
làm cho tất cả chúng sanh phát tâm Bồ đề, đều hiện vô lượng thân thành Đẳng
Chánh Giác, là cảnh giới của Bổ Tát.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp nầy thời được cảnh giới đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười lực :
Thâm tâm lực, v́
chẳng tạp tất cả thế t́nh.
Tăng thượng thâm
tâm lực, v́ chẳng bỏ tất cả Phật pháp.
Phương tiện lực,
v́ tất cả công hạnh đều rốt ráo.
Trí lực, v́ biết
tất cả tâm hành.
Nguyện lực, v́
tất cả mong cầu đều làm cho viên mản.
Hạnh lực, v́
cùng tột thuở vị lai chẳng dứt.
Thừa lực, v́ hay
xuất sanh tất cả thừa mà chẳng bỏ Đại thừa.
Thần biến lực,
v́ ở trong mỗi lỗ lông đều thị hiện tất cả thế giới thanh tịnh, tất cả Như Lai
xuất thế.
Bồ đề lực, v́
làm cho tất cả chúng sanh phát tâm thành Phật không đoạn tuyệt.
Chuyển pháp luân
lực, v́ nói một câu pháp đều xứng những tánh dục lạc của tất cả chúng sanh.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được thập lực nhứt thiết trí vô thượng của chư Phật.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười vô úy :
Đại Bồ Tát đều
hay văn tŕ tất cả ngôn thuyết nghĩ rằng : giả sử có vô lượng vô biên chúng
sanh từ mười phương đến đem trăm ngàn đại pháp để hỏi tôi. Nơi tất cả câu hỏi
của họ, tôi không thấy có chút ǵ khó đáp cả. V́ không thấy khó nên tâm được vô
úy, rốt ráo đến bĩ ngạn đại vô úy. Tùy theo chỗ họ hỏi đều có thể giải đáp
quyết đoán trừ sự nghi hoặc cho họ không hề khiếp sợ. Đây là vô úy thứ nhứt của
đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát được
Như Lai quán đảnh vô ngại biện tài đến nơi bĩ ngạn rốt ráo tất cả văn tự ngôn
âm khai thị bí mật. Nghĩ rằng : giả sử có vô lượng vô biên chúng sanh từ mười
phương đến, đem vô lượng pháp hỏi tôi. Nơi tất cả lời hỏi của họ, tôi không
thấy có chút ǵ là khó đáp cả. V́ không thấy khó nên tâm được vô úy, rốt ráo
đến nơi bĩ ngạn đại vô úy. Tùy chỗ hỏi của họ đều có thể giải đáp dứt nghi hoặc
không kinh sợ. Đây là môn vô úy thứ hai của đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát biết
tất cả pháp là không, ĺa ngă, ĺa ngă sở, không tạo tác, không tác giả, không
tri giả, không mạng giả, không dưỡng dục giả, không bổ đặc già la. Rời uẩn, xứ,
giới. Thoát hẳn các kiến chấp. Tâm như hư không. Nghĩ rằng : chẳng thấy chúng
sanh có chút tướng tổn năo được thân ngữ ư của tôi. Tại sao vậy ? V́ đại Bồ Tát
đă rời ngă và ngă sở, nên chẳng thấy các pháp có chút tánh tướng. V́ chẳng thấy
nên tâm được vô úy, rốt ráo đến bĩ ngạn đại vô úy, kiên cố dũng mănh chẳng ai
trở hoại được. Đây là môn úy thứ ba của đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát được
Phật lực gia hộ, Phật lực nhiếp tŕ, trụ tại oai nghi của Phật, việc làm chơn
thiệt không biến đổi. Nghĩ rằng : tôi chẳng thấy có chút phần oai nghi làm cho
chúng sanh móng ḷng quở trách. V́ chẳng thấy nên tâm được vô úy, ở trong đại
chúng an ổn thuyết pháp. Đây là môn vô úy thứ tư của đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát, thân
khẩu ư đều thanh tịnh, sạch trắng nhu ḥa, xa ĺa những điều ác. Nghĩ rằng :
tôi chẳng thấy thân khẩu ư ba nghiệp có chút phần đáng quở trách. V́ chẳng thấy
nên tâm được vô úy, có thể làm cho chúng sanh an trụ nơi Phật pháp. Đây là môn
vô úy thứ năm của đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát
thường được Kim Cang lực sĩ, Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Đế
Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương v.v... theo hộ vệ. Tất cả Như Lai luôn hộ
niệm chẳng rời. Đại Bồ Tát nghĩ rằng tôi chẳng thấy có chúng ma ngoại đạo kẻ tà
kiến nào có thể đến làm chướng ngại hạnh Bồ Tát của tôi. V́ chẳng thấy nên tâm
được vô úy rốt ráo đến bỉ ngạn đại vô úy, phát tâm hoan hỷ thật hành hạnh Bồ
Tát. Đây là môn vô úy thứ sáu của đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát đă
được thành tựu niệm căn đệ nhứt tâm không quên mất, được Phật hứa khả. Nghĩ
rằng : Đức Như Lai nói văn tự cú pháp thành đạo Bồ đề. Trong đó tôi chẳng thấy
có chút phần quên mất. V́ chẳng thấy nên tâm được vô úy, thọ tŕ tất cả chánh
pháp của Như Lai, thật hành Bồ Tát hạnh. Đây là môn vô úy thứ bảy của đại Bồ
Tát.
Đại Bồ Tát trí
huệ phương tiện đều đă thông đạt, Bồ Tát chư lực đều đă rốt ráo, thường xuyên
giáo hóa tất cả chúng sanh. V́ bi mẫn chúng sanh nên luôn dùng nguyện tâm khắn
chặt nơi Phật Bồ đề. V́ thành tựu chúng sanh nên ở nơi đời phiền năo trược thị
hiện thọ sanh, ḍng họ tôn quư, quyến thuộc viên măn, chỗ mong muốn tùy tâm
được toại nguyện, hoan hỷ vui sướng. Nghĩ rằng : tôi dầu cùng quyến thuộc này
tụ hội mà chẳng có một chút ǵ đáng tham luyến để bỏ phế việc tu hành thiền
định, giải thoát và các môn tam muội, tổng tŕ, biện tài, đạo pháp Bồ Tát. Tại
sao vậy ? V́ đại Bồ Tát ở nơi tất cả pháp đă được tự tại đến bĩ ngạn, tu hạnh
Bồ Tát thề chẳng đoạn tuyệt. Chẳng thấy thế gian có một cảnh giới nào làm mê
loạn được Bồ Tát đạo. V́ chẳng thấy nên tâm được vô úy rốt ráo đến nơi bĩ ngạn
đại vô úy. Dùng đại nguyện lực nơi tất cả thế giới thị hiện thọ sanh. Đây là
môn vô úy thứ tám của đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát luôn
chẳng quên mất tâm Nhứt thiết trí, ngự nơi Đại thừa, thật hành hạnh Bồ Tát.
Dùng thế lực của đại tâm nhứt thiết trí, thị hiện tất cả oai nghi tịch tịnh của
Thanh Văn, Độc Giác. Nghĩ rằng : tôi chẳng tự thấy sẽ ở nơi nhị thừa mà lấy
chút phần xuất ly. V́ chẳng thấy nên tâm được vô úy đến nơi bĩ ngạn vô thượng
đại vô úy. Có thể khắp thị hiện đạo nhứt thiết thừa, rốt ráo đầy đủ b́nh đẳng
Đại thừa. Đây là môn vô úy thứ chín của đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát thành
tựu tất cả pháp bạch tịnh, đầy đủ thiện căn, viên măn thần thông, rốt ráo an
trụ nơi Phật Bồ đề, đầy đủ tất cả hạnh Bồ Tát. Ở chỗ chư Phật thọ kư nhứt thiết
trí quán đảnh, mà thường khuyến hóa chúng sanh thật hành Bồ Tát đạo. Nghĩ rằng
: tôi chẳng tự thấy có một chúng sanh đáng được thành thục, mà chẳng thể thị
hiện Phật tự tại để thành thục. V́ chẳng thấy nên tâm được vô úy, rốt ráo đến
nơi bĩ ngạn đại vô úy, chẳng dứt Bồ Tát hạnh, chẳng bỏ Bồ Tát nguyện. Tùy tất
cả chúng sanh đáng được giáo hóa, hiện Phật cảnh giới để giáo hóa họ. Đây là
môn vô úy thứ mười của đại Bồ Tát.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được đại úy vô thượng của chư Phật, nhưng cũng chẳng bỏ vô
úy của Bồ Tát.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười pháp bất cộng :
Đại Bồ Tát chẳng
do người dạy, tự nhiên tu hành sáu pháp Ba la mật, thường thích đại thí chẳng
hề bỏn xẻn, luôn tŕ tịnh giới chẳng hủy phạm, đầy đủ nhẫn nhục tâm chẳng lay
động, có đại tinh tấn chưa từng thối chuyển, khéo vào các thiền định trọn không
tán loạn, khéo tu trí huệ trừ sạch ác kiến. Đây là pháp bất cộng thứ nhứt :
chẳng do người dạy mà tùy thuận đạo Ba la mật tu Lục độ.
Đại Bồ Tát hay
khắp nhiếp thọ tất cả chúng sanh, dùng của cải và chánh pháp để ban cho họ,
chánh niệm hiện tiền, ḥa nhan ái ngữ, trong ḷng hoan hỷ, dạy nghĩa như thiệt,
làm cho được tỏ ngộ Phật Bồ đề, không hiềm ghét b́nh đẳng làm lợi ích cho tất
cả. Đây là pháp bất cộng thứ hai : chẳng do người dạy, tùy thuận đạo Tứ nhiếp
pháp siêng nhiếp thọ tất cả chúng sanh.
Đại Bồ Tát thiện
xảo hồi hướng : Chẳng cầu quả báo mà hồi hướng, cầu Phật Bồ đề mà hồi hướng,
chẳng tham chấp tất cả thiền định tam muội thế gian mà hồi hướng, v́ lợi ích
tất cả chúng sanh mà hồi hướng, v́ chẳng dứt trí huệ của Như Lai mà hồi hướng.
Đây là pháp bất cộng thứ ba : chẳng do người dạy, v́ các chúng sanh phát khởi
thiện căn cầu Phật trí huệ.
Đại Bồ Tát đến
bỉ ngạn rốt ráo thiện xảo phương tiện, ḷng thường ngó lại tất cả chúng sanh,
chẳng nhàm cảnh giới thế tục phàm ngu, chẳng thích đạo xuất ly của Nhị thừa,
chẳng ham sự an lạc của ḿnh, chỉ siêng hóa độ khéo có thể nhập xuất thiền định
giải thoát, nơi các tam muội đều được tự tại, qua lại chốn sanh tử như dạo
trong vườn chưa từng tạm sanh ḷng mỏi nhàm. Hoặc ở ma cung, hoặc làm Thiên Đế,
Phạm Vương, Thế Chủ. Tất cả chỗ có chúng sanh, không nơi nào chẳng hiện thân
trong đó. Hoặc xuất gia trong chúng ngoại đạo mà luôn xa ĺa tất cả tà kiến.
Tất cả văn từ chú thuật tự ấn toán số nhẫn đến ca vũ du hí của thế gian thảy
đều thị hiện không một môn nào chẳng tinh xảo. Hoặc có lúc thị hiện làm phụ nữ
xinh đẹp, trí huệ tài năng đệ nhứt trong đời. Nơi pháp thế gian và xuất thế đều
hay hỏi hay thuyết, vấn đáp quyết nghi đều rốt ráo cả. Tất cả sự thế gian và
xuất thế cũng đều thông đạt đến bĩ ngạn. Tất cả chúng sanh thường đến chiêm
ngưỡng. Dầu hiện oai nghi Thanh Văn, Bích Chi Phật mà chẳng mất tâm Đại thừa.
Dầu trong mỗi niệm thị hiện thành Chán giác mà chẳng dứt Bồ Tát hạnh. Đây là
pháp bất cộng thứ tư : chẳng do người dạy, được phương tiện thiện xảo rốt ráo
bĩ ngạn.
Đại Bồ Tát khéo
biết đạo quyền thiệt song hành, trí huệ tự tại đến rốt ráo. Những là an trụ nơi
Niết bàn mà thị hiện sanh tử. Biết không chúng sanh mà siêng thật hành công
hạnh giáo hóa. Rốt ráo tịch diệt mà thị hiện khỏi phiền năo. An trụ một pháp
thân trí huệ kiên mật, mà hiện khắp vô lượng thân chúng sanh. Thường nhập thâm
thiền định mà thị hiện thọ dục lạc. Thường xa rời tam giới mà chẳng bỏ chúng
sanh. Thường thích pháp lạc mà hiện có thể nữ ca ngâm hát múa. Dầu dùng những
tướng hảo trang nghiêm thân ḿnh mà thị hiện thọ thân bần tiện xấu xí. Thường
chứa nhóm những điều lành không có lỗi ác mà thị hiện sanh địa ngục, súc sanh,
ngạ quỷ. Dầu đă đến nơi Phật trí bĩ ngạn mà cũng chẳng bỏ trí thân Bồ Tát. Đại
Bồ Tát thành tựu vô lượng trí huệ như vậy. Thanh Văn Bích Chi Phật c̣n chẳng
biết được, huống là tất cả hàng đồng môn chúng sanh. Đây là pháp bất cộng thứ
năm : chẳng do người dạy, quyền thiệt song hành.
Đại Bồ Tát thân
khẩu ư ba nghiệp tùy trí huệ hành thảy đều thanh tịnh. Những là đầy đủ đại từ
ĺa hẳn tâm sát sanh, nhẫn đến đầy đủ chánh giải không có tà kiến. Đây là pháp
bất cộng thứ sáu : chẳng do người dạy, thân khẩu ư ba nghiệp tùy trí huệ hành.
Đại Bồ Tát đầy
đủ đại bi chẳng bỏ chúng sanh, thay tất cả chúng sanh mà chịu khổ. Những là
chịu khổ địa ngục, khổ súc sanh, khổ ngạ quỷ. V́ lợi ích cho chúng sanh nên
chẳng sanh mỏi nhọc, chỉ chuyên độ thoát tất cả chúng sanh, chưa từng nhiễm say
cảnh giới ngũ dục. Thường v́ chúng sanh mà chuyên cần diệt trừ mọi sự khổ. Đây
là pháp bất cộng thứ bảy : chẳng do người dạy, thường có ḷng đại bi.
Đại Bồ Tát
thường được chúng sanh thích thấy : Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương nhẫn
đến tất cả chúng sanh thấy không biết chán. Tại sao vậy ? V́ đại Bồ Tát từ đời
lâu xa đến nay, hành nghiệp thanh tịnh không có lỗi lầm, v́ thế nên chúng sanh
thích thấy không nhàm. Đây là pháp bất cộng thứ tám : không do người dạy, tất
cả chúng sanh thảy đều thích thấy.
Đại Bồ Tát nơi
nhứt thiết trí đại thệ trang nghiêm chí nguyện kiên cố. Dầu ở chỗ phàm phu,
Thanh Văn, Độc Giác, hiểm nạn, trọn không thối thất tâm nhứt thiết trí diệu bửu
sáng sạch. Như có bửu châu tên là Tịnh trang nghiêm để trong bùn lầy vẫn không
thay đổi màu sáng, có thể làm cho nước đục thảy đều đứng sạch. Cũng vậy đại Bồ
Tát dầu ở chỗ phàm ngu tạp trược, trọn chẳng hư mất bửu tâm thanh tịnh cầu nhứt
thiết trí, mà có thể làm cho những chúng sanh ác kia xa rời uế trược phiền năo
vọng kiến để được tâm bửu cầu nhứt thiết trí. Đây là pháp bất cộng thứ chín :
chẳng do người dạy : tại những chỗ hiểm nạn chẳng mất trân bửu Nhứt thiết trí.
Đại Bồ Tát thành
tựu trí tự giác cảnh giới. Không thầy tự ngộ rốt ráo tự tại đến bĩ ngạn. Dùng
lụa pháp ly cấu để đội trên đầu, mà chẳng bỏ sự thân cận thiện hữu, thường
thích tôn trọng chư Như Lai. Đây là pháp bất cộng thứ mười : chẳng do người
dạy, được pháp tối thượng chẳng rời thiện tri thức, chẳng bỏ tôn trọng Phật.
Trên đây là mười
pháp bất cộng của Bồ Tát. Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi pháp này thời được pháp bất
cộng quảng đại vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười nghiệp :
Tất cả thế giới
nghiệp, v́ đều có thể trang nghiêm thanh tịnh.
Tất cả chư Phật
nghiệp, v́ đều có thể cúng dường.
Tất cả Bồ Tát nghiệp,
v́ đồng gieo thiện căn.
Tất cả chúng
sanh nghiệp, v́ đều có thể giáo hóa.
Tất cả vị lai
nghiệp, v́ nhiếp thủ tột thưở vị lai.
Tất cả thần lực
nghiệp, v́ chẳng rời một thế giới đến khắp tất cả thế giới.
Tất cả quang
minh nghiệp, v́ phóng quang minh vô biên màu, trong mỗi quang minh có ṭa liên
hoa đều có Bồ Tát ngồi kiết già trên đó. Dùng đây để hiển hiện.
Tất cả giống Tam
Bửu chẳng đoạn nghiệp, v́ sau khi đức Phật diệt độ thời thủ hộ trụ tŕ những
Phật pháp.
Tất cả biến hóa
nghiệp, v́ ở tất cả thế giới thuyết pháp giáo hóa các chúng sanh.
Tất cả gia tŕ
nghiệp, ở trong một niệm tùy tâm sở thích của các chúng sanh đều v́ họ mà thị
hiện làm cho tất cả nguyện vọng đều thành măn.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp này thời được nghiệp quảng đại vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười thân :
Bất lai thân, v́
chẳng thọ sanh ở tất cả thế gian.
Bất khứ thân, v́
nơi tất cả thế gian cầu chẳng được.
Bất thiệt thân,
v́ tất cả thế gian được như thiệt.
Bất hư thân, v́
dùng lư như thiệt thị hiện thế gian.
Bất tận thân, v́
tột thưở vị lai không đoạn tuyệt.
Kiên cố thân, v́
tất cả chúng sanh ma chẳng phá hoại được.
Bất động thân,
v́ chúng ma ngoại đạo chẳng động được.
Cụ tướng thân,
v́ thị hiện tướng trăm phước thanh tịnh.
Vô tướng thân, v́
pháp tướng rốt ráo đều vô tướng.
Phổ chí thân, v́
đồng một thân với tam thế Phật.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp này thời được thân vô thượng vô tận của Như Lai.
Đại Bồ Tát có
mười thân nghiệp :
Thân nghiệp nơi
một thân tràn đầy tất cả thế giới.
Thân nghiệp ở
trước tất cả chúng sanh đều có thể thị hiện.
Thân nghiệp nơi
tất cả loài đều có thể thọ sanh.
Thân nghiệp du
hành tất cả thế giới.
Thân nghiệp qua
đến tất cả chúng hội của chư Phật.
Thân nghiệp dùng
một tay có thể che khắp tất cả thế giới.
Thân nghiệp có
thể dùng một tay chà tất cả thế giới kim cang vi sơn nát như vi trần.
Thân nghiệp ở
trong tự thân hiện tất cả cơi Phật thành hoại chỉ bày cho chúng sanh.
Thân nghiệp dùng
một thân dung thọ tất cả chúng sanh giới.
Thân nghiệp ở
trong thân hiện khắp tất cả cơi Phật thanh tịnh tất cả chúng sanh, rồi ở trong
đó hiện thành đạo.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được Phật nghiệp vô thượng của Như Lai. Đều có thể giác
ngộ tất cả chúng sanh.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát lại có mười thân :
Ba la mật thân,
v́ đều chánh tu hành.
Tứ nhiếp thân,
v́ chẳng bỏ tất cả chúng sanh.
Đại bi thân, v́
thay tất cả chúng sanh chịu vô lượng khổ không mỏi nhàm.
Đại từ thân, v́
cứu hộ tất cả chúng sanh.
Phước đức thân,
v́ lợi ích tất cả chúng sanh.
Trí huệ thân, v́
đồng một tánh với tất cả Phật thân.
Pháp thân, v́
ĺa hẳn thọ sanh các loài.
Phương tiện
thân, v́ tất cả xứ hiện tiền.
Thần lực thân,
v́ thị hiện tất cả thần biến.
Bồ đề thân, v́
tùy thích tùy thời thành Chánh giác.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp này thời được thân đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười ngữ :
Nhu nhuyến ngữ,
v́ làm cho tất cả chúng sanh đều an ổn.
Cam lồ ngữ, v́
làm cho tất cả chúng sanh đều thanh lương.
Bất cuống ngữ,
v́ bao nhiêu lời nói đều chơn thiệt.
Chơn thiệt ngữ,
v́ nhẫn đến trong chiêm bao cũng không vọng ngữ.
Quảng đại ngữ,
v́ tất cả Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương v.v... đều tôn kính.
Thậm thâm ngữ,
v́ hiển thị pháp tánh.
Kiên cố ngữ, v́
thuyết pháp vô tận.
Chánh trực ngữ,
v́ phát ngôn dễ hiểu.
Chủng chủng ngữ,
v́ tùy thời thị hiện.
Khai ngộ tất cả
chúng sanh ngữ, v́ tùy theo chỗ dục lạc của họ mà làm cho họ được hiểu rơ.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp này thời được vi diệu ngữ vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười điều tịnh tu ngữ nghiệp :
Tịnh tu ngữ
nghiệp, thích lắng nghe âm thanh của đức Như Lai.
Tịnh tu ngữ
nghiệp, thích nghe nói công đức của Bồ Tát.
Tịnh tu ngữ
nghiệp, chẳng nói những lời mà tất cả chúng sanh chẳng thích nghe.
Tịnh tu ngữ nghiệp,
chơn thiệt xa ĺa bốn lỗi lầm của lời nói.
Tịnh tu ngữ
nghiệp, hoan hỷ hớn hở tán thán Như Lai.
Tịnh tu ngữ
nghiệp, ở chỗ tháp Như Lai to tiếng khen ngợi công đức như thiệt của chư Phật.
Tịnh tu ngữ
nghiệp, dùng tâm thâm tịnh ban bố chánh pháp cho chúng sanh.
Tịnh tu ngữ
nghiệp, âm nhạc ca tụng tán thán đức Như Lai.
Tịnh tu ngữ
nghiệp, ở chỗ chư Phật lắng nghe chánh pháp chẳng tiếc thân mạng.
Tịnh tu ngữ
nghiệp, xả thân thừa sự tất cả Bồ Tát và các Pháp Sư để lănh thọ diệu pháp.
Nếu đại Bồ Tát đem
mười việc này để tịnh tu ngữ nghiệp thời được mười điều thủ hộ :
Được Thiên Vương
cầm đầu cùng tất cả Thiên chúng thủ hộ.
Được Thiên Vương
cầm đầu cùng tất cả Long chúng thủ hộ.
Được Dạ Xoa
Vương cầm đầu cùng tất cả chúng Dạ Xoa thủ hộ.
Được Càn Thát Bà
Vương cầm đầu cùng tất cả chúng Càn Thát Bà thủ hộ.
Được A Tu La
Vương cầm đầu, Ca Lâu La Vương cầm đầu, Khẩn Na La Vương cầm đầu, Ma Hầu La Già
Vương cầm đầu, Phạm Vương cầm đầu. Mỗi Vương đều cùng chúng của ḿnh để thủ hộ
Bồ Tát này.
Được Như Lai Pháp
Vương cầm đầu, tất cả Pháp Sư thảy đều thủ hộ.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát được sự thủ hộ này rồi thời có thể thành tựu mười đại sự :
Tất cả chúng
sanh đều làm cho hoan hỷ.
Tất cả thế giới
đều có thể qua đến.
Tất cả căn tánh
đều có thể rơ biết.
Tất cả thắng
giải đều làm cho thanh tịnh.
Tất cả phiền năo
đều làm cho đoạn trừ.
Tất cả tập khí
đều làm cho xả ly.
Tất cả dục lạc
đều làm cho sáng sạch.
Tất cả thâm tâm
đều làm cho tăng trưởng.
Tất cả pháp giới
đều làm cho cùng khắp.
Tất cả Niết bàn
khắp làm cho thấy rơ.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười tâm :
Tâm như đại địa,
v́ có thể ǵn có thể lớn những thiện căn của tất cả chúng sanh.
Tâm như đại hải,
v́ tất cả chư Phật vô lượng vô biên đại trí pháp thủy đều chảy vào.
Tâm như Tu Di
Sơn Vương, v́ đặt tất cả chúng sanh nơi chỗ thiện căn xuất thế gian vô lượng.
Tâm như Ma ni
bửu vương, v́ lạc dục thanh tịnh không tạp nhiễm.
Tâm như Kim
Cang, v́ quyết định thâm nhập tất cả pháp.
Tâm như Kim Cang
vi sơn, v́ chư ma ngoại đạo chẳng có thể động.
Tâm như liên
hoa, v́ tất cả thế pháp chẳng nhiễm được.
Tâm như hoa ưu
đàm bát, v́ trong tất cả kiếp khó gặp gỡ.
Tâm như tịnh
nhựt, v́ có thể phá trừ chướng tối tăm.
Tâm như hư
không, v́ chẳng lường được.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong đây thời được tâm đại thanh tịnh vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười thứ phát tâm :
Phát tâm : Tôi
sẽ độ thoát tất cả chúng sanh.
Phát tâm : Tôi
sẽ làm cho tất cả chúng sanh dứt trừ phiền năo.
Phát tâm : Tôi
sẽ làm cho tất cả chúng sanh tiêu diệt tập khí.
Phát tâm : Tôi
sẽ dứt trừ tất cả tâm nghi hoặc.
Phát tâm : Tôi
sẽ diệt trừ khổ năo cho tất cả chúng sanh.
Phát tâm : Tôi
sẽ trừ diệt tất cả ác đạo chư nạn.
