Phẩm Thập - Định
Thứ hai mươi bảy
(1)
Bấy giờ đức Thế-Tôn ở trong đạo-tràng Bồ-Đề tại nước Ma-Kiệt-Đề vừa thành bực
chánh-giác, nơi điện Phổ-Quang-Minh nhập tam-muội tên Sát-Na-Tế-Chư-Phật, dùng
sức nhứt-thiết-trí-tự-thần-thông hiện thân Như-Lai thanh-tịnh vô-ngại không chỗ
y-tựa, không chỗ nhiễm trước, có thể làm cho người thấy đều được khai-ngộ. Tùy
nghi xuất hiện chẳng lỗi thời. Hằng trụ một tướng, chính là vô-tướng. Cùng với
mười phật-sát vi-trần-số đại Bồ-Tát câu-hội. Chư Bồ-Tát này đều là bực
Quán-Đảnh đầy đủ hạnh Bồ-Tát đồng như pháp-giới vô-lượng vô biên, đă được
Phổ-Kiến tam-muội, đại-bi an-ổn tất cả chúng-sanh, thần-thông tự-tại, thâm-nhập
trí-huệ đồng với Như-Lai, diễn nghĩa chân thiệt, đủ nhứt-thiết-trí hàng phục
chúng ma. Dầu nhập thế-gian mà tâm luôn tịch-tịnh, an-trụ nơi giải-thoát vô-trụ
của Bồ-Tát. Danh hiệu của các người là :
Kim-Cang-Huệ
Bồ-Tát, Vô-Đẳng-Huệ Bồ-Tát, Nghĩa-Ngữ-Huệ Bồ-Tát, Tối-Thắng-Huệ Bồ-Tát,
Thường-Xả-Huệ Bồ-Tát, Na-Dà-Huệ Bồ-Tát, Thành-Tựu-Huệ Bồ-Tát, Điều-Thuận-Huệ
Bồ-Tát, Đại-Lực-Huệ Bồ-Tát, Nan-Tư-Huệ Bồ-Tát, Vô-Ngại-Huệ Bồ-Tát,
Tăng-Thượng-Huệ Bồ-Tát, Phổ-Cúng-Huệ Bồ-Tát, Như-Lư-Huệ Bồ-Tát, Thiện-Xảo-Huệ
Bồ-Tát, Pháp-Tự-Tại-Huệ Bồ-Tát, Pháp-Huệ Bồ-Tát, Tịch-Tịnh-Huệ Bồ-Tát,
Hư-Không-Huệ Bồ-Tát, Nhứt-Tướng-Huệ Bồ-Tát, Thiện-Huệ Bồ-Tát, Như-Huyễn-Huệ
Bồ-Tát, Quảng-Đại-Huệ Bồ-Tát, Thế-Lực-Huệ Bồ-Tát, Thế-Gian-Huệ Bồ-Tát,
Phật-Địa-Huệ Bồ-Tát, Chơn-Thiệt-Huệ Bồ-Tát, Tôn-Thắng-Huệ Bồ-Tát, Trí-Quang-Huệ
Bồ-Tát, Vô-Biên-Huệ Bồ-Tát, Niệm-Trang-Nghiêm Bồ-Tát, Đạt-Không-Tế Bồ-Tát,
Tánh-Trang-Nghiêm Bồ-Tát, Thậm-Thâm-Cảnh Bồ-Tát, Thiện-Giải-Xứ-Phi-Xứ Bồ-Tát,
Đại-Quang-Minh Bồ-Tát, Thường-Quang-Minh Bồ-Tát, Liễu-Phật-Chủng Bồ-Tát,
Tâm-Vương Bồ-Tát, Nhứt-Hạnh Bồ-Tát, Thường-Hiện-Thần-Thông Bồ-Tát, Trí-Huệ-Nha
Bồ-Tát, Công-Đức-Xứ Bồ-Tát, Pháp-Đăng Bồ-Tát, Chiếu-Thế Bồ-Tát, Tŕ-Thế Bồ-Tát,
Tối-An-Ồn Bồ-Tát, Tối-Thượng Bồ-Tát, Vô-Thượng Bồ-Tát, Vô-Tỉ Bồ-Tát, Siêu-Luân
Bồ-Tát, Vô-Ngại-Hạnh Bồ-Tát, Quang-Minh-Diệm Bồ-Tát, Nguyệt-Quang Bồ-Tát,
Nhứt-Trần Bồ-Tát, Kiên-Cố-Hạnh Bồ-Tát, Chú-Pháp-Vũ Bồ-Tát, Tối-Thắng-Tràng
Bồ-Tát, Phổ-Trang-Nghiêm Bồ-Tát, Trí-Nhăn Bồ-Tát, Pháp-Nhăn Bồ-Tát, Huệ-Vân
Bồ-Tát, Tổng-Tŕ-Vương Bồ-Tát, Vô-Trụ-Nguyện Bồ-Tát, Trí-Tạng Bồ-Tát, Tâm-Vương
Bồ-Tát, Nội-Giác-Huệ Bồ-Tát, Trụ-Phật-Tŕ Bồ-Tát, Đà-La-Ni-Dũng-Kiện-Lực
Bồ-Tát, Tŕ-Điạ-Lực Bồ-Tát, Diệu-Nguyệt Bồ-Tát, Tu-Di-Đảnh Bồ-Tát, Bửu-Đảnh
Bồ-Tát, Phổ-Quang-Chiếu Bồ-Tát, Oai-Đức-Vương Bồ-Tát, Trí-Huệ-Luân Bồ-Tát,
Đại-Oai-Đức Bồ-Tát, Đại-Long-Tướng Bồ-Tát, Chất-Trực-Hạnh Bồ-Tát,
Bất-Thối-Chuyển Bồ-Tát, Tŕ-Pháp-Tràng Bồ-Tát, Vô-Vong-Thất Bồ-Tát,
Nhiếp-Chư-Thú Bồ-Tát, Bất-Tư-Ngh́-Quyết-Định-Huệ Bồ-Tát, Du-Hí-Vô-Biên-Trí
Bồ-Tát, Vô-Tận-Diệu-Pháp-Tạng Bồ-Tát, Trí-Nhựt Bồ-Tát, Pháp-Nhựt Bồ-Tát,
Trí-Tạng Bồ-Tát, Trí-Trạch Bồ-Tát, Phổ-Kiến Bồ-Tát, Bất-Không-Kiến Bồ-Tát,
Kim-Cang-Dũng Bồ-Tát, Kim-Cang-Trí Bồ-Tát, Kim-Cang-Diệm Bồ-Tát, Kim-Cang-Huệ
Bồ-Tát, Phổ-Nhăn Bồ-Tát, Phật-Nhựt Bồ-Tát, Tŕ-Phật-Kim-Cang-Bí-Mật-Nghĩa
Bồ-Tát, Phổ-Nhăn-Cảnh-Giới-Trí-Trang-Nghiêm Bồ-Tát, . . .
Mười
phật-sát vi-trần-số đại Bồ-Tát như vậy, thuở xưa đều cùng với đức Tỳ-Lô-Giá-Na
Như-Lai đồng tu những thiện-căn-hạnh của Bồ-Tát.
Bấy
giờ Phổ-Nhăn Bồ-Tát thừa thần-lực của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch y vai
bên hữu, gối bên hữu quỳ sát đất, chấp tay bạch Phật rằng : "Bạch đức
Thế-Tôn ! Con có chỗ muốn hỏi nơi đấng Như-Lai Đẳng Chánh-Giác, xin thương xót
cho phép".
Phật
nói: "Phổ-Nhăn ! Cho phép ngươi hỏi. Ta sẽ giải thuyết cho ngươi được
hoan-hỷ".
Phổ-Nhăn
Bồ-Tát thưa : " Bạch đức Thế-Tôn ! Phổ-Hiền Bồ-Tát và chúng Bồ-Tát an-trụ
nơi hạnh nguyện Phổ-Hiền, thành-tựu bao nhiêu tam-muội giải-thoát, mà hoặc
nhập, hoặc xuất, hoặc có lúc an-trụ nơi các đại tam-muội của Bồ-Tát. V́ khéo
nhập xuất nơi các đại tam-muội quảng-đại bất-tư-ngh́ của Bồ-Tát nên có thể ở
nơi tất cả tam-muội thần-thông biến-hóa tự-tại không thôi nghỉ ? ".
Phật
nói : " Lành thay ! Nầy Phổ-Nhăn ! Người v́ lợi ích cho chúng Bồ-Tát thuở
quá-khứ, vị-lai và hiện-tại mà hỏi nghĩa trên đây.
Nầy
Phổ-Nhăn ! Phổ-Hiền Bồ-Tát hiện đương ở tại đây, đă thành tựu thần-thông tự-tại
bất tư-ngh́ vượt lên trên tất cả Bồ-Tát, khó gặp-gỡ được. Từ nơi vô-lượng
Bồ-Tát hạnh, Phổ-Hiền phát sanh Bồ-Tát đại-nguyện, những công hạnh đều đă
thanh-tịnh, đều không thối-chuyển. Vô-lượng môn ba-la-mật, môn vô-ngại
đà-la-ni, môn biện-tài vô-tận-Phổ-Hiền đều đă thanh-tịnh vô-ngại cả. Do
bổn-nguyện-lực, Phổ-Hiền vận ḷng đại-bi lợi ích tất cả chúng-sanh suốt thuở
vị-lai không hề nhàm mỏi.
Ngươi
nên hỏi Phổ-Hiền. Bồ-Tát ấy sẽ v́ ngươi mà nói về tam-muội tự-tại giải-thoát đó
".
Bấy
giờ chúng Bồ-Tát trong hội nghe danh hiệu Phổ-Hiền, tức thời chúng được
vô-lượng bất-tư-ngh́ tam-muội, tâm được vô-ngại yên tịnh chẳng động, trí-huệ
rộng lớn khó ḍ lường được, cảnh-giới rất sâu ít ai sánh kịp, hiện tiền đều
thấy vô-lượng chư Phật, được Phật-lực, đồng Phật-tánh, chiếu sáng suốt ba thuở
quá khứ, vị-lai, hiện-tại. Được phước-đức vô cùng tận, tất cả thần-thông đều đă
đầy đủ.
Chư
Bồ-Tát này đối với Phổ-Hiền Bồ-Tát sanh ḷng tôn-trọng khát ngưỡng muốn thấy,
nhưng nh́n khắp mọi nơi mà vẫn không thấy, cũng chẳng thấy ṭa ngồi của
Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Sự
không thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát của đại chúng trên đây là do oai lực của Như-Lai và
cũng là thần-thông tự-tại của Phổ-Hiền Bồ-Tát khiến như vậy.
Phổ-Nhăn
Bồ-Tát thưa : " Bạch đức Thế-Tôn ! Phổ-Hiền Bồ-Tát hiện nay ở đâu ?
".
Phật
nói : " Nầy Phổ-Nhăn ! Phổ-Hiền Bồ-Tát hiện đương ngồi gần bên ta không hề
dời chỗ. "
Phổ-Nhăn
Bồ-Tát và chư Bồ-Tát lại ngó t́m khắp cả hội-trường rồi thưa : " Bạch đức
Thế-Tôn ! Nay chúng con vẫn chưa thấy được thân và ṭa ngồi của Phổ-Hiền
Bồ-Tát".
Phật
nói : " Đúng thế ! V́ cớ chi mà các ngươi chẳng thấy được ? Nầy Phổ-Nhăn !
V́ trụ xứ của Phổ-Hiền Bồ-Tát rất sâu bất-khả-thuyết. Phổ-Hiền Bồ-Tát được
vô-biên môn trí-huệ, nhập sư-tử-phấn-tấn định, được lực-dụng tự-tại vô-thượng,
vào nơi vô-ngại thanh-tịnh sanh mười trí-lực của Như-Lai, lấy pháp-giới-tạng
làm thân, tất cả Như-Lai đồng hộ-niệm, khoảng một niệm có thể chứng nhập trí
vô-sai-biệt của tam-thế chư Phật. V́ thế nên các ngươi không thấy được ".
Phổ-Nhăn
Bồ-Tát nghe Phật nói công-đức thanh-tịnh của Phổ-Hiền Bồ-Tát liền được mười
ngàn vô-số tam-muội. Dùng sức tam-muội lại khát ngưỡng quán-sát muốn thấy
Phổ-Hiền Bồ-Tát, nhưng cũng vẫn chẳng thấy. Tất cả chư Bồ-Tát khác cũng chẳng
thấy.
Bấy
giờ Phổ-Nhăn Bồ-Tát xuất tam-muội thưa: "Bạch đức Thế-Tôn ! Con đă nhập
mười ngàn vô-số tam-muội cầu thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát, nhưng vẫn chẳng được thấy.
Chẳng thấy thân và thân-nghiệp, ngữ và ngữ-nghiệp, ư và ư-nghiệp cùng ṭa ngồi
chỗ ở của Phổ-Hiền Bồ-Tát ".
Phật
nói : " Đúng thế, đúng thế ! Nầy Phổ-Nhăn ! Phải biết đều do Phổ-Hiền
Bồ-Tát an-trụ trong sức bất-tư-ngh́ giải-thoát.
Nầy
Phổ-Nhăn ! Như ư ngươi nghĩ sao ? Có người nào nói được trụ-xứ của các
huyễn-tướng ở trong huyễn-thuật văn tự chăng ? "
-
Bạch Thế-Tôn ! Không thể nói được.
-
Nầy Phổ-Nhăn ! Tướng huyễn trong huyễn-thuật c̣n không thể nói, huống là cảnh-
giới thân bí-mật, cảnh-giới ngữ bí-mật và cảnh- giới ư bí-mật của Phổ-Hiền mà
có thể nhập có thể thấy được. V́ cảnh- giới của Phổ-Hiền Bồ-Tát thậm-thâm
bất-tư-ngh́, vô-lượng, đă ngoài hạn-lượng.
Tóm
lại, Phổ-Hiền Bồ-Tát dùng kim-cang-huệ vào khắp pháp-giới, nơi tất cả thế-giới
: vô-sở-hành, vô-sở-trụ. Biết thân của tất cả chúng-sanh đều tức là phi-thân,
không đi không đến. Được không đoạn diệt vô-sai-biệt thần-thông tự-tại. Không
y-tựa không tạo-tác không động chuyển, đến nơi biên-tế rốt ráo của pháp-giới.
Nầy
Phổ-Nhăn ! Nếu ai được thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát, nếu được hầu hạ, nếu được nghe
danh, nếu có tư-duy, nếu có tưởng nhớ, nếu sanh tín-giải, nếu siêng quán-sát,
nếu mới xu-hướng, nếu đương t́m cầu, nếu phát thệ nguyện tiếp nối không dứt
thời đều được lợi ích không luống uổng.
Bấy
giờ Phổ-Nhăn và chúng Bồ-Tát đối với Phổ-Hiền Bồ-Tát sanh ḷng khát ngưỡntg
trông mong được thấy, đồng xướng lên rằng : " Nam-mô nhứt-thiết chư Phật !
Nam-mô Phổ-Hiền Bồ-Tát".
Xướng
ba lần như thế xong, chúng Bồ-Tát và Phổ-Nhăn đồng cúi đầu đảnh lễ.
Phật
bảo Phổ-Nhăn Bồ-Tát và đại-chúng: "Chư Phật-tử ! Các ngươi lại phải kính
lễ Phổ-Hiền Bồ-Tát ân-cần cầu thỉnh. Rồi phải chuyên tâm quan-sát mười phương,
tưởng thân Phổ-Hiền hiện ở trước ḿnh. Suy gẫm như vậy khắp cả pháp-giới,
thâm-tâm tín-giải, nhàm ĺa tất cả, thệ đồng một hạnh-nguyện với Phổ-Hiền
Bồ-Tát vào nơi pháp chơn-thiệt bất-nhị, thân ḿnh hiện khắp tất cả thế-gian,
biết rơ các căn-tánh sai biệt của chúng-sanh, khắp mọi nơi tập họp đạo
Phổ-Hiền.
Nếu
các ngươi có thể phát đại-nguyện như vậy thời sẽ được thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Nghe
Phật dạy xong, Phổ-Nhăn Bồ-tát và đại-chúng đồng thời đảnh lễ cầu thỉnh được
thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Bấy
giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát liền dùng sức giải-thoát thần-thông theo chỗ đáng hiện mà
hiện sắc-thân, làm cho tất cả chúng Bồ-Tát đều thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát ngồi trên
ṭa liên-hoa gần đức Như-Lai. Cũng thấy nơi tất cả thế-giới khác, chỗ tất cả
chư Phật, Phổ-Hiền Bồ-Tát tuần tự nối tiếp mà đến. Cũng thấy nơi tất cả chư
Phật kia diễn thuyết tất cả hạnh bồ-tát khai-thị đạo nhứt-thiết-chủng-trí xiển
minh tất cả thần-thông của Bồ-Tát, phân-biệt tất cả oai-đức của Bồ-Tát thị-hiện
tất cả tam-thế chư Phật.
Bấy
giờ Phổ-Nhăn và chúng Bồ-Tát thấy thần-biến nầy, ḷng hớn-hở và rất vui mừng,
đều đảnh lễ Phổ-Hiền Bồ-Tát tôn trọng xem như tất cả chư Phật mười phương.
Do
thần-lực của Phật và do sức tín-giải của chúng Bồ-Tát cùng với sức bổn-nguyện
của Phổ-Hiền Bồ-Tát tự nhiên kết tụ mười ngàn thứ mây báu : những mây hoa, mây
tràng-hoa, mây hương, mây hương bột, mây lọng, mây y-phục, mây đồ trang-nghiêm,
mây trân bửu, mây hương đốt, mây lụa màụ
Bất-khả-thuyết
thế-giới chấn động sáu cách, trổi các thứ nhạc trời, tiếng vang xa đến
bất-khả-thuyết thế-giới. Phóng quang-minh chiếu khắp bất-khả-thuyết thế-giới
làm cho ba ác đạo đều được thoát khổ. Nghiêm tịnh bất-khả-thuyết thế-giới làm
cho bất-khả-thuyết Bồ-Tát nhập hạnh Phổ-Hiền, bất-khả-thuyết Bồ-Tát viên-măn
hạnh nguyện Phổ-Hiền thành bực vô-thượng chánh-giác.
Phổ-Nhăn
Bồ-Tát thưa : " Bạch đức Thế-Tôn ! Phổ-Hiền Bồ-Tát là bực trụ nơi oai-đức
lớn, trụ nơi vô-đẳng, trụ nơi vô-quá, trụ nơi bất-thối, trụ nơi b́nh-đẳng, trụ
nơi bất-hoại, trụ nơi tất cả pháp sai-biệt, trụ nơi tất cả pháp vô-sai-biệt,
trụ nơi tất cả chúng-sanh tâm thiện-xảo an-trụ, trụ nơi tất cả pháp tự-tại
giải-thoát tam-muội.
Phật
nói : " Đúng thế ! Đúng thế ! Như lời ngươi đă nói. Phổ-Hiền Bồ-Tát có
vô-số công-đức thanh-tịnh. Những là vô-đẳng trang-nghiêm công-đức, vô-lượng bửu
công-đức, bất-tư-ngh́-hải công-đức, vô-lượng-tướng công-đức, vô-biên-vân
công-đức, vô-biên-tế bất-khả-xưng-tán công-đức, vô-tận-pháp công-đức,
bất-khả-thuyết công-đức, nhứt-thiết Phật công-đức, xưng-dương tán-thán
bất-khả-tận công-đức.
Phật
bảo Phổ-Hiền Bồ-Tát rằng: " Phổ-Hiền ! Ngươi nên v́ Phổ-Nhăn và chúng
Bồ-Tát trong đại-hội mà nói mười đại tam-muội, cho họ được khéo nhập và thành
tựu viên-măn hạnh nguyện của Phổ-Hiền.
V́
chư đại Bồ-Tát nói mười đại tam-muội nầy khiến quá-khứ Bồ-Tát đă được xuất-ly,
hiện-tại Bồ-Tát đương được xuất-ly, vị-lai Bồ-Tát sẽ được xuất-ly.
Đây
là mười : một là phổ-quang đại tam-muội, hai là diệu-quang đại tam-muội, ba là
thứ-đệ-biến-văng-chư-Phật-quốc-độ đại tam-muội, bốn là thanh-tịnh-thâm-tâm-hành
đại tam-muội, năm là tri-quá-khứ-trang-nghiêm-tạng đại tam-muội, sáu là
trí-quang-minh-tạng đại tam-muội, bảy là nhiễu-tri-nhứt-thiết-thế-giới Phật
trang-nghiêm đại tam-muội, tám là chúng-sanh sai-biệt-thân đại tam-muội, chín
là pháp-giới tự-tại đại tam-muội, mười là vô-ngại-luân đại tam-muội.
Chư
đại Bồ-Tát mới có thể khéo nhập mười đại tam-muội nầy. Tam thế chư Phật đă nói,
sẽ nói và nay đương nói. Nếu chư Bồ-Tát mến thích tôn trọng tu tập mười đại
tam-muội nầy không trễ-nải, thời được thành-tựu. Những bực nầy gọi là Phật, là
Như-Lai, cũng gọi là đấng được mười trí-lực, là đấng Đạo-Sư, đấng Đại-Đạo-Sư,
là Nhứt-Thiết-Trí, là Nhứt-Thiết-Kiến, là Trụ-Vô-Ngại, là Đạt-Chư-Cảnh, là
Nhứt-Thiết-Pháp Tự-Tại. "
Bực
Bồ-Tát nầy vào khắp tất cả thế-giới mà không chấp trước thế-giới, vào khắp tất
cả chúng-sanh-giới mà không thấy tướng chúng-sanh, vào khắp tất cả thân mà nơi
thân được vô-ngại, vào khắp tất cả pháp-giới, mà biết pháp-giới là vô-biên,
gần-gũi tất cả tam-thế chư Phật, thấy rơ tất cả pháp của chư Phật, khéo nói tất
cả văn-tự, thấu rơ tất cả giả danh, thành-tựu đạo thanh-tịnh của tất cả Bồ-Tát,
an-trụ tất cả hạnh sai-biệt của Bồ-Tát, trong một niệm được khắp tất cả pháp
tam-thế, nói khắp tất cả giáo-pháp của chư Phật, chuyển khắp tất cả pháp-luân
bất-thối, nơi quá-khứ, vị-lai, hiện-tại mỗi mỗi đời chứng khắp tất cả đạo
bồ-đề, nơi trong mỗi mỗi bồ-đề nầy rơ khắp chỗ thuyết pháp của tất cả Phật.
