Phẩm Thập Ðịa
Thứ Hai Mươi Sáu
Bấy
giờ đức Thế Tôn ngự ở điện Ma Ni Bửu Tạng trong cung của Tha Hoá Tự Tại Thiên
Vương câu hội với chư đại Bồ Tát từ phương khác đến.
Chư
Bồ Tát này không thối chuyển vô thượng Ðẳng Chánh Giác, an trụ trong cảnh giới
của Bồ Tát trí, vào chỗ của Ðức Phật vào, siêng tu không ngớt, hay khéo hiển
hiện những sự thần thông, giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh rất đúng thời.
Vì
thành tựu tất cả đại nguyện, chư Bồ Tát này trong tất cả kiếp, tất cả đời, tất
cả cõi, thường siêng tu tập không tạm lười nghỉ. Ðã đầy đủ phước, trí, trợ đạo,
khắp lợi ích chúng sanh mà luôn không thiếu sót, đạt đến trí huệ phương tiện Ba
la mật của Bồ Tát. Thị hiện vào sanh tử và nhập Niết Bàn, mà vẫn chẳng bỏ phế
thật hành Bồ Tát hạnh. Khéo vào tất cả thiền định giải thoát tam muội của Bồ
Tát. Trí huệ thần thông đều được tự tại với tất cả việc làm. Ðược tất cả thần
lực tự tại của Bồ Tát. Không hề động tác, mà trong khoảng một niệm có thể qua đến
tất cả đạo tràng của chư Phật, làm thượng thủ trong chúng để thỉnh Phật thuyết
pháp, hộ trì chánh pháp của Phật, cúng dường phụng thờ tất cả Chư Phật với tâm
quảng đại, thường siêng tu hạnh Bồ Tát. Thân các Ngài hiện khắp thế gian. Tiếng
các Ngài khắp mười phương pháp giới. Tâm trí các ngài vô ngại thấy khắp tam thế
tất cả Bồ Tát. Các Ngài đều đã tu hành viên mãn tất cả công đức, trải bất khả
thuyết kiếp cũng không thể nói hết.
Danh
hiệu của các Ngài là :
Kim
Cang Tạng Bồ Tát, Bửu Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Tạng Bồ Tát, Ðức Tạng Bồ Tát, Liên
Hoa Ðức Tạng Bồ Tát, Nhựt Tạng Bồ Tát, Tô Lợi Gia Tạng Bồ Tát, Vô Cấu Nguyệt
Tạng Bồ Tát, Phổ Hiện Trang Nghiêm Tạng Bồ Tát, Tỳ Lô Giá Na Trí Tạng Bồ Tát,
Diệu Ðức Tạng Bồ Tát, Chiên Ðàn Ðức Tạng Bồ Tát, Hoa Ðức Tạng Bồ Tát, Câu Tô Ma
Ðức Tạng Bồ Tát, Ưu Bát La Ðức Tạng Bồ Tát, Thiên Ðức Tạng Bồ Tát, Phước Ðức
Tạng Bồ Tát, Vô Ngại Thanh Tịnh Ðức Tạng Bồ Tát, Công Ðức Tạng Bồ Tát, Na La
Diên Ðức Tạng Bồ Tát, Vô Cấu Tạng Bồ Tát, Ly Cấu Tạng Bồ Tát, Biện Tài Trang
Nghiêm Tạng Bồ Tát, Ðại Quang Minh Võng Tạng Bồ Tát, Tịnh Oai Ðức Quang Minh
Vương Tạng Bồ Tát, Kim Trang Nghiêm Ðại Công Ðức Quang Minh Vương Tạng Bồ Tát,
Nhứt Thiết Tướng Trang Nghiêm Tịnh Ðức Tạng Bồ Tát, Kim Cang Diệm Ðức Tướng
Trang Nghiêm Tạng Bồ Tát, Quang Minh Diệm Tạng Bồ Tát, Tinh Tú Vương Quang
Chiếu Tạng Bồ Tát, Hư Không Vô Ngại Trí Tạng Bồ Tát, Diệu Âm Vô Ngại Tạng Bồ
Tát, Ðà La Ni Công Ðức Trì Nhứt Thiết Chúng Sanh Nguyện Tạng Bồ Tát, Hải Trang
Nghiêm Tạng Bồ Tát, Tu Di Ðức Tạng Bồ Tát, Tịnh Nhất Thiết Công Ðức Tạng Bồ
Tát, Như Lai Tạng Bồ Tát, Phật Ðức Tạng Bồ Tát, Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát...
Vô
số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả
lượng, bất khả thuyết đại Bồ Tát như vậy, Kim Cang tạng Bồ Tát là thượng thủ
trong đại chúng này.
Bấy
giờ Kim Cang Tạng Bồ Tát, thừa thần lực của Phật, nhập Bồ Tát đại trí huệ quang
minh tam muội. Ngài nhập tam muội này rồi, liền đó khắp mười phương quá ngoài
mười ức Phật sát vi trần số thế giới, mỗi phương đều có mười ức Phật sát vi
trần số Phật đồng hiệu Kim Cang Tạng, Phật hiện ra trước Ngài mà bảo rằng :
"Lành thay ! Lành thay ! Kim Cang Tạng Bồ Tát có thể nhập Bồ Tát đại trí
huệ quang minh tam muội này.
Thiện
nam tử ! Mười ức Phật sát vi trần số Phật ở mỗi phương khắp mười phương đồng
gia hộ ông. Do bổn nguyện lực và oai thần lực của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai,
cũng do thắng trí lực của ông, vì muốn ông tuyên thuyết Phật pháp quang minh
bất tư nghì cho chúng hội Bồ Tát. Như là :
Vì
khiến nhập trí địa, vì nhiếp tất cả thiện căn, vì khéo lựa chọn tất cả Phật
pháp, vì biết rộng các pháp, vì khéo hay thuyết pháp, vì vô phân biệt trí thanh
tịnh, vì tất cả thế pháp chẳng nhiễm, vì thiện căn xuất thế thanh tịnh, vì được
cảnh giới trí bất tư nghì, vì được cảnh giới trí của bực Nhứt thiết trí.
Lại
vì khiến được bực Bồ Tát Thập Ðịa thủy chung, vì tuyên thuyết tướng sai biệt
của Bồ Tát Thập Ðịa đúng thật, vì duyên niệm tất cả Phật pháp, vì tu tập phân
biệt pháp vô lậu, vì khéo lựa chọn quan sát đại trí quang minh khéo trang
nghiêm, vì khéo nhập môn trí quyết định, vì tùy ở chỗ nào đều thứ đệ thuyết
pháp vô sở úy, vì được quang minh biện tài vô ngại, vì trụ bực đại biện tài
khéo quyết định, vì ghi nhớ tâm Bồ Tát không quên mất, vì thành thục tất cả
chúng sanh giới, vì đến khắp tất cả xứ quyết định khai ngộ tất cả.
Thiện
nam tử ! Ông nên biện thuyết pháp sai biệt thiện xảo của pháp môn này. những là
:
Vì
nương thần lực và trí huệ của Phật gia hộ, vì thanh tịnh thiện căn của mình, vì
thanh tịnh khắp pháp giới, vì nhiếp khắp chúng sanh, vì thâm nhập Pháp thân,
Trí thân, vì thọ quán đảnh của Chư Phật, vì được thân cao lớn nhứt trong tất cả
thế gian, vì vượt hơn tất cả thế gian đạo, vì thanh tịnh thiện căn xuất thế, vì
đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.
Bấy
giờ Chư Phật ở mười phương đồng ban cho Kim Cang Tạng Bồ Tát thân chói sáng
nhứt, ban cho trí biện tài vô ngại, ban cho trí thanh tịnh khéo phân biệt, ban
cho sức khéo ghi nhớ không quên, ban cho huệ khéo quyết định rõ ràng, ban cho
trí đến tất cả xứ để khai ngộ, ban cho sức thành đạo tự tại, ban cho đức vô úy
của Phật, ban cho trí biện tài quan sát phân biệt các pháp môn của bực Nhứt
thiết trí, bàn cho thân, ngữ, ý trang nghiêm toàn vẹn thượng diệu của Như Lai.
Tại
sao vậy ?
Vì
được tam muội này thời tất nhiên như vậy, vì bổn nguyện phát khởi, vì thâm tâm
thiện tịnh, vì trí luân thiện tịnh, vì khéo chứa nhóm trợ đạo, vì khéo tu sửa
công hạnh, vì nhớ vô lượng pháp khí, vì biết tín giải thanh tịnh, vì được tổng
trì không lầm lộn, vì khéo ấn khả với pháp giới trí ấn.
Bấy
giờ mười phương Chư Phật đều đưa tay hữu xoa đầu Kim Cang Tạng Bồ Tát.
Chư
Phật xoa đầu xong, Kim Cang Tạng Bồ Tát xuất định bảo khắp chúng đại Bồ Tát
rằng :
Chư
Phật tử ! Thệ nguyện của các vị Bồ tát khéo quyết định không tạp chẳng thể
thấy, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, khắp tất cả Phật độ, suốt
thuở vị lai, cứu độ tất cả chúng sanh, được chư Phật gia hộ, vào trí địa của
tam thế Chư Phật.
Chư
Phật tử ! Những gì là trí địa của đại Bồ Tát ?
Chư
Phật tử ! Trí địa của đại Bồ tát có mười bực. Tam thế Chư Phật đã nói, sẽ nói,
đương nói, tôi cũng nói như vậy.
Ðây
là mười trí địa :
Một là hồi hướng
địa. Hai là Ly Cấu địa. Ba là Phát Quang địa. Bốn là Diệm Huệ địa. Năm là Nan
Thắng địa. Sáu là hiện Tiền địa. Bảy là Viễn Hành địa. Tám là Bất Ðộng địa.
Chín là Thiện Huệ địa. Mười là Pháp Vân địa.
Chư Phật tử !
Tôi chẳng thấy có quốc độ nào mà Chư Phật nơi đó chẳng nói mười trí địa này.
Tại sao vậy ? Vì
đây là đạo tối thượng hướng Bồ đề của đại Bồ Tát, cũng là pháp môn thanh tịnh
quang minh.
Chư Phật tử !
Nơi đây chẳng thể nghĩ bàn đến được, chính là chứng trí của chư đại Bồ Tát.
Kim Cang Tạng Bồ
Tát nói song liền im lặng không giảng giải nữa.
Bấy giờ chúng Bồ
Tát nghe tên mười bực trí địa mà chẳng nghe giải thích thời đều khát ngưỡng
nghĩ rằng : Do cớ gì Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát chỉ nói tên mười trí địa mà
chẳng giải thích ?
Giải thoát
Nguyệt Bồ Tát biết tâm niệm của chúng Bồ Tát, liền nói kệ để hỏi Kim Cang Tạng
Bồ Tát :
Cớ sao bực Tịnh
Giác
Ðủ niệm trí công
đức
Nói tên mười Trí
Ðịa
Biết rõ chẳng
giải thoát?
Tất cả đều quyết
định
Dũng mãnh không
khiếp nhược
Cớ sao nói tên
Ðịa
Rồi im không
giải thích ?
Ngĩa thú mười
Trí Ðịa
Trong chúng đều
muốn nghe
Lòng chúng không
khiếp nhược
Vì chúng xin
giải thích.
Chúng hội đều
thanh tịnh
Nghiêm khiết
không lười biếng
Hay vững vàng
bất động
Ðủ công đức trí
huệ,
Nhìn nhau đều
cung kính
Tất cả đồng khát
ngưỡng
Như ong nhớ mật
ngọt
Như khát tưởng
cam lồ.
Kim Cang Tạng Bồ
Tát, bực đại trí vô úy nghe Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát nói kệ muốn cho lòng chúng
hội hoan hỷ, liền nói kệ rằng :
Hạnh địa của Bồ
Tát
Gốc tối thượng
của Phật
Giải thích nói
rõ ràng
Hy hữu khó thứ
nhứt.
Vi tế khó thấy
được
Ly niệm siêu tâm
địa
Phát sanh cảnh
giới Phật
Người nghe sẽ mê
lầm.
Gìn lòng như Kim
Cang
Tin chắc nơi
Phật trí
Biết tâm địa vô
ngã
Thời nghe được
pháp này.
Như màu vẽ trên
không
Như tướng gió
trên không
Phật trí cũng
như vậy
Phân biệt rất
khó thấy
Tôi nghĩ phật
trí huệ
Tối thắng khó
nghĩ bàn
Người đời không
thọ được
Nên im lặng
chẳng nói.
Giải thoát
Nguyệt Bồ Tát bạch Kim Cang Tạng Bồ Tát : Nay đại chúng đây đều đã hội họp, tất
cả đều khéo lóng thâm tâm, khéo sạch tư niệm, khéo tu các hạnh, khéo tập trợ
đạo, khéo gần gũi trăm ngàn ức Phật, thành tựu vô lượng công đức thiện căn, lìa
bỏ mê lầm, không còn cấu nhiễm, thâm tâm tin hiểu, ở trong Phật pháp chẳng theo
người khác dạy.
Thưa Phật tử !
xin Ngài nên thừa oai thần của Phật, vì chúng mà diễn nói. Ðại chúng Bồ Tát đây
đối với chỗ thậm thâm như vậy đều có thể chứng biết.
Giải thoát
Nguyệt Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này bèn nói kệ rằng :
Xin nói hạnh Bồ
Tát
Vô thượng rất an
ổn
Phân biệt rõ các
địa
Trí tịnh thành
Chánh giác.
Chúng đây không
cấu nhiễm
Chí hiểu đều
sáng sạch
Kính thờ vô
lượng Phật
Hiểu được nghĩa
các địa.
Kim Cang Tạng Bồ
Tát nói : Thưa Phật tử ! Dầu đại chúng y đây đã khéo lóng sạch tu niệm, rời bỏ
ngu si nghi lầm, nơi Phật pháp thậm thâm không theo người dạy, nhưng còn có
chúng sanh trí cạn cợt, nếu nghe những sự thậm thâm khó nghĩa bàn này họ sẽ
sanh lòng nghi lầm mà phải chịu khổ lâu dài. Tôi vì thương xót hạng này nên im
lặng.
Kim Cang Tạng Bồ
Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Dầu chúng đây
trí rộng thanh tịnh
Pháp sâu trí lẹ
hay hiểu thấu
Tâm họ bất động
như Sơn Vương
Chẳng thể úy
nghiên dường đại hải.
Có hạng mới tu
hiểu chưa tới
Theo
thức phân biệt chẳng theo trí
Nghe
đây sanh nghi đọa ác đạo
Tôi
thương hạng này nên chẳng nói.
Giải
thoát Nguyệt Bồ Tát lại bạch với Kim Cang Tạng Bồ Tát : Thưa Phật tử ! xin Ngài
thừa thần lực của Phật mà phân biệt diễn nói pháp bất tư nghì này. những hạng
đây sẽ được đức Như Lai gia hộ cho họ tin thọ được. Vì lúc nói pháp Thập Ðịa,
tất cả Bồ Tát tất nhiên được Phật hộ niệm. vì được Phật hộ niệm nên đối với trí
địa này sanh lòng dũng mãnh. Vì đây là công hạnh tối sơ mà Bồ Tát thật hành để
thành tựu tất cả Phật pháp.
Ví
như viết chữ, tất cả đều từ mẫu tự làm gốc. Tự mẫu rốt ráo không có chút phân
rời tự mẫu.
Tất
cả Phật pháp đều dùng Thập Ðịa làm căn bổ. Thập địa rốt ráo ru hành thành tựu
được Nhứt thiết chủng trí. Do đây xin Phật tử diễn nói cho. Những người này tất
được đức Như Lai hộ niệm làm cho họ tin thọ.
Giải
thoát Nguyệt Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Lành
thay Phật tử xin diễn thuyết
Các
trí địa đưa vào Bồ đề
Mười
phương tất cả đấng Tự Tại
Thảy
đều hộ niệm trí căn bổn.
An
trụ trí này cũng rốt ráo
Tất
cả Phật pháp từ đây sanh
Ví
như viết chữ do mẫu tự
Cũng
thế, Phật pháp y trí địa.
Lúc
đó chúng đại Bồ Tát đồng thời ứng tiếng hướng về Kim Cang Tạng Bồ Tát mà nói kệ
rằng :
Trí
thượng diệu vô cấu
Vô
biên trí biện tài
Tuyên
xướng lời sâu đẹp
Tương
ưng Ðệ nhứt nghĩa.
Niệm
trì hạnh thanh tịnh
Thập
lực chứa công đức
Biện
tài phân biệt nghĩa
Nói
địa tối thắng này.
Ðịnh,
giới chứa chánh tâm
Lìa
ngã mạn tà kiến
Chúng
đây không lòng nghi
Cầu
xin được nghe giảng.
Như
khát tưởng nước mát
Như
đói như món ngon
Như
bịnh cầu thuốc hay
Như
ong tham mật tốt.
Chúng
tôi cũng như vậy.
Mong
nghe pháp cam lồ
Lành
thay bực đại trí
Nguyện
giải thoát Thập Ðịa,
Thành
Thập lực vô ngại
Tất
cả hạnh của Phật
Chúng
tôi nếu được nghe
Tin
thọ siêng tu tập.
Bấy
giờ đức Thế Tôn từ chặng mày phóng quang minh thanh tịnh tên là Bồ Tát Lực Diệm
Minh, kèm theo vô số trăm ngàn quang minh chiếu khắp tất cả thế giới mười
phương. Ba ác đạo đều được hết khổ. Quang Minh này lại chiếu suốt tất cả chúng
hội của tất cả Phật, hiển hiện thần lực bất tư nghì của Phật. Lại chiếu đến
thân Bồ Tát được Phật gia hộ thuyết pháp trong tất cả thế giới khắp mười
phương. Quang Minh này là những sự trên đây rồi kết thành đài lưới mây rất sáng
chói dừng ở trên không.
Lúc
đó Chư Phật ở mười phương cũng phóng quang như vậy, và cũng hiện thành những sự
như vậy. Lại chiếu đến Phật và đại chúng ở thế giới Ta Bà này, cùng chiếu đến
thân và tòa sư tử của Kim Cang Tạng Bồ Tát.
Trong
đài lưới mây sáng chói dừng ở trên không, do thần lực của Phật, có tiếng nói kệ
rằng :
Phật
Vô đẳng đẳng như hư không
Thập
lực vô lượng thắng công đức
Tối
thắng vô thượng trong thế gian
Thích
Ca Như Lai gia hộ đó.
Phật
tử nên thừa thần lực Phật
Giải
bày tạng tối thắng tối tôn
Trí
địa quảng đại hạnh thắng diệu
Nương
Phật oai thần phân biệt nói.
Nếu
được Như Lai gia hộ cho
Sẽ
được pháp bửu vào tâm mình
Bồ
Tát Thập Ðịa tuần tự đầy
Cũng
đủ Chư Phật mười trí lực.
Dầu
ở biển sâu hay kiếp hỏa
Kham
thọ pháp này tất được nghe
Những
ai sanh nghi không lòng tin
Trọn
không được nghe nghĩa như vậy.
Nói
rộng Thập Ðịa : đạo Thắng Trí
Nhập
trụ tuần tự tu tập lần
Theo
hạnh phát sanh cảnh giới trí
Vì
lợi ích chúng sanh tất cả.
Kim
Cang Tạng Bồ Tát quan sát mười phương muốn cho đại chúng thêm lòng tin thanh
tịnh nên nói kệ rằng :
Ðạo
lớn của Như Lai
Vi
diệu khó biết được
Lìa
niệm chẳng phải niệm
Cầu
thấy chẳng thể được
Không
sanh cũng không diệt
Tánh
tịnh thường vắng lặng
Người
ly cấu thông huệ
Ðang
đi trong cảnh đó.
Tự
tánh vốn không tịch
Vô
nhị cũng vô tận
Giải
thoát khỏi các loài
Trụ
Niết Bàn bình đẳng.
Chẳng
phải sơ, trung, hậu
Chẳng
phải ngôn từ đến được
Vượt
qua ngoài thời gian
Tướng
đó dường hư không.
Cảnh
giới Phật tịch diệt
Lời
nói không đến được
Cảnh
Thập địa cũng vậy
Khó
nói cũng khó nhận.
Trí
phát sanh cảnh Phật
Rời
hẳn ngoài tâm niệm
Chẳng
phải uẩn xứ giới
Trí
biết, ý chẳng biết.
Như
dấu chim bay qua
Khó
chỉ cũng khó nói
Nghĩa
của mười trí địa.
Tâm
ý không rõ được.
Từ
bi và nguyện lực
Sanh
hạnh vào Thập địa
Tuần
tự tâm viên mãn
Chẳng
phải cảnh tư lự.
Cảnh
giới này khó thấy
Biết
được không nói được
Do
Phật lực nên nói
Ðại
chúng phải kính nhận.
Cảnh
giới của trí địa
Ức
kiếp nói không hết
Nay
tôi chỉ nói lược
Nghĩa
chơn thiệt của kia.
Ðại
chúng cung kính chờ
Tôi
thừa Phật lực nói
Tiếng
pháp diệu thù thắng
Tương
ưng chữ ví dụ.
Thần
lực vô lượng Phật
Ðều
đến vào thân tôi
Nơi
đây khó hiển bày
Nay
tôi nói phần ít.
Chư
Phật tử ! Nếu có chúng sanh trồng sâu căn lành, khéo tu tập những hạnh trợ đạo,
hay cúng dường Chư Phật, làm thiện tri thức, khéo chứa nhóm những pháp trắng
trong, giỏi nhiếp và khéo làm thanh tịnh thâm tâm, lập chí quảng đại phát sanh
trí biết rộng lớn, lòng từ bi luôn hiện tiền, vì cầu Phật trí, vì được Thập
lực, vì được đại vô úy, vì được Phật pháp bình đẳng, vì cứu tất cả thế gian, vì
thanh tịnh đại từ bi, vì được Thập lực Nhứt thiết chủng trí, vì thanh tịnh Phật
độ vô ngại, vì khoảng một niệm biết cả tam thế, vì chuyển đại pháp luân vô úy.
Chư
Phật tử ! Bồ tát phát khởi những tâm như vậy bèn lấy đại bi làm trước, trí huệ
tăng thượng, phương tiện khéo diệu, thâm tâm tối thượng là chỗ nhiếp lấy, Phật
lực là chỗ giữ gìn, vô lượng trí khéo quan sát, sức phân biệt dũng mãnh, sức
trí huệ vô ngại hiện tiền, tùy thuận tự nhiên trí, có thể thọ lãnh tất cả Phật
pháp dùng trí huệ để giáo hóa, quảng đại như pháp giới, rốt ráo dường hư không
suốt thuở vị lai.
Này
Phật tử ! Bồ Tát mới bắt đầu phát tâm như vậy liền được vượt khỏi hạng phàm phu
mà vào ngôi Bồ Tát, sanh vào nhà Như Lai. Không ai có thể nói chủng tộc của
Ngài lỗ lầm. Ngài đã rời loài thế gian mà vào đạo xuất thế, được pháp Bồ Tát, ở
chỗ Bồ Tát, nhập tam thế bình đẳng, ở trong chủng tánh Như Lai quyết định sẽ
thành Vô Thượng Giác. Bồ Tát an trụ những pháp như vậy gọi là trụ bực "Bồ
Tát Hoan Hỷ Ðịa", vì đã tương ưng với chơn như bất động.
Chư
Phật tử ! Bồ tát trụ bực Hoan Hỷ Ðịa thời thành tựu nhiều hoan hỷ, nhiều tịnh
tín, nhiều ái lạc, nhiều thích duyệt, nhiều hân khánh, nhiều dũng dước, nhiều
dũng mãnh, nhiều bất đấu tránh, nhiều vô não hại, nhiều vô sân hận.
Chư
Phật tử ! Bồ tát trụ bực Hoan Hỷ Ðịa vì nhớ Chư Phật nên sanh vui mừng, vì nhớ
Phật pháp nên sanh vui mừng, vì nhớ chư Bồ Tát nên sanh vui mừng, vì nhớ hạnh
Bồ Tát nên sanh vui mừng, vì nhớ thanh tịnh Ba la mật nên sanh vui mừng, vì nhớ
Bồ Tát địa thù thắng nên sanh vui mừng, vì nhớ Bồ Tát không hư hoại nên sanh
vui mừng, vì hớ Chư Phật giáo hóa chúng sanh nên sanh vui mừng, vì nhớ có thể
làm lợi ích cho chúng sanh nên sanh vui mừng, vì nhớ vào trí phương tiện của
Chư Phật nên sanh vui mừng.
Bồ
Tát này lại tự nghĩ : Vì tôi đã chuyển và rời tất cả cảnh giới thế gian mà hoan
hỷ, vì thân cận tất cả Phật mà hoan hỷ, vì lìa xa hạng phàm phu mà hoan hỷ, vì
gần bực trí huệ mà hoan hỷ, vì dứt hẳn tất cả ác thú mà hoan hỷ, vì làm chỗ y
chỉ cho tất cả chúng sanh mà hoan hỷ, vì thấy tất cả Như Lai mà hoan hỷ, vì
sanh vào cảnh giới Phật mà hoan hỷ, vì vào trong tánh bình đẳng của tất cả Bồ
Tát mà hoan hỷ, vì xa lìa tất cả những sự kinh sợ rùng mình mà hoan hỷ.
Tại
sao vậy ? Vì Bồ Tát đã được bực Hoan Hỷ Ðịa thời được khỏi hẳn tất cả sự kinh
sợ. Như là xa lìa hẳn sự sợ chẳng sống, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ sa ác đạo, sợ
oai đức của đại chúng.
Tại
sao lại được khỏi hẳn những sự kinh sợ ?
Vì
Bồ Tát này đã lìa ngã tưởng, thân mình còn không mến tiếc huống là của cải, vì
thế nên không kinh sợ về sự không sống.
Vì
Bồ Tát này không trông cầu người khác cúng dường mình, chỉ chuyên cấp thí tất
cả chúng sanh nên không kinh sợ về sự tiếng xấu.
Vì
Bồ Tát này đã lìa ngã kiến không có ngã tưởng nên không kinh sợ về sự chết.
Vì
Bồ Tát này tự biết sau khi chết quyết định không rời Chư Phật Bồ Tát nên không
kinh sợ về sự sa ác đạo.
Vì
chí nguyện của Bồ Tát này, trong tất cả thế gian còn không ai bằng huống là
hơn, nên không kinh sợ đối với oai đức của đại chúng.
Chư
Phật tử ! Bồ tát này lấy đại bi làm trước, chí nguyện rộng lớn không có gì trở
hoại được. Lại thêm siêng tu tất cả thiện căn mà được thành tựu.
Những
thiện căn đó như : lòng tin tăng thượng, nhiều lòng tin thanh tịnh, hiểu biết
thanh tịnh, lòng quyết định, phát sanh lòng bi mẫn, thành tựu đức đại từ, không
nhàm mỏi, lòng hổ thẹn trang nghiêm, thành tựu hạnh nhu hòa, kính thuận tôn
trọng giáo pháp của Chư Phật, ngày đêm tu tập các căn lành không nhàm đủ, gần
gũi thiện tri thức, luôn mến thích chánh pháp, cầu đa văn không nhàm đủ, chánh
quan sát đúng với pháp đã được nghe, lòng không y tựa chấp trước, không tham
muốn lợi danh cung kính, chẳng mong cầu tất cả vật dụng nuôi sống phát sanh tâm
như thật không nhàm đủ, cầu bực Nhứt thiết trí, cầu Phật lực, vô úy, Phật pháp
bất cộng, cầu các môn trợ đạo Ba la mật, lìa những dua dối, có thể thật hành
đúng như lời nói, luôn gìn lời như thật, chẳng làm nhơ nhớp nhà Như Lai, chẳng
bỏ giới Bồ Tát, sanh Nhứt thiết trí, lòng vững như Sơn Vương bất động, chẳng bỏ
tất cả sự thế gian mà thành tựu tất cả đạo xuất thế, tu tập pháp trợ đạo Vô
thượng Bồ đề không mỏi nhàm, thường cầu đạo Vô thượng.
Chư
Phật tử ! Bồ tát thành tựu pháp tu tập thanh tịnh tâm địa như vậy thời gọi là
an trụ bực " Bồ Tát Hoan Hỷ Ðịa".
Bồ
Tát này thành tựu đại nguyện, đại dũng, đại dụng như vầy :
Phát
sanh trí hiểu biết quyết định thanh tịnh quảng đại, đem tất cả đồ cúng dường
cung kính dâng lên tất cả Chư Phật không thiếu sót, rộng lớn dường pháp giới,
rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.
Lại
phát đại nguyện : Nguyện thọ lãnh tất cả Phật pháp, nguyện nhiếp tất cả Phật
trí, nguyện hộ tất cả Phật giáo, nguyện trì tất cả Phật pháp, rộng lớn như pháp
giới, rốt ráo như hư không suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.
Lại
phát đại nguyện : Nguyện trong tất cả thế giới, lúc Phật xuất thế : Giáng thần,
nhập thai, trụ thai, sơ sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, nhập Niết Bàn,
tôi đều đến gần gũi cúng dường, làm thượng thủ trong chúng, thọ lãnh và thật
hành chánh pháp, đồng thời chuyển pháp khắp tất cả mọi nơi, rộng lớn như pháp
giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vi lai không thôi nghỉ.
Lại
phát đại nguyện : Nguyện tất cả Bồ Tát hạnh quảng đại chẳng hoại, chẳng tạp
nhiếp các môn Ba la mật, tu tập thanh tịnh các trí địa. Tổng tướng, biệt tướng,
đồng tướng, dị tướng, thành tướng, hoại tướng, tất cả Bồ Tát hạnh đều nói đúng
như thiệt. Giáo hóa tất cả chúng sanh cho họ lãnh thọ thật hành tâm địa được
tăng trưởng, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp
số vị lai không thôi nghỉ.
Lại
phát đại nguyện : Nguyện tất cả giới chúng sanh : có sắc, không sắc, có tưởng,
không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, noãn sanh, thai sanh, thấp
sanh, hóa sanh, hệ thuộc ba cõi, vào sáu loài tất cả chỗ thác sanh, nhiếp về
danh sắc, những loài như vậy tôi đều giáo hóa cho họ vào Phật pháp, dứt hẳn tất
cả loài thế gian mà an trụ đạo Nhứt thiết chủng trí. Rộng lớn như pháp giới,
rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.
Lại
phát đại nguyện : Nguyện tất cả thế giới rộng lớn vô lượng : Thô, tế, loạn trụ,
đảo trụ, chánh trụ, hoặc vào, hoặc đi, hoặc đến, sai khác như đế võng, mười
phương vô lượng thế giới nhiều loại không đồng, đều thấy biết rõ với trí lực.
Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai
không thôi nghỉ.
Lại
pháp tại nguyện : Nguyện tất cả quốc độ vào một quốc độ, một quốc độ vào tất cả
quốc độ, vô lượng Phật độ đều khắp thanh tịnh. Những đồ vật sáng chói dùng để
trang nghiêm. Lìa tất cả phiền não thành đạo thanh tịnh. Chúng sanh trí huệ số
đông vô lượng ở đầy trong đó. Vào khắp cảnh giới quảng đại của Chư Phật, tùy
thuận tâm chúng sanh để thị hiện cho họ đều hoan hỷ. Rộng lớn như pháp giới rốt
ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.
Lại
phát đại nguyện : Nguyện cùng tất cả Bồ Tát đồng một chí một hạnh không ganh
thù, chứa nhóm các căn lành, tất cả Bồ Tát bình đẳng một duyên, thường tập hội
không rời bỏ nhau, tùy ý có thể hiện nhiều thân Phật, tự tâm nhậm vận có thể
biết cảnh giới của Chư Phật, oai lực trí huệ được thần thông bất thối tùy ý du
hành tất cả thế giới, hiện thân trong tất cả chúng hội, vào khắp tất cả chỗ
thác sanh, thành tựu đại thừa tu hạnh Bồ Tát bất tư nghì. Rộng lớn như pháp
giới, rốt ráo dường như không suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.