Phát tâm : Tôi
sẽ kính thuận tất cả Như Lai.
Phát tâm : Tôi
sẽ khéo học tất cả sở học của Bồ Tát.
Phát tâm : Tôi
sẽ ở chỗ mỗi đầu lông trong tất cả thế gian thị hiện tất cả Phật thành Chánh
giác.
Phát tâm : Tôi
sẽ ở nơi tất cả thế giới đánh đại pháp cổ làm cho các chúng sanh tùy theo căn
dục của họ đều được ngộ hiểu.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong đây thời được tâm đại phát khởi năng sự vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười tâm cùng khắp :
Tâm cùng khắp
tất cả hư không, v́ phát ư rộng lớn.
Tâm cùng khắp
tất cả pháp giới, v́ thâm nhập vô biên.
Tâm cùng khắp
tất cả tam thế, v́ một niệm đều biết rơ.
Tâm cùng khắp
tất cả Phật xuất hiện, v́ đều biết rơ nơi nhập thai, giáng sanh, xuất gia,
thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn.
Tâm cùng khắp
tất cả chúng sanh, v́ biết rơ căn dục tập khí.
Tâm cùng khắp
tất cả trí huệ, v́ tùy thuận biết rơ pháp giới.
Tâm cùng khắp
tất cả vô biên, v́ biết những huyễn vọng sai biệt.
Tâm cùng khắp
tất cả vô sanh, v́ các pháp tự tánh bất khả đắc.
Tâm cùng khắp
tất cả vô ngại, v́ chẳng trụ tự tâm tha tâm.
Tâm cùng khắp
tất cả tự tại, v́ một niệm khắp hiện thành Phật.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong đây thời được vô lượng Phật pháp vô thượng cùng khắp trang nghiêm.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười căn :
Hoan hỷ căn, v́
thấy tất cả Phật ḷng tin chẳng hư hoại.
Hy vọng căn, v́
những Phật pháp đă nghe đều tỏ ngộ tất cả.
Bất thối căn, v́
tất cả tác sự đều rốt ráo.
An trụ căn, v́
chẳng dứt tất cả Bồ Tát hạnh.
Vi tế căn, v́
nhập lư vi diệu Bát nhă Ba la mật.
Bất hưu tức căn,
v́ rốt ráo sự việc tất cả chúng sanh.
Như kim cang
căn, v́ chứng biết tất cả những pháp tánh.
Kim cang quang
diệm căn, v́ chiếu khắp tất cả Phật cảnh giới.
Vô sai biệt căn,
v́ tất cả Như Lai đồng một thân.
Vô ngại tế căn,
v́ thâm nhập mười trí lực của Như Lai.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong đây thời được căn đại trí viên măn vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười thâm tâm :
Thâm tâm chẳng
nhiễm tất cả pháp thế gian.
Thâm tâm chẳng
tạp tất cả đạo Nhị thừa.
Thâm tâm thấu rơ
tất cả Phật Bồ đề.
Thâm tâm tùy
thuận đạo Nhứt thiết chủng trí.
Thâm tâm chẳng
bị tất cả chúng ma ngoại đạo làm động.
Thâm tâm tịnh tu
trí viên măn của tất cả Như Lai.
Thâm tâm thọ tŕ
tất cả pháp đă được nghe.
Thâm tâm chẳng
nhiễm trước tất cả chỗ thọ sanh.
Thâm tâm đầy đủ
tất cả trí vi tế.
Thâm tâm tu tất
cả Phật pháp.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong đây thời được thâm tâm thanh tịnh nhứt thiết trí vô thượng.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười thâm tâm tăng thượng :
Thâm tâm tăng
thượng bất thối chuyển, v́ chứa nhóm tất cả thiện căn.
Thâm tâm tăng
thượng rời nghi hoặc, v́ hiểu mật ngữ của tất cả Như Lai.
Thâm tâm tăng
thượng chánh tŕ, v́ đại nguyện đại hạnh lưu xuất.
Thâm tâm tăng
thượng tối thắng, v́ thâm nhập tất cả Phật pháp.
Thâm tâm tăng
thượng làm chủ, v́ tất cả Phật pháp đều tự tại.
Thâm tâm tăng
thượng quảng đại, v́ vào khắp tất cả pháp môn.
Thâm tâm tăng
thượng thượng thủ, v́ tất cả việc làm đều thành tựu.
Thâm tâm tăng
thượng tự tại, v́ tất cả tam muội thần thông biến hóa trang nghiêm.
Thâm tâm tăng
thượng an trụ, v́ nhiếp thọ bổn nguyện.
Thâm tâm tăng
thượng không thôi nghỉ, v́ thành thục tất cả chúng sanh.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được thâm tâm tăng thượng thanh tịnh vô thượng của tất cả
chư Phật.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười điều siêng tu :
Siêng tu bố thí,
v́ đều xả thí tất cả mà không cầu báo đáp.
Siêng tu tŕ
giới, v́ đầu đà khổ hạnh thiểu dục tri túc không khi dối.
Siêng tu nhẫn
nhục, v́ rời quan niệm tự tha, nhẫn chịu tất cả điều khổ năo trọn không sanh
ḷng sân hại.
Siêng tu tinh
tất, v́ thân ngữ ư ba nghiệp chưa từng tán loạn, tất cả việc làm đều chẳng thối
chuyển măi đến rốt ráo.
Siêng tu thiền
định, v́ giải thoát tam muội xuất hiện thần thông, rời ĺa tất cả quyến thuộc
dục lạc phiền năo đấu tránh.
Siêng tu trí
huệ, v́ tu tập chứa nhóm tất cả công đức không mỏi nhàm.
Siêng tu đại từ,
v́ biết các chúng sanh không tự tánh.
Siêng tu đại bi,
v́ biết các pháp không, thay thế khắp tất cả chúng sanh thọ khổ không mỏi nhàm.
Siêng tu giác
ngộ Thập lực của Như Lai, v́ rơ thấu vô ngại chỉ bày cho chúng sanh.
Siêng tu pháp luân
bất thối, v́ chuyển đến tâm của tất cả chúng sanh.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp này thời được siêng tu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười thứ quyết định giải :
Quyết định giải
tối thượng, v́ gieo trồng tôn trọng thiện căn.
Quyết định giải
trang nghiêm, v́ xuất sanh những thứ trang nghiêm.
Quyết định giải
quảng đại, v́ tâm chưa từng hèn kém.
Quyết định giải
tịch diệt, v́ hay nhập pháp tánh thậm thâm.
Quyết định giải
phổ biến, v́ phát tâm không chỗ nào chẳng đến.
Quyết định giải
kham nhiệm, v́ hay thọ Phật lực gia tŕ.
Quyết định giải
kiên cố, v́ dẹp phá tất cả nghiệp ma.
Quyết định giải
minh đoán, v́ biết rơ tất cả nghiệp báo.
Quyết định giải
hiện tiền, v́ tùy ư hay hiện thần thông.
Quyết định giải
thiệu long, v́ ở chỗ tất cả Phật được thọ kư.
Quyết định giải
tự tại, v́ tùy ư tùy thời thành Phật.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp này thời được quyết định giải vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười quyết định giải biết tất cả thế giới :
Biết tất cả thế
giới vào một thế giới.
Biết một thế
giới vào tất cả thế giới.
Biết tất cả thế
giới, một thân Như Lai, một ṭa liên hoa thảy đều cùng khắp.
Biết tất cả thế
giới đều như hư không.
Biết tất cả thế
giới đủ Phật trang nghiêm.
Biết tất cả thế
giới Bồ Tát đầy khắp.
Biết tất cả thế
giới vào một lỗ lông.
Biết tất cả thế
giới vào một thân chúng sanh.
Biết tất cả thế
giới, một cây Phật Bồ đề, một Phật đạo tràng thảy đều cùng khắp.
Biết tất cả thế
giới, một âm thanh cùng khắp làm cho các chúng sanh đều riêng hiểu biết ḷng
sanh hoan hỷ.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được quyết định giải Phật độ quảng đại vô thượng của Như
Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười quyết định giải biết chúng sanh giới :
Biết tất cả
chúng sanh giới bổn tánh không thiệt.
Biết tất cả
chúng sanh giới đều vào thân một chúng sanh.
Biết tất cả
chúng sanh giới đều vào thân Bồ Tát.
Biết tất cả
chúng sanh giới đều vào Như Lai tạng.
Biết một thân
chúng sanh vào khắp tất cả chúng sanh giới.
Biết tất cả
chúng sanh giới đều kham làm pháp khí của chư Phật.
Biết tất cả
chúng sanh giới tùy theo sở thích của họ mà v́ họ hiện thân Đế Thích, Phạm
Vương, Tứ Thiên Vương.
Biết tất cả
chúng sanh giới tùy theo sở thích của họ mà hiện oai nghi tịch tịnh của Thanh
Văn, Bích Chi Phật.
Biết tất cả
chúng sanh giới v́ họ mà hiện thân công đức trang nghiêm của Bồ Tát.
Biết tất cả
chúng sanh giới v́ họ mà hiện thân tướng hảo oai nghi tịch tịnh của Như Lai để
khai ngộ họ.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp này thời được quyết định giải đại oai lực vô thượng của Như
Lai.
Chư Phật tử
! Đại Bồ Tát có mười thứ tập khí :
Tập khí của Bồ
đề tâm.
Tập khí của
thiện căn.
Tập khí giáo hóa
chúng sanh.
Tập khí thấy
Phật.
Tập khí thọ sanh
nơi thế giới thanh tịnh.
Tập khí của công
hạnh.
Tập khí của thệ
nguyện.
Tập khí của Ba
la mật.
Tập khí tư duy
pháp b́nh đẳng.
Tập khí của
những cảnh giới sai biệt.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp này thời ĺa hẳn tất cả tập khí phiền năo, được trí đại trí
tập khí phi tập khí của Như Lai.
Chư Phật tử ! đại
Bồ Tát có mười điều thủ lấy, do đây nên không dứt hạnh Bồ Tát :
Thủ tất cả chúng
sanh giới, v́ rốt ráo giáo hoá.
Thủ tất cả thế
giới, v́ rốt ráo nghiêm tịnh.
Thủ Như Lai, v́
tu hạnh Bồ Tát để cúng dường.
Thủ thiện căn,
v́ chứa nhóm tướng hảo công đức của chư Phật.
Thủ đại bi, v́
diệt khổ cho tất cả chúng sanh.
Thủ đại từ, v́
cho tất cả chúng sanh những trí lạc.
Thủ Ba la mật,
v́ tích tập những trang nghiêm của Bồ Tát.
Thủ thiện xảo
phương tiện, v́ đều thị hiện ở tất cả chỗ.
Thủ Bồ đề, v́
được trí vô ngại.
Thủ tất cả pháp,
v́ ở tất cả chỗ đều dùng minh trí để hiện rơ.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ nơi mười điều thủ lấy này thời có thể chẳng dứt Bồ Tát hạnh, được pháp
vô sở thủ vô thượng của tất cả Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười điều tu :
Tu các môn Ba la
mật. Tu học. Tu huệ. Tu nghĩa. Tu pháp. Tu xuất ly. Tu thị hiện. Tu siêng thật
hành chẳng lười. Tu thành Đẳng Chánh Giác. Tu chuyển Chánh Pháp Luân.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong đây thời được tu vô thượng tu tất cả pháp.
Đại Bồ Tát có
mười điều thành tựu Phật pháp :
Chẳng rời thiện
tri thức, thành tựu Phật pháp.
Thâm tín Phật
ngữ thành tựu Phật pháp.
Chẳng hủy báng
chánh pháp, thành tựu Phật pháp.
Dùng vô lượng vô
tận thiện căn hồi hướng, thành tựu Phật pháp.
Tin hiểu cảnh
giới của đức Như Lai vô biên tế, thành tựu Phật pháp.
Biết cảnh giới
của tất cả thế giới, thành tựu Phật pháp.
Chẳng bỏ cảnh
giới pháp giới, thành tựu Phật pháp.
Xa rời những
cảnh giới ma, thành tựu Phật pháp.
Chánh niệm cảnh
giới của tất cả Phật, thành tựu Phật pháp.
Thích cầu cảnh
giới Thập lực của Như Lai, thành tựu Phật pháp.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp này thời được thành tựu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười điều thối thất Phật pháp cần phải xa ḱa :
Khinh mạn thiện tri
thức, thối thất Phật pháp.
Sợ khổ sanh tử,
thối thất Phật pháp.
Nhàm tu hạnh Bồ
Tát, thối thất Phật pháp.
Chẳng thích trụ
thế gian, thối thất Phật pháp.
Say đắm tam
muội, thối thất Phật pháp.
Chấp lấy thiện
căn, thối thất Phật pháp.
Hủy báng chánh
pháp, thối thất Phật pháp.
Đoạn Bồ Tát
hạnh, thối thất Phật pháp.
Thích đạo Nhị
thừa, thối thất Phật pháp.
Hiềm hận chư Bồ
Tát, thối thất Phật pháp.
Nếu chư Bồ Tát
xa ĺa pháp này, thời nhập đạo ly sanh của Bồ Tát.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười đạo ly sanh :
Xuất sanh Bát
nhă Ba la mật mà luôn quán sát tất cả chúng sanh. Đây là đạo ly sanh thứ nhứt.
Xa rời những
kiến chấp mà độ thoát tất cả chúng sanh bị kiến chấp ràng buộc. Đây là đạo ly
sanh thứ hai.
Chẳng tưởng niệm
tất cả tướng mà chẳng bỏ tất cả chúng sanh chấp tướng. Đây là đạo ly sanh thứ
ba.
Siêu quá tam
giới mà thường ở tại tất cả thế giới. Đây là đạo ly sanh thứ tư.
Rời hẳn phiền
năo mà ở chung với tất cả chúng sanh. Đây là đạo ly sanh thứ năm.
Đắc pháp ly dục
mà thường dùng đại bi thương xót tất cả chúng sanh nhiễm trước dục lạc. Đây là
đạo ly sanh thứ sáu.
Thường thích
tịch tịnh mà luôn thị hiện tất cả quyến thuộc. Đây là đạo ly sanh thứ bảy.
Rời sanh thế
gian mà chết đây sanh kia khởi hạnh Bồ Tát. Đây là đạo ly sanh thứ tám.
Chẳng nhiễm tất
cả pháp thế gian mà chẳng dứt tất cả việc làm thế gian. Đây là đạo ly sanh thứ
chín.
Chư Phật Bồ đề
đă hiện ra trước mà chẳng bỏ tất cả hạnh nguyện của Bồ Tát. Đây là đạo ly sanh
thứ mười.
Đây là mười đạo
ly sanh của Bồ Tát, xuất ly thế gian chẳng cùng chung với thế gian mà cũng
chẳng tạp hạnh Nhị thừa. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được pháp quyết
định của Bồ Tát.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười pháp quyết định :
Quyết định sanh
trong chủng tộc của đức Như Lai.
Quyết định an
trụ trong cảnh giới của chư Phật.
Quyết định biết
rơ việc làm của chư Bồ Tát.
Quyết định an
trụ trong các môn Ba la mật.
Quyết định được
dự trong chúng hội của Như Lai.
Quyết định có
thể hiển bày chủng tánh của Như Lai.
Quyết định an
trụ trong trí lực của Như Lai.
Quyết định thâm
nhập Bồ đề của chư Phật.
Quyết định đồng
một thân với tất cả chư Phật.
Quyết định đồng
một chỗ ở với tất cả chư Phật.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười đạo xuất sanh Phật pháp :
Tùy thuận thiện
hữu là đạo xuất sanh Phật pháp, v́ đồng gieo căn lành.
Thâm tâm tin
hiểu là đạo xuất sanh Phật pháp, v́ biết Phật tự tại.
Phát thệ nguyện
lớn là đạo xuất sanh Phật pháp, v́ tâm rộng răi.
Nhẫn thọ thiện
căn của ḿnh là đạo xuất sanh Phật pháp, v́ biết nghiệp chẳng mất.
Tất cả kiếp tu hành
không nhàm đủ là đạo xuất sanh Phật pháp, v́ tột thưở vị lai.
Vô số thế giới
đều thị hiện là đạo xuất sanh Phật pháp, v́ thành thục chúng sanh.
Chẳng dứt Bồ Tát
hạnh là đạo xuất sanh Phật pháp, v́ tăng trưởng đại bi.
Vô lượng tâm là
đạo xuất sanh Phật pháp, v́ một niệm khắp tất cả hư không giới.
Hạnh thù thắng
là đạo xuất sanh Phật pháp, v́ công hạnh đă tu không hư mất.
Như Lai chủng là
đạo xuất sanh Phật pháp, v́ làm cho tất cả chúng sanh thích phát tâm Bồ đề dùng
tất cả pháp lành giúp đỡ giữ ǵn.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp này thời được danh hiệu đại trượng phu :
Hiệu là Bồ đề
Tát Đỏa, v́ Bồ đề trí sanh ra.
Hiệu là Ma Ha
Tát Đoả, v́ an trụ nơi Đại thừa.
Hiệu là Đệ nhứt
Tát Đoả, v́ chứng pháp đệ nhứt.
Hiệu là Thắng
Tát Đoả, v́ giác ngộ pháp thù thắng.
Hiệu là Tối
Thắng Tát Đỏa, v́ trí huệ tối thắng.
Hiệu là Thượng
Tát Đoả, v́ phát khởi thượng tinh tấn.
Hiệu là Vô
Thượng Tát Đỏa, v́ khai thị pháp vô thượng.
Hiệu là Lực Tát
Đỏa, v́ biết rộng Thập lực.
Hiệu là Vô Đẳng
Tát Đỏa, v́ thế gian không sánh được.
Hiệu là Bất Tư
Ngh́ Tát Đỏa, v́ một niệm thành Phật.
Nếu chư Bồ Tát
được danh hiệu này thời thành tựu Bồ Tát đạo.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười đạo :
Nhứt đạo là Bồ
Tát đạo, v́ chẳng bỏ Bồ đề tâm độc nhứt.
Nhị đạo là Bồ
Tát đạo, v́ xuất sanh trí huệ và phương tiện.
Tam đạo là Bồ
Tát đạo, v́ thật hành không, vô tướng, vô nguyện, chẳng nhiễm trước tam giới.
Tứ hạnh là Bồ
Tát đạo, v́ sám trừ tội chướng, tùy hỉ phước đức, cung kính tôn trọng khuyế
thỉnh Như Lai, thiện xảo hồi hướng không thôi nghỉ.
Ngũ căn là Bồ
Tát đạo, v́ an trụ tịnh tín kiên cố bất động, khởi đại tinh tấn việc làm rốt
ráo, một bề chánh niệm không phan duyên khác lạ, khéo biết tam muội nhập xuất
phương tiện hay khéo phân biệt cảnh giới trí huệ.
Lục thông là Bồ
Tát đạo, v́ thiên nhăn thấy rơ những h́nh sắc của tất cả thế giới, biết các
chúng sanh chết đây sanh kia. Thiên nhĩ nghe rơ chư Phật thuyết pháp thọ tŕ
ghi nhớ, rộng v́ chúng sanh tùy căn cơ để khai diễn. Tha tâm trí hay biết tâm
người tự tại vô ngại. Túc mạng thông nhớ biết rơ tất cả kiếp số quá khứ thêm
lớn căn lành. Thần túc thông tùy theo những chúng sanh đáng được quá độ, v́ họ
mà biến hiện nhiều thứ cho họ thích mến chánh pháp. Lậu tận trí hiện chứng
thiệt tế khởi Bồ Tát hạnh chẳng đoạn tuyệt.
Thất niệm là Bồ
Tát đạo. V́ niệm Phật, ở, một lỗ lông thấy vô lượng Phật khai ngộ tất cả tâm
chúng sanh. Niệm Pháp, chẳng rời chúng hội của một đức Như Lai, ở trong chúng
hội của tất cả Như Lai thân thừa diệu pháp, tùy căn tánh dục lạc của các chúng
sanh mà v́ họ diễn thuyết cho họ được ngộ nhập. Niệm Tăng luôn nối tiếp thấy
không thôi dứt, nơi tất cả thế gian thấy Bồ Tát. Niệm xả, biết rơ tất cả Bồ Tát
hạnh xả tăng trưởng, tâm bố thí rộng lớn. Niệm giới chẳng bỏ tâm Bồ đề, đem tất
cả thiện căn hồi hướng chúng sanh. Niệm Thiên thường ghi nhớ Bồ Tát nhứt sanh
bổ xứ tại Đâu Suất Thiên cung. Niệm chúng sanh, trí huệ phương tiện giáo hóa
điều phục đến khắp tất cả không gián đoạn.
Tùy thuận Bồ đề
Bát thánh đạo là Bồ Tát đạo. Thật hành đạo chánh kiến xa ĺa tất cả tà kiến.
Khởi chánh tư duy bỏ vọng phân biệt tâm thường tùy thuận nhứt thiết trí. Thường
thật hành chánh ngữ rời bốn lỗi của ngữ nghiệp tùy thuận thánh ngôn. Hằng tu
chánh nghiệp giáo hóa chúng sanh cho họ được điều phục. An trụ chánh mạng, đầu
đà tri túc oai nghi thẩm chánh, tùy thuận Bồ đề thật hành tứ thánh chủng, tất
cả lỗi lầm đều rời hẳn. Khởi chánh tinh tần siêng tu tất cả khổ hạnh của Bồ Tát
nhập Thập lực của Phật không chướng ngại. Tâm thường chánh niệm đều có thể ghi
nhớ tất cả ngôn âm, trừ diệt tâm tán động của thế gian. Tâm thường chánh định,
khéo nhập môn Bồ Tát bất tư ngh́ giải thoát, ở trong một tam muội xuất sanh tất
cả môn tam muội. Nhập cửu thứ đệ định là Bồ Tát đạo. Rời dục nhiễm sân hại mà
dùng tất cả ngữ nghiệp thuyết pháp vô ngại. Diệt trừ giác quán mà dùng tất cả
trí giác quán giáo hóa chúng sanh. Xả ly hỷ ái mà thấy tất cả chư Phật ḷng rất
hoan hỷ. Rời thế gian lạc mà tùy thuận Bồ Tát đạo xuất thế lạc từ đây bất động.
Nhập vô sắc định mà cũng chẳng bỏ thọ sanh nơi Dục giới và Sắc giới. Dầu trụ
trong diệt thọ tưởng định mà cũng chẳng dứt Bồ Tát hạnh.
Học Phật Thập
lực là Bồ Tát đạo : Trí khéo biết thị xứ phi xứ. Trí khéo biết nghiệp báo nhơn
quả quá khứ vị lai hiện tại của tất cả chúng sanh. Trí khéo biết tất cả chúng
sanh căn thượng trung hạ chẳng đồng mà tùy cơ nghi thuyết pháp. Trí khéo biết
tất cả chúng sanh có vô lượng tánh. Trí khéo biết tất cả chúng sanh kiến giải
hạ trung thượng sai biệt làm cho họ nhập vào pháp phương tiện. Trí biết khắp
tất cả thế gian, tất cả cơi, tất cả tam thế, tất cả kiếp, hiện khắp h́nh tướng
oai nghi của Như Lai, mà cũng chẳng bỏ việc làm của Bồ Tát. Trí khéo biết tất
cả các thiền giải thoát và các tam muội, hoặc cấu, hoặc tịnh, thời cùng phi
thời, phương tiện xuất sanh những Bồ Tát giải thoát môn. Trí biết tất cả chúng
sanh ở trong các loài chết đây sanh kia sai khác nhau. Trí ở trong một niệm đều
biết tam thế tất cả kiếp số. Trí khéo biết tất cả chúng sanh lạc dục, phiền năo
hoặc tập đều diệt hết, mà chẳng bỏ rời hạnh Bồ Tát.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ nơi đây thời được đạo phương tiện thiện xảo vô thượng của tất cả Như
Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có vô lượng đạo, vô lượng trợ đạo, vô lượng tu đạo, vô lượng trang
nghiêm đạo.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười vô lượng đạo :
V́ hư không vô
lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
V́ pháp giới vô
biên nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
V́ chúng sanh
giới vô tận nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
V́ thế giới vô tế nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
V́ kiếp số bất
khả tận nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
V́ pháp ngữ ngôn
của tất cả chúng sanh vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
V́ Như Lai thân
vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
V́ âm thanh vô
lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
V́ Như Lai lực
vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
V́ nhứt thiết
chủng trí vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười vô lượng trợ đạo :
Như hư không
giới vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô lượng.
Như pháp giới vô
biên, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô biên.
Như chúng sanh
giới vô tận, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô tận.
Như thế giới vô
tế, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô tế.
Như kiếp số
thuyết bất khả tận, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng là tất cả thế gian thuyết bất
khả tận.
Như pháp ngữ
ngôn của chúng sanh vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo xuất sanh trí huệ biết
pháp ngữ ngôn cũng vô lượng.
Như thân Như Lai
vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo khắp tất cả chúng sanh, tất cả cơi, tất cả
đời, tất cả kiếp cũng vô lượng.
Như âm thanh của
Phật vô lượng, Bồ Tát phát một âm thanh cùng khắp pháp giới tất cả chúng sanh
không ai chẳng nghe biết, trợ đạo đă tích tập cũng vô lượng.
Như Phật lực vô
lượng, Bồ Tát thừa Như Lai lực tích tập trợ đạo cũng vô lượng.
Như nhứt thiết
chủng trí vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô lượng như vậy.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ nơi pháp này thời được vô lượng trí huệ của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười vô lượng đạo hạnh tu tập :
Bất lai bất khứ,
là hạnh tu của Bồ Tát, v́ ba nghiệp thân, ngữ, ư không động tác.
Bất tăng bất
giảm là hạnh tu của Bồ Tát, v́ như bổn tánh.
Phi hữu phi vô
là hạnh tu của Bồ Tát, v́ không tự tánh.