Trên
đây là môn pháp-tướng của chư Bồ-Tát, là môn trí-giác của chư Bồ-Tát, là môn
nhứt-thiết-chủng-trí vô-thắng-tràng, là môn các hạnh-nguyện của Phổ-Hiền Bồ-Tát,
là môn mănh-lợi thần-thông thệ-nguyện, là môn nhứt-thiết tổng-tŕ biện-tài, là
môn tam-thế chư-pháp sai-biệt, là môn nhứt-thiết chư Phật thị-hiện, là môn dùng
nhứt-thiết-trí an lập tất cả chúng-sanh, là môn dùng Phật thần-lực nghiêm-tịnh
tất cả thế-giới.
Nếu
Bồ-Tát nhập đại tam-muội nầy được pháp-giới-lực vô-cùng-tận, được hư-không-hạnh
vô-ngại, được Pháp-Vương-Vị vô-lượng tự-tại như ngôi quán-đảnh thọ chức của
thế-gian, được vô-biên-trí thông đạt tất cả, được quảng-đại-lực viên-măn mười
thứ, thành tâm vô-tránh nhập tịch-diệt-tế, đại-bi vô-úy dường như sư-tử, là
trượng-phu trí-huệ thắp đèn chánh-pháp sáng, khen không thể hết tất cả
công-đức, hàng Thanh-Văn Duyên-Giác chẳng nghĩ bàn đến được.
Bồ-Tát
nầy được Pháp-giới-trí, trụ vô-động-tế mà hay tùy khai diễn các pháp. Trụ nơi
vô-tướng khéo vào pháp tướng. Được tự-tánh thanh-tịnh-tạng sanh nhà Như-Lai
thanh-tịnh, khéo mở các pháp-môn sai-biệt mà dùng trí-huệ rơ vô-sở hữu. Khéo
biết thời tiết để thường thật hành pháp-thí khai ngộ tất cả, gọi là Trí-Giả. Nhiếp
khắp chúng-sanh đều làm cho thanh-tịnh. Dùng trí phương-tiện thị-hiện thành
phật-đạo mà thường tu hành hạnh Bồ-Tát không cùng tận. Nhập cảnh giới
nhứt-thiết-trí phương-tiện thị-hiện các môn thần-thông quảng-đại.
V́
thế nên nầy Phổ-Hiền ! Nay ngươi phải nên phân-biệt nói rộng mười đại tam-muội
của tất cả Bồ-Tát. Nay chúng-hội nầy đều mong được nghe ".
Bấy
giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát thừa ư-chí của Như-Lai, quán sát Phổ-Nhăn và chúng Bồ-Tát
mà nói rằng :
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nầy có mười pháp-môn vô-tận.
Đây
là mười : một là chư Phật xuất-hiện trí vô-tận, hai là chúng-sanh biến-hóa trí
vô-tận, ba là thế-giới như ảnh trí vô-tận, bốn là thâm nhập pháp-giới trí
vô-tận, năm là thiện nhiếp bồ-tát trí vô-tận, sáu là Bồ-Tát bất thối trí
vô-tận, bảy là thiện quán nhứt-thiết pháp-nghĩa trí vô-tận, tám là thiện tŕ
tâm-lực trí vô-tận, chín là trụ quảng đại bồ-đề tâm trí vô-tận, mười là trụ
nhứt-thiết phật-pháp nhứt-thiết-trí nguyện-lực trí vô-tận.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nầy phát mười môn vô-biên-tâm.
Đây
là mười : một là phát tâm vô-biên độ thoát tất cả chúng-sanh, hai là phát tâm
vô-biên thừa sự tất cả chư Phật, ba là phát tâm vô-biên cúng-dường tất cả chư
Phật, bốn là phát tâm vô-biên thấy khắp tất cả chư Phật, năm là phát tâm
vô-biên thọ-tŕ tất cả phật-pháp chẳng quyên mất, sáu là phát tâm vô-biên
thị-hiện vô-lượng thần-biến của tất cả chư Phật, bảy là phát tâm vô-biên v́
được phật-lực nên chẳng bỏ tất cả bồ-đề hạnh, tám là phát tâm vô-biên nhập khắp
cảnh-giới vi-tế của nhứt-thiết-trí diễn thuyết tất cả phật-pháp, chín là phát
tâm vô-biên nhập khắp cảnh giới quảng đại bất-tư-ngh́ của Phật, mười là phát
tâm vô-biên ham thích biện-tài của Phật và lănh thọ các phật-pháp, thị-hiện
những thân tự-tại vào trong chúng-hội đạo-tràng của tất cả Như-Lai, mười là
phát tâm vô-biên ham thích biện-tài của Phật và lănh thọ các phật-pháp,
thị-hiện những thân tự-tại vào trong chúng-hội đạo-tràng của tất cả Như-Lai.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nầy có mười môn nhập tam-muội sai-biệt-trí.
Đây
là mười : một là đông-phương nhập định tây-phương khởi, hai là tây-phương nhập
định đông-phương khởi, ba là nam-phương nhập định bắc-phương khởi, bốn là
bắc-phương nhập định đông-phương khởi, năm là đông-bắc-phương nhập định
tây-nam-phương khởi, sáu là tây-nam-phương nhập định đông-bắc-phương khởi, bảy là
tây-bắc-phương nhập định đông-nam-phương khởi, tám là đông-nam-phương nhập định
tây-bắc-phương khởi, chín là hạ-phương nhập định thượng-phương khởi, mười là
thượng-phương nhập định hạ-phương khởi.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nầy có mười môn trí thiện-xảo nhập đại tam-muội.
Đây
là trí thiện-xảo nhập phổ-quang-minh đại tam-muội thứ nhứt của đại Bồ-Tát :
Đại
Bồ-Tát lấy Đaị-Thiên thế-giới làm một liên-hoa, hiện thân ngồi kiết-già khắp
trên liên-hoa nầy. Trong thân lại hiện đại-thiên thế-giới, trong đó có trăm ức tứ
thiên-hạ, mỗi mỗi tứ thiên-hạ hiện trăm ức thân, mỗi mỗi thân nhập trăm ức trăm
ức Đại-Thiên thế-giới. Nơi thế-giới nầy, mỗi mỗi tứ thiên-hạ hiện trăm ức
Bồ-Tát tu hành. Mỗi mỗi Bồ-Tát tu hành phát sanh trăm ức trăm ức thắng-giải
quyết-định. Mỗi mỗi quyết-định-giải làm cho trăm ức trăm ức căn-tánh viên-măn.
Mỗi mỗi căn tánh thành-tựu trăm ức trăm ức pháp hạnh bất-thối của Bồ-Tát.
Những
thân đă thị-hiện đây chẳng phải một, chẳng phải nhiều. Nhập định và xuất định
không bị lầm loạn.
Chư
Phật-tử ! Như Lai-Hầu A-Tu-La Vương, bổn-thân cao bảy trăm do-tuần, hóa h́nh
cao mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, đứng giữa đại-hải lộ nửa thân cao ngang đỉnh
núi Tu-Di. Dầu hóa thân cao mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, nhưng bổn thân của
A-Tu-La Vương vẫn không hư hoại, các uẩn xừ giới đều như cũ, tâm không lầm
loạn, nơi thân biến-hóa không nghĩ là thân khác, cũng không nghĩ bổn-thân là
chẳng phải ḿnh. Bổn thân luôn hưởng thọ các sự vui, mà thân biến-hóa thường
hiện các thứ tự-tại thần-thông oai-lực.
Chư
Phật-tử ! A-Tu-La Vương có tham sân si, c̣n đủ tánh kiêu-mạn c̣n có thể biến
hiện thân ḿnh như vậy, huống là đại Bồ-Tát đă thân liễu đạt tâm pháp như
huyễn, thế-gian đều như mộng, chư Phật xuất thế đều như bóng h́nh, tất cả
thế-giới dường như biến-hóa, ngôn ngữ âm thanh đều như vang, đă thấy pháp
chơn-thiệt, dùng pháp như-thiệt làm thân ḿnh, biết tất cả pháp bổn-tánh
thanh-tịnh, rơ biết thân tâm không có thiệt thể, thân ḿnh ở khắp vô-lượng
cảnh-giới, dùng Phật-trí quang-minh quảng đại để tịnh tu tất cả hạnh bồ-đề.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát trụ trong tam-muội nầy vượt quá thế-gian, xa ĺa thế-gian.
Không bị mê loạn, không ai che chướng được.
Chư
Phật-tử ! Như Tỳ-Kheo quán-sát thân ḿnh trụ nơi quán bất-tịnh, thấy kỹ thân
ḿnh đều là bất-tịnh.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy quán sát pháp-thân thấy các thế-gian vào khắp
trong thân ḿnh, trong đó thấy rơ tất cả thế-gian và pháp thế-gian mà trọn
không chấp trước. Trên đây là trí thiện-xảo nhập phổ-quang-minh tam-muội thứ
nhứt.
Đây
là diệu-quang-minh đại tam-muội thứ hai của đại Bồ-Tát :
Đại
Bồ-Tát nầy có thể nhập Đại-Thiên thế-giới vi-trần-số Đại-Thiên thế-giới. Nơi
mỗi mỗi thế-giới hiện Đại-Thiên thế-giới vi-trần-số thân. Mỗi mỗi thân phóng
Đại-Thiên thế-giới vi-trần-số quang-minh. Mỗi mỗi quang-minh hiện Đại-Thiên
thế-giới vi-trần số màu sắc. Mỗi mỗi màu sắc chiếu Đại-Thiên thê-giới
vi-trần-số thế-giới. Trong mỗi mỗi thế-giới điều-phục Đại-Thiên thế-giới
vi-trần-số chúng-sanh.
Những
thế-giới nầy nhiều loại chẳng đồng, Bồ-Tát điều biết rơ, đều nhập trong đó.
Những thế-giới đó cũng đều đến nhập nơi thân của Bồ-Tát, dầu vậy nhưng những
thế-giới đó vẫn không tạp loạn, các pháp cũng chẳng hoại diệt.
Chư
Phật-tử ! Ví như mặt nhựt mọc lên chiếu núi Tu-Di, chiếu bảy Bửu-Sơn. Bảy
Bửu-Sơn và khoảng giữa Bửu-Sơn đều có quang ảnh hiển-hiện rơ ràng. Bóng mặt
nhựt trên Bửu-Sơn đều hiển-hiện trong bóng giữa khoảng Bửu-Sơn. Bóng mặt nhựt
giữa khoảng bảy Bửu-Sơn cũng đều hiển-hiện trong bóng mặt nhựt trên Bửu-Sơn.
Xoay vần hiện bóng lẫn nhau như vậỵ
Có
người nói bóng mặt nhựt hiện ra nơi bảy Bửu-Sơn, có người nói bóng mặt nhựt
hiện ra nơi khoảng giữa bảy Bửu-Sơn. Có người nói bóng mặt nhựt nhập vào bảy
Bửu-Sơn, có người nói bóng mặt nhựt nhập vào khoảng giữa bảy Bửu-Sơn. Nhưng
bóng mặt nhựt nầy chiếu hiện lẫn nhau không có ngằn mé, thể-tánh chẳng phải có
cũng lại chẳng phải không. Chẳng ở nơi Bửu-Sơn cũng chẳng rời Bửu-Sơn, chẳng
trụ nơi nước cũng chẳng rời nước.
Chư
Phật-tử ! Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi diệu-quang-minh đại tam-muội, chẳng hư
hoại tướng an lập của thế-gian, chẳng diệt mất tự-tánh các pháp thế-gian, chẳng
trụ trong thế-giới, chẳng trụ ngoài thế-giới. Đối với
Thế-giới
không chỗ phân-biệt, cũng chẳng hư hoại tướng thế-giới. Quán tất cả pháp nhứt
tướng vô-tướng cũng chẳng hư hoại tự-tánh các pháp. Trụ luôn nơi tánh chơn-như
chẳng hề bỏ rời.
Chư
Phật-tử ! Ví như nhà huyễn-thuật, biết giỏi về huyễn-thuật làm các sự huyễn nơi
ngă tư đường, trong một ngày hay khoảng giây lát, hoặc hiện một ngày, hoặc hiện
một đêm, hoặc hiện làm bảy ngày, bảy đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, trăm
năm. Tùy theo ư muốn, nhà huyễn-thuận nầy hiện ra thành ấp, xóm, làng, suối,
ao, sông, biển, mặt nhựt, mặt nguyệt, mây, mưa, cung điện, nhà cửa.
Chẳng
v́ huyễn hiện trải qua cả tháng cả năm mà hư hoại một ngày hay một giờ căn-bổn.
Cũng chẳng v́ thời-gian căn-bổn ngắn ngủi mà hư hoại năm tháng huyễn hiện.
Tướng huyễn hiện rơ , ngày giờ căn-bổn không mất.
Cũng
vậy, Đại Bồ-Tát nhập diệu-quang-minh đại tam-muội nầy hiện vô-số thế-giới vào
một thế-giới. Vô-số thế-giới đó, mỗi mỗi thế-giới đều có đất, nước, gió, lửa, đại-hải,
các núi, thành ấp, vườn rừng, nhà cửa, thiên-cung, long-cung, bát bộ cung-điện,
đủ cả mọi sự trang-nghiêm. Cũng có ba cơi : cơi dục, cơi sắc, cơi vô-sắc,
Tiểu-Thiên thế-giới, Đại-Thiên thế-giới, nghiệp-hành quả-báo, chết đây sanh
kia, tất cả thời-tiết của thế-gian : giờ, phút, ngày, đêm, tháng, năm, kiếp
thành, kiếp hoại, cơi nước thanh-tịnh, chúng Bồ-Tát chầu chực thần-thông
tự-tại, giáo-hóa chúng-sanh. Khắp nơi trong các cơi nước đó có vô-lượng
nhơn-chúng khác loài khác tướng, vô-lượng vô-biên chẳng thể nghĩ bàn.
Nghiệp-lực thanh-tịnh thuở quá khứ vị-lai hiện-tại xuất sanh vô-lượng trân-bửu
thượng-diệu. Những việc như trên đều thị hiện đủ cả vào nơi một thế-giới.
Đại
Bồ-Tát ở nơi đây đều thấy rơ khắp cả ; vào khắp, xem khắp, nghĩ khắp, rơ khắp.
Dùng trí vô-tận đều biết như thiệt. Chẳng v́ những thế-giới kia nhiều mà
hư-hoại một thế-giới nầy. Chẳng v́ một thế-giới nầy mà hư-hoại nhiều thế-giới
kia.
Tại
sao vậy ? V́ Bồ-Tát biết tất cả pháp đều là vô-ngă. Đây gọi là nhập
vô-mạng-pháp vô-tác-pháp.
V́
Bồ-Tát nơi tất cả thế-gian siêng tu hành pháp vô-tránh nên gọi là bực an-trụ
pháp vô-ngă.
V́
Bồ-Tát như thiệt thấy tất cả thân đều từ duyên khởi nên gọi là bực an-trụ pháp
vô-chúng-sanh.
V́
Bồ-Tát biết tất cả pháp sanh diệt đều từ nhơn mà sanh nên gọi là bực an-trụ
pháp vô-bổ-đặc-dà-la.
V́
Bồ-Tát biết các pháp bổn-tánh b́nh-đẳng nên gọi là bực an-trụ pháp vô-ư-sanh
vô-ma-nạp-bà.
V́
Bồ-Tát biết các pháp bổn-tánh tịch-tịnh nên gọi là bực an-trụ pháp tịch-tịnh.
V́
Bồ-Tát biết các pháp nhứt tướng nên gọi là bực an-trụ pháp vô-phân-biệt.
V́
Bồ-Tát biết pháp-giới không có các thứ pháp sai biệt nên gọi là bực an-trụ pháp
bất-tư-ngh́.
V́
Bồ-Tát siêng tu tất cả phương-tiện giỏi điều phục chúng-sanh nên gọi là bực
an-trụ pháp đại-bi.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát có thể đem vô-số thế-giới nhập vào một thế-giới, biết
vô-số chúng-sanh nhiều loại khác nhau, thấy vô-số Bồ-Tát đều phát tâm, xem
vô-số chư Phật xuất hiện mọi nơi. Chư Phật đây diễn nói bao nhiêu chánh-pháp,
các Bồ-Tát đây đều lănh thọ cả. Cũng thấy thân ḿnh tu hành trong các đạo-tràng
đó.
Dầu
vậy, nhưng chẳng bỏ nơi đây mà thấy chỗ kia, cũng chẳng bỏ chỗ kia mà thấy tại
đây. Thân kia, thân đây không có sai biệt, v́ nhập pháp-giới vậy.
Thường
siêng quán-sát không thôi nghĩ chẳng bỏ rời trí-huệ, v́ chẳng thối chuyển vậy.
Như
là huyễn-thuật ở một nơi nào đó hiện các sự huyễn, chẳng v́ nơi hiện huyễn-sự
mà hư hoại bổn-xứ, chẳng v́ thời-gian huyễn mà hư hoại ngày giờ căn-bổn.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát nơi không có quốc-độ hiện ra quốc-độ. Nơi có quốc-độ hiện không
quốc-độ. Nơi có chúng-sanh hiện không chúng-sanh, nơi không chúng-sanh hiện có
chúng-sanh. Không sắc hiện có sắc, có sắc hiện không sắc. Trước chẳng làm loạn
sau, sau chẳng làm loạn trước.
Đại
Bồ-Tát biết tất cả pháp thế-gian đều đồng như huyễn hóa. V́ biết pháp huyễn nên
biết trí huyễn. V́ biết trí huyễn nên biết nghiệp huyễn.
Đă
biết trí huyễn và nghiệp huyễn nên khởi huyễn-trí xem tất cả nghiệp như là
huyễn-thuật thế-gian. Chẳng xứ mà hiện huyễn, cũng ở ngoài bổn chẳng ở ngoài
huyễn mà có bổn-xứ.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát chẳng ở ngoài hư không mà nhập thế-gian, cũng chẳng ở ngoài
thế-gian mà nhập hư-không. Tại sao vậy ? V́ hư không và thế-gian không sai
biệt, trụ nơi thế-gian cũng trụ nơi hư-không.
Đại
Bồ-Tát ở trong hư-không hay thấy hay tu tất cả công nghiệp sai biệt diệu
trang-nghiêm của thế-gian. Khoảng một niệm đều rơ biết được vô-số thế-giới hoặc
thành hoặc hoại, cũng biết các kiếp tuần-tự nối tiếp. Trong khoảng một niện
hiện vô-số kiếp, nhưng cũng chẳng làm cho một niệm đó rộng lớn ra.
Đại
Bồ-Tát được huyễn-trí giải-thoát bất-tư-ngh́, đến nơi bỉ ngạn, trụ nơi
huyễn-tế, nhập ở huyễn số thế-gian, tư-duy các pháp thảy đều như huyễn, chẳng
trái huyễn thế, cùng tận nơi huyễn-trí, rơ biết tam-thế cùng huyễn không khác,
thông đạt quyết định, tâm không ngằn mé.
Như
chư Như-Lai trụ trí như huyễn, tâm Phật b́nh-đẳng. Cũng vậy, đại Bồ-Tát biết
các thế-gian thảy đều như huyền, với tất cả chỗ đều không chấp trước, không có
ngă sở.
Như
là huyễn-thuật hiện các sự huyễn, dầu chẳng đồng ở với các huyễn-sự đó, nhưng
vẫn không mê lầm đối với các huyễn-sự.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát, biết tất cả pháp đến rốt ráo bỉ-ngạn, tâm chẳng chấp ngă hay
nhập nơi pháp, cũng chẳng lầm loạn nơi các pháp.
Trên
đây là trí thiện-xảo diệu-quang-minh đại tam-muội thứ hai của đại Bồ-Tát.
(1)
Chư Phật-tử ! Thế nào là thứ-đệ biến văng chư Phật quốc-độ thần-thông đại
tam-muội của đại Bồ-Tát ?
Đại
Bồ-Tát này qua vô-số thế-giới phương đông, lại qua vô-số thế-giới vi-trần-số
thế-giới, nơi các thế-giới đó nhập tam-muội nầy. Hoặc sát-na nhập, hoặc giây
lát nhập, hoặc nối tiếp nhập. Hoặc sáng, hoặc trưa, hoặc chiều nhập. Hoặc đầu
hôm, giữa đêm, hoặc cuối đêm nhập. Hoặc nhập một ngày, hoặc năm ngày, hoặc nửa
tháng, một tháng. Hoặc nhập một năm, trăm năm, ngàn năm. Hoặc nhập trăm ngàn
năm, ức năm, trăm ngàn ức năm, trăm ngàn na-do-tha ức năm. Hoặc nhập một kiếp,
trăm kiếp, trăm ngàn kiếp, trăm ngàn na-do-tha ức kiếp. Hoặc nhập vô số kiếp,
vô lượng kiếp, vô biên kiếp, vô đẳng kiếp. Hoặc nhập bất-khả-sổ kiếp,
bất-khả-xưng kiếp, bất-khả-tư kiếp, bất-khả-lượng kiếp, bất-khả-thuyết kiếp,
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp. Hoặc lâu, hoặc gần, hoặc pháp, hoặc
thời-gian các loại chẳng đồng.
Với
những sự trên đây, Bồ-Tát chẳng sanh ḷng phân-biệt, chẳng nhiễm trước, chẳng
cho là khác, chẳng cho là không khác, chẳng cho là khắp, chẳng cho là riêng.
Dầu
ĺa sự phân-biệt, mnà Bồ-Tát dùng thần-thông phương-tiện từ tam-muội khởi, với
các pháp chẳng quên chẳng mất, đến nơi rốt ráo.