Lại
phát đại nguyện : Nguyện thừa pháp luân bất thối tu hạnh Bồ Tát, thân, ngữ, ý
ba nghiệp đều không để luống, nếu ai tạm thấy thời được quyết định nơi Phật
pháp, nếu ai tạm nghe âm thanh thời được thật trí, vừa sanh lòng tịnh tín thời
dứt hẳn phiền não, được thân như cây đại Dược Vương, được thân như châu như ý,
tu hành tất cả hạnh Bồ Tát. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không,
suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.
Lại
phát đại nguyện : Nguyện ở khắp tất cả thế giới thành Vô thượng Chánh giác,
chẳng rời một chân lông mà nơi tất cả chân lông thị hiện sơ sanh, xuất gia, đến
đạo tràng, thành Chánh giác, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn, được sức đại trí
huệ cảnh giới của Phật trong mỗi niệm thuận theo tâm của tất cả chúng sanh mà
thị hiện thành Phật làm cho họ được tịch diệt, dùng Nhứt thiết trí biết tất cả
pháp giới chính là tướng Niết Bàn, dùng một âm thanh thuyết pháp làm cho tâm tất
cả chúng sanh đều hoan hỷ. Thị hiện nhập đại Niết Bàn mà chẳng dứt hạnh Bồ Tát,
thị hiện bực đại trí huệ an lập tất cả pháp. Dùng pháp Trí thông, Thần túc
thông, Huyễn thông, tự tại biến hóa khắp tất cả pháp giới. Rộng lớn như pháp
giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.
Chư
Phật tử ! Bồ tát trụ bực Hoan Hỷ Ðịa phát đại nguyện như vậy, dũng mãnh như
vậy, đại dụng như vậy. Dùng mười nguyện môn này làm đầu đầy đủ trăm vạn vô số
đại nguyện.
Chư
Phật tử ! Ðại nguyện này do mười tận cú mà được thành tựu.
Ðây
là mười tận cú :
Chúng
sanh giới tận, thế giới tận, hư không giới tận, pháp giới tận, Như Lai giới
tận, tâm sở duyên giới tận, Phật trí sở nhập cảnh giới giới tận, thế gian
chuyển pháp chuyển trí chuyển giới tận.
Nếu
chúng sanh giới tận thệ nguyện của tôi mới tận, nhẫn đến thế gian chuyển pháp,
chuyển trí, chuyển giới tận thệ nguyện của tôi mới tận. Nhưng chúng sanh giới
nhẫn đến trí chuyển giới không cùng tận, nên thiện căn đại nguyện của tôi đây
cũng không cùng tận.
Chư
Phật tử ! Bồ tát phát đại nguyện như vậy rồi thời được : Tâm lợi ích, tâm nhu
nhuyến, tâm tùy thuận, tậm tịch tịnh, tâm điều phục, tâm tịch diệt, tâm khiêm
hạ, tâm nhuận trạch, tâm bất động, tâm bất trược, thành bực tịnh tín, có công
dụng của đức tin, có thể tin bổn hạnh chứng nhập của Như Lai, tin thành tựu
được các môn Ba la mật, tin vào những bực thắng địa, tin sức thành tựu tin đầy
đủ vô sở úy, tin sanh trưởng Phật pháp bất cộng bất hoại, tin Phật pháp bất tư
nghì, tin xuất sanh Phật cảnh giới không trung biên, tin tùy nhập vô lượng cảnh
giới của Phật, tin thành tựu quả. Tóm lại, tin tất cả Bồ Tát hạnh, nhẫn đến tin
trí, địa, thuyết, lực của Như Lai.
Chư
Phật tử ! Bồ tát này lại nghĩ rằng : Chánh pháp của Chư Phật thậm thâm như vậy,
tịch tịnh như vậy, tịch diệt như vậy, không, vô tướng, vô nguyện như vậy, vô
nhiễm như vậy, vô lượng, quảng đại như vậy, mà hành phàm phu sa vào tà kiến, bị
vô minh che lòa, dựng cao tràng kiêu mạn, vào trong lưới khát ái, đi trong rừng
rậm dua dối không tự ra được. Lòng luôn đi đôi với tham lam ganh ghét, thường
tạo, những nhơn duyên thọ sanh trong các loài, tham, sân, si gây thành những
nghiệp ngày đêm thêm lớn mãi, do gió phẫn hận thổi ngọn lửa tâm thức hực hực
không tắt, phàm họ nói hay làm đều là điên đảo. Dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu,
kiến lưu nói luôn phát khởi chủng tử tâm ý thức. Trong ruộng tam giới lại mọc
mầm khổ, chính là chẳng rời danh sắc. Danh sắc này thêm lớn, thành tụ lạc của
sáu loài. Trong đó đối nhau mà sanh ra xúc, do xúc sanh thọ, nhơn thọ sanh ái,
vì ái tăng trưởng nên sanh thủ, vì thủ tăng trưởng nên sanh hữu mà có hữu nảo.
Chúng sanh thêm hớn quả khổ, trong đây là trống rỗng lìa ngã và ngã sở, vô tri
vô giác, vô giác vô thọ như cỏ cây, đá vách, cũng như vang bóng. Nhưng chúng
sanh vẫn không hay không biết.
Bồ
Tát thấy chúng sanh không thể thoát khỏi khổ quả như vậy, liền phát sanh đại bi
trí huệ tự nghĩ rằng : Tôi phải cứu vớt tất cả chúng sanh này đặt họ ở chỗ rốt
ráo an lạc. Do vì suy nghĩ phát tâm như vậy nên sanh trí huệ quang minh đại từ.
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ Tát tùy thuận đại bi đại từ như vậy, lúc dùng tâm thâm trọng
trụ bực Sơ địa, đối với tất cả vật không hề lẫn tiếc, cầu Phật trí, tu đại xả.
Phàm có thứ chi đều có thể bố thí cả. Những là tiền, lúa, kho, đụn, vàng, bạc,
ma ni, châu ngọc, đồ trang sức, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ, nhơn dân, thành ấp,
tụ lạc, vườn rừng, lầu đài, vợ con quyến thuộc, đầu, mắt, tay, chân, máu, thịt,
xương, tủy, tất cả đều không tiếc, để cầu trí huệ rộng lớn của chư Phật.
Ðây
gọi là thành tựu đại xả của bực Bồ Tát trụ "Sơ Ðịa".
Chư
Phật tử ! Bồ Tát dùng tâm từ bi đại thí này là vì muốn cứu hộ tất cả chúng
sanh. Thêm cầu những sự lợi ích thế gian và xuất thế, vì không nhàm đủ liền
được thành tựu tâm không mỏi nhàm. Ðược tâm không mỏi nhàm rồi, với tất cả kinh
luận, không lòng khiếp nhược, vì lòng không khiếp nhược liền được thành tựu
nhứt thiết kinh luận trí. Ðược trí này rồi thời có thể hay so lường việc nên
làm, việc chẳng nên làm. Với tất cả chúng sanh căn cơ thượng, trung, hạ, thuận
theo chỗ đáng độ, năng lực và thói quen của họ mà làm cho họ đều được lợi ích.
Do đây Bồ Tát được thành thế trí. Thành được thế trí rồi liền biết thời tiết,
biết lượng số. Vì tàm quý mà siêng tu đạo hạnh tự lợi lợi tha nên thành tựu tàm
quý trang nghiêm. Trong hạnh này siêng tu hạnh giải thoát không thối chuyển
thành sức kiên cố. Ðược sức kiên cố rồi thời siêng cúng dường chư Phật. Nơi
giáo pháp của Phật có thể thật hành đúng như lời dạy.
Chư
Phật tử ! Bồ Tát thành tựu mười pháp thanh tịnh các trí địa như vậy. Chính là :
Bi, từ, xả, không mỏi nhàm, biết kinh luận, hiểu thế pháp, tàm quý, sức kiên
cố, cúng dường chư Phật và y giáo tu hành.
Chư
Phật tử ! Bồ Tát đã trụ bực Hoan Hỷ Ðịa này rồi, do sức đại nguyện được thấy
nhiều đức Phật. Như là thấy trăm đức Phật, thấy ngàn đức Phật, trăm ngàn đức
Phật, ức Phật, trăm ức Phật, ngàn ức Phật, trăm ngàn ức Phật, ức na do tha
Phật, trăm ức na do tha Phật, ngàn ức na do tha Phật, trăm ngàn ức na do tha
Phật. Với chư Phật này, Bồ Tát đều dùng đại tâm, thâm tâm, cung kính tôn trọng
phụng thờ cúng dường những y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược và tất cả đồ dùng,
cũng cúng dường tất cả chúng Tăng, Bồ Tát đem công đức thiện căn này đều hồi
hướng Vô thượng Bồ đề.
Chư
Phật tử ! Vì cúng dường chư Phật, Bồ Tát này thành tựu được chúng sanh pháp,
dùng hai nhiếp pháp trước là bố thí và ái ngữ để nhiếp lấy chúng sanh. Còn hai
nhiếp pháp sau thời chỉ do sức tín giải mà thật hành chớ chưa thông đạt.
Bồ
Tát này ở trong mười Ba la mật, thời đàn Ba la mật được thượng. Với chín Ba la
mật kia thời tùy sức tùy phần mà thật hành.
Bồ
Tát này trong lúc siêng cúng dường chư Phật giáo hóa chúng sanh đều để tu hành
thanh tịnh pháp trí địa. Bao nhiêu thiện căn đều hồi hướng bực Nhứt thiết chủng
trí, lần thêm sáng sạch, điều nhu thành tựu, tùy ý đều dùng được.
Chư
Phật tử ! Ví như thợ kim hoàn, khéo luyện vàng, cho vào lửa thường thời vàng
càng thêm sáng sạch mịn nhuyễn tùy ý người thợ dùng.
Cũng
vậy, Bồ Tát này cúng dường chư Phật giáo hóa chúng sanh đều để tu hành thanh
tịnh pháp trí địa, bao nhiêu thiện căn đều hồi hướng bực Nhứt thiết chủng trí,
càng thêm sáng sạch điều nhu thành tựu có thể dùng tùy ý.
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ tát trụ bực Sơ địa phải đến chỗ Chư Phật, Bồ Tát, Thiện tri
thức tìm cầu thưa hỏi. Ở trong địa này, từ nơi tướng và đắc quả không nhàm đủ,
vì muốn thành tựu pháp của trí địa này. Lại cũng phải đến chỗ Phật, Bồ Tát,
Thiện tri thức tìm cầu thưa hỏi tướng và đắc quả của Nhị địa, Tam địa nhẫn đến
Thập địa không nhàm đủ, vì muốn thành tựu pháp của các trí địa đó.
Bồ
Tát này khéo biết trong các trí địa : Chướng và đối trị, địa thành hay hoại,
địa tướng và quả. Cũng biết rõ địa đắc tu, địa pháp thanh tịnh, địa tiến tu
lên, phải địa chẳng phải địa, trí thù thắng của các địa, bất thối chuyển của
các địa. Cũng khéo biết thanh tịnh tu trị tất cả trí địa, nhẫn đến chuyển vào
Như Lai địa.
Chư
Phật tử ! Bồ tát khéo biết địa tướng như vậy. Ban đều ở bực Sơ địa phát khởi tu
hành không giám đoạn, nhẫn đến nhập bực Thập địa không gián đoạn.
Do
trí huệ sáng suốt của các trí địa đây mà thành trí huệ quang minh của Như Lai.
Chư
Phật tử ! Ví như vị thương chủ biết rành phương tiện muốn dắt các thương gia
đến đại thành, lúc chưa khởi hành, trước hỏi rõ sự lành dữ dọc đường và chỗ đến
ở an hay nguy, được hay không. Sau đó trang bị tu lương vật dụng đầy đủ rồi mới
cùng nhau lên đường.
Chư
Phật tử ! Vị thương chủ kia dầu chưa khởi hành mà đã biết rõ lộ trình lành dữ
tất cả sự an nguy, khôn khéo suy tính sắm sửa hành trang lương thực không để
thiếu sót, mới có thể dắt đoàn thương gia đến đại thành một các toàn vẹn an ổn.
Chư
Phật tử ! Bồ tát cũng như vậy. Trụ bực Sơ địa biết rành chướng và đối trị của
các trí địa, nhẫn đến biết rành tất cả trí địa thanh tịnh chuyển nhập Như Lai
địa, sau đó mới lo đủ tu lương phước và trí, dắt các chúng sanh đi qua đường
hiểm sanh tử, đến thành Nhứt thiết chủng trí một các an toàn.
Vì
lẽ trên đây nên Bồ Tát phải thường siêng tu công hạnh thanh tịnh thù thắng của
các trí địa nhẫn đến chứng nhập Như Lai địa.
Chư
Phật tử ! Ðây gọi là lược nói môn nhập bực Sơ địa của đại Bồ Tát. Nói rộng ra
thời có vô lượng vô biên trăm ngàn vô số sự sai khác.
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ tát trụ bực Sơ địa này phần nhiều hiện làm vua ở Diêm Phù Ðề,
giàu mạnh tự tại thường hộ trì chánh pháp. Hay dùng hạnh đại thí để nhiếp thủ
chúng sanh, khéo trừ tật tham lam bỏn sẻn của chúng sanh. Tất cả công việc làm
như là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng. Chẳng rời niệm Bồ Tát đồng hạnh, chẳng rời niệm hạnh Bồ Tát, các môn
Ba la mật, các trí địa. Chẳng rời Niệm lực, Vô úy, pháp Bất cộng. Chẳng rời
niệm Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này lại nghĩ rằng : Tôi phải ở trong tất cả chúng sanh làm thượng thủ, làm
thắng, làm thù thắng, làm diệu, làm vi diệu, làm thượng, làm vô thượng, làm Ðạo
Sự, làm tướng, làm soái, nhẫn đến làm người y chỉ của Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này nếu muốn bỏ nhà để siêng tu Phật pháp, liền có thể bỏ nhà vợ con ngũ
dục, vào nhà Như Lai xuất gia học đạo. Ðã xuất gia rồi thời tinh tấn tu hành,
trong khoảng một niệm trăm tam muội, được thấy trăm đức Phật, biết thần lực của
trăm Ðức Phật, có thể chấn động thế giới của tăm Ðức Phật, có thể qua thế giới
của trăm Ðức Phật, có thể chiếu thế giới của trăm Ðức Phật, có thể giáo hóa
chúng sanh trong trăm thế giới, có thể trụ thọ trăm kiếp, có thể biết những
việc đã qua và sẽ tới trong trăm kiếp, có thể vào trăm pháp môn, có thể thị
hiện trăm thân, ở mỗi thân có thể thị hiện trăm vị Bồ Tát làm quyến thuộc.
Nếu
dùng nguyện lực thù thắng của Bồ Tát tự tại thị hiện hơn nơi số trên đây, thời
cả trăm kiếp ngàn kiếp, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp cũng chẳng tính biết
được.
Kim
Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng :
Nếu
người tu điều lành
Ðủ
những pháp bạch tịnh
Cúng
dường chư Thế Tôn
Tùy
thuận đạo từ bi.
Tin
hiểu rất rộng lớn
Chí
nguyện cũng thanh tịnh
Vì
cầu trí huệ Phật
Phát
tâm vô thượng này.
Tu
tất cả trí lực
Và
cùng vô sở úy
Thành
tựu các Phật pháp
Cứu
nhiếp các quần sanh.
Vì
được đại từ bi
Và
chuyển thắng pháp luân
Nghiêm
tịnh Phật quốc độ
Phát
tâm tối thắng này.
Một
niệm biết tam thế
Mà
không có phân biệt
Thời
gian sai khác nhau
Ðể
hiển thị thế gian
Lược
nói cầu Chư Phật
Tất
cả thắng công đức
Phát
sanh tâm quảng đại
Lượng
đồng cõi hư không.
Bi
trước, huệ làm chủ
Tương
ưng cùng phương tiện
Tâm
tín giải thanh tịnh
Phật
vô lượng thần lực.
Trí
vô ngại hiện tiền
Tự
ngộ chẳng do người
Ðầy
đủ đồng Chư Phật
Phát
tâm tối thắng này.
Phật
tử mới phát sanh
Tâm
diệu bửu như vậy
Thời
siêu hạng phàm phu
Vào
chỗ đi của Phật.
Sanh
tại nhà Như Lai
Chủng
tộc không tội lỗi
Ðồng
bình đẳng với Phật
Quyết
thành Vô Thượng Giác,
Vừa
sanh lòng như vậy
Liền
được vào Sơ địa
Chí
nguyện chẳng bị động
Dường
như núi Tu Di.
Nhiều
vui, nhiều ưa thích.
Lại
cũng nhiều tịnh tín
Tâm
dũng mãnh rất lớn
Và
cùng tâm mừng rỡ.
Xa
rời sự đấu tránh
Não
hại và giận hờn
Kính
thuận mà chất trực
Khéo
gìn giữ sáu căn.
Ðấng
cứu thế vô thượng
Có
bao nhiêu trí huệ
Bực
này tôi sẽ được
Ghi
nhớ sanh hoan hỷ.
Mới
được vào Sơ địa.
Liền
siêu năm điều sợ :
Chẳng
sống, thiếng xấu, chết,
Ác
đạo, chúng oai đức.
Vì
chẳng tham chấp ngã
Và
chẳng chấp ngã sở
Các
Phật tử như đây
Xa
rời năm điều sợ.
Thường
thật hành đại từ
Luôn
kính tin tùy thuận.
Ðủ
công đức tàm qúy
Ngày
đêm thêm pháp lành.
Thích
thật lợi chánh pháp
Chẳng
ưa thọ dục lạc
Tu
duy pháp đã nghe
Rời
xa hạnh chấp trước.
Chẳng
tham cầu lợi dưỡng
Chỉ
thích Phật Bồ đề
Nhứt
tâm cầu Phật trí
Chuyên
ròng không niệm khác.
Tu tập Ba la mật
Xa rời dua dối
gạt
Thật
hành đúng lời Phật
An
trụ trong thật ngữ.
Chẳng
nhơ nhà Chư Phật
Chẳng
bỏ giới Bồ Tát
Chẳng
thích những thế sự
Thường
lợi ích thế gian.
Làm
lành không nhàm đủ
Thêm
cầu đạo tăng thắng
Ưa
thích pháp như vậy
Tương
ưng nghĩa công đức.
Thường
phát khởi đại nguyện
Nguyện
thấy chư Như Lai
Hộ
trí Phật chánh pháp
Nhiếp
lấy đạo vô thượng.
Thường
sanh nguyện như vầy :
Tu
hành hạnh tối thắng.
Thành
thục mọi quần sanh
Nghiêm
tịnh Phật quốc độ.
Tất
cả các cõi Phật
Ðều
đông dầy Phật tử
Bình
đẳng chung một lòng
Việc
làm đều chẳng luống.
Nơi
tất cả chân lông
Ðồng
thời thành Chánh giác
Những
đại nguyện như vậy
Vô
lượng vô biên tế.
Hư
không cùng chúng sanh
Pháp
giới và Niết Bàn
Thế
gian Phật ra đời
Phật
trí tâm cảnh giới,
Trí
của Như Lai chứng
Cùng
Tam chuyển pháp tận
Tất
cả đó có tận
Nguyện
của tôi mới tận,
Như
đó không cùng tận
Nguyện
của tôi cũng vậy,
Phát
nguyện lớn như thế
Tâm
nhu nhuyến điều thuận.
Hay
tin công đức Phật
Quan
sát nơi chúng sanh
Biết
từ nhơn duyên khởi
Liền
sanh lòng từ mẫn :
Chúng
sanh khổ như vậy
Nay
tôi phải cửu thoát
Vì
những chúng sanh này
Thật
hành việc bố thí.
Ngôi
vua và trân bửu
Nhẫn
đến voi, ngựa, xe,
Ðầu,
mắt, cùng tay, chân,
Nhẫn
đến máu, thịt, xương
Tất
cả đều xả thí
Không
có lòng hối tiếc.
Cầu
các thứ kinh thơ
Không
hề biết nhàm mỏi
Khéo
hiểu nghĩa thú kia
Hay
thuận theo thế gian.
Tàm
quý tự trang nghiêm
Tu
hành càng kiên cố
Cúng
dường vô lượng Phật
Cung
kính và tôn trọng.
Thường
tu tập như vậy
Ngày
đêm không nhàm mỏi
Thiện
căn càng sáng sạch
Như
lửa luyện chơn kim.
Bồ
Tát trụ nơi đây
Tịnh
tu mười trí địa
Chỗ
làm không chướng ngại
Ðầy
đủ chẳng đoạn tuyệt.
Ví
như vị thương chủ
Vì
lợi cho thương gia
Hỏi
rõ đường dễ khó
An
ổn đến đại thành
Bồ
Tát trụ Sơ địa
Phải
biết cũng như vậy.
Dũng
mãnh không chướng ngại
Ðến
bực đệ Thập địa.
Trụ
trong Sơ địa này.
Làm
chủ công đức lớn
Ðem
pháp dạy chúng sanh
Tâm
từ không tổn hại.
Thống
lãnh Diêm Phù Ðề
Giáo
hóa tất cả chúng
Ðều
trụ hạnh đại xả
Thành
tựu trí huệ Phật.
Muốn
cầu đạo tối thắng
Bỏ
ngôi Quốc Vương mình
Hay
ở trong Phật giáo
Dũng
mãnh siêng tu tập,
Liền
được trăm tam muội
Và
thấy trăm đức Phật
Chấn
động trăm thế giới
Quang
minh chiếu trăm cõi,
Ðộ
trăm cõi chúng sanh
Chứng
nhập trăm pháp môn
Hay
biết việc trăm kiếp
Thị
hiện trăm thân Phật
Và
hiện trăm Bồ Tát
Ðể
dùng làm quyến thuộc,
Nếu
nguyện lực tự tại
Hơn
số này vô lượng.
Ở
trong nghĩa Sơ địa
Tôi
lược thuật phần ít,
Nếu
muốn giảng giải rộng
Ức
kiếp chẳng hết được.
Bồ
Tát đạo tối thắng
Lợi
ích mọi quần sanh
Pháp
Sơ địa như vậy
Nay
tôi đã nói xong.
()
Chúng Bồ Tát đã nghe
Ðịa
tối thắng vi diệu
Tâm
các Ngài thanh tịnh
Tất
cả đều vui mừng
Ðồng
rời tòa đứng dậy
Vọt
bay dừng trên không
Khắp
rải hoa báu đẹp
Ðồng
thời chung khen ngợi :
Lành
thay Kim Cang Tạng
Bực
đại trí vô úy
Khéo
nói những pháp lành
Của
Sơ địa Bồ Tát.
Bồ
Tát Giải Thoát Nguyệt
Biết
lòng chúng thanh tịnh
Thích
nghe những hành tướng
Của
đệ nhị "Ly Cấu"
Liền
thỉnh Kim Cang Tạng :
Ðại
trí xin diễn thuyết
Phật
tử đều thích nghe
Ðệ
nhị Ly Cấu Ðịa.
Bấy
giờ Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật Tử ! Ðại
Bồ Tát đã tu Sơ địa muốn vào đệ nhị địa thời phải phát khởi mười thứ thâm tâm.
Ðây
là mười thứ thâm tâm :
Tâm
chánh trực, tâm nhu nhuyến, tâm kham năng, tâm điều phục, tâm tịch tịnh, tâm
thuần thiện, tâm chẳng tạp, tâm không cố luyến, tâm rộng, tâm lớn.
Bồ
Tát dùng mười thâm tâm này thời được vào bực Ly Cấu Ðịa thứ hai.
Chư
Phật tử ! Bồ tát trụ Ly Cấu Ðịa thời tánh tự xa rời tất cả sát sanh, chẳng chứa
dao gậy, chẳng có lòng oán hận, có tàm có quý, đầy đủ lòng nhơn thứ. Với tất cả
chúng sanh có mạng sống thời thương, sanh lòng từ làm lợi ích.
Bồ
Tát này còn chẳng có lòng ác não hại chúng sanh, huống là với họ mà có chúng
sanh tưởng cố ý làm việc giết hại.
Tánh
tự chẳng trộm cắp. Với của cải mình Bồ Tát thường biết vừa đủ, với người thời
thương yêu tha thứ chẳng hề xâm tổn. Nếu đồ vật thuộc người khác thời tưởng là
của người khác, trọn không sanh lòng trộm cắp, nhẫn đến lá cây của người không
cho thời không lấy, huống là đồ vật dụng khác. Tánh tự chẳng tà dâm. Với tự thê,
Bồ Tát tri túc chẳng mong vợ người. Với thê thiếp của người cùng con gái của
người, trọn không móng lòng tham nhiễm, huống là tùng sự dâm dục, huống là nơi
phi đạo.
Tánh
tự chẳng vọng ngữ. Bồ Tát luôn thật ngữ, chơn ngữ, thời ngữ, nhẫn đến trong
chiêm bao cũng còn chẳng nói lời phú tàng, vô tâm, vọng ngữ, huống là cố ý nói
dối.
Tánh
tự chẳng lưỡng thiệt. Bồ Tát đối với chúng sanh không tâm ly gián, không tâm
não hại, chẳng đem lời người này đến nói với người kia để pháp người kia, chẳng
đem lời người kia đến nói với người này để phá người này, người chưa ly phá
thời chẳng cho ly phá, người đã ly phá thời chẳng cho thêm hơn. Chẳng mừng sự
ly gián, chẳng ưa sự ly gián, chẳng nói lời ly gián. Chẳng cho lời ly gián là
thiệt hay chẳng thiệt.
Tánh
tự chẳng ác khẩu, như là lời độc hại, lời thô tục, lời làm khổ người khác, lời
làm người khác sân hận, lời hiện tiền, lời chẳng hiện tiền, lời xấu ác, lời
dung tiện, lời bất nhã, lời làm người nghe không ưa, không vui, lời giận dữ,
lời như lửa đốt lòng, lời oán kết, lời nhiệt não, lời có thể làm hại mình và
người. Những ác khẩu như vậy đều bỏ lìa cả. Thường nói lời lợi ích, lời mềm
mỏng, lời đẹp dạ, lời thích nghe, lời làm người nghe vui mừng, lời khéo vào tâm
người, lời phong nhã điển tắc, lời nhiều người mến thích, lời nhiều người vui
đẹp, lời thân tâm hớn hở.
Tánh
tự chẳng ỷ ngữ. Bồ Tát thường thích nói lời chín chắn, lời phải thời, lời
thiệt, lời đúng nghĩa, lời đúng pháp, lời thuận đạo lý, lời khéo điều phục, lời
tùy thời tính lường quyết định. Bồ Tát này nhẫn đến chơi cười còn luôn suy nghĩ
kỹ, huống là cố ý nói ra lời tán loạn.
Tánh
tự chẳng tham lam. Bồ Tát này đối với tài vật đồ dùng của kẻ khác chẳng móng
tâm tham, chẳng mong cầu.
Tánh
tự rời giận hờn. Bồ Tát này đối với tất cả chúng sanh luôn khởi tâm từ mẫn, tâm
lợi ích, tâm đau xót, tâm hoan hỷ, tâm hoà thuận, tâm nhiếp thọ, bỏ hẳn sân hận
oán hại nhiệt não, thường nghĩ đến thật hành nhơn từ lợi ích.
Tánh
tự lìa tà khiến. Bồ Tát trụ nơi chánh đạo, chẳng coi bói, chẳng thọ lấy cấm
giới tà ác, tâm kiến chánh trực, không dua dối, quyết định tin nơi Phật, Pháp,
Tăng.
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ tát hộ trì mười nghiệp đạo lành như vậy không hề gián đoạn.
Lại tự nghĩ rằng : tất cả chúng sanh sa đọa nơi ác đạo đều do mười nghiệp ác.
Vì thế nên tôi phải tự tu chánh hạnh, cũng khuyên người khác tự tu chánh hạnh.
Vì mình không tự tu thời không thể bảo kẻ khác tu.
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ tát này lại nghĩ rằng : Mười nghiệp đạo ác là nhơn thọ sanh
nơi địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ. Mười nghiệp đạo lành là nhơn thọ sanh nơi
loài người cõi Trời. Lại thượng phẩm mười nghiệp đạo lành này dùng trí huệ để
tu tập, vì tâm hẹp kém, vì sợ sanh tử, vì thiếu đại bị, vì theo người Thanh Văn
khác mà tỏ ngộ thời thành Thanh Văn thừa. Lại thượng phẩm mười nghiệp đạo lành
này tu tập thanh tịnh, chẳng do người khác dạy mà tự giác ngộ, vì chẳng đủ đại
bi phương tiện, mà tỏ ngộ pháp nhơn duyên thậm thâm thời thành Ðộc Giác thừa.
Lại thượng phẩm mười nghiệp đạo lành này tu tập thanh tịnh, vì tâm rộng vô
lượng, vì đầy đủ bi mẫn, vì phương tiện nhiếp thọ, vì phát sanh đại nguyện, vì
chẳng bỏ chúng sanh, vì mong cầu Phật trí, vì tu tập trí địa của Bồ Tát, vì
tịnh tu tất cả Ba la mật, mà thành hạnh quảng đại của Bồ Tát. Lại thượng thượng
phẩm mười nghiệp đạo lành này, vì Nhứt thiết chủng thanh tịnh nhẫn đến chứng Thập
lực, Tứ vô úy nên tất cả Phật pháp đều được thành tựu. Vì những lẽ trên đây nên
tôi bình đẳng thật hành mười nghiệp lành làm cho tất cả đều thanh tịnh đầy đủ.
Những
phương tiện như vậy Bồ Tát phải học.
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ tát này lại nghĩ rằng : Mười nghiệp đạo ác : Thượng phẩm là
nhơn địa ngục, trung phẩm là nhơn súc sanh, hạ phẩm là nhơn ngạ quỷ.
Trong
đây về tội sát sanh có thể làm cho chúng sanh đọa địa ngục, súc sanh, ngạ qủy.
Nếu sanh trong loài người thời mắc hai quả báo : Mạng vắn và nhiều bịnh.
Tội
trộm cấp cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời
mắc hai quả báo : Nghèo cùng và tài sản chung không được tự do dùng.
Tội
tà dâm cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời
mắc hai quả báo : Vợ không trinh lương và quyến thuộc không được tùy ý.
Tội
vọng ngữ cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời
mắc hai quả báo : Bị phỉ báng và bị khi dối.
Tội
lưỡng thiệt cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người
thời mắc hai quả báo : Quyến thuộc trái lìa và thân tộc tệ ác.
Tội
ác khẩu cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời
mắc hai quả báo : Thường nghe tiếng ác và lời nói nhiều tranh cãi.
Tội
ỷ ngữ cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời mắc
hai quả báo : Lời nói người không lãnh thọ và lời không rõ ràng.
Tội
tham dục cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời
mắc hai quả báo : Lòng không biết đủ và quá tham muốn không nhàm.
Tội
sân hận cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời
mắc hai quả báo : Thường bị người khác tìm chỗ hay dở và luôn bị người khác não
hại.
Tội
tà kiến cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người thời
mắc hai quả báo : sanh nhà tà kiến và tâm dua vạy.
Chư
Phật tử ! Mười nghiệp đạo ác có thể sanh vô lượng vô biên những quả khổ. Do đây
Bồ Tát nghĩ rằng : Tôi phải xa rời mười nghiệp ác. Làm vườn pháp an ổn thích
thú tự ở trong đó, cũng khuyên người khác cùng ở trong đó.