Như huyễn như
mộng, như ảnh, như hưởng, như tượng trong gương, như ánh nắng khi trời quá
nóng, như mặt trăng trong nước, là hạnh tu của Bồ Tát, v́ rời ĺa tất cả các
chấp trước.
Không, vô tướng,
vô nguyện, vô tác là hạnh tu của Bồ Tát, v́ thấy rơ ba cơi mà chứa phước đức
chẳng thôi dứt.
Bất khả thuyết,
ly ngôn thuyết là hạnh tu của Bồ Tát, v́ xa rời pháp thi thiết an lập.
Bất hoại pháp
giới là hạnh tu của Bồ Tát, v́ trí huệ hiện biết tất cả pháp.
Bất hoại chơn
như thiệt tế là hạnh tu của Bồ Tát, v́ vào khắp chơn như thiệt tế hư không tế.
Trí huệ quảng
đại là hạnh tu của Bồ Tát, v́ bao nhiêu việc làm năng lực vô tận.
An trụ nơi Thập
lực tứ vô ư của Như Lai, nhứt thiết chủng trí b́nh đẳng, là hạnh tu của Bồ Tát,
v́ hiện thấy tất cả pháp không nghi lầm.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp này thời được hạnh tu thiện xảo vô thượng nhứt thiết trí của
Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười đạo trang nghiêm :
Đại Bồ Tát chẳng
rời Dục giới mà nhập Sắc giới, Vô Sắc giới, thiền định giải thoát và các tam
muội cũng chẳng nhơn đây mà thọ sanh. Đây là đạo trang nghiêm thứ nhứt.
Trí huệ hiện
tiền nhập Thanh Văn đạo, chẳng do đạo này mà chứng lấy quả xuất ly. Đây là đạo
trang nghiêm thứ hai.
Trí huệ hiện
tiền nhập Bích Chi Phật đạo, mà phát khởi đại bi chẳng thôi dứt. Đây là đạo
trang nghiêm thứ ba.
Dầu có quyến
thuộc Nhơn Thiên vây quanh, trăm ngàn thể nữ ca múa hầu hạ, mà chưa từng tạm bỏ
thiền định giải thoát và các tam muội. Đây là đạo trang nghiêm thứ tư.
Cùng tất cả
chúng sanh thọ những dục lạc, cùng nhau vui đùa mà vẫ chưa từng tạm trong một
niệm rời bỏ Bồ Tát b́nh đẳng tam muội. Đây là đạo trang nghiêm thứ năm.
Đă đến bĩ ngạn,
tất cả thế gian, nơi các thế pháp đều không chấp trước mà cũng chẳng bỏ hạnh độ
chúng sanh. Đây là đạo trang nghiêm thứ sáu.
An trụ chánh
đạo, chánh trí, chánh kiến mà hay thị hiện vào tất cả tà đạo, chẳng lấy làm
thiệt, chẳng chấp làm tịnh, làm cho chúng sanh đó xa rời tà pháp. Đây là đạo
trang nghiêm thứ bảy.
Thường khéo hộ
tŕ tịnh giới của Như Lai, ba nghiệp thân, khẩu, ư không lầm lỗi, v́ muốn giáo
hóa chúng sanh phạm giới nên thị hiện làm tất cả hạnh phàm ngu. Dầu đă đầy đủ
phước đức thanh tịnh trụ bực Bồ Tát, mà thị hiện sanh nơi tất cả địa ngục, súc
sanh, ngạ quỷ cùng những chỗ hiểm nạn bần cùng, làm cho những chúng sanh đó đều
được giải thoát. Nhưng thiệt ra Bồ Tát chẳng sanh vào những loài đó. Đây là đạo
tràng trang nghiêm thứ tám.
Chẳng do người
dạy mà được vô ngại biện, trí huệ quang minh có thể chiếu rơ khắp cả Phật pháp,
được thần lực của tất cả Như Lai hộ tŕ đồng một pháp thân với tất cả chư Phật,
thành tựu tất cả pháp kiên cố bí mật minh tịnh của bực đại nhơn, an trụ những
thừa tất cả b́nh đẳng, cảnh giới chư Phật đều hiện ra trước đầy đủ tất cả thế
trí quang minh, soi thấy tất cả chúng sanh giới, có thể v́ chúng sanh mà làm
tri pháp sư, thị hiện cầu chánh pháp không thôi dứt, dầu thiệt làm Vô Thượng Sư
cho chúng sanh mà thị hiện tôn kính Ḥa Thượng A Xà Lê. Tạo sao vậy ? V́ Đại Bồ
Tát thiện xảo phương tiện trụ Bồ Tát đạo, tùy theo sở nghi đều v́ chúng sanh mà
thị hiện. Đây là đạo trang nghiêm thứ chín.
Thiện căn đầy
đủ, công hạnh rốt ráo, tất cả Như Lai cùng chung quán đảnh, đến bĩ ngạn tất cả
pháp tự tại, lụa pháp vô ngại dùng đội trên đầu thân, h́nh đến khắp tất cả thế
giới, hiện khắp thân vô ngại của Như Lai, nơi pháp tự tại rốt ráo tối thượng,
chuyển pháp luân vô ngại thanh tịnh tất cả pháp tự tại của Bồ Tát đều đă thành
tựu, mà v́ chúng sanh nên thị hiện thọ sanh nơi tất cả quốc độ, đồng một cảnh
giới với tất cả chư Phật trong ba đời. Nhưng vẫn chẳng phế hạnh Bồ Tát, chẳng
bỏ pháp Bồ Tát, chẳng lười nghiệp Bồ Tát, chẳng rời đạo Bồ Tát, chẳng lơi oai
nghi Bồ Tát, chẳng dứt bực Bồ Tát, chẳng thôi phương tiện thiện xảo Bồ Tát,
chẳng tuyệt việc làm của Bồ Tát, chẳng nhàm sanh thành công dụng của Bồ Tát,
chẳng dừng sức trụ tŕ của Bồ Tát. Tại sao vậy ? V́ Bồ Tát muốn mau chứng Vô
thượng Bồ đề, quán môn nhứt thiết trí, tu hạnh Bồ Tát không thôi nghỉ. Đây là
đạo trang nghiêm thứ mười.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được đạo đại trang nghiêm Vô thượng của Như Lai, cũng
chẳng bỏ Bồ Tát đạo.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười chân :
Chân tŕ giới,
v́ đại nguyện thù thắng đều thành tựu viên măn.
Chân tinh tấn,
v́ tích tập tất cả pháp Bồ đề phần không thối chuyển.
Chân thần thông,
v́ tùy theo dục lạc của chúng sanh làm cho hoan hỷ.
Chân thần lực,
v́ chẳng rời một cơi Phật mà qua đến tất cả cơi Phật.
Chân thân tâm,
v́ nguyện cầu tất cả pháp thù thắng.
Chân kiên thệ,
v́ tất cả việc làm đều rốt ráo.
Chân tùy thuận,
v́ chẳng trái lời dạy của bực tôn túc.
Chân lạc pháp,
v́ nghe và thọ tŕ tất cả pháp của chư Phật nói không mỏi lười.
Chân pháp vũ, v́
đại chúng thuyết pháp không khiếp nhược.
Chân tu hành, v́
tất cả điều ác đều xa ĺa.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được chân vô thượng tối thắng của đức Như Lai. Nếu cất
chân một bước đều có thể đến khắp tất cả thế giới.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười tay :
Tay thâm tín, v́
nơi lời nói của Phật đều tin sâu nhẫn thọ rốt ráo thọ tŕ.
Tay bố thí, có
người đến cầu, tùy chỗ họ muốn đều làm cho được đầy đủ.
Tay hỏi thăm
trước, v́ giơ tay mặt nghinh tiếp nhau.
Tay cúng dường
chư Phật, v́ chứa nhóm những phước đức không mỏi nhàm.
Tay đa văn thiện
xảo, v́ đều dứt tất cả chúng sanh nghi.
Tay khiến siêu
tam giới, v́ trao cho chúng sanh vớt họ ra khỏi bùn ái dục.
Tay đặt nơi bĩ
ngạn, v́ cứu chúng sanh đắm trong bốn ḍng nước cuộn.
Tay chẳng tiếc
chánh pháp, v́ có bao nhiêu diệu pháp đều đem khai thị.
Tay khéo dùng
những luận nghị, v́ dùng thuốc trí huệ trừ bịnh nơi thâm tâm.
Tay hằng chấp
tŕ trí bửu, v́ khai pháp quang minh phá tối phiền năo.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được tay vô thượng của Như Lai, che khắp tất cả thế giới
mười phương.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười bụng :
Bụng ĺa dua
vạy, v́ tâm thanh tịnh.
Bụng ĺa huyễn
ngụy, v́ tánh chất trực.
Bụng chẳng hư
giả, v́ không hiểm dối.
Bụng không khi
đoạt, v́ không tham đối với tất cả vật.
Bụng dứt phiền
năo, v́ đầy đủ trí huệ.
Bụng thanh tịnh
tâm, v́ rời các điều ác.
Bụng quán sát
uống ăn, v́ nhớ pháp như thiệt.
Bụng quán sát vô
tác, v́ giác ngộ duyên khởi.
Bụng ngộ tất cả
đạo xuất ly, v́ khéo thành thục thâm tâm.
Bụng xa rời tất
cả cấu nhơ biên kiến, v́ làm cho tất cả chúng sanh nhập vào bụng Phật.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được bụng rộng lớn vô thượng của Như Lai, đều có thể dung
thọ tất cả chúng sanh.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười tạng :
Chẳng dứt Phật
chủng là Bồ Tát tạng, v́ khai thị Phật pháp vô lượng oai đức.
Tăng trưởng Pháp
chủng là Bồ Tát tạng, v́ xuất sanh trí huệ quang minh quảng đại.
Trụ tŕ tăng
trưởng là Bồ Tát tạng, v́ làm cho họ được nhập pháp luân bất thối.
Giác ngộ chánh
định chúng sanh là Bồ Tát tạng, v́ khéo theo thời nghi không sai một niệm.
Rốt ráo thành
thục bất định chúng sanh là Bồ Tát tạng, v́ làm cho nhơn tương tục không gián
đoạn.
V́ tà định chúng
sanh phát sanh ḷng đại bi là Bồ Tát tạng, v́ làm cho nhơn vị lai đều được
thành tựu.
Viên măn nhơn
bất hoại nơi Phật thập lực là Bồ Tát tạng, v́ đầy đủ vô đối thiện căn hàng phục
ma quân.
Tối thắng vô úy
đại sư tử hống là Bồ Tát tạng, v́ làm cho tất cả chúng sanh đều hoan hỷ.
Được Phật mười
tám pháp bất cộng là Bồ Tát tạng, v́ trí huệ vào khắp tất cả xứ.
Biết rơ khắp tất
cả chúng sanh, tất cả cơi, tất cả Pháp, tất cả Phật là Bồ Tát tạng, v́ ở trong
một niệm đều thấy rơ.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp này thời được thiện căn vô thượng, tạng đại trí huệ bất hoại
của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười tâm :
Tâm tinh cần, v́
tất cả việc làm đều rốt ráo.
Tâm chẳng lười,
v́ chứa nhóm hạnh tướng hảo phước đức.
Tâm dũng kiện
lớn, v́ dẹp phá tất cả ma quân.
Tâm thật hành
đúng lư, v́ trừ diệt tất cả phiền năo.
Tâm chẳng thối
chuyển, v́ nhẫn đến quả Bồ đề trọn chẳng thôi dứt.
Tâm tánh thanh
tịnh, v́ biết tâm bất động vô trước.
Tâm biết chúng
sanh, v́ tùy theo chỗ hiểu biết và sở thích của họ mà làm cho được xuất ly.
Tâm đại phạm trụ
khiến nhập Phật pháp, v́ biết những chỗ hiểu biết và sở thích của chúng sanh,
chẳng dùng thừa khác để cứu độ.
Tâm không, vô
tướng, vô nguyện, vô tác, v́ thấy tướng tam giới không chấp trước.
Tâm tướng chữ
"vạn", tạng thù thắng trang nghiêm kiên cố như kim cang, v́ chúng ma
đồng bằng số tất cả chúng sanh đến cũng chẳng động được một sợi lông của Bồ
Tát.
Nếu Bồ Tát an
trụ trong pháp này thời được tâm vô thượng đại trí quang minh tạng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười thứ mặc giáp :
Mặc giáp đại từ,
v́ cứu hộ tất cả chúng sanh.
Mặc giáp đại bi,
v́ kham chịu tất cả sự khổ.
Mặc giáp đại
nguyện, v́ tất cả việc làm đều rốt ráo.
Mặc giáp hồi
hướng, v́ kiến lập tất cả sự trang nghiêm của Phật.
Mặc giáp phước
đức, v́ lợi ích tất cả chúng sanh.
Mặc giáp Ba la
mật, v́ độ thoát tất cả chúng sanh.
Mặc giáp trí
huệ, v́ dứt tối phiền năo của tất cả chúng sanh.
Mặc giáp thiện
xảo phương tiện, v́ xuất sanh thiện căn phổ môn.
Mặc giáp nhứt
thiết trí tâm kiên cố chẳng tán loạn, v́ chẳng thích những thừa khác.
Mặc giáp nhứt
tâm quyết định, v́ nơi tất cả pháp ĺa nghi hoặc.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong pháp này thời mặc măo giáp vô thượng của Như Lai, đều có thể xô
dẹp tất cả quân ma. Chư Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ khí trượng :
Bố thí là khí
trượng của Bồ Tát, v́ dẹp phá tất cả xan lẫn.
Tŕ giới là khí
trượng của Bồ Tát, v́ vứt bỏ tất cả sự hủy phạm.
B́nh đẳng là khí
trượng của Bồ Tát, v́ dứt trừ tất cả phân biệt.
Trí huệ là khí
trượng của Bồ Tát, v́ tiêu diệt tất cả phiền năo.
Chánh mạng là
khí trượng của Bồ Tát, v́ xa rời tất cả tà mạng.
Thiện xảo phương
tiện là khí trượng của Bồ Tát, v́ thị hiện tất cả xứ.
Lược nói tham,
sân, si tất cả phiền năo là khí trượng của Bồ Tát, v́ dùng môn phiền năo để độ
chúng sanh.
Sanh tử là khí
trượng của Bồ Tát, v́ chẳng dứt hạnh Bồ Tát luôn giáo hóa chúng sanh.
Nói pháp như
thật là khí trượng của Bồ Tát, v́ hay phá tất cả chấp trước.
Nhứt thiết trí
là khí trượng của Bồ Tát, v́ chẳng bỏ hạnh môn của Bồ Tát.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời có thể trừ diệt những phiền năo kiết sử đă chứa nhóm từ
lâu của tất cả chúng sanh.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười đầu :
Đầu Niết bàn, v́
không ai thấy được đảnh.
Đầu tôn kính, v́
tất cả Nhơn Thiên đều kính lễ.
Đầu thắng giải
quảng đại, v́ tối thắng trong Đại Thiên thế giới.
Đầu đệ nhứt
thiện căn, v́ tam giới chúng sanh đều cúng dường.
Đầu gánh đội
chúng sanh, v́ thành tựu tướng nhục kế trên đảnh.
Đầu chẳng khinh
tiện người, v́ ở tất cả chỗ thường là bực tôn thắng.
Đầu Bát nhă Ba
la mật, v́ trưởng dưỡng tất cả pháp công đức.
Đầu tương ưng
phương tiện trí, v́ hiện khắp tất cả thân đồng loại.
Đầu giáo hóa tất
cả chúng sanh, v́ dùng tất cả chúng sanh làm đệ tử.
Đầu thủ hộ pháp
nhăn của chư Phật, v́ làm cho Tam Bảo chủng chẳng đoạn tuyệt.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời, được đầu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười mắt :
Nhục nhăn, v́
thấy tất cả h́nh sắc.
Thiên nhăn, v́
thấy tâm niệm của tất cả chúng sanh.
Huệ nhăn, v́
thấy những căn cảnh giới của tất cả chúng sanh.
Pháp nhăn, v́
thấy tướng như thiệt của tất cả pháp.
Phật nhăn, v́
thấy thập lực của Như Lai.
Trí nhăn, v́
thấy biết các pháp.
Quang minh nhăn,
v́ thấy quang minh của đức Phật.
Xuất sanh tử
nhăn, v́ thấy Niết bàn.
Vô ngại nhăn, v́
chỗ thấy không chướng ngại.
Nhứt thiết trí
nhăn, v́ thấy phổ môn pháp giới.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được đại trí huệ nhăn vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười tai :
Nghe tiếng khen
ngợi thời dứt trừ tâm tham ái.
Nghe tiếng hủy
báng thời dứt trừ tâm hờn giận.
Nghe nói Nhị
thừa thời chẳng ham chẳng cầu.
Nghe đạo Bồ Tát
thời vui mừng hớn hở.
Nghe địa ngục,
súc sanh, ngạ quỷ, những chỗ khổ nạn thời phát tâm đại bi lập thệ nguyện rộng
lớn.
Nghe sự thắng
diệu của thiên nhơn thời biết đó đều là những pháp vô thường.
Nghe tán thán
công đức của chư Phật thời siêng tu tinh tấn cho mau được viên măn.
Nghe nói các
pháp lục độ tứ nhiếp thời phát tâm tu hành nguyện đến bĩ ngạn.
Nghe tất cả âm
thanh trong thập phương thế giới, thời đều biết như vang, nhập bất khả thuyết
diệu nghĩa thậm thâm.
Đại Bồ Tát từ sơ
phát tâm nhẫn đến đạo tràng thường nghe chánh pháp chưa từng tạm nghĩ, mà hằng
chẳng bỏ việc giáo hóa chúng sanh.
Nếu chư Bồ Tát
thành tựu pháp này thời được đại trí huệ nhĩ vô thượng của đức Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười mũi :
Nghe những vật
hôi, không cho đó là hôi.
Nghe những hơi
thơm, không cho đó là thơm.
Thơm hôi đều
nghe tâm Bồ Tát b́nh đẳng.
Chẳng thơm chẳng
hôi thời an trụ nơi xả.
Nếu nghe y phục,
ngọa cụ và thân thể của chúng sanh có hơi thơm hôi, thời biết được họ khởi ḷng
tham hay sân, si đẳng phần.
Nếu nghe hơi của
cỏ, cây, hầm mỏ v.v... thời biết rơ tàng như đối trước mắt.
Nếu nghe mùi của
chúng sanh trên đến trời Hữu Đảnh, dưới đến địa ngục A Tỳ, thời đều biết hạnh
nghiệp quá khứ của họ đă gây tạo.
Nếu nghe hơi bố
thí, tŕ giới, đa văn, trí huệ của hàng Thanh văn thời an trụ tâm nhứt thíêt
trí chẳng cho tán động.
Nếu nghe hơi của
tất cả Bồ Tát hạnh, thời dùng trí huệ b́nh đẳng nhập Phật địa.
Nghe hơi cảnh
giới trí huệ của tất cả Phật, cũng chẳng phế bỏ những hạnh Bồ Tát.
Nếu chư Bồ Tát
thành tựu pháp này thời được vô lượng vô biên thanh tịnh tỷ của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười lưỡi :
Lưỡi khai thị
diễn thuyết vô tận hạnh chúng sanh.
Lưỡi khai thị
diễn thuyết vô tận pháp môn.
Lưỡi tán thán
chư Phật vô tận công đức.
Lưỡi diễn xướng
từ biện vô tận.
Lưỡi khai xiển
đại thừa trợ đạo.
Lưỡi trùm khắp
thập phương hư không.
Lưỡi chiếu khắp
tất cả cơi Phật.
Lưỡi làm cho tất
cả chúng sanh được tỏ ngộ.
Lưỡi đều làm cho
tất cả chư Phật hoan hỷ.
Lưỡi hàng phục
tất cả chúng ma ngoại đạo, diệt trừ tất cả sanh tử phiền năo làm cho đến Niết
bàn.
Nếu chư Bồ Tát
thành tựu pháp này thời được lưỡi vô thượng trùm khắp tất cả Phật độ của đức
Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười thân :
Thân người, v́
giáo hoá tất cả loài người.
Thân phi nhơn,
v́ giáo hoá địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.
Thân trời, v́
giáo hoá chúng sanh cơi Dục, cơi Sắc, cơi Vô Sắc.
Thân hữu học, v́
thị hiện bực hữu học.
Thân vô học, v́
thị hiện bực A la hán.
Thân Duyên giác,
v́ giáo hoá cho được vào bực Bích Chi Phật.
Thân Bồ Tát, v́
làm cho thành tựu đại thừa.
Thân Như Lai, v́
trí thủy quán đảnh.
Ư sanh thân, v́
thiện xảo xuất sanh.
Pháp thân vô
lậu, v́ dùng vô công dụng thị hiện thân tất cả chúng sanh.
Nếu chư Bồ Tát
thành tựu pháp này thời được thân vô thượng của Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười ư :
Ư thượng thủ, v́
phát khởi tất cả thiện căn.
Ư an trụ, v́ tin
sâu kiên cố bất động.
Ư thâm nhập, v́
tùy thuận Phật pháp mà hiểu.
Ư rơ biết ở
trong, v́ biết rơ tâm sở thích của chúng sanh.
Ư vô loạn, v́
tất cả phiền năo chẳng tạp.
Ư minh tịnh, v́
khách trần chẳng nhiễm trước được.
Ư khéo quán sát
chúng sanh, v́ không có một niệm lỗi thời.
Ư khéo lựa chỗ
làm, v́ chưa từng có một chỗ sanh lỗi lầm.
Ư kính giữ ǵn
các căn, v́ điều phục chẳng cho buông lung tán loạn.
Ư khéo nhập tam
muội, v́ thâm nhập Phật tam muội, không ngă, không ngă sở.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được ư vô thượng của tất cả Phật.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười hạnh :
Hạnh nghe chánh
pháp, v́ ưa thích chánh pháp.
Hạnh thuyết
pháp, v́ lợi ích chúng sanh.
Hạnh rời tham,
sân, si, bố úy v́ điều phục tự tâm.
Hạnh dục giới,
v́ giáo hóa chúng sanh cơi dục.
Hạnh chánh định
Sắc giới, Vô Sắc giới, v́ làm cho họ mau xoay trở lại.
Hạnh xu hướng
pháp nghĩa, v́ mau được trí huệ.
Hạnh thọ sanh
tất cả xứ, v́ tự tại giáo hoá chúng sanh.
Hạnh tất cả cơi
Phật, v́ lễ bái cúng dường chư Phật.
Hạnh Niết bàn,
v́ chẳng dứt sanh tử tiếp nối.
Hạnh thành tựu
viên măn tất cả Phật pháp, v́ chẳng bỏ pháp hạnh của Bồ Tát.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ pháp này thời được hạnh vô lai vô khứ của đức Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười chỗ an trụ :
An trụ tâm Bồ
đề, v́ chưa từng quên mất.
An trụ Ba la
mật, v́ chẳng nhàm trợ đạo.
An trụ thuyết
pháp, v́ tăng trưởng trí huệ.
An
trụ A lan nhă, v́ chứng đại thiền định.
An
trụ tùy thuận nhứt thiết trí đầu đà tri túc tứ thánh chủng, v́ thiểu dục thiểu
sự.
An
trụ thâm tín, v́ gánh vác chánh pháp.
An
trụ thân cận đức Như Lai, v́ học Phật oai nghi.
An
trụ xuất sanh thần thông, v́ viên măn đại trí.
An
trụ đắc nhẫn, v́ viên măn thọ kư.
An
trụ đạo tràng, v́ đầy đủ Thập Lực, vô úy và tất cả Phật pháp.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được an trụ nhứt thiết trí vô thượng.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười chỗ ngồi :
Chỗ
ngồi Chuyển Luân Vương, v́ phát khởi mười thiện đạo.
Chỗ
ngồi Tứ Thiên Vương, v́ tất cả thế gian tự tại an lập Phật pháp.
Chỗ
ngồi Đế Thích, v́ làm thắng chủ cho tất cả chúng sanh.
Chỗ
ngồi Phạm Vương, v́ ở người và ḿnh tâm đều được tự tại.
Chỗ
ngồi sư tử, v́ hay thuyết pháp.
Chỗ
ngồi chánh pháp, v́ dùng sức tổng tŕ biện tài mà khai thị.
Chỗ
ngồi kiên cố, v́ thệ nguyện rốt ráo.
Chỗ
ngồi đại từ, v́ làm cho ác chúng sanh đều vui mừng.
Chỗ
ngồi đại bi, v́ nhẫn chịu tất cả khổ chẳng mỏi nhàm.
Chỗ
ngồi kim cang, v́ hàng phục ma quân và ngoại đạo.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ ngồi chánh giác vô thượng của đức Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười chỗ nằm :
Chỗ
nằm tịch tịnh, v́ thân tâm yên lặng.
Chỗ
nằm thiền định, v́ tu hành đúng lư.
Chỗ
nằm tam muội, v́ thân tâm nhu nhuyến.
Chỗ
nằm Phạm Thiên, v́ chẳng năo hại ḿnh và người.
Chỗ
nằm thiện nghiệp, v́ chẳng bị khuynh động.
Chỗ
nằm chánh đạo, v́ thiện hữu khai giác.
Chỗ
nằm diệu nguyện, v́ thiện xảo hồi hướng.
Chỗ
nằm tất cả việc đều xong, v́ việc làm đều hoàn măn.
Chỗ
nằm bỏ những công dụng, v́ tất cả đều quen thuộc.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ nằm đại pháp vô thượng của Như Lai đều
có thể khai ngộ tất cả chúng sanh.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười chỗ sở trụ :
Dùng
đại từ làm chỗ sở trụ, v́ tâm b́nh đẳng với tất cả chúng sanh.
Dùng
đại bi làm chỗ sở trụ, v́ chẳng khinh người chưa học.
Dùng
đại hỷ làm chỗ sở trụ, v́ rời tất cả ưu năo.