Ví
như mặt nhựt đi ṿng soi sáng, ngày đêm không dừng. Mặt nhựt mọc gọi là ngày,
mặt nhựt lặn gọi là đêm. Ban ngày mặt nhựt chẳng sanh, ban đêm mặt nhựt cũng
chẳng mất.
Đại
Bồ-Tát nơi vô-số thế-giới nhập thần-thông tam-muội. Đă nhập tam-muội, thấy rơ
ngần ấy vô-số thế-giới cũng như vậy.
Trên
đây là trí thiện-xảo thứ-đệ biến-văng chư Phật quốc-độ thần-thông đại tam-muội
thứ ba của đại Bồ-Tát.
Chư
Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát thanh-tịnh thân-tâm-hành đại tam-muội ?
Đại
Bồ-Tát nầy biết số thân chư Phật đồng với số chúng-sanh. Thấy vô-lượng Phật hơn
số vi-trần trong vô-số thế-giới, Bồ-Tát đem các thứ hương, hoa, lọng, châu báu,
đồ trang-nghiêm, ma-ni-bửu-tạng, nhẫn đến tứ-sự, tất cả đều thượng-diệu quảng
đại hơn hẳn của các cơi trời để cúng-dường mỗi đức Phật.
Đối
với mỗi đức Phật, Bồ-Tát cung-kính tôn-trọng cúi đầu đảnh lễ thưa thỉnh
phật-pháp, khen Phật b́nh-đẳng, ca ngợi công-đức quảng-đại của chư Phật. Nhập
vào đại-bi của chư Phật, được sức vô-ngại b́nh-đẳng của chư Phật. Khoảng một
niệm, cần cầu diệu-pháp khắp tất cả Phật. Nhưng với những tướng chư Phật xuất
thế nhập diệt, đều vô-sở-đắc.
Như
tâm tán-động liễu-biệt cảnh sở-duyên, tâm khởi, chẳng biết sở-duyên nào khởi,
tâm diệt, chẳng biết sở-duyên nào diệt.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát nầy trọn chẳng phân-biệt tướng xuất thế cùng nhập niết-bàn của
Như-Lai.
Chư
Phật-tử ! Như dương-diệm giữa ngày, chẳng phải từ mây sanh, chẳng phải từ ao
sanh, chẳng ở trên đất, chẳng ở dưới nước, chẳng phải có chẳng phải không,
chẳng phải thiện chẳng phải ác, chẳng phải trong chẳng phải đục, chẳng dùng
uống rửa được, chẳng làm ô-uế được, chẳng phải có thể chất chẳng phải không thể
chất, chẳng phải có vị chẳng phải không vị. Do v́ nhơn duyên mà hiện tướng
nước. Do thức phân biệt trông xa tợ nước mà sanh tưởng là nước, đến gần thời
không có, tưởng nước tự mất.
Đại
Bồ-Tát đây cũng như vậy. Tướng Như-Lai xuất-thế và niết-bàn đều bất-khả-đắc.
Chư Phật có tướng hay không tướng đều là tâm tưởng phân biệt.
Chư
Phật-tử ! Tam-muội nầy gọi là thanh-tịnh thâm-tâm-hành. Đại Bồ-Tát ở nơi
tam-muội nầy nhập rồi mà khởi, sau khi khởi chẳng mất.
Ví
như có người từ giấc ngủ thức dậy nhớ sự chiêm-bao. Lúc thức dầu nhớ sự
chiêm-bao. Lúc thức dầu không có cảnh-giới chiêm-bao nhưng vẫn có thể ghi nhớ
chẳng quên.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát nhập tam-muội thấy Phật nghe pháp, sau khi xuất định ghi nhớ
chẳng quên, rồi đem pháp đă được nghe giảng dạy lại tất cả chúng-hội trong
đạo-tràng, trang-nghiêm tất cả quốc-độ chư Phật, vô lượng nghĩa thú đều được
sáng suốt, tất cả pháp môn cũng đều thanh-tịnh, thắp đuốc đại-trí, làm lớn
giống Phật, đầy đủ vô-úy, biện-tài chẳng cạn, khai thị diễn thuyết pháp-tạng
thậm-thâm.
Trên
đây là trí thiện-xảo thanh-tịnh thâm-tâm-hạnh đại tam-muội thứ tư của đại
Bồ-Tát.
Chư
Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát tri quá-khứ trang-nghiêm tạng tam-muội ?
Đại
Bồ-Tát nầy biết được quá-khứ chư Phật xuất hiện. Những là các cơi thứ đệ trong
kiếp thứ đệ, các kiếp thứ đệ trong cơi thứ đệ, chư Phật xuất hiện thứ đệ trong
kiếp thứ đệ, thuyết-pháp thứ đệ trong chư Phật xuất hiện thứ đệ, các tâm nguyện
thứ đệ trong thuyết pháp thứ đệ, các căn tánh thứ đệ trong tâm nguyện thứ đệ,
điều-phục thứ đệ trong căn tánh thứ đệ, chư Phật thọ-mạng thứ đệ trong điều
phục thứ đệ, biết ức na-do-tha số lượng năm tuổi thứ đệ trong thọ-mạng thứ đệ.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nầy v́ được vô-biên thứ-đệ trí như vậy nên biết quá-khứ
chư Phật, nên biết quá-khứ các cơi, nên biết quá-khứ pháp-môn, nên biết quá-khứ
các kiếp, nên biết quá-khứ các pháp, nên biết quá-khứ các tâm, nên biết quá-khứ
các tri-giải, nên biết qúa khứ các chúng-sanh, nên biết quá-khứ các phiền-năo,
nên biết quá-khứ các nghi-thức, nên biết quá-khứ các thanh-tịnh.
Chư
Phật-tử ! Tam-muội nầy tên là quá khứ thanh-tịnh tạng. Trong một niệm có thể
nhập trăm kiếp, có thể nhập ngàn kiếp, có thể nhập trăm ngàn kiếp, có thể nhập
trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, có thể nhập vô-số kiếp, có thể nhập vô-lượng kiếp,
có thể nhập vô-biên kiếp, có thể nhập vô-đẳng kiếp, có thể nhập bất-khả-sổ
kiếp, có thể nhập bất-khả-xưng kiếp, có thể nhập bất-khả-tư kiếp, có thể nhập
bất-khả-lượng kiếp, có thể nhập bất-khả-thuyết kiếp, có thể nhập bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết kiếp.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nhập tam-muội nầy chẳng diệt hiện-tại, chẳng duyên
quá-khứ.
Đại
Bồ-Tát nầy từ tam-muội khởi, thọ nơi đức Như-Lai mười thứ pháp quán đảnh
bất-tư-ngh́, cũng được, cũng thanh-tịnh, cũnh thành-tựu, cũng nhập, cũng chứng,
cũng măn, cũng tŕ, b́nh-đẳng biết rơ ba luân thanh-tịnh.
Đây
là mười : một là biện thuyết chẳng trái nghĩa, hai là thuyết pháp vô-tận, ba là
huấn từ không lỗi, bốn là nhạo thuyết chẳng dứt, năm là tâm không khủng bố, sáu
là lời quyết thành thiệt, bảy là chúng-sanh y-tựa, tám là cứu thoát ba cơi,
chín là thiện-căn tối-thắng, mười là điều ngự diệu-pháp.
Trên
đây là mười pháp quán-đảnh. Nếu Bồ-Tát nhập tam-muội nầy, từ tam-muội xuất liền
được.
Như
ca-la-lă lúc nhập thai-tạng, trong một niệm thức liền thác sanh.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát từ tam-muội nầy xuất, trong một niệm thời được mười pháp nầy
nơi đức Như-Lai.
Trên
đây gọi là trí thiện-xảo biết quá-khứ trang-nghiêm-tạng đại tam-muội thứ năm
của đại Bồ-Tát.
Chư
Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát trí-quang-minh-tạng đại tam-muội ?
Đại
Bồ-Tát trụ tam-muội nầy có thể biết vị-lai chư Phật trong tất cả kiếp tất cả
thế-giới, hoặc đă nói hoặc chưa nói, hoặc đă thọ-kư hoặc chưa thọ-kư, các loại
danh hiệu chẳng đồng. Những là vô-số danh, vô-lượng danh, vô-biên danh, vô-đẳng
danh, bất-khả-sổ danh, bất-khả-xưng danh, bất-khả-tư danh, bất-khả-lượng danh,
bất-khả-thuyết danh. Sẽ xuất thế, sẽ độ sanh, sẽ làm Pháp- Vương, sẽ khởi
phật-sự, sẽ nói phước lợi, sẽ khen thiện-nghĩa, sẽ nói bạch-phần-nghĩa, sẽ trừ
sạch các điều ác, sẽ an-trụ công-đức, sẽ khai-thị đệ-nhất-nghĩa-đế, sẽ nhập
quán-đảnh-vị, sẽ thành nhứt-thiết-trí. Chư Phật đó tu hạnh viên-măn, phát
nguyện viên-măn, nhập viên-măn trí, có viên-măn chúng, đủ viên-măn
trang-nghiêm, họp viên-măn công-đức, ngộ viên-măn pháp, được viên-măn quả, đủ
viên-măn tướng, thành viên-măn giác. Chư Phật đó, danh tánh chủng-tộc,
phương-tiện thiện-xảo thần-thông biến-hóa, thành-thục chúng-sanh, nhập
niết-bàn, tất cả những điều như vậy, Bồ-Tát nầy biết rơ cả.
Trong
một niệm, Bồ-Tát nầy có thể nhập một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn
kiếp, trăm ngàn ức na-do-tha kiếp. Có thể nhập Diêm-Phù-Đề vi-trần số kiếp, tứ
thiên-hạ vi-trần số kiếp, tiểu-thiên thế-giới vi-trần-số kiếp, trung thiên
thế-giới vi-trần số kiếp, đại thiên thế-giới vi-trần số kiếp. Có thể nhập trăm
phật-sát vi-trần số kiếp, trăm ngàn phật-sát vi-trần số kiếp, trăm ngàn ức
na-do-tha phật-sát vi-trần số kiếp, vô-số phật-sát vi-trần số kiếp, vô-lượng
phật-sát vi-trần số kiếp, vô-biên phật-sát vi-trần số kiếp, vô-đẳng phật-sát
vi-trần số kiếp, bất-khả-sổ phật-sát vi-trần số kiếp, bất-khả-xưng phật-sát
vi-trần số kiếp, bất-khả-tư phật-sát vi-trần số kiếp, bất-khả-lượng phật-sát
vi-trần số kiếp, bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần số kiếp, nhẫn đến nhập
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát cực vi-trần số kiếp.
Vị-lai
tất cả thế-giới có ngần ấy kiếp số như vậy, Bồ-Tát nầy có thể dùng trí-huệ đều
biết rơ. V́ biết rơ nên tâm Bồ-Tát nầy lại nhập mười thứ tŕ-môn. Đây là mười :
V́
nhập Phật-tŕ nên được bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần số chư Phật hộ-niệm.
V́
nhập Pháp-tŕ nên được mười thứ đà-la-ni quang-minh vô-tận biện-tài.
V́
nhập Hạnh-tŕ nên xuất sanh các nguyện viên măn thù-thắng.
V́
nhập Lực-tŕ nên không ai che chướng được, không ai khuất phục được.
V́
nhập Trí-tŕ nên thật hành phật-pháp không có chướng ngại.
V́
nhập Đại-bi-tŕ nên chuyển pháp luân bất-thối thanh-tịnh.
V́
nhập Sai-biệt-thiện-xảo-cú-tŕ nên chuyển tất cả văn-tự-luân, tịnh tất cả
pháp-môn-địa.
V́
nhập Sư-tử-thọ-sanh-pháp-tŕ nên mở khóa cửa pháp, ra khỏi bùn lầy tham dục.
V́
nhập Trí-lực-tŕ nên tu hạnh Bồ-Tát thường chẳng thôi nghỉ.
V́
nhập Thiện hữu-lực-tŕ nên làm cho vô-biên chúng-sanh đều được thanh-tịnh.
V́
nhập Vô-trụ-lực-tŕ nên nhập bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết quảng đại kiếp.
V́
nhập Pháp-lực-tŕ nên dùng vô-ngại phương-tiện trí biết tất cả pháp tự-tánh
thanh-tịnh.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát đă trụ tam-muội nầy rồi thời khéo hay trụ bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết kiếp, khéo hay trụ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết cơi, khéo hay
biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết các loài chúng-sanh, khéo hay biết
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tướng khác nhau của chúng-sanh, khéo hay biết
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết nghiệp báo đồng dị, khéo hay biết bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết những căn tinh-tấn tập-khí tiếp nối các hạnh sai-biệt, khéo hay
biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết vô-lượng nhiễm tịnh các thứ tư-duy, khéo hay
biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết các loại pháp nghĩa vô-lượng văn-tự ngôn từ
diễn thuyết, khéo hay biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chư Phật xuất-thế
chủng tộc thời-tiết hiện tướng thuyết pháp thi vi phật-sự nhập niết-bàn, khéo
hay biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết vô-biên môn trí-huệ, khéo hay biết
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tất cả thần-thông vô-lượng biến hiện.
Chư
Phật-tử ! Ví như mặt nhựt mọc lên soi sáng thế-gian tất cả vật loại, như thành
ấp, cung-điện, nhà cửa, núi sông, chim thú, vườn rừng, bông trái vân vân, người
có mắt sáng thời đều thấy rơ cả. Ánh sáng mặt nhựt b́nh-đẳng không phân-biệt có
thể làm cho Bồ-Tát khéo biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết trăm ngàn ức
na-do-tha tướng sai khác.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nầy lúc rơ biết như vậy khiến chúng-sanh được mười thứ
bất-không. Đây là mười :
Một
là kiến bất-không, v́ làm cho chúng-sanh phát sanh thiện-căn.
Hai
là văn bất-không, v́ làm cho chúng-sanh được thành-thục.
Ba
là đồng-trụ bất-không, v́ làm cho chúng sanh tâm điều-phục.
Bốn
là phát khởi bất không, v́ làm cho chúng-sanh thật hành đúng như lời, thông đạt
tất cả pháp nghĩa.
Năm
là hạnh bất-không, v́ làm cho vô-biên thế-giới đều thanh-tịnh.
Sáu
là thân-cận bất-không, v́ ở chỗ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chư Phật dứt nghi
ngờ cho bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chúng-sanh.
Bảy
là chuyện bất-không, v́ theo sở niệm của chúng-sanh khiến làm việc cúng dường
thù-thắng thành-tựu các nguyện.
Tám
là thiện-xảo pháp bất-không v́ làm cho đều được trụ nơi trí thanh-tịnh
giải-thoát vô-ngại.
Chín
là mưa pháp-vũ bất-không, v́ nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết căn-tánh
chúng-sanh, phương-tiện khai-thị hạnh nhứt-thiết-trí khiến trụ phật-đạo.
Mười
là xuất hiện bất-không, v́ hiện vô-biên tướng, làm cho tất cả chúng-sanh đều
được soi sáng.
Chư
Phật-tử ! Lúc đại Bồ-Tát an trụ nơi tam-muội nầy được mười thứ bất-không, thời
chư Thiên-Vương đều đến đảnh lễ, chư Long-Vương nổi mây thơm lớn. chư
Dạ-Xoa-Vương đảnh lễ dưới chưn, chư A-Tu-La-Vương cung kính cúng-dường, chư
Ca-Lâu-La-Vương tôn trọng đứng quanh, chư Phạm-Thiên-Vương đều đến thỉnh cầu,
chư Càn-Thát-Bà-Vương thường đến chầu chực, chư Khẩn-Na-La-Vương và chư
Ma-Hầu-La-Dà Vương đều cùng ngợi khen, chư Nhơn-Vương kính thờ cúng-dường.
Trên
đây là trí thiện-xảo trí-quang-minh-tạng đại tam-muội thứ sáu của đại Bồ-Tát.
Chư
Phật-tử ! Thế nào là liễu-tri-nhứt-thiết thế-giới
Phật
trang-nghiêm tam-muội của đại Bồ-Tát ?
Sao
lại gọi tam-muội nầy là liễu-tri-nhứt-thiết thế-giới Phật trang-nghiêm ?
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát trụ trong tam-muội nầy, hay thứ-đệ nhập thế-giới phương
đông, hay thứ-đệ nhập thế-giới phương nam, phương tây, phương bắc, đông nam,
tây nam, tây bắc, đông bắc, thượng phương và hạ phương. Đều thấy chư Phật xuất
thế, cũng thấy tất cả thần-lực của đức Phật đó, cũng thấy những sự biến-hóa của
chư Phật, cũng thấy oai-đức rộng lớn của chư Phật, cũng thấy sự tối-thắng
tự-tại của chư Phật, cũng thấy chư Phật đại sư-tử-hống, cũng thấy những
công-hạnh đă tu của chư Phật, cũng thấy các loại trang-nghiêm của chư Phật,
cũng thấy chư Phật thần-thông biến-hóa, cũng thấy chúng-hội của chư Phật vân
tập, chúng-hội thanh-tịnh, chúng-hội quảng-đại, chúng-hội nhứt tướng, chúng-hội
nhiều tướng, chúng-hội xứ-sở, chúng-hội an ở, chúng-hội thành-thục, chúng-hội
điều phục, chúng-hội oai-đức. Tất cả những việc như vậy Bồ-Tát nầy đều thấy rơ.
Cũng thấy chúng-hội số lượng lớn nhỏ bằng Diêm-Phù-Đề, hoặc bằng tứ thiên-hạ,
hoặc bằng tiểu-thiên thế-giới, hoặc bằng trung-thiên thế-giới, hoặc bằng
đại-thiên thế-giới. Cũng thấy chúng-hội đầy khắp trăm ngàn ức na-do-tha cơi
Phật, hoặc đầy khắp vô-số cơi Phật, hoặc đầy khắp trăm phật-sát vi-trần-số cơi
Phật, hoặc đầy khắp ngàn Phật-sát vi-trần-số cơi Phật, hoặc đầy khắp trăm ngàn
ức na-do-tha Phật-sát vi-trần-số cơi Phật, hoặc đầy khắp vô-số phật-sát
vi-trần-số cơi Phật, hoặc đầy khắp vô-lượng phật-sát vi-trần-số cơi Phật, hoặc
đầy khắp vô-biên phật-sát vi-trần-số cơi Phật, hoặc đầy khắp vô-đẳng phật-sát
vi-trần-số cơi Phật, hoặc đầy khắp bất-khả-sổ phật-sát vi-trần-số cơi Phật,
hoặc đầy khắp bất-khả-xưng phật-sát vi-trần-số cơi Phật, hoặc đầy khắp
bất-khả-tư phật-sát vi-trần-số cơi Phật, hoặc đầy khắp bất-khả-lượng phật-sát
vi-trần-số cơi Phật, hoặc đầy khắp bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số cơi Phật,
nhẫn đến cũng thấy chúng-hội đầy khắp bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát
vi-trần-số cơi Phật. Cũng thấy chư Phật ở trong chúng-hội đạo-tràng kia
thị-hiện các loại tướng trạng, các loại thời gian, các loại quốc-độ, các loại
biến-hóa, các loại thần-thông, các loại trang-nghiêm, các loại tự-tại, các loại
h́nh lượng, các loại sự-nghiệp.
Đại
Bồ-Tát nầy cũng thấy tự-thân qua chúng-hội đó, thấy ḿnh thuyết-pháp, thấy ḿnh
lănh thọ lời Phật, cũng thấy ḿnh khéo biết duyên-khởi, cũng thấy thân ḿnh ở
giữa không-gian, cũng thấy thân ḿnh ở nơi pháp-thân, cũng thấy thân ḿnh chẳng
sanh nhiễm trước, cũng thấy thân ḿnh chẳng ở nơi phân-biệt, cũng thấy thân
ḿnh không mỏi nhọc, cũng thấy thân ḿnh vào khắp các trí, cũng thấy thân ḿnh
biết khắp các nghĩa, cũng thấy thân ḿnh vào khắp các địa, cũng thấy thân ḿnh
vào khắp các loài, cũng thấy thân ḿnh biết khắp phương-tiện, cũng thấy thân
ḿnh qua khắp trước Phật, cũng thấy thân ḿnh vào khắp các lực, cũng thấy thân
ḿnh vào khắp chơn-như, cũng thấy thân ḿnh vào khắp vô-tránh, cũng thấy thân
ḿnh vào khắp các pháp. Lúc thấy như vậy, Bồ-Tát nầy chẳng phân-biệt quốc-độ,
chẳng phân biệt chúng-sanh, chẳng phân biệt Phật, chẳng phân biệt pháp, chẳng
nhiễm trước thân và thân nghiệp, chẳng chấp trước tâm và ư.
Ví
như các pháp chẳng phân-biệt tự-tánh, chẳng phân-biệt âm-thanh, mà tự-tánh
chẳng bỏ, danh tự chẳng mất.
Đại
Bồ-Tát cũng vậy, chẳng bỏ công-hạnh, làm theo thế-gian, mà vẫn không chấp trước
nơi hai sự nầy.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát thấy Phật có vô-lượng ánh sáng màu sắc, vô-lượng h́nh
tướng, đều viên măn thành-tựu b́nh-đẳng thanh-tịnh, mỗi mỗi hiện-tiền chứng
biết phân minh.
Hoặc
thấy thân Phật nhiều ánh sáng hoặc thấy viên-quang một tầm, hoặc thấy sáng rực
như mặt nhựt, hoặc thấy quang sắc vi-diệu, hoặc thấy sắc thanh-tịnh, hoặc thấy
màu huỳnh-kim, hoặc thấy màu kim-cang, hoặc thấy màu xanh biếc, hoặc thấy
vô-biên màu sắc, nhẫn đế hoặc thấy thân Phật màu đại-thanh ma-ni-bửu.