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ tát này với tất cả chúng sanh phát sanh tâm lợi ích, tâm an
lạc, tâm từ, tâm bi, tâm lân mẫn, tâm nhiếp thọ, tâm thủ hộ, tâm tự kỷ, tâm Sư,
tâm Ðại Sư.
Bồ
Tát nghĩ rằng : chúng sanh đáng thương đọa nơi rừng rậm tà kiến, trí ác, muốn
ác, đạo ác. Tôi phải làm cho họ trụ nơi chánh kiến tu hành đạo hành đạo chơn
thiệt.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : tất cả chúng sanh phân biệt bỉ ngã phá hoại lẫn nhau, đấu
tranh sân hận hẩy hừng không ngớt, tôi phải làm cho họ an trụ trong vô thượng
đại từ.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : Tất cả chúng sanh tham lấy không biết nhàm, chỉ cầu của cải
tự sống bằng cách tà mạng. Tôi phải làm cho họ an trụ trong chánh pháp thân,
ngữ, ý thanh tịnh chánh mạng.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : tất cả chúng sanh thường theo tham, sân, si, các thứ phiền
não nhơn đó mà hẩy hừng, họ chẳng biết lập chí cầu phương tiện giải thoát. Tôi
phải làm cho họ dứt trừ tất cả lửa lớn phiền não, đặt họ vào chỗ Niết Bàn thanh
lương.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : tất cả chúng sanh bị màn đầy ngu si vọng kiến tối tăm che
đậy mà phải vào trong rừng rậm tối lòa, mất ánh sáng trí huệ, đi đường hiểm
đồng hoang sanh ác kiến. Tôi phải làm cho họ được trí nhãn thanh tịnh không
chướng ngại, biết tường như thật của các pháp, chẳng theo người khác dạy.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : tất cả chúng sanh ở trong đường hiểm sanh tử, sắp đọa địa
ngục, súc sanh, ngạ quỷ, vào trong lưới ác khiến, bị rừng tậm ngu si làm mê,
theo dõi đạo tà, làm hạnh điên đảo, ví như người mù không kẻ dắt đường. Chẳng
phải đạo giải thoát mà cho là đạo giải thoát. Vào cảnh giới ma, bị bọn giặc ác
nhiếp lấy, thuận theo tâm mà, xa lìa ý Phật. Tôi phải cứu họ ra khỏi nạn hiểm
như vậy, cho họ an trụ nơi thành Nhứt thiết trí vô úy.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : Tất cả chúng sanh bị dòng nước chảy xiết sóng lớn nhận chìm
vào dòng dục, dòng sanh tử, dòng vô minh, dòng tà kiến, xoay lăn trong sanh tử,
trôi nổi trong sông ái nhiễm, mãi bị dồi giập không rảnh để quan sát, rồi bị
quan niệm tham dục, sân hận, độc hại không rời tâm họ, nên họ bị quỷ La sát
thân kiến bắt đem nhốt hẳn trong rừng rậm ái dục. Họ lại quá nhiễm trước nơi
chỗ tham ái, ở nơi gò ngã mạn, ngụ trong tụ lạc sáu căn. Nếu không người cứu
giỏi, thời không thể độ họ được.
Tôi
phải phát khởi tâm đại bi đối với họ, dùng những thiện căn để cứu tế họ, cho họ
khỏi tai hoạn lìa nhiễm ô được thanh tịnh, mà ở an nơi thành báu Nhứt thiết
trí.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : Tất cả chúng sanh ở trong lao ngục thế gian bị nhiều khổ
não, thường ôm lòng yêu ghét, tự mang lấy gông xiềng lo sợ tham dục, rừng rậm
vô minh che chướng họ, không thể thoát khỏi ba cõi. Tôi phải làm cho họ ra khỏi
hẳn ba cõi mà ở an nơi đại Niết Bàn vô ngại.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : Tất cả chúng sanh chấp trước nơi ngã và ngã sở, chẳng có ý
muốn ra khỏi nhà tù ngũ uẩn, nương nơi tụ lạc trống rỗng, sáu căn phát khởi bốn
hạnh điên đảo, bị bốn rắn độc tứ đại cắn mổ, bị giặc thù ngũ uẩn giết hại chịu
vô lượng đau khổ.
Tôi
phải làm cho họ ở an nơi chỗ tối thắng vô trước, chính là Vô thượng Niết Bàn
dứt hết mọi chướng ngại.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : Tâm của chúng sanh hèn kém, chẳng chịu thật hành đạo có thể
Nhứt thiết trí. Dầu họ muốn giải thoát, nhưng họ chỉ thích hai thừa Thanh Văn
và Bích Chi Phật. Tôi phải làm cho họ an trụ nơi Phật pháp quảng đại, nơi trí
huệ quảng đại.
Bồ
Tát này hộ trì giới cấm như vậy khéo có thể thêm lớn tâm từ bi.
Chư
Phật tử ! Bồ tát ở bực Ly Cấu Ðịa này, do nguyện lực mà được thấy nhiều Phật.
Như là thấy trăm Ðức Phật, ngàn đức Phật, trăm ngàn Ðức Phật, nhẫn đến thấy
trăm ngàn ức na do tha đức Phật.
Ở
chỗ Chư Phật, Bồ Tát này dùng tâm quảng đại thâm tâm cung kính tôn trọng phụng
thờ, cúng dường những thứ y phục, ăn uống, thuốc men, ngọa cụ, tất cả đồ dùng.
Và cũng cúng dường tất cả chúng Tăng. Ðem công đức này hồi hướng Vô thượng Bồ
đề.
Ở
chỗ Chư Phật, do tâm tôn trọng, Bồ Tát này lại thọ hành mười đạo pháp lành, tùy
chỗ đã thọ nhẫn đến Bồ đề trọn không quên mất.
Bồ
Tát này từ vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp vì đã xa rời tội tham giận phá
giới nên hạnh bố thí, trì giới được thanh tịnh toàn vẹn.
Ví
như chơn kim để trong phàn thạch, đúng theo cách thức luyện xong thời lìa tất
cả cấu nhơ càng sáng sạch hơn.
Bồ
Tát trụ bực Ly Cấu Ðịa này cũng như vậy. Trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do
tha kiếp, vì xa lìa bợn nhơ tham sân phá giới, nên hạnh bố thí, trì giới được
thanh tịnh đầy đủ.
Chư
Phật tử ! Trong bốn nhiếp pháp, Bồ tát này thiên về ái ngữ nhiều. Trong mười
môn Ba la mật Bồ Tát này thiên nhiều về trì giới. Với các pháp khác thời tùy
phần tùy sức.
Chư
Phật tử ! Ðây là lược nói về bực Ly Cấu Ðịa.
Ðại
Bồ Tát trụ bực này, phần nhiều hiện thân làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm Ðại
pháp chủ, đầy đủ thất bửu, có sức tự tại, có thể trừ cấu nhiễm tham, sân, phá
giới của tất cả chúng sanh. Dùng phương tiện khéo làm cho họ an trụ trong mười
nghiệp đạo lành. Làm vị đại thí chủ châu ấp vô tận. Bao nhiêu công hạnh như bố
thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều không rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng,
nhẫn đến chẳng rời niệm Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này lại nghĩ rằng : Nơi tất cả chúng sanh tôi sẽ là thượng thủ, là thắng,
là tối thắng, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, nhẫn đến là chỗ y
chỉ của Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này lúc muốn bỏ nhà để ở trong Phật pháp tinh tấn tu hành. Liền có thể rời
nhà vợ con, quyến thuộc, ngũ dục. Khi đã xuất gia thời siêng năng tu tập,
khoảng một niệm được ngàn tam muội, được thấy ngàn Ðức Phật, biết thần lực của
ngàn Ðức Phật, có thể chấn động ngàn thế giới, nhẫn đến có thể thị hiện ngàn
thân, mỗi thân thị hiện ngàn Bồ Tát làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thù
thắng tự tại để thị hiện thời hơn số này, trong trăm ngàn ức na do tha kiếp
cũng chẳng đếm biết được.
Kim
Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này bèn nói kệ rằng :
Chất
trực, nhu nhuyến và kham năng
Ðiều
phục, tịch tịnh và thuần thiện
Ý
rộng lớn mau thoát sanh tử
Do
mười tâm vào đệ Nhị địa.
Ở
đây thành tựu giới công đức
Xa
lìa sát sanh chẳng não hại
Cũng
lìa trộm cắp và tà dâm
Lìa
hẳn vọng, ác, ly, ỷ ngữ.
Chẳng
tham của cải thường xót thương
Chánh
đạo, trực tâm không siểm ngụy
Rời
hiểm, bỏ mạn, rất điều nhu
Y
giáo thật hành chẳng phóng dật.
Ðịa
ngục, súc sanh chịu khốn khổ
Ngạ
quỷ đói khát miệng tuôn lửa
Tất
cả đều do tội ác gây
Tôi
phải lìa xa trụ thật pháp
Nhơn
gian tùy ý được thọ sanh
Nhẫn
đến thiền định Sắc, Vô sắc
Thanh
Văn, Ðộc Giác đến thành tựu.
Tư
duy như vậy chẳng phóng dật
Tự
gìn tịnh giới dạy người trì
Lại
thấy quần sanh chịu đau khổ
Lại
càng thêm lớn tâm đại bi.
Phàm
phu tà kiến hiểu bất chánh
Thường
giận hay hờn nhiều tranh cãi.
Tham
cầu nhiễm trước không nhàm đủ
Tôi
phải độ họ trừ ba độc
Ngu si đen tối
che trùm lấp
Vào đường hiểm
lớn lưới tà kiến
Nhà giam sanh tử
bị nhốt bắt
Tôi phải khiến
họ dẹp giặc ma.
Bốn dòng đẩy
trôi tâm chìm đắm
Ba cõi đốt thui
vô lượng khổ
Chấp uẩn làm nhà
: ngã ở trong
Vì muốn độ họ
siêng hành đạo.
Dầu muốn giải
thoát tâm lại kém
Bỏ xa vô thượng
Phật trí huệ
Tôi muốn khiến
họ trụ Ðại thừa
Chuyên cần tinh
tấn không nhàm đủ.
Bồ Tát ở đây
chứa công đức
Thấy vô lượng
Phật đều cúng dường
Ức kiếp tu hành
thêm sáng sạch
Như dùng thuốc
tốt luyện chơn kim,
Bồ Tát ở đây
hiện Luân Vương
Ðộ khắp chúng
sanh tu thập thiện
Bao nhiêu pháp
lành đều tu tập
Ðể thành Thập
lực cứu thế gian
Muốn bỏ Vương vị
và tài bửu
Liền lìa nhà tục
nương Phật giáo
Dũng
mãnh tinh tấn trong một niệm
Ðược
ngàn tam muội, thấy ngàn Phật.
Bao
nhiêu tất cả sức thần thông
Bồ
Tát Nhị địa đều hiện được
Nguyện
lực đã làm lại hơn đây
Vô
lượng tự tại độ quần sanh.
Người
làm lợi ích khắp thế gian
Ðã
tu Bồ Tát hạnh tối thắng
Công
đức đệ nhị địa như vậy
Vì
các Phật tử đã khai diễn.
Phật
tử được nghe công hạnh này
Cảnh
giới Bồ Tát khó nghĩ bàn
Thảy
đều cung kính lòng hoan hỷ
Rải
hoa hư không để cúng dường.
Khen
rằng : lành thay đấng Ðại Sĩ
Lòng
từ thương xót các chúng sanh
Khéo
nói luật nghi của trí giả
Và
hành tướng trong đệ Nhị địa.
Ðây
diệu hạnh của chư Bồ Tát
Chơn
thiệt không lạ không sai biệt.
Vì
muốn lợi ích các quần sanh
Diễn
nói như vậy rất thanh tịnh.
Tất
cả Nhơn, Thiên đến cúng dường
Mong
được nghe giảng đệ Tam địa
Những
trí hạnh cùng pháp tương ưng
Cảnh
giới như vậy mong nói đủ.
Phật
có tất cả pháp : thí, giới,
Nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền, trí huệ.
Cùng
với phương tiện đạo từ bi
Phật
hạnh thanh tịnh xin nói hết.
Giải
Thoát Nguyệt Bồ Tát lại thưa :
Mong
Kim Cang Tạng đại Bồ Tát
Giảng
nói tiến vào đệ Tam địa
Tất
cả công đức của bực này.
Kim
Cang Tạng Bồ Tát nói với Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát : "Thưa Phật tử ! Ðại Bồ
Tát đã thanh tịnh đệ Nhị địa muốn vào đệ Tam địa, phải phát khởi mười thâm
tâm".
Ðây là mười thâm
tâm :
Tâm thanh tịnh,
tâm an trụ, tâm nhàm bỏ, tâm lìa tham, tâm bất thối, tâm kiên cố, tâm minh
thạnh, tâm dũng mãnh, tâm rộng, tâm lớn. Bồ Tát do mười tâm này mà được vào đệ
Tam địa.
Chư Phật tử !
Ðại Bồ tát đã an trụ nơi đệ Tam địa quán sát tất cả pháp hữu vi đúng với tướng
chơn thật của nó. Chính là : Vô thường, khổ, bất tịnh, chẳng an ổn, bại hoại,
chẳng ở lâu, sát na sanh diệt, chẳng phải từ thuở trước sanh, cũng chẳng phải
theo thuở sau diệt, và chẳng phải trụ ở hiện tại.
Bồ Tát lại quan
sát những pháp này không được cứu, không chỗ tựa, mà đồng ở với lo, buốn, khổ,
não, ràng buộc bởi yêu ghét, sầu thảm càng nhiều không hề dừng, tham, sân, si
hẩy hừng chẳng hề dứt, những họa hoạn vấn vít ngày đêm thêm lớn, toàn là như
huyễn hóa không thiệt.
Bồ Tát quan sát
thấy như thế rồi, đối với pháp hữu vi càng thêm nhàm lìa mà hướng đến Phật trí
huệ. Thấy Phật trí chẳng thể nghĩ bàn, vô đẳng vô lượng khó được, không tạp,
không não, không lo, đến thành trì vô úy không còn lui lại, có thể cứu thoát vô
lượng chúng sanh khổ nạn.
Bồ Tát thấy Phật
trí vô lượng lợi ích, thấy tất cả pháp hữu vi vô lượng tội lỗi, thời đối với
tất cả chúng sanh phát sanh mười tâm xót thương.
Ðây là mười tâm
xót thương :
Thấy chúng sanh
cô độc không chỗ tựa nương mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh nghèo cùng khốn
thiếu mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh bị lửa tam độc đốt cháy mà sanh lòng
thương. Thấy chúng sanh bị lao tù mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh bị rừng
rậm phiền não luôn che chướng mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh chẳng khéo
quan sát mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh không thích muốn pháp lành mà
sanh lòng thương. Thấy chúng sanh bỏ mất Phật pháp mà sanh lòng thương. Thấy
chúng sanh theo dòng sanh tử mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh mất phương
tiện giải thoát mà sanh lòng thương.
Bồ Tát thấy
chúng sanh giới vô lượng khổ não như vậy phát đại tinh tấn mà nghĩ rằng : Với
tất cả chúng sanh này tôi phải cứu, tôi phải giải thoát, tôi phải thanh tịnh,
tôi phải độ, tôi phải đặt họ ở chỗ lành, phải làm cho họ ở an, cho họ hoan hỷ,
cho họ thấy biết, cho họ điều phục, cho họ tịch diệt.
Bồ Tát nhàm lìa
pháp hữu vi như vậy, lòng thương như vậy. Biết Nhứt thiết chủng trí có lợi ích
thù thắng, muốn nương Phật trí để cứu độ chúng sanh.
Bồ Tát suy nghĩ
rằng : Những chúng sanh này đọa trong khổ lớn phiền não, dùng phương tiện gì để
có thể cứu tế, cho họ an trụ trong sự vui cứu cánh Niết Bàn ? Bồ Tát lại nghĩ
rằng : Muốn độ chúng sanh cho họ an trụ nơi Niết Bàn quyết không thể rời trí
giải thoát vô ngại. Trí này không rời như thiệt giác ngộ tất cả pháp. Giác ngộ
này không rời huệ quang của hạnh vô hành vô sanh. Huệ quang này không rời thiền
trí thiện xảo quyết định quán sát. Thiền trí này chẳng rời đa văn hay khéo.
Bồ Tát suy gẫm
như vậy rồi, đối với chánh pháp càng thêm siêng năn tu tập. ngày đêm chỉ mong
nghe được pháp, vui nơi pháp, nương với pháp, thuận theo pháp, hiểu nơi pháp,
đến pháp, trụ tại pháp và thật hành chánh pháp.
Bồ Tát cần cầu
Phật pháp như vậy, bao nhiêu của báu đều không lẫn tiếc, chẳng thấy có vật khó
được đáng trọng. Chỉ ở nơi người hay giảng thuyết Phật pháp thời sanh lòng kính
ngưỡng. Vì thế nên đối với tài vật và thân thể của mình, Bồ Tát đều có thể xả
thí để cầu Phật pháp. không có sự cung kính nào mà chẳng làm được, không có sự
kiệu mạn nào mà không bỏ được, không có sự phụng thờ nào mà không làm được,
không có sự cần khổ nào mà không chịu được.
Nếu được nghe
một câu chánh pháp chưa từng nghe, lòng Bồ Tát rất vui mừng hơn là được trân
bửu đầy cả cõi Ðại Thiên. Nếu nghe được một kệ chánh pháp chưa từng nghe thời
Bồ Tát rất vui mừng hơn là được ngôi Chuyển Luân Vương. Nếu được nghe một kệ
chánh pháp có thể thanh tịnh hạnh Bồ Tát, thời xem hơn là được trăm ngàn vô
lượng kiếp ở ngôi Ðế Thích Phạm Vương.
Nếu có người bảo
: Tôi có một câu Phật pháp có thể thanh tịnh hạnh Bồ Tát, nếu Ngài có thể vào
hầm lửa chịu nổi sự nóng cháy thời tôi sẽ cho Ngài.
Bấy giờ Bồ Tát
tự nghĩ rằng : Tôi do một câu pháp của Phật nói mà được thanh tịnh Bồ Tát hạnh,
thời dầu ngọn lửa lớn đầy cõi Ðại Thiên, tôi còn muốn từ trên trời Phạm Thiên
nhảy xuống lửa để lấy được câu Phật pháp, huống là hầm lửa nhỏ này mà vào không
được. Hiện tại tôi vì Phật pháp đáng lẽ phải lãnh lấy tất cả sự khổ nơi địa
ngục, huống là sự khổ nhỏ mọn nơi nhơn gian.
Bồ Tát này phát
tâm tinh tấn cần cầu Phật pháp như vậy, như chỗ đã được nghe mà suy gẫm tu
hành.
Bồ Tát này khi
đã nghe pháp liền nhiếp tâm an trụ nơi chỗ vắng lặng suy nghĩ rằng : Như lời
Phật dạy tu hành mới chứng được Phật pháp, chẳng phải chỉ miệng nói mà thanh
tịnh được.
Chư Phật tử !
Lúc Bồ Tát này an trụ nơi Phát Quang Ðịa liền xa lìa dục ác, có giác có quán,
ly dục sanh hỷ lạc, trụ nơi Sơ thiền. Diệt giác quán, nhứt tâm thanh tịnh không
giác quán, định sanh hỷ lạc, trụ nơi đệ Nhị thiền. Lìa hỷ trụ nơi xả, có niệm
chánh biết thân thọ lạc Chư Phật đã nói, hay bỏ có niệm, thọ lạc trụ đệ Tam
thiền. Dứt lạc, trước trừ sự khổ mừng lo, diệt bất khổ, bất lạc, xả niệm thanh
tịnh trụ đệ Tứ thiền. Siêu tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, chẳng nhớ các
thứ tưởng, vào hư không vô biên, trụ hư không vô biên xứ. Siêu tất cả hư không
vô biên xứ nhập vô biên thức, trụ thức vô biên xứ. Siêu tất cả thức vô biên xứ,
nhập vô thiểu sở hữu, trụ vô sở hữu xứ. Siêu tất cả vô sở hửu xứ, trụ phi hữu
tưởng phi vô tưởng xứ. Ðây chỉ do tùy thuận theo pháp lành, trọn không thích
không chấp.
Chư Phật tử ! Bồ
tát này tâm tùy nơi đức từ duy nhứt rộng lớn vô lượng, không oán, không đối,
không chướng, không não, đến khắp tất cả chỗ, khắp pháp giới hư không giới,
khắp tất cả thế gian. An trụ đức bi, hỷ và xả cũng như vậy.
Chư Phật tử ! Bồ
tát này được vô lượng sức thần thông, có thể chấn động đại địa. Một thân hiện
nhiều thân, nhiều thân làm một thân, hoặc ẩn hoặc hiển, núi vách đá các vật
chướng đều qua lại vô ngại như hư không. Ở giữa hu không ngồi kiết già bay đi
như chim bay. Vào đất như vào nước, đi trên nước như trên đất. Thân phát khói
lửa như đám lửa lớn, lại tuôn nước mưa như mây lớn. Mặt trời, mật trăng ở hư
không có oai lực lớn mà có thể lấy tay rờ rẫm bưng nắm. Thân thể tự tại cao đến
Phạm Thiên.
Thiên nhĩ của Bồ
Tát này thanh tịnh hơn tai người, nghe được cả tiếng trời, người nhẫn đến tiếng
muỗi mòng không luận gần hay xa.
Bồ Tát này dùng
tha tâm trí, biết tâm chúng sanh khác đúng như thật. Như chúng sanh có tâm tham
thời biết là có tâm tham, lìa tâm tham thời biết là lìa tâm tham, có tâm sân
hay tâm si, thời biết là có tâm sân hay tâm si, lìa tâm sân hay lìa tâm si thời
biết là lìa tâm sân, lìa tâm si. Nhẫn đến tán tâm, định tâm, quảng đại tâm, vô
lượng tâm, vô thượng tâm đều biết đúng như thiệt.
Bồ Tát này nhớ
biết vô lượng đời trước sai khác nhau. Như là nhớ biết một đời, hai đời, nhẫn
đến vô lượng trăm ngàn đời; kiếp thành, kiếp hoại, vô lượng kiếp thành hoại.
Thuở đó tôi từng ở xứ đó, tên họ đó, dòng họ như vậy, ăn uốngnhư vậy, sống bao
lâu khổ vui như vậy. Từ xứ đó chết sanh đến xứ này, hình dạng như vậy, tướng
mạo như vậy, tiếng nói như vậy. Quá khứ vô lượng đời sai khác như vậy đều có
thể nhớ biết.
Bồ Tát này Thiên
mhãn thanh tịnh hơn mắt người. Thấy các chúng sanh lúc sống lúc chết, sắc tốt
sắc xấu, đường lành đường dữ theo nghiệp mà đi. Nếu chúng sanh đó gây tạo
nghiệp ác nơi thân, nơi lời, nơi ý tưởng, chế nhạo Hiền Thánh, đầy đủ tà kiến
và nghiệp nhơn duyên tà kiến, sau khi chết tất đọa ác đạo, sanh vào địa ngục.
Nếu chúng sanh thân tạo nghiệp lành, lời và ý cũng lành, chẳng khinh Hiền
Thánh, đầy đủ chánh kiến và nghiệp nhơn duyên chánh kiến, sau khi chết tất sanh
thiện đạo trong loài trời, loài người. Thiên nhãn của Bồ Tát đều thấy biết như
thiệt.
Bồ Tát này đối
với các Thiền, Tam muội, Tam ma bát đề, có thể nhập, có thể xuất, nhưng chẳng
nương sức thiền định để thọ sanh, mà chỉ theo chỗ có thể viên mãn Bồ đề phần,
dùng sức ý nguyện mà thọ sanh trong đó.
Chư Phật tử ! Bồ
tát này trụ bực Phát Quang Ðịa, do nguyện lực mà được thấy nhiều đức Phật, được
thấy trăm đức Phật, ngàn đức Phật, trăm ngàn đức Phật, nhẫn đến thấy trăm ngàn
ức na do tha đức Phật. Ðều dùng quảng đại tâm, thâm tâm để cung kính, tôn
trọng, phụng thờ, cúng dường và cũng cúng dường chúng Tăng. Bồ Tát đem thiện
căn này hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Ở chỗ Ðức Phật, cung kính nghe pháp nghe
xong thọ trì rồi tùy sức mà tu hành.
Bồ Tát này quán
sát tất cả pháp nhơn duyên bất sanh bất diệt mà có kiến phược. Trước dứt trừ
tất cả dục phược, sắc phược và hữu phược, cả vo minh phược đều càng yếu mỏng.
Vì trong vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng tích tập nên tham, sân, si
đều được trừ diệt. Tất cả căn lành càng thêm sáng sạch.
Chư Phật tử ! Ví
như chơn kim khéo luyện thời cân chẳng giảm mà càng thêm sáng sạch.
Cũng vậy, Bồ Tát
trự bực Phát Quang Ðịa này, vì chẳng tích tập nên tham, sân, si đều dứt trừ,
bao nhiêu thiện căn càng thêm sáng sạch.
Bồ Tát này về
những tâm nhẫn nhục, nhu hòa, thuận hiệp, vui đẹp, chẳng sân, chẳng động, chẳng
trược, không cao hạ, chẳng mong đền đáp, lòng báo ân, tâm chẳng dua vạy, chẳng
phỉnh dối, không thâm hiểm, càng thêm thanh tịnh.
Trong bốn nhiếp
pháp, Bồ Tát này thiên nhiều về lợi hành, và thiên nhiều về nhẫn nhục trong
mười môn Ba la mật. Với những pháp môn khác tùy phần, tùy sức mà tu tập.
Chư Phật tử ! Bồ
tát trụ bực Phát Quang Ðịa thứ ba này phần nhiều hiện thân làm Ðao Lợi Thiên
Vương, có thể dùng phương tiện làm cho chúng sanh lìa bỏ tham dục. Những công
hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều không rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát này lại
nghĩ rằng : Nơi tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là thắng, là thù
thắng, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, nhẫn đến là người y chỉ
của Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát này nếu
chuyên cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được trăm ngàn tam muội, được thấy
trăm ngàn đức Phật, biết thần lực của trăm ngàn đức Phật, có thể chấn động trăm
ngàn thế giới, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn thân Phật, mỗi mỗi thân Phật hiện
trăm ngàn Bồ Tát làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thù thắng, Bồ Tát này tự
tại thị hiện hơn số trên, trăm kiếp, ngàn kiếp, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha
kiếp không thể tính đếm biết được.
Kim Cang Tạng Bồ
Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Thanh
tịnh an trụ tâm sáng thạnh
Tâm
nhàm lìa, không tham, không hại
Tâm
kiên cố, dũng mãnh, rộng lớn
Bực
trí dùng đây vào Tam Ðịa
Bồ
Tát trụ bực Phát Quang Ðịa
Quán
thấy hữu vi : khổ, vô thường
Bất tịnh, bại
hoại mau tan diệt
Không bền, không
dừng, không qua lại.
Xem pháp hữu vi
như bịnh nặng
Buộc ràng bởi ưu
bi, khổ não
Lửa mạnh tam độc
hằng cháy hực
Từ vô thủy đến
nay chẳng dứt
Nhàm lìa ba cõi
chẳng tham chấp
Chuyên cầu Phật
trí không niệm lạ
Khó nghĩ khó
lường không sánh kịp
Vô lượng vô biên
không bức não
Thấy Phật trí
rồi thương chúng sanh
Cô độc không chỗ
nương cứu hộ
Ba độc cháy hừng
thường thiếu khốn
Ở ngục ba cõi
luôn chịu khổ.
Phiền não cột
trói mê không trí
Chí nguyện hạ
liệt mất pháp bửu
Tùy thuận sanh
tử sợ Niết Bàn
Tôi phải cứu họ
siêng tinh tấn.
Toan cầu trí huệ
lợi chúng sanh
Nghĩ phương tiện
gì khiến giải thoát.
Chẳng rời Như
Lai trí vô ngại
Kia lại phát
khởi huệ vô sanh.
Nghĩ
rằng huệ này do nghe pháp
Suy
nghĩ như vậy tự siêng gắng
Ngày
đêm nghe tu không xen hở
Chỉ
dùng chánh pháp làm tôn trọng.
Quốc
thành, tiền của, các trân bửu
Vợ
con, quyến thuộc và ngôi vua
Bồ
Tát vì pháp tâm cung kính
Tất
cả như vậy đều thí xả
Ðầu,
mắt, tai, mũi, lưỡi và răng
Tay,
chân, xương, tủy, tim, máu, thịt
Thí
xả tất cả chưa là khó
Chỉ
cho nghe pháp là rất khó.
Dầu
có ai đến nói Bồ Tát.
Nếu
nhảy vào được trong hầm lửa
Tôi
sẽ truyền cho Phật pháp bửu
Nghe
nói vào lửa không khiếp sợ.
Dầu
cho lửa đầy cõi Ðại Thiên
Thân
từ trời Phạm mà nhảy vào
Vì
cầu Phật pháp xem không khó
Huống
là nhơn gian những khổ nhỏ.
Từ
sơ phát tâm đến thành Phật
Tất
cả sự khổ ngục A Tỳ
Vì
nghe Phật pháp đều chịu được
Huống
là sự khổ của nhơn gian.
Nghe
Phật pháp rồi Chánh tư duy
Lại
được Tứ thiền, Vô sắc định
Tứ
đẳng, Ngũ thông lần lượt khởi
Chẳng
theo định lực để thọ sanh.
Bồ
Tát ở đây thấy nhiều Phật
Cúng
dường nghe pháp tâm quyết định
Dứt
các tà hoặc càng thanh tịnh
Như
luyện chơn kim chất không giảm.
Bực
này thường làm Thiên Ðế Thích
Hóa
đạo vô lượng chúng cõi Trời
Khiến
bỏ tâm tham ở đạo lành
Một
bề chuyên cầu công đức Phật
Phật
tử ở đây siêng tinh tấn
Trăm
ngàn tam muội đều đầy đủ
Thấy
trăm ngàn Phật thân oai nghiêm
Nếu
dùng nguyện lực hơn vô lượng
Lợi
ích khắp tất cả chúng sanh
Công
hạnh tối thượng của Bồ Tát
Phát
Quang Ðịa có như vậy thảy
Tôi
y theo nghĩa đã giải thích.
()
Phật tử đã nghe hạnh rộng lớn
pháp
thù thắng thâm diệu đáng ưa
Lòng
đều hớn hở rất mừng vui
Rải
khắp hoa thơm cúng dường Phật.
Lúc
Bồ Tát diễn diệu pháp này
Ðại
địa, biển cả đều chấn động
Tất
cả Thiên nữ đều hoan hỷ
Ðều
phát diệu âm đồng ca ngợi
Tự
Tại Thiên Vương rất vui mừng.
Rải ma ni bửu
cúng dường Phật
Khen rằng : Phật
vì ta xuất thế
Diễn nói công
hạnh pháp đệ nhứt.
Nghĩa của các
Ðịa như đã giải
Trong trăm ngàn
kiếp rất khó gặp
Nay tôi bỗng
nhiên mà được nghe
Diệu pháp thắng
hạnh của Bồ Tát.
Mong lại diễn
nói bực thông huệ
Ðạo hạnh quyết
định của Ðịa sau
Lợi ích tất cả
hành Trời, người
Ðại chúng hội
này đều mong mỏi.
Dũng mãnh đại
tâm Giải Thoát Nguyệt
Thỉnh Kim Cang
Tạng đại Bồ Tát :
Ðệ tam chuyển
vào đệ Tứ địa
Có hành tướng gì
xin tuyên nói.