Dùng
đại xả làm chỗ sở trụ, v́ nơi hữu vi vô vi đều b́nh đẳng.
Dùng
tất cả Ba la mật làm chỗ sở trụ, v́ Bồ đề tâm làm đầu.
Dùng
nhứt thiết không để làm chỗ sở trụ, v́ thiện xảo quan sát.
Dùng
vô tướng làm chỗ sở trụ, v́ chẳng ra khỏi chánh vị.
Dùng
vô nguyện làm chỗ sở trụ, v́ quán sát thọ sanh.
Dùng
niệm huệ làm chỗ sở trụ, v́ nhẫn pháp thành tựu viên măn.
Dùng
tất cả pháp b́nh đẳng làm chỗ sở trụ, v́ được thọ kư.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ sở trụ vô ngại vô thượng của Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười chỗ sở hành :
Dùng
chánh niệm làm chỗ sở hành, v́ đầy đủ niệm xứ.
Dùng
những xu hướng làm chỗ sở hành, v́ xu hướng pháp Chánh giác.
Dùng
trí huệ làm chỗ sở hành, v́ được Phật hoan hỷ.
Dùng
Ba la mật làm chỗ sở hành, v́ đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.
Dùng
tứ nhiếp làm chỗ sở hành, v́ giáo hóa chúng sanh.
Dùng
sanh tử làm chỗ sở hành, v́ chứa nhóm thiện căn.
Dùng
sự nói chuyện đùa tạp với chúng sanh làm chỗ sở hành, v́ tùy nghi giáo hóa xa
ĺa hẳn.
Dùng
thần thông làm chỗ sở hành, v́ biết cảnh giới các căn của tất cả chúng sanh.
Dùng
thiện xảo phương tiện làm chỗ sở hành, v́ tương ưng Bát nhă Ba la mật.
Dùng
đạo tràng làm chỗ sở hành, v́ thành Nhứt thiết trí mà chẳng dứt hạnh Bồ Tát.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ sở hành đại trí huệ vô thượng của đức
Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ quán sát :
Biết
các nghiệp quán sát, v́ vi tế đều thấy.
Biết
các loài quán sát, v́ chẳng chấp chúng sanh.
Biết
các căn quán sát, v́ rơ thấu các căn.
Biết
các pháp quán sát, v́ chẳng hoại pháp giới.
Thấy
Phật pháp quán sát, v́ siêng tu Phật nhăn.
Được
trí huệ quán sát, v́ thuyết pháp đúng lư.
Vô
sanh nhẫn quán sát, v́ quyết rơ Phật pháp.
Bất
thối địa quán sát v́ diệt phiền năo vượt khỏi tam giới Nhị thừa địa.
Quán
đảnh địa quán sát, nơi tất cả Phật pháp được tự tại bất động.
Thiện
giác trí tam muội quán sát, v́ ra làm Phật sự khắp mười phương.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được trí đại quán sát vô thượng của Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười môn phổ quán sát :
Phổ
quán sát tất cả những kẻ đến cầu xin, v́ dùng tâm không trái nghịch để làm thỏa
măn ư của họ.
Phổ
quán sát tất cả những chúng sanh phạm giới, v́ an trí họ trong giới thanh tịnh
của đức Như Lai.
Phổ
quán sát tất cả những chúng sanh có tâm tổn hại, v́ an trí họ trong nhẫn lực
của đức Như Lai.
Phổ
quán sát tất cả những chúng sanh giải đăi, v́ khuyên họ tinh cần chẳng bỏ gánh
lấy gánh Đại thừa.
Phổ
quán sát tất cả chúng sanh loạn tâm, v́ làm cho họ an trụ nhứt thiết trí địa
không tán động của đức Như Lai.
Phổ
quán sát tất cả những chúng sanh ác huệ, v́ làm cho họ trừ nghi hoặc phá kiến
chấp hữu lậu.
Phổ
quán sát tất cả những thiện hữu b́nh đẳng, v́ thuận giáo mạng của thiện hữu mà
an trụ trong Phật pháp.
Phổ
quán sát tất cả pháp đă được nghe, v́ mau được chứng thấy nghĩa tối thượng.
Phổ
quán sát tất cả chúng sanh vô biên, v́ thường chẳng bỏ rời sức đại bi.
Phổ
quán sát tất cả Phật pháp, v́ mau được thành tựu Nhứt thiết trí.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí huệ phổ quán sát vô thượng của đức
Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười điều phấn tấn :
Ngưu
Vương phấn tấn, v́ che chói tất cả đại chúng Thiên, Long, Bát Bộ v.v...
Tượng
Vương phấn tấn, v́ tâm khéo điều nhu gánh vác tất cả những chúng sanh.
Long
Vương phấn tấn, v́ nổi mây dầy đại pháp, chiếu điển quang giải thoát, chấn sấm
nghĩa như thật, rưới mưa cam lồ căn, lực, giác phần, thiền định, giải thoát,
tam muội.
Đại
Kim Sí Điểu Vương phấn tấn, v́ cạn nước tham ái, phá vỏ ngu si, chụp bắt những
ác độc long phiền năo, khiến ra khỏi biển khổ lớn sanh tử.
Đại
Sư Tử Vương phấn tấn, v́ an trụ đại trí vô úy, b́nh đẳng dùng làm khí trượng,
xô dẹp chúng ma và ngoại đạo.
Dũng
kiện phấn tấn, v́ có thể ở trong chiến trận lớn sanh tử, xô diệt tất cả phiền
năo oan thù.
Đại
Trí phấn tấn, v́ biết uẩn, xứ, giới và các duyên khởi tự tại khai thị tất cả
pháp.
Đà
La Ni phấn tấn, dùng sức niệm huệ thọ tŕ chánh pháp chẳng quên, tùy theo căn
của chúng sanh mà v́ họ tuyên thuyết.
Biện
tài phấn tấn, v́ vô ngại mau chóng phân biệt tất cả, đều làm cho được lợi ích
tâm hoan hỷ.
Như
Lai phấn tấn, v́ nhứt thiết chủng trí những pháp trợ đạo đều thành tựu viên
măn, dùng một niệm tương ưng huệ, những chỗ đáng được tất cả đều được, những
chỗ đáng ngộ tất cả đều ngộ; ngồi ṭa sư tử, hàng ma oán địch thành Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được nơi tất cả pháp phấn tấn tự tại vô
thượng của chư Phật.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười sư tử hống :
Đại
Bồ Tát xướng rằng :
Tôi
sẽ quyết định thành Đẳng Chánh Giác. Đây là đại bồ đề tâm đại sư tử hống.
Tôi
sẽ làm cho tất cả chúng sanh, người chưa được độ thời được độ, người chưa giải
thoát được giải thoát, người chưa an được an, người chưa Niết bàn được chứng
Niết bàn. Đây là đại bi sư tử hống.
Tôi
sẽ làm cho chủng tánh của Tam Bảo Phật, Pháp và Tăng không đoạn tuyệt. Đây là
báo đáp ơn Như Lai đại sư tử hống.
Tôi
sẽ nghiêm tịnh tất cả cơi Phật. Đây là thệ nguyện rốt ráo kiên cố đại sư tử
hống.
Tôi
sẽ trừ diệt tất cả ác đạo và các nạn xứ. Đây là tự tŕ tịnh giới đại sư tử
hống.
Tôi
sẽ đầy đủ thân, ngữ, ư tướng hảo trang nghiêm của chư Phật. Đây là cầu phước
không nhàm đại sư tử hống.
Tôi
sẽ thành tựu viên măn những trí huệ của tất cả chư Phật. Đây là cầu trí không
nhàm đại sư tử hống.
Tôi
sẽ trừ diệt tất cả chúng ma và những nghiệp ma. Đây là tu chánh hạnh dứt các
phiền năo đại sư tử hống.
Tôi
sẽ rơ biết tất cả pháp không ngă, không chúng sanh, không thọ mạng, không bổ
đặc già la, trống không, vô tướng, vô nguyện, sạch như hư không. Đây là vô sanh
pháp nhẫn đại sư tử hống.
Tối
hậu sanh Bồ Tát chấn động tất cả Phật độ đều làm cho trang nghiêm thanh tịnh.
Bấy giờ tất cả Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương đều đến tán thán khuyến
thỉnh : "Ngưỡng mong Bồ Tát dùng pháp vô sanh mà thị hiện thọ sanh".
Bồ Tát liền dùng huệ nhăn vô ngại quán sát khắp thế gian tất cả chúng sanh
không ai bằng ta. Liền thị hiện đản sanh ở vương cung tự đi bảy bước đại sư tử
hống : Ta là tối thắng đệ nhứt ở thế gian. Ta sẽ hết hẳn biên tế sanh tử. Đây
là như thuyết mà làm đại sư tử hống.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại sư tử hống của Như Lai.
Chư Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp thanh tịnh thí :
B́nh
đẳng bố thí, v́ chẳng lựa chúng sanh.
Tùy
ư bố thí, v́ thoả măn chỗ nguyện cầu.
Chẳng
loạn bố thí, v́ làm cho được lợi ích.
Tùy
nghi bố thí, v́ biết thượng trung hạ.
Chẳng
trụ bố thí, v́ chẳng cầu quả báo.
Mở
rộng xả thí, v́ tâm chẳng luyến tiếc.
Tất
cả bố thí, v́ rốt ráo thanh tịnh.
Hồi
hướng bồ đề thí, v́ xa rời hữu vi vô vi.
Giáo
hoá chúng sanh bố thí, v́ nhẫn đến đạo tràng chẳng bỏ.
Tam
luân thanh tịnh bố thí, v́ chánh niệm quán sát người thí, kẻ thọ và vật thí như
hư không.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được bố thí quảng đại thanh tịnh vô thượng của
Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thanh tịnh giới :
Thân
thanh tịnh giới, v́ giữ ǵn ba điều ác nơi thân.
Ngữ
thanh tịnh giới, v́ xa ĺa bốn lỗi nơi lời nói.
Tâm
thanh tịnh giới, v́ xa ĺa tham, sân, tà kiến.
Thanh
tịnh giới chẳng phá tất cả học xứ, v́ làm tôn chủ ở trong tất cả nhơn thiên.
Thanh
tịnh giới thủ hộ tâm Bồ đề, v́ chẳng thích Tiểu thừa.
Thanh
tịnh giới giữ ǵn điều chế của đức Như Lai, v́ nhẫn đến tội vi tế cũng sanh
ḷng rất e sợ.
Thanh
tịnh giới ẩn mật hộ tŕ, v́ khéo cứu chúng sanh phạm giới.
Thanh
tịnh giới chẳng làm tất cả điều ác, v́ thệ tu tất cả pháp lành.
Thanh
tịnh giới xa ĺa tất cả kiến chấp hữu lậu, v́ không chấp nơi giới.
Thanh
tịnh giới thủ hộ tất cả chúng sanh, v́ phát khởi đại bi.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh giới vô thượng không lỗi lầm
của đức Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thanh tịnh nhẫn :
Thanh
tịnh nhẫn an thọ sự mắng nhục, v́ thủ hộ các chúng sanh.
Thanh
tịnh nhẫn an thọ dao gậy, v́ khéo hộ tŕ ḿnh và người.
Thanh
tịnh nhẫn chẳng sanh giận hại, v́ nơi tâm chẳng động.
Thanh
tịnh nhẫn chẳng trách kẻ ti tiện, v́ người trên hay rộng lượng.
Thanh
tịnh nhẫn có ai về nương đều cứu độ, v́ xả bỏ thân mạng ḿnh.
Thanh
tịnh nhẫn xa ĺa ngă mạn, v́ chẳng khinh kẻ chưa học.
Thanh
tịnh nhẫn bị tàn hại hủy báng chẳng sân, v́ quán sát như huyễn.
Thanh
tịnh nhẫn bị hại không báo oán, v́ chẳng thấy ḿnh và người.
Thanh
tịnh nhẫn chẳng theo phiền năo, v́ ĺa những cảnh giới.
Thanh
tịnh nhẫn tùy thuận chơn thiệt trí của Bồ Tát biết tất cả vô sanh, v́ chẳng do
người dạy mà được nhập cảnh Nhứt thiết trí.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được pháp nhẫn vô thượng chẳng do tha ngộ của
tất cả chư Phật.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp tinh tấn thanh tịnh :
Thân
thanh tịnh tinh tấn, v́ thừa sự cúng dường chư Phật, Bồ Tát và các sư trưởng,
tôn trọng phước điền chẳng thối chuyển.
Ngữ
thanh tịnh tinh tấn, v́ pháp đă nghe rộng v́ người mà diễn thuyết, tán thán
công đức của chư Phật không mỏi mệt.
Ư
thanh tịnh tinh tấn, v́ khéo có thể nhập xuất từ, bi, hỷ, xả, thiền định, giải
thoát và các tam muội không thôi nghỉ.
Tâm
chánh trực thanh tịnh tinh tấn, v́ không dối, không dua bợ, không vạy ṿ, không
hư giả tất cả siêng tu không thối chuyển.
Tâm
tăng thắng thanh tịnh tinh tấn, v́ thường xu cầu thượng thượng trí huệ nguyện
đủ tất cả pháp bạch tịnh.
Thanh
tịnh tinh tấn chẳng luống bỏ v́ nhiếp lấy bố thí, giới, nhẫn, đa văn và bất
phóng dật nhẫn đến Bồ đề không nghỉ giữa chừng.
Dẹp
phục tất cả ma thanh tịnh tinh tấn, v́ đều có thể trừ diệt tham dục, sân hận,
ngu si, tà kiến, tất cả phiền năo, những cái triền.
Thành
tựu viên măn trí huệ quang minh thanh tịnh tinh tấn, có làm việc chi đều khéo
quán sát, đều khiến rốt ráo chẳng cho ăn năn về sau, được Phật bất cộng pháp.
Vô
lai vô khứ thanh tịnh tinh tấn, v́ được trí như thiệt nhập môn pháp giới, thân
ngữ và tâm thảy đều b́nh đẳng, rơ tướng tức là phi tướng không chấp trước.
Thành
tựu pháp quang thanh tịnh tinh tấn, v́ vượt quá các địa được Phật quán đảnh,
dùng thân vô lậu mà thị hiện mất, thọ, sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp,
diệt độ, đầy đủ sự Phổ Hiền như vậy.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này, thời được đại thanh tịnh tinh tấn vô thượng của Như
Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thanh tịnh thiền :
Thanh
tịnh thiền, thường thích xuất gia, v́ rời bỏ tất cả sở hữu.
Thanh
tịnh thiền, được chơn thiện hữu, v́ chỉ dạy chánh đạo.
Thanh
tịnh thiền, ở a lan nhă nhẫn chịu mưa gió, v́ ĺa ngă và ngă sở.
Thanh
tịnh thiền, ĺa chúng sanh ồn náo, v́ thường thích tịch tịnh.
Thanh
tịnh thiền, tâm nghiệp điều nhu, v́ thủ hộ các căn.
Thanh
tịnh thiền, tâm trí tịch diệt, v́ tất cả âm thanh những chướng thiền định chẳng
thể làm loạn.
Thanh
tịnh thiền, giác đạo phương tiện, v́ quán sát tất cả đều hiện chứng.
Thanh
tịnh thiền, rời tham đắm, v́ chẳng bỏ cơi dục.
Thanh
tịnh thiền, phát khởi thông minh, v́ biết tất cả căn tánh chúng sanh.
Thanh
tịnh thiền, tự tại du hư, v́ nhập Phật tam muội biết vô ngă.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được đại thanh tịnh thiền vô thượng của Như
Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thanh tịnh huệ :
Thanh
tịnh huệ, biết tất cả nhơn, v́ chẳng hoại quả báo.
Thanh
tịnh huệ, biết tất cả duyên v́ chẳng trái ḥa hiệp.
Thanh
tịnh huệ, biết chẳng đoạn chẳng thường, v́ rơ thấu duyên khởi đều như thiệt.
Thanh
tịnh huệ, trừ tất cả kiến chấp, v́ không thủ xả nơi tướng chúng sanh.
Thanh
tịnh huệ, quán tâm hành của tất cả chúng sanh, v́ biết rơ như huyễn.
Thanh
tịnh huệ, biện tài quảng đại, v́ phân biệt các pháp vấn đáp vô ngại.
Thanh
tịnh huệ, tất cả ma, ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, chẳng biết được, v́ thâm
nhập Như Lai trí.
Thanh
tịnh huệ, thấy pháp thân vi diệu của Phật, thấy bổn tánh thanh tịnh của tất cả
chúng sanh, thấy tất cả pháp đều tịch diệt, thấy tất cả cơi đồng như hư không,
v́ biết tất cả tướng đều vô ngại.
Thanh
tịnh huệ, tất cả tổng tŕ, biện tài, phương tiện đều đến bĩ ngạn, v́ làm cho
được nhứt thiết trí tối thắng.
Thanh
tịnh huệ, nhứt niệm tương ưng kim cang trí, rơ tất cả pháp b́nh đẳng, v́ được
nhứt thiết pháp tối tôn trí.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ trong đây, thời được đại trí huệ vô ngại của Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thanh tịnh từ :
Thanh
tịnh từ, tâm b́nh đẳng, v́ nhiếp khắp chúng sanh không lựa chọn.
Thanh
tịnh từ, lợi ích, v́ tùy có chỗ làm đều làm cho hoan hỷ.
Thanh
tịnh từ, nhiếp người đồng như ḿnh, v́ rốt ráo đều làm cho ra khỏi sanh tử.
Thanh
tịnh từ, chẳng bỏ thế gian, v́ tâm thường duyên niệm chứa nhóm thiện căn.
Thanh
tịnh từ, có thể đến giải thoát, v́ khiến khắp chúng sanh trừ diệt tất cả phiền
năo.
Thanh
tịnh từ, xuất sanh Bồ đề, v́ khiến khắp chúng sanh phát tâm cầu nhứt thiết trí.
Thanh
tịnh từ, thế gian vô ngại, v́ phóng đại quang minh b́nh đẳng chiếu khắp.
Thanh
tịnh từ, đầy khắp hư không, v́ cứu hộ chúng sanh không xứ nào chẳng đến.
Thanh
tịnh từ, pháp duyên, chúng pháp như như chơn thiệt.
Thanh
tịnh từ, vô duyên v́ nhập Bồ Tát ly sanh tánh.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh từ quảng đại vô thượng của Như
Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thanh tịnh bi :
Thạnh
tịnh bi, không bạn bè, v́ riêng ḿnh phát tâm đó.
Thạnh
tịnh bi, không mỏi nhàm, v́ thay thế tất cả chúng sanh thọ khổ chẳng cho là
nhọc.
Thạnh
tịnh bi, thọ sanh ở xứ nạn, v́ cứu độ chúng sanh nạn.
Thạnh
tịnh bi, thọ sanh ở đường lành, v́ thị hiện vô thường.
Thạnh
tịnh bi, v́ tà định chúng sanh, v́ nhiều kiếp chẳng bỏ hoằng thệ.
Thạnh
tịnh bi, chẳng nhiễm trước sự vui của ḿnh, v́ cho khắp chúng sanh sự sung
sướng.
Thạnh
tịnh bi, chẳng cầu báo ân, v́ tu tâm trong sạch.
Thạnh
tịnh bi, có thể trừ điên đảo v́ nói pháp như thiệt.
Đại
Bồ Tát biết tất cả pháp bổn tánh thanh tịnh không nhiễm trước không nhiệt năo,
v́ do khắp trần phiền năo nên thọ những điều khổ. Biết như vậy rồi Bồ Tát ở nơi
chúng sanh mà khởi đại bi gọi là bổn tánh thanh tịnh, v́ họ mà diễn thuyết pháp
vô cấu thanh tịnh, quang minh.
Đại
Bồ Tát biết tất cả pháp như dấu chim bay giữa không gian, chúng sanh si ḷa
chẳng thể quán sát biết rơ các pháp Bồ Tát phát khởi tâm đại bi tên là chơn
thiệt trí, v́ họ mà khai thị pháp Niết bàn. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời
được thanh tịnh bi quảng đại vô thượng của Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thanh tịnh hỷ :
Thanh
tịnh hỷ, phát Bồ đề tâm.
Thanh
tịnh hỷ, đều xả bỏ sở hữu.
Thanh
tịnh hỷ, chẳng ghét bỏ chúng sanh phá giới giáo hóa cho họ được thành tựu.
Thanh
tịnh hỷ, có thể nhẫn thọ chúng sanh tạo ác mà thệ nguyện cứu độ họ.
Thanh
tịnh hỷ, xả thân cầu pháp chẳng sanh ḷng ăn năn.
Thanh
tịnh hỷ, tự bỏ dục lạc thường thích pháp lạc.
Thanh
tịnh hỷ, làm cho tất cả chúng sanh bỏ tư sanh lạc thường thích pháp lạc.
Thanh
tịnh hỷ, thấy chư Phật thời cung kính cúng dường không nhàm đủ, an trụ nơi pháp
giới b́nh đẳng.
Thanh
tịnh hỷ, làm cho tất cả chúng sanh ưa thích thiền định giải thoát tam muội du
hư nhập xuất.
Thanh
tịnh hỷ, ḷng ưa thích đầy đủ công hạnh thuận tất cả khổ hạnh của Bồ Tát đạo,
chứng được định huệ tịch tịnh bất động của đức Mâu Ni.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh hỷ quảng đại vô thượng của Như
Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thanh tịnh xả :
Thanh
tịnh xả, tất cả chúng sanh cung kính cúng dường, Bồ Tát chẳng sanh ḷng ái
trước.
Thanh
tịnh xả, tất cả chúng sanh khinh mạn hủy nhục, Bồ Tát chẳng sanh ḷng giận hờn.
Thanh
tịnh xả, thường đi trong thế gian chẳng bị tám pháp thế gian làm nhiễm.
Thanh
tịnh xả, đối với pháp khí chúng sanh chờ thời mà hóa độ, với chúng sanh không
pháp khí cũng chẳng hiềm ghét.
Thanh
tịnh xả, chẳng cầu pháp học và vô học của Nhị thừa.
Thanh
tịnh xả, tâm thường xa ĺa tất cả dục lạc thuận phiền năo.
Thanh
tịnh xả, chẳng khen hàng Nhị thừa nhàm ĺa sanh tử.
Thanh
tịnh xả, xa ĺa tất cả lời thế gian, lời phi Niết bàn, lời phi ly dục, lời
chẳng thuận lư, lời năo loạn người khác, lời Thanh Văn, lời Duyên Giác, nhẫn
đến những chướng Bồ Tát đạo đều xa ĺa tất cả.
Thanh
tịnh xả, hoặc có chúng sanh căn đă thành thục phát sanh niệm huệ mà chưa biết
được pháp tối thượng, chờ thời tiết mới hóa độ.
Thanh
tịnh xả, hoặc có chúng sanh đă được Bồ Tát giáo hóa từ thưở trước, đến Phật địa
mới điều phục được, Bồ Tát cũng chờ thời tiết.
Thanh
tịnh xả, đối với hai hạng chúng sanh trên Bồ Tát, không có quan niệm cao hạ thủ
xả, xa ĺa tất cả những phân biệt, hằng trụ chánh định, nhập pháp như thiệt,
tâm được kham nhẫn.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thanh tịnh xả quảng đại vô thượng
của Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười nghĩa :
Đa
văn nghĩa, v́ kiên cố tu hành.
Pháp
nghĩa, v́ khéo léo suy gẫm lựa chọn.
Không
nghĩa, v́ đệ nhứt nghĩa không.
Tịch
tịnh nghĩa, rời những chúng sanh ồn náo.
Bất
khả thuyết nghĩa, v́ chẳng chấp tất cả ngữ ngôn.
Như
thiệt nghĩa, v́ rơ thấu tam thế b́nh đẳng.
Pháp
giới nghĩa, v́ tất cả các pháp đồng một vị.
Chơn
như nghĩa, v́ tất cả Như Lai thuận nhập.
Thiệt
tế nghĩa, v́ biết rơ rốt ráo như thiệt.
Đại
Bát Niết bàn nghĩa, v́ diệt tất cả khổ mà tu những hạnh Bồ Tát.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được Nhứt thiết trí vô thượng nghĩa.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp :
Chơn
thiệt pháp, v́ như thuyết tu hành.
Ly
thủ pháp, v́ đều ĺa năng thủ và sở thủ.
Vô
tránh pháp, v́ không có tất cả mê lầm gây gỗ.
Tịch
diệt pháp, v́ trừ diệt tất cả nhiệt năo.
Ly
dục pháp, v́ tất cả tham dục đều dứt trừ.
Vô
phân biệt pháp, v́ dứt hẳn phan duyên phân biệt.
Vô
sanh pháp, v́ dường như hư không bất động.
Vô
vi pháp, v́ ĺa những tướng sanh trụ diệt.
Bổn
tánh pháp, v́ tự tánh vô nhiễm thanh tịnh.
Xả
bỏ tất cả Ô ba đề Niết bàn pháp, v́ hay sanh tất cả Bồ Tát hạnh tu tập chẳng
dứt.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được pháp quảng đại vô thượng của đức Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười công cụ trợ đạo phước đức :
Khuyên
chúng sanh phát khởi tâm Bồ đề là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, v́
chẳng dứt ngôi Tam Bảo.
Tùy
thuận Thập hồi hướng là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, v́ dứt tất cả
pháp bất thiện, chứa nhóm tất cả thiện pháp.
Trí
huệ dạy dỗ là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, v́ vượt hơn phước đức tam
giới.
Tâm
không mỏi mệt là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, v́ rốt ráo độ thoát tất
cả chúng sanh.
Xả
bỏ tất cả sở hữu trong thân ngoài thân là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát,
v́ nơi tất cả vật chẳng chấp trước.
V́
đầy đủ tướng hảo mà tinh tấn bất thối là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát,
v́ mở cử đại thí không hạn cuộc.
Thượng,
trung, hạ, ba phẩm thiện căn đều đem hồi hướng vô thượng Bồ đề tâm không khinh
trọng là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, v́ tương ứng với thiện xảo
phương tiện.