Hoặc
thấy thân Phật cao bảy thước tay, hoặc tám thước tay, hoặc chín thước tay, hoặc
mười thước tay, hoặc hai mươi thước tay, ba mươi thước tay, một trăm thước tay,
một ngàn thước tay, hoặc thấy thân Phật cao một câu-lô-xá, nửa do-tuần, một
do-tuần, mười do-tuần, trăm do-tuần, ngàn do-tuần, trăm ngàn do-tuần, hoặc thấy
thân Phật bằng Diêm-Phù-Đề, tứ-thiên-hạ bằng tiểu-thiên thế-giới, bằng trung-
thiên thế-giới, bằng đại-thiên thế-giới, bằng trăm đại-thiên thế-giới, bằng
ngàn đại-thiên thế-giới, bằng vẫn chẳng giảm. Ở tại mặt nguyệt thấy là lớn,
cũng chẳng tăng.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy tùy nơi tâm nguyện thấy thân Phật các thứ
tướng hóa-hiện, ngôn từ thuyết pháp thọ-tŕ chẳng quên, mà thân Như-Lai chẳng
tăng chẳng giảm.
Ví
như chúng-sanh sau khi mạng chung lúc sắp thọ sanh chỗ thấy thanh-tịnh chẳng
rời nơi tâm.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát chẳng rời tam-muội thậm thâm nầy mà thấy thanh-tịnh.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy thành-tựu mười thứ pháp mau chóng : những
là mau thêm các hạnh viên-măn đại-nguyện, mau dùng pháp-quang chói sáng
thế-gian mau dùng phương-tiện chuyển-pháp-luân độ thoát chúng-sanh, mau tùy
theo nghiệp chúng-sanh thị-hiện quốc-độ thanh-tịnh của chư Phật, mau dùng trí
b́nh-đẳng thẳng vào thập-lực, mau cùng tất cả Như-Lai đồng trụ, mau dùng sức
đại-từ dẹp phá quân ma, mau dứt nghi cho chúng-sanh hoan-hỉ, mau tùy thắng-giải
thị-hiện thần-biến, mau dùng các thứ diệu pháp ngôn từ tịnh các thế-gian.
Đại
Bồ-Tát nầy lại được mười thứ pháp ấn, để ấn tất cả pháp : một là đồng thiện-căn
b́nh-đẳng với tam-thế chư Phật, hai là đồng được trí-huệ pháp-thân vô-biên-tế
với chư Phật, ba là đồng chư Như-Lai trụ pháp bất nhị, bốn là đồng chư Như-Lai
quan-sát tam-thế vô-lượng cảnh-giới thẩy đều b́nh-đẳng, năm là đồng chư Như-Lai
được liễu đạt pháp-giới vô-ngại cảnh-giới, sáu là đồng chư Như-Lai thành-tựu
thập-lực thật là vô-ngại, bảy là đồng chư Như-Lai tuyệt hẳn hai hạnh, trụ pháp
vô-tránh, tám là đồng chư Như-Lai giáo-hóa chúng-sanh hằng chẳng thôi nghỉ,
chín là đồng chư Như-Lai ở trong trí thiện-xảo nghĩa thiện-xảo hay khéo
quan-sát, mười là đồng chư Như-Lai cùng với tất cả Phật b́nh-đẳng không hai.
Chư
Phật-tử ! Nếu đại Bồ-Tát thành-tựu mười pháp-ấn nầy thời rơ biết môn
phương-tiện thiện-xảo tất cả thế-giới phật trang-nghiêm đại tam-muội. Là bực
vô-sư, v́ chẳng do người khác dạy mà tự nhập tất cả phật-pháp. Là bực
trượng-phu, v́ hay khai ngộ tất cả chúng sanh. Là bực thanh-tịnh v́ biết
tâm-tánh bổn-tịnh. Là bực đệ-nhứt v́ hay độ thoát-tất cả thế-gian. Là bực an-ủy
v́ hay khai hiểu tất cả chúng-sanh. Là bực an-trụ, v́ người chưa trụ
phật-chủng-tánh thời làm cho được trụ. Là bực chơn-thiệt-tri v́ nhập môn
mhứt-thiết-trí. Là bực vô-dị-tưởng v́ lời nói không hai. Là bực trụ pháp-tạng,
v́ thệ nguyện rơ biết tất cả phật-pháp. Là bực hay mưa pháp-vũ v́ tùy tâm
nguyện của chúng-sanh đều làm cho đầy đủ.
Chư
Phật-tử ! Ví như Đế-Thích, nơi búi tóc trên đầu để châu ma-ni, v́ bửu-châu nầy
mà oai-quang càng thạnh. Thiên-Đế lúc mới được bửu-châu nầy, thời được mười
pháp vượt hơn tất cả tam-thập-tam thiên : một là sắc tướng, hai là h́nh thể, ba
là thị-hiện, bốn là quyến-thuộc, năm là đồ dùng, sáu là âm-thanh, bảy là
thần-thông, tám là tự-tại, chín là huệ-giải, mười là trí-dụng.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát lúc mới được tam-muội nầy thời được mười môn trí-tạng quảng-đại
: một là trí chiếu sáng tất cả cơi Phật, hai là trí biết tất cả chúng-sanh thọ
sanh, ba là trí làm sự biến-hóa khắp tam-thế, bốn là trí vào khắp tất cả thân
Phật, năm là trí thông đạt tất cả phật-pháp, sáu là trí nhiếp khắp tất cả
tịnh-pháp, bảy là trí khiến khắp tất cả chúng-sanh nhập pháp-thân, tám là trí
hiện thấy tất cả pháp phổ-nhăn thanh-tịnh, chín là trí tất cả tự-tại đến
bỉ-ngạn, mười là trí an-trụ tất cả pháp quảng đại khắp hết không thừa.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy lại được mười thứ thân oai-đức rất
thanh-tịnh : một là v́ chiếu sáng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thế-giới mà
phóng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết vầng quang-minh, hai là v́ làm cho thế-giới
đều thanh-tịnh mà phóng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết vầng quang-ming vô-lượng
sắc-tướng, ba là v́ điều phục chúng-sanh mà phóng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
vầng quang-minh, bốn là v́ thân cận tất cả chư Phật mà hóa làm bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết thân, năm là v́ thừa sự cúng-dường tất cả chư Phật mà rưới
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết các thứ mây hoa hương thù-diệu, sáu là v́ thừa sự
cúng-dường tất cả chư Phật và điều phục tất cả chúng-sanh mà trong mỗi mỗi lỗ
chưn lông hóa làm bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết các thứ âm nhạc, bảy là v́
thành-thục chúng-sanh mà hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết vô-lượng các thứ
thần-biến tự-tại, tám là v́ nơi chỗ tất cả chư Phật mười phương cầu thỉnh
diệu-pháp mà một bước vượt qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thế-giới, chín là
v́ làm cho tất cả chúng-sanh, những ai nghe thấy đều chẳng luống uổng mà hiện
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết sắc-thân vô-lượng tướng thanh-tịnh không ai thấy
được đảnh, mười là v́ khai-thị vô-lượng pháp bí-mật cho chúng-sanh mà phát
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết âm-thanh ngôn-ngữ.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát được mười thứ thân oai-đức rất thanh-tịnh nầy rồi, thời có
thể làm cho chúng-sanh được mười thứ viên-măn : Một là làm cho chúng-sanh được
thấy Phật, hai là làm cho chúng-sanh thâm-tín nơi Phật, ba là làm cho
chúng-sanh được nghe pháp, bốn là làm cho chúng-sanh biết có cơi Phật, năm là
làm cho chúng-sanh thấy thần-biến của Phật, sáu là làm cho chúng-sanh nhớ
nghiệp đă tập họp, bảy là làm cho chúng-sanh định tâm viên-măn, tám là làm cho
chúng-sanh nhập Phật thanh-tịnh, chín là làm cho chúng-sanh phát bồ-đề tâm,
mười là làm cho chúng-sanh viên-măn phật-trí.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát làm cho chúng-sanh được mười thứ viên-măn rồi, lại v́
chúng-sanh mà làm mười thứ phật-sự. Những là dùng âm-thanh làm phật-sự v́
thành-thục chúng-sanh. Dùng sắc h́nh làm phật-sự v́ điều-phục chúng-sanh. Dùng
ức niệm làm phật-sự v́ thanh-tịnh chúng-sanh. Dùng chấn-động thế-giới làm
phật-sự v́ khiến chúng-sanh ĺa ác-thú. Dùng phương-tiện giác-ngộ làm phật-sự
v́ khiến chúng-sanh chẳng thất-niệm. Dùng tướng trong mộng làm phật-sự v́ khiến
chúng-sanh thường chánh-niệm. Dùng phóng đại quang-minh làm phật-sự v́ nhiếp
lấy khắp chúng-sanh. Dùng tu tập bồ-tát hạnh làm phật-sự v́ làm cho chúng-sanh
trụ thắng-nguyên. Dùng thành đẳng-chánh-giác làm phật-sự v́ làm cho chúng-sanh
biết pháp huyễn. Dùng chuyển diệu-pháp-luân làm phật-sự, do v́ đại chúng mà
thuyết-pháp chẳng lỗi thời. Dùng hiện-trụ thọ-mạng làm phận-sự v́ điều-phục tất
cả chúng-sanh. Dùng thị-hiện nhập niết-bàn làm phật-sự, v́ biết các chúng-sanh
nhàm mỏi.
Trên
đây là trí thiện-xảo rơ biết tất cả cơi Phật trang-nghiêm đại tam-muội thứ bảy
của đại Bồ-Tát.
(2)
Chư Phật-tử ! Thế nào là nhứt-thiết chúng-sanh sai-biệt thân đại tam-muội của
đại Bồ-Tát ?
Đại
Bồ-Tát trụ tam-muội nầy được mười thứ vô-sở-trước : những là nơi tất cả cơi
vô-sở-trước, nơi tất cả phương vô-sở-trước, nơi tất cả kiếp vô-sở-trước, nơi
tất cả chúng vô-sở-trước, nơi tất cả pháp vô-sở-trước, nơi tất cả Bồ-Tát
vô-sở-trước, nơi tất cả Bồ-Tát nguyện vô-sở-trước, nơi tất cả tam-muội
vô-sở-trước, nơi tất cả Phật vô-sở-trước, nơi tất cả địa vô-sở-trước.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nơi tam-muội nầy, nhập thế nào ? khởi thế nào ?
Đại
Bồ-Tát nơi tam-muội nầy, nội-thân nhập ngoại-thân khởi, ngoại-thân nhập
nội-thân khởi, đồng-thân nhập dị-thân khởi, dị-thân nhập đồng-thân khởi,
nhơn-thân nhập dạ-xoa thân khởi, dạ-xoa thân nhập long-thân khởi, long-thân
nhập a-tu-la thân khởi, a-tu-la thân nhập thiên-thân khởi, thiên-thân nhập
phạm-vương thân khởi, phạm-vương thân nhập dục-giới thân khởi, thiên-trung nhập
địa-ngục khởi, địa-ngục nhập nhơn-gian khởi, nhơn-gian nhập loài khác khởi,
ngàn thân nhập một thân khởi, một thân nhập ngàn thân khởi, na-do-tha thân nhập
một thân khởi, một thân nhập na-do-tha thânkhởi, trong chúng nam-châu nhập
trong chúng tây-châu khởi, trong chúng tây-châu nhập trong chúng bắc-châu khởi,
trong chúng bắc-châu nhập trong chúng đông-châu khởi, trong chúng đông-châu
nhập trong chúng ba châu kia khởi, trong chúng ba châu nhập trong chúng bốn
châu khởi, trong chúng bốn châu nhập trong chúng tất cả biển sai-biệt khởi,
trong chúng tất cả biển sai-biệt nhập trong chúng tất cả hải-thần khởi, trong
chúng tất cả hải-thần nhập trong thủy-đại khởi, trong thủy-đại nhập trong
địa-đại khởi, trong địa-đại nhập trong hỏa-đại khởi, trong hỏa-đại nhập trong
phong-đại khởi, trong phong-đại nhập trong tất cả tứ-đại-khởi, trong tất cả tứ
đại nhập trong pháp vô-sanh khởi, trong pháp vô-sanh nhập trong núi Tu-Di khởi,
trong núi Tu-Di nhập trong bảy Bửu-Sơn khởi, trong bảy Bửu-Sơn nhập trong tất
cả cây cỏ lùm rừng hắc-sơn khởi, trong tất cả lùm rừng hắc-sơn nhập trong tất
cả diệu-hương hoa bửu trang-nghiêm khởi, trong tất cả trang-nghiêm nhập trong
tất cả chúng-sanh thọ sanh nơi bốn châu thượng-phương hạ-phương khởi, trong tất
cả chúng-sanh thọ-sanh nhập trong chúng-sanh nơi Tiểu-Thiên thế-giới khởi,
trong chúng-sanh nơi Tiểu-Thiên Thế-Giới nhập trong chúng-sanh nơi Trung-Thiên
Thế-Giới khởi, trong chúng-sanh nơi Trung-Thiên thế-giới nhập trong chúng-sanh
nơi Đại-Thiên thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi trăm ngàn ức na-do-tha
Đại-Thiên thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi vô-số thế-giới khởi, trong
chúng-sanh nơi vô-số thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi vô-lượng thế-giới khởi,
nơi chúng-sanh trong vô-lượng thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi vô-biên
thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi vô-biên thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi
vô-đẳng phật-độ khởi, trong chúng-sanh nơi vô-đẳng phật-độ nhập trong chúng
sanh nơi bất-khả-sổ thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi bất-khả-sổ thế-giới
nhập trong chúng-sanh nơi bất-khả-xưng thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi
bất-khả-xưng thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi bất-khả-tư thế-giới khởi, trong
chúng-sanh nơi bất-khả-tư thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi bất-khả-lượng
thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi bất-khả-lượng thế-giới nhập trong
chúng-sanh nơi bất-khả-thuyết thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi
bất-khả-thuyết thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thế-giới nhập
trong chúng-sanh tạp-nhiễm khởi, trong chúng-sanh tạp-nhiễm nhập trong
chúng-sanh thanh-tịnh khởi, trong chúng-sanh thanh-tịnh nhập trong chúng-sanh
tạp-nhiễm khởi, trong nhăn-xứ nhập trong nhĩ-xứ khởi, trong nhĩ-xứ nhập trong
tỹ-xứ khởi, trong tỹ-xứ nhập trong thiệt-xứ khởi, trong thiệt-xứ nhập trong
thân-xứ khởi, trong thân-xứ nhập trong ư-xứ khởi, trong ư-xứ nhập trong thân-xứ
khởi, trong tự-xứ nhập trong tha-xứ khởi, trong tha-xứ nhập trong tự-xứ khởi,
trong một vi-trần nhập trong vô-số thế-giới vi-trần khởi, trong vô-số thế-giới
vi-trần nhập trong một vi-trần khởi, trong Thanh-Văn mhập trong Độc-Giác khởi,
trong Độc-Giác nhập trong Thanh-Văn khởi, trong tự-thân nhập trong Phật-thân
khởi, trong Phật-thân nhập trong tự-thân khởi, một niệm nhập ức kiếp khởi, ức
kiếp nhập một niệm khởi, đồng-niệm nhập biệt-thời khởi, biệt-thời nhập
đồng-niệm khởi, tiền-tế nhập hậu-tế khởi, hậu-tế nhập tiền-tế khởi, tiền-tế
nhập trung-tế khởi, trung-tế nhập tiền-tế khởi, tam-thế nhập sát-na khởi,
sát-na nhập tam-thế khởi, chơn-như nhập ngôn thuyết khởi, ngôn-thuyết nhập
chơn-như khởi.
Ví
như có người bị quỷ phá thân họ rung động chẳng tự an được, quỷ chẳng hiện thân
mà làm cho thân người kia như vậy.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy tự-thân nhập định tự-thân khởi.
Ví
như tử-thi do chú-lực mà hay chổi dậy mà đi, cùng làm được các việc. Tử-thi
cùng chú dầu đều khác nhau mà có thể ḥa hiệp làm những việc trên.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy, đồng cảnh nhập định dị-cảnh khởi, dị-cảnh
nhập định đồng-cảnh khởi.
Ví
như Tỳ-Kheo được tâm tự-tại, hoặc một thân làm nhiều thân, hoặc nhiều thân làm
một thân. Chẳng phải một thân mất mà nhiều thân sanh, cũng chẳng phải nhiều
thân mất mà một thân sanh.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy, một thân nhập định nhiều thân khởi, nhiều
thân nhập định một thân khởi.
Ví
như đại-địa đồng một vị mà sanh cỏ cây có nhiều vị khác nhau. Đất dầu không
khác mà vị có sai khác.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy vẫn vô-phân-biệt, mà có một thứ nhập định
nhiều thứ khởi, nhiều thứ nhập định một thứ khởi.
Chư
Phậy-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy được mười pháp xưng-tán chỗ ngợi
khen. Những là : v́ nhập chơn-như nên gọi là Như-Lai, v́ giác-ngộ tất cả pháp
nên gọi là Phật, v́ được tất cả thế-gian ngợi khen nên gọi là Pháp-Sư, v́ biết
tất cả pháp nên gọi là nhứt-thiết-trí, v́ được tất cả thế-gian quy-y nên gọi là
chỗ sở-y, v́ rơ thấu tất cả pháp phương-tiện nên gọi là đạo sư, v́ dẫn tất cả
chúng-sanh vào đạo nhứt-thiết-trí nên gọi là đại-đạo-sư, v́ là đèn của tất cả
thế-gian nên gọi là quang-minh, v́ tâm chí viên-măn, nghĩa lợi thành-tựu, chỗ
làm đều xong, trụ trí vô-ngại, phân-biệt biết rơ tất cả pháp nên gọi là
thập-lực tự-tại, v́ thông-đạt tất cả pháp-luân nên gọi là bực nhứt-thiết-kiến.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy lại được mười thứ quang-minh chói
sáng. Những là được quang-minh của tất cả Phật, v́ cùng Phật b́nh-đẳng. Được
tất cả thế-giới quang-minh, v́ có thể khắp nghiêm-tịnh. Được tất cả chúng-sanh
quang-minh, v́ điều đến điều-phục. Được vô-lượng vô-úy quang-minh v́ pháp-giới
làm trường thuyết pháp. Được vô-sai-biệt quang-minh, v́ biết tất cả pháp không
các thứ tánh. Được phương-tiện quang-minh, v́ nơi ly-dục-tế của các pháp mà
chứng nhập. Được chơn-thiệt quang-minh, v́ nơi ly-dục-tế của các pháp tâm
b́nh-đẳng. Được thần-biến quang-minh khắp tất cả thế-gian, v́ được Phật gia-hộ
hằng chẳng dứt. Được thiện tư-duy quang-minh, v́ đến bờ tự-tại của tất cả Phật.
Được nhứt-thiết-pháp chơn-như quang-minh v́ nơi trong một lỗ chưn lông khéo nói
tất cả.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy được mười thứ vô-sở-tác. Những là
thân-nghiệp vô-sở-tác, ngữ-nghiệp vô-sở-tác, ư-nghiệp vô-sở-tác, thần thông
vô-sở-tác, rơ pháp vô-tánh vô-sở-tác, biết nghiệp chẳng hoại vô-sở-tác,
vô-sai-biệt trí vô-sở-tác, vô-sanh-khởi trí vô-sở-tác, biết pháp không diệt
vô-sở-tác, tùy thuận nơi văn chẳng hoại nơi nghĩa vô-sở-tác.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy, vô-lượng cảnh giới nhiều thứ sai
khác. Những là một nhập nhiều khởi, nhiều nhập một khởi, đồng nhập dị khởi, dị
nhập đồng khởi, tế nhập thô khởi, thô nhập tế khởi, đại nhập tiểu khởi, tiểu
nhập đại khởi, thuận nhập nghịch khởi, nghịch nhập thuận khởi, không thân nhập
có thân khởi, có thân nhập không thân khởi, vô-tướng nhập hữu tướng khởi, hữu
tướng nhập vô-tướng khởi, trong khởi mà nhập, trong nhập mà khởi. Đây đều là
cảnh-giới tự-tại của tam-muội nầy.
Ví
nhà huyễn thuật tŕ chú được thành có thể hiện các thứ h́nh tướng sai-biệt. Chú
khác với huyễn, mà có thể làm ra huyễn. Chú chỉ là âm-thanh, mà có thể làm ra
các h́nh sắc cho nhăn-thức biết, các thứ tiếng cho nhĩ-thức biết, các thứ hương
cho tỹ-thức biết, các thứ vị cho thiệt-thức biết, các thứ xúc cho thân-thức
biết, các cảnh giới cho ư-thức biết.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy, trong đồng nhập định trong dị khởi, trong
dị nhập định trong đồng khởi.
Ví
như Đao-Lợi thiên lúc đánh với A-Tu-La. Chư Thiên thắng trận. Vua A-Tu-La thân
cao lớn bảy trăm do-tuần dùng sức huyễn thuật đem binh đội trăm ngàn người đồng
thời chạy vào trong lỗ cộng sen để trốn.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát đă khéo thành-tựu các huyễn trí-địa. Huyễn-trí tức là Bồ-Tát,
Bồ-Tát tức là huyễn-trí. V́ thế nên có thể trong pháp vô-sai-biệt nhập định
trong pháp sai-biệt khởi định. Trong pháp sai-biệt nhập định trong pháp
vô-sai-biệt khởi định.
Ví
như nhà nông gieo giống trong ruộng, hột giống ở dưới c̣n trái sanh ở trên.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy, trong một nhập định trong nhiều khởi, trong
nhiều nhập định trong một khởi.
Ví
như xích bạch của nam nữ ḥa hiệp, hoặc có chúng-sanh thọ sanh trong đó, bấy
giờ gọi là ca-la-lă. Từ đây tuần tự ở thai mẹ đủ mười tháng, do sức nghiệp lành
nên tất cả chi-phần đều được thành-tựu, căn thân chẳng thiếu, tâm ư sáng suốt.
Ca-la-lă kia với sáu căn thể trạng khác nhau, do nghiệp lực mà có thể làm cho
kia thứ đệ thành-tựu, thọ các thứ quả báo đồng dị loại.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát từ nhứt-thiết-trí ngôi ca-la-lă, do sức tín giải nguyện lần lần
tăng trưởng, tâm Bồ-Tát quảng đại nhiệm vận tự-tại. Trong không nhập định trong
có khởi, trong có nhập định trong không khởi.