Kim Cang Tạng Bồ
Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật tử ! Ðại Bồ Tát từ Ðệ tam
Phát Quang Ðịa đã khéo thanh tịnh, muốn vào Ðệ tứ Diệm Huệ Ðịa, phải tu hành
mười pháp minh môn.
Ðây là mười pháp
:
Quán sát chúng
sanh giới, quán sát pháp giới, quán sát thế giới, quán sát hư không giới, quán
sát thức giới, quán sát dục giới, quán sát sắc giới, quán sát vô sắc giới, quán
sát quảng tâm tín giải giới, quán sát đại tâm tín giải giới, Bồ Tát do mười
pháp minh môn này mà được vào Ðệ tứ Diệm Huệ Ðịa.
Chư Phật tử ! Bồ
tát an trụ nơi Diệm Huệ Ðịa này thời vì có thể dùng mười pháp do trí thành thục
nên được nội pháp của đệ Tứ địa sanh vào nhà Như Lai.
Ðây là mười pháp
do trí thành thục :
Vì thâm tâm bất
thối, vì trong Tam Bảo sanh tịnh tín rốt ráo chẳng hoại, vì quán hành pháp sanh
diệt, vì quán các pháp tự tánh vô sanh, vì quán thế gian thành hoại, vì quán
nhơn nơi nghiệp mà có sanh, vì quán sanh tử và Niết Bàn, vì quán chúng sanh
quốc độ nghiệp, vì quán thời gian trước thời gian sau, vì quán vô sở hữu tận.
Chư Phật tử ! Bồ
tát trụ bực đệ Tứ địa này quán nội thân, theo thân quán niệm siêng năng dũng
mãnh trừ sự tham lo của thế gian. Quán ngoại thân, theo thân quán niệm siêng
năng dũng mãnh trừ sự tham lo của thế gian. Quán nội ngoại thân, theo thân quán
niệm siêng năng dũng mãnh trừ sự tham lo của thế gian.
Cũng vậy, quán
nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ, theo thọ quán. Quán nội tâm, ngoại tâm, nội
ngoại tâm, theo tâm quán. Quán nội pháp, ngoại pháp, nội ngoại pháp, theo pháp
quán niệm siêng năng dũng mãnh trừ sự tham lo của thế gian.
Bồ Tát này đối
với pháp bất thiện chưa sanh, cì cho nó chẳng sanh mà muốn siêng tinh tấn phát
tâm chánh đoạn. Với pháp bất thiện đã sanh, vì dứt nó mà muốn siêng tinh tấn
phát tâm chánh đoạn. Với pháp thiện chưa sanh, vì cho nó sanh mà muốn siêng
tinh tấn phát tâm chánh hành. Với pháp thiện đã sanh, vì cho nó còn mãi không
mất càng thêm rộng lớn, mà muốn siêng tinh tấn phát tâm chánh hành.
Bồ Tát này tu
hành dục định, dứt hành pháp thành tựu thần túc, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y
chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả. Tu hành tinh tấn định, tâm định, quán định, dứt
hành pháp thành tựu thần túc, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi
hướng nơi xả.
Bồ Tát này tu
hành tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn, y chỉ nơi yểm, y chỉ
nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ Tát này tu
hành tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực, y chỉ nơi yểm, y chỉ
nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ Tát này tu
hành niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỷ giác phận,
khinh an giác phần, định giác phần, xả giác phần, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly,
y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ Tát này tu
hành chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh
tấn, chánh niệm, chánh định, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi
hướng nơi xả.
Bồ Tát tu hành
những công đức như vậy, vì chẳng bỏ chúng sanh, vì bổn nguyện giữ gìn, vì đại
bi làm đầu, vì đại từ thành tựu, vì tư niệm Nhứt thiết chủng trí, vì thành tựu
trang nghiêm Phật độ, vì thành tựu đầy đủ lực, vô úy, bất động, tướng hảo, âm
thanh của Như Lai, vì cầu đạo thượng thượng thù thắng, vì tùy thuận Phật pháp
giải thoát thậm thâm đã nghe, vì tư duy đại trí thiện xảo phương tiện.
Chư Phật tử ! Bồ
tát trụ bực Diệm Huệ Ðịa này, xuất nhập nơi tất cả chấp trước thân kiến, ngã,
nhơn, chúng sanh, thọ giả, uẩn, xứ, giới, để tu duy quán sát đối trị, tất cả sự
chấp trước đều xa rời.
Bồ Tát này nếu
thấy những nghiệp nào bị đức Như Lai quở trách, bị phiền não nhiễm ô thời đều
xa lìa. Thấy những nghiệp nào được đức Như Lai khen ngợi, thuận đạo Bồ Tát,
thời đều tu hành.
Chư Phật tử ! Bồ
tát này tùy phát khởi huệ phương tiện đều tu tập đạo và trợ đạo. Vì vậy mà được
tam nhuận trạch, tâm nhu nhuyến, tâm điều thuận, tâm lợi ích an lạc, tâm không
tạp nhiệm, tâm cầu pháp thù thắng thượng thượng, tâm cầu trí huệ thù thắng, tâm
cứu tất cả thế gian, tâm cung kính bực Tôn Ðức không trái lời dạy bảo, tâm khéo
tu hành nơi pháp đã được nghe.
Bồ Tát này biết
ơn, biết báo ơn, rất hòa lành đồng ở an vui, chất trực dịu dàng, không tạp
loạn, không ngã mạn, khéo lãnh lời dạy được lòng của người nói.
Bồ Tát này thành
tựu nhẫn như vậy, thành tựu điều như vậy, thành tựu tịch diệt như vậy, thành
tựu nhẫn điều nhu tịch diệt như vậy, lúc tác ý tu tập công hạnh của địa sau,
liền được tinh tấn không thôi nghỉ, tinh tấn chẳng tạp nhiễm, tinh tấn chẳng
thối chuyển tinh tấn rộng lớn, tinh tấn vô biên, tinh tấn hẩy hừng, tinh tấn vô
đẳng đẳng, tinh tấn vô năng hoại, tinh tấn thành thục tất cả chúng sanh, tinh
tấn khéo phân biệt là đạo hay phi đạo.
Bồ Tát này tâm
giới thanh tịnh thâm tâm chẳng mất, ngộ giải sáng lanh, thiện căn tăng trưởng,
lìa cấu trược thế gian, dứt nghi lầm, đầy đủ minh đoán, đầy đủ hỷ lạc, được
chính đức Phật hộ niệm nên vô lượng chí nguyện đều được thành tựu.
Chư Phật tử ! Bồ
tát ở bực đệ tứ Phát Quang Ðịa này do nguyện lực nên được thấy nhiều đức Phật,
nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha đức Phật, đều kính trọng, phụng thờ, cúng
dường và cũng cúng dường tất cả chúng Tăng. Ðem thiện căn này đều hồi hướng Vô
thượng Chánh giác. Ở chỗ Chư Phật cung kính nghe pháp, nghe xong thọ trì tu
hành toàn vẹn. Rồi lại ở trong pháp của đức Phật đó xuất gia tu hành. Rồi lại
tu tập thâm tâm tín giải, trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp, cho
các căn lành càng thêm sáng sạch.
Chư Phật tử ! Ví
như thợ kim hoàn luyện chơn kim làm thành đồ trang sức, những kim khí khác
không thể sánh kịp.
Cũng vậy, đại
Bô` Tát trụ bực đệ Tứ địa này có bao nhiêu thiện căn, những thiện căn của các
bực dưới không thể sánh kịp.
Như ma ni bửu
thanh tịnh hay phóng quang minh, những châu báu khác không thể sánh kịp, gió
mưa không làm hư được.
Cũng vậy, đại Bồ
Tát trụ bực đệ Tứ địa này có bao nhiêu thiện căn, những thiện căn của các bực
dưới không thể so sánh kịp
Như ma ni bửu
thanh tịnh hay phóng quang minh, những châu báu khác không thể sánh kịp , gió
mưa không làm hư được .
Cũng vậy, Ðại bồ
tát trụ bực đệ tứ địa này, các bồ tát bực dưới không thể sánh kịp,các ma phiền
não đều không thể pháp hoại .
Trong bốn nhiếp
pháp, Bồ Tát này thiên nhiều về đồng sự,trong mười môn ba la mật thiên nhiều về
tinh tấn. Với các pháp môn khác thời tuỳ phần tuỳ sức mà tu tập .
Chư phật tử !
đây là lược nói về bồ tát đệ tứ diệm huệ địa .
Bồ tát trụ bực
này phần nhiều làm dạ ma thiên vương.Dùng thiện phương tiện hay trừ thân kiến
các thứ phiền não cho chúng sanh, khiến họ ở nơi chánh kiến .
Tất cả công hạnh
bố thí, ái ngư,?lợi hành , đồng sự thảy đều không rời niệm phật, niệm pháp,
niệm tăng, nhẫn đến không rời nhứt thiết chủng trí .
Bồ tát này lại
nghĩ rằng : trong tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là thắng, là thù
thắng, là diệu, là vi diệu, là thượng là vô thượng, nhẫn đến là bực y chỉ của
nhứt thiết chủng trí .
Bồ tát này nếu
siêng tinh tấn thời trong khoảng một niệm được nhập ức số tam muội, được thấy
ức số đức phật, được biết thần lực của ức số đức phật, hay chấn động ức số thế
giới, nhẫn đến hay thị hiện ức số thân phật, mỗi mỗi thân hiện ức số bồ tát làm
quyến thuộc. Nếu do nguyện lực thù thắng thời bồ tát này tự tại thị hiện hơn số
trên đây, trong trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng tính đếm mà biết được .
Kim cang tạng bồ
tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Bồ tát đã tịnh
đệ tam địa .
Kế quán chúng
sanh , thế , pháp giới ,
Không giới ,
thức giới và tam giới
Tâm hiểu thấu rõ
hay thẳng vào .
Mới lên diệm địa
thêm thế lực
Sanh nhà như lai
trọn bất thối
Với phật , pháp
, tăng tin sâu chắc
Quán pháp vô
thượng và vô sanh
Quán thế thành
hoại , nghiệp có sanh
Nghiệp có sanh
tử , niết bàn cõi
Quán tiền hậu tế
cũng quán tận
Tu hành như vậy
sanh nhà phật .
Ðược pháp náy
rồi sanh lòng từ
Càng thêm siêng
tu tứ niệm xứ
Thân , thọ , tâm
, pháp , nội ngoại quán
Tham ái thế gian
đều trừ dứt .
Bồ tát siêng tu
tứ chánh cần
Dứt trừ pháp ác
, thêm thiện pháp
Thần túc , căn ,
lực đều khéo tu
Giác phần ,
chánh đạo cũng tinh tấn .
Vì độ chúng tu
trợ đạo
Từ bi làm trước
, bổn nguyện gìn
Cầu nhứt thiết
trí và phật độ
Cũng nhớ thập
lực của Như Lai
Tứ vô uý , thập
bát bất cộng ,
Tướng hảo trang
nghiêm tiếng thâm mỹ
Cũng cầu diệu
đạo chổ giải thoát
Và công hạnh tu
hành đại phương tiện .
Thân kiến làm
đầu sáu mươi hai
Nga õvà ngã sở
vô lượng thứ
Uẩn , xứ , giới
thảy những chấp trước
Trong đệ tử địa
lìa tất cả .
Như lai quở
trách nghiệp phiền não
Là nhơn khổ hoạn
đều dứt trừ ,
Trí giả tu hành
nghiệp thanh tịnh
Vì độ chúng sanh
tu tất cả.
Bồ tát siêng tu
chẳng giải đãi .
Liền được đầy đủ
cả mười tâm
Chuyên cầu Phật
đạo chẳng mỏi nhàm
Chí mong thọ
chức độ muôn loại.
Kính trọng Tôn
Ðức tuân lời dạy
Biết ơn, dễ bảo
không hờn giận
Bỏ mạn, lìa
nịnh, lòng dịu dàng
Lại thêm siêng
năng chẳng thối chuyển.
Bồ Tát trụ bực
Diệm Huệ này
Tâm Ngài thanh
tịnh trọn không mất
Ngộ giải quyết
định, thêm căn lành
Lưới nghi uế
trược đều dứt hết.
Bực Tứ Ðịa : tối
thắng trong người
Cúng
dường na do vô lượng Phật.
Ðược
nghe chánh pháp cũng xuất gia
Không
phá hoại được như vàng thiệt.
Bồ
Tát Tứ Ðịa đủ công đức
Dùng
trí phương tiện tu đạo hạnh
Chẳng
bị loài ma tâm thối chuyển
Ví như ma ni
không hư hoại.
Tứ Ðịa thường
làm Dạ Thiên Vương
Tự tại nơi pháp
chúng tôn trọng
Ðộ khắp quần
sanh trừ ác kiến
Chuyên cầu Phật
trí tu thiện nghiệp.
Bồ Tát càng thêm
sức tinh tấn
Ðược chứng tam
muội đều số ức
Nếu dùng nguyện
lực tự tại làm
Quá hơn số ức
không đếm được.
Như vậy Bồ Tát
Diệm Huệ Ðịa
Diệu hạnh thanh
tịnh đã thật hành
Công đức nghĩa
trí cùng tương ưng
Vì chư Phật tử,
tôi đã nói.
Ðại chúng được
nghe Diệm Huệ Hạnh
Tỏ ngộ diệu pháp
lòng hoan hỷ
Rải hoa hư không
khen ngợi rằng :
Lành thay Ðại Sĩ
Kim Cang Tạng !
Tự tại Thiên
Vương cùng Thiên chúng
Nghe pháp hớn hở
trụ hư không
Khắp phóng những
mây sáng vi diệu
Cúng dường Như
Lai lòng vui đẹp.
Chúng Thiên nữ
hòa tấu Thiên nhạc
Cũng dùng lời ca
khen ngợi Phật,
Ðều do Bồ Tát
sức oai thần
Trong
tiếng đờn ca phát lời này :
Phật
nguyện lâu xa nay mới đầy,
Phật
đạo lâu xa nay mới được,
Thích
Ca Mâu Ni đến Thiên cung
Ðấng
Thiên Nhơn Sư nay mới thấy,
Ðại
hải lâu xa nay mới động,
Phật
quang lâu xa nay mới phóng.
Chúng
sanh lâu xa mới an vui,
Tiếng
đại từ bi lâu được nghe,
Hạnh Ba la mật
đều đã đến
Kiêu mạn tối tăm
đều đã trừ
Cùng tột thanh
tịnh như hư không
Như
hoa sen chẳng nhiễm thế pháp.
Ðấng
Ðại Mâu Ni hiện ra đời
Ví như Tu Di vọi
trên biển
Cúng Phật có thể
dứt các khổ
Cúng dường tất
được Như Lai trí,
Chỗ đây đáng
cúng, không gì bằng
Thế nên hoan hỷ
cúng dường Phật.
Vô lượng Thiên
nữ như vậy thảy
Phát diệu âm
thanh ca ngợi Phật
Tất cả cung kính
rất vui mừng
Chiêm ngưỡng Như
Lai, đứng yên lặng.
Bấy giờ Bồ Tát
Giải Thoát Nguyệt
Lại thỉnh Ðại Sĩ
Kim Cang Tạng
Hành tướng của
Ðệ Ngũ Ðịa kia
Mong đại Bồ Tát
vì tuyên thuyết.
Kim Cang Tạng Bồ
Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật tử ! Ðại Bồ Tát đệ tứ Diệm
Huệ Ðịa công hạnh đã khéo viên mãn muốn vào đệ ngũ Nan Thắng Ðịa, phải dùng
mười thứ tâm bình đẳng thanh tịnh.
Ðây là mười tâm
:
Tâm bình đẳng
thanh tịnh đối với Phật pháp quá khứ, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật
pháp vị lai, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp hiện tại, tâm bình đẳng
thanh tịnh đối với giới, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với tâm, tâm bình đẳng
thanh tịnh dứt trừ kiến nghi hối, tâm bình đẳng thanh tịnh nơi trí đạo phi đạo,
tâm bình đẳng thanh tịnh tu hành tri kiến, tâm bình đẳng thanh tịnh nơi thượng
thượng quán sát tất cả pháp Bồ đề phần, tâm bình đẳng thanh tịnh giáo hóa tất
cả chúng sanh.
Ðại bồ tát dùng
mười tâm bình đẳng thanh tịnh này mà được vào bực đệ ngũ nan thắng địa .
Chư phật tử !
đại bồ tát đã an trụ bưực đệ ngũ địa do khéo tu pháp bồ đề phần , do khéo tịnh
thâm tâm , do cầu thêm đạo thượng thắng , do tuỳ thuận chơn như , do nguyện lực
chấp trì , do từ mẫn không bỏ tất cả chúng sanh , do chứa nhóm phước trí trợ
đạo , do tinh tấn tu tập chẳng nghỉ , do xuất sanh phương tiện thiện xảo , do
quán sát chiếu rõ các bực trên , do được như lai hộ niệm , do sức niệm trí chấp
trì , mà được tâm bất thối chuyển .
Chư phật tử !
đại bồ tát này biết như thiệt đây là khổ thánh đế, đây thật là khổ tập thánh
đe,?đây là khổ diệt thánh đế, đây là diệt đạo đế .
Bồ tát này khéo
biết tục đế, khéo biết tướng đe,?khéo biết sai biệt đế, khéo biết thành lập đế,
khéo biết sự đế, khéo biết sanh đế, khéo biết tận vô sanh đế,?khéo biết nhập
đạo trí đế khéo biết tất cả bồ tát địa thứ đệ thành tựu đế nhẫn đến khéo biết
Như Lai trí thành tựu đế .
Bồ tát này vì
tuỳ lòng sở thích của chúng sanh làm cho họ hoan hỷ nên biết tục đế . Vì thông
đạt nhứt thiết tướng nên biết đệ nhứt nghĩa đế . Vì tỏ thấu tự tướng cộng tướng
của các pháp nên biết tướng đế . Vì rõ phần vị sai biệt của các pháp nên biết
sai biệt đế . Vì khéo phân biệt uẩn xứ giới nên thành lập đế . Vì tỏ ngộ các
loài sanh tương tục nên biết sanh đế . Vì tất cả nhiệt não rốt ráo diệt nên
biết tận vô sanh trí đế . Vì xuất sanh vô nhị nên biết nhập đạo trí đế . Vì
chánh giác ngộ tất cả hành tướng nên biết tất cả bồ tát địa thứ đệ thành tựu đế
nhẫn đến biết Như Lai trí thành tựu đế .
Ðây là dùng sức
tín giải trí mà biết chẳng phải dùng sức cứu cánh trí .
Chư phật tử! Ðại
bồ tát này được các đế trí thời biết như thiệt tất cả pháp hửu vi hư vọng dối
trá gạt phỉnh kẻ ngu , vì thế nên đối với tất cả chúng sanh càng tăng thêm
quang minh đại bi và đại từ .
Chư phật tử !
đại bồ tát được trí lực như vậy chẳng bỏ một chúng sanh , thường cầu phật trí ,
quán sát như thiệt tất cả hạnh hửu vi về tiến tế và hậu tế : rõ biết từ tiền tế
vô minh , ái , hửu mà sanh , do đây sanh tử lưu chuyển . Nơi các nhà ngũ uẩn
không thể thoát ra , thêm lớn sự khổ , không ngã , không thọ giả , không gì kẻ
dưỡng dục , không gì là kẻ luôn thọ lấy than loài sau , rời ngã và ngã sở .
Như tiền tế ,
hậu tế cũng như vậy . đều là vô sở hửu , hư vọng tham trước , dứt hết thời được
giải thoát . Hoặc có hoặc không điều biết như thiệt .
Chư phật tử !
Ðại bồ tát này lại nghĩ rằng : hàng phàm phu này ngu si vô trí thật là đáng
thương . Có vô số thân đã mất , nay mất , sẽ mất . Diệt mất như vậy mà chẳng
thể đối với thân có quan niệm nhàm lìa , lại thêm lớn cơ quan khổ sở , theo dòng
sanh tử chẳng trở lại được . Nơi những nhà ngũ uẩn chẳng cầu thoát khỏi , chẳng
biết lo sợ bốn rắn độc lớn , không nhổ đượcnhững mũi tên kiêu mạn kiến chấp ,
không dập tắt được ngọn lưởi tham , sân , si , không pháp tan được màn vô minh
, không làm khô cạn được biển lớn ái dục . Họ chẳng biết cầu đấng đại thánh đạo
sư đủ mười trí lực , mà vào trong rừng rậm ma ý . Ở trong biển sanh tử họ bị
lượng sóng giác quán cuốn trôi nhận chìm .
Chư phật tử !
đại bồ tát này lại nghĩ rằng : những chúng sanh này thọ khổ như vậy , có cùng
khốn đốn , không chổ nương , không ai cứu , không đất , không nhà , không mắt ,
không người dẫn dắt . Họ bị vô minh che loà , màn tối chụp trùm .
Nay tôi vì họ mà
tu hành những pháp trợ đạo phước trí . Ðơn độc pháp tâm chẳng cầu bè bạn . Ðem
công đức này làm cho chúng sanh được rốt ráo thanh tịnh , nhẫn đến chứng được
mười trí kực vô ngại của Như Lai .
Chư phật tử !
Ðại bồ tát này dùng trí huệ quán sát thiện căn đã tu như vậy , đều vì cứu hộ
tất cả chúng sanh , lợi ích tất cả chúng sanh , thương xót tất cả chúng sanh ,
thành tựu tất cả chúng sanh , thương xót tất cả chúng sanh , thành tựu tất cả
chúng sanh , giải thoát tất cả chúng sanh nhiếp thọ tất cả chúng sanh , khiến
tất cả chúng sanh lìa những khổ não , khiến tất cả chúng sanh đều được thanh
tịnh , khiến tất cả chúng sanh đều được điều phục , khiến tất cả chúng sanh
chứng nhập niết bàn .
Chư phật tử !
Ðại bồ tát an trụ bực đệ ngũ nan thắng địa , gọi là " niệm" là vì
chẳng quên chánh pháp , gọi là " trí " là vì hay khéo nói quyết rõ ,
gọi là " hửu trí" là vì biết ý thú kinh thứ đệ liên hiệp , gọi là
" tàm quý" là vì hộ mình hộ người , gọi la "?kiên cố" là vì
chẳng bỏ giới hạnh , gọi là "giác" là vì hay quán sát thị xứ phi xứ ,
gọi là " tuỳ trí" là vì chẳng tuỳ nơi khác , gọi là " tuỳ huệ"
là vì khéo biết câu sai biệt đúng nghĩa hay chẳng đúng nghĩa , gọi là "
thần thông" , là vì khéo tu thiền định , gọi là " phương tiện thiện
xảo" là vì có thể thật hành theo thế gian , gọi là " vô yểm túc
" là vì khéo chứa phước đức , gọi là " bất hưu tức " là vì
thường cầu trí huệ , gọi là " bất bì quyện " là vì chứa đại từ bi ,
gọi là " siêng tu vì người " là vì muốn cho tất cả chúng sanh chứng
nhập niết bàn , gọi là " cần cầu chẳng giải đãi" là vì cầu trí lực ,
vô uý , bất cộng pháp của Như Lai , gọi là " mống ý hay làm" là vì
thành tựu trang nghiêm phật độ , gọi là " siêng tu công hạnh lành" là
vì hay đầy đủ tướng hảo , gọi là " thường siêng tu tập" là vì cầu
trang nghiêm thân , ngữ , ý Như Lai , gọi là " rất tôn trọng cung kính
phá" là vì đúng như lời dạy của tất cả đại bồ tát mà thật hành , gọi là
" tâm không chướng ngại" là vì dùng đại phương tiện thường du hành
thế gian , gọi là " ngày đêm xa lìa những tâm khác" là vì thích giáo
hoá chúng sanh .
Chư Phật tử !
lúc đại Bồ Tát siêng tu hành như vậy , dùng Bố thí để giáo hoá chúng sanh ,
dùng ái ngữ lợi hành và đồng sự để giáo hoá chúng sanh . Thị hiện sắc thân để
giáo hoá chúng sanh , diễn thuyết các pháp để giáo hoá chúng sanh . khai thị Bồ
Tát hạnh để giáo hoá chúng sanh . Hiển thị lỗi lầm khổ sở của sanh tử để giáo
hoá chúng sanh . Khen ngợi trí huệ lợi ích của Như Lai để giáo hoá chúng sanh .
Hiện sức đại thần thông để giáo hoá chúng sanh . Hiện sức đại thần thông để
giáo hoá chúng sanh . Dùng các môn phương tiện để giáo hoá chúng sanh . Dùng
các môn phương tiện để giáo hoá chúng sanh
Chư Phật tử !
đại Bồ Tát này có thể siêng năng phương tiện như vậy để giáo hoá chúng sanh .
lòng luôn tương tục thẳng đến phật trí . Thiện căn đã tu không hề thối chuyển .
Thường siêng tu học những pháp hành thù thắng .
Chư Phật tử !
Ðại Bồ Tát này vì lợi ích chúng sanh nên gồm học tập tất cả kỹ nghệ thế gian ,
thông đạt cả những môn văn tự , toán số , đồ thơ , ấn loát , các sách luận về
địa , thuỷ , hoả phong. Lại giỏi phương thuốc trị lành các bịnh : điên cuồng ,
càn tiêu , quỷ mị , cổ độc . lại giỏi những thứ văn bút , tấn vịnh , ca vũ, kỷ
nhạc,diễu cười, đàm luận.Biết rành cách thức kiến thiết thành trì,thôn ấp,nhà
cửa,vườn tược, suối ao, cây cỏ, hoa trái, dược thảo.Biết những nơi có mõ vàng,
bạc, châu, ngọc.Giỏi xem biết rành mặt trời, mặt trăng, tinh tú, chim hót, địa
chấn, chiêm bao tốt xấu, thân tướng sang hèn.Những môn trì giới, nhập thiền
định,vô lượng thần thông,tứ vô sắc và tất cả việc thế gian khác,nếu là những sự
không làm tổn chúng sanh mà đem lại lợi ích thời đều khai thị cho họ,lần đưa họ
đến phật phápvô thượng .
Chư Phật tử !
đại Bồ Tát trụ bực Nan thắng này , do nguyện lực được thấy nhiều Ðức phật ,
nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha đức phật , nhẩn đến thấy trăm ngàn ức na
do tha đức phật , đều kính trọng cúng dường,cũng cúng dường tất cả chúng tăng .
Ðem thiện căn này hồi hướng vô thượng Bồ đề . nơi Chư Phật cung kính nghe pháp
, nghe xong thọ trì tuỳ sức tu hành.Sau đó xuất gia lại nghe Phật pháp được đà
la ni làm qua trăm kiếp nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp,những
thiện căn đã có càng thêm sáng sạch .
Chư Phật tử ! ví
như chơn kim dùng ngọc xa cừ để dồi bóng thời càng thêm sáng sạch .
Cũng vậy, Bồ Tát
này dùng Phương tiện huệ tư duy quán sát, những thiện căn đã có càng thêm sáng
sạch .
Chư Phật tử ! Bồ
Tát trụ bực nan thắng địa dùng tiện trí thành tựu công đức,những thiện căn của
bực dưới không thể sánh kịp .
Chư Phật tử !
như mặt trời mặt trăng cung điện quang minh do sức gió chấp trì nên không bị
chướng ngăn phá hoại, cũng chẳng phải sức gió khác làm khuynh động được .
Cũng vậy , những
thiện căn của bực Bồ Tát này , do phương tiện trí theo dõi quán sát nên không
bị ngăn hoại, cũngchẳng phải thiện căn của tất cả độc giác, thanh văn và thế
gian làm khuynh động được .
Trong mười môn
ba la mật, Bồ Tát này thiên nhiều về thiền ba la mật, với các môn khác thời tuỳ
phần tuỳ sức .
Chư Phật tử !
đây là lược nói về đệ ngũ nan thắng địa Bồ Tát .
Bồ Tát ở bực này
thường làm đâu suất thiên vương .Ðối với chúng sanh đều được tự tại.Dẹp trừ tất
cả ngoại đạo tà kiến, có thể làm cho chúng sanh trụ trong thiệt đế .
Tất cả công hạnh
bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm phật, niệm pháp,niệm tăng,
nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ nhứt thiết chủng trí .
Bồ Tát này lại
nghĩ rằng : tôi sẽ ở trong chúng sanh làm thượng thủ, làm thắng, làm thù thắng,
làm diệu, làm vi diệu , làm vô thượng nhẫn đến làm bực y chỉ của nhứt thiết
chủng trí .
Bồ Tát này nếu
phát cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được ngàn ức tam muội,thấy ngàn ức Ðức
Phật , biết thần lực của ngàn ức Ðức Phật,có thể chấn động ngàn ức thế
giới,nhẫn đến thị hiện ngàn ức thân phật , mỗi mỗi thân hiện ngàn ức Bồ Tát làm
quyến thuộc .
Nếu dùng nguyện
lực thù thắng tự tại để thị hiện thời hơn vô số trên đây , nhẫn đến trăm ngàn
ức na do tha kiếp chẳng thể đếm được .
Kim cang tạng Bồ
Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Bồ Tát tứ địa đã
thanh tịnh
Tư duy tam thế
phật bình đẳng
Giới,tâm,trừ
nghi,đạo phi đạo ,
Quán sát như vậy
vào ngũ địa .
Niệm xứ làm cung
,căn làm tên .
Chánh cần làm ngựa
, xe : thần túc ,
Giáp sắt ngũ lực
phá oán địch ,
Mạnh mẽ bất thối
vào ngũ địa ,
Tàm quý y phục,
hoa giác phần
Tịnh giới y
phục, hoa giác phần
Tịnh giới làm
hương, thiền hương thoa
Trí huệ phương
tiện diệu trang nghiêm
Vào rừng tổng
trì, vườn tam muội .
Như ý làm
chân,cổ chánh niệm ,
Từ bi làm mắt,
răng trí huệ ,
Ðấng sư tử vô
ngã rống vang động .
Phá giặc phiền
não vào ngũ địa
Bồ Tát trụ bực
đệ ngũ này
Chuyển tu thắng
thượng đạo thanh tịnh
Chí cầu Phật
pháp chẳng bất thối chuyển
Gẩm nhớ từ bi
không nhàm mõi .
Chứa nhóm phước
trí thắng công đức
Tinh tấn phương
tiện quán bực trên
Phật lực gia hộ
đủ niệm huệ
Rõ biết tứ đế
như thiệt .
Khéo biết thế đế
, thắng nghĩa đế
Tướng đế , sai
biệt thành lập đế ,
Sự đế, sanh ,
tận và đạo đế.
Nhẫn đến Như Lai
vô ngại đế.
Quán đế như vậy
đầu vi diệu
Chưa được vô
ngại thắng giải thoát .
Do
đây hay sanh thắng công đức .
Cho
nên vượt hơn thế trí huệ .
Ðã
quán đế rồi biết hửu vi .
Thể
tánh hư dối không bền chắc
Ðược
phần từ quang của chư phật
vì
lợi chúng sanh cầu phật trí .
Quán
pháp hửu vi thuở trước sau
Vô
minh tối tăm , ái ràng buộc
Lưu
chuyển xoắn trong quả khổ
Không
ngã, không nhơn, không thọ mạng .
Ái
thủ làm nhơn thọ khổ sau
Muốn
tìm ngằn mé không thể được ,
Mê
vọng trôi chìm không thuở về
Bọn
này đáng thương tôi phải độ .
Nhà
: uẩn, rắn : cõi, mũi tên : chấp
Tâm
hoả hừng hực, si tối nặng
Sông
ái cuốn trôi chẳng rảnh xem
Biển
khổ dật dờ không người dắt .