Với
chúng sanh tà định hạ liệt bất thiện đều sanh ḷng đại bi chẳng khinh tiện là
công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, v́ thường phát khởi tâm hoằng thệ của bực
đại nhơn.
Cung
kính cúng dường tất cả Như Lai với tất cả Bồ Tát khởi Như Lai tưởng làm cho
chúng sanh đều hoan hỉ, đây là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, v́ giữ bổn
chí nguyện rất bền chắc.
Trong
vô số kiếp, đại Bồ Tát tích tập thiện căn tự muốn được chứng vô thượng Bồ Đề
như ở trong bàn tay, nhưng đầu đem xả thí cho tất cả chúng sanh ḷng không ưu
năo cũng không hối hận, tâm Bồ Tát rộng lớn đồng hư không giới. Đây là công cụ
trợ đạo phước đức của Bồ Tát, v́ phát khởi trí huệ chứng đại pháp.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ trong đây thời đầy đủ phước đức quảng đại vô thựơng của Như
Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười công cụ trợ đạo trí huệ :
Gần
gũi chơn thiện tri thức đa văn, cung kính, cúng dường, tôn trọng, lễ bái tùy
thuận mọi việc chẳng trái lời dạy bảo. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ nhứt,
v́ tất cả chánh trực không hư dối.
Ĺa
hẳn kiêu mạng thường có hạnh khiêm hạ cung kính, thân ngữ ư ba nghiệp không thô
bạo, nhu ḥa thiện thuận chẳng dối trá, chẳng vạy ṿ. Đây là công cụ trợ đạo
trí huệ thứ hai, v́ thân Bồ Tát kham làm pháp khí.
Niệm
huệ tùy giác chưa từng tán loạn, hổ thẹn, nhu ḥa tâm an bất động, thường nhớ
lục niệm, thường thật hành lục ḥa kính, thường tùy thuận trụ sáu pháp kiên cố.
Đây là công cụ trí huệ thứ ba, v́ làm phương tiện cho mười trí.
Thích
pháp thích nghĩa, lấy pháp làm vui, thường thích lóng nghe chánh pháp không
nhàm đủ, bỏ rời thế luận và thế ngôn thuyết, chuyên tâm nghe thọ lời xuất thế
gian, xa ĺa Tiểu thừa, nhập Đại thừa huệ. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ
tư, v́ nhứt tâm ghi nhớ không tán động.
Tâm
chuyên gánh vác sáu môn Ba la mật, thật hành đă thành thục bốn pháp phạm trụ,
đều khéo tu hành tùy thuận minh pháp, điều siêng thỉnh hỏi người trí thông mẫn,
xa ĺa ác thú quy hướng đường lành tâm thường mến thích chánh niệm quán sát,
điều phục ḷng ḿnh, thủ hộ ư người. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ năm, v́
kiên cố tu hành chơn thiệt hạnh.
Thừơng
thích xuất ly chẳng chấp ba cơi, hằng giác tự tâm không bao giờ có ác niệm, ba
giác quán đă tuyệt, ba nghiệp đều lành quyết định biết rơ tự tánh của tâm. Đây
là công cụ trợ đạo trí huệ thứ sáu, v́ có thể làm cho ḿnh và người được tâm
thanh tịnh.
Quán
sát ngủ uẩn đều như huyễn sự, thập bát giới như độc xà, thập nhị xứ như hư
không, tất cả pháp như huyễn, như diệm, như trăng trong nước, như mộng, như
ảnh, như hưởng, như tượng, như vẽ giữa hư không, như ṿng lửa quây, như màu
mống rán, như ánh sáng mặt nhựt mặt nguyệt, vô tứơng vô h́nh, phi thừơng phi
đoạn, chẳng đến chẳng đi, cũng không sở trụ, quán sát như vậy biệt tất cả pháp
vô sanh vô diệt. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ bảy, v́ biết tất cả pháp
tánh không tịch.
Đại
Bồ Tát nghe tất cả pháp không ngă, không chúng sanh, không thọ giă, không bổ
đặc già la, không tâm, không cảnh, không tham sân si, không thân, không vật,
không chủ, không đối đăi, không chấp trước, không hành động, như vậy, tất cả
đều vô sở hữu, trọn về nơi tịch diệt. Nghe rồi tin sâu chẳng nghi chẳng hủy
báng. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ tám, v́ có thể thành tựu tri giải viân
măn.
Đại
Bồ Tát khéo điều các căn như lư tu hành, hằng trụ chỉ quán tâm ư tịch tịnh, tất
cả động niệm đều trọn chẳng phát khởi, vô ngă, vô nhơn, vô tác, vô hành, không
chấp ngả tưởng, không chấp ngả nghiệp, không có tỳ vết, không có nứt rạn, cũng
không đức nhẫn nơi đây, thân ngữ ư ba nghiệp không lai không khứ, không có tinh
tấn cũng không dũng mănh. Quán tất cả chúng sanh tất cả các pháp đều b́nh đẳng
mà không sở trụ. Chẳng phải thử ngạn, chẳng phái bĩ ngạn, thử bĩ tánh ly, không
từ đâu đến, đi không đến đâu. Thừơng dùng trí huệ tư duy như vậy. Đây là công
cụ trợ đạo trí huệ thứ chín, v́ đến chỗ bỉ ngạn phân biệt tứơng.
Đại
Bồ Tát thấy pháp duyên khởi nên thấy pháp thanh tịnh, v́ thấy pháp thanh tịnh
nên thấy quốc độ thanh tịnh, v́ thấy quốc độ thanh tịnh nên thấy hư không thanh
tịnh, v́ thấy hư không thanh tịnh nên thấy pháp giới thanh tịnh, v́ thấy pháp
giới thanh tịnh nên thấy trí huệ thanh tịnh. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ
mười của Bồ Tát, v́ tu hành tích tập nhứt thiết trí.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ trong mười pháp này thời được trí huệ vi diệu thanh tịnh vô
ngại nơi tất cả pháp của đức Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười minh túc :
Minh
túc, khéo phân biệt các pháp.
Minh
túc, chẳng chấp trước các pháp.
Minh
túc, ĺa điên đảo kiến.
Minh
túc, trí huệ quang chiếu soi các căn.
Minh
túc, khéo phát khởi chánh tinh tấn.
Minh
túc, hay thâm nhập chơn đế trí.
Minh
túc, diệt nghiệp phiền năo thành tựu tận trí vô sanh trí.
Minh
túc, thiên nhăn trí khéo quán sát.
Minh
túc, túc trụ niệm biết thưở trước thanh tịnh.
Minh
túc, lậu tận thần thông trí dứt những lậu của chúng sanh.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại quang minh vô thượng nơi tất cả Phật
pháp của Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười điều cầu pháp :
Trực
tâm cầu pháp, v́ không dua nịnh phỉnh phờ.
Tinh
tấn cầu pháp, v́ xa ĺa lười biếng khinh mạn.
Nhứt
hướng cầu pháp, v́ chẳng tiếc thân mạng.
V́
trừ phiền năo cho tất cả chúng sanh mà cầu pháp, v́ chẳng v́ danh lợi cung
kính.
V́
lợi ích ḿnh và người tất cả chúng sanh mà cầu pháp, v́ chẳng riêng tự lợi.
V́
nhập trí huệ mà cầu pháp, v́ chẳng thích văn tự.
V́
thoát khỏi sanh tử mà cầu pháp, v́ chẳng tham thế lạc.
V́
độ chúng sanh mà cầu pháp, v́ phát Bồ đề tâm.
V́
dứt nghi cho tất cả chúng sanh mà cầu pháp, v́ làm cho họ không do dự.
V́
đầy đủ Phật pháp mà cầu pháp, v́ chẳng thích những thừa khác.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí huệ tất cả Phật pháp chẳng do
người khác dạy.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp minh liễu :
Tùy
thuận thế tục sanh trưởng thiện căn, đây là đồng mông phàm phu minh liễu pháp.
Được
bất hoại tín vô ngại, tỏ ngộ tự tánh của các pháp, đây là tùy tín hành nhơn
minh liễu pháp.
Siêng
tu tập chánh pháp, tùy thuận chánh pháp mà an trụ, đây là tùy pháp hành nhơn
minh liễu pháp.
Xa
ĺa bát tà, hướng về bát chánh đạo, đây là đệ bát nhơn minh liễu pháp.
Trừ
diệt những kiết sử, dứt lậu sanh tử thấy chơn thiệt đế, đây là tu đà hoàn nhơn
chơn minh liễu pháp.
Quán
sát ham muốn là họa hoạn biết không qua lại, đây là Tư Đà Hàm nhơn minh liễu.
Chẳng
luyến tam giới, cầu hết hữu lậu, đối với pháp thọ sanh, nhẫn đến chẳng sanh một
niệm ái trước, đây là A Na Hàm nhơn minh liễu pháp.
Chứng
lục thần thông, được bát giải thoát, cửu định, tứ biện tài thảy đều thành tựu,
đây là A La Hán nhơn minh liễu pháp.
Tánh
thích quán sát nhứt vị duyên khởi, tâm thường tịch tịnh, tri túc, ít việc, tỏ
ngộ do ḿnh được chẳng do người thành tựu các môn thần thông trí huệ, đây là
Bích Chi Phật nhơn minh liễu pháp.
Trí
huệ rộng lớn, các căn sáng lẹ, thường thích độ thoát tất cả chúng sanh, siêng
tu phước trí các pháp trợ đạo, tất cả công đức thập lực tứ vô úy của Như Lai
đều đầy đủ viên măn, đây là Bồ Tát nhơn minh liễu pháp.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí nhơn minh liễu pháp vô thượng của
đức Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp tu hành :
Cung
kính tôn trọng chư Thiện tri thức, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Thường
được chư Thiên giác ngộ, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Đối
với chư Phật thường có ḷng tàm quư, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Thương
xót chúng sanh chẳng bỏ sanh tử, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Công
việc tất làm đến rốt ráo tâm không biến động, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Chuyên
niệm theo dơi chúng Bồ Tát phát tâm Đại thừa tinh cần tu học, là pháp tu hành
của Bồ Tát.
Xa
ĺa tà kiến siêng cầu chánh đạo, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Dẹp
phá chúng ma và nghiệp phiền năo, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Biết
các chúng sanh căn tánh thắng liệt mà v́ họ thuyết pháp cho họ an trụ nơi Phật
địa, là pháp tu hành của Bồ Tát.
An
trụ pháp giới quảng đại vô biên, diệt trừ phiền năo cho thân thanh tịnh, là
pháp tu hành của Bồ Tát.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được pháp tu hành vô thượng của Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ ma :
Ngũ
uẩn ma, v́ sanh các chấp thủ.
Phiền
năo ma, v́ hằng tạp nhiễm.
Nghiệp
ma, v́ hay chướng ngại.
Tâm ma, v́ khởi
cao mạn.
Tử ma, v́ bỏ chỗ
sanh.
Thiên ma, v́ tự
kiêu căn phóng túng.
Thiện căn ma, v́
hằng chấp thủ.
Tam muội ma, v́
từ lâu say đắm.
Thiện tri thức
ma, v́ phát khởi tâm chấp trước.
Bồ đề pháp trí
ma, v́ chẳng nguyện xả ĺa.
Đại Bồ Tát phải
dùng phương tiện mau cầu xa rời mười thứ ma này.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười thứ ma nghiệp :
Quên mất Bồ đề
tâm tu các thiện căn đây là ma nghiệp.
Ác tâm bố thí,
sân tâm tŕ giới, bỏ người tánh ác, xa kẻ lười biếng, khinh mạn kẻ loạn ư, cơ
hiềm người ác huệ, đây là ma nghiệp.
Nơi pháp thậm
thâm tâm sanh xan lẫn, có người kham được hóa độ mà chẳng v́ họ thuyết pháp.
Nếu được tài lợi cung kính cúng dường, dầu chẳng phải pháp khí mà cũng gượng v́
họ thuyết pháp. Đây là ma nghiệp.
Chẳng thích lắng
nghe các môn Ba la mật, giả sử nghe nói mà chẳng tu hành, dầu cũng tu hành mà
phần nhiều lười biếng. V́ lười biếng nên chí ư hèn kém chẳng cầu pháp đại Bồ đề
Vô thượng. Đây là ma nghiệp.
Xa thiện tri
thức, gần ác tri thức, thích cầu Nhị thừa, chẳng thích thọ sanh, chỉ chuộng
Niết bàn ly dục tịch tịnh. Đây là ma nghiệp.
Ở chỗ Bồ Tát,
khởi tâm sân hận ác nhăn nh́n ngó t́m cầu tội hở để nói kể lỗi lầm, ngăn dứt
tài lợi cúng dường. Đây là ma nghiệp.
Phỉ báng chánh
pháp chẳng thích lắng nghe, giả sử được nghe liền sanh ḷng che âbai, thấy
người thuyết pháp chẳng sanh ḷng tôn trọng, cho lời ḿnh nói là phải, lời của
người là quấy. Đây là ma nghiệp.
Thích học thế
luận xảo thuật văn từ, khai xiển thâm pháp ẩn phú của Nhị thừa, hoặc dùng diệu
nghĩa truyền dạy cho người chẳng đáng dạy, xa rời Bồ đề, trụ nơi tà đạo. Đây là
ma nghiệp.
Người đă được
giải thoát đă được an ổn thời thường thích gần gũi mà cúng dường. Người chưa
giải thoát chưa an ổn thời chẳng chịu thân cận, cũng chẳng giáo hoá. Đây là m
anghiệp.
Thêm lớn ngă mạn
không cung kính. Với các chúng sanh làm nhiều sự năo hại, chẳng cầu chánh pháp
trí huệ chơn thiệt. Tâm ư tệ ác khó khai ngộ được. Đây là ma nghiệp.
Chư Bồ tát phải
mau xa ĺa mười ma nghiệp này mà siêng cầu Phật nghiệp.
Chư Phật tử !
Đại Bồ tát có mười điều bỏ rời ma nghiệp :
Gần thiện tri
thức cung kính cúng dường. Đây là bỏ rời ma nghiệp.
Chẳng tụ cao tự
đại, chẳng tự khen ngợi. Đây là bỏ rời ma nghiệp.
Nơi thâm pháp
của Phật tin hiểu chẳng chê. Đây là bỏ rời ma nghiệp.
Chưa từng quên
mất tâm nhứt thiết trí. Đây là bỏ rời ma nghiệp.
Siêng tu diệu
hạnh hằng chẳng phóng dật. Đây là bỏ rời ma nghiệp.
Thường cầu tất
cả pháp Bồ Tát tạng. Đây là bỏ rời ma nghiệp.
Hằng diễn thuyết
chánh pháp tâm không mỏi nhọc. Đây là bỏ rời ma nghiệp.
Quy y tất cả chư
Phật mười phương, phát khởi tưởng niệm được cứu hộ. Đây là bỏ rời ma nghiệp.
Tin thọ ức niệm
tất cả chư Phật thần lực gia tŕ. Đây là bỏ rời ma nghiệp.
Cùng tất cả Bồ
Tát đồng gieo căn lành b́nh đẳng không hai. Đây là bỏ rời ma nghiệp.
Nếu chư Bồ tát
an trụ mười pháp này thời có thể ra khỏi tất cả ma đạo.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười môn kiến Phật :
Vô trước kiến,
đối với Phật thành Chánh giác an trụ thế gian.
Xuất sanh kiến,
đối với nguyện Phật.
Thâm tín kiến,
đối với nghuệp báo Phật.
Tùy thuận kiến,
đối với trụ tŕ Phật.
Thâm nhập kiến,
đối với Niết bàn Phật.
Phổ chí kiến,
đối với pháp giới Phật.
An trụ kiến, đối
với tâm Phật.
Vô lượng vô y
kiến, đối với tam muội Phật.
Minh liễu kiến,
đối với bổn tánh Phật.
Phổ thọ kiến,
đối với tùy lạc Phật.
Nếu chư Bồ tát
an trụ mười môn kiến Phật này thời thường được thấy đức Như Lai vô thượng.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười Phật nghiệp :
Tùy thời tiết để
khai đạo, là Phật nghiệp, v́ làm cho tu hành Chánh pháp.
Trong chiêm bao
khiến thấy, là Phật nghiệp, v́ giác ngộ thiện căn thưở xưa.
V́ người mà diễn
thuyết kinh chưa được nghe, là Phật nghiệp, v́ làm cho sanh trí dừt nghi.
V́ người ăn năn
bị kiết sử triền phược mà nói pháp xuất ly, là Phật nghiệp, v́ làm cho ĺa tâm
nghi.
Nếu có chúng
sanh khởi tâm xan lẫn nhẫn đến khởi tâm ác huệ, tâm Nhị thừa, tâm tổn hại, tâm
nghi hoặc, tâm tán động, tâm kiêu mạn, Bồ Tát v́ họ hiện thân tướng hảo trang
nghiêm của Như Lai, là Phật nghiệp, v́ sanh trưởng quá khứ hiện căn.
Lúc khó gặp
Chánh pháp, v́ họ mà rộng thuyết pháp, làm cho họ nghe xong được trí Đà la ni,
trí thần thông, khắp có thể lợi ích vô lượng chúng sanh, là Phật nghiệp, v́
thắng giải thanh tịnh.
Nếu có ma sự
khởi lên, có thể dùng phương tiện hiện tiếng khắp hư không giới thuyết pháp
chẳng tổn năo người khác, dùng đây để đối trị làm cho họ được khai ngộ. Chúng
ma nghe xong, oai quang tắt mất. Đây là Phật nghiệp, v́ chí thích oai đức lớn
thù thắng.
Tâm Bồ tát không
xen hở thường tự giữ ǵn, chẳng cho chứng nhập chánh vị Nhị thừa. Nếu có chúng
sanh căn tánh chưa thành thục thời trọn chẳng v́ họ mà nói cảnh giới giải
thoát. Đây là Phật nghiệp v́ bổn nguyện mà làm.
Sanh tử kiết lậu
tất cả đều ĺa, tu hạnh Bồ tát nối tiếp chẳng dứt, dùnh tâm đại bi nhiếp thủ
chúng sanh làm cho họ khởi hạnh rốt ráo giải thoát. Đây là Phật nghiệp, v́
chẳng dứt tu hành hạnh Bồ tát.
Đại Bồ tát thấu
rơ tự thân cùng với chúng sanh bổn lai tịch diệt, chẳng kinh sợ, mà siêng tu
phước trí không nhàm dủ. Dẫu biết tất cả Pháp không tạo ác mà cũng chẳng bỏ tự
tướng của các pháp. Dầu nơi các vảnh giới ĺa hẳn tham dục, mà thường thích
chiêm ngưỡng phụng thờ sắc thân của chư Phật. Dầu biết ngộ nhập các pháp chẳng
do nơi người, mà dùng nhiều phương tiện cầu nhứt thiết trí. Dầu biết các quốc
độ đều như hư không mà thường thích trang nghiêm tất cả cơi Phật. Dầu hằng quán
sát vô nhơn vô ngă, mà giáo hoá chúng sanh không có mỏi nhàm. Dầøu nơi pháp
giới bổn lai bất động, mà dùng thần thông trí lục hiện những biến hoá. Dầøu đă
thành tựu nhứt thiết chủng trí, mà không ngớt tu hạnh Bố tát. Dầøu biết các
pháp bất khả ngôn thuyết, mà chuyển tịnh pháp luân làm cho đại chúng hoan hỷ.
Dầu có thể thị hiện chư Phật thần lực, mà chẳng nhàm bỏ thân Bồ tát. Dầu hiện
nhập đại Niết bàn, mà thị hiện thọ sanh Tất cả xứ. Có thể thật hành pháp quyền
thiệt song hành như vậy là Phật nghiệp.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong mười Phật nghiệp này, thời được nghiệp quảng đại vô thượng vô sư
chẳng do người dạy.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười mạn nghiệp :
Đối với Sư,
Tăng, Cha, Mẹ, Sa Môn, Bà La Môn trụ nơi chánh đạo hoặc hướng chánh đạo, là
những phước điền đáng tôn trọng, mà chẳng cung kính. Đây là mạn nghiệp.
Hoặc có Pháp Sư
được pháp tối thắng ngồi Đại thừa, biết đạo xuất yếu đắc đà la ni, diễn thuyết
pháp quảng đại trong khế kinh không thôi nghỉ. Mà đối với bực ấy phát khởi tâm
cao mạn và đối với pháp của bực ấy giảng nói chẳng có ḷng cung kính. Đây là
mạn nghiệp.
Ở trong chúng
hội nghe thuyết diệu pháp chẳng chịu khen là hay cho người khác tin thọ. Đây là
mạn nghiệp.
Ưa sanh ḷng quá
mạn, tự cao ngạo lấn người, chẳng thấy ḿnh lỗi, chẳng biết ḿnh dở. Đây là mạn
nghiệp.
Ưa sanh ḷng quá
quá mạn. Thấy có Pháp Sư và người thuyết pháp, biết là pháp, là luật, là chơn
thiệt, là lời Phật, mà v́ ghét người nên cũng ghét pháp, tự ḿnh hủy báng cũng
bảo người hủy báng. Đây là mạn nghiệp.
Tự cầu ṭa cao,
tự xưng Pháp Sư, ưng thọ người cung cấp, chẳng ưng chấp sự. Thấy bực kỳ cựu
người tu hành lâu, chẳng chịu đứng dậy tiếp rước, chẳng chịu hầu hạ. Đây là mạn
nghiệp.
Thấy người có
đức thời nhíu mày chẳng vui, nói lời thô lỗ t́m ṭi lỗi lầm của bực ấy. Đây là
mạn nghiệp.
Thấy có người
thông minh biết chánh pháp, chẳng chịu gần gũi cung kính cúng dường, chẳng chịu
hỏi han ǵ là thiện, ǵ là bất thiện, những ǵ nên làm, những ǵ chẳng nên làm,
làm những công hạnh ǵ mà được măi măi lợi ích an lạc. Là kẻ ngu si ngoan cố
ch́m trong ngă mạn, trọn không thấy được đạo xuất yếu. Đây là mạn nghiệp.
Lại có chúng
sanh tâm khinh mạn che đậy, chư Phật xuất thế chẳng có thể thân cận cung kính
cúng dường, thiện căn mới chẳng sanh, thiện căn cũ tiêu mất, chẳng nên nói lại
nói, chẳng nên căi lại căi. Ở vị lai tất cả phải đọa hầm sâu hiểm nạn trong
trăm ngàn kiếp c̣n chẳng gặp Phật huống là được nghe pháp. Chỉ do từ trước đă từng
phát Bồ đề tâm nên trọn tự tỉnh ngộ. Đây là mạn nghiệp.
Nếu chư Bồ Tát
ĺa mười mạn nghiệp này thời được mười trí nghiệp.
Đây là mười trí
nghiệp :
Tin hiểu nghiệp
báo chẳng hoại nhơn quả. Đây là trí nghiệp.
Chẳng bỏ Bồ đề
tâm, thường niệm chư Phật. Đây là trí nghiệp.
Gần thiện tri
thức cung kính cúng dường hết ḷng tôn trọng, trọn không chán không lười. Đây
là trí nghiệp.
Thích pháp thích
nghĩa không nhàm đủ, xa ĺa tà niệm, siêng tu chánh niệm. Đây là trí nghiệp.
Đối với tất cả
chúng sanh, ĺa ngă mạn. Đối với chư Bồ Tát tưởng như Phật. Mến trọng chánh
pháp chẳng tiếc thân ḿnh. Tôn thờ Như Lai như hộ mạng ḿnh. Với người tu hành
tưởng là Phật. Đây là trí nghiệp.
Ba nghiệp thân,
khẩu và ư không có sự bất thiện, ca ngợi bực Hiền Thánh, tùy thuận Bồ đề. Đây
là trí nghiệp.
Chẳng hoại duyên
khởi, ĺa những tà kiến phá si ám được sáng suốt chiếu rơ tất cả pháp. Đây là
trí nghiệp.
Mười môn hồi
hướng tùy thuận tu hành. Nơi các môn Ba la mật tưởng là từ mẫu. Nơi thiện xảo
phương tiện tưởng là từ phụ. Dùng tâm thâm tịnh nhập nhà Bồ đề. Đây là trí
nghiệp.
Thí, giới, đa
văn, chỉ, quán, phước và huệ, tất cả pháp trợ đạo như vậy thường siêng chứa
nhóm không nhàm mỏi. Đây là trí nghiệp.
Nếu có một
nghiệp được đức Phật khen ngợi có thể phá chúng ma trừ phiền năo đấu tránh, có
thể rời ĺa tất cả chướng cái triền phược, có thể giáo hóa điều phục tất cả
chúng sanh, có thể tùy thuận trí huệ nhiếp thủ chánh pháp, có thể nghiêm tịnh
cơi Phật, có thể phát khởi thông minh thời đều chuyên cần tu tập không thối
thất lười biếng. Đây là trí nghiệp.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong mười trí nghiệp này thời được tất cả thiện xảo phương tiện đại trí
nghiệp vô thượng của đức Như Lai.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười điều bị ma nhiếp tŕ :
Tâm lười biếng, bị ma nhiếp tŕ.
Trí nguyện hèn
kém, bị ma nhiếp tŕ.
Nơi công hạnh
chút ít cho là đủ, bị ma nhiếp tŕ.
Lănh thọ một
hạnh, từ chối những hạnh khác, bị ma nhiếp tŕ.
Chẳng phát đại
nguyện, bị ma nhiếp tŕ.
Thích ở tịch
diệt dứt trừ phiền năo, bị ma nhiếp tŕ.
Dứt hẳn sanh tử,
bị ma nhiếp tŕ.
Bỏ hạnh Bồ Tát,
bị ma nhiếp tŕ.
Chẳng giáo hoá
chúng sanh, bị ma nhiếp tŕ.
Nghi báng chánh
pháp, bị ma nhiếp tŕ.
Nếu chư Bồ Tát
rời bỏ được mười điều bị ma nhiếp tŕ này thời được mười điều được chư Phật
nhiếp tŕ.