Ví
như long-cung nương đất làm nền mà chẳng nương hư-không. Rồng ở trong cung
chẳng ở hư-không mà có thể nổi mây đầy khắp hư-không. Có người ngước xem hoặc
thấy có cung-điện, phải biết đó là thành càn-thát-bà chẳng phải long-cung. Dầu
rồng ở dưới mà mây nổi trên không.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy nơi vô-tướng nhập nơi hữu-tướng khởi nơi
hữu-tướng nhập nơi vô-tướng khởi.
Ví
như cung của Diệu-Quang Đại Phạm-Thiên-Vương ở tên là
nhứt-thiết-thế-gian-tối-thắng-thanh-tịnh-tạng. Trong cung lớn nầy thấy khắp
Đại-thiên thế-giới : những tứ thiên-hạ, cung của Thiên, Long bát-bộ, chỗ ở của
nhơn-gian và ba ác-đạo, các núi Tu-Di-Sơn vân vân, biển cả sông lạch, bờ đầm,
nguồn suối, thành ấp tụ lạc, rừng cây, các thứ bửu. Những vật như vậy tột đến
đại Luân-Vi, nhẫn đến vi-tế du-trần trong hư-không đều hiển-hiện trong cung của
Đại-Phạm-Vương, như bóng mặt hiện thấy trong gương sáng.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi nhứt-thiết chúng-sanh sai-biệt thân đại tam-muội nầy,
biết các thứ cơi nước, thấy các thứ Phật-độ, các thứ quả chứng, các thứ
pháp-thành, các thứ hạnh măn, các thứ giải nhập, các thứ tam-muội, khởi các thứ
thần-thông, được các thứ trí-huệ, trụ các thứ sát-na-tế.
Đại
Bồ-Tát nầy đến mười thứ thần-thông bỉ-ngạn. Những là đến chư Phật tận hư-không
biến pháp-giới : thần-thông bỉ-ngạn. Đến Bồ-Tát rốt ráo vô-sai-biệt tự-tại
thần-thông bỉ-ngạn. Đến hay phát khởi bồ-tát quảng đại hạnh nguyện nhập Như-Lai
môn phật-sự : thần-thông bỉ-ngạn. Đến hay chấn-động tất cả thế-giới tất cả
cảnh-giới đều làm cho thanh-tịnh : thần-thông bỉ-ngạn. Đến hay tự-tại biết tất
cả chúng-sanh nghiệp quả bất-tư-ngh́ đều như huyễn hóa : thần-thông bỉ-ngạn.
Đến hay tự-tại biết các tam-muội thô tế nhập xuất tướng sai biệt : thần-thông
bỉ-ngạn. Đến hay dũng-mănh nhập cảnh-giới Như-Lai mà ở trong đó phát-sanh
đại-nguyện : thần-thông bỉ-ngạn. Đến hay hóa làm Phật, hóa chuyển pháp-luân
điều-phục chúng-sanh, khiến sanh phật chủng, khiến nhập phật-thừa mau được
thành-tựu : thần-thông bỉ-ngạn. Đến hay rơ biết bất-khả-thuyết tất cả văn cú
bí-mật mà chuyển pháp-luân, khiến trăm ngàn ức na-do-tha bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết pháp-môn đều được thanh-tịnh : thần-thông bỉ-ngạn. Đến chẳng nhờ
ngày đêm năm tháng kiếp số, một niệm đều có thể thị-hiện khắp tam thế :
thần-thông bỉ-ngạn.
Trên
đây là trí thiện-xảo nhứt-thiết chúng-sanh sai-biệt thân đại tam-muội thứ tám
của đại Bồ-Tát.
Chư
Phật-tử ! thế nào là pháp-giới tự-tại tam-muội của đại Bồ-Tát ?
Đại
Bồ-Tát nầy nơi tự nhăn-xứ nhẫn đến tự ư-xứ nhập tam-muội, nên gọi là pháp-giới
tự-tại.
Đại
Bồ-Tát nơi mỗi mỗi lỗ chưn lông của tự-thân mà nhập tam-muội nầy, tự nhiên biết
được các thế-gian, biết các pháp thế-gian, biết các thế-giới, biết ức na-do-tha
thế-giới, biết a-tăng-kỳ thế-giới, biết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số
thế-giới. Trong tất cả thế-giới thấy có Phật xuất-thế, Bồ-Tát chúng-hội thảy
đều đông đủ, quang-ming thanh-tịnh, thuần thiện không tạp, trang-nghiêm rộng
lớn, các thứ châu báu dùng để ngiêm-sức.
Bồ-Tát
trong các thế-giới nầy không ngớt tu hạnh bồ-tát hoặc một kiếp, trăm kiếp, ngàn
kiếp, ức kiếp, trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, vô-số kiếp, vô-lượng kiếp, vô-biên
kiếp, vô-đẳng kiếp, bất-khả-sổ kiếp, bất-khả-xưng kiếp, bất-khả-tư kiếp,
bất-khả-lượng kiếp, bất-khả-thuyết kiếp, bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp,
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần số kiếp.
Bồ-Tát
lại ở trong vô-lượng kiếp như vậy mà trụ nơi tam-muội nầy : cũng nhập, cũng
khởi, cũng thành-tựu thế-giới, cũng điều phục chúng-sanh, cũng rơ khắp
pháp-giới, cũng biết khắp tam thế, cũng diễn thuyết các pháp, cũng hiện đại
thần-thông các thứ phương-tiện vô-trước vô-ngại, v́ nơi pháp-giới được tự-tại.
Khéo phân-biệt nhăn, khéo phân-biệt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, khéo phân-biệt ư. Các
thứ sai biệt chẳng đồng như vậy đều khéo phân-biệt tột ngằn mé.
Bồ-Tát
khéo thấy và biết như vậy rồi, có thể sanh khởi mười ngàn ức đà-la-ni pháp
quang-minh, thành-tựu mười ngàn ức hạnh thanh-tịnh, chứng được mười ngàn ức
thiện-căn, viên-măn mười ngàn ức thần-thông, hay nhập mười ngàn ức tam-muội,
thành-tựu mười ngàn ức thần-lực, trưởng dưỡng mười ngàn ức công-lực, viên-măn
mười ngàn ức thâm tâm, vận động mười ngàn ức lực-tŕ, thị-hiện mười ngàn ức
thần-biến, đầy đủ mười ngàn ức bồ-tát vô-ngại, viên-măn mười ngàn ức bồ-tát
trợ-đạo, chức nhóm mười ngàn ức bồ-tát tạng, chiếu sáng mười ngàn ức bồ-tát
phương-tiện, diễn thuyết mười ngàn ức các nghĩa, thành-tựu mười ngàn ức các
nguyện, xuất sanh mười ngàn ức hồi-hướng, tịnh tu mười ngàn ức bồ-tát chánh-vị,
minh liễu mười ngàn ức pháp-môn, khai-thị mười ngàn ức diễn-thuyết, tu trị mười
ngàn ức bồ-tát thanh-tịnh.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát lại có vô số công-đức, vô-lượng công-dức, vô-biên
công-đức, vô-đẳng công-đức, bất-khả-sổ công-đức, bất-khả-xưng công-đức,
bất-khả-tư công-đức, bất-bất-khả-lượng công-đức, bất-khả-thuyết công-đức,
vô-tận công-đức.
Chư
Phật-tử ! Bồ-Tát nầy nơi công-đức như vậy đều đă làm xong, đều đă chứa nhóm,
đều đă trang-nghiêm, đều đă thanh-tịnh, đều đă suốt thấu, đều đă nhiếp thọ, đều
đă xuất sanh, đều đáng khen ngợi, đều được kiên-cố, đều đă thành-tựu.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy được đông-phương mười ngàn vô-số phật-sát
vi-trần-số danh-hiệu chư Phật nhiếp thọ. Mỗi mỗi danh hiệu Phật nầy lại có mười
ngàn vô-số phật-sát vi-trần-số Phật đều riêng khác. Như đông phương, chín
phương kia cũng như vậy.
Chư
Phật đó đều hiện ra trước mặt Bồ-Tát. V́ Bồ-Tát mà hiện cơi thanh-tịnh của chư
Phật, v́ nói vô-lượng thân của chư Phật, v́ nói nan-tư nhăn của chư Phật, v́
nói vô-lượng nhĩ của chư Phật, v́ nói tỹ thanh-tịnh của chư Phật, v́ nói thiệt
thanh-tịnh của chư Phật, v́ nói tâm vô-trụ của chư Phật, v́ nói thần-thông
vô-thượng của chư Phật, khiến tu vô-thượng bồ-đề của Phật, khiến được âm-thanh
thanh-tịnh của Phật, khai-thị pháp-luân bất-thối của Phật, hiển-thị vô-biên
chúng-hội của Phật, khiến nhập vô-biên bí-mật của Phật, tán thán tất cả
thiện-căn của Phật, khiến nhập pháp b́nh-đẳng của Phật, tuyên nói tam-thế
chủng-tánh của Phật, thị-hiện vô-lượng sắc-tướng của Phật, xiển dương pháp
hộ-niệm của Phật, diễn sướng pháp âm vi-diệu của Phật, biện minh thế-giới của
tất cả chư Phật, tuyên dương tam-muội của tất cả chư Phật, thị-hiện chúng-hội
thứ đệ của chư Phật, hộ-tŕ pháp bất-tư-ngh́ của chư Phật, nói tất cả pháp
dường như huyễn hóa, thuyết minh pháp-tánh không động chuyển, khai-thị tất cả
pháp-luân vô-thượng, khen ngợi vô-lượng công-đức của Phật, khiến vào tất cả
những mây tam-muội, khiến biết tâm đó như huyễn như hóa vô-biên vô-tận.
Chư
Phật-tử ! Lúc đại Bồ-Tát trụ nơi pháp-giới tự-tại tam-muội nầy, mười phương
kia, mỗi phương đều có mười ngàn vô-số phật-sát vi-trần số danh-hiệu Như-Lai,
trong mỗi mỗi danh-hiệu đều có mười ngàn vô-số phật-sát vi-trân-số Phật đồng
thời hộ-niệm cho Bồ-Tát nầy được vô-biên thân, cho Bồ-Tát nầy được tâm vô-ngại,
cho Bồ-Tát nầy nơi tất cả pháp được không vong-niệm, cho Bồ-Tát nầy nơi tất cả
pháp được huệ quyết-định, cho Bồ-Tát nầy càng thêm sáng suốt nơi tất cả pháp
đều lănh thọ được, cho Bồ-Tát nầy nơi tất cả pháp đều có thể hiểu rơ, cho
Bồ-Tát nầy các căn mạnh lẹ nơi pháp thần-thông đều được thiện-xảo, cho Bồ-Tát
nầy cảnh-giới vô-ngại đi khắp pháp-giới hằng chẳng nghỉ, cho Bồ-Tát nầy được
trí vô-ngại rốt-ráo thanh-tịnh, cho Bồ-Tát nầy dùng sức thần-thông trong tất cả
thế-giới thị-hiện thành Phật.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy được mười thứ " hải ". Những là
được chư Phật-hải, v́ đều xem thấy. Được chư pháp-hải, v́ hay dùng trí-huệ trọn
biết rơ. Được chúng-sanh-hải, v́ trọn điều-phục. Được chư sát-hải, v́ dùng
thần-thông vô-tánh vô-tác đều qua đến. Được công-đức-hải, v́ tất cả tu hành
trọn viên-măn. Được thần-thông-hải, v́ hay rộng thị-hiện khiến khai-ngộ. Được
chư căn-hải, v́ những căn-tánh chẳng đồng đều khéo biết. Được chư tâm-hải, v́
biết vô-lượng tâm chủng loại sai biệt của tất cả chúng-sanh. Được chư hạnh-hải,
v́ hay dùng nguyện-lực đều viên-măn. Được chư nguyện-hải, v́ đều làm cho
thành-tựu trọn thanh-tịnh.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát được mười thứ " hải " rồi, lại được mười thứ
thù-thắng : một là trong tất cả chúng-sanh rất là đệ nhứt. Hai là trong tất cả
chư thiên rất là thù-đặc. Ba là trong tất cả Phạm-Vương rất tột tự-tại. Bốn là
nơi các thế-gian không chỗ nhiễm-trước. Năm là tất cả thế-gian không ǵ che
chói được. Sáu là tất cả các ma chẳng mê loạn được. Bảy là vào khắp các loài
không bị chướng ngại. Tám là mọi nơi thọ sanh biết chẳng kiên-cố. Chín là tất
cả phật-pháp đều được tự-tại. Mười là tất cả thần-thông đều hay thị-hiện.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát đă được mười thứ thù-thắng, lại được mười thứ " lực
" ở trong chúng-sanh-giới tu tập các hạnh : một là sức dũng-kiện, v́
điều-phục thế-gian. Hai là sức tinh-tấn, v́ hằng chẳng thối-chuyển. Ba là sức
vô-trước, v́ ĺa các cấu nhiễm. Bốn là sức tịch-tịnh, v́ không tránh luận nơi
tất cả pháp. Năm là sức nghịch thuận, v́ nơi tất cả pháp tâm tự-tại. Sáu là sức
pháp-tánh, v́ trong các nghĩa được tự-tại. Bảy là sức vô-ngại v́ trí-huệ
quảng-đại. Tám là sức vô-úy v́ khéo thuyết-pháp. Chín là sức biện-tài, v́ khéo
thọ-tŕ các pháp. Mười là sức khai-thị, v́ trí-huệ vô-biên.
Chư
Phật-tử ! Mười thứ " lực " nầy là sức quảng-đại, sức tối-thắng, sức
không ai xô dẹp được, sức vô-lượng, sức khéo chứa nhóm, sức bất-động, sức
kiên-cố, sức trí-huệ, sức thành-tựu, sức thắng-định, sức thanh-tịnh, sức rất
thanh-tịnh, sức pháp-thân, sức pháp quang-minh, sức pháp-đăng, sức pháp-môn,
sức không bị phá hoại, sức rất dũng-mănh, sức đại trượng-phu, sức
thiện-tượng-phu tu tập, sức thành chánh-giác, sức quá-khứ chứa nhóm thiện-căn,
sức an-trụ vô-lượng thiện-căn, sức trụ Như-Lai lực, sức tâm tư-duy, sức
tăng-trưởng Bồ-Tát hoan-hỷ, sức xuất sanh Bồ-Tát tịnh-tín, sức tăng-trưởng
Bồ-Tát dũng-mănh, sức do Bồ-Đề tâm sanh, sức Bồ-Tát thanh-tịnh thâm-tâm, sức
Bồ-Tát thù-thắng thâm-tâm, sức Bồ-Tát thiện-căn huân-tập, sức cựu-cánh các
pháp, sức thân vô-ngại, sức nhập pháp-môn phương-tiện thiện-xảo, sức diệu-pháp
thanh-tịnh, sức an-trụ thế-lực lớn tất cả thế-gian chẳng khuynh động được, sức
tất cả chúng-sanh không ai che chói được.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nầy nơi vô-lượng pháp công-đức như vậy, hay thành-tựu, hay
viên-măn, hay chiếu minh, hay cụ túc, hay khắp cụ-túc, hay quảng-đại, hay
kiên-cố, hay tăng-trưởng, hay tịnh-trị, hay khắp tịnh-trị.
Về
những công-đức biên-tế, trí-huệ biên-tế, tu hành biên-tế, pháp-môn biên-tế,
tự-tại biên-tế, khổ-hạnh biên-tế, thành-tựu biên-tế, thanh-tịnh biên-tế,
xuất-ly biên-tế, pháp tự-tại biên-tế của đại Bồ-Tát nầy không ai có thể nói
được.
Bồ-Tát
nầy chỗ chứng đắc, chỗ thành-tựu, chỗ xu nhập, chỗ hiện tiền, chỗ có cảnh-giới,
chỗ có quan-sát, chỗ có chứng nhập, chỗ có thanh-tịnh, chỗ có liễu-tri, chỗ có
kiến lập tất cả pháp-môn, trong bất-khả-thuyết kiếp không thể nói hết được.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy có thể rơ biết vô-số vô-lượng vô-biên
vô-đẳng bất-khả-sổ bất-khả-xưng bất-khả-tư bất-khả-lượng bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tất cả tam-muội. Cảnh giới của mỗi mỗi tam-muội
đó quảng-đại vô-lượng. Trong cảnh-giới đó hoặc nhập, hoặc xuất, hoặc trụ, chỗ
có tướng-trạng, chỗ có thị-hiện, chỗ có hành-xứ, chỗ có đẳng-lưu, chỗ có
tự-tánh,chỗ có trừ-diệt, chỗ có xuất-ly, tất cả như vậy đều thấy rơ cả.
Ví
như cung của đại Long-Vương nơi ao A-Nậu-Đạt chảy ra thành bốn con sông lớn,
không đục, không tạp, không cấu-uế, màu sắc thanh-tịnh dường như hư-không. Bốn
mặt ao, mỗi phía có một cửa sông, chảy ra thành bốn con sông. Nơi cửa Tượng-Khẩu
chảy ra thành sông Hằng-Già. Nơi cửa Sư-Tử-Khẩu chảy ra thành sông Tư-Đà. Nơi
cửa
Ngưu-Khẩu chảy ra thành sông Tín-Độ. Nơi cửa Mă-Khẩu chảy ra thành sông
Phược-Sô. Nơi cửa sông Hằng-Già chảy ra cát bạc. Cửa sông Tư-Đà chảy ra cát
kim-cương. Cửa sông Tín-Độ chảy ra cát vàng. Cửa sông Phược-Sô chảy ra cát
lưu-ly. Cửa sông Hằng-Già màu bạc. Cửa sông Tư-Đà màu kim-cương. Cửa sông
Tín-Độ màu vàng. Cửa sông Phược-Sô màu lưu-ly. Mỗi cửa sông rộng một do-tuần.
Nước
nơi bốn cửa sông chảy quanh ao A-Nậu-Đạt bảy ṿng rồi theo phương vị mà chảy ra
bốn phía, nổi sóng cuồn-cuộn chảy thẳng ra biển.
Nơi
ḍng nước của bốn sông chảy quanh ao, có thiên-bửu hiệp thành bốn thứ hoa sen
xanh, vàng, đỏ, trắng, hương thơm lạ lùng ngào-ngạt, diệu-sắc thanh-tịnh. Những
cánh hoa, những đài nhụy đều là các thứ báu tự-nhiên chói suốt, đều phóng ánh
sáng chiếu hiện lẫn nhau.
Ao
A-Nậu-Đạt chu-vi rộng lớn năm mươi do-tuần, những cát báu trải khắp đáy ao,
nghiêm-sức với những châu ma-ni, bờ ao trang-nghiêm bằng vô-lượng diệu-bửu,
diệu-hương chiên-đàn rải khắp trong đó. Bốn thứ hoa sen và các hoa báu khác đều
có khắp ao. Gió thoảng đưa hương-khí đi xa. Rừng hoa cây báu bao quanh ao. Lúc
mặt
nhựt mọc thảy đều chiếu sáng. Ao và sông cùng tất cả vật chiếu chói lẫn nhau
thành lưới quang-minh. Các vật nầy, hoặc xa, hoặc gần, hoặc cao, hoặc thấp,
hoặc rộng, hoặc hẹp, hoặc thô, hoặc tế, nhẫn đến rất nhỏ như một hột cát, một
hột bụi đều là diệu-bửu quang-minh chói sáng. Tất cả vật đều có hiện bóng mặt
nhựt. Các vật nầy cũng hiện bóng lẫn nhau. Các bóng ấy không thêm không bớt,
chẳng phải hiệp, chẳng phải tan, đều như bổn chất mà được thấy rơ.
Chư
Phật-tử ! Như ao A-Nậu-Đạt, nơi bốn cửa chảy ra bốn con sông, thẳng vào biển.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát từ tứ biện-tài phát sanh các hạnh rốt ráo vào nơi biển nhứt-thiết-trí.
Như
sông Hằng-Già từ Tượng-Khẩu màu bạc chảy ra cát bạc.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát dùng nghĩa biện-tài thuyết tất cả nghĩa-môn của đức Như-lai đă
nói, xuất sanh tất cả bạch-pháp thanh-tịnh rốt ráo vào nơi biển trí vô-ngại.
Như
sông Tư-Đà từ Sư-Tử-Khẩu màu kim-cương chảy ra cát kim-cương.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát dùng pháp biện-tài v́ tất cả chúng-sanh mà nói câu kim-cương
dẫn ra trí kim-cương rốt ráo vào nơi biển trí vô-ngại.
Như
sông Tín-Độ từ Ngưu-Khẩu màu vàng chảy ra cát vàng.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát dùng huấn-từ biện-tài thuyết duyên-khởi phương-tiện tùy thuận
thế-gian, khai-ngộ chúng-sanh khiến đều hoan-hỉ điều-phục thành-thục, rốt ráo
vào nơi biển duyên-khởi phương-tiện.
Như
sông Phược-Sô từ Mả-Khẩu màu lưu-ly chảy ra cát lưu-ly.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát dùng vô-tận biện-tài mưa trăm ngàn ức na-do-tha bất-khả-thuyết
diệu-pháp, làm cho người nghe đều được gội nhuần rốt ráo vào nơi biển
phật-pháp.
Như
bốn con sông chảy quanh ao A-Nậu-Đạt rồi đều theo phương-vị chảy thẳng ra biển.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát thành-tựu tùy thuận thân-nghiệp,khẩu-nghiệp, ư-nghiệp.
Thành-tựu trí làm tiền-đạo cho thân-nghiệp, ngữ-nghiệp, ư-nghiệp. Tuôn khắp bốn
phương rốt ráo vào nơi biển nhứt-thiết-trí.
Chư
Phật-tử ! Những ǵ gọi là Bồ-Tát bốn phương ? Những là thấy tất cả Phật mà được
khai ngộ, nghe tất cả pháp thọ-tŕ chẳng quên, đầy đủ tất cả hạnh ba-la-mật,
đại-bi thuyết pháp làm đầy đủ cho chúng-sanh.
Như
bốn con sông chảy quanh ao, trong đó mọc đầy những bốn thứ hoa sen : xanh,
vàng, đỏ, trắng.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát trong chặng phát tâm bồ-đề chẳng rời bỏ chúng-sanh, thuyết pháp
điều-phục khiến điều viên-măn vô-lượng tam-muội thấy cơi nước Phật trang-nghiêm
thanh-tịnh.