Rõ
biết như vậy siêng tinh tấn
Chổ
làm đều vì độ chúng sanh
Gọi
là người có niệm có huệ
Nhẫn
đến có giác giải phương tiện .
Tu
tập phước trí không nhàm đủ
Cung
kính đa văn chẳng mõi nhàm
Cõi
nước tướng hảo đều trang nghiêm
Như
vậy đều ví chúng sanh cả
Vì
muốn giáo hoá các thế gian
Giỏi
biết thơ số cách ấn loát
Và
cũng biết rành các phương thuốc
Chửa
trị bịnh tật đều được lành .
Văn
từ , ca vũ đều khéo giói
Nhà
cửa,vườn ao đều an ổn .
Mõ
vàng , bạc ngọc đều pháp hiện
Vô
lượng chúng sanh nhờ lợi ích .
Nhựt,
nguyệt, tinh tú và địa chấn
Nhẫn
đến thân tướng cũng quán sát
Tứ
thiền,vô sắc và thần thông
Vì
lợi thế gian đều hiển thị .
Trí
giả trụ bực nan thắng này
Cúng
vô lượng phật và nghe pháp
Như
dùng diệu bửu trau chơn kim
Thiện
căn đã có càng sáng sạch .
Ví
như tinh tú ở hư không
Phong
lực chấp trì không tổn động .
Cũng
như hoa sen không dính nước
Bồ
Tát độ đời cũng như vậy .
Bực
này thường làm đâu suất vương
Hay
dẹp ngoại đạo các phật trí
Nguyện
được thập lực độ tận chúng sanh
Ngài tu hành đại
tinh tấn
Liền được cúng
dường ngàn ức phật
Ðắc định, động
cõi cũng ngàn ức
Nếu là nguyện
lực lại hơn đây .
Bồ Tát đệ ngũ
nan thắng địa
Chơn
đạo tối thượng trong nhơn gian
Tôi
cùng các môn phương tiện lực
Vì
Chư Phật đã tuyên thuyết .
Bồ
Tát đã nghe những thắng hạnh
Lòng
rất hoan hỷ rải hoa thơm
Phóng
tịnh quang minh rải bửu châu
Cúng
duờng Như Lai khen nói giỏi .
Trăm
ngàn thiên chúng đều vui mừng
Ðồng
ở hư không rải các báu :
Tràng
hoa, chuổi ngọc và tràng phan
Lọng
báu , hương thoa đều cúng phật .
Tự
tại thiên vương cùng quyến thuộc
Lòng
sanh hoan hỷ trụ hư không
Rải
báu thành mây dùng cúng dường
Khen
rằng Phật tử khéo tuyên thuyết !
Vô
lượng thiên nữ ở hư không
Ðồng
tấu nhạc âm ca ngợi phật
Trong
tiếng ca nhạc đều nói rằng
Lời
phật hay trừ bịnh phiền não ,
Pháp
tánh bổn tịch không hình tướng
Dường
như hư không chẳng phân biệt
Ngoài
những chấp trước , tuyệt nói phô
Chơn
thiệt bình đẳng thường thanh tịnh .
Nếu
muốn thông đạt các pháp tánh
Nơi
có , nơi không lòng chẳng động
Vì
muốn cứu đời siêng tu hành
Từ
miệng phật sanh chơn Phật tử .
Bố
thí vẫn không thấy có tướng ,
Vốn
đứt điều ác gìn giử tịnh giới ,
Hiểu
pháp không hại , thường nhẫn nhịn ,
Biết
pháp tánh ly , chuyên tinh tấn ,
Ðã
hết phiền não vào thiền định ,
Khéo
đạt tánh không,phan biệt pháp
Ðầy
đủ trí lực ,hay cứu rộng
Diệt
trừ điều ác xưng đại sĩ .
Diệu
âm như vậy ngàn vạn thứ
Khen
rồi đứng yên chiêm ngưỡng phật .
Giải
thoát nguyệt Bồ Tát rằng : thưa Phật tử ! đại Bồ Tát đã đủ đệ ngũ địa muốn vào
đệ lục hiện tiền địa phải quán sát mười pháp bình đẳng
Ðây
là mười pháp :
Tất
cả pháp vì vô tướng nên bình đẳng vì vô thế nên bình đẳng , vì vô sanh nên bình
đẳng,vì vô diệt nên bình đẳng , vì bổn lai thanh tịnh nên bình đẳng , vì không
hý luận nên bình đẳng,vì không thủ xã nên bình đẳng,vì tịch tịnh nên bình
đẳng.Vì như huyễn,như mộng,như bóng, như vang, như trăng trong nước, như tượng
trong gương , như dương diệm, như biến hoá nên bình đẳng , vì có không bất nhị
nên bình đẳng .
Bồ
Tát quán sát các pháp như vậy , tự tánh thanh tịnh , tuỳ thuận không trái được
vào đệ lục hiện tiền địa , được minh lợi tuỳ thuận nhẫn, chưa được vô sanh pháp
nhẫn .
Chư
Phật tử ! đại Bồ Tát này quán như vậy rồi , lại lấy đại làm đầu , đại bi tăng
thượng , đại bi đầy đủ , quán thế gian sanh diệt mà nghĩ rằng:
Thế
gian thọ sanh đều do chấp ngã.Nếu lìa chấp ngã thời không chỗ sanh .
Lại
nghĩ rằng : phàm phu không trí huệ chấp lấy ngã thường tìm có không , suy xét
bất chánh, khởi vọng hạnh, làm đạo tà, nghiệp tội, nghiệp bất động tích tập
thêm lớn.Ở trong các nghiệp hành trồng hột giống tâm hửu lậu hữu thú, lại khởi
hậu hữu : sanh và lão tử.Chính là : nghiệp làm đồng ruộng, thức làm hột giống,
vô minh che rợp, nước ái thấm nhuần, ngã mạn tưới bón, lưới chấp kiến thêm lớn,
mọc mầm danh sắc, danh sắc thêm lớn nẩy chồi ngũ căn , các căn đối nhau sanh ra
xúc, xúc đối sanh có thọ, sau khi thọ rồi mong cầu sanh có ái , ái tăng thêm
sanh ra thủ, thêm lớn thủ sanh ra hữu, đã sanh hữu thời ở trong các loài khởi
thân ngũ uẩn gọi là sanh,suy biển gọi là lão,chết mất gọi là tử. Lúc lão tử
sanh ra những nhiệt não .Do nhiệt não nên đủ thứ khổ ưu sầu, buồn than tập họp
lại .Ðây là do duyên mà tập họp chớ không có cái tập họp.Lần lượt mà diệt chớ
không có cái diệt .
Bồ
Tát tuỳ thuận quán sát tương duyên khởi như vậy .
Chư
Phật tử ! đại Bồ Tát này lại nghĩ rằng : vì chẳng tỏ ngộ nơi đệ nhứt nghĩa đế
nên gọi là vô minh . nghiệp quả là hành .sơ tâm của hành y chỉ là thức. Bốn uẩn
cùng thức sanh chung là danh sắc. Danh sắc tăng trưởng là lục nhập .Căn , cảnh,
thức ba thứ hòa hiệp là xúc. Xúc sanh chung mà có thọ. Nhiễn trước nơi thọ là
ái .Thêm lớn ái thành ra thủ. Nghiệp hữu lậu do thủ khởi lên là hữu. Từ nghiệp
khởi ra uẩn là sanh. Uẩn chín mùi là lão. Uẩn hư hoại là tử .Lúc mê tham luyến
trong lòng phiền muộn là sầu. Rơi lệ than thở là thán .Tại năm căn là khổ .Tại
ý tưởng là ưu . Ưu khổ càng nhiều là não .
Như
thế thì chỉ có cây khổ làm tăng trưởng , trọn không ngã không ngã sở, không tác
giả, không thọ giả .
Lại
nghĩ rằng : nếu có tác giả thời có tác sự .Nếu không tác giả thời không tác sự
.Trong đệ nhứt nghĩa đế hoàn toàn bất khả đắc .
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ Tát này lại nghĩ rằng : toàn cả tam giới chỉ có nhứt tâm .Ơ
?#273;ây đức Như Lai phân biệt diễn nói mười hai chi, đều y cứ nhứt tâm mà an
lập như vậy .
Tại
sao vậy ? vì theo sự tham dục cùng tâm sanh chung .Tâm là thức, sự là hành .Mê
lầm nơi hành là vô minh .Cùng vô minh và tâm sanh chung là danh sắc .Tăng
trưởng danh sắc là lục nhập .Lục nhập ba phần là xúc .Xúc sanh chung là thọ
.Thọ không nhàm đủ là ái .Ái nhiếp chẳng bỏ là thủ .Các hữu chi sanh là hữu
.Của hữu phát khởi gọi là sanh .Sanh thục là lão .Lão hoại là tử
Chư
Phật tử ! trong đây vô minh có hai thứ nghiệp : một là làm cho chúng sanh mê
nơi cảnh sở duyên, hai là làm nhơn sanh khởi cho hành .
Hành
cũng có hai thứ nghiệp : một là có thể sanh ra báo vị lai, hai là làm nhơn sanh
khởi cho thức .
Thức
cũng có hai thứ nghiệp : một là khiến các hữu nối tiếp,hai là làm nhơn sanh
khởi cho danh sắc .
Danh
sắc cũng có hai thứ nghiệp : một là trợ thành lẫn nhau,hai là làm nhơn sanh
khởi cho lục nhập .Lục nhập cũng có hai thứ nghiệp : một là đều riêng lấy cảnh
giới của tự mình, hai là làm nhơn sanh khởi cho xúc .
Xúc
cũng có hai thứ nghiệp : một là hay xúc cảnh sơ ûduyên, hai là làm nhơn sanh
khởi cho thọ .
Thọ
cũng có hai nghiệp : một là hay lãnh thọ các sự yêu ghét , hai là làm nhơn sanh
khởi cho ái .
Ái
cũng có hai nghiệp : một là nhiễm trước sự khả ái, hai là làm nhơn sanh khởi
cho thủ .
Thủ
cũng có hai nghiệp : một là làm cho các phiền não nối tiếp, hai là làm nhơn
sanh khởi cho hữu .
Hữu
cũng có hai nghiệp : một là hay làm cho sanh trong các loài, hai là làm nhơn
sanh khởi cho sanh .
Sanh
cũng có hai nghiệp : một là hay khởi các uẩn, hai là làm nhơn sanh khởi cho lão
.
Lão
cũng có hai nghiệp : một là làm cho các căn biến đổi, hai là làm nhơn sanh khởi
cho tử .
Tử
cũng có hai thứ nghiệp : một là hay làm hoại cách hành, hai là vì chẳng giác
tri nên nối tiếp chẳng dứt .
Chư
Phật tử ! trong đây vô minh,duyên hành, nhẫn đến sanh duyên lão tử .Do vô minh
làm duyên, nhẫn đến sanh làm duyên làm cho hành nhẫn đến lão tử chẳng dứt , vì
nó trợ thành vậy .
Vô
minh diệt thời hành diệt, nhẫn đến sanh diệt thời lão tử diệt .Do vô minh chẳng
làm duên nhẫn đến sanh chẳng làm duyên, khiến cho hành nhẫn đến lão tử dứt
diệt, vì nó chẳng trợ thành vậy .
Chư
Phật tử ! trong đây vô minh ái và thủ chẳng dứt là phiền não đạo . Hành và hữu
chẳng dứt là nghiệp đạo .Những phần khác chẳng dứt là khổ đạo.
Tiền
tế hậu tế phân biệt dứt diệt thời ba đạo dứt diệt .
Ba
đạo như vậy lìa ngã, lìa ngã sở, chỉ có sanh diệt dường như bó lau .
Lại
vô minh duyên hành là quán quá khứ .Thức nhẫn đến thọ là quán hiện tại . Ái
nhẫn đến hữu là quán vị lai .Từ đây về sau xoay vần tiếp nối .
Vô
minh diệt, hành diệt, đó là quán chờ dứt diệt .
Lại
mười hai hữu chi gọi là tam khổ .Trong đây vô minh , hành đến lục nhập là hành
khổ .Xúc , thọ là khổ khổ . Những chi khác là hoại khổ .
Vô
minh diệt, hành diệt đó là ba khổ dứt .
Lại
vô minh duyên hành là vô minh làm nhơn hay sanh các hành .Các chi khác cũng vậy
.
Vô
minh diệt hành diệt đó là do không vô minh thời hành cũng không .Các chi khác
cũng không . Các chi khác cũng vậy .
Lại
vô minh duyên hành đó là sanh phược .vô minh diệt hành diệt đó là diệt hệ phược
.Các chi khác cũng vậy .
Lại
vô minh duyên hành đó là tùy thuận vô sở hữu quán .vô minh diệt hành diệt đó là
tùy thuận tận diệt quán .Các chi khác cũng vậy .
Chư
Phật tử ! đại Bồ Tát quán nghịch thuận các duyên khởi có mười cách như vậy là
vì hữu chi nối tiếp , vì nhiếp tại nhứt tâm, vì tự nghiệp sai biệt , vì tam đạo
chẳng dứt , vì quán quá khứ, hiện tại, vị lai , vì ba khổ tụ tập,vì nhơn duyên
sanh diệt, vì sanh diệt hệ phược , vì vô sở hữu quán và tận quán .
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ Tát dùng mười tướng như vậy quán các duyên khởi biết là vô
ngã, vô nhơn, vô thọ mạng, tự tánh không, chẳng có tác giả, không có thọ giả,
liền được môn không giải thoát hiện tiền .
Quán
các hữu chi đều là tự tánh diệt, rốt ráo giải thoát, không có chút pháp tướng
sanh, liền được môn vô tướng giải thoát hiện tiền .
Nhập
không , vô tướng rồi, không nguyện cầu, chỉ trừ đại bi làm đầu giáo hoá chúng
sanh , liền được môn vô nguyện giải thoát hiện tiền .
Bồ
Tát tu ba môn giải thoát như vậy , lìa tưởng ngã, lìa tưởng tác giả, tưởng thọ
giả, lìa tưởng hữu vô
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ Tát này đại bi càng tăng thêm siêng năng tu tập, vì chưa viên
mãn pháp Bồ đề phần nên làm cho viên mãn .
Bồ
Tát nghĩ rằng : tất cả hữu vi, có hoà hiệp thời chuyển, không hoà hiệp thời
không chuyển. Duyên nhóm thời chuyển, duyên không nhóm thời chẳng chuyển. Tôi
biết pháp hữu vi có nhiều lỗi hoạ như vậy , nay phải dứt nhơn duyên hoà hiệp
này . Nhưng vì phải thành tựu chúng sanh nên cũng chẳng dứt các công hạnh .
Chư
Phật tử ! Bồ Tát như vậy quán sát các pháp hữu vi có nhiều lỗi ác, không có tự
tánh, không sanh không diệt mà hằng khởi đại bi chẳng bỏ chúng sanh , liền được
bát nhã ba la mật hiện tiền, gọi là vô chướng ngại trí quang minh .
Thành
tựu trí quang minh như vậy rồi, dầu tu tập Bồ đề phần nhơn duyên mà chẳng trụ
trong hữu vi, dầu quán pháp hữu vi tự tánh tịch diệt, cũng chẳng trụ trong tịch
diệt. Vì pháp Bồ đề phần chưa viên mãn .
Chư
Phật tử ! Bồ Tát trụ bực hiện tiền địa này, được nhập không tam muội, tự tánh
không tam muội, đệ nhứt không tam muội , hiệp không tam muội, khởi không tam
muội , như thiệt bất phân biệt không tam muội , bất xã ly không tam muội .
Bồ
Tát này được mười môn không tam muội như vậy làm đầu. Kế đó trăm ngàn không tam
muội đều hiện tiền cả .
Mười
môn vô tướng không tam muội, mười môn vô nguyện tam muội như vậy làm đầu , kế
đó trăm ngàn môn vô tướng, vô nguyện đều hiện tiền cả .
Chư
Phật tử ! Bồ Tát trụ bực hiện tiền địa này lại tu tập đầy đủ tâm bất khả hoại,
tâm quyết định , tâm thuần thiện, tâm thậm thâm, tâm , tâm bất thối chuyển, tâm
bất hưu tức, tâm quảng đại, tâm vô biên, tâm bất hưu tức, tâm quảng đại, tâm vô
biên, tâm cầu trí, tâm phương tiện huệ tương ưng, tất cả đều viên mãn .
Chư
Phật tử ! Bồ Tát dùng mười tâm này thuận phật Bồ đề , chẳng sợ dị luận, vào các
trí địa, lìa đạo nhị thừa, thẳng đến Phật trí, các ma phiền não không trở lại
hư hoại được, trụ nơi Bồ Tát trí huệ quang minh. Trong pháp không, vô tướng, vô
nguyện đều khéo tu tập, trí huệ phương tiện luôn chung tương ưng, pháp Bồ đề
phần thường thật hành chẳng bỏ .
Chư
Phật tử ! Bồ tát trụ trong bực hiện tiền địa này được tăng thượng hạnh bát nhã
ba la mật , được đệ tam minh lợi thuận nhẫn, vì tuỳ thuận không trái với tướng
như thiệt của các pháp .
Chư
Phật tử ! Bồ tát đã an trụ nơi bực hiện tiền địa này, do nguyện lực nên được
thấy nhiều Ðức Phật , nhẫn đén thấy trăm ngàn ức na do tha Ðức Phật đều dùng
tâm quãng đại, thâm tâm để cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, cũng cúng
dường tất cả chúng tăng. Ðem thiện căn này hồi hướng vô thượng Bồ đề .
Nơi
Chư Phật ,Bồ Tát này cung kính nghe pháp, nghe xong thọ trì, được như thiệt tam
muội trí huệ quang minh, tuỳ thuận tu hành ghi nhớ chẳng bỏ . Lại được pháp
tạng thậm thâm của Chư Phật . Trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp ,
những thiện căn đã có lại càng sáng sạch .
Ví
như chơn kim,. Dùng báu tỳ lưu ly luôn dồi bóng, thời càng thêm sáng sạch .
Cũng
vậy , Bồ Tát đệ lục địa này dùng phương tiện huệ theo dõi quán sát, những thiện
căn đãđược càng thêm sáng sạch, càng thêm tịch diệt , hkông gì che khuất được .
Ví
như ánh sáng của mặt trăng chiếu đến thân chúng sanh làm cho được mát mẽ, bốn
thứ phong luân không ngăn hoại được .
Cũng
vậy, những thiện căn của bực Bồ Tát này hay dập tắt ngọn lửa phiền não của vô
lượng trăm ngàn ứu na do tha chúng sanh . Bốn thứ ma đạo không phá hoại được
Trong
mười môn ba la mật , Bồ Tát này thiên nhiều về bát nhã ba la mật, ngoài ra tuỳ
sức tuỳ phần tu các môn khác .
Chư
Phật tử ! đây là lược nói về đại Bồ Tát đệ lục hiện tiền địa. Bồ Tát an trụ nơi
bực này thường hiện làm thiện hóa thiên vương, việc làm tự tại. Tất cả sự vấn
nạn của hàng thanh văn không làm thối khuất được. Có thể làm cho chúng sanh trừ
diệt ngã mạn, thâm nhập duyên khởi .
Tất
cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm phật, niệm
pháp, niệm tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này lại nghĩ rằng : với tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là thắng,
nhẫn đến bực y chỉ của Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này nếu chuyên cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được trăm ngàn ức tam
muội, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn ức thân Phật, mỗi mỗi thân Phật thị hiện trăm
ngàn ức Bồ Tát làm quyến thuộc.
Nếu
dùng nguyện lực thị hiện tự tại thời hơn đây, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha
kiếp chẳng thể đếm biết được.
Kim
Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Bồ
Tát viên mãn Ngũ Ðịa rồi
Quán
pháp vô tướng cũng vô tánh
Vô
sanh vô diệt vốn thanh tịnh
Không
có hỷ luân không thủ xả.
Thể
tướng tịch diệt như huyễn thảy
Hữu
vô bất nhị rời phân biệt
Tùy
thuận pháp tánh quán như vậy
Trí
này được thành nhập Lục Ðịa.
Ðầy
đủ trí minh lợi thuận nhẫn
Quán
sát thế gian tướng sanh diệt
Do
sức si tối có thế gian
Si
tối diệt mất không thế gian.
Quán
các nhơn duyên không thiệt tánh
Chẳng
hoại giả, gọi hoà hiệp dụng
Vô
tác, vô thọ, không nghĩ nhớ
Hành
pháp như mây nổi khắp nơi .
Chẳng
biết chơn đế gọi vô minh
Gây tạo tư :
nghiệp,ngu si : quả .
Thức khởi sanh
chung gọi là danh sắc ,
Như vậy nhẫn đến
những khổ tụ,
Rõ thấu ba cõi
nương nơi tâm
Mười hai nhơn
duyên cũng nương tâm
Sanh
tử đều do tâm làm ra
Tâm
nếu diệt dứt, sanh tử hết.
Vô
minh công dụng có hai thứ :
Mê
lầm sở duyên, làm thành nhơn,
Như
vậy nhẫn đến lão và tử
Do
đây quả khổ không cùng tận .
Vô
minh làm duyên chẳng thể dứt,
Duyên
đó nếu dứt tất cả dứt,
Ngu
si, ái,thủ : phiền não chi
Hành,
hữu là nghiệp, nghiệp, chi khác : khổ.
Si đến lục nhập
là hành khổ,
Xúc thọ thêm lớn
là khổ khổ,
Còn những chi
khác là hoại khổ,
Nếu thay vô ngã
ba khổ dứt.
Vô minh cùng
hành thuộc quá khứ,
Thức đến xúc,
thọ thuộc hiện tại
Ái, thủ, hữu
sanh khổ vị lai.
Quán đãi nếu dứt
: biên tế dứt .
Vô minh làm
duyên : là sanh phược
Rời được nơi
duyên phược mới hết
Từ nhơn sanh
quả, lìa thời dứt,
Quán sát nơi đây
biết tánh không .
Tuỳ thuận vô
minh khởi ba cỏi .
Nếu không tuỳ
thuận ba cõi dứt,
Có đây có kia,
không cũng vậy
Mười cách tư duy
tâm lìa chấp.
Hữu chi tiếp nói
nhiếp nhứt tâm
Tự nghiệp chẳng
rời và tam đạo,
Tam tế, tam khổ
nhơn duyên sanh
Hệ phược khởi
diệt thuận vô tận ,
Như vậy , quán
khắp pháp duyên khởi
Vô tác, vô thọ,
không chơn thiệt
Như huyễn, như
mộng, như bóng vang
Như
kẻ ngu chay theo dương diệm.
Quán
sát như vậy vào nơi không
Biết
duyên tánh ly được vô tướng
Rõ
pháp hư vọng không nguyện cầu
Chỉ
có từ mẫn độ muôn loại.
Ðại
sĩ tu hành môn giải thoát
Càng
thêm đại bi cầu phật pháp
Biết
các hữu vi hòa hiệp làm
Chí
nguyện quyết định siêng hành đạo .
Môn
không tam muội đủ trăm ngàn
Vô
tướng, vô nguyện cũng như vậy
Bát
nhã thuận nhẫn đều không tăng thượng
Giải
thoát trí huệ được viên mãn .
Lại
dùng thâm tâm cúng nhiều phật
Ở
trong phật giáo tu tập đạo
Ðược
Phật pháp tạng thêm thiện căn
Như
vàng dùng lưu ly trau sáng .
Như
trăng sáng mát lợi muôn loài .
Bốn
phong luân không ngăn hoại được,
Bực
Bồ Tát này siêu ma đạo
Dứt
trừ phiền não cho quần sanh .
Bực
này thường làm thiên hóa vương
Hóa
đạo chúng sanh trừ ngã mạn
Công
hạnh đều cầu nhứt thiết trí
Ðều
đã vượt hơn đạo Thanh văn .
Bồ
Tát bực này siêng tinh tấn
Ðược
môn tam muội trăm ngàn ức
Cũng
thấy trăm ngàn ức đức phật
Ví
như mặt nhựt ngày thạnh hạ .
Tậm
thâm vi diệu khó thấy biết
Thanh
văn, độc giác không rõ được
Bồ
Tát hiện tiền đệ lục địa
Tôi
vì Phật tử đã lược nói .
Bấy
giờ thiên chúng lòng hoan hỷ
Rải
hoa thành mây dừng hư không
Khắp
nơi pháp âm thanh diệu mầu
Thưa
cùng đắng tối thắng thanh tịnh :
Rõ
thấu thắng nghĩa trí tự tại
Thành
tựu công đức trăm ngàn ức
Không
chấp trước, như sen không nhiễm
Vì
lợi chúng sanh nói thâm hạnh .
Tự
tại Thiên Vương ở hư không .
Phóng
đại quang minh chiếu thân phật
Cũng
rải mây thơm tối thượng diệu
Cúng
khắp đắng sạch trừ phiền não
Bấy
giờ thiên chúng đều vui mừng .
Ðều
phát tiếng hay đồng ca ngợi :
Chúng
tôi được nghe hiện tiền địa
Thời
là đã được nhiều lợi lành .
Thiên
nữ lúc ấy lòng mừng vui
Cùng
trổi âm nhạc ngàn muôn điệu
Ðều
do thần lực của Như Lai
Trong
tiếng hòa nhạc thành lời nói :
Oai
nghi tịch tịnh không sánh kịp
Ðiều
ngự chúng sanh đời nên cúng
Ðã
siêu tất cả những thế gian
Mà
vào thế gian truyền diệu đạo .
Dầu
hiện nhiều loại vô lượng thân
Biết
thân mỗi mỗi vô sở hữu
Khéo
dùng ngôn từ nói các pháp
Chẳng
chấp tướng văn tự âm thanh .
Qua
đến trăm ngàn các quốc độ .
Dùng
những thượng cúng cúng dường phật
Trí
huệ tự tại không chấp trước
Chẳng
sanh niệm tưởng cõi phật ta
Dầu
siêng giáo hóa các chúng sanh .
Mà
không nhơn ngã tất cả tâm
Dầu
đã tu thành hạnh quảng đại
Mà
nơi hạnh lành chẳng chấp trước .
Bởi
thấy tất cả các thế gian
Lửa
tham, sân, si thường cháy hực
Nơi
các tưởng niệm thảy đều lìa
Phát
khởi đại bi sức tinh tấn .
Tất
cả chư thiên và thiên nữ
Cúng
dường nhiều thứ khen ngợi rồi
Tất
cả đồng thời đứng lặng yên
Chiêm
ngưỡng thế tôn mong nghe pháp .
Giải
thoát nguyệt vì chúng lại thưa :
Cả
đại chúng đây lòng thanh tịnh
Những
hành tướng trong đệ thất địa
Trông
mong Bồ Tát thương giảng giải .
Kim
cang tạng Bồ Tát nói với giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng : thưa Phật tử ! đại Bồ
Tát đã tròn đủ công hạnh của đệ lục địa muốn vào đệ thất viễn hành địa, phải tu
mười môn phương tiện huệ phát khởi đạo thù thắng .
Ðây
là mười đạo thù thắng :
Dầu
khéo tu không, vô tướng, vô nguyện tam muội mà từ bi chẳng bỏ chúng sanh .Dầu
được pháp bình đẳng của chư phật mà thích thường cúng dường phật. Dầu nhập môn
quán không trí mà siêng chứa phước đức .Dầu xa rời tam giới mà trang nghiêm tam
giới . Dầu rốt ráo dập tắt ngọn lửa phiền não mà có thể vì tất cả chúng sanh
khởi hạnh diệt tắt ngọn lửa phiền não tham, sân, si. Dầu biết các pháp như
huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như dương diệm, như biến hóa, như trăng
dưới nước, như tượng trong gương, tự tánh bất nhị, mà tuỳ tâm tác động vô lượng
sai khác. Dầu biết tất cả quốc độ dường như hư không mà hay dùng diệu hạnh
thanh tịnh trang nghiêm phật độ . Dầu biết pháp thân của Chư Phật bổn tánh
không thân mà dùng tướng hảo trang nghiêm thân mình . Dầu biết âm thanh của chư
phật tánh không tịch diệt chẳng thể ngôn thuyết, mà có thể tuỳ tất cả chúng
sanh phát ra các thứ âm thanh thanh tịnh sai khác.Dầu tùy Chư Phật rõ biết tam
thế chỉ là nhứt niệm, mà tùy ý giải sai biệt của chúng sanh , dùng các loại
tướng, các thứ thời gian , các thứ kiếp số để tu tập công hạnh .
Bồ
Tát dùng môn Phương tiện huệ phát khởi hạnh thù thắng này, từ đệ lục hiện tiền
địa vào đệ thất viễn hành địa. Lúc vào đệ thất địa rồi thời các hạnh này thường
hiện tiền, gọi là an trụ nơi đệ thất viễn hành địa.
Phật
tử ! đại Bồ Tát an trụ đệ thất địa này rồi, thời vào vô lượng chúng sanh giới,
vào vô lượng công nghiệp giáo hóa chúng sanh của Chư Phật , vào vô lượng thế
giới võng, vào vô lượng quốc độ thanh tịnh của Chư Phật, vào vô lượng pháp sai
biệt, vào vô lượng hiện giác trí của Chư Phật, vào vô lượng kiếp số, vào vô
lượng trí giác liễu tam thế của Chư Phật, vào vô lượng tín giải sai biệt của
chúng sanh, vào vô lượng các loại thân danh sắc của Chư Phật thị hiện, vào vô
lượng căn tánh sở thích sai biệt của chúng sanh, vào vô lượng ngữ ngôn âm thanh
làm cho chúng sanh hoan hỷ của chư phật,vào vô lượng các loại tâm hành của
chúng sanh, vào vô lượng trí rõ biết rộng lớn của Chư Phật, vào vô lượng tín
giải của thinh văn thừa, vào vô lượng trí đạo của Chư Phật dạy khiến tín giải,
vào vô lượng pháp thành tựu của bích chi phật, vào vô lượng môn terí huệ thâm
thâm của chư phật dạy khiến thẳng vào, vào vô lượng hạnh phương tiện của chư Bồ
Tát, vào vô lượng sự tập thành của đại thừa của Chư Phật dạy làm cho Bồ Tát
được vào .
Bồ
Tát này nghĩ rằng : vô lượng cảnh giới của Như Lai như vậy, nhẫn đến trăm ngàn
ức na do tha như vậy, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể biết được .Tôi
đều phải dùng tâm vô công dụng, vô phân biệt để thành tựu viên mãn .
Chư
Phật tử ! Bồ tát này dùng thâm trí huệ quán sát như vậy .Thường siêng tu tập
Phương tiện huệ khởi đạo thù thắng an trụ bất động, không một niệm thôi nghỉ
phế bỏ. Ði, đứng, ngồi, nằm, nhẫn đến lúc ngũ chiêm bao cũng chưa từng tương
ưng với cái chướng. Luôn không hề bỏ những quán niệm trên đây.
Trong
mỗi niệm, Bồ Tát này thường có thể đầy đủ mười ba la mật.
Tại
sao vậy ? vì mỗi niệm, Bồ Tát này đều lấy đại bi làm trước để tu hành Phật pháp
hướng đến phật trí. Những thiện căn đã có đều vì cầu phật trí mà bố thí cho
chúng sanh, đây gọi là đàn ba la mật. Hay diệt trừ những lửa phiền não, đây gọi
là thi la ba la mật. Từ bi làm dđầu không tổn hại chúng sanh, đây gọi là sằn đề
ba la mật. Cầu pháp thắng thiện không nhàm đủ, đây gọi là tỳ lê gia ba la mật.
Nhứt thiết trí đạo thường hiện tiền chưa từng tán loạn, đây gọi là thiền na ba
la mật. Hay nhẫn thọ các pháp bất sanh bất diệt, đây gọi là bát nhã ba la mật.