Đây là mười điều
được Phật nhiếp tŕ :
Ban sơ có thể
phát tâm Bồ đề, được Phật nhiếp tŕ.
Trong nhiều đời
ǵn giữ tâm Bồ đề không để quên mất, được Phật nhiếp tŕ.
Rơ biết ma sự
đều có thể xa ĺa, được Phật nhiếp tŕ.
Nghe các môn Ba
la mật, tu hành đúng pháp, được Phật nhiếp tŕ.
Biết khổ sanh tử
mà chẳng nhàm ghét, được Phật nhiếp tŕ.
Quán pháp thậm
thâm được vô lượng quả, được Phật nhiếp tŕ.
V́ chúng sanh
diễn thuyết pháp Nhị thừa mà chẳng chứng lấy quả giải thoát của Nhị thừa, được
Phật nhiếp tŕ.
Thích quán pháp
vô vi mà chẳng trụ trong đó, đối với hữu vi vô vi không tưởng là hai, được Phật
nhiếp tŕ.
Đến chỗ vô sanh
mà hiện thọ sanh, được Phật nhiếp tŕ.
Dầu chứng được
nhứt thiết trí mà khởi hạnh Bồ Tát chẳng dứt giống Bồ đề, được Phật nhiếp tŕ.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong mười điều này th́ được sức nhiếp tŕ vô thượng của chư Phật.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười điều được pháp nhiếp tŕ :
Biết tất cả hành
pháp là vô thường, được pháp nhiếp tŕ.
Biết tất cả hành
pháp là khổ, được pháp nhiếp tŕ.
Biết tất cả hành
pháp là vô ngă, được pháp nhiếp tŕ.
Biết tất cả pháp
tịch diệt Niết bàn, được pháp nhiếp tŕ.
Biết tất cả pháp
theo duyên mà phát khởi, không có duyên thời không khởi, được pháp nhiếp tŕ.
Biết v́ do tư
duy chẳng chánh nên sanh khởi vô minh. V́ do có vô minh khởi nên nhẫn đến có
lăo tử phát khởi. V́ tư duy chẳng chánh diệt nên vô minh diệt. V́ vô minh diệt
nên nhẫn đến lăo tử diệt. Được pháp nhiếp tŕ.
Biết ba môn giải
thoát xuất sanh Thanh Văn thừa, chứng pháp vô tránh xuất sanh Độc Giác thừa,
được pháp nhiếp tŕ.
Biết pháp Lục Ba
la mật, pháp Tứ nhiếp xuất sanh Đại thừa, được pháp nhiếp tŕ.
Biết tất cả cơi,
tất cả pháp, tất cả chúng sanh, tất cả thế là cảnh giới của Phật trí, được pháp
nhiếp tŕ.
Biết dứt tất cả
niệm, bỏ tất cả thủ, rời tiền tế hậu tế, tùy thuận Niết bàn, được pháp nhiếp
tŕ.
Nếu chư Bồ Tát
an trụ trong mười điều được pháp nhiếp tŕ này thời được pháp nhiếp tŕ vô
thượng của tất cả chư Phật.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát ở Đâu Suất thiên cung có mười công việc :
V́ chư Thiên Tử
cơi Dục mà nói pháp nhàm ĺa. Bảo rằng tất cả tự tại đều là vô thường, tất cả
khoái lạc đều sẽ suy mất, khuyên chư Thiên Tử phát tâm Bồ đề. Đây là công việc
thứ nhứt.
V́ chư Thiên cơi
Sắc mà nói nhập xuất các thiền tam muội giải thoát. Nếu ở trong đây mà sanh
ḷng ái trước thời nhơn nơi ái lại phát khởi thân kiến, tà kiến, vô minh v. v...
V́ họ mà nói trí huệ như thiệt. Nếu họ đối với những pháp sắc, phi sắc phát
khởi tưởng điên đảo cho là thanh tịnh, thời v́ họ mà nói bất tịnh đều là vô
thường. Khuyên họ phát tâm Bồ đề. Đây là công việc thứ hai.
Đại Bồ Tát ở Đâu
Suất Thiên cung nhập tam muội tên là quang minh trang nghiêm. Thân phóng quang
minh chiếu khắp Đại Thiên thế giới. Tùy tâm chúng sanh mà dùng các thứ âm thanh
để thuyết pháp. Chúng sanh nghe pháp xong, tín tâm thanh tịnh, sau khi chết
sanh về cung trời Đâu Suất. Bồ Tát lại khuyên họ phát tâm Bồ đề. Đây là công
việc thứ ba.
Đại Bồ Tát ở Đâu
Suất Thiên cung dùng vô ngại nhăn thấy khắp tất cả Bồ Tát trong cung trời Đâu
Suất ở mười phương. Chư Bồ Tát kia cũng đều thấy đây. Đă thấy nhau, chư Bồ Tát
cùng luận nói diệu pháp : những là giáng thần, nhập thai, sơ sanh, xuất gia,
qua đến đạo tràng, đủ đại trang nghiêm. Và lại thị hiện những công hạnh đă làm
từ xưa đến nay. Do công hạnh đó mà thành đại trí này và tất cả công đức. Chẳng
rời bổn xứ mà có thể thị hiện những sự như vậy. Đây là công việc thứ tư.
Đại Bồ Tát ở Đâu
Suất Thiên cung, chúng Bồ Tát ở tất cả cung trời Đâu Suất mười phương đều vân
tập đến vây quanh cung kính. Bấy giờ Đại Bồ Tát muốn cho chư Bồ Tát đó đều được
thỏa măn tâm nguyện sanh ḷng hoan hỷ, nên tùy theo chư Bồ Tát đáng ở bực nào,
tùy theo sở hành, sở đoạn, sở tu, sở chứng mà diễn thuyết pháp môn. Chư Bồ Tát
đó nghe pháp xong đều rất hoan hỷ được chưa từng có đều trở về bổn độ. Đây là
công việc thứ năm.
Đại Bồ Tát ở Đâu
Suất Thiên cung. Bấy giờ chúa cơi Dục, Thiên ma Ba Tuần v́ muốn phá hoại công
nghiệp của Bồ Tát nên cùng quyến thuộc đến chỗ Bồ Tát. Bồ Tát v́ hàng phục ma
quân nên trụ kim cang đạo nhiếp Bát nhă Ba la mật phương tiện thiện xảo trí huệ
môn, dùng hai lời nói nhu nhuyến và thô bạo mà thuyết pháp cho họ, làm cho Ma
Vương Ba Tuần không hại được. Ma quân thấy oai lực tự tại của Bồ Tát nên đều
phát tâm Bồ đề Vô thượng. Đây là công việc thứ sáu.
Đại Bồ Tát ở Đâu
Suất Thiên cung biết chư Thiên Tử cơi Dục chẳng thích nghe pháp. Bây giờ Bồ Tát
phát tiếng to bảo họ rằng : ngày nay Bồ Tát ở trong Thiên cung sẽ hiện sự hy
hữu, nếu muốn được thấy thời phải mau đến. Chư Thiên Tử nghe lời này xong đều
vân tập đến cung Đâu Suất. Bồ Tát v́ họ mà hiện sự hy hữu. Chư Thiên Tử được
thấy nghe đều rất hoan hỷ say sưa. Trong âm nhạc lại có tiếng bảo rằng : này
các Ngài ! Tất cả hành pháp đều vô thường, đều là khổ. Tất cả pháp đều vô ngă,
là Niết bàn tịch diệt. Rồi lại bảo rằng : các Ngài đều phải tu hạnh Bồ Tát, đều
phải viên măn nhứt thiết chủng trí. Chư Thiên Tử nghe xong, lo buồn than thở
đều sanh ḷng yểm ly, tất cả đều phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đây là công việc thứ
bảy.
Đại Bồ Tát ở Đâu
Suất Thiên cung, chẳng rời bỏ bổn xứ mà đều có thể qua đến mười phương vô lượng
tất cả chỗ chư Phật, thấy chư Như Lai thân cận lễ bái cung kính nghe pháp. Bấy
giờ chư Phật muốn cho Bồ Tát được pháp tối thượng quán đảnh nên nói Bồ Tát địa
tên là nhứt thiết thần thông, dùng một niệm tương ưng huệ đầy đủ tất cả công
đức tối thắng nhập vị nhứt thiết chủng trí. Đây là công việc thứ tám.
Đại Bồ Tát ở Đâu
Suất Thiên cung v́ muốn cúng dường chư Phật Như Lai nên dùng đại thần lực hiện
khởi những đồ cúng dường tên là thù thắng khả lạc, khắp tất cả thế giới trong
pháp giới hư không giới để cúng dường chư Phật. Trong các thế giới ấy, vô lượng
chúng sanh thấy sự cúng dường này đều phát tâm vô thượng Bồ đề. Đây là công
việc thứ chín.
Đại Bồ Tát ở Đâu
Suất Thiên cung xuất sanh vô lượng vô biên như huyễn như ảnh pháp môn cùng khắp
mười phương tất cả thế giới, thị hiện những sắc, những tướng, những h́nh thể,
những oai nghi, những sự nghiệp, những phương tiện, những ví dụ, những ngôn
thuyết, tùy tâm chúng sanh đều làm cho họ hoan hỷ. Đây là công việc thứ mười.
Nếu chư Bồ Tát
thành tựu pháp này thời có thể sau này sanh xuống thế gian.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát ở Đâu Suất Thiên cung lúc sắp giáng sanh hiện ra mười sự :
Đại Bồ Tát từ
trời Đâu Suất giáng sanh, từ dưới chân phóng đại quang minh tên là an lạc trang
nghiêm, chiếu khắp cơi Đại Thiên thế giới, tất cả ác đạo, những chúng sanh hoạn
nạn được quang minh chạm nhầm ḿnh thời đều khỏi khổ được an lạc. Được an lạc
rồi biết sắp có bực đại nhơn kỳ đặc xuất hiện thế gian. Đây là sự thị hiện thứ
nhứt.
Đại Bồ Tát ở
trời Đâu Suất lúc giáng sanh, từ trong tướng bạch hào giữa chặng mày phóng đại
quang minh tên là giác ngộ chiếu khắp Đại Thiên thế giới, soi đến thân của chư
Bồ Tát đồng hành với ḿnh từ đời trước chư Bồ Tát đó được quang minh chiếu đến,
biết đại Bồ Tát sắp giáng sanh, liền đem vô lượng đồ cúng dường đến chỗ Đại Bồ
Tát để cúng dường. Đây là sự thị hiện thứ hai.
Đại Bồ Tát ở
trời Đâu Suất lúc sắp giáng sanh, ở trong bàn tay hữu phóng đại quang minh tên
là thanh tịnh cảnh giới đều có thể trang nghiêm thanh tịnh tất cả Đại Thiên thế
giới. Trong đây nếu có hàng Bích Chi Phật chứng được vô lậu, thấy biết quang
minh này thời liền xả thọ mạng. Nếu những vị không hay biết thời oai lực của
quang minh dời họ đến trong những thế giới phương khác. Tất cả những ma và các
ngoại đạo, hàng chúng sanh có kiến chấp đều cũng dời đến thế giới phương khác,
chỉ trừ những chúng sanh đáng được hoá độ do thần lực của Phật nhiếp tŕ. Đây
là sự thị hiện thứ ba.
Đại Bồ Tát ở
trời Đâu Suất lúc sắp giáng sanh từ đầu gối phóng đại quang minh tên là Thanh
tịnh trang nghiêm chiếu khắp cung điện của chư Thiên, dưới chiếu đến trời Hộ
Thế Tứ Thiên Vương, trên chiếu suốt trời Tịnh Cư. Chư Thiên trong tất cả cơi
trời đều biết đại Bồ Tát ở cung Đâu Suất sắp giáng sanh, tất cả đồng có ḷng
luyến mộ buồn than lo rầu, cùng nhau đem những tràng hoa, y phục, hương bột,
hương thoa, phan lọng, kỹ nhạc đến chỗ Bồ Tát để cung kính cúng dường, theo Bồ
Tát hạ sanh nhẫn đến nhập Niết bàn. Đây là sự thị hiện thứ tư.
Đại Bồ Tát ở
trời Đâu Suất lúc sắp giáng sanh, trong tâm trạng kim cang trang nghiêm nơi
tướng chữ "vạn" phóng đại quang minh tên là Vô năng thắng tràng,
chiếu khắp tất cả thế giới mười phương đến thân của tất cả Kim Cang lực sĩ. Bấy
giờ có trăm ức Kim Cang lực sĩ đều vân tập theo hầu hạ đại Bồ Tát từ lúc giáng
sanh nhẫn đến lúc nhập Niết bàn. Đây là sự thị hiện thứ năm.
Đại Bồ Tát ở
trời Đâu Suất lúc sắp giáng sanh, từ tất cả lỗ lông trên thân phóng đại quang
minh tên là phân biệt chúng sanh, chiếu khắp Đại Thiên thế giới, chạm đến thân
của tất cả Bồ Tát, lại chạm đến tất cả chư Thiên và người đời. Chư Bồ Tát đó
đồng nghĩ rằng tôi phải ở lại đây để cúng dường đức Như Lai giáo hóa chúng
sanh. Đây là sự thị hiện thứ sáu.
Đại Bồ Tát ở
trời Đâu Suất lúc sắp giáng sanh từ trong điện đại ma ni bửu tạng phóng đại
quang minh tên là Thiện trụ quán sát chiếu đến chỗ của Bồ Tát này sẽ sanh.
Quang minh này đă chiếu xong, những Bồ Tát khác đều theo dơi xuống Diêm Phù Đề,
hoặc ở nơi nhà, hoặc ở tụ lạc, hoặc ở thành ấp mà hiện thọ sanh, v́ muốn giáo
hoá các chúng sanh. Đây là sự thị hiện thứ bảy.
Đại Bồ Tát ở
trời Đâu Suất lúc sắp giáng sanh từ cung điện cơi trời và trong những đồ trang
nghiêm nơi đại lâu các phóng đại quang minh tên là Nhứt thiết cung điện thanh
tịnh trang nghiêm chiếu đến bụng của mẹ sẽ thác sanh. Quang minh chiếu xong,
làm cho Thánh Mẫu an ổn vui vẻ, thành tựu đầy đủ tất cả công đức. Trong bụng
Thánh Mẫu tự nhiên có lâu các quảng đại trang nghiêm với đại ma ni bửu, nơi đây
là chỗ sẽ ở của thân đại Bồ Tát. Đây là sự thị hiện thứ tám.
Đại Bồ Tát ở
trời Đâu Suất lúc sắp giáng sanh, từ dưới hai chân phóng đại quang minh tên là
Thiện Trụ. Nếu chư Thiên Tử và các Phạm Thiên sắp lâm chung được quang minh
chạm đến thân thời đều được trụ thọ mạng cúng dường đại Bồ Tát từ lúc mới hạ
sanh nhẫn đến nhập Niết bàn. Đây là sự thị hiện thứ chín.
Đại Bồ Tát ở
trời Đâu Suất lúc sắp giáng sanh từ trong tùy h́nh hảo phóng đại quang minh tên
là Nhựt nguyệt trang nghiêm, thị hiện những công nghiệp củ Bồ Tát. Bấy giờ
người và trời hoặc thấy Bồ Tát ở cung Đâu Suất, hoặc thấy nhập thai, hoặc thấy
sơ sanh, hoặc thấy xuất gia, hoặc thấy Thành đạo hoặc thấy hàng ma, hoặc thấy
chuyển Pháp luân, hoặc thấy nhập Niết bàn. Đây là sự thị hiện thứ muời.
Đại Bồ Tát nơi
thân, nơi ṭa, nơi cung điện, trong lâu các phóng trăm muôn vô số đại quang
minh như vậy đều hiển hiện những sự nghiệp của đại Bồ Tát. Thị hiện sự nghiệp
này rồi, v́ đầy đủ tất cả công đức nên từ cung trời Đâu Suất sanh xuống nhơn
gian.
Chư Phật tử
! Đại Bồ Tát thị hiện ở thai mẹ có mười sự :
Đại Bồ Tát v́
muốn thành tựu những chúng sanh tâm nhỏ hiểu kém, chẳng muốn cho họ nghĩ rằng :
Nay đức Bồ Tát này tự nhiên hóa sanh trí huệ thiện căn đều tự được chẳng từ
công phu tu tập. V́ cớ đây nên Bồ Tát thị hiện ở thai mẹ. Đây là sự thứ nhứt.
Đại Bồ Tát v́
thành thục phụ mẫu và các quyến thuộc, những chúng sanh đồng tu thiện căn từ
đời trước nên thị hiện ở thai mẹ. Tại sao vậy?V́ những người này cần phải thấy
Bồ Tát ở thai mẹ mới thành thục những thiện căn mà họ đă có. Đây là sự thứ hai.
Đại Bồ Tát lúc
vào thai mẹ, luôn chánh niệm chánh tri không mê lầm. Đă ở thai mẹ, tâm Bồ Tát
hằng chánh niệm cũng không lầm loạn. Đây là sự thứ ba.
Đại Bồ Tát ở
trong thai mẹ thường diễn thuyết pháp. Chư đại Bồ Tát ở thập phương thế giới
cùng Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế Tứ Thiên Vương đều đến tập hội, đều làm cho
được vô lượng thần lực, vô biên trí huệ. Lúc ở trong thai mẹ, đại Bồ Tát thành
tựu biện tài công dụng thù thắng như vậy. Đây là sự thứ tư.
Đại Bồ Tát ở
trong thai mẹ nhóm họp đại hội, dùng sức bổn nguyện giáo hoá tất cả chúng Bồ Tát.
Đây là sự thứ năm.
Đại Bồ Tát thành
Phật ở trong loài người thời phải đủ sự thọ sanh tối thắng. Do cớ này nên thị
hiện ở thai mẹ. Đây là sự thứ sáu.
Đại Bồ Tát ở
trong thai mẹ, chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều thấy Bồ Tát như thấy
bóng ḿnh hiện rơ trong gương. Bấy giờ chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A
Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn, Phi nhơn v.v...những hàng có
đại tâm, đều đến chỗ Bồ Tát để cung kính cúng dường. Đây là sự thứ bảy.
Đại Bồ Tát ở
trong thai mẹ, tất cả tối hậu sanh Bồ Tát ở thai mẹ trong mười phương đều đến
cùng hội họp diễn thuyết pháp môn đại tập tên là quảng đại trí huệ tạng. Đây là
sự thứ tám.
Đại Bồ Tát ở
trong lúc thai me nhập ly cấu tạng tam muội. Dùng sức tam muội ở trong thai mẹ
hiện cung điện lớn trang nghiêm tốt đẹp. Thiên cung Đâu Suất không sánh kịp.
Nhưng thân mẹ vẫn an ổn vô sự. Đây là sự thứ chín.
Đại Bồ Tát lúc ở
thai mẹ dùng oai lực sắm đồ cúng dường tên là khai đại phước đức ly cấu tạng
khắp đến tất cả thế giới mười phương để cúng dường tất cả chư Phật Như Lai. Chư
Như Lai đó đều v́ đại Bồ Tát mà diễn nói vô biên Bồ Tát ở pháp giới tạng. Đây
là sự thứ mười.
Nếu chư Bồ Tát
rơ thấu mười sự thị hiện ở thai mẹ này, thời có thể thị hiện sự qua đến thậm
thâm vi tế.
Chư Phật tử !
Đại Bồ Tát có mười sự qua đến thậm thâm vi tế :
Ở trong thai mẹ,
đại Bồ Tát thị hiện sơ phát tâm Bồ đề nhẫn đến bực quán đảnh.
Ở trong thai mẹ
thị hiện ở Đâu Suất Thiên cung.
Ở
trong thai mẹ thị hiện sơ sanh.
Ở
trong thai mẹ thị hiện đồng tử.
Ở
trong thai mẹ thị hiện ở vương cung.
Ở
trong thai mẹ thị hiện xuất gia.
Ở
trong thai mẹ thị hiện khổ hạnh đến ngồi đạo tràng thành bực Đẳng Chánh Giác.
Ở
trong thai mẹ thị hiện Chuyển pháp luân.
Ở
trong thai mẹ thị hiện nhập Niết bàn.
Ở
trong thai mẹ thị hiện đại vi tế : những là tất cả Bồ Tát hạnh, tất cả Như Lai
tự tại thần lực vô lượng môn sai biệt.
Nếu
chư Bồ Tát an trụ trong mười môn qua đến thậm thâm vi tế này thời được đại trí
huệ thâm thâm vi tế vô thượng của đức Như Lai.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười điều sanh :
Xa
ĺa ngu si, chánh niệm chánh tri mà sanh.
Phóng
lưới đại quang minh chiếu khắp Đại Thiên thế giới mà sanh.
Trụ
tối hậu hữu chẳng c̣n thọ thân sau mà sanh.
Bất
sanh bất khởi mà sanh.
Biết
tam giới như huyễn mà sanh.
Khắp
hiện thân nơi thập phương thế giới mà sanh.
Chứng
thân nhứt thiết chủng trí mà sanh.
Phóng
tất cả Phật quang minh khắp giác ngộ tất cả chúng sanh mà sanh.
Nhập
đại trí quán sát tam muội mà sanh.
Bồ
Tát lúc sanh, chấn động tất cả cơi Phật, giải thoát tất cả chúng sanh, trừ diệt
tất cả ác đạo che chói tất cả các ma, vô lượng Bồ Tát đều đến nhóm họp.
Đây
là mười điều sanh của đại Bồ Tát, v́ điều phục chúng sanh mà thị hiện như vậy.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát do mười sự mà thị hiện vi tiếu tâm tự thệ :
Đại
Bồ Tát nghĩ rằng : Tất cả thế gian ch́m tại vũng bùn ái dục, trừ một tôi ra
không ai có thể cố gắng cứu tế được. Nghĩ biết như vậy rồi, Bồ Tát vui vẻ vi
tiếu tâm tự thệ.
Lại
nghĩ rằng : Tất cả thế gian bị phiền năo làm mù, duy có tôi nay là người đầy đủ
trí huệ. Bồ Tát nghĩ biết như vậy vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Lại
nghĩ rằng : Nay tôi do thân giả danh này sẽ được pháp thân vô thượng sanh măn
tam thế của đức Như Lai. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Bấy
giờ Bồ Tát dùng mắt vô chướng ngại quan sát tất cả Phạm Thiên nhẫn đến tất cả
Đại Tự Tại Thiên trong mười phương mà tự nghĩ rằng : những chúng sanh này đều
tự cho rằng ḿnh có đại trí lực. Bồ Tát nghĩ biết như vậy vui vẻ vi tiếu tâm tự
thệ.
Bấy
giờ Bồ Tát quán sát các chúng sanh từ lâu gieo trồng căn lành, nay đều thối
mất. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Bồ
Tát quán sát thấy thế gian chủng tử gieo trồng dầu ít mà được quả rất nhiều.
Nghĩ biết như vậy vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Bồ
Tát quán sát thấy tất cả chúng sanh được Phật giáo hoá quyết định được lợi ích.
Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Bồ
Tát quán sát thấy trong đời quá khứ chư Bồ Tát đồng hành nhiễm trước việc khác
nên chẳng được công đức quảng đại của Phật pháp. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui
vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Bồ
Tát quán sát thấy trong đời quá khứ, hàng nhơn thiên cùng ḿnh tập hội nay c̣n
ở bực phàm phu, không xả ly được, cũng chẳng nhàm mỏi. Nghĩ biết như vậy, Bồ
Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Bấy
giờ Bồ Tát được quang minh của tất cả Như Lai chiếu đến càng thêm hân hoan, vui
vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Đại
Bồ Tát v́ điều phục chúng sanh nên thị hiện như vậy.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười sự mà thị hiện đi bảy bước :
V́
hiện Bồ Tát lực mà thị hiện đi bảy bước.
V́
hiện xả thí bảy Thánh tài mà thị hiện đi bảy bước.
V́
cho địa thần thỏa nguyện nên thị hiện đi bảy bước.
V́
hiện tướng siêu tam giới nên thị hiện đi bảy bước.
V́
hiện bước đi tối thắng của Bồ Tát hơn hẳn bước đi của tượng vương, ngưu vương,
sư tử vương mà thị hiện đi bảy bước.
V́
hiện tướng Kim cang địa mà thị hiện đi bảy bước.
V́
hiện muốn ban cho chúng sanh sức dũng mănh mà thị hiện đi bảy bước.
V́
hiện tu hành thất giác bửu mà thị hiện đi bảy bước.
V́
hiện pháp đă được chẳng do người khác dạy nên thị hiện đi bảy bước.
V́
hiện là tối thắng vô tỷ ở thế gian nên thị hiện đi bảy bước.
Đại
Bồ Tát v́ điều phục chúng sanh nên thị hiện đi bảy bước như vậy.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát do mười sự mà hiện ở thân đồng tử :
V́
hiện thông đạt tất cả văn tự, toán số, đồ thơ, ấn tỷ, những nghề nghiệp thế
gian, mà thị hiện ở thân đồng tử.
V́
hiện thông đạt tất cả những nghề nghiệp vũ thuật binh trận thế gian, mà thị
hiện ở thân đồng tử.
V́
hiện thông đạt tất cả những văn bút, đàm luận, cờ nhạc thế gian, mà thị hiện ở
thân đồng tử.
V́
hiện xa ĺa những lỗi lầm của ba nghiệp thân ngữ ư, mà thị hiện ở thân đồng tử.
V́
hiện môn nhập định trụ Niết bàn khắp cùng mười phương vô lượng thế giới, mà thị
hiện ở thân đồng tử.
V́
hiện sức mạnh siêu quá tất cả Thiên, Long, Bát Boa, Đế Thích, Phạm Vương, Hộ
Thế, Nhơn, Phi Nhơn v.v... mà thị hiện ở thân đồng tử.
V́
hiện sắc tướng oai quang của Bồ Tát siêu quá tất cả Đế Thích, Phạm Vương, Hộ
Thế, mà thị hiện ở thân đồng tử.