Như
cây báu bao quanh ao A-Nậu-Đạt.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát hiện cơi nước Phật trang-nghiêm, làm cho chúng-sanh xu-hướng
bồ-đề.
Như
ao A-Nậu-Đạt rộng năm mươi do-tuần, nước ao trong sạch không đục.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát tâm bồ-đề rộng vô-lượng vô-biên, đầy đủ thiện-căn thanh-tịnh
không nhơ.
Như
ao A-Nậu-Đạt dùng vô-lượng bửu trang-nghiêm nơi bờ, hương chiên-đàn rải đầy khắp
trong đó.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát dùng trăm ngàn ức mười thứ trí-bửu trang-nghiêm ờ đại-nghuyện
bồ-đề tâm, khắp rải tất cả những pháp lành diệu-hương.
Như
ao A-Nậu-Đạt, cát vàng trải khắp đáy ao, châu ma-ni xen lẫn trang-nghiêm.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát dùng trí-huệ vi-diệu quán-sát cùng khắp, bất-tư-ngh́ pháp-hữu
bồ-tát giải-thóat xen lẫn trang-nghiêm, được vô-ngại quang-minh nơi tất cả
pháp, trụ nơi chỗ trụ của tất cả Phật, nhập nơi tất cả phương-tiện thậm-thâm.
Như
Long-Vương nơi ao A-Nậu-Đạt khỏi hẳn những nhiệt-năo của loài rồng.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát khỏi hẳn tất cả ưu năo của thế-gian. Dầu hiện thọ sanh mà không
nhiễm trước.
Như
bốn sông lớn thấm nhuần khắp mặt đất, rồi chảy vào biển.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát dùng bốn sông trí-huệ thấm nhuần Trời, Người, Sa-Môn,
Bà-La-Môn, làm cho họ đều vào nơi biển trí-huệ vô-thượng bồ-đề. Dùng bốn thứ
lực để trang-nghiêm :
Một
là sông nguyện trí : cứu hộ điều-phục tất cả chúng-sanh thường không ngớt nghỉ.
Hai
là sông trí ba-la-mật tu hạnh bồ-đề lợi ích chúng-sanh, quá-khứ, vị-lai,
hiện-tại nối tiếp vô-tận rốt ráo vào nơi biển trí của chư Phật.
Ba
là sông trí tam-muội của Bồ-Tát vô-số tam-muội dùng làm trang-nghiêm thấy tất
cả Phật vào nơi biển chư Phật.
Bốn
là sông trí đại-bi, đại-bi tự-tại cứu khắp chúng-sanh, phương-tiện nhiếp lấy
không thôi nghỉ, tu hành môn công-đức bí-mật rốt ráo vào nơi biển lớn thập-lực.
Như
bốn sông lớn từ ao A-Nậu-Đạt chảy ra vô-tận thẳng vào đến biển.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát dùng sức đại nguyện tu hạnh Bồ-Tát, tri-kiến tự-tại vô-tận, rốt
ráo vào nơi biển nhứt-thiết-trí.
Như
bốn sông lớn chảy vào biển, không ǵ có thể ngăn chẳng cho chảy vào biển được.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát thường siêng tu tập hạnh nguyện Phổ-Hiền, thành-tựu tất cả
trí-huệ quang-minh, trụ nơi pháp bồ-đề của tất cả Phật, vào phật-trí không
chướng-ngại.
Như
bốn sông lớn chảy thẳng vào biển, trải qua nhiều kiếp vẫn không nhàm mỏi.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát dùng hạnh nguyện Phổ-Hiền tu hạnh bồ-tát tột kiếp vị-lai vào
biển Như-Lai chẳng nhàm mỏi.
Như
lúc mặt nhựt mọc, trong ao A-Nậu-Đạt, cát bạc, cát vàng, các kim cương, cát
lưu-ly và các thứ bửu-vật khác đều có bóng mặt nhựt hiện trong đó. Những cát
bạc, vàng, kim-cương, lưu-ly và tất cả bửu-vật cũng đều xoay vần hiện bóng nhau
không trở ngại.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy, trong mỗi mỗi lỗ lông nơi thân đều thấy
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số chư Phật Như-Lai, cũng thấy
cơi nước đạo-tràng và chúng-hội của chư Phật đó. Nơi mỗi đức Phật, Bồ-Tát nầy
nghe pháp thọ-tŕ, tín-giải, cúng-dường, đều trải qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
ức na-do-tha-kiếp, mà chẳng tưởng niệm thời tiết dài vắn. Những chúng-hội đó
cũng không bị chật hẹp.
Tại
sao vậy ?
V́
Bồ-Tát nầy dùng tâm vi-diệu nhập vô-biên pháp-giới, v́ nhập vô-đẳng nghiệp quả
sai-biệt, v́ nhập cảnh giới tam-muội bất-tư-ngh́, v́ nhập cảnh-giới tư-duy
bất-tư-ngh́, v́ nhập cảnh-giới tự-tại của chư Phật, v́ được tất cả Phật hộ
niệm, v́ được tất cả Phật hộ niệm, v́ được đại thần-biến của tất cả Phật, v́
được thập-lực khó biết khó được của chư Phật, v́ nhập cảnh-giới hạnh viên-măn của
Phổ-Hiền Bồ-Tát, v́ được sức thần-thông không mỏi nhọc của tất cả Phật.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát dầu có thể ở nơi chánh-định xuất nhập trong một niệm,
nhưng cũng chẳng bỏ thời-gian lâu ở trong định, cũng không chấp trước. Dầu nơi
cảnh-giới không chỗ y-trụ, nhưng cũng chẳng bỏ tất cả cảnh sở-duyên. Dầu khéo
nhập sát-na-tế tam-muội, nhưng v́ lợi ích chúng-sanh mà hiện Phật thần-thông
không nhàm đủ. Dầu vào khắp pháp-giới mà chẳng có ngằn mé. Dầu không sở-trụ
không có xứ-sở, nhưng luôn xu-nhập đạo nhứt-thiết-trí, dùng sức biến-hóa vào
khắp trong vô-lượng chúng-sanh, trang-nghiêm đầy đủ tất cả thế-giới. Dầu rời
điên đảo phân-biệt thế-gian, vượt khỏi tất cả bực phân-biệt, cũng chẳng bỏ tất
cả các tướng. Dầu hay đầy đủ phương-tiện thiện-xảo, mà rốt ráo thanh-tịnh. Dầu
chẳng phân-biệt các bực Bồ-Tát, mà đều đă khéo nhập các bực.
Ví
như hư-không dầu hay dung thọ tất cả các vật, mà chẳng rời có và không.
Cũng
vậy, đại bồ-Tát dầu vào khắp tất cả thế-gian mà rời tưởng thế-gian. Dầu siêng
độ tất cả chúng-sanh mà rời tưởng chúng-sanh. Dầu sâu biết tất cả pháp mà rời
tưởng các pháp. Dầu thích thấy chư Phật mà rời tưởng chư Phật. Dầu khéo nhập
các thứ tam-muội mà biết tất cả pháp tự-tánh đều như không chỗ nhiễm trước. Dầu
dùng vô-biên biện-tài diễn vô-tận pháp cú mà tâm luôn trụ nơi pháp ĺa văn-tự.
Dầu thích quán-sát pháp không ngôn thuyết mà luôn thị-hiện âm-thanh thanh-tịnh.
Dầu trụ tất cả pháp-tế ly ngôn mà luôn thị-hiện các thứ sắc tướng. Dầu giáo-hóa
chúng-sanh mà biết tất cả pháp rốt ráo tánh không. Dầu siêng tu đại-bi độ thoát
chúng-sanh mà biết chúng-sanh-giới vô-tận vô-tán. Dầu rơ thấu pháp-giới
thường-trụ bất-biến mà dùng tam luân điều-phục chúng-sanh luôn chẳng thôi nghỉ.
Dầu thường an-trụ chỗ trụ của Như-Lai, mà trí-huệ thanh-tịnh tâm không sợ hăi
phân biệt diễn thuyết các thứ pháp, chuyển pháp-luân thường chẳng thôi nghỉ.
Trên
đây là trí thiện-xảo pháp-giới tự-tại đại tam-muội thứ chín của đại Bồ-Tát.
(3)
Chư Phật-tử ! Thế nào là vô-ngại-luân tam-muội của đại Bồ-Tát ?
Lúc
đại Bồ-Tát nhập tam-muội nầy thời trụ nơi thân-nghiệp vô-ngại, ngữ-nghiệp
vô-ngại, ư-nghiệp vô-ngại. Trụ nơi phật-độ vô-ngại. Được trí vô-ngại thành-tựu
chúng-sanh. Được trí vô-ngại điều-phục chúng-sanh. Phóng quang-minh vô-ngại.
Hiện lưới quang-minh vô-ngại. Bày biến-hóa vô-ngại quảng-đại. Chuyển pháp-luân
vô-ngại thanh-tịnh. Được Bồ-Tát vô-ngại tự-tại. Vào khắp phật-lực, trụ khắp
phật-trí. Làm chỗ làm của Phật. Tịnh chỗ tịnh của Phật. Hiện Phật thần-thông.
Làm cho Phật hoan-hỉ. Thật hành hạnh Như-Lai. Trụ đạo Như-Lai. Thường được
gần-gũi vô-lượng Phật. Làm những phật-sự. Nối thạnh phật-chủng.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát đă trụ nơi tam-muội nầy rồi, quán-nhứt-thiết-trí, tổng
quán nhứt-thiết trí, biệt quán nhứt-thiết-trí, tùy thuận nhứt-thiết-trí,
hiển-thị nhứt-thiết-trí, phan-duyên nhứt-thiết-trí, kiến nhứt-thiết-trí,
tổng-kiến nhứt-thiết-trí, biệt-kiến nhứt-thiết-trí. Nơi hạnh nguyện quảng-đại
của Phổ-Hiền Bồ-Tát, nơi tâm quảng-đại, hạnh quảng-đại, sở-xu quảng-đại,
sở-nhập quảng-đại, quang-minh quảng-đại, xuất-hiện quảng-đại, hộ-niệm
quảng-đại, biến-hóa quảng-đại, đạo quảng-đại của Phổ-Hiền Bồ-Tát, chẳng dứt,
chẳng lui, chẳng thối, chẳng đổi, không mỏi, không bỏ, không tán, không loạn,
thường tăng tấn hằng tiếp nối.
Tại
sao vậy ? V́ đại Bồ-Tát nầy ở trong các pháp thành-tựu đại-nguyện, phát-hành
đại-thừa, vào nơi biển phật-pháp đại-phương-tiện, dùng sức nguyện thù-thắng nơi
chỗ sở-hành của Bồ-Tát, trí-huệ chiếu sáng đều được thiện-xảo. Đầy đủ Bồ-Tát
thần-thông biến-hóa, khéo hay hộ-niệm tất cả chúng-sanh như chỗ hộ-niệm của
tam-thế chư Phật. Với các chúng-sanh hằng khởi đại-bi. Thành-tựu pháp chẳng
biến-dị của Như-Lai.
Ví
như có người đem châu ma-ni để trong lớp lụa màu, châu ma-ni dầu đồng màu với
lụa nhưng chẳng bỏ bổn-chất.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát thành-tựu trí-huệ dùng làm tâm-bửu, quán nhứt-thiết-trí đều
khắp hiện rơ, nhưng chẳng bỏ hạnh Bồ-Tát.
Tại
sao vậy ? V́ đại Bồ-Tát phát thệ nguyện lớn lợi ích tất cả chúng-sanh, độ thóat
tất cả chúng-sanh, thừa sự tất cả chư Phật, nghiêm tịnh tất cả thế-giới, an-ủy
chúng-sanh thâm nhập biển pháp. V́ tịnh chúng-sanh-giới mà hiện đại tự-tại. Cấp
thí chúng-sanh chiếu khắp thế-gian. Vào nơi vô-biên pháp-môn huyễn hóa, chẳng
lui, chẳng chuyển, không mỏi, không nhàm.
Ví
như hư-không chứa giữ các thế-giới, hoặc thành hoặc trụ, không nhàm không mỏi,
không gầy không hư, không tan không hoại, không biến không khác, không có sai
biệt, chẳng bỏ tự-tánh.
Tại
sao vậy ? V́ tự-tánh của hư-không là như vậy.
Cũng
thế, đại Bồ-Tát lập vô-lượng đại-nguyện độ tất cả chúng-sanh tâm không nhàm
mỏi.
Ví
như Niết-Bàn, tam-thế vô-lượng chúng-sanh diệt-độ trong đó, trọn không nhàm
mỏi. Tại sao vậy ? V́ tất cả pháp bổn-tánh thanh-tịnh gọi đó là Niết-Bàn, thời
đâu có sự nhàm mỏi ở trong đó.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát v́ muốn độ thoát tất cả chúng-sanh đều làm cho xuất ly mà hiện
ra đời nên không bao giờ có tâm nhàm mơi.
Như
nhứt-thiết-trí hay làm cho tam-thế tất cả Bồ-Tát đă sẽ và hiện nay sanh vào nhà
chư Phật, nhẫn đến làm cho thành vô-thượng bồ-đề trọn không nhàm mỏi. Tại sao
vậy ? V́ nhứt-thiết-trí cùng pháp-giới không hai, v́ nơi tất cả pháp vô-sở
trước.
Cũng
vây, đại Bồ-Tát tâm b́nh-đẳng trụ nhứt-thiết-trí thời đâu có tâm nhàm mỏi.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nầy có một liên-hoa. Liên-hoa đó rộng lớn tột
thập-phương-tế, dùng bất-khả-thuyết cánh, bất-khả-thuyết bửu, bất-khả-thuyết
hương để trang-nghiêm. Bất-khả-thuyết bửu đó lại đều thị-hiện các thứ bửu
thanh-tịnh đẹp tốt rất khéo an-trụ. Hoa đó thường phóng quang-minh nhiều màu,
chiếu khắp mười phương tất cả thế-giới không chỗ chướng-ngại. Chơn-kim làm lưới
giăng chùm trên hoa. Linh báu lay nhẹ vang tiếng ḥa dịu. Tiếng linh diễn sướng
pháp nhứt-thiết-trí.
Liên-hoa
lớn nầy đầy đủ sự trang-nghiêm thanh-tịnh của Như-Lai. Là chỗ phát-khởi của tất
cả thiện-căn, tiêu biểu sự cát-tường, chỗ hiện của thần-lực, có mười ngàn vô-số
công-đức thanh-tịnh diệu-đạo Bồ-Tát làm thành, tâm nhứt-thiết-trí lưu xuất.
Bóng của chư Phật mười phương hiện rơ trong đó. Thế-gian chiêm-ngưỡng xem như
tháp của Phật. Chúng-sanh ngó thấy đều lễ kính. Từ chỗ hay thấu rơ huyễn
chánh-pháp sanh ra. Tất cả thế-gian chẳng ví dụ được.
Đại
Bồ-Tát ngồi kiết-già trên liên-hoa nầy, thân cân xứng với hoa. Thần-lực của chư
Phật gia hộ làm cho nơi thân của Bồ-Tát, mỗi mỗi lỗ lông đều phóng ra trăm muôn
ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số quang-minh. Mỗi mỗi quang-minh
hiện trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số châu ma-ni. Châu
ma-ni nầy đều gọi là phổ-quanh-minh-tạng, trang-nghiêm với nhiều sắc tướng,
thành-tựu do vô-lượng công-đức. Các báu và hoa làm mành lưới giăng che phía
trên. Rải trăm ngàn ức na-do-tha diệu-hương thù-thắng. Trang-nghiêm với
vô-lượng sắc tướng. Lại hiện lọng báu trang-nghiêm bất-tư-ngh́ dùng cho phía
trên.
Mỗi
mỗi châu ma-ni đều hiện trăm ngàn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát
vi-trần-số ṭa liên-hoa-tạng sư-tử. Mỗi mỗi ṭa sư-tử hiện trăm muôn ức
na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số quang-minh. Mỗi mỗi quang-minh
hiện trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số sắc tướng. Mỗi
mỗi sắc tướng hiện trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số
quang-minh-luân. Mỗi mỗi quang-minh-luân hiện trăm muôn ức na-do-tha
bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hoa tỳ-lô-giá-na ma-ni bửu. Mỗi mỗi hoa hiện
trăm muôn ức na-do-tha- bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số đài. Mỗi mỗi đài
hiện trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số đức Phật. Mỗi
mỗi đức Phật hiện trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số
thần-biến. Mỗi mỗi thần-biến tịnh trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết
phật-sát vi-trần-số chúng-sanh. Trong mỗi loài chúng-sanh hiện trăm muôn ức
na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số chư Phật tự-tại. Mỗi mỗi tự-tại
rưới trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số phật-pháp. Mỗi
mỗi phật-pháp có trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số
tu-đa-la. Mỗi mỗi tu-đa-la thuyết trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết
phật-sát vi-trần-số pháp-môn. Mỗi mỗi pháp-môn có trăm muôn ức na-do-tha
bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số kim-cang trí, chỗ nhập pháp-luân sai-biệt,
ngôn từ riêng khác. Diễn thuyết mỗi mỗi pháp-luân thành-thục trăm muôn ức
na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số chúng-sanh-giới. Mỗi mỗi
chúng-sanh-giới có trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số
chúng-sanh, ở trong phật-pháp mà được điều-phục.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy thị-hiện cảnh-giới thần-thông vô-lượng
biến-hóa như vậy, đều biết như huyễn trọn không nhiễm trước. An trụ trong
vô-biên bất-khả-thuyết pháp-tự-tánh thanh-tịnh pháp-giới thiệt-tướng Như-Lai
chủng-tánh vô-ngại-tế, không đến không đi, chẳng sau chẳng trước, rất sâu không
đáy, hiện-lượng mà được, dùng trí tự vào chẳng do người khác khai ngộ, tâm
chẳng mê loạn cũng không phân-biệt. Được sự khen ngợi của tam-thế chư Phật, lưu
xuất từ phật-lực. Vào cảnh giới của tất cả Phật, thể tánh như thiệt, tịnh-nhăn
hiện chứng, huệ-nhăn thấy-khắp, thành-tựu phật-nhăn, là đèn sáng của thế-gian.
Đi nơi cảnh-giới sở-tri của trí-nhăn. Hay rộng khai-thị pháp-môn vi-diệu, thành
bồ-đề-tâm, đến thắng trượng-phu. Không chướng ngại với tất cả cảnh-giới. Nhập
chủng-tánh trí, phát sanh các trí. Rời khỏi sanh-pháp thế-gian mà hiện thọ
sanh, thần-thông biến-hóa phương-tiện điều-phục. Tất cả như vậy đều thiện-xảo.
Công-đức, giải, nguyện đều thanh-tịnh, rất tột vi-diệu đầy đủ viên-măn. Trí-huệ
quảng-đại như hư-không. Hay khéo quán-sát cảnh-giới của chư Thánh, Tín, hạnh,
nguyện, lực kiên-cố bất-động. Công-đức vô-tận được thế-gian khen ngợi. Nơi tạng
sở-quán của tất cả Phật, chỗ đại bồ-đề biển nhứt-thiết-trí, nhóm các diệu-bửu
làm bực-đại-trí. Dường như liên-hoa tự-tánh thanh-tịnh. Chúng-sanh xem thấy
thời đều vui mừng đều được lợi ích. Trí-quang chiếu khắp thấy vô-lượng Phật.
Tịnh tất cả pháp chỗ làm tịch-tịnh. Nơi pháp chư Phật rốt ráo vô-ngại, hằng
dùng phương-tiện trụ Phật bồ-đề. Trong hạnh công-đức mà được xuất sanh đủ trí
Bồ-Tát, làm thủ Bồ-Tát, được sự chung hộ-niệm của tất cả chư Phật, được Phật
oai-thần, thành Phật pháp-thân, niệm lực khó nghĩ bàn. Nơi cảnh một duyên mà
không sở-duyên. Hạnh rộnh lớn vô-tướng vô-ngại, khắp cả pháp-giới vô-lượng
vô-biên. Bồ-đề được chứng dường như hư-không, chẳng có ngằn mé, không bị
phược-trước. Khắp làm lợi ích cho các thế-gian. Thiện-căn chảy vào biển
nhứt-thiết-trí. Đều hay thông đạt vô-lượng cảnh-giới. Đă khéo thành-tựu pháp
bố-thí thanh-tịnh. Trụ tâm Bồ-Tát, tịnh giống bồ-tát. Hay tùy thuận sanh chư
Phật bồ-đề. Nơi pháp chư Phật đều được thiện-xảo. Đủ hạnh vi-diệu thành sức
kiên-cố. Oai-thần tự-tại của tất cả chư Phật, chúng-sanh khó được nghe, Bồ-Tát
đều biết, nhập môn bất-nhị, trụ-pháp vô-tướng. Dầu đă bỏ hẳn các tướng mà hay
thuyết rộng các pháp, tùy theo tâm chúng-sanh thích muốn hiểu, đều làm cho họ
điều-phục, đều làm cho họ hoan-hỉ. Pháp-giới làm thân không phân-biệt,
cảnh-giới trí-huệ chẳng thể cùng tận. Trí thường dũng-mănh, tâm hằng b́nh-đẳng.
Thấy biên-tế công-đức của tất cả chư Phật. Rơ sự sai biệt thứ đệ của tất cả
kiếp. Khai thị tất cả pháp. An-trụ tất cả cơi. Nghiêm-tịnh tất cả phật-độ.
Hiển-hiện quang-minh của tất cả chánh-pháp. Diễn sướng tam thế tất cả
phật-pháp. Bầy chỗ sở-trụ của chư Bồ-Tát. Là đèn sáng của thế-gian, sanh những
thiện-căn, ĺa hẳn thế-gian thường sanh chỗ Phật, được Phật trí sáng suốt
đệ-nhứt. Tất cả chư Phật đều cùng nhiếp thọ, đă vào số chư Phật vị-lai. Từ các
thiện-hữu mà được xuất sanh, bao nhiêu trí cầu đều được quả-toại. Đủ oai-đức
lớn, trụ ư tăng thượng. Tùy pháp đă nghe đều có thể khéo nói, cũng để khai-thị
thiện-căn nghe pháp, trụ thiệt-tế-luân, tâm không chướng ngại với tất cả pháp.