Hay xuất sanh vô lượng trí, đây gọi là phương tiện ba la mật, hay cầu thượng
thượng thắng trí, đây gọi là nguyện ba la mật. Tất cả dị luận và các ma chúng
không trở hoại, đây gọi là lực ba la mật. Rõ biết các pháp đúng thật đây gọi là
trí ba la mật.
Chư
Phật tử ! mười môn ba la mật này, trong mỗi niệm Bồ Tát đều đã đầy đủ .
Cũng
vậy, bốn nhiếp pháp, bốn pháp trì, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, ba môn giải thoát,
lược nói nhẫn đến tất cả pháp Bồ đề phần, trong mỗi niệm, Bồ Tát này đều viên
mãn cả.
Bấy
giờ giải thoát nguyện Bồ Tát hỏi kim cang tạng Bồ Tát rằng : thưa Phật tử ! Bồ
Tát chỉ ở trong đệ thất địa này đầy đủ tất cả pháp Bồ đề phần, hay là trong các
địa cũng có thể đầy đủ ?
Kim
cang tạng Bồ Tát nói : thưa Phật tử ! Bồ Tát ở trong mười địa đều có thể đầy đủ
pháp Bồ đề phần, nhưng đệ thất địa thù thắng hơn.
Tại
sao vậy ? vì đệ thất địa công dụng viên mãn thời được vào trí huệ tự tại hạnh.
Chư
Phật tử ! Bồ tát ở trong bực sơ địa vì duyên tất cả Phật pháp để nguyện cầu nên
đây đủ pháp Bồ đề phần. Vì đệ nhị địa lìa tâm cấu nhơ. Vì đệ tam địa nguyện cầu
càng tăng trưởng được pháp quang minh. Vì đệ tứ địa nhập đạo. Vì đệ ngũ địa
thuận thế gian mà tu tập. Vì đệ lục địa nhập pháp môn thậm thâm. Vì đệ thất địa
phát khởi tất cả Phật pháp. Tất cả địa đều cũng đầy đủ pháp Bồ đề phần .
Tại
sao vậy ? Bồ Tát từ sơ địa đến đệ thất địa thành tựu trí công dụng phần. Do
công lực này, từ đệ bát địa đến đệ thập địa vô công dụng hạnh đều được thành
tựu .
Chư
Phật tử ! ví như có hai thế giới : một thời tạp nhiễm, một thời thuần tịnh.
Chặng giửa của hai thế giới này khó qua được, chỉ trừ bực Bồ Tát có đại thần
thông phương tiện nguyện lực.
Chư
Phật tử ! Bồ tát ở các địa cũng như vậy : có tạp nhiễm hạnh, có thanh tịnh
hạnh. Chẳng giửa của hai hạnh này khó qua được, chỉ trừ Bồ Tát có đại nguyện
lực Phương tiện trí huệ mới có thể qua được .
Giải
thoát nguyệt Bồ Tát hỏi : thưa Phật tử ! bảy địa Bồ Tát này là nhiễm hạnh hay
là tịnh hạnh ?
Kim
cang tạng Bồ Tát nói : thưa Phật tử ! từ sơ địa đến thất địa, công hạnh tu tập
đều lìa bỏ nghiệp phiền não, vì hồi hướng vô thượng Bồ đề , vì phần được đạo
bình đẳng, nhưng chưa gọi là hạnh siêng phiền não.
Chư
Phật tử ! như chuyển luân thánh vương ngự tượng bửu du hành tứ thiên hạ, biết
có người bần cùng khốn khố? mà không bị lây những sự hoạ hoạn đó, nhưng chưa
được gọi là siêu nhơn loại. Nếu bỏ thân chuyển luân vương sanh lên trời phạm
thế, ngự thiên cung thấy ngàn thế giới, du hành ngàn thế giới, thị hiện quang
minh oai đức của phạm thiên mới gọi là siêu nhơn loại .
Chư
Phật tử ! Bồ tát cũng như vậy. Ban đầu từ bực sơ địa đến bực đệ thất địa, ngự
xe ba la mật du hành thế gian , biết quá hoạn phiền não của thế gian. Vì ngự
chánh đạo nên chẳng bị lỗi lầm của phiền não làm lây nhiễm, nhưng chưa gọi là
siêu phiền não hạnh. Nếu bỏ tất cả hạnh hữu công dụng, tư đệ thất địa vào đệ
bát địa, ngự xe Bồ Tát, thanh tịnh du hành thế gian, biết phiền não lỗi lầm
chẳng bị lây nhiễm, mới gọi là siêu phiền não hạnh, vì được siêu quá hết tất cả
Chư
Phật tử ! Bồ tát đệ thất địa này siêu quá hết những phiền não đa tham, đa sân
v.v ... mà an trụ. Bực này chẳng gọi là có phiền não, cũng chẳng gọi là không
phiền não .
Tại
sao vậy ? vì ở bực này, tất cả phiền não chẳng hiện hành nên gọi chẳng gọi là
có. Vì cầu phật trí tâm chưa mãn toại nên chẳng gọi là không.
Chư
Phật tử ! Bồ tát an trụ bực đệ thất địa dùng tâm thâm tịnh mà thành tựu thân
nghiệp, ngữ nghiệp và thành tựu ý nghiệp. Tất cả những nghiệp đạo bất thiện bị
phật quở trách đều đã lìa bỏ. Tất cả thiện nghiệp mà Phật khen thời thường khéo
tu hành . Tất cả kinh, thơ, kỷ thuật của thế gian như đã nói ở đệ ngũ địa đều
tự nhiên thật hành thông thạo chẳng cần dụng công.
Bồ
Tát ở trong đại thiên thế giới làm đại minh sư. Chỉ trừ đức Như Lai và từ đệ
bát địa trở lên, thâm tâm diệu hạnh của các Bồ Tát khác đều không bằng được.
Ở
bực này, những thiền tam muội, thần thông giải thoát đều được hiện tiền. Nhưng
là do tu tập mà thành, chẳng phải báo đắc thành như bực đệ bát địa.
Bực
Bồ Tát này trong mỗi niệm tu tập đầy đủ Phương tiện trí lực, và tất cả pháp Bồ
đề phần đều càng viên mãn hơn.
Chư
Phật tử ! Bồ tát trụ bực này nhập tam muội Bồ Tát thiện quán trạch, tam muội
thiện trạch nghĩa, tam muội tối thắng huệ tam muội phân biệt nghĩa tạng, tam
muội như thiệt phân biệt nghĩa, tam muội thiện trụ kiên cố căn, tam muội trí
huệ thần thông môn, tam muội pháp giới nghiệp, tam muội Như Lai thắng lợi, tam
muội chủng chủng nghĩa tạng sanh tử Niết Bàn môn. Nhập trăm ngàn tam muội đầy
đủ môn đại trí thần thông như vậy, tu tập thanh tịnh các trí địa.
Vì
Bồ Tát này được nhập các tam muội trên đây khéo tu tập thanh tịnh phương tiện
huệ, đại bi lực nên vượt hơn bực nhị thưa, được qán sát trí huệ địa.
Chư
Phật tử ! Bồ tát trụ bực này khéo tu tịnh vô lượng thân nghiệp vô tướng hành, ý
nghiệp vô tướng hành nên được quang minhvô sanh pháp nhẫn.
Giải
thoát nguyệt Bồ Tát hỏi : thưa Phật tử ! Bồ Tát từ sơ địa đến bực này có vô
lượng thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp há chẳng vượt hơn háng nhị thừa ư ?
Kim
cang tạng Bồ Tát nói : thưa phật tử ! các bực đó đều vượt hơn, nhưng chỉ là do
nguyện cầu Phật pháp, chẳng phải là sức tự trí quán sát. Nay trong bực đệ thất
địa này do tự trí lực nên tất cả nhị thừa chẳng kịp được.
Ví
như vương tử sanh ở cung vua, do vương hậu sanh có đủ vương tướng. Khi sanh ra
thời đã hơn tất cả các quan, nhưng chỉ do đức lực của nhà vua chớ chẳng phải tự
lực, khi thân trưởng thành, toàn vẹn tất cả nghề nghiệp oai đức, thời mới là do
tự lực mà hơn tất cả thần dân.
Ðại
Bồ Tát cũng vậy. Lúc sơ pháp tâm, do vì chí cầu đại pháp nên vượt hơn tất cả
Thanh văn, duyên giác.Nay an trụ bực đệ thất địa do tự lực trí huệ nên vượt lên
trên tất cả nhị thừa.
Chư
Phật tử ! Bồ tát an trụ bực đệ thất địa này được viễn ly vô hành thậm thâm,
thường tu hành thân, khẩu, ý, siêng cầu đạo vô thượng chẳng bỏ rời. Thế nên Bồ
Tát này dầu đi nơi thiệt tế mà chẳng tác chứng .
Giải
thoát nguyệt Bồ Tát hỏi : thưa Phật tử ! Bồ Tát từ địa nào lên đến địa nào có
thể nhập được diệt định ?
Kim
cang tạng Bồ Tát nói : thưa Phật tử ! Bồ Tát từ đệ lục địa trở lên có thể nhập
diệt định. Nay an trụ nơi đệ thất địa này thời có thể mỗi niệm nhập diệt định,
cũng mỗi niệm xuất, nhưng không tác chứng.Thế nên Bồ Tát này gọi là thành tựu
thân, ngữ, ý nghiệp bất tư nghì, đi nơi thiệt tế mà chẵng tác chứng.
Ví
như có người ngồi thuyền vào biển, do sức thiện xảo nên không bị tai nạn.
Cũng
vậy Bồ Tát ở bực này ngồi thuyền ba la mật đi trong biển thiệt tế, do nguyện
lực nên chẳng chứng diệt.
Chư
Phật tử ! Bồ tát này được tam muội trí lực như vậy, do đại phương tiện, dầu thị
hiện sanh tử mà luôn trụ Niết Bàn, dầu quyết thuộc vây quanh mà thường thích xa
lìa, dầu do nguyện lực thọ sanh trong ba cõi mà chẳng nhiễm thế pháp, dầu
thường tịch diệt do sức phương tiện mà lại phừng cháy, dầu đốt nhưng chẳng
cháy, dầu tùy thuận phật trí mà thị hiện vào bực thanh văn bích chi phật, dầu
được phật cảnh giới mà thị hiện ở cảnh giới ma, dầu thị hiệnđồng với ngoại đạo
mà chẳng bỏ Phật pháp,dầu thị hiện tùy thuận tất cả thế gian mà thường thật
hành tất cả pháp xuất thế.
Bồ
Tát này chỗ có tất cả sự trang nghiêm vượt hơn tất cả sự trang nghiêm của trời,
rồng, bát bộ, người, phi nhơn. Tứ thiên vương , đế thích chánh pháp.
Chư
Phật tử ! Bồ tát thành tựu trí huệ như vậy trụ bực viễn hành địa do nguyện lực
nên được thay nhiều đức phật, nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha Ðức Phật,
đều kính trọng tán thán cúng dường với tâm quãng đại, tâm tăng thắng.Cũng cúng
dường tất cả chúng tăng. Ðem thiện căn này hồi hướng vô thượng Bồ đề. Lại ở chổ
chư phật cung kính nghe pháp, nghe xong thọ trì, được như thiệt tam muội trí
huệ quang minh, tùy thuận tu hành hộ trì chánh pháp. thường được Chư Phật hoan
hỷ khen ngợi. Hàng nhị thừa không thể vấn nạn làm thua được.Bồ Tát này làm lợi
ích chúng sanh pháp nhẫn thanh tịnh. Như vậy trải qua vô lượng trăm ngàn ức na
do tha kiếp những thiện căn đã có càng thêm tăng thắng.
Ví
như chơn kim, dùng các thứ châu báu cẩn xen vào càng làm cho chơn kim sáng chói
hơn, những vật trang nghiêm khác không thể sánh được.
Những
thiện căn của Bồ Tát đệ thất địa này cũng như vậy, do sức phương tiện huệ càng
sáng sạch hơn, chẳng phải hàng nhị thừa sánh kịp được.
Chư
phật tử ! ví như ánh sáng mặt trời,những ánh sáng của trăng sao v.v...đều không
sánh được. Những chổ sình lầy nơi đại địa, ánh sáng mặt trời có thể làm khô ráo
Bồ
Tát viễn hành địa này cũng như vậy, tất cả hàng nhị thừa không khéo kịp, được
có thể làm cạn khô sình lầy phiền não của tất cả chúng sanh .
Bồ
Tát này thiên nhiều về Phương tiện ba la mật. Chín môn ba la mật kia thời tùy
sức tùy phần mà tu tập.
Chư
Phật tử ! Ðây là lược nói đại Bồ Tát Ðệ Thất Viễn Hành Ðịa.
Bồ
Tát an trụ bực này thường làm tự tại Thiên Vương, khéo vì chúng sanh mà nói
pháp chứng trí, khiến họ chứng nhập.
Tất
cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này lại nghĩ rằng : Tôi sẽ ở trong tất cả chúng sanh làm thượng thủ, là
thắng, nhẫn đến là bực y chỉ của Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này nếu phát cần tinh tấn, thời trong khoảng một niệm được trăm ngàn ức na
do tha tam muội, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn ức na do tha Bồ Tát để làm quyến
thuộc.
Nếu
dùng nguyện lực thù thắng tự tại thị hiện thời hơn số trên đây, nhẫn đến trăm
ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm biết được.
Kim
Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Ðệ
nhứt nghĩa trí tam muội đạo
Lục
Ðịa tu hành tâm đầy đủ
Tức
thời thành tựu phương tiện huệ
Bồ
Tát dùng đây vào Thất Ðịa.
Dầu
chứng tam thoát nhưng từ bi,
Dầu
đồng Như Lai nhưng cúng Phật,
Dầu
quán không nhưng chứa phước đức
Bồ
Tát do đây lên Thất Ðịa.
Xa rời tam giới
mà trang nghiêm,
Dứt trừ lửa
phiền mà khởi lửa,
Biết pháp bất
nhị nhưng siêng tu
Rõ cõi không hư
mà nghiêm độ,
Hiểu thân bất
động, đủ các tướng,
Thấu thinh tánh
ly, khéo khai diễn,
Thâm nhập nhứt
niệm, hành nhiều việc,
Bực trí do đây
lên Thất Ðịa.
Quán sát pháp
này được rõ ràng
Rộng vì chúng
sanh làm lợi ích,
Vào chúng sanh
giới không biên tế
Công nghiệp giáo
hóa cũng vô lượng.
Quốc độ, các
pháp cùng kiếp số
Giải, dục, tâm
hành đều hay vào
Thuyết pháp tam
thừa cũng vô hạn
Như thế giáo hóa
các quần sanh.
Bồ Tát siêng cầu
đạo tối thắng
Ðộng nghĩ, chẳng
bỏ phương tiện huệ
Mỗi mỗi hồi
hướng Phật Bồ đề
Niệm niệm thành
tựu Ba la mật.
Phát tâm hồi
hướng là bố thí,
Dứt hoặc là
giới, chẳng hại : nhẫn,
Cầu lành không
nhàm là tinh tấn,
Nơi đạo chẳng
động tức tu thiền,
Nhẫn thọ vô sanh
là Bát Nhã,
Hồi hướng phương
tiện là nguyện độ,
Không bị phá :
lực, khéo rõ : trí,
Thập độ như vậy
đều thành mãn,
Sơ Ðịa phan
duyên công đức đủ,
Nhị Ðịa Ly Cấu
tam nghiệp tịnh,
Tứ Ðịa nhập đạo,
Ngũ thuận hành,
Ðệ Lục vô sanh
trí quang chiếu,
Ðệ Thất Bồ đề
công đức toàn
Tất cả đại
nguyện đều đầy đủ,
Do đây hay khiến
bực nhập Ðịa
Tất cả câng hạnh
đều thanh tịnh.
Ðịa này khó qua,
trí mới siêu
Ví như chặng
giữa hai thế giới
Cũng như Thánh
Vương không lây nghèo
Nhưng chưa được
gọi : Tổng siêu độ.
Nếu trụ trong Ðệ
Bát Trí Ðịa
Mới là vượt qua
tâm cảnh giới
Như Phạm Thiên
Vương siêu nhơn loại
Như sen ở nước
chẳng tanh bùn.
Ðệ Thất dầu siêu
các phiền não
Chẳng gọi có hay
không phiền não
Chẳng có vì
không hoặc hiện hành
Chẳng không vì
tâm cầu Phật trí.
Bao nhiêu kỷ
nghệ ở thế gian
Kinh sách từ
luận đều rành cả
Thiền định, tam
muội và thần thông
Tất cả tu hành
đều thành tựu.
Bồ Tát tu hành
đạo Thất Ðịa
Vượt hơn tất cả
hạnh Nhị thừa,
Sơ
Ðịa nguyện thành, đây do trí,
Ví
như Vương tử đủ oai lực,
Thành
tựu thậm thâm vẫn tiến tu
Tâm
tâm tịch diệt chẳng tác chứng
Ví
như ngồi thuyền vào trong biển
Ở
nước chẳng bị nước nhận chìm.
Phương
tiện huệ hành đủ công đức
Tất
cả thế gian không rõ được
Cúng
dường nhiều Phật tâm càng sáng
Như
dùng diệu bửu trang nghiêm vàng.
Thất
Ðịa Bồ Tát trí rất sáng
Như
sáng mặt trời khô nước ái
Thường
làm Tự Tại vua cõi Trời
Hóa
đạo quần sanh tu chánh trí.
Nếu
do dũng mãnh tinh tấn lực
Ðược
nhiều tam muội thấy nhiều Phật
Trăm
ngàn ức số na do tha
Nguyện
lực tự tại lại hơn đây.
Ðây
là Bồ Tát Viễn Hành Ðịa
Phương
tiện trí huệ thanh tịnh đạo
Tất
cả thế gian trời và người
Thanh
văn, độc giác không biết được.
Bấy
giờ Thiên Vương và thiên chúng
Nghe
thắng hạnh này đều hoan hỷ
Vì
muốn cúng dường lên Như Lai
Và
cùng đại chúng chư Bồ Tát,
Rải
hoa, tràng hoa, phan, tràng, lọng,
Hương
thơm chuổi ngọc và bửu y,
Vô
lượng , vô biên ngàn vạn thứ
Ðều dùng ma ni
để nghiêm sức.
Thiên nữ đồng
thời tấu thiên nhạc.
Khắp phát các
thứ diệu âm thanh
Cúng dường cho
phật và Phật tử
Ðồng nói lời này
để tán thán:
Phước trí viên
mãn thấy tất cả
Phật thương chúng
sanh hiện thần lực,
Khiến cho thứ
thiên nhạc trên không
Phát diệu âm
thanh khắp được nghe.
Trong
một chân long trăm ngàn ức
Na
do tha cõi vi trần số
Vô
lượng Như Lai như vậy thấy
An
trụ trong đó thuyết diệu pháp
Trong
một chân lông vô lượng cõi
Ðều
có bốn châu và đại hải
Tu di, thiết vi
và bửu sơn
Ðều thấy ở
trong, không chặt hẹp.
Chổ một chân
lông có sáu loài:
Ba loài ác đạo
và trời, người
Các chúng long
thần, a tu la
Ðều theo tự
nghiệp thọ quả báo.
Nơi
trong tất cả cõi nuớc kia
Ðều
có Như Lai diễn diệu âm
Tuỳ
thuận tất cả tâm chúng sanh
Vì
chuyển tối thượng tịnh pháp luân.
Trong
cõi các loài thân chúng sanh
Trong
thân lại có các loại cõi
Trời
người các loài đều riêng khác
Phật
đều biết rồi đem giảng dạy.
Cõi
lớn tùy niệm biến thành nhỏ
Cõi
nhỏ tùy niệm cũng biến lớn
Thần
thông như vậy số vô lượng
Thế
gian chung kể không thể hết.
Khắp
pháp diệu âm vô lượng tiến
Ca
ngợi Như Lai công đức rồi
Chúng
hội hoan hỷ ngồi yên lặng
Nhứt
tâm chiêm nguỡng muốn nghe pháp.
Ngài
giải thoát nguyệt lại thưa rằng:
Nay
đây chúng hội đều tịch tịnh
Mong
giải thích hành tướng thứ đệ
Nhập
đệ bát bất động trí địa.
Kim
cang tạng Bồ Tát bảo giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng : thưa Phật tử ! đại Bồ Tát
ở trong thất viễn hành địa, khéo tu tập phương tiện huệ, khéo thanh tịnh các đạo,
khéo tu tập pháp trợ đạo, do đại nguyện lực nhiếp trì, được phật lực gia hộ, tự
thiện lực giử gìn, thường tưởng nhớ, lực, vô úy, bất cộng của Như Lai, khéo
thanh tịnh thâm tâm tự giác, có thể thành tựu phước đức trí huệ, đại từ đại bi
chẳng bỏ chúng sanh,vào vô lượng trí đạo, vào tất cả pháp bổn lai vô sanh, vô
khởi, vô tướng, vô thành, vô hoại, vô chuyển, vô tánh, lay đây làm tánh ba thuở
sơ, trung, hậu thảy đều bình đẳng vô phân biệt, là chổ nhập của như như trí,
lìa tất cả tưởng phân biệt tâm ý thức, không chổ chấp lấy dường như hư không,
vào tất cả pháp như tánh hư không, đây gọi là được vô sanh pháp nhẫn.
Chư
Phật tử ! Bồ tát thành tựu nhẫn này liền được nhập đệ bát bất động địa.
Bực
này là thâm hạnh Bồ Tát, khó biết được, vô sai biệt. Lìa tất cả tướng, tất cả
tưởng,tất cả chấp trước. Vô lượng vô biên tất cả thanh văn, bích chi phật không
thể kịp được.
Bực
này xa lìa những huyên náo tránh luận, tịch diệt thường hiện tiền.
Ví
như tỳ kheo đầy đủ thần thông được tâm tự tại tuần tự nhẫn đến nhập diệt tận
định, tất cả động tâm ức tưởng phân biệt thảy đều dừng dứt.
Ðại
Bồ Tát này cũng như vậy, trụ động địa liền bỏ tất cả công dụng hạnh, được pháp
vô công dụng, thân, khẩu, ý nghiệp niệm sự đều dứt, trụ nơi báo hạnh.
Ví
như có người trong giấc mơ thấy mình té trong sông lớn, vì muốn thoát nạn nên
phát đại dũng mãnh, hành đại phương tiện. Do đại dũng mãnh và đại phương tiện
nên liền được thức tỉnh. Khi đã thức giấc thời những việc làm trong giấc mơ
liền dứt cả.
Cũng
vậy, Bồ Tát thấy thân chúng sanh ở trong tứ lưu, vì cứu họ mà phát đại dũng
mãnh khởi đại tinh tấn. Do dũng mãnh tinh tấn nên đến bực bất động địa này. Ðã
đến bực này tất cả công dụng đều dứt cả. Hành tướng của hai hạnh đều chẳng hiện
tiền.
Chư
Phật tử ! như sanh trời phạm thế, những phiền não của dục giới đều chẳng hiện
tiền.
Bồ
Tát trụ bất động địa cũng như vậy, tất cả tâm ý thức đều chẳng hiện tiền.
Ðại
Bồ Tát này còn chẳng hiện khởi tâm Bồ Tát, tâm phật, tâm Bồ đề, tâm Niết Bàn,
huống là còn khởi tâm thế gian .
Chư
Phật tử ! Bồ tát này do sức bổn nguyện nên chư phật thế tôn đích thân hiện ra
trước mặt ban cho Như Lai trí, khiến bực này được vào trong môn pháp lưu. Chư
Phật bảo ! trí nhẫn này đệ nhứt thuận các Phật pháp. nhưng này thiện nam tử !
thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng của chư phật, nay ông chưa được. Ông phải
vì được thành tựu những Phật pháp ấy mà phát khởi tinh tấn, chớ có bỏ nơi môn
trí nhẫn này.
Lại
này thiện nam tử ! ông đầu được tịch diệt giải thoát, nhưng hàng phàm phu chưa
chứng được, họ còn đủ các thứ phiền não, bị các thứ giác quán xâm hại nhau.ông
phải thương những chúng sanh đó.
Lại
này thiện nam tử ! ông phải nhớ lại bổn thệ nguyện làm lợi ích khắp tất cả
chúng sanh đều làm cho họ được vào môn trí huệ bất tư nghì.
Lại
này thiện nam tử ! những pháp,pháp tánh này, hoặc phật xuất thế hay không xuất
thế, luôn thường trụ không khác. Chư Phật chẳng do được pháp này mà gọi là Như
Lai. Tất cả hàng nhị thừa cũng có thể được pháp vô phân biệt này.
Lại
này thiện nam tử ! ông xem Chư Phật chúng ta đây : thân tướng vô lượng trí huệ
vô lượng, quang minh vô lượng, âm thanh thanh tịnh cũng vô lượng.Ông phải thành
tựu những pháp này.
Này
thiện nam ử ! nay ông vừa được một pháp minh này, chính là tất cả pháp vô sanh
phân biệt.
Này
thiện nam tử ! pháp minh của Như Lai vô lượng nhập, vô lượng tác, vô lượng
chuyển, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể biết được. Ông phải tu
hành thành tựu pháp này.
Này
thiện nam tử ! ông quán mười phương vô lượng quốc độ chúng sanh, vô lượng pháp,
khác nhau vô lượng, đều phải thông đạt tất cả đúng như thiệt.
Chư
Phật tử ! Chư Phật thế tôn trao cho Bồ Tát này vô lượng môn khởi trí như vậy,
khiến Bồ Tát này có thể khởi vô lượng vô biên trí nghiệp sai biệt .
Chư
Phật tử ! nếu Chư Phật chẳng ban môn khởi trí này cho Bồ Tát, thời Bồ Tát này
liền nhập cứu cánh Niết Bàn rời bỏ tất cả công hạnh, lợi ích chúng sanh .
Do
Chư Phật ban vô lượng vô biên khởi trí môn như vậy nên khoảng một niệm Bồ Tát
này phát sanh trí nghiệp, đem công đức hạnh tu hành trí nghiệp, đem công hạnh
tu hành từ sơ phát tâm đến bực đệ thất địa để so sánh thời trăm phần không bằng
một, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha phần không bằng một, vô số phần, ca la
phần, phần, toán phần, số phần, dụ phần, ưu ba ni sa đà phần cũng chẳng bằng
một.
Tại
sao vậy ? Chư Phật tử ! Bồ Tát này trước kia dùng một thân khởi hạnh. Nay trụ
bực này được vô lượng thân, vô lượng âm thanh, vì làm cho tất cả chúng sanh, vô
lượng trí huệ, vô lượng thọ sanh, vô lượng tịnh quốc, giáo hoá vô lượng chúng
sanh, cúng dường vô lượng Chư Phật, nhập vô lượng pháp môn, đủ vô lượng thần
thông, có vô lượng chúng hội đạo tràng sai biệt, trụ vô lượng thân, ngữ, ý,
nghiệp, tập họp tất cả hạnh Bồ Tát. Vì do pháp bất động vậy.
Chư
Phật tử ! ví nhu ngồi thuyền buồm muốn vào biển lớn. khi chưa đến thời phải
dùng nhiều công lực. Nếu đã đến biển chỉ theo gió mà thuyền đi chẳng cần nhơn
lực. Ðem sự thuyền đi khi chưa đến biển sánh sao kịp với lúc đã vào biển.
Cũng
vậy, đại bồ tát chứa nhóm tư lương thiện căn rộng lớn, ngồi thuyền đại thừa đến
biển Bồ Tát hạnh. Trong khoảng một niệm dùng trí vô công dụng nhập cảnh giới
nhứt thiết chủng trí. Những hạnh hữu công dụng trước kia dầu trãi qua vô lượng
trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng sánh kịp được.
Chư
Phật tử ! Bồ tát trụ bực đệ bát địa dùng trí đại phương tiện thiện xảo, phát
khởi vô công dụng giác huệ quán cảnh sở hành nhứt thiết chủng trí. Như là quán
thế gian thành, thế gian hoại, do nghiệp này họp mà thành, do nghiệp này hết
hoại, bao nhiêu thời gian thành, bao nhiêu thời gian hoại, bao nhiêu thời gian
thành trụ, bao nhiêu thời gian hoại trụ, đều biết đúng như thiệt. Lại rõ biết
địa giới tướng nhỏ, tướng lớn, vô lượng tướng, sai biệt tướng. Biết thủy, hỏa,
phong giới nhỏ lớn v.v... cũng như vậy.biết vi trần tướng vi tế, tướng sai biệt,
vô lượng tướng sai biệt. Tùy trong thế giới nào có nhóm vi trần và vi trần
tướng sai biệt đều biết như thiệt. Tùy trong thế giới nào có bao nhiêu địa,
thủy, hoả, phong giới đều có bao nhiêu vi trần, thân chúng sanh có bao nhiêu vi
trần, thân quốc độ có bao nhiêu vi trần đều biết như thiệt. Biết thân lớn thân
nhỏ của chúng sanh đều có bao nhiêu vi trần thành. Biết thân địa ngục, thân súc
sanh, thân ngạ quỷ, than a tu la, thân trời người đều có bao nhiêu vi trần họp
thành. Ðược trí biết vi trần sai biệt như vậy. Lại biết dục giới, sắc giới, vô
sắc giới thành, dục, sắc, vô sắc giới hoại. Biết dục, sắc, vô sắc giới tướng
nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt. Ðược trí quán tam giới sai biệt
như vậy .
Chư
Phật tử ! Bồ tát này lại khởi trí minh giáo hoá chúng sanh. Như là khéo biết
thân sai biệt của chúng sanh, khéo phân biệt thân chúng sanh, khéo quán sát chổ
sanh ra, tuỳ chổ đáng độ mà hiện thân giáo hoá cho họ được thành thục.
Bực
Bồ Tát này nơi tam thiên đại thiênthế giới, tùy chúng sanh thân tín giải sai
khác, dùng trí quang minh khắp hiện thọ sanh. Như thế hoặc hai hoặc ba nhẫn đến
trăm ngàn cho đến bất khả thuyết đại thiên thế giới, tùy chúng sanh thân tín
giải sai khác thị hiện thọ sanh khắp trong đó.
Vì
Bồ Tát này thành tựu trí huệ như vậy nên ở nơi một cõi phật, thân ngài bất
động, nhẫn đến trong chúng hội ở bất khả thuyết cõi Phật đều hiện có thân ngài.
Chư
Phật tử ! Bồ tát này các chúng sanh thân tâm tín giải các loại sai khác, ở
trong chúng hội của cõi Phật đó mà hiện thân. Như là ở trong chúng sa môn thời
thị hiện thân sa môn. Trong chúng bà la môn thời thị hiện thân bà la môn. Trong
chúng sát lợi thời thị hiện thân sát lợi. Như vậy trong chúng tỳ xá, thủ đà, cư
sĩ, tứ thiên vương, đao lợi thiên, dạ ma thiên, đâu suất thiên, hoá lạc thiên,
tha hoá tự tại thiên, ma vương chúng, phạm thiên chúng nhẫn đến chúng sắc cứu
cánh thiên, đều theo chúng ấy mà tu hiện thân.
Lại
người đáng được độ bởi thân thanh văn thời Bồ Tát này hiện thân thanh văn.
Người đáng được độ bởi thân bích chi phật thời hiện thân bích chi phật.người
đáng được độ bởi thân Bồ Tát thời hiện thân Bồ Tát. Người đáng độ bởi thân phật
thời hiện thân Phật .
Chư
Phật tử ! Bồ tát này ở trong tất cả thân tướng sai biệt, trụ nơi bình đẳng .