V́
làm cho những chúng sanh tham đắm nơi dục lạc mến thích pháp lạ, mà thị hiện ở
thân đồng tử.
V́
tôn trọng chánh pháp siêng cúng dường Phật cùng khắp tất cả thế giới mười
phương, mà hiện ở thân đồng tử.
V́
hiện được đức Phật gia bị, được pháp quang minh mà thị hiện ở thân đồng tử.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát thị hiện ở thân đồng tử rồi, do mười sự mà thị hiện ở
Vương cung :
V́
làm cho những chúng sanh đồng tu hành từ đời trước được thiện căn thành thục mà
thị hiện ở Vương cung. V́ hiển thị sức thiện căn của Bồ Tát, mà thị hiện ở
Vương cung.
V́
những người, trời tham đắm nơi đồ vui thích, nên hiển hiện đồ vui thích đại oai
đức của Bồ Tát, mà thị hiện ở Vương cung.
V́
thuận tâm chúng sanh đời ngũ trược mà thị hiện ở Vương cung.
V́
hiện sức đại oai đức của Bồ Tát có thể ở thâm cung nhập tam muội, mà thị hiện ở
Vương cung.
V́
làm cho chúng sanh đồng nguyện ở đời trước thỏa măn ư niệm, mà thị hiện ở Vương
cung.
V́
muốn dùng kỹ nhạc phát ra tiếng diệu pháp cúng dường tất cả chư Phật Như Lai,
mà thị hiện ở Vương cung.
V́
muốn ở tại trong cung trụ tam muội vi diệu, ban đầu từ thành Phật nhẫn đến Niết
bàn đều hiển bày mà thị hiện ở Vương cung.
V́
tùy thuận thủ hộ Phật pháp mà thị hiện ở Vương Cung.
Tối
hậu thân Bồ Tát thị hiện ở Vương Cung như vậy rồi, sau đó mới xuất gia.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát do mười sự mà thị hiện xuất gia :
V́
nhàm ở tại gia, mà thị hiện xuất gia.
V́
chúng sanh tham đắm tại gia, mà thị hiện xuất gia.
V́
tùy thuận tin mến đạo Thánh nhơn, mà thị hiện xuất gia.
V́
tuyên dương tán thán công đức xuất gia, mà thị hiện xuất gia.
V́
hiển bày ĺa hẳn kiến chấp nhị biên, mà thị hiện xuất gia.
V́
làm cho chúng sanh ĺa dục lạc và ngă lạc, mà thị hiện xuất gia.
V́
trước hiện tướng xuất tam giới, mà thị hiện xuất gia.
V́
hiện tự tại chẳng hệ thuộc người khác, mà thị hiện xuất gia.
V́
hiển bày sẽ được Thập lực vô úy của đức Như Lai, mà thị hiện xuất gia.
V́
tối hậu thân Bồ Tát pháp phải như vậy, mà thị hiện xuất gia.
Đại
Bồ Tát dùng pháp xuất gia này mà điều phục chúng sanh.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát v́ mười sự mà thị hiện khổ hạnh :
V́
thành tựu những chúng sanh có tŕnh độ hiểu biết kém ít, mà thị hiện khổ hạnh.
V́
trừ tà kiến của chúng sanh, mà thị hiện khổ hạnh.
V́
những chúng sanh chẳng tin nghiệp báo làm cho họ thấy nghiệp báo, mà thị hiện
khổ hạnh.
V́
tùy thuận pháp phải có của thế giới tạp nhiễm, mà thị hiện khổ hạnh.
V́
hiện có thể nhẫn chịu khổ nhọc để siêng tu đạo pháp; mà thị hiện khổ hạnh.
V́
làm cho chúng sanh thích cầu pháp, mà thị hiện khổ hạnh.
V́
những chúng sanh say đắm dục lạc ngă lạc, mà thị hiện khổ hạnh.
V́
hiển bày Bồ Tát khởi hạnh thù thắng, nhẫn đến đời tối hậu c̣n chẳng bỏ siêng
năng tinh tấn mà thị hiện khổ hạnh.
V́
làm cho chúng sanh thích pháp tịch tịnh tăng trưởng thiện căn, mà thị hiện khổ
hạnh.
V́
chư Thiên và thế nhơn căn tánh chưa thành thục chờ thời gian để được thành
thục, mà thị hiện khổ hạnh.
Đại
Bồ Tát dùng phương tiện khổ hạnh này để điều phục chúng sanh.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát đi đến Bồ đề đạo tràng có mười sự :
Lúc
đến đạo tràng, chiếu sáng tất cả thế giới mười phương.
Lúc
đến đạo tràng, chấn động tất cả thế giới mười phương.
Lúc
đến đạo tràng, hiện thân khắp tất cả thế giới mười phương.
Lúc
đến đạo tràng, giác ngộ tất cả Bồ Tát và tất cả chúng sanh đồng hành ở đời
trước.
Lúc
đến đạo tràng, thị hiện tất cả sự trang nghiêm nơi đạo tràng.
Lúc
đến đạo tràng, tùy tâm sở thích của các chúng sanh mà v́ họ hiện những oai nghi
nơi thân và tất cả sự trang nghiêm nơi cây Bồ đề.
Lúc
đến đạo tràng, thị hiện thấy tất cả Như Lai mười phương.
Lúc
đến đạo tràng, cất chân hạ chân thường nhập tam muội, niệm niệm thành Phật
không có vượt cách.
Lúc
đến đạo tràng, tất cả Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La,
Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Đế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, đều sắm
dưng những đồ cúng dường thượng diệu lên đại Bồ Tát mà chẳng biết nhau.
Lúc
đến đạo tràng, dùng trí vô ngại quán sát khắp tất cả chư Phật Như Lai, nơi tất
cả thế giới tu hạnh Bồ Tát mà thành Đẳng Chánh Gíac.
Đại
Bồ Tát dùng mười sự đến đạo tràng này để giáo hóa chúng sanh.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát ngồi đạo tràng có mười sự :
Lúc
ngồi đạo tràng, chấn động tất cả thế giới mười phương.
Lúc
ngồi đạo tràng, b́nh đẳng chiếu sánh tất cả thế giới mười phương.
Lúc
ngồi đạo tràng, trừ diệt tất cả khổ các ác đạo.
Lúc
ngồi đạo tràng, làm cho tất cả thế giới kim cang hiệp thành.
Lúc
ngồi đạo tràng, hiện khắp tất cả ṭa sư tử của chư Phật Như Lai.
Lúc
ngồi đạo tràng, tâm vô phân biệt như hư không.
Lúc
ngồi đạo tràng, tùy theo sở nghi mà hiện oai nghi nơi thân.
Lúc
ngồi đạo tràng, tùy thuận an trụ Kim cang tam muội.
Lúc
ngồi đạo tràng, thọ diệu xứ thanh tịnh của tất cả Như Lai thần lực gia tŕ.
Lúc
ngồi đạo tràng, sức thiện căn của ḿnh có thể gia bị tất cả chúng sanh.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười sự kỳ đặc vị tằng hữu.
Những
ǵ là mười ?
Đại
Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, tất cả đức Như Lai trong mười phương thế giới đều
hiện ra trước đồng giơ tay khen ngợi rằng : Lành thay ! Lành thay ! Đấng vô
thượng Đạo Sư. Đây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ nhứt.
Đại
Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, tất cả đức Như Lai thảy đều hộ niệm ban cho oai lực.
Đây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ hai.
Đại
Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, chúng Bồ Tát đồng hành đời trước đều đến vây quanh
cung kính cúng dường những vật trang nghiêm. Đây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ
ba.
Đại
Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, những loài vô t́nh như cỏ cây rừng lùm trong tất cả
thế giới đều cong thân thấp bóng nghiêng hướng về phía đạo tràng. Đây là sự kỳ
đặc vị tằng hữu thứ tư.
Đại
Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, nhập tam muội tên quán sát pháp giới. Sức tam muội
này có thể làm cho Bồ Tát tất cả công hạnh đều được viên măn. Đây là sự kỳ đặc
vị tằng hữu thứ năm.
Đại
Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, được đà la ni tên là tối thượng ly cấu diệu quang
hải tạng, có thể lănh thọ đại vân pháp vũ của tất cả chư Phật Như Lai. Đây là
sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ sáu.
Đại
Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, dùng sức oai đức hiện đồ cúng thượng diệu đến khắp
tất cả thế giới cúng dường chư Phật. Đây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ bảy.
Đại
Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, an trụ trí tối thắng, đều hiện biết rơ những căn ư
hành của tất cả chúng sanh. Đây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ tám.
Đại
Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, nhập tam muội tên là Thiện giác. Sức tam muội này có
thể làm cho thân Bồ Tát đầy khắp tất cả thế giới trong thập phương tam thế. Đây
là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ chín.
Đại
Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, được ly cấu quang minh vô ngại đại trí làm cho thân
nghiệp của ḿnh vào khắp tam thế. Đây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ mười.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng v́ quán sát mười nghĩa mà thị hiện hàng
ma :
V́
chúng sanh đời ngũ trược thích chiến đấu, muốn hiển bày sức oai đức của Bồ Tát,
mà thị hiện hàng ma.
V́
trong hàng chư Thiên thế nhơn có những kẻ hoài nghi, muốn dứt trừ ḷng nghi ngờ
cho họ, mà thị hiện hàng ma.
V́
giáo hóa điều phục các ma quân, mà thị hiện hàng ma.
V́
muốn cho hàng chư Thiên, thế nhơn, những kẻ thích quân trận đều nhóm đến xem,
để tâm họ được điều phục, nên thị hiện hàng ma.
V́
hiển bày oai lực của Bồ Tát trong đời không ai địch nổi, nên thị hiện hàng ma.
V́
muốn phát khởi sức dũng mănh của tất cả chúng sanh, nên thị hiện hàng ma.
V́
thương xót chúng sanh đời mạt thế, nên thị hiện hàng ma.
V́
muốn hiển bày nhẫn đến chốn đạo tràng mà c̣n quân ma tới quấy nhiễu, từ đây về
sau mớ siêu cảnh giới ma, nên thị hiện hàng ma.
V́
hiển bày nghiệp dụng của phiền năo kém yếu, đại từ thiện căn thế lực mạnh mẽ,
nên thị hiện hàng ma.
V́
muốn tùy thuận pháp hành của thế giới trược ác, nên thị hiện hàng ma.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười điều thành Như Lai lực :
V́
siêu quá tất cả những ma phiền năo nghiệp, nên thành Như Lai lực.
V́
đầy đủ tất cả Bồ Tát hạnh, v́ du hư tất cả Bồ Tát tam muội môn, nên thành Như
Lai lực.
V́
đầy đủ tất cả Bồ Tát quảng đại thiền định, nên thành Như Lai lực.
V́
viên măn tất cả pháp trợ đạo bạch tịnh, nên thành Như Lai lực.
V́
được tất cả pháp trí huệ quang minh khéo tư duy phân biệt, nên thành Như Lai
lực.
V́
thân cùng khắp tất cả thế giới, nên thành Như Lai lực.
V́
ngôn âm phát ra đều đồng với tâm của tất cả chúng sanh, nên thành Như Lai lực.
V́
có thể dùng thần lực gia tŕ tất cả, nên thành Như Lai lực.
V́
ba nghiệp thân, ngữ, ư đồng với tất cả tam thế chư Phật, trong một niệm biết rơ
những pháp trong tam thế, nên thành Như Lai lực.
V́
được thiện giác trí tam muội đủ Như Lai thập lực : những là thị xứ, phi xứ, trí
lực nhẫn đến lậu tận trí lực, nên thành Như Lai lực.
Nếu
chư Bồ Tát đủ mười Như Lai lực này thời gọi là Như Lai Chánh Đẳng Giác.
Chư
Phật tử ! Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác chuyển đại pháp luân có mười sự :
Một
là thanh tịnh đầy đủ bốn trí vô úy.
Hai
là xuất sanh bốn biện tài tùy thuận âm thanh.
Ba
là khéo có thể khai xiển tướng của bốn chơn đế.
Bốn
là tùy thuận chư Phật vô ngại giải thoát.
Năm
là có thể làm cho chúng sanh phát tâm tin thanh tịnh.
Sáu
là những lời nói ra đều không luống công, đều có thể nhổ trừ tên độc đau khổ
cho tất cả chúng sanh.
Bảy
là đại bi nguyện lực gia tŕ.
Tám
là khi phát âm thanh đều khắp cùng tất cả thế giới mười phương.
Chín
là trong số kiếp chẳng ngớt thuyết pháp.
Mười
là tùy thuyết pháp nào cũng đều có thể phát khởi những pháp căn, lực, giác.
đạo, thiền định giải thoát tam muội.
Chư
Phật Như Lai lúc chuyển đại pháp luân có vô lượng sự như vậy.
Chư
Phật tử ! Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác lúc chuyển đại pháp luân, do mười sự nên
ở trong tâm chúng sanh gieo pháp bạch tịnh không hề luống công :
V́
quá khứ nguyện lực.
V́
đại bi nhiếp tŕ.
V́
chẳng bỏ chúng sanh.
V́
trí huệ tự tại tùy sở thích của họ mà thuyết pháp cho họ.
V́
tất đúng thời tiết chưa từng lỗi thời.
V́
tùy theo sở thích sở nghi không vọng thuyết.
V́
trí biết tam thế khéo biết rơ tất cả.
V́
thân Phật tối thắng không ai sánh kịp.
V́
ngôn từ tự tại không ai có thể lường được.
V́
trí tuệ tự tại tùy chỗ phát ngôn thảy đều được khai ngô.
Chư
Phật tử ! Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác đă thật hành Phật sự xong, v́ quán sát
mười nghĩa nên thị hiện nhập Niết bàn :
V́
chỉ bày tất cả hành pháp thiệt là vô thường.
V́
chỉ bày tất cả pháp hữu vi chẳng phải là pháp an ổn.
V́
chỉ bày đại Niết bàn là chỗ an ổn không tất cả sự bố uư.
V́
hàng Thiên, Nhơn tham đắm sắc thân, nên v́ họ mà thị hiện sắc thân là pháp vô
thường, khiến họ phát nguyện trụ pháp thân thanh tịnh.
V́
chỉ bày sức vô thường chẳng thể chuyển được.
V́
chỉ bày tất cả pháp hữu vi chẳng tự tại chẳng trụ theo tâm.
V́
chỉ bày tất cả ba cơi đều như huyễn hóa chẳng bền chắc.
V́
chỉ bày tánh Niết bàn rốt ráo bền chắc chẳng thể hư hoại.
V́
chỉ bày tất cả pháp vô sanh vô khởi mà có tướng tụ họp và tán hoại.
Chư
Phật tử ! Như Lai Thế Tôn thật hành Phật sự rồi, bổn nguyện đă măn, chuyển pháp
luân đă xong người đáng được hoá độ đều đă hóa độ xong, có chư Bồ Tát đáng thọ
tôn hiệu sự thọ kư đă thành, theo pháp phải như vậy nhập nơi bất biến đại Niết
bàn.
Đây
là đức Như Lai Đẳng Chánh Giác v́ quán sát mười nghĩa nên thị hiện nhập Niết
bàn.
Chư
Phật tử ! Pháp môn này gọi là hạnh quảng đại thanh tịnh của Bồ Tát. Vô lượng
chư Phật đồng tuyên thuyết như vậy. Có thể làm cho người trí tỏ thấu vô lượng
nghĩa, đều rất hoan hỷ. Làm cho tất cả Bồ Tát đại nguyện đại hạnh đều được tiếp
nối.
Chư
Phật tử ! Nếu có chúng sanh được nghe pháp này, nghe xong tin hiểu, hiểu rồi tu
hành. Người này quyết định mau được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tại
sao vậy ?V́ người này đúng như lời mà tu hành.
Chư
Phật tử ! Nếu Bồ Tát chẳng thật hành đúng như lời, phải biết người này ĺa hẳn
Phật Bồ đề. Do cớ đây nên Bồ Tát phải thật hành đúng như lời.
Chư
Phật tử ! Chỗ sở hành công đức nghĩa hoa quyết định của tất cả Bồ Tát đây vào
khắp tất cả pháp, sanh khắp tất cả trí, siêu thế gian, ĺa Nhị thừa, chẳng đồng
chung với tất cả chúng sanh, đều có thể soi rơ tất cả pháp môn, thêm lớn thiện
căn xuất thế của chúng sanh, là pháp môn phẩm ĺa thế gian, phải tôn trọng,
phải tin thọ, phải phụng tŕ, phải tư duy, phải mong mến, phải tu hành. Nếu
được như vậy, nên biết người này mau được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc
Phổ Hiền Bồ Tát nói phẩm này, v́ Phật thần lực, va v́ pháp tất nhiên của pháp
môn này nên vô lượng vô biên vô số thế giới đều đại chấn động đại quang chiếu
khắp mười phương.
Bấy
giờ thập phương chư Phật đều hiện ra trước Phổ Hiền Bồ Tát mà đồng thanh khen
rằng :
Lành
thay ! Lành thay ! Phật tử bèn có thể diễn thuyết pháp môn phẩm xuất thế gian
vào khắp tất cả Phật pháp, nghĩa hoa quyết định, hành xứ công đức của tất cả
đại Bồ Tát này.
Phật
tử đă khéo học pháp này, khéo nói pháp này.
Phật
tử dùng oai lực hộ tŕ pháp này.
Chư
Phật chúng ta thảy đều tùy hỷ.
Như
chư Phật chúng ta tùy hỷ cho Phật tử, tất cả chư Phật cũng đều tùy hỷ như vậy.
Phật
tử ! Chư Phật chúng ta đều cùng đồng tâm hộ tŕ kinh này, làm cho hiện tại vị
lai các chúng Bồ Tát, những người chưa từng nghe đều sẽ được nghe.
Bấy
giờ Phổ Hiền đại Bồ Tát thừa thần lực của Phật, quán sát tất cả đại chúng mười
phương, khắp đến pháp giới, rồi nói kệ rằng :
Trong
vô lượng kiếp tu khổ hạnh
Từ
vô lượng Phật chánh pháp sanh.
Khiến
vô lượng chúng trụ Bồ đề
Hạnh
vô đẳng kia nghe tôi nói.
Cúng
vô lượng Phật mà xả chấp
Rộng
độ quần sanh chẳng nghĩ tưởng
Cầu
Phật công đức tâm vô y
Hạnh
thắng diệu kia nay tôi nói.
Ĺa ma ba cơi
nghiệp tna
Đủ thánh công
đức hạnh tối thắng
Diệt những mê
lầm ḷng tịch tịnh
Nay tôi nói đạo
của kia làm.
Ĺa hẳng thế
gian những huyễn đối
Những thứ biến
hoá dạy chúng sanh
Tâm sanh trụ
diệt các sự
Nói sở năng kia
cho chúng mừng.
Thấy các chúng
sanh : sanh, già, chết
Phiền năo lo khổ
luôn bức ngặt
Muốn họ giải
thoát dạy phát tâm
Hạnh công đức
kia phải thính thọ.
Thí giới, nhẫn,
tấn, thiền, trí huệ.
Phương tiện, từ,
bi, hỷ, xả thảy
Trăm ngàn muôn
kiếp thường tu hành
Các Ngài nên
nghe công đức đó.
Ngàn muôn ức
kiếp cầu Bồ đề
Bao nhiêu thân
mạng đều không tiếc
Nguyện lợi quần
sanh chẳng v́ ḿnh
Hạnh từ mẫn kia
nay tôi nói.
Vô lượng ức kiếp
nói công đức
Như biển một
giọt c̣n chưa ít
Công đức vô tỉ
chẳng thể dụ
Do
Phật oai thần nay lược nói.
Tâm
kia chẳng cao hạ
Cầu
đạo không nhàm mỏi
Khiến
khắp các chúng sanh
Ở
lành thêm pháp sạch.
Trí
huệ lợi ích khắp
Như
cây, như sông suối
Cũng
như nơi đại địa
Chỗ
sở y tất cả.
Bồ
Tát như liên hoa
Gốc
lành, cọng an ổn,
Trí
huệ à hương nhũy
Giới
phẩm là sạch thơm.
Phật
phóng pháp quang minh
Cho
hoa được x̣e nở
Chẳng
dính nước hữu vi
Ai
thấy cũng hoan hỷ.
Bồ
Tát cây diệu pháp
Sanh
trên dất trực tâm
Giống
: tin, gốc : từ bi
Trí
huệ dùng làm thân,
Phương
tiện làm cành nhánh
Ngũ
độ làm tàn rậm
Lá
định, bông thần thông
Nhứt
Thiết trí làm trái,
Cây
to : tối thượng lực
Che
mát trùm tam giới.
Bồ
Tát : sư tử vương
Pháp
bạch tịnh làm thân
Tứ
đế dùng làm thân
Chánh
niệm dùng làm cổ
Mắt
: từ đầu : trí huệ.
Đảnh
vấn lụa giải thoát
Trong
hang : thắng nghĩa không
Rống
: pháp, bố chúng ma.
Bồ
Tát là thượng chủ
Thấy
khắp các quần sanh
Ở
đồng hoang sanh tử
Xứ
hiểm ác phiền năo
Bị
giặc ma bắt cầm
Mê
mù mất chánh đạo,
Chỉ
cho đường chánh trực
Khiến
vào vô úy thành.
Bồ
Tát thấy chúng sanh
Bịnh
phiền năo ba độc
Chịu
các thứ khổ năo.
Lâu
dài bị đốt nấu,
V́
họ, phát đại bi
Rộng
nói môn đối trị
Có
tám mươi bốn ngàn
Diệt
trừ những khổ hoạn.
Bồ
Tát làm Pháp Vương
Chánh
đạo dạy chúng sanh
Bảo
xa ác, tu thiện
Chuyên
cầu Phật công đức,
Ờ
chỗ chư Như Lai
Quán
đảnh thọ Phật kư
Rộng
ban những Thánh tài
Bồ
đề phần : trân bửu
Bồ
Tát chuyển pháp luân
Như
chư Phật đă chuyển
Giới
: trục, định : gọng xe
Trí
: trang nghiêm, gươm : huệ
Đă
phá giặc phiền năo
Cũng
dẹp những ma oán,
Tất
cả các ngoại đạo.
Vừa
thấy liền ta ră.
Bồ
Tát biển trí huệ
Sâu
rộng không ngằn mé
Vị
chánh pháp đầy tràn
Báu
giác phần sung măn,
Đại
tâm không bờ mé
Nhứt
Thiết trí : nước triều
Chúng
sanh chẳng thể lường
Nói
đó không hết được.
Bồ
Tát núi Tu Di
Vượt
hơn cả thế gian
Đảnh
thần thông tam muội
Đại
tâm an bất động.
Nếu
có ai gần gũi
Đồng
một màu trí huệ
Hơn
hẳn các cảnh giới
Tất
cả đều xem thấy.
Bồ
Tát như kim cang
Chí
cầu Nhứt Thiết trí
Tín
tâm cùng khổ hạnh
Kiên
cố chẳng động được.
Tâm
Ngài không e sợ
Lợi
ích mọi quần sanh
Chúng
ma và phiền năo
Tất
cả đều trừ diệt.
Bồ
Tát đại từ bi
Ví
như mây đầy kín
Tam
minh phát điển quang
Thần
túc chấn lôi âm,
Khắp
dùng tứ biện tài
Mưa
nước bát công đức
Ướt
nhuần tất cả chỗ
Khiến
hết nóng phiền năo.
Bồ
Tát : thành chánh pháp
Bát
nhă dùng làm vách
Tàm
qúy làm hào sâu
Trí
huệ làm khí giới
Mở
rộng cửa giải thoát
Chánh
niệm hằng pḥng thủ
Tứ
đế : đường bằng thẳng
Lục
thông : nhóm quân đội,
Lại
sựng tràng đại pháp
Bao
quanh khắp dưới thành
Những
ma quân ba cơi
Tất
cả không vào được.
Bồ
Tát : Kim Diểu Vương
Như
ư L làm chân cứng
Phương
tiện : cánh mạnh khỏe
Từ
bi : cặp mắt sáng
Đâu
cây : Nhứt Thiết trí
Xem
biển cả : tam giới
Chụp
bắt rồng : nhơn, thiên
Để
trên bờ tịch diệt.
Bồ
Tát : chánh pháp nhựt
Xuất
hiện ở thế gian
Giới
phẩm : vầng nhựt tṛn
Thần
túc : xoay đi mau
Chiếu
sáng : trí huệ quang
Lớn
cây thuốc : căn, lực
Diệt
trừ tối phiền năo
Tiêu
cạn biển ái dục.
Bồ
Tát : trí quang nguyệt
Pháp
giới làm vầng trăng
Đi
nơi tất cánh không
Thế
gian đều xem thấy.
Trong
tam giới thức tâm
Tùy
thời có tăng giảm
Trong
tinh tú Nhị thừa
Tất
cả không sánh kịp.
Bồ
Tát : Đại pháp vương
Công
đức trang nghiêm thân
Tướng
hảo đều đầy đủ
Người,
Trời đều chiêm ngưỡng
Phương
tiện : mắt thanh tịnh
Trí
huệ : chày kim cang
Nơi
pháp được tự tại
Đem
đạo dạy quần sanh.
Bồ
Tát : Đại Phạm Vương
Tự
tại siêu ba cơi
Nghiệp
hoặc thảy đều dứt
Từ,
xả đều đủ cả,
Xư
xứ thị hiện thân
Khai
ngộ dùng pháp âm
Ở
trong ba cơi kia
Nhổ
những gốc tà kiến.
Bồ
Tát : Tự Tại Thiên
Siêu
quá cơi snh tử
Cảnh
giới thường thanh tịnh
Trí
huệ không thối chuểyn,
Tuyệt
những đạo hạ thừa
Thọ
những pháp quản đảnh
Đủ
công đức trí huệ
Tiếng
tăm ai cũng nghe.