Chẳng bỏ các hạnh, ĺa những phân biệt. Nơi tất cả pháp, tâm không động niệm.
Được sáng trí-huệ diệt trừ si tối, đều hay soi sáng tất cả phật-pháp. Chẳng
hoại các pháp mà sanh trong đó, rơ biết tất cả cảnh-giới các cơi, từ nào đến
giờ không có động tác, thân ngữ ư nghiệp thảy đều vô-biên. Dầu tùy thế-tục diễn
thuyết vô-lượng thứ văn tự, mà thường chẳng hư hoại pháp ly-văn-tự, thâm nhập
phật-hải, biết tất cả pháp chỉ có giả-danh, nơi các cảnh giới không hệ-phược
không-nhiễm-trước. Rơ tất cả pháp trống rỗng không chỗ có. Những hạnh đă tu từ
pháp-giới sanh, dường như hư-không chẳng tướng chẳng h́nh. Thâm nhập pháp-giới
tùy thuận diễn thuyết. Nơi nhứt-cảnh môn sanh nhứt-thiết-trí. Quán bực thập-lực
dùng trí tu học. Trí làm cầu đ̣ đến nhứt-thiết-trí. Dùng mắt trí-huệ thấy pháp
vô-ngại. Khéo nhập các " địa " biết các thứ nghĩa. Mỗi mỗi pháp-môn
đều được minh-liễu, bao nhiêu đại-nguyện đều được thành-tựu.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát dùng đây để khai-thị tánh vô-sai-biệt của tất cả Như-Lai.
Đây là môn vô-ngại phương-tiện. Đây có thể xuất sanh chúng-hội Bồ-Tát. Pháp nầy
chỉ là cảnh-giới tam-muội. Đây có thể mạnh tiến vào nhứt-thiết-trí. Đây có thể
khai hiển các môn tam-muội. Đây có thể vào khắp các cơi vô-ngại. Đây có thể
điều-phục tất cả chúng-sanh. Đây có thể trụ nơi vô-chúng-sanh-tế. Đây có thể
khai-thị tất cả phật-pháp. Đây nơi cảnh-giới đều vô-sở-đắc. Dầu tất cả thời
diễn thuyết khai-thị mà hằng xa ĺa vọng-tưởng phân-biệt. Dầu biết các pháp đều
vô-tác mà có thể thị-hiện tất cả tác-nghiệp. Dầu biết chư Phật không có hai
tướng mà có thể hiển thị tất cả chư Phật. Dầu biết không sắc mà diễn thuyết các
sắc. Dầu biết không thọ, tưởng, hành, thức, mà diễn thuyết các thọ, tưởng,
hành, thức. Hằng dùng pháp-luân khai-thị tất cả. Dầu biết pháp vô-sanh mà
thường chuyển pháp-luân. Dầu biết pháp vô-sai-biệt mà thuyết các môn sai-biệt.
Dầu biết các pháp không có sanh diệt mà thuyết tất cả tướng sanh diệt. Dầu biết
các pháp không thô không tế mà thuyết tướng thô tế của các pháp. Dầu biết các
pháp không thượng trung hạ mà hay tuyên thuyết pháp tối-thượng. Dầu biết các
pháp không thể ngôn thuyết mà hay diễn thuyết ngôn từ thanh-tịnh. Dầu biết các
pháp không nội không ngoại mà nói tất cả những pháp nội ngoại. Dầu biết các
pháp chẳng thể liễu tri mà nói các thứ tri-huệ quán-sát. Dầu biết các pháp
không có chơn-thiệt mà nói đạo xuất-ly chơn-thiệt. Dầu biết các pháp rốt ráo
vô-tận mà hay diễn thuyết tận diệt hữu-lậu. Dầu biết vô-vi vô-tránh nhưng cũng
chẳng không tự tha sai-biệt. Dầu biết các pháp rốt ráo vô-sư mà thường tôn kính
tất cả sư-trưởng. Dầu biết các pháp chẳng do nơi khác mà tỏ ngộ nhưng thường
tôn kính các thiện-tri-thức. Dầu biết các pháp không chuyển mà chuyển
pháp-luân. Dầu biết các pháp vô-khởi mà hiển-thị các nhân-duyên. Dầu biết các
pháp không tiền-tế mà nói rộng về vị-lai. Dầu biết các pháp không có trung-tế
mà nóí rộng về hiện-tại. Dầu biết các pháp không có tác-giả mà nói các
tác-nghiệp. Dầu biết các pháp không có nhân-duyên mà nóí những tập-nhơn. Dầu
biết các pháp không có đẳng-tỷ mà nói đạo b́nh-đẳng bất-b́nh-đẳng. Dầu biết các
pháp không có ngôn thuyết mà quyết-định nói pháp tam-thế. Dầu biết các pháp
không có sở-y nhưnh nói y-tựa pháp lành mà được xuất ly. Dầu biết pháp không
thân h́nh mà nói rộng về pháp-thân. Dầu biết tam-thế chư Phật vô-biên mà hay
diễn thuyết chỉ có một đức Phật. Dầu biết pháp vô-sắc mà hiện các thứ sắc. Dầu
biết pháp vô-kiến mà nói rộng các kiến. Dầu biết pháp vô-tướng mà nói các thứ
tướng. Dầu biết pháp không có cảnh-giới mà nói rộng cảnh-giơi trí-huệ. Dầu biết
các pháp không có sai biệt mà nói hành quả các thứ sai biệt. Dầu biết các pháp
không có xuất ly mà nói những hạnh xuất ly thanh-tịnh. Dầu biết các pháp
bổn-lai thường-trụ mà nói tất cả những pháp lưu chuyển. Dẫu biết các pháp không
có chiếu minh mà hằng nói rộng pháp chiếu minh.
Chư
Phật ! Đại Bồ-Tát nhập đại-oai-đức-tam-muội trí-luân như vậy, thời có thể chứng
được tất cả phật-pháp, thời có thể xu nhập tất cả phật-pháp. Thời có thể
thành-tựu, có thể viên-măn, có thể tích tập, có thể thanh-tịnh, có thể an-trụ,
có thể liễu-đạt, cùng tất cả pháp tự-tánh tương-ưng. Mà đại Bồ-Tát nầy chẳng
nghĩ rằng có bao nhiêu Bồ-Tát, bao nhiêu pháp Bồ-Tát, bao nhiêu Bồ-Tát rốt ráo,
bao nhiêu huyễn rốt ráo, bao nhiêu hóa rốt ráo, bao nhiêu thần-thông thành-tựu,
bao nhiêu trí thành tựu, bao nhiêu tư-duy, bao nhiêu chứng nhập, bao nhiêu
xu-hướng, nhẫn đến chẳng nghĩ rằng có bao nhiêu cảnh-giới.
Tại
sao vậy ? V́ Bồ-Tát tam-muội thể tánh như vậy, vô-biên như vậy, thù-thắng như
vậy.
Tam-muội
này có các thứ cảnh-giới, các thứ oai-lực, các thứ thâm nhập. Những là nhập
bất-khả-thuyết trí-môn, nhập các trang-nghiêm ly phân-biệt, nhập vô-biên ba-la-mật
thù-thắng, nhập vô-số thiền-định, nhập trăm ngàn ức na-do-tha bất-khả-thuyết
trí quảng đại, nhập thấy vô-biên tạng thắng-diệu của chư Phật, nhập nơi
cảnh-giới tâm vô-ngại, nhập trí-nhăn thấy tất cả Phật b́nh-đẳng, nhập chứa nhóm
chí hạnh thù-thắng của Phổ-Hiền, nhập trụ nơi trí-thân vi-diệu na-la-diên, nhập
thuyết biển trí-huệ của Như-Lai, nhập khởi vô-lượng thứ thần-biến tự-tại, nhập
sanh trí-môn vô-tận của tất cả Phật, nhập trụ cảnh-giới hiện-tiền của tất cả
chư Phật, nhập tịnh trí tự-tại của Phổ-Hiền Bồ-Tát, nhập khai-thị vô-tỷ trí
phổ-môn, nhập khắp biết tất cả cảnh-giới vi-tế, nhập khắp hiện pháp-giới tất cả
cảnh-giới vi-tế, nhập tất cả trí quang-minh thù thắng, nhập tất cả biên-tế
tự-tại, nhập tất cả biên-tế pháp-môn biện-tài, nhập thân trí-huệ khắp
pháp-giới, nhập thành-tựu đạo đi khắp tất cả chỗ, nhập khéo trụ tất cả tam-muội
sai-biệt, nhập tâm biết tất cả chư Phật.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nầy trụ hạnh Phổ-Hiền mỗi niệm nhập trăm ức bất-khả-thuyết
tam-muội nhưng chẳng thấy tam-muội của Phổ-hiền Bồ-Tát và quá-khứ trang-nghiêm
của Phật cảnh-giới.
Tại
sao vậy ? V́ biết tất cả pháp rốt ráo vô-tận. V́ biết tất cả phật-độ vô-biên.
V́ biết tất cả chúng-sanh-giới
bất-tư-ngh́.
V́ biết tiền tế vô-thỉ. V́ biết vị-lai vô-cùng. V́ biết hiện-tại tận hư-không
khắp pháp-giới vô-biên. V́ biết cảnh-giới của tất cả chư Phật chẳng thể nghĩ
bàn. V́ biết tất cả hạnh Bồ-Tát vô-số. V́ biết cảnh-giới do biện-tài của tất cả
Phật nói ra là bất-khả-thuyết vô-biên. V́ biết tất cả pháp sở-duyên của
huyễn-tâm là vô-lượng.
Chư
Phật-tử ! Ví như châu như-ư, theo chỗ cầu tất cả đều được, người cầu vô-tận ư
đều đầy đủ, mà thế-lực thù-thắng của bửu-châu trọng không thôi không thiếụ
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát nhập tam-muội nầy biết tâm như huyễn, xuất sanh tất cả
cảnh-giới của các pháp, cùng khắp vô-tận chẳng thôi chẳng thiếu.
Tại
sao vậy ? V́ đại Bồ-Tát thành-tựu hạnh trí vô-ngại của Phổ-Hiền, quán-sát
vô-lượng huyễn-cảnh quảng-đại, dường như bóng tượng không tăng giảm.
Chư
Phật-tử ! Ví như phàm-phu đều sanh tâm riêng khác, đă sẽ và đương sanh, không
có biên-tế không dứt không hết, tâm họ lưu chuyển tiếp nối không dứt, chẳng thể
nghĩ bàn.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát vào nơi tam-muội phổ-huyễn-môn nầy, không có biên-tế, chẳng thể
đo lường.
Tại
sao vậy ? V́ liễu đạt vô-lượng pháp, phổ-huyễn-môn của Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Chư
Phật tử ! Ví như chư Long-Vương : Nan-Đà, Bạt-Nan-Đà, Ma-Na-Tư và chư đại
Long-Vương lúc làm mưa, giọt nước mưa lớn như trục bánh xe không có biên-tế.
Dầu làm mưa như vậy mà mây chọn chẳng hết. Đây là cảnh-giới vô-tác của
Long-Vương.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy, nhập các môn tam-muội của Phổ-Hiền Bồ-Tát
và các trí-môn, pháp-môn, môn thấy chư Phật, môn qua các phương, môn tâm
tự-tại, môn da-tŕ, môn thần-biến, môn thần-thông, môn huyễn-hóa, môn các pháp
như huyễn, môn bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chư Bồ-Tát đầy khắp, môn thân cận
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số Như-Lai chánh-giác, môn nhập
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết lưới huyễn quảng-đại, môn biết bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết chúng-sanh tưởng, môn biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thời
kiếp sai biệt, môn biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thế-giới thành hoại, môn
biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết các phật-sát ở úp ở ngửa. Trong khoảng một
niệm đều biết như thật.
Lúc
nhập như vậy, không biên tế không cùng tận chẳng nhọc chẳng nhàm, chẳng nghỉ
chẳng dứt, không hư không mất. Ở trong các pháp chẳng trụ phi-xứ, hằng chánh
tư-duy, chẳng trầm chẳng cử. Cầu nhứt-thiết-trí thường chẳng thôi bỏ. Làm đèn
soi sáng thế-gian cho tất cả cơi Phật. Chuyển bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
pháp-luân. Dùng diệu biện-tài han hỏi Như-Lai không lúc nào cùng tận. Thị-hiện
thành phật-đạo không có biên-tế. Điều-phục chúng-sanh hằng không phế bỏ. Thường
siêng tu tập hạnh nguyện Phổ-Hiền chưa từng thôi nghỉ. Thị hiện vô-lượng bất-khả-thuyết
bất-kả-thuyết thân sắc tướng không có đoạn dứt.
Ví
như đốt lửa, theo duyên đă có, trong thời gian đó lửa cháy không tắt.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát quán-sát chúng-sanh-giới, pháp-giới, thế-giới dường như
hư-không chẳng có biên-tế. Nhẫn đến có thể trong khoảng một niệm qua đến bất
khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số chỗ của Phật. Mỗi mỗi chỗ của
Phật, nhập bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết nhứt-thiết-trí các loại pháp sai-biệt,
khiến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chúng-sanh-giới xuất-gia làm đạo siêng tu
thiện-căn rốt-ráo thanh-tịnh. Khiến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết Bồ-Tát nơi
hạnh nguyện Phổ-Hiền, người chưa quyết định thời được quyết-định. An-trụ nơi
môn trí-huệ của Phổ-Hiền. Dùng vô-lượng phương-tiện nhập bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết tam-thế kiếp quảng-đại : thành-trụ và hoại. Nơi bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết cảnh-giới thành , trụ, hoại sai-biệt của thế-gian, sanh ngần ấy
đại-bi đại-nguyện điều-phục vô-lượng chúng-sanh không để sót.
Tại
sao vậy ? V́ đại Bồ-Tát nầy muốn độ thoát tất cả chúng-sanh mà tu hạnh
Phổ-Hiền, sanh trí Phổ-Hiền, đầy đủ hạnh nguyện của Phổ-Hiền.
V́
thế nên Bồ-Tát phải ở nơi chủng loại như vậy, cảng-giới như vậy, oai-đức như
vậy, quảng-đại như vậy, vô-lượng như vậy, bất-tư-ngh́ như vậy, môn phổ-chiếu
như vậy, trụ ở trước tất cả chư Phật như vậy, được tất cả Như-Lai hộ niệm như
vậy, thành-tựu thiện-căn thuở trước như vậy, tâm vô-ngại bất động như vậy.
Trong
tam-muội siêng-năng tu tập, rời các nhiệt-năo, không nhàm mỏi, tâm chẳng thối
chuyển, lập chí nguyện sâu, dũng mănh chẳng khiếp, thuận cảnh-giới tam-muội,
nhập trí-địa nan-tư, chẳng y văn-tự, chẳng nhiễm thế-gian, chẳng lấy các pháp,
chẳng khởi phân-biệt, chẳng nhiễm trước thế-sự, chẳng phân-biệt cảnh-giới. Nơi
các pháp trí chỉ nên an trụ mà chẳng nên so lường. Nghĩa là gần-gũi
nhứt-thiết-trí, ngộ hiểu Phật bồ-đề, thành tựu pháp quang-minh, ban bố
thiện-căn cho tất cả chúng-sanh, ở trong ma-giới cứu vớt chúng-sanh cho họ được
vào cảnh-giới phật-pháp, khiến chẳng bỏ đại-nguyện, siêng quán-sát đạo xuất-ly,
thêm rộng cảnh thanh-tịnh, thành-tựu các độ. Với tất cả Phật sanh tín giải sâu,
thường phải quán-sát tất cả pháp-tánh không lúc nào tạm bỏ. Phải biết tự thân
cùng các pháp-tánh đều khắp b́nh-đẳng. Phải nên hiểu rơ chỗ làm của thế-gian,
chỉ bày trí-huệ phương-tiện đúng pháp. Phải thường tinh-tấn không thôi nghỉ.
Phải quán tự-thân thiện-căn kém ít. Phải siêng làm thêm lớn căn lành cho người.
Phải tự tu hành đạo nhứt-thiết-trí. Phải siêng tăng trưởng cảnh-giới
Bồ-Tát.Phải thích gần-gũi các thiện-tri-thức. Phải đồng hành mà nương ở với
thiện-tri-thức. Phải chẳng phân-biệt Phật. Phải chẳng rời bỏ chánh-niệm. Phải
thường an-trụ pháp-giới b́nh-đẳng. Phải biết tất cả tâm thức như huyễn. Phải
biết các hạnh thế-gian như mộng. Phải biết chư Phật nguyện-lực xuất hiện như
bóng tượng. Phải biết tất cả những nghiệp rộng lớn dường như biến hóa. Phải
biết ngôn ngữ đều như vang. Phải quán tất cả pháp như huyễn. Phải biết tất cả
pháp sanh-diệt đều như âm-thanh. Phải biết tất cả cơi Phật đă trải qua đều
không thể tánh. Phải v́ chúng-sanh thỉnh hỏi chánh-pháp nơi Như-Lai không biết
mỏi mệt. Phải v́ khai ngộ tất cả thế-gian nên siêng năng giáo hối chẳng rời bỏ.
Phải v́ điều-phục tất cả chúng-sanh biết thời nghi thuyết pháp mà chẳng thôi
nghỉ.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát tu hành hạnh Phổ-Hiền như vậy, viên-măn cảnh-giới Bồ-Tát
như vậy, đạo thần-thông xuất ly như vậy, thọ tŕ tam thế phật-pháp như vậy,
quán sát tất cả trí-môn như vậy, tư duy pháp chẳng biến đổi như vậy, sáng sạch
trí nguyện tăng thượng như vậy, tín giải tất cả Như-Lai như vậy, rơ biết thần-lực
rộng lớn của Phật như vậy, quyết định tâm vô-ngại như vậy, nhiếp thọ tất cả
chúng sanh như vậy.
Chư
Phậy-tử ! Đại Bồ-Tát lúc nhập đại trí-huệ tam-muội của Phổ-Hiền Bồ-Tát an-trụ
như vậy, mười phương đều có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết cơi nước, mỗi mỗi cơi
nước đều có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số danh hiệu
Như-Lai. Mỗi mỗi danh-hiệu đều có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát
vi-trần-số chư Phật hiện ra trước Bồ-Tát nầy ban cho niệm-lực Như-lai, khiến
chẳng quên mất cảmh-giới Như-Lai. Ban cho huệ tất cả pháp rốt ráo khiến nhập
nhứt-thiết-trí. Ban cho huệ biết tất cả pháp các thứ nghĩa quyết định khiến thọ
tŕ tất cả phật-pháp xu nhập vô-ngại. Ban cho Phật bồ-đề vô-thượng khiến nhập
nhứt-thiết-trí khai ngộ pháp-giới. Ban cho Bồ-Tát cứu cánh huệ khiến được
quang-minh của nhứt-thiết pháp, không c̣n tối tăm. Ban cho Bồ-Tát bất-thối-trí
khiến biết thời phi-thời, phương-tiện thiện-xảo điều-phục chúng-sanh. Ban cho
Bồ-tát biện-tài vô-ngại khiến tỏ ngộ vô-biên pháp diễn thuyết vô-tận. Ban cho
sức thần-thông biến-hóa khiến hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thân sai biệt,
vô-biên sắc-tướng chủng loại chẳng đồng, khai ngộ chúng-sanh. Ban cho ngôn âm
viên-măn khiến hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết âm-thanh sai biệt các thứ
ngôn từ khai ngộ chúng-sanh. Ban cho sức chẳng luống bỏ, khiến tất cả
chúng-sanh nếu được thấy h́nh, hoặc được nghe pháp, đều được thành-tựu không
luống bỏ qua.
Chư
Phật-tử ! V́ đại Bồ-Tát đầy đủ hạnh Phổ-Hiền như vậy nên được phật-lực,
thanh-tịnh đạo xuất ly, đủ nhứt-thiết-trí. Dùng biện-tài vô-ngại thần-thông
biến-hóa rốt ráo điều-phục tất cả chúng-sanh, đủ oai đức của Phật, tịnh hạnh
Phổ-Hiền, trụ đạo Phổ-Hiền tột vị-lai-tế. V́ muốn điều-phục tất cả chúng-sanh
nên chuyển tất cả pháp-luân vi-diệu của Phật.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nầy thành-tựu đại nguyện thù-thắng các hạnh Bồ-Tát như
vậy, thời là pháp-sư của tất cả thế-gian, thời là pháp-nhựt của tất cả
thế-gian, thời là núi Tu-Di của tất cả thế-gian ṿi vọi cao lớn kiên cố
bất-động, thời là biển trí không bờ của tất cả thế-gian, thời là đèn sáng
chánh-pháp của tất cả thế-gian chiếu khắp vô-biên tiếp nối không dứt, v́ tất cả
chúng-sanh khai thị vô-biên công-đức thanh-tịnh, đề khiến an trụ công-đức
thiện-căn, thuận nhứt-thiết-trí đại-nguyện b́nh-đẳng, tu tập hạnh rộng lớn của
Phổ-Hiền, thường hay khuyến phát vô-lượng chúng-sanh trụ bất-khả-thuyết
bất-khả-thiuyết tam-muội quảng-đại hạnh, hiện đại tự-tại.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nầy được trí như vậy, chứng pháp như vậy. Nơi pháp như vậy
suy gẫm an trụ thấy rơ. Được thần-lực như vậy, trụ cảnh-giới như vậy, hiện
thần-biến như vậy, khởi thần-thông như vậy. Thường an trụ đại bi thường lợi ích
chúng-sanh, khai thị chánh-đạo an ổn cho chúng-sanh. Kiến lập tràng đại
quang-minh phước trí. Chứng bất-tư-ngh́ giải-thóat. Trụ nhứt-thiết-trí
giải-thoát. Đến bỉ ngạn giải-thoát của Phật. Học xong môn phương-tiện
giải-thoát bất-tư-ngh́, được thành-tựu môn nhập pháp-giới sai-biệt không có lầm
loạn. Du-hí tự-tại nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tam-muội của Phổ-Hiền. Trụ
trí sư-tử phấn-tấn tâm ư vô-ngại.