Bồ
Tát này biết thân chúng sanh, thân quốc độ, thân nghiệp báo, thân thanh văn,
thân độc giác, thân Bồ Tát, thân Như Lai, trí thân, pháp thân,hư không thân.
Bồ
Tát này biết tâm sở thích của các chúng sanh, có thể dùng thân chúng sanh làm
thân mình, cũng làm thân quốc độ, thân nghiệp báo nhẫn đến thân hư không.
Lại
biết tâm sở thích của các chúng sanh, Bồ Tát này có thể lấy quốc độ thân làm
thân mình, cũng làm thân mình, cũng làm thân chúng sanh, thân nghiệp báo, nhẫn
đến thân hư không.
Lại
biết tâm sở thích của chúng sanh, Bồ Tát này có thể lấy thân nghiệp báo làm
thân mình, cũng làm thân chúng sanh, thân quốc độ nhẫn đến thân hư không .
Lại
biết tâm sở thích của chúng sanh, có thể lấy tự thân làmthân chúng sanh, thân
quốc độ, nhẫn đến thân hư không.
Tùy
tâm sở thích của chúng sanh chẳng đồng, nên ở nơi thân này, Bồ Tát hiện những
thân như vậy .
Bồ
Tát này biết chúng sanh : thân tập nghiệp, báo thân, phiền não thân, sắc thân,
vô sắc thân. Lại biết thân quốc độ : tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng,
tướng nhiễm, tướng tịnh , tướng rộng, tướng đảo trụ, tướng chánh trụ, tướng phổ
nhập, tướng phương võng sai biệt.
Biết
thân nghiệp báo là giả danh sai biệt. Biết thân thanh văn, thân độc giác, thân
Bồ Tát là giả danh sai biệt.
Biết
thân Như Lai có Bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân, lực trì thân, tướng hảo
trang nghiêm thân,ý sanh thân, phước đức thân, pháp thân, trí thân.
Biết
trí thân tướng khéo suy lường, tướng quyết đoáng thânđúng thiết, tướng nhiếp về
quả hành, tướng sai biệt của thế gian và xuất thế gian, tướng sai biệt của tam
thừa, cộng tướng, bất cộng tướng, xuất ly tướng, học tướng, vô học tướng.
Biết
pháp thân tướng bình đẳng, tướng bất hoại, tướng tùy thời tùy tục giả danh sai
biệt, tướng chúng sanh phi chúng sanh pháp sai biệt, tướng phật, pháp, tăng sai
biệt.
Biết
thân hư không tướng vô lượng tướng châu biến, tướng vô hình, tướng vô dị, tướng
vô biên, tướng hiển hiện sắc thân
Chư
Phật tử ! Bồ tát thành tựu thân trí như vậy rồi, được mạng tự tại, tâm tự tại,
tài tựtại, nghiệp tự tại, sanh tự tại, nguyện tự tại, giả tự tại, như ý tự tại,
trí tự tại, pháp tự tại .
Vì
được mười môn tự tại này, thời là bực trí bất tư nghì, bực trí vô lượng, bực
trí quãng đại, bực trí vô năng hoại.
Bồ
Tát này nhập như vậy rồi, thành tựu như vậy rồi thời được thân nghiệp, khẩu
nghiệp, ý nghiệp rốt ráo không lỗi. Thân ngữ ý luôn hiện hành theo trí. Bát nhã
ba An Lạc mật tăng thượng, đại bi làm đầu, phương tiện thiện xảo, khéo hay phân
biệt,khéo khởi đại nghuyện, Phật lực gia hộ, thường siêng tu tập trí lợi ích
chúng sanh, ở khắp vô biên thế giới sai khác.
Chư
Phật tử ! tóm lại, Bồ Tát an trụ bực đệ bát bất động địa này, thân, ngữ, ý có
chổ làm, đều có thể chứa họp tất cả Phật pháp .
Chư
Phật tử ! Bồ tát này được khéo trụ thâm tâm vì tất cả phiền não chẳng hiện
hành. Ðược khéo trụ thắng tâm lực vì chẵng rời nơi đạo. Ðược khéo trụ đại bi
lực vì chẳng bỏ lợi ích chúng sanh. Ðược khéo trụ từ lực vì cứu hộ tất cả thế
gian. Ðược khéo trụ đà la ni lực vì chẳng quên nơi pháp, được khéo trụ biện tài
lực vì khéo quán sát phân biệt tất cả pháp. Ðược khéo trụ thần thông lực vì qua
khắp vô biên thế giới. Ðược khéo trụ thần thông lực vì qua khắp vô biên thế
giới. Ðược khéo trụ đại nguyện lực vì chẳng bỏ công hạnh của Bồ Tát. Ðược khéo
trụ ba la mật lực vì thành tựu tất cả Phật pháp. được Như Lai hộ niệm lực vì
Nhứt thiết chủng trí hiện tiền.
Bồ
Tát này được trí lực như vậy, có hiện tất cả việc làm, trong công việc không có
lỗi lầm.
Chư
Phật tử ! trí địa của Bồ tát này gọi là bất động địa không bị trở hoại. Gọi là
bất thoái chuyển địa vì trí huệ bất thối. Gọi là nan đắc vì tất cả thế gian
không lường được. Gọi là đồng chơn địa lìa tất cả lỗi lầm. Gọi là sanh địa vì tùy
thích tự tại. Gọi là thành địa vì không còn sở tác.gọi là cứu cánh địa vì trí
huệ quyết định. Gọi là biến hoá địa vì tùy nguyện thành tựu. Gọi là lực trì địa
vì người khác chẳng làm động được.Gọi là công dụng địa vì trước đã thành tựu.
Chư
Phật tử ! Bồ tát thành tựu trí huệ như vậy nhập phật cảnh giới, phật công đức
chiếu đến, thuận phật oai nghi, phật cảnh hiện tiền, thường được phật hộ niệm.
phạm vương, thiên đế, tứ thiên vương, kim cang lực sĩ thường theo thị vệ.
Bồ
Tát này luôn chẳng bỏ lìa các đại tam muội, có thể hiện vô lượng thân sai khác.
Mỗi thân có thế lực lớn, báo đắc thần thông tam muội tự tại. Tùy nơi nào có
chúng sanh đáng được hóa độ thời thị hiện thành chánh giác.
Chư
Phật tử ! Bồ tát này nhập hội đại thừa, được đại thần thông, phóng đại quang
minh, nhập vô ngại pháp giới, biết thế giới sai biệt, thị hiện tất cả những
công đức lớn tùy ý tự tại, khéo thông đạt tiền tế, hậu tế dẹp phục tất cả đạo
ma tà, thâm nhập cảnh giới của chư phật nơi vô lượng quốc độ tu Bồ Tát hạnh.
Bởi được pháp bất thối chuyển, nên gọi là trụ bất động địa.
Chư
Phật tử ! Bồ tát trụ bực bất động địa này rồi, do sức tam muội, thường được
hiện thấy vô lượng Chư Phật, thường chẳng rời bỏ phụng thờ cúng dường.
Bồ
Tát này nơi mỗi mỗi kiếp, mỗi mỗi thế giới thấy vô lượng trăm Phật, vô lượng
ngàn Phật, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha phật, đều kính trọng cúng
dường .
Ở
chổ Chư Phật được pháp tạng thậm thâm của Như Lai. Thọ được vô lượng pháp thế
giới sai biệt thảy.
Nếu
có ai đến vấn nạn những sự như thế giới sai biệt v.v.. không ai khuất phục Bồ
Tát này được.
Như
vậy trải qua vô lượng trăm kiếp, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp
những thiện căn đã có càng thêm sáng sạch .
Ví
như chơn kim đem làm mão báu, đặt trên đầu thánh vương diêm phù đề, những món
trang nghiêm của tất cả thần dân không thể sánh kịp.
Cũng
vậy, những thiện căn của bực bồ tát này hơn tất cả những thiện căn của nhị thừa
nhẫn đến đệ thất địa bồ tát.
Bởi
Bồ Tát trụ bực này, đại trí quang minh diệt trừ tối tăm phiền não của khắp
chúng sanh, vì khéo hay khai môn huệ.
Chư
Phật tử ! ví như đại phạm thiên vương chủ ngàn thế giới, có thể khắp vận từ
tâm, khắp phóng quang minh đầy ngàn thế giới,
Cũng
vậy, Bồ Tát này hay phóng quang minh chiếu khắp trăm vạn phật sát vi trần số
thế giới, làm cho chúng sanh đập tắt lửa phiền não mà được thanh lương .
Trong
mười môn la la mật, Bồ Tát này thiên nhiều về nguyện ba la mật, các món khác
thời tùy sức, phần mà tu tập.
Ðây
gọi là nói lược về Bồ Tát đệ bát bất động địa. Nếu nói rộng thời trải vô lượng
kiếp cũng không thể cùng tận.
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ tát trụ bực này phần nhiều làm đại phạm thiên vương chủ ngàn
thế giới, tối thắng tự tại, giỏi giảng thiết các nghĩa. Có thể ban đạo ba la
mật cho hàng thanh văn, bích chi phật, chư Bồ Tát .
Tất
cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, đều chẳng rời niệm phật, nhẫn
đến chẳng rời niệm Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát hảy lại nghĩ rằng : tôi sẽ ở trong tất cả chúng sanh là thượng thủ, là
thắng nhẫn đến là bực y chỉ của Nhứt thiết chủng trí,
Bồ
Tát này nếu dùng sức phát khởi đại tinh tấn trong khoảng một niệm được trăm vạn
đại thiên thế giới vi trần số tam muội, nhẫn đến thị hiện trăm vạn đại thiên
thế giới vi trần Bồ Tát làm quyến thuộc.
Nếu
dùng nguyện lực tự tại thù thắng để thị hiện thời hơn số trên đây, nhẫn đến trăm
ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm biết được.
Kim
cang tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà kệ rằng:
Thất
địa tu hành phương tiện huệ
Khéo
chứa trợ đạo đại nguyện lực
Lại
được Chư Phật chổ nhiếp trì
Vì
cầu thắng trí nhập bát địa
Công
đức thành tựu thường từ mẫn
Trí
huệ rộng lớn đồng hư không
Nghe
pháp hay sanh quyết định lực
Ðây
là tịch diệt vô sanh nhẫn.
Biết
pháp tướng vô sanh vô khởi
Vô
thành, bình đẳng tuyệt phân biệt
Siêu
các tâm hành như hư không .
Thành
tựu nhẫn này siêu hý luận .
Thậm
thâm bất động luôn tịch diệt
Tất
cả thế gian không thảy đều lìa .
Trụ
ở bực này chẳng phân biệt
Ví
như tỳ kheo nhập diệt định
Như
mộng lội sông, thức thời không
Như
sanh phạm thiên tuyệt ái dục .
Do
bổn nguyện lực được phật khuyên
Khen
trí nhẫn cao quán đảnh cho
Bảo
rằng Phật pháp của chúng ta
Nay
ông chưa được phải tinh tấn.
Dầu
ông đã tắt lửa phiền não
Phiền
não thế gian vẫn hẩy hừng
Phải
nhớ bổn nguyện độ sanh
Ðều
khiến tu nhơn đến giải thoát .
Pháp
tánh chơn thường lìa tâm niệm
Nơi
đây nhị thừa cũng được vậy
Chẳng
do cớ này làm thế tôn
Chỉ
do thậm thâm vô ngại trí.
Chư
phật thế tôn thiên nhơn sư
Ban
cho trí huệ bảo quán sát
Vô
biên Phật pháp đều được thành
Một
niệm vượt hơn công hạnh trước
Bồ
Tát an trụ địa này
Thời
được sức thần thông quảng đại
Một
niệm phân thân khắp mười phương
Như
thuyền vào biển nhờ gió thổi.
Tâm
vô công dụng, trí nhậm vận
Ðều
biết quốc độ : thành, hoại, trụ
Các
cõi chủng loại đều khác lạ
Lớn
nhỏ vô lượng đều biết được.
Ðại
thiên thế giới tứ đại chúng
Lục
đạo chúng sanh thân đều khác
Và
cùng châu báu vi trần số
Dùng
trí xem biết không còn thừa.
Bồ
Tát hay biết không còn thừa.
Bồ
Tát hay biết tất cả thân
Vì
độ chúng sanh hiện thân đồng
Cõi
nước vô lượng nhiều loại khác
Ðều
vì nhựt nguyệt ở hư không .
Tất
cả trong nước đều hiện bóng
Trụ
ở pháp giới không bị động
Tùy
tâm hiện bóng cũng như vậy
Tùy
tâm sở thích của chúng sanh .
Trong
các chúng hội đều hiện thân
Thanh
văn, độc giác cùng Bồ Tát
Nhẫn
đến thân phật đều hiện cả.
Chúng
sanh, quốc độ, nghiệp báo thân,
Các
bực thánh nhơn trí pháp thân
Hư
không thân tướng đều bình đẳng
Vì
khắp chúng sanh mà thị hiện.
Mười
môn thánh trí khắp quán sát
Lại
thuận từ bi làm công hạnh
Tất
cả Phật pháp đều thành tựu
Trì
giới bất động như tu di.
Thập
lực thành tựu chẳng động lay
Tất
cả ma chúng không chuyển được
Chư
Phật hộ niệm, thiên vương kính
Mật
tích kim cang thường thị vệ.
Bực
này công đức vô biên tế
Ngàn
vạn ức kiếp nói chẳng hết
Thiện
căn cúng Phật càng sáng sạch
Như
bửu quang trên đảnh thánh vương.
Bồ
Tát trụ bực đệ bát địa
Thường
làm phạm vương chủ ngàn cõi
Diễn
thuyết tam thừa không tận cùng
Từ
quang soi khắp trừ phiền não
Tam
muội chứng được trong một niệm
Số
đến trăm vạn cỏi trần
Công
hạnh ra làm cũng số đó
Nguyện
lực thị hiện lại hơn đây ,
Bồ
Tát đệ bát bất động địa
Tôi
vì đại chúng đã nói lược
Nếu
muốn thứ đệ nói rộng ra
Trải
trăm ức kiếp nói chẳng hết.
Kim
cang tạng nói đệ bát địa
Như
Lai hiện tại thần thông lực
Chấn
động các cõi nước mười phương
Vô
lượng ức số khó bàn nghĩ,
Ðắng
vô thượng tôn chánh đẳng giác
Thân
Phật khắp phóng đại quang minh
Chiếu
soi vô lượng vi trần cõi
Ðều
khiến chúng sanh được an lạc
Bồ
Tát vô lượng trăm ngàn ức
Ðồng
thời hiện đứng giửa hư không
Ðồ
cúng thượng diệu hơn chư thiên
Cúng
dường đấng tối thắng vô thượng .
Ðại
tự tại vương, tự tại thiên
Ðều
cùng đồng tâm mừng vô lượng
Ðều
đem các thứ đồ cúng dường
Dâng
lên đấng thậm thâm công đức .
Lại
có thiên nũ đồng vạn ức
Thân
tâm vui mừng kể không xiết
Hòa
tấu nhạc âm vô lượng thứ
Cúng
dường nhơn thiên đại đạo sư.
Bấy
giờ nhạc âm đồng hòa tấu
Trăm
ngàn vạn ức vô lượng thứ
Ðều
do Như Lai oai thần lực
Diễn
xuất diệu âm mà tán thán :
Tịch
tịnh, điều nhu, không nhơ hại
Tùy
bực đã nhập khéo tu tập
Tâm
như hư không đến mười phương
Nói
rộng Phật đạo độ quần sanh
Thiên
thượng nhơn gian tất cả chổ
Ðều
hiện vô đẳng diệu trang nghiêm
Do
Phật công đức mà sanh ra
Khiến
người xem thấy ưa phật trí.
Chẳng
rời một cõi đến chúng sanh
Như
trăng hiện khắp soi thế gian
Âm
thanh tâm niệm đều diệt cả
Dường
như hang núi dội tiếng vang.
Nếu
có chúng sanh tâm hạ liệt
Vì
họ diễn nói hạnh thanh văn,
Nếu
tâm minh lợi thích độc giác,
Thời
vì họ giảng đạo trung thừa
Nếu
có từ bi thích độ sanh
Vì
họ giảng dạy Bồ Tát hạnh ,
Nếu
có tối thắng tâm trí huệ
Thời
dạy Như Lai pháp vô thượng .
Ví
như thuật gia làm các sự
Nhiều
loại hình tướng đều chẳng thiệt
Bồ
Tát trí huyễn cũng như vậy
Dầu
hiện tất cả rời hửu vô
Âm
thanh ngàn thứ vang như vậy
Ca
ngợi Phật rồi đứng lặng yên.
Giải
thoát nguyệt lại vì chúng thỉnh
Xin
nói công hạnh đệ cửu địa.
Kim
cang tạng Bồ Tát bảo giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng : thưa Phật tử ! đại bồ tát
dùng vô lượng trí như vậy tư duy quán sát muốn cầu tịch diệt giải thoát hơn ,
liền tu tập Như Lai huệ : nhập các môn đà la ni tam muội Như Lai bí mật pháp
quán sát bất tư nghì đại trí tánh thanh tịnh .
Có
đủ thần thông quảng đại vào thế giới sai biệt,tu tập thập lực, vô uý, bất cộng.
Theo chư Phật chuyển pháp luân. Chẳng bỏ đại bi bổn nuyện lực. Ðược nhập Bồ Tát
đệ cửu thiện huệ địa.
Chư
Phật tử ! Bồ tát trụ bực thiện huệ địa này, đúng như thiệt mà biệt các pháp
hành thiện, bất thiện, vô ký, hửu lậu, vô lậu, thế gian, xuất thế, tư nghì, bất
tư nghì, định, bất định, thanh văn, độc giác Bồ Tát, Như Lai và pháp hành hữu
vi, vô vi.
Bồ
Tát này dùng trí huệ như vậy, đúng thiệt mà biết những rừng rậm của chúng sanh :
tâm, phiền não, nghiệp, căn, giải, tánh, dục lạc, tùy miên, thọ sanh, tập khí
tương tục và rừng rậm tam tụ sai biệt.
Bồ
Tát này đúng thiệt mà biết tâm của chúng sanh có các thứ hình tướng. Như những
tướng : tạp khởi, tốc chuyển, hoại, bất hoại, vô minh chất, vô biên tế, thanh
tịnh, cấu, vô cấu, phược, bất phược, huyễn sở tác, theo các loài mà đến thọ
sanh, trăm ngàn muôn ức vô lượng tướng của tâm chúng sanh như vậy đều biết đúng
thiệt.
Lại
biết các thứ tướng của phiền não.Như những tướng lâu xa hiện hành, vô biên dẫn
khởi, sanh chung chẳng bỏ, núp và khởi một nghĩa, cùng tâm tưong ưng, chẳng
cùng tâm tương ưng, tùy loài thọ sanh mà trụ, ba cõisai khác, ái kiến si mạn
họa hại như mũi tên cấm sâu, ba nghiệp nhơn duyênchẳng tuyệt. Lược nói nhẫn đến
tám muôn bốn ngàn tướng phiền não đều biết đúng thiệt.
Lại
biết những tướng của ba nghiệp, như những tướng : thiện, bất thiện, vô ký, có
biểu thị, không có biểu thị, cũng tâm đồng sanh chẳng rời, nhơn tự tánh sát na
hoại mà thứ đệ nhóm quả chẳng mất, có báo, không báo, thọ các đen tối, như
ruộng vô lượng, phàm thánh sai khác hiện, thọ, sanh thọ hậu thọ, thừa phi thừa,
bất định. Lược nói nhẫn đến tám muôn bốn ngàn tướng của nghiệp đều biết đúng
thiệt.
Lại
biết tướng hạ, trung, thượng của các căn tánh, tướng tiên tế, hậu tế, sai biệt,
vô sai biệt, tướng phiền não câu sanh chẳng rời nhau, tướng thừa phi thừa, định
bất định, tướng thuần thục điều nhu, tướng tùy căn nhẹ đến hoại, tướng thối bất
sai biệt, tướng xa rời, cùng sanh chẳng đồng. Lược nói đến tám muôn bốn ngàn tướng
đều biết đúng thiệt.
Lại
biết những tướng thượng, trung, hạ của trí giải, thượng, trung, hạ của các
tánh, thượng, trung , hạ của lạc dục, đều lược nói nhẫn đến tám muôn bốn ngàn.
Lại
biết các tướng của tùy miên : tướng cùng thâm tâm đồng sanh, tướng cùng tâm
đồng sanh, tướng tâm tương ưng bất tương ưng sai biệt, tướng lâu xa hiện hành,
tướng vô thủy chẳng trừ, tướng chống trái với tất cả thiền định, giải thoát,
tam muội, tam ma bát đề, thần thông, tướng ba cõi thọ sanh hệ phược, tướng
khiến vô biên tâm tương tục hiện khởi, tướng mở cửa các xứ, tướng cứng chắc khó
trị, tướng địa xứ thành tựu bất thành tựu, tướng chỉ do thánh đạo mới nhổ được.
Lại
biết các loại tướng thọ sanh. Tướng theo nghiệp thọ sanh, tướng sáu loài sai
khác, tướng có sắc không sắc sai khác, tướng có tưởng không tưởng sai khác,
nghiệp tướng làm ruộng, nước ái thấm nhuần, vô minh che rợp, thức làm chủng tử
sanh mầm hậu hữu, tướng danh sắc sanh chung chẳng rời nhau, tướng si ái mong
cầu các thân, tướng muốn thọ muốn sanh vô thủy tham chấp, tướng tham cầu vọng
cho rằng thoát ba cõi.
Lại
biết các tướng của tập khí. Những là tướng hành bất hành sai khác, tướng tùy
chúng sanh hành huân tập, tướng tùy nghiệp phiền não huân tập, tướng thiện, bất
thiện, vô ký huân tập, tướng tùy nhập hậu hữu huân tập, tướng thứ đệ huân tập,
tướng chẳng dứt phiền não lâu xa chẳng bỏ huân tập, tướng thiệt phi thiệt huân
tập, tướng thấy nghe gần gũi thanh văn, độc giác Bồ Tát Như Lai huân tập .
Lại
biết tướng chúng sanh chánh định, tà định, bất định. Những là tướng chánh kiến,
chánh định, tà kiến, tà định, nhị câu bất định, tướng ngũ nghịch tà định, ngũ
căn chánh định, nhị câu bất định, tướng bất tà tà định, chánh tánh chánh định,
nhị câu ly bất định, tướng sâu chấp tà pháp tà định, tập hành thánh đạo chánh
định, nhị câu xả bất định.
Chư
Phật tử ! Bồ tát tùy thuận trí huệ như vậy gọi là trụ thiện huệ địa.
Ðã
trụ bực này, biết rõ những hành sai biệt của chúng sanh mà giáo hoá điều phục
cho được giải thoát.
Chư
Phật tử ! Bồ tát này có thể khéo diển thuyết pháp thanh văn thừa, pháp độc giác
thừa, pháp Bồ Tát thừa, pháp Như Lai địa.
Tất
cả công hạnh lấy trí huệ làm trước, tất cả chổ đi trí đều đi theo, nên có thể
tùy căn tánh dục giải của chúng sanh, sở hành sai khác, các loài sai khác, cùng
tùy thọ sanh phiền não miên phược các nghiệp tập khí mà thuyết pháp cho thọ
sanh tín giải thêm lớn trí huệ, đều ở nơi thừa của mình mà được giải thoát.
Chư
Phật tử ! Bồ tát trụ bực thiện huệ địa này làm đại pháp sư, đủ hạnh pháp sư,
khéo hay giữ gìn pháp tạng của Như Lai, dùng vô lượng trí thiện xảo khởi tứ vô
ngại biện. Dùng ngôn từ Bồ Tát mà thuyết pháp.
Bồ
Tát này thường tùy tứ vô ngại trí mà chuyển không tạm bỏ lìa.
Những
gì là bốn ? chính là pháp vô ngại trí, nghĩa vô ngại trí , từ vô ngại trí, lạc
thuyết vô ngại trí.
Bồ
Tát này đúng pháp vô ngại trí biết tự tướng của các pháp. Dùng nghĩa vô ngại
trí biết tướng sai biệt của các pháp. Dùng từ vô ngại trí nói không sai lầm.
Dùng lạc thuyết vô ngại trí thuyết pháp vô đoạn vô tận .
Lại
dùng pháp vô ngại trí biết tự tánh của các pháp. nghỉa vô ngại trí biết sanh
diệt của các pháp. từ vô ngại trí thuyết an lập tất cả pháp chẳng dứt. Lạc
thuyết vô ngại trí tùy chổ an lập chẳng hoại thuyết pháp vô biên.
Lại
dùng pháp vô ngại trí biết pháp hiện tại sai biệt. Nghĩa vô ngại trí biết pháp
quá khứ, vị lai sai biệt. Từ vô ngại trí nơi các quá khứ, hiện tại, vị lai nói
không sai lầm. Lạc thuyết vô ngại trí nơi vô biên pháp trong mỗi đời đều nói rõ
ràng.
Lại
dùng pháp vô ngại trí biết pháp sai biệt. Nghĩa vô ngại trí biết nghĩa sai
biệt, từ vô ngại trí tùy ngôn âm của mọi loài mà nói. Lạc thuyết vô ngại trí
tùy tâm ưa thíchcủa họ mà nói.
Lại
pháp vô ngại trí dùng pháp trí biết sai biệtb chẳng khác. Nghĩa vô ngại trí
biết sai biệt như thiệt. Từ vô ngại trí dùng thế trí sai biệt mà thuyết pháp.
lạc thuyết vô ngại trí dùng đệ nhứt nghĩa trí thiện xảo thuyết pháp.
Lại
pháp vô ngại trí biết các pháp nhứt tướng chẳng hoại. Nghĩa vô ngại trí biết
uẩn, xứ, giới, đế, duyên khởi thiện xảo. Từ vô ngại trí dùng tất cả âm thanh,
văn tự mỹ diệu mà thế gian để hiểu đế thuyết pháp. lạc thuyết vô ngại trí dùng
vô biên pháp minh tăng thắng đế thuyết pháp. lại pháp vô ngại trí biết nhứt
thừa bình đẳng tánh. Nghĩa vô ngại trí biết các thừa sai biệt tánh. Từ vô ngại
trí nói tất cả thừa vô sai biệt. Lạc thuyết vô ngại trí nói mỗi mỗi thừa vô
biên pháp.
Lại
pháp vô ngại trí biết tùy chứng tất cả hạnh Bồ Tát trí hành, pháp hành. Nghĩa
vô ngại trí biết thập địa phần vị nghĩa sai khác. Từ vô ngại trí thuyết địa đạo
tướng vô sai biệt. Lạc thuyết vô ngại trí thuyết mỗi mỗi địa có vô biên hành
tướng.
Lại
pháp vô ngại trí biết tất cả Như Lai một niệm thành chánh giác. Nghĩa vô ngại
trí biết các thời gian, các xứ sở đều sai khác. Từ vô ngại trí thành chánh giác
sai biệt. Lạc thuyết vô ngại nơi mỗi câu pháp vô lượng kiếp nói chẳng hết.
Lạc
pháp vô ngại trí biết tất cả Như Lai những ngữ ngôn, trí lực, vô úy, bất cộng
pháp, đại từ, đại bi, hiện tại, phương tiện, chuyển pháp luân, Nhứt thiết trí,
, tùy chứng trí. Nghĩa vô ngại trí bíet Như Lai tùy tám vạn bốn ngàn tâm hành
căn giải âm thanh sai biệt của chúng sanh. Từ vô ngại trí tùy tất cả chúng sanh
hạnh dùng âm thanh sai biệt của Như Lai để thuyết pháp. lạc thuyết vô ngại trí
tùy tín giải của chúng sanh dùng trí thanh tịnh hạnh viên mãn của Như Lai để
thuyết pháp.
Chư
Phật tử ! Bồ tát trụ đệ cửu địa được trí vô ngại thiện xảo như vậy, được Phật
pháp tạng làmđại pháp sư, được nghĩa đà la ni, pháp đà la ni, trí đà la ni,
quang chiếu đà la ni, thiện huệ đà la ni,chúng tài đà la ni, oai đức đà la ni,
vô ngại môn đà la ni, vô biên tế đà la ni, chủng chủng nghĩa đà la ni, trăm vạn
a tăng kỳ môn đà la ni, như vậy đều được viên mãn, dùng trăm vạn vô số môn
thiện xảo âm thanh biện tài mà thuyết pháp.
Bồ
Tát này được trăm vạn vô số môn đà la ni như vậy rồi, nơi chổ vô lượng Ðức
Phật, trước mỗi Ðức Phật, đều dùng trăm vạn vô số môn đà la ni như vậy để nghe
chánh pháp, nghe rồi chẳng quên, dùng vô lượng môn sai biệt diễn thuyết cho đại
chúng khác.
Bồ
Tát này mới thấy Phật liền cúi đầu đảnh lễ. Ở chổ Phật liền được vô lượng pháp
môn.
Pháp
môn đã được đây, hàng văn trí đại thanh văn trong trăm ngàn kiếp chẳng lãnh thọ
được.
Bồ
Tát này được đà la ni như vậy, vô ngại trí như vậy, ngồi trên pháp tòa mà
thuyết pháp.
Chúng
sanh khắp trong đại thiên thế giới, đều tùy tâm sở thích sai khác của họ mà
thuyết pháp :
Chỉ
trừ Chư Phật và chư Bồ Tát đã thọ chức, các chúng hội khác không thể sánh kịp
oai đức quang minh với Bồ Tát này.
Bồ
Tát này ngồi trên pháp toà, muốn dùng một âm thanh khiến các đại chúng đều được
hiểu rõ thời kiền được hiểu rõ.
Hoặc
có lúc muốn dùng các thứ âm thanh làm cho cá đại chúng đều được khai ngộ.
Hoặc
có lúc tâm muốn phóng đại quang minh diễn thuyết pháp môn.
Hoặc
có lúc tâm muốn ở trên thân mình, mỗi chân lông đều diễn pháp âm.
Hoặc
có lúc tâm muốn nhẫn đến đại thiên thế giới có bao nhiêu vật hữu hình, vô hình
đều diễn ra ngôn âm diệu pháp.
Hoặc
có lúc tâm phát một ngôn âm khắp cả pháp giới đều hiểu rõ.
Hoặc
có lúc tâm muốn tất cả ngôn âm đều làm pháp âm thường trụ bất diệt.
Hoặc
có lúc tâm muốn tất cả thế giới những ống tiêu, sáo, chuông trống tất cả tiếng
nhạc và ca ngâm đều diễn pháp âm.
Hoặc
có lúc tâm muốn trong một chử, tất cả pháp cú, ngôn âm sai biệt thảy đều đầy đủ
.
Hoặc
có lúc tâm muốn làm cho bất khả thuyết vô lượng thế giới, trong tứ đại địa,
thủy, hỏa, phong, có bao nhiêu vi trần trong mỗi vi trần thảy đều diễn xuất bất
khả thuyết pháp môn.
Tất
cả đều muốn như vậy đều tùy tâm hiển hiện thành màn cả.
Chư
Phật tử ! giả sử đại thiên thế giới, tất cả chúng sanh đều đến trước Bồ Tát
này, mỗi mỗi chúng sanh đều dùng vô lượng ngôn âm khác nhau để vấn đề nạn tất
cả . vấn nạn đều chẳng đồng nhau. Trong nguyện tất cả chúng sanh khoảng một
niệm. Bồ Tát đều lành thọ tất cả vẫn dùng một âm thanh mà giải thích khắp tất
cả, khiến họ đều vui thích, như vậy nhẫn đến tất cả chúng sanh trong bất khả
thuyết thế giới, trong bất khả thuyết thế giới. Bồ Tát đều không có thể tuỳ tâm
sở thích, căn, giải của họ mà thuyết pháp. thừa thần lực của Phật rộng làm Phật
sự, vì khắp tất cả mà làm chổ nương tựa.