Bồ
Tát : trí huệ tâm
Thanh
tịnh như hư không
Không
tánh, không sở y
Tất
cả bất khả đắc,
Có
sức đại tự tại
Hay
nên việc thế gian
Tự
đủ hạnh thanh tịnh
Khiến
chúng sanh cũng vậy.
Bồ
Tát : đất phương tiện
Lợi
ích các quần sanh,
Bồ
Tát : nước từ bi
Rửa
sạch những phiền năo
Bồ
Tát : lửa trí huệ
Đốt
những củi hoặc tập.
Bồ
Tát : gió không dừng
Du
hành ba cơi trống.
Bồ
Tát : những trân bửu
Hay
giúp nạn nghèo cùng.
Bồ
Tát : như kim cang
Hay
dẹp điên đảo kiến.
Bồ
Tát : như anh lạc
Trang
nghiêm thân ba cơi.
Bồ
Tát : như ma ni
Tăng
trưởng tất cả hạnh
Bồ
Tát : đức như hoa
Thường
phát Bồ đề phần.
Bồ
Tát : nguyện như tràng.
Hằng
trùm đầu chúng sanh.
Bồ
Tát : tịnh giới hương
Bền
giữ không hủy phạm.
Bồ
Tát : trí hương thoa
Huân
khắp cả ba cơi.
Bồ
Tát : lực như trướng
Hay
ngăn bụi phiền năo.
Bồ
Tát : trí như tràng
Hay
dẹp giặc ngă mạn.
Diệu
hạnh làm gấm thêu
Trang
nghiêm nơi trí huệ.
Tàm
quư là y phục
Trùm
khắp các quần sanh.
Bồ
Tát : xe vô ngại
Ngồi
đó ra ba cơi.
Bồ
Tát : tượng đại lực
Tâm
tánh khéo điều phục.
Bồ
Tát : ngựa thần túc
Bay
chạy vượt các cơi.
Bồ
Tát : tồng thuyết pháp
Mưa
khắp tâm chúng sanh.
Bồ
Tát : hoa ưu đàm
Thế
gian khó gặp gỡ
Bồ
Tát : tướng khỏe mạnh
Chúng
ma đều hàng phục,
Bồ
Tát : chuyển pháp luân
Như
chư Phật đă chuyển.
Bồ
Tát : đèn phá tối
Chúng
sanh thấy chánh đạo.
Bồ
Tát : sông công đức
Hằng
thuận ḍng chánh đạo.
Bồ
Tát : cầu tinh tấn
Rộng
độ các quần sanh.
Đại
trí cùng hoằng thệ
Đồng
làm thuyền bền chắc
Tiếp
dẫn các chúng sanh
Đặt
ở bờ Bồ đề.
Bồ
Tát : vườn du hư
Chơn
thiệt vui chúng sanh.
Bồ
Tát : giải thoát hoa
Trang
nghiêm cung điện trí.
Bồ
Tát : như diệu dược
Diệt
trừ bịnh phiền năo.
Bồ
Tát : như núi Tuyết
Xuất
sanh thuốc trí huệ.
Bồ
Tát : đồng với Phật
Giác
ngộ các quần sanh,
Tâm
Phật đâu có khác
Chanh
giác giác thế gian.
Như
chỗ đến của Phật
Bồ
Tát : đến như vậy.
Cũng
như nhứt Thiết trí
Dùng
trí nhập phổ môn.
Bồ
Tát : khéo khai đạo
Tất
cả các quần sanh.
Bồ
Tát : tự nhiên giác
Cảnh
giới nhứt Thiết trí.
Bồ
Tát : vô lượng lực
Thế
gian chẳng hoại được.
Bồ
Tát : trí vô úy
Biết
chúng sanh và pháp
Tất
cả các thế gian
Sắc
tướng đều sai khác.
Âm
thanh và danh tự
Đều
hay phân biệt biết.
Dầu
rời nơi danh sắc
Mà
hiện các thứ tướng
Tất
cả các chúng sanh
Chẳng
lường được đạo đó.
Những
công đức như vậy
Bồ
Tát đều thành tựu.
Biết
tánh đều vô tánh
Hữu
vô, không chấp trước.
Nhứt
Thiết trí như vậy
Vô
tận vô sở y
Nay
tôi sẽ diễn thuyết
Khiến
chúng sanh hoan hỷ.
Dầu
biết các pháp tướng
Như
huyễn đều không tịch
Mà
dùng tâm bi nguyện
Và
Phật oai thần lực
Hiện
thần thông biến hóa
Vô
biên vô lượng sự.
Những
công đức như vậy
Các
Ngài phải nghe thọ.
Một
thân hay thị hiện
Vô
lượng thân sai biệt,
Không
tâm không cảnh giới
Khắp
ứng tất cả chúng.
Trong
một âm diễn đủ
Tất
cả các ngôn âm
Ngôn
ngữ của chúng sanh
Tùy
loại đều nói được.
Ĺa
hẳn thân phiền năo
Mà
hiện thân tự tại
Biết
pháp bất khả thuyết
Mà
diễn thuyết các pháp.
Tâm
Ngài thường tịch diệt
Thanh
tịnh như hư không
Trang
nghiêm khắp các cơi
Thị
hiện tất cả chúng,
Nơi
thân không chấp trước
Mà
hay thị hiện thân,
Trong
tất cả thế gian
Tùy
nghi mà thọ sanh,
Dầu
sanh tất cả xứ
Cũng
chẳng trụ thọ sanh.
Biết
thân như hư không
Nhiều
loại tùy tâm hiện,
Bồ
Tát thân vô biên
Hiện
khắp tất cả xứ,
Thường
cung kính cúng dường
Tối
thắng Lưỡng Túc Tôn.
Hương
hoa những kỹ nhạc
Tràng
phan và Bảo cái
Hằng
dùng tâm thâm tịnh
Cúng
dường lên chư Phật.
Chẳng
rời một Phật hội
Ở
khắp chỗ chư Phật,
Tại
trong đại chúng kia
Vấn
nạn nghe thọ pháp,
Nghe
pháp nhập tam muội
Mỗi
mỗi vô lượng môn,
Khởi
định cũng như vậy
Thị
hiện không cùng tận.
Trí
huệ xảo phương tiện
Rơ
thế đều như huyễn
Mà
hay hiện thế gian
Vô
biên nhiều loại sắc
Cùng
hiện tâm và lời
Vào
trong lưới các tưởng
Mà
hằng không chấp trước.
Hoặc
hiện sơ phát tâm
Lợi
ích nơi thế gian,
Hoặc
hiện lâu tu hành
Rộng
lớn vô biên tế,
Thí,
giới, nhẫn, tinh tấn
Thiền
định và trí huệ
Tứ
phạm, tứ nhiếp thảy
Tất
cả pháp tối thắng.
Hoặc
hiện hạnh thành măn
Đắc
nhẫn vô phân biệt,
Hoặc
hiện c̣n một đời
Chư
Phật quán đảnh cho,
Hoặc
hiện tướng Thanh Văn
Hoặc
lại hiện Duyên Giác
Xứ
xứ nhập Niết Bàn
Chẳng
bỏ hạnh Bồ đề.
Hoặc
hiện làm Đế Thích
Hoặc
hiện làm Phạm Vương
Hoặc
Thiên nữ vây quanh
Hoặc
lại ngồi yên ặng.
Hoặc
hiện làm Tỳ Kheo
Tịch
tịnh điều tâm ḿnh.
Hoặc
hiện Tự Tại Vương
Thống
lư pháp thế gian,
Hoặc
hiện gái xảo thuật,
Hoặc hiện tu
hạnh lành,
Hoặc hiện thọ
ngũ dục,
Hoặc hiện nhập
thiền định,
Hoặc hiện sơ thỉ
sanh
Hoặc trẻ, hoặc
già chết,
Nếu ai muốn
nghĩa bàn
Tâm nghi phát
cuồng loạn.
Hoặc hiện ở
Thiên cung
Hoặc hiện mới
giáng thần
Hoặc nhập hoặc
trụ thai
Thành Phật
chuyển pháp luân,
Hoặc sanh hoặc
Niết Bàn
Hoặc hiện nhập
học đường
Hoặc tại trong
thể nữ
Hoặc ly tục tu
thiền,
Hoặc ngồi cây Bồ
đề
Tự nhiên thành
Chánh giác,
Hoặc hiện chuyển
Pháp luân
Hoặc hiện mới
cầu đạo,
Hoặc hiện làm
thân Phật
Ngồi yên vô
lượng cơi,
Hoặc tu đạo bất
thối
Tích tập hạnh Bồ
đề,
Thâm nhập vô số
kiếp
Thảy đều đến bĩ
ngạn.
Vô lượng kiếp
một niệm
Một niệm vô
lượng kiếp,
Tất cả kiếp phi
kiếp
V́ thế, thị hiện
kiếp,
Không lai, không
tích tập.
Thành tựu những
kiếp sự
Ở trong một vi
trần
Thấy khắp tất cả
Phật.
Thập phương tất
cả xứ
Không xứ nào
chẳng có
Quốc độ, pháp
chúng sanh
Thứ đệ thảy đều
thấy.
Trải vô lượng
kiếp số
Rốt ráo bất khả
tận.
Bồ Tát biết
chúng sanh
Rộng lớn không
có biên,
Một thân chúng
sanh kia
Vô lượng nhơn
duyên sanh.
Như biết một vô
lượng
Tất cả đều cũng
vậy.
Theo minh đă
thông đạt
Dạy những người
chưa học
Đều biết căn
chúng sanh
Thượng trung hạ
chẳng đồng,
Cũng biết căn
chuyển dời
Nên độ, chẳng
nên độ.
Một căn tất cả
căn
Triển chuyển sức
nhơn duyên,
Vi tế đều sai
khác
Thứ đệ không lầm
loạn.
Lại biết dục
giải kia
Tất cả tập phiền
năo
Cũng biết khứ,
lai, kim
Bao nhiêu những
tâm hạnh.
Thấu rơ tất cả
hạnh
Không lai cũng
không khứ,
Đă biết hạnh kia
rồi
V́ nói pháp vô
thượng.
Hạnh tạp nhiễm
thanh tịnh
Tất cả đều biết
rơ,
Một niệm được Bồ
đề
Thành tựu Nhứt
Thiết trí.
Trụ Phật bất tư
ngh́
Rốt ráo tâm trí
huệ
Một niệm đều
biết được
Tất cả hạnh
chúng sanh
Bồ Tát trí thần
thông
Công lực đă tự
tại,
Có thể trong một
niệm
Qua đến vô biên
cơi.
Qua mau chóng
như vậy
Tột đến vô số
kiếp
Không xứ nào
chẳng khắp
Chẳng động phần
đầu lông.
Ví như nà huyễn
thuật
Hóa hiện những
h́nh sắc.
T́m trong h́nh
huyễn đó
Không sắc, không
phi sắc.
Bồ Tát cũng như
vậy
Dùng phương tiện
trí huyễn
Mọi thứ đều thị
hiện
Đầy khắp nơi thế
gian.
Ví như tịnh nhựt
nguyệt
Gương sáng tại
hư không
Bóng hiện ở
trong nước
Chẳng bị nước
làm tạp.
Bồ Tát tịnh pháp
luân
Phải biết cũng
như vậy
Hiện
trong tâm thế gian
Chẳng
bị thế gian tạp.
Như
người ngủ nằm mộng.
Tạo
tác nhiều công việc
Dầu
trải ức ngàn năm
Nhưng
một đêm chưa hết.
Bồ
Tát trụ pháp tánh
Thị
hiện tất cả sự
Vô
lượng kiếp khả tận
Một
niệm trí vô tận.
Ví
như trong sơn cốc
Và
cùng trong cung diện
Theo
tiếng đều hưởng ứng
Mà
thiệt vô phân biệt
Bồ
Tát trụ pháp tánh
Hay
dùng trí tự tại
Rộng
phát âm tùy loại
Cũng
vẫn vô phân biệt.
Như
có thấy dương diệm
Tưởng
đó cho là nước
Nên
biết cũng như vậy
Bồ
Tát khởi từ mẫn
Cứu
cho họ xuất ly
Quán
sắc như bọt nước,
Thọ
như bóng trên nước,
Tưởng
như ánh nắng gắt,
Những
hành như cây chuối ,
Tâm
thức dường như huyễn,
Thị
hiện đủ mọi sự.
Biết
năm uẩn như vậy
Trí
giả không chấp trước,
Các
xứ đều không tịch
Như
cơ quan động chuyển,
Các
giới tánh ĺa hẳn
Vọng
hiện ở thế gian
Bồ
Tát trụ chơn thiệt
Tịch
diệt đệ nhứt nghĩa
Rộng
tuyên xướng các pháp
Mà
tâm không sở y.
Không
lai cũng không khứ
Cũng
lại không có trụ,
Phiền
năo nghiệp khổ nhơn,
Ba
thứ hằng lưu chuyển.
Chẳng
thiệt cũng chẳng hư
Như
vậy vào trung đạo
Thuyết
pháp không chấp trước,
Hay
ở trong một niệm
Khắp
hiện tâm tam thế
Dục,
sắc, vô sắc giới
Tất
cả mọi sự vật,
Tuỳ
thuận ba luật nghi
Diễn
thuyết ba giải thoát
Kiến
lập đạo tam thừa
Thành
tựu nhứt thiết trí,
Thấu
rơ xứ phi xứ
Các
nghiệp và các căn
Giới,
giải, cũng thiền định
Tất
cả đạo chi xứ.
Túc
mạng niện thiên nhăn
Diệt
trừ tất cả hoặc
Biết
thập lực của phật
Mà
chưa thành tựu được,
Thấu
rơ các pháp không
Mà
thường cầu diệu pháp
Chẳng
cùng phiền năo hiệp
Mà
cũng chẳng tận lậu.
Rộng
biết đạo xuất ly
Mà
dùng độ chúng sanh
Nơi
đây được vô úy
Chẳng
bỏ tu các hạnh.
Không
lầm không trái đạo
Cũng
chẳng mất chánh niệm
Tinh
tấn, dục, tam muội
Quán
huệ không tổn giảm.
Tam
tụ đều thanh tịnh
Tam
thế đều không sáng
Đạt
từ mẫn chúng sanh
Tất
cả không chướng ngại.
Do
nhập pháp môn này
Được
thành hạnh như vậy
Nghĩa
công đức trang nghiêm
Tôi
giải nói phần ít,
Tột
ở vô số kiếp
Nói
kia hạnh vô tận,
Nay
tôi nói ít phần
Như
hạt bụi trên đất.
Nương
ở phật trí trụ
Phát
tưởng là kỳ đặc
Tu
hành hạnh tối thắng
Đầy
đủ đại bi
Tinh
cần tự an ổn
Giáo
hoá các hàm thức,
An
trụ trong tịnh giới
Đủ
những hạnh thọ kư
Hay
nhập phật công đức
Hạnh
chúng sanh và cơi
Kiếp
thế đều cũng biết
Không
có tướng mỏi nhàm,
Sai
biệt trí tổng tŕ
Thông
đạt nghĩa chơn thiệt
Tư
duy nói vô tỷ
Tịch
tịnh đẳng chánh giác
Phát
tâm của Phổ Hiền
Sức
từ bi nhơn duyên
Đến
đạo ư thanh tịnh ,
Tu
hành ba la mật
Rốt
ráo trí tuỳ giác
Sức
chứng trí tự tại
Thành
Bồ đề vô thượng .
Thành
tựu trí b́nh đẳng
Diễn
thuyết pháp tối thắng
Hay
tŕ đủ diệu biện
Đến
được bực pháp vương .
Xa
ĺa nơi chấp trước
Diễn
thuyết tâm b́nh đẳng
Xuất
sanh ra trí huệ
Biến
hoá được Bồ đề .
Trụ
tŕ tất cả kiếp
Trí
giả rất hoan hỷ,
Thâm
nhập và y chỉ
Không
sợ không nghi hoặc
Rơ
thấu bất tư ngh́
Xảo
mật khéo phân biệt
Khéo
vào các tam muội
Thấy
khắp cảnh giới trí.
Rốt
ráo những giải thoát
Du
hư thần thông, minh.
Đều
ĺa hẳn triền phược
Viên
lâm tha bồ đạo.
Bạch
pháp làm cung điện
Chư
hạnh đẳng ưa thích
Hiện
vô lượng trang nghiêm
Tại
thế tâm khéo qúan sát
Diệu
biện hay khai diễn
Thanh
tịnh Bồ đề ấn
Trí
quang chiếu tất cả .
Sở
trụ không ǵ sánh
Tâm
đó chẳng hạ liệt
Lập
chí như núi to
Gieo
đức đường biển thẳm.
Như
bửu, an trụ pháp
Mặc
giáp, tâm thệ nguyện
Phát
khởi những đại sự
Rốt
ráo không thể hoại.
Được
thọ kư Bồ đề
An
trụ tâm quảng đại
Bí
tạng vô cùng vô tận
Giác
ngộ tất cả pháp
Thế
trí đều tự tại
Diệu
dụng không chướng ngại
Chúng
sanh tất cả cơi
Và
cùng các loại pháp.
Thân
nguyện cùng cảnh giới
Trí
huệ thần thông thảy
Thị
hiện ở thế gian
Vô
lượng trăm ngàn ức.
Du
hư và cảnh giới
Tự
tại không chướng ngại
Lực,
vô úy, bất cộng,
Tất
cả nghiệp trang nghiêm,
Những
thân và thân nghiệp
Nhữ
và tu ngữ nghiệp
V́
để được thủ hộ
Thành
xong mười sự việc ,
Bồ
Tát tâm sơ phát
Và
cùng tâm châu biến
Các
căn không tán động
Chứng
được căn tối thắng
Thâm
tâm, tăng thắng tâm
Xa
ĺa tâm phỉnh đối
Quyết
định hiểu các pháp
Vào
khắp ở thế gian,
Bỏ
phiền năo tập kia
Lấy
đạo tối diệu thắng này
Khéo
tu tối thắng này
Khéo
tu cho viên măn
Đến
thành nhứt thiết trí.
Tiến
tu nhập chánh vị
Quyết
định chứng tịch diệt
Xuất
sanh phật pháp đạo
Thành
tựu hiệu công đức.
Đạo
và vô lượng đạo
Nhẫn
đến đạo tràng nghiêm
Thứ
đệ khéo an trụ
Thảy
đều không chấp trước
Tay,
chân và phúc tạng
Kim
cang dùng làm tâm
Mặc
áo giáp từ bi
Đầy
đủ những khí giới.
Đầu
: trí, mắt: ḿnh đạt
Hạnh
Bồ đề làm tai
Giới
thanh tịnh làm mũi
Diệt
ám không chướng ngại.
Biện
tài dùng làm lưỡi
Thân
đến khắp mọi nơi
Trí
tối thắng làm tâm
Đi
đứng tu công hạnh .
Đạo
tràng : toà sư tử
Tịnh
: nằm, chơn không : ở
Chỗ
đi và quán sát
Vùng
vẫy và gẩm rống .
Rời
tham, hằng bố thí
Bỏ
mạn, ǵn tịnh giới
Chẳng
sân, thương nhẫn nhục
Chẳng
lười, hằng tinh tấn.
Thiền
định được tự tại
Trí
huệ không sở hành
Từ
tế, bi không mỏi
Hỷ
pháp, xả phiền năo.
Ở
trong các cảnh giới
Biết
nghĩa cũng biết pháp
Phước
đức đều thành măn
Trí
huệ như gươm bén,
Chiếu
khắp thích đa văn
Minh
liễu xu hướng pháp
Biết
ma và ma đạo
Thệ
nguyện đều bỏ ĺa.
Thấy
phật cùng phật nghiệp
Phát
tâm đều nhiếp lấy
Rời mạn, tu trí
huệ
Chẳng bi ma
nhiếp tŕ
Mà được phật
nhiếp tŕ
Cũng được pháp
nhiếp tŕ.
Hiện ở cung đâu
suất
Và hiện ẩn thiên
cung
Thị hiện ở thai
mẹ
Cũng hiện vi tế
thú
Hiện sanh và vi
tiếu
Cũng hiện đi bảy
bước,
Hiện tu những kỷ
thuật
Cũng hiện ở thâm
cung
Xuất gia tu khổ
hạnh
Qua đến nơiđạo
tràng
Đoan tọa phóng
quang minh
Giác ngộ các
quần sanh
Hàng ma thành
chánh giác
Chuyển pháp luân
vô thượng
Thị hiện đều đă
trọn
Hiện nhập đại
Niết Bàn
Những hạnh Bồ
Tát kia
Vô lượng kiếp tu
tập
Quảng đại không
ngần mé
Nay tôi nói phần
ít.
Dầu khiến vô
lượng chúng
An trụ phật công
đức
Chúng sanh và
trong pháp
Rốt ráo không
chấp lấy,
Đầy đủ hạnh như
vậy
Du hư những thần
thông
Đầu lông để
những cơi
Trải qua ức ngàn
kiếp,
Tay
cầm vô lượng cơi
Qua
khắp thân không mỏi
Đem
về để bổn xứ
Chúng
sanh chẳng hay biết .
Bồ
Tát dùng tất cả
Trang
nghiêm nhiều quốc độ
Để
ỡ một lỗ lông
Chơn
thiệt đều cho thấy.
Lại
dùng một lỗ lông
Nạp
khắp tất cả biển
Biển
lớn không tăng giảm
Chúng
sanh chẳng nhiểu hại.
Vô
lượng núi thiết vi
Tay
bóp nát thành bụi
Một
bụi nơi một cơi
Hết
số vi trần này.
Đem
những cơi trần đây
Lại
nghiệm nát thành bụi
Bụi
này biết đươc số
Khó
lường trí Bồ Tát
Ở
trong một lỗ lông
phóng
vô lượng quang minh,
sáng
nhựt nguyệt tinh tú
Sáng
ma ni , sáng lửa,
Nhẫn
đến sáng chư thiên
Tất
cả đều bị khuất.
Diệt
những khổ ác đạo
V́
nói pháp vô thượng
Tất
cả các thế gian
Nhiều
thứ tiếng sai biệt,
Bồ
Tát một âm thanh
Hay
diển nói tất cả ,
Quyết
định phân biệt nói
Tất
cả những phật pháp nói
Tất
cả những Phật pháp
Khiến
khắp các quần sanh
Nghe
đó rất hoan hỷ
Quá
khứ tất cả kiếp
An
trí nay, vị lai
Vị
lai hiện tại kiếp
Xoay
để kiếp quá khứ,
Thị
hiện vô lượng cơi
Cháy
tan và thành, trụ
Tất
cả các thế gian
Đều
tại một lỗ lông
Khứ,
lai cùng hiện tại
Tất
cả phật mười phương
Đều
ở tại trong thân
Phân
minh mà hiển hiện
Biết
sân khá biến hoá
Khéo
ưng tâm chúng sanh
Thị
hiện các loại thần
Mà
đều vô sở trước
Hoặc
hiện ở sáu loài
Tất
cả thân chúng sanh
Thân
thích, phạm hộ thê
Thân
chư thiên, thân người
Thân
thanh văn , duyên giác ,
Thân
Chư Phật Như Lai ,
Hoặv
hiện than Bồ Tát
Tu
hành nhứt thiết trí
Khéo
nhập hạ, trung, thượng
Lưới
tưởng của chúng sanh
Thị
hiện thành Bồ đề
Nhẫn
đến những cơi phật
Biết
rơ những lưới tướng
Nơi
tưởng được tự tại,
Hiện tu hạnh Bồ
Tát .
Tất cả sự phương
tiện
Thị hiện như vậy
thảy
Những thần biến
quăng đại .
Những cảnh giới
như vậy
Thế gian chẳng
biết được
Dầu hiện mà
không hiện
Rốt ráo càng
tăng thượng .
Tuỳ thuận tâm
chúng sanh
Khiến được đạo
chơn thiệt
Thân, ngữ và
cùng tâm
B́nh đẳng như hư
không .
Tịnh giới lắm
hương thoa
Các hạnh làm y
phục
Gấm pháp trùm
búi tóc
Ma ni : nhứt
thiết trí,
Công đức đều
cùng khắp
Quán đảnh lên
vương vị ,
Ba la mật làm
xe,
Thần thông dùng
làm tượng ,
Thần túc đúng
như ngựa,
Trí huệ làm minh
châu,
Diệu hạnh làm
thể nử ,
Tứ nhiếp : chủ
tạng thần ,
Phương tiện làm
chủ binh ,
Bồ Tát chuyển
luân vương ,
Tam muội làm
thành quách,
Không tịch làm
cung điện,
Cung
: niệm, tên : minh lợi,
Giăng
cao lọng thần lực,
Lại
dựng tràng trí huệ,
Nhẫn
lực chẳng lay động
Thẳng
phá quân ma vương ,
Tổng
tŕ làm đất bằng,
Những
hạnh làm nước sông,
Tịnh
trí làm suối chảy ,
Diệu
huệ làm rừng cây,
Chơn
không : ao đứng sạch,
Giác
phần làm hoa sen,
Thần
lực tự trang nghiêm
Tam
muội thường đùa vui.
Tư
duy làm thể nữ,
Cam
lộ làm mỹ thực.
Giải
thoát vị : nước uống,
Du hư nơi tam thừa,
Những hạnh Bồ
Tát này
Vi diệu thêm
tăng thượng
Vô lượng kiếp tu
hành
Tâm ngài không
nhàm đủ.
Cúng dường tất
cả phật
Nghiêm tịnh tất
cả cơi
Khiến
khắp tất cả chúng
An
trụ nhứt thiết trí,
Tất
cả cơi vi trần
Đều
biết được số đó,
Tất
cả hư không giới
Hột
cát đo lường được,
Tất
cả tâm chúng sanh
Niệm
niệm đếm biết được,
Phật
tử các công đức
Nói
đó không hết được.
Muốn
đủ công đức này
Và
những pháp thượng diệu,
Muốn
cho những chúng sanh
Ĺa
khổ thường an lạc,
Muốn
cho thân, ngữ, ư
Đều
đồng như chư phật,
Phải
phát kim cang nguyện.
Học
hạnh công đức này.
*****