Tâm
Bồ-Tát nầy hằng trụ mười pháp-tạng lớn. Những là trụ ghi nhớ tất cả Phật. Trụ
ghi nhớ tất cả phật-pháp. Trụ đại bi điều-phục tất cả chúng-sanh. Trụ trí
thị-hiện bất-tư-ngh́ cơi nước thanh-tịnh. Trụ trí quyết định thâm nhập
cảnh-giới của chư Phật. Trụ bồ-đề tướng b́ng-đẳng của tam-thế chư Phật. Trụ
biên tế vô-trước vô-ngại. Trụ tất cả pháp không tướng tánh. Trụ thiện căn b́nh
đẳng của tam-thế tất cả chư Phật. Trụ trí tiên-đạo thân ngữ ư pháp-giới
vô-sai-biệt của tam-thế tất cả chư Phật : thọ sanh, xuất gia, đến đạo-tràng,
thành chánh giác, chuyển pháp-luân, nhập niết-bàn, đều vào sát-na-tế.
Chư
Phật-tử ! Mười đại-pháp-tạng nầy rộng lớn vô-lượng, bất-khả-sổ, bất-khả-xưng,
bất-khả-tư, bất-khả-thuyết, vô cùng tận, khó nhẫn thọ. Tất cả thế-trí không xưng
thuật hết được.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nầy đă đến bỉ ngạn Phổ-Hiền hạnh, chứng pháp thanh-tịnh,
chí lực quảng-đại, khai-thị vô-lượng thiện-căn cho chúng-sanh, tăng trưởng tất
cả thế-lực của Bồ-Tát. Nơi khoảng mỗi niệm đầy đủ tất cả công đức của Bồ-Tát.
Thành-tựu tất cả hạnh Bồ-Tát. Được pháp đà-la-ni của tất cả Phật. Thọ tŕ tất
cả sở-thuyết của chư Phật. Dầu thường an-trụ chơn-như thiệt-tế, mà tuỳ tất cả
ngôn thuyết thế-tục, thị hiện điều-phục tất cả chúng-sanh.
Tại
sao vậy ? V́ đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy thời theo pháp là như vậy.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát dùng tam-muội nầy được trí quảng-đại của tất cả chư Phật.
được biện-tài tự-tại khéo nói tất cả pháp quảng-đại. Được pháp vô-úy thanh-tịnh
rất là thù-thắng trong tất cả thế-gian. Được trí nhập tất cả tam-muội. Được
phương-tiện thiện-xảo của tất cả Bồ-Tát. Được tất cả pháp quang-minh môn. Đến
bỉ-ngạn pháp an-ủy tất cả thế-gian. Biết tất cả chúng-sanh thời, phi-thời.
Chiếu tất cả chỗ mười phương thế-giới. Khiến tất cả chúng-sanh được thắng-trí.
Làm bực thầy vô-thượng của tất cả thế-gian. An-trụ tất cả các công-đức. Khai
thị tam-muội thanh-tịnh cho tất cả chúng-sanh, khiến nhập trí vô-thượng.
Tại
sao vậy ? V́ đại Bồ-Tát tu hành như vậy thời lợi ích chúng-sanh, thời thêm lớn
đại-bi, thời thân cận thiện-tri-thức, thời thấy tất cả Phật, thời rơ tất cả
pháp, thời đến tất cả cơi, thời nhập tất cả phương, thời nhập tất cả thế, thời
ngộ tánh b́nh-đẳng của tất cả Phật, thời biết tánh b́nh-đẳng của tất cả Phật,
thời trụ tánh b́nh-đẳng nhứt-thiết-trí. Ở trong pháp nầy làm công-hạnh như vậy,
chẳng làm công-hạnh khác. Trụ nơi tâm chưa đủ, trụ nơi tâm chẳng tán loạn, trụ
nơi tâm chuyển nhứt, trụ nơi tâm
siêng
tu, trụ nơi tâm quyết định, trụ nơi tâm chẳng đổi khác, tư duy như vậy, tác
nghiệp như vậy, cứu cánh như vậy.
Chư
Phật tử ! Đại Bồ-Tát không dị-ngữ dị-tác, có như-ngữ như-tác.
Ví
như kim-cang, do không bị hư-hoại nên được tên là kim-cang, trọn không lúc nào
rời ĺa bất-hoại.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát do những hành pháp mà được tên là Bồ-Tát, trọn không lúc nào
rời các hành-pháp.
Ví
như chơn-kim, bởi có diệu-sắc mà được tên, trọn không lúc nào rời những
thiện-nghiệp.
Ví
như mặt nhựt, do vầng sáng chói mà được tên, trọn không lúc nào rời sáng chói.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát do trí-huệ quang mà được tên, trọn không lúc nào rời trí-huệ-quang.
Như
núi Tu-Di do bốn ngọn núi báu ở nơi đại-hải cao vọi đồ sộ mà được tên, trọn
không lúc nào rời ĺa bốn ngọn núi báu.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát do các thiện-căn ở tại thế-gian vượt cao hơn cả mà được tên,
trọn không lúc nào bỏ rời thiện-căn.
Ví
như đại-địa do giữ lấy tất cả mà được tên, trọn không lúc nào bỏ rời công-năng
giữ lấy.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát do độ tất cả mà được tên, trọn không lúc nào bỏ rời đại-bi.
Ví
như đại-hải do chứa các ḍng nước mà được tên , trọn không lúc nào bỏ rời nước.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát do những đại-nguyện mà được tên, trọn không tạm bỏ nguyện độ
chúng-sanh.
Như
tướng-quân do giỏi quen tập phương-pháp chiến đấu mà được tên, trọn không lúc
nào bỏ rời công-năng nầy.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát do hay quen tập tam-muội như vậy mà được tên, nhẫn đến
thành-tựu nhứt-thiết-trí, trọn không lúc nào bỏ rời hạnh nầy.
Như
vua chuyển-luân ngự trị tứ thiên-hạ, thường siêng săn sóc muôn dân không cho
hoạnh tử, hằng được sung sướng.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát nhập những đại tam-muội nầy thường siêng hóa độ tất cả
chúng-sanh, nhẫn đến khiến họ rốt ráo thanh-tịnh.
Ví
như gieo hột giống xuống đất, nhẫn đến tăng trưởng cành lá.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát tu hạnh Phổ-Hiền, nhẫn đến có thể làm cho tất cả chúng-sanh
thêm lớn pháp lành.
Ví
như mây lớn, trong mùa hạ nóng nực,tuôn mưa lớn, nhẫn đến tăng trưởng tất cả
hột giống.
Cũng
vậy, đại Bồ-Tát vào những đại tam-muội như vậy tu hạnh Bồ-Tát tuôn pháp-vũ lớn,
nhẫn đến làm cho chúng-sanh rốt ráo thanh-tịnh, rốt-ráo niết-bàn, rốt-ráo
an-ổn, rốt-ráo bỉ-ngạn, rốt-ráo hoan-hỉ, rốt-ráo dứt nghỉ. Làm phước-điền
rốt-ráo cho chúng-sanh, khiến công-hạnh bố-thí của họ đều được thanh-tịnh.
Khiến họ đều an-trụ đạo bất-thối-chuyển. Khiến họ đồng được nhứt-thiết-trí.
Khiến họ đều được xuất ly tam-giới. Khiến họ đều được trí rốt ráo. Khiến họ đều
được pháp rốt ráo của chư Phật. Đặt để chúng-sanh nơi nhứt-thiết-trí.
Tại
sao vậy ? V́ đại Bồ-Tát thành-tựu pháp nầy trí-huệ sáng suốt nhập
pháp-giới-môn, hay tịnh tu vô-lượng hạnh bất-tư-ngh́ của Bồ-tát.
Những
là hay các trí, v́ cầu nhứt-thiết-trí. Hay tịnh chúng-sanh, v́ khiến họ
điều-phục. Hay tịnh cơi nước, v́ thường hồi-hướng. Hay tịnh các pháp v́ khắp rơ
biết. Hay tịnh đức vô-úy, v́ không khiếp nhược. Hay tịnh tứ vô-ngại-biện, v́
khéo diễn thuyết. Hay tịnh đà-la-ni, v́ được tự-tại với tất cả pháp. Hay tịnh
hạnh thân-cận, v́ thường thấy tất cả Phật xuất-thế.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy, được trăm ngàn ức na-do-tha
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết công-đức thanh-tịnh như vậy.
V́
nơi của các cảnh-giới của các tam-muội như vậy được tự-tại. V́ được tất cả Phật
gia-hộ. V́ sức thiện-căn của ḿnh lưu xuất. V́ nhập oai-đức lớn của bực
đại-trí-huệ. V́ sức dẫn đạo của các thiện-tri-thức. V́ tồi phục tất cả các ma
lực. V́ sức đồng phận thiện-căn thuần thanh-tịnh. V́ sức thệ nguyện rộng lớn.
V́ sức trồng thiện-căn thành-tựu. V́ sức vô-đối của phước vô-tận siêu thế-gian.
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy thời được mười pháp đồng tam-thế chư
Phật.
Những
là được các tướng hảo trang-nghiêm đồng với chư Phật. Hay phóng đại quang-minh
thanh-tịnh đồng với chư Phật. Thần-thông biến-hóa điều-phục chúng-sanh đồng với
chư Phật. Sắc thân vô-biên, thanh-âm thanh-tịnh đồng với chư Phật. Tùy
chúng-sanh nghiệp mà hiện tịnh cơi Phật đồng với chư Phật. Bao ngôn ngữ của tất
cả chúng-sanh đều có thể nhiếp-tŕ chẳng quên chẳng mất đồng với chư Phật.
Biện-tài vô-tận tùy tâm chúng-sanh mà chuyển pháp-luân cho họ sanh trí-huệ đồng
với chư Phật. Đại sư-tử hống không khiếp sợ, dùng vô-lượng pháp khai ngộ
chúng-sanh đồng với chư Phật. Trong khoảng một niệm dùng đại thần-thông vào
khắp tam-thế đồng với chư Phật. Hay khắp khai thị cho tất cả chúng-sanh : chư
Phật trang-nghiêm, chư Phật oai-lực, chư Phật cảnh-giới đồng với chư Phật.
Bấy
giờ Phổ-Nhăn Bồ-Tát bạch Phổ-Hiền Bồ-Tát rằng: "Thưa Phật-tử ! Đại Bồ-Tát
nầy được pháp như vậy đồng với chư Phật, sao lại chẳng gọi là Phật ? ". Cớ
sao chẳng gọi là thập-lực ? Cớ sao chẳng gọi là mhứt-thiết-trí Cớ sao chẳng gọi
là bực chứng bồ-đề trong tất cả pháp. Cớ sao chẳng được gọi là phổ-nhăn ? Cớ
sao chẳng gọi là bực thấy vô-ngại trong tất cả cảnh ? Cớ sao chẳng gọi là giác
tất cả pháp ? Cớ sao chẳng gọi là bực cùng tam-thế chư Phật ở một chỗ ? Cớ sao
chẳng gọi là bực trụ thiệt-tế? Cớ sao tu hạnh nguyện Phổ-Hiền vẫn chưa thôi
nghỉ ? Cớ sao chẳng có thể rốt ráo pháp-giới bỏ đạo Bồ-Tát ? "
Phổ-Hiền
Bồ-Tát nói : " Lành thay Phật-tử ! Đúng như lời ngài nói : Nếu đại Bồ-Tát
nầy đồng với chư Phật, thời do nghĩa ǵ mà chẳng gọi là Phật, nhẫn đến chẳng bỏ
đạo Bồ-Tát ?
Chư
Phật-tử ! Đại Bồ-Tát nầy đă có thể tu tập các hạnh-nguyện của tam-thế chư
Bồ-Tát nhập trí-cảnh-giới thời gọi là Phật. Ở chỗ Như-Lai tu hạnh Bồ-Tát chẳng
thôi nghỉ thời gọi là Bồ-Tát. Các trí-lực của Như-Lai đều đă nhập thời gọi là
bực Thập-Lực. Dầu thành thập-lực mà hành Phổ-Hiền hạnh không thôi nghỉ thời gọi
là Bồ-Tát. Biết tất cả pháp mà hay diễn thuyết thời gọi là nhứt-thiết-trí. Dầu
có thể diễn nói tất cả pháp, nơi mỗi mỗi pháp thiện xảo tư-duy chưa từng thôi
nghỉ thời gọi là Bồ-Tát. Biết tất cả pháp không có hai tướng thời gọi là ngộ
tất cả pháp. Nơi đạo sai biệt nhị bất-nhị của tất cả pháp thiện-xảo quán-sát,
lần lượt tăng thắng không có thôi nghỉ thời gọi là Bồ-Tát. Đă hay thấy
cảnh-giới Phổ-Nhăn thời gọi là Phổ-Nhăn. Dầu hay chứng được cảnh-giới Phổ-Nhăn
niệm niệm tăng trưởng chưa từng thôi nghỉ thời gọi là Bồ-Tát. Nơi các pháp đều
hay soi sáng rời chướng-ngại thời gọi là vô-ngại-kiến. Thường siêng ghi nhớ
vô-ngại-kiến thời gọi là Bồ-Tát. Đă được mắt trí-huệ của chư Phật thời gọi là
giác ngộ tất cả pháp. Quán trí-nhăn chánh-giác của Như-Lai mà chẳng buông lung thời
gọi là Bồ-Tát. Trụ chỗ của Phật trụ cùng Phật không hai thời gọi là cùng Phật
không trụ hai chỗ. Được Phật nhiếp thọ tu các trí-huệ thời gọi là Bồ-Tát.
Thường quán thiệt-tế của tất cả thế-gian thời gọi là bực trụ thiệt-tế. Dầu
thường quán sát thiệt-tế của các pháp mà chẳng chứng nhập cũng chẳng bỏ rời
thời gọi là Bồ-Tát. Chẳng đến chẳng đi, không đồng không dị, những phân biệt
nầy thảy đều dứt hẳn thời gọi là bực hưu-tức-nguyện. Tu tập quảng-đại viên-măn
bất-thối thời gọi là bực chưa hưu-tức Phổ-Hiền nguyện. Biết rơ pháp-giới không
có biên-tế, tất cả các pháp nhứt tướng vô tướng thời gọi là bực rốt ráo pháp
giới rời bỏ đạo Bồ-Tát. Dầu biết pháp giới không biên-tế mà biết các thứ
dị-tướng khởi tâm đại-bi độ các chúng sanh tột thuở vị lai không nhàm mỏi thời
gọi là Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Chư
Phật-tử ! Ví như Y-La-Bát-Na tượng-vương ở núi Kim-Hiếp trong hang thất-bửu.
Chư vị hang đó đều dùng thất-bửu làm lan-can. Cây đa-la báu thành hàng ngay
thẳng. Mành lưới chơn-kim giăng che trên đó. Thân voi trắng sạch dường như ngọc
kha-tuyết. Trên dựng tràng vàng, anh-lạc bằng vàng, lưới báu tùm ṿi, linh báu
tḥng xuống, bảy chi thành-tựu, đủ sáu ngà, đoan chánh toàn vẹn, ai thấy cũng
mến thích, tâm tánh đều thiện không hề hung trái.
Nếu
Thiên-Đế muốn du hành, tượng-vương liền biết ư, ẩn h́nh nơi hang báu mà hiện ra
nơi trời Đao-Lợi trước Thiên-Đế. Tượng-Vương dùng thần-thông biến hóa ra ba
mươi ba đầu. Nơi mỗi đầu hóa ra bảy ngà. Nơi mỗi ngà hóa làm bảy ao. Trong mỗi
ao có bảy hoa sen. Trên mỗi hoa sen có bảy thiên-nữ đồng thời ḥa tấu trăm ngàn
thiên-nhạc.
Bây
giờ Thiên-Đế ngự trên tượng-vương từ điện Nan-Thắng qua đến hoa viên đầy bông
sen.
Khi
đă đến hoa-viên, Thiên-Đế xuống voi vào điện Nhứt-Thiết-Bửu Trang-Nghiêm,
Vô-lượng Thiên-nữ theo hầu ca ngâm đàn múa, hưởng thọ khoái lạc.
Bấy
giờ tượng-vương lại dùng thần-thông ẩn h́nh voi, hiện thân thiên-tử cùng
tam-thập-tam thiên và các thiên-nữ ở trong vườn bạch liên-hoa vui chơi. Thân
h́nh hiện ra cũng sáng chói xinh đẹp y-phục trang-nghiêm đồng như các thiên-tử
khác. Không ai phân-biệt được là
voi, là thiên-tử. Voi và thiên-tử giống hệt nhau.
Tượng-Vương
Y-La-Bát-Na nơi hang thất-bửu trong núi Kim-Hiếp không có biến-hóa. Khi đến
trên trời Đao-Lợi, v́ cúng-dường Thiên-Đế mà hóa ra những sự trang nghiêm và
hưởng sự khoái lạc như chư thiên-tử.
Cũng vậy, đại
Bồ-Tát tu tập hạnh nguyện Phổ-Hiền và các môn tam-muội dùng làm những đồ báu
trang-nghiêm. Bảy phần bồ-đề là thân của Bồ-Tát. Quang-minh phóng ra dùng làm
lưới báu. Dựng tràng đại-pháp. Gióng chung đại-pháp. Đại-bi làm hang. Đại nguyện
kiên-cố dùng làm ngà. Trí-huệ vô-úy dường như sư-tử. Lụa pháp bịt trán.
Khai-thị bí-mật đến bỉ-ngạn những hạnh-nguyện Bồ-Tát. V́ muốn ngồi an nơi ṭa
bồ-đề thành nhứt-thiết-trí được vô-thượng chánh-giác, tăng trưởng Phổ-Hiền hạnh
nguyện quảng đại, chẳng thối chẳng nghỉ chẳng dứt chẳng bỏ. Đại-bi tinh-tấn tột
thuở vị-lai, độ thoát tất cả chúng-sanh khổ-năo, chẳng bỏ đạo Phổ-Hiền, hiện
thành chánh-giác. Hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết môn thành chánh-giác. Hiện
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết môn chuyển pháp-luân. Hiện bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết môn trụ thâm-tâm. Nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết quốc-độ
quảng-đại hiện môn niết-bàn biến-hóa. Nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
thế-giới sai-biệt mà hiện thọ sanh, tu hạnh Phổ-Hiền. Hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
Như-Lai, nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết quốc-độ quảng-đại dưới cội Bồ-Đề
thành vô-thượng chánh-giác. Bất-khả-thuyết. Bất-khả-thuyết chúng Bồ-Tát gần-gũi
vây quanh. Hoặc trong khoảng một niệm tu hạnh Phổ-Hiền mà thành chánh-giác.
Hoặc trong giây lát, hoặc một giờ, một ngày, nửa tháng, một tháng, hoặc một năm
hoặc vô-số năm, hoặc một kiếp. nhẫn đến hoặc bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
kiếp, tu hạnh Phổ-Hiền mà thành chánh-giác. Lại nơi trong tất cả cơi Phật mà
làm thượng-thủ, gần gũi chư Phật đảnh lễ cúng-dường, thỉnh hỏi quán-sát
cảnh-giới như huyễn, tịnh tu vô-lượng hạnh Bồ-Tát, vô-lượng trí Bồ-Tát, các thứ
thần-biến, các thứ oai-đức, các thứ trí-huệ, các thứ cảnh-giớ, các thứ
thần-thông, các thứ tự-tại, các thứ giải-thoát, các thứ pháp-minh, các thứ pháp
giáo-hóa điều-phục.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát bổn-thân bất-diệt, do sức hạnh-nguyện mà biến-hiện như vậy khắp các
nơi.
Tại sao vậy ? V́
muốn dùng thần-lực tự-tại Phổ-Hiền điều-phục tất cả chúng-sanh. Và làm cho
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chúng-sanh được thanh-tịnh. V́ làm cho họ dứt hẳn
ṿng sanh tử. V́ nghiêm tịnh các thế-giới rộng lớn. V́ thường thấy tất cả Phật.
V́ thâm nhập tất cả phật-pháp. V́ ghi nhớ tam-thế phật-chủng. V́ ghi nhớ
chánh-pháp và pháp-thân của tất cả Phật mười phương. V́ tu khắp tất cả bồ-tát
hạnh khiến viên-măn. V́ nhập hàng Phổ-Hiền tự-tại có thể chứng nhứt-thiết-trí.
Chư Phật-tử !
Các ngài nên quán-sát đại Bồ-Tát nầy chẳng bỏ hạnh Phổ-Hiền, chẳng dứt đạo
Phổ-Hiền, thấy tất cả Phật, chứng nhứt-thiết-trí, tự-tại thọ dụng pháp
nhứt-thiết-trí.
Như Tượng-Vương
Y-La-Bát-Na chẳng bỏ thân voi đến trời Đao-Lợi, được chư thiên cỡi, hầu hạ
Thiên-Đế, cùng chư thiên-nữ vui chơi khoái lạc đồng như chư thiên không khác.
Cũnh vậy, đại
Bồ-Tát chẳng bỏ những hạnh đại-thừa Phổ-Hiền, chẳng thối các nguyện, được Phật
tự-tại, đủ nhứt-thiết-trí, chứng Phật giải-thoát, không chướng không ngại,
thành-tựu thanh-tịnh, nơi các quốc-độ không nhiễm trước, trong các phật-pháp
không phân-biệt. Dầu biết các pháp đều khắp b́nh-đẳng không có hai tướng mà hằng
thấy rơ tất cả cơi Phật. Dầu đă ngang đồng với tam-thế chư Phật mà tu hạnh
Bồ-Tát tương-tục chẳng dứt.
Chư Phật-tử !
Đại Bồ-Tát an trụ pháp hạnh nguyện quảng-đại của Phổ-Hiền như vậy, phải biết
người nầy tâm được thanh-tịnh.
Trên đây là trí
quảng-đại tâm thù-thắng vô-ngại-luân đại-tam-muội thứ mười của đại Bồ-Tát.
Chư Phật-tử !
Đây là đại Bồ-Tát trụ mười môn đại tam-muội trong Phổ-Hiền hạnh.
*****