Chư
Phật tử ! Bồ tát này lại phát tinh tấn thành tựu trí minh, giả sử nơi một chân
lông có bất khả thuyết thế giới vi trần số Chư Phật chúng hội, mỗi chúng hội có
bất khả thuyết thế giới vi trần số chúng sanh, mỗi chúng sanh có bất khả thuyết
thế giới vi trần số tánh dục. Chư Phật đó tuỳ theo tánh dục của chúng sanh mà
đều ban cho pháp môn.
Như
nơi một chân lông, tất cả chổ khắp phá[p giới đều như vậy cả. Vô lượng pháp môn
của Chư Phật đã nói như vậy, trong khoảng một niệm, Bồ Tát đều lãnh thọ được
cả, không hề quên mất.
Chư
Phật tử ! Bồ tát trụ bực đệ cứu địa này ngày đêm tinh tấn , trọn không xen niệm
gì khác, chỉ nhập Phật cảnh giới thân cận Như Lai, nhập chư Bồ Tát thậm thâm
giải thoát, thường ở chánh định, thường thấy Chư Phật chưa từng bỏ lìa, trong
mỗi mỗi kiếp thấy vô lượng Phật, vô lượng trăm ngàn Phật, nhẫn đến vô lượng
trăm ngàn ức na do tha Phật, đều kính trọng cúng dường, hỏi pháp. được thuyết
pháp đà la ni bao nhiêu thiện căn đã có càng thêm sáng sạch.
Ví
như chơn kim, thợ giỏi khéo dùng làm bửu quang đế chuyển luân thánh vương đội,
tất cả đồ trang nghiêm của thần dân và các tiểu quốc vương không sánh kịp được.
Thiện
căn của bực Bồ Tát đệ cửu địa cũng như vậy.những thiện căn của thanh văn, độc
giác và các Bồ Tát bực dưới không thể bằng được.
Chư
Phật tử ! ví như đại phạm thiên vương chủ của nhị thiên thế giới, thân phóng
quang minh có thể chiếu thấu chổ tối, chổ xa của tất cả nhị thiên thế
giới.những thiện căn của Bồ Tát này cũng như vậy. Có thể phóng quang minh,
chiếu tâm chúng sanh trừ sạch phiền não tăm tối.
Trong
mười môn ba la mật, với Bồ Tát này, lực ba la mật là hơn cả các môn kia thời
tùy sức tùy phần. Chư Phật tử ! đây là lược nói đại Bồ Tát đệ cửu thiện huệ
địa. Nếu nói rộng thời vô lượng kiếp nói cũng không hết.
Chư
Phật tử ! Bồ Tát trụ bực đệ cửu địa này thường làm đại phạm thiên vương chủ nhị
thiên thế giới. Thống trị giỏi, tự tại làm lợi ích. Hay vì hàng thanh văn, độc
giác và chư Bồ Tát mà giảng giải hạnh ba la mật. Hay tùy tâm của chúng sanh.
Không bị khuất phục vì vấn nạn.
Những
công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, nhẫn đến
chẳng rời niệm Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này lại nghĩ rằng : ở trong tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là
thắng, nhẫn đến là bực y chỉ nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này nếu phát tinh tấn trong khoảng một niệm được trăm vạn vô số quốc độ vi
trần số tam muội nhẫn đến thị hiện trăm vạn vô số quốc độ vi trần số Bồ Tát làm
quyến thuộc.
Nếu
dùng nguyện lực thù thắng tự tại thị hiện thời hơn số này. nhẫn đến trăm ngàn
ức na do tha kiếp chẳng thể đếm biết được .
Kim
Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Vô
lượng trí lực khéo quan sát.
Tối
thượng vi diệu đời khó biết
Vào
khắp chỗ bí mật của Phật
Lợi
ích chúng sanh vào Cửu Ðịa.
Tổng
trì tam muội đều tự tại
Ðược
đại thần thông vào các cõi
Lực,
trí, vô úy, bất cộng pháp
Nguyện,
lực, bi tâm vào Cửu Ðịa.
Trụ
nơi bực này trì pháp tạng
Rõ
thiện, bất thiện, và vô ký
Hữu
lậu, vô lậu, thế, xuất thế
Tư,
bất tư nghì đều khéo biết.
Nếu
pháp quyết định chẳng quyết định
Tam
thừa tu tập đều quán sát
Hữu
vi, vô vi hạnh sai biệt
Biết
rõ như vậy nhập thế gian.
Nếu
muốn biết rõ tâm chúng sanh
Thời
hay dùng trí biết như thiệt,
Các
thứ chuyển tốc, hoại, chẳng hoại,
Những
tướng vô chất, vô biên thảy,
Phiền
não vô biên thường sanh chung
Phục,
khởi một nghĩa nối các loại.
Nghiệp
táng chủng loại đều riêng khác
Nhơn
hoại quả nhóm đều biết được
Căn
tánh các loại hạ trung thượng
Tiên
tế hậu tế khác vô lượng.
Giải,
tánh, lạc dục cũng như vậy
Tám
vạn bốn ngàn đều biết cả,
Chúng
sanh hoặc kiến luôn tùy chuyển
Rừng
rậm vô thỉ chưa cắt trừ
Với
chí vhung cùng tâm đều sanh
Thường
ràng rịt nhau chẳng đoạn tuyệt.
Chẳng
phải vật thiệt, chỉ vọng tưởng
Chẳng
rời khỏi tâm không xứ sở
Thiền
định cảnh trừ nhưng thối chuyển
Kim
cang đạo diệt mới rốt ráo.
Sáu
loài thọ sanh đều sai khác
Ruộng
nghiệp, ái nhuận, vô minh che
Thức
làm chủng tử, mầm danh sắc
Ba
cõi vô thỉ luôn tiếp nối.
Hoặc,
nghiệp, tâm tập sanh các loại
Nếu
lìa hoặc nghiệp chẳng còn sanh
Chúng
sanh ở trong hoặc, nghiệp, tâm
Hoặc
chìm kiến chấp, hoặc thành đạo.
Bực
Bồ Tát này khéo quán sát
Tùy
tâm sở thích và căn giải
Ðều
dùng vô ngại diệu biện tài
Theo
chỗ đáng độ mà thuyết pháp.
Ngồi
trên pháp tọa như sư tử,
Cũng
như ngưu vương, bửu sơn vương,
Lại
như Long Vương bủa mây dầy
Tuôn
mưa cam lộ đầy biển lớn.
Khéo
biết pháp tánh và áo nghĩa
Tùy
thuận ngôn từ hay biện thuyết
Vô số trăm vạn
đà la ni
Dường như biển
lớn chứa nước mưa
Tổng trì tam
muội đều thanh tịnh
Trong khoảng một
niệm thấy nhiều Phật
Nơi mỗi mỗi Phật
đều nghe pháp
Lại dùng diệu âm
để diễn thuyết.
Nếu muốn khắp
Ðại Thiên thế giới
Giáo hóa tất cả
các quần sanh
Như mây bủa khắp
mọi nơi chỗ
Tùy theo căn dục
đều khiến mừng,
Ðầu lông Phật
chúng đông vô số
Chúng sanh sở
thích cũng vô cực
Ðều xứng tâm họ
cho pháp môn
Tất cả pháp giới
đều như vậy.
Bồ Tát siêng
thêm sức tinh tấn
Lại được công đức
càng thêm hơn
Văn trì vô lượng
các pháp môn
Như đất hay gìn
tất cả giống.
Mười phương vô
lượng các chúng sanh
Ðều đến thân cận
ngồi trong hội
Một niệm tùy tâm
đều vấn nạn
Một lời đối khắp
đều thỏa mãn.
Trụ ở bực này
làm Pháp Vương
Tùy cơ dạy bảo
không nhàm mỏi
Ngày đêm thấy
Phật chưa từng bỏ
Nhập thâm tịch
diệt trí giải thoát.
Cúng Phật thiện
căn càng thêm sáng
Như mão diệu bửu
trên đầu vua
Nhờ đây chúng
sanh dứt phiền não
Như quang chiếu
khắp của Phạm Vương.
Bực này thường
hiện Ðại Phạm Vương.
Ðem pháp tam
thừa độ chúng sanh
Thiện nghiệp tu
hành khắp lợi ích
Nhẫn đến sẽ
thành nhứt thiết trí.
Một niệm đã nhập
các tam muội.
Vô số thế giới
vi trần số
Thấy Phật thuyết
pháp, số cũng vậy
Nguyện lực thị
hiện lại hơn đây.
Ðây là đệ cửu
Thiện Huệ Ðịa
Chỗ tu hành của
đại Bồ Tát
Thậm thâm vi
diệu khó thấy được
Tôi vì Phật tử
đã tuyên thuyết.
(1)
Na do tha chúng Tịnh Cư Thiên
Nghe
những thắng hạnh trong Cửu Ðịa
Trên
không hớn hở lòng hoan hỉ
Ðều
cùng cung kính cúng dường Phật.
Bất
khả tư nghì chúng Bồ Tát
Cũng
ở hư không rất hoan hỉ
Ðồng
thắp hương duyệt ý tối thượng
Huân
khắp chúng hội khiến thanh tịnh.
Tự
tại Thiên Vương cùng thiên chúng
Vô
lượng ức số ở hư không
Rải
khắp thiên y cúng dường Phật
Trăm
ngàn muôn thứ phất phới rơi.
Thể
nữ cõi trời số vô lượng
Tất
cả mừng vui cúng dường Phật
Ðều
tấu các thứ âm nhạc hay
Ðều
dùng lời nầy để ca ngợi :
Phật
thân an tọa một quốc độ
Tất
cả thế giới đều hiện thân
Thân
tướng đoan nghiêm vô lượng ức
Pháp
giới rộng lớn đều khắp đầy.
Nơi
một chân lông phóng quanh minh
Khắp
dứt thế gian phiền não tối
Thế
giới vi trần biết được số
Quag
minh nầy số chẳng lường được.
Hoặc
thấy Như Lai đủ tướng hảo
Chuyển
chánh pháp luân thắng vô thượng,
Hoặc
thấy du hành các cõi Phật.
Hoặc
thấy vắng lặng an bất động,
Hoặc
hiện ở tại cung Ðâu Suất,
Hoặc
hiện hạ sanh nhập thai mẹ,
Hoặc
hiện trụ thai hoặc xuất thai,
Ðều
khiến trong vô lượng cõi thấy,
Hoặc
hiện xuất gia tu thế đạo
Hoặc
hiện đạo tràng thành chánh giác
Hoặc
hiện thuyết pháp hoặc Niết bàn
Khiến
khắp mười phương đều xem thấy.
Ví
như huyễn sư biết huyễn thuật
Ở
trong đại chúng hiện nhiều việc,
Trí
huệ Như Lai cũng như vậy
Ở
trong thế gian khắp hiện thân.
Phật
trụ thậm thâm chơn pháp tánh
Tịch
diệt vô tướng đồng hư không
Mà
ở trong đệ nhứt thiệt nghĩa
Thị
hiện công hạnh nhiều sự việc.
Hạnh
lợi chúng sanh Phật đã làm
Ðều
nương pháp tánh mà được có
Tướng
và vô tướng không sai khác
Vào
đến rốt ráo đều vô tướng.
Nếu
có muốn được Như Lai trí
Phải
rời tất cả vọng phân biệt
Thông
đạt hữu vô đều bình đẳng
Mau
làm Nhơn Thiên Ðại Ðạo Sư.
Vô
lượng vô biên chúng thiên nữ
Ca
nhạc ngôn âm khen ngợi rồi
Thân
tâm tịch tịnh đều an lạc
Chiêm
ngưỡng Như Lai đứng yên lặng.
Liền
đó Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát
Biết
các chúng hội đều tịch tịnh
Hướng
Kim Cang Tạng mà thỉnh rằng :
Bực
Ðại Vô Úy Chơn Phật Tử !
Từ
Ðệ Cửu Ðịa vào Thập Ðịa
Bao
nhiêu công đức các hành tướng
Nhẫn
đến thần thông trí biến hóa
Mong
vì đại chúng mà tuyên thuyết.
Kim
Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật tử ! Ðại Bồ Tát
từ Sơ Ðịa đến Ðệ Cửu Ðịa dùng vô lượng trí huệ quán sát giác liễu như vậy rồi,
khéo tư duy tu tập, khéo đầy đủ thiện pháp, nhóm vô biên pháp trợ đạo, thêm lớn
đại phước đức trí huệ, rộng thi hành đại bi, biết thế giới sai biệt, vào rừng
rậm chúng sanh giới, nhập cảnh giới Như Lai, tùy thuận hạnh tịch diệt của Như
Lai, thường quán sát trí lực, vô úy, bất cộng pháp của Như Lai, gọi là được
nhứt thiết chủng trí thọ chức vị.
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ Tát dùng trí huệ như vậy nhập bực Thọ Chức Ðịa rồi liền được
ly cấu tam muội, nhập pháp giới sai biệt tam muội, trang nghiêm đạo tràng tam
muội, nhứt thiết chủng hoa quang tam muội, hải tạng tam muội, hải ấn tam muội,
hư không giới quảng đại tam muội, quán nhứt thiết pháp tự tánh tam muội, tri
nhứt thiết chúng sanh tâm hành tam muội, nhứt thiết Phật giai hiện tiền tam muội,
trăm vạn vô số tam muội như vậy đều hiện tiền. Bồ Tát nầy ở nơi các môn tam
muội trên đây hoặc nhập, hoặc xuất đều được thiện xảo. Cũng khéo rõ biết tất cả
tam muội việc làm sai biệt. Tam muội tối hậu tên là thọ nhứt thiết trí thắng
chức vị.
Lúc
tam muội nầy hiện tiền, bỗng nhiên xuất sanh đại bửu liên hoa. Liên hoa nầy
rộng lớn bằng trăm vạn Ðại Thiên thế giới, trang nghiêm với các thứ diệu bửu,
vượt hơn tất cả cảnh giới thế gian, do thiện căn xuất thế sanh khởi, do những
hạnh biết các pháp như huyễn tánh làm thành, thường phóng quang minh chiếu khắp
pháp giới, các cõi trời chẳng có được.
Liên
hoa nầy, cọng bằng tỳ lưu ly ma ni bửu, đài bằng chiên đàn vương, tua bằng ngọc
mã não, cánh bằng vàng Diêm phù đàn, các báu làm tạng, lưới báu che giăng. Hoa
nầy thường phóng vô lượng quang minh, có mười Ðại Thiên thế giới vi trần số
liên hoa làm quyến thuộc.
Bấy
giờ, Bồ Tát này ngự trên liên hoa, thân tướng cân xứng với hoa. Vô lượng quyến
thuộc Bồ Tát ngồi trên các liên hoa kia, mỗi vị đều được trăm vạn tam muội, đồng
hướng về đại Bồ Tát nhứt tâm chiêm ngưỡng.
Chư
Phật tử ! Lúc đại Bồ Tát này và quyến thuộc ngồi trên liên hoa, thời quang minh
và ngôn âm khắp đến thập phương pháp giới. Tất cả thế giới đều chấn động, ác
đạo khỏi khổ, cõi nước nghiêm tịnh, đồng hạnh Bồ Tát đều vân tập đến, âm nhạc
của nhơn thiên đồng thời trổi tiếng, tất cả chúng sanh đều được an vui, đem bất
tư nghì đồ cúng dường dâng lên chư Phật. Chư Phật chúng hội thảy đều hiển hiện.
Chư
Phật tử ! Lúc Bồ Tát nầy ngồi trên tòa đại liên hoa, thời nơi dưới hai chân
phóng trăm vạn vô số quanh minh chiếu khắp các đại địa ngục ở mười phương diệt
khổ cho chúng sanh. Nơi hai gối phóng trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp mọi
loài súc sanh ở mười phương diệt khổ cho chúng sanh. Nơi rún phóng trăm vạn vô
số quang minh chiếu khắp cõi Diêm La Vương ở mười phương diệt khổ cho chúng
sanh. Nơi hai bên hông phóng trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp tất cả nhơn
gian ở mười phương diệt khổ cho chúng sanh. Nơi giữa hai tay phóng trăm vạn vô
số quang minh chiếu khắp tất cả cung điện của chư Thiên và A Tu La ở mười
phương. Nơi trên hai vai phóng trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp tất cả
Thanh Văn ở mười phương. Nơi cổ và lưng phóng trăm vạn vô số quang minh chiếu
khắp thân Bích Chi Phật ở mười phương. Nơi mặt trăm vạn vô số quang minh chiếu
khắp hàng Bồ Tát sơ phát tâm đến bực Ðệ Cửu Ðịa. Từ giữa hai chặng mày phóng
trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp hàng Bồ Tát Thọ Chức ở mười phương. Quang
minh nầy làm cho cung điện của Ma Thảy đều chẳng hiện.
Nơi
đảnh đầu phóng trăm vạn vô số Ðại Thiên thế giới vi trần số quanh minh chiếu
khắp các đạo tràng chúng hội của chư Phật ở tất cả thế giới trong mười phương,
hữu nhiễu mười vòng rồi đứng lại trên hư không thành lưới quang minh tên là Xí
Nhiên Quang Minh, phát khởi các đồ cùng dường để cúng Phật. Chư Bồ Tát khác, từ
sơ phát tâm đến Ðệ Cửu Ðịa, có những đồ cúng dường đều không sánh được.
Lưới
quanh minh nầy, ở trước chúng hội của mỗi đức Phật trong mười phương, mưa nhữnf
hương tốt, tràng hoa, y phục, tràng phan, bửu cái, các thứ trang nghiêm bằng
châu ma ni, để cúng dường lên Phật.
Ðồ
cúng trên đây đều tử thiện căn xuất thế sanh ra, vượt hơn tất cả cảnh giới thế
gian. Nếu có chúng sanh thấy biết sự nầy thời đều được bất thối chuyển nơi đạo
vô thượng giác.
Chư
Phật tử ! Ðại quang minh nầy hiện sự cúng dường như vậy xong, lại nhiễu tất cả
thế giới mười phương nơi đạo tràng của chư Phật đủ mười vòng rồi lại từ dưới
chân của Phật mà vào. Lúc đó chư Phật và chư Bồ Tát biết nơi thế giới ấy, có
đại Bồ Tát ấy có thể làm hạnh quảng đại như vậy đến bực Thọ Chức.
Chư
Phật tử ! Bấy giờ mười phương vô lượng vô biên Bồ Tát nhẫn đến bực Ðệ Cửu Ðịa
đều vân tập vây quanh cung kính cúng dường Ðại Bồ Tát nầy, nhứt tâm quán sát.
Ðương lúc quán sát, chư Bồ Tát liền đều chứng được mười ngàn tam muội.
Lúc
đó, những Bồ Tát Thọ Chức ở mười phương đều ở trong đức tướng nơi ngực kim cang
trang nghiêm phóng đại quanh minh tên Năng Hoại Ma Oán, có trăm vạn vô số quang
minh làm quyến thuộc, chiếu khắp mười phương hiện vô lượng thần thông biến hóa,
sau đó quang minh nầy, trở về nhập vào trong ngực kim cang trang nghiêm của đại
Bồ Tát. Khi quang minh nhập vào xong, những trí huệ thế lực của đại Bồ Tát nầy
thêm lớn trăm ngàn lần.
Bấy
giờ thập phương chư Phật, từ chặng mày phóng quang minh thanh tịnh tên Tăng Ích
Nhứt Thiết Trí Thần Thông, có vô số quang minh làm quyến thuộc chiếu khắp thế
giới mười phương, hữu nhiễu mười vòng, thị hiện sự tự tại quảng đại của Như Lai
khai ngộ cho vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Bồ Tát. Chấn động khắp cả
cõi Phật, diệt trừ tất cả khổ của các ác đạo, che ẩn tất cả cung điện của Ma,
hiển thị tất cả chỗ của chư Phật chứng Bồ đề và đạo tràng chúng hội oai đức
trang nghiêm.
Quang
minh nầy chiếu khắp tận hư không biến pháp giới tất cả thế giới rồi lại đến
trên pháp hội của đại Bồ Tát nầy hữu nhiễu bao vòng hiển hiện những sự trang
nghiêm. Hiện xong, nhập vào trên đảnh đầu của đại Bồ Tát nầy. Những quang minh
quyến thuộc cũng đều nhập vào đảnh đầu của chư Bồ Tát.
Ðương
lúc quanh minh của chư Phật nhập vào đầu, Ðại Bồ Tát nầy chứng được trăm vạn
tam muội mà trước kia chưa được. Ðây gọi là đã được bực Thọ Chức vào cảnh giới
Phật đầy đủ thập lực dự ở số chư Phật.
Chư
Phật tử ! Như Chuyển Luân Thánh Vương sanh Thái Tử, mẹ là chánh hậu. Lúc Thái
Tử thân tướng trưởng thành đầy đủ, nhà vua bảo Thái Tử ngồi tòa diệu kinh trên
bạch tượng bửu, trương màn lưới lơn, dưng trang pha to, thắp hương, rải hoa,
trổi các âm nhạc, lấy nước bốn biển đựng trong bình vàng. Nhà vua cầm bình vàng
này rưới nước bốn biển lên đầu Thái Tử. Ðây gọi là lễ Thái Tử lãnh thọ vương
chức, dự ở hàng quán đảnh sát đế lợi vương. Liền có thể thật hành đầy đủ mười
thiện đạo, cũng được gọi là Chuyển Luân Thánh Vương.
Ðại
Bồ Tát Thọ Chức cũng như vậy : Vì trí thủy của chư Phật rưới vào đầu nên gọi là
Thọ Chức, vì đầy đủ mười trí lực của Như Lai nên dự vào hàng chư Phật.
Chư
Phật tử ! Ðây gọi là Bồ Tát thọ chức đại trí. Bồ Tát do chức đại trí này nên có
thể làm vô lượng trăm ngàn vạn ức na do tha hạnh khó làm, thêm lớn vô lượng trí
huệ công đức, gọi là an trụ bực Pháp Vân Ðịa.
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ Tát ở bực Pháp Vân Ðịa nầy, đúng thiệt mà biết dục giới tập,
sắc giới tập, vô sắc giới tập, thế giới tập, pháp giới tập, hữu vi giới tập, vô
vi giới tập, chúng sanh giới tập, thức giới tập, hư không giới tập, niết bàn
giới tập, kiến chấp phiền não hành tập, thế giới thành hoại tập, Thanh Văn hạnh
tập, Ðộc Giác hạnh tập, Bồ Tát hạnh tập, Như Lai trí lực vô úy sắc thân pháp
thân tập, nhứt thiết chủng trí tập, thị hiện thành Phật chuyển pháp luân tập,
trí quyết định phân biệt tất cả pháp tập. Tóm lại, đại Bồ Tát nầy dùng nhứt
thiết trí mà biết tất cả tập.
Chư
Phật tử ! Ðại Bồ Tát nầy, dùng giác huệ thượng thượng như vậy đúng thiệt mà
biết chúng sanh nghiệp hóa, phiền não hóa, kiến chấp hóa, thế giới hóa, pháp
giới hóa, Thanh Văn hóa, Ðộc Giác hóa, Bồ Tát hóa, Như Lai hóa, tất cả phân
biệt vô phân biệt hóa.
Lại
đúng thiệt mà biết Phật trì, Pháp trì, Tăng trì, nghiệp trì, phiền não trì,
nguyện trì, cúng dường trì, hành trì, kiếp trì, trí trì.
Lại
đúng thiệt mà biết chư Phật nhập vi tế trí. Những
là tu hành vi tế trí. Mạng chung vi tế trí, thọ sanh vi tế trí, xuất gia vi tế
trí, hiện thần thông vi tế trí, trụ thọ mạng vi tế trí, nhập niết bàn vi tế
trí, giáo pháp trụ vi tế trí.
Ðại Bồ Tát nầy
lại nhập Như Lai bí mật xứ. Những là thân bí mật, ngữ bí mật, tâm bí mật, thời
phi thời tư lương bí mật, thọ Bồ Tát ký bí mật, nhiếp chúng sanh bí mật, chủng
chủng thừa bí mật, tất cả chúng sanh căn hành sai biệt bí mật, nghiêm sở hành
bí mật, đắc Bồ đề hạnh bí mật. Những sự nầy đều biết đúng thiệt.
Lại biết những
nhập kiếp trí của chư Phật. Những là một kiếp vào vô số kiếp, vô số kiếp vào
một kiếp, hữu số kiếp vào vô số kiếp, vô số kiếp vào hữu số kiếp, một niệm vào
kiếp, kiếp vào một niệm, kiếp vào phi kiếp, phi kiếp, vào kiếp, hữu Phật kiếp
vào vô Phật kiếp, vô Phật kiếp vào hữu Phật kiếp, quá khứ vị lai kiếp vào hiện
tại kiếp, hiện tại kiếp vào quá khứ vị lai kiếp, quá khứ kiếp vào vị lai kiếp,
vị lai kiếp vào hiện tại kiếp, trường kiếp vào đoản kiếp, đoản kiếp vào trường
kiếp.
Lại biết những
kiếp sở nhập của Như Lai. Những là nhập mao đạo trí, nhập vi trần trí, nhập
quốc độ thân chánh giác trí, nhập chúng sanh thân chánh giác trí, nhập chúng
sanh tâm chánh giác trí, nhập chúng sanh hạnh chánh giác trí, nhập tùy thuận
nhứt thiết xứ chánh giác trí, nhập thị hiện biến hành trí, nhập thị hiện thuận
hành trí, nhập thị hiện nghịch hành trí, nhập thị hiện tư nghì bất tư nghì thế
gian liễu tri bất liễu tri hành trí, nhập thị hiện Thanh Văn trí, Ðộc giác trí,
Bồ Tát hạnh trí, Như Lai hạnh trí. Tất cả như vậy đều biết đúng thiệt.
Chư Phật tử !
Tất cả chư Phật có những trí huệ quảng đại vô lượng, bực Bồ Tát nầy đều có thể
chứng nhập.
Ðại Bồ Tát trụ
bực Pháp Vân Ðịa nầy liền được Bồ Tát bất tư nghì giải thoát, vô chướng ngại
giải thoát, tịnh quán sát giải thoát, phổ chiếu minh giải thoát, thông đạt tam
thế giải thoát, pháp giới tạng giải thoát, quang minh luân giải thoát, vô dư
cảnh giới giải thoát. Mười môn giải thoát nầy làm đầu, lại có vô lượng trăm
ngàn vô số môn giải thoát đến vô lượng trăm ngàn vô số môn tam muội, vô lượng
trăm ngàn vô số môn đà la ni, vô lượng trăm ngàn vô số môn thần thông, bực nầy
đều thành tựu cả.
Chư Phật tử !
Ðại Bồ Tát nầy thần thông đạt trí huệ như vậy, tùy thuận vô lượng Bồ đề, thành
tựu thiện xảo niệm lực.
Mười phương chư
Phật có vô lượng đại pháp minh, đại pháp chiếu, đại pháp vũ, Bồ Tát nầy trong
khoảng một niệm đều có thể an, có thể thọ, có thể nhiếp, có thể trì tất cả.
Ví như Ta Dà La
Long Vương làm mưa lớn, chỉ trừ đại hải, ngoài ra tất cả chỗ khác đều không thể
chứa thọ nhiếp trì nước mưa đó.
Cũng vậy, chỉ
trừ bực Ðệ Thập Ðịa Bồ Tát, ngoài ra tất cả chúng sanh, Thanh Văn, Ðộc Giác,
nhẫn đến Ðệ Cửu Ðịa Bồ Tát đều không thể an thọ nhiếp trì tạng bí mật đại pháp
minh, đại pháp chiếu, đại pháp vũ của đức Như Lai.
Ví như đại hải
có thể an thọ nhiếp trì trận mưa lớn của một Long Vương, hoặc hai, hoặc ba,
nhẫn đến vô lượng Long Vương đồng thời làm mưa lớn. Vì đại hải rộng lớn vô
lượng.
Cũng vậy đại Bồ
Tát trụ bực Pháp Vân Ðịa có thể an thọ nhiếp trì đại pháp minh, pháp chiếu,
pháp vũ của một đức Phật nhẫn đến của vô lượng đức Phật, đầu trong khoảng một
niệm chư Phật đồng thời diễn thuyết. Vì thế nên bực Bồ Tát nầy hiệu là Pháp Vân
Ðịa.
Giải Thoát
Nguyệt Bồ Tát hỏi : Thưa Phật tử ! Trong khoảng một niệm, đại Bồ Tát nầy có thể
an thọ nhiếp trì đại pháp minh, pháp chiếu, pháp vủ của bao nhiêu đức Phật ?
Kim Cang Tạng Bồ
Tát nói : Thưa Phật tử ! Chẳng thể đếm tính biết được. Tôi sẽ dùng ví dụ để
trình bày việc ấy.
Thưa Phật tử !
Ví như mười phương, trong mỗi phương đều có mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na
do tha Phật sát vi trần số thế giới. Trong thế giới đó, mỗi mỗi chúng sanh đều
được văn trì đà la ni làm thị giả của Phật đa văn bực nhứt trong hàng Thanh
Văn, như Tỳ Kheo Ðại Thắng, thị giả của đức Kim Cang Liên Hoa Thượng Phật.
Những pháp của một chúng sanh đã thọ, các chúng sanh khác không thọ trùng.
Những pháp của tất cả chúng sanh nầy thọ được có số lượng chăng ?
Giải Thoát
Nguyệt Bồ Tát nói : Số đó rất nhiều vô lượng vô biên.
Kim Cang Tạng Bồ
Tát nói : Tôi xin nói để Phật tử được rõ. Bực Pháp Vân Ðịa Bồ Tát, trong khoảng
một niệm, an thọ nhiếp trì đạo pháp minh, pháp chiếu, pháp vũ tam thế pháp tạng
của một đức Phật nhiều hơn những pháp của tất cả chúng sanh trên kia đã được
nhiếp trì trăm phần không kịp một phần nhẫn đến ví dụ dũng chẳng kịp được.
Như nơi một đức
Phật, nơi bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần thế giới chư
Phật, lại hơn số nầy vô lượng vô biên, nơi mỗi mỗi đức Như Lai có bao nhiêu
pháp minh, pháp chiếu, pháp vũ, tam thế pháp tạng, Bồ Tát nầy đều có thể an thọ
nhiếp trì trọn vẹn, nên hiệu là Pháp Vân Ðịa.
Chư Phật tử !
Bực Bồ Tát nầy dùng tự nguyện lực nổi mây phước đức đại bi, chấn sấm đại pháp,
nháng chớp trí huệ vô úy, hiện các loại thân, khoảng một niệm, qua khắp mười
phương trăm ngàn ức na do tha thế giới vi trần số quốc độ mà diễn thuyết đại
pháp xô dẹp quân ma.
Lại hơn số trên
đây, nơi vô lượng trăm ngàn ức na do tha thế giới vi trần số quốc độ, tùy tâm
sở thích của chúng sanh mà tuôn mưa đại pháp dập tắt lửa phiền hoặc. Do đây
hiệu là Pháp Vân Ðịa.
Chư Phật tử ! Bồ
Tát ở bực này, nơi một thế giới từ Ðâu Suất Thiên gián sanh nhẫn đến Niết bàn,
tùy theo tâm của chúng sanh đáng được độ mà thị hiện Phật sự.
Hoặc nơi hai thế
giới, ba thế giới nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha thế giới vi trần số
quốc độ cũng đều như vậy. Thế nên bực nầy gọi là Pháp Vân Ðịa.
Chư Phật tử !
Bực Bồ Tát này trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại, tùy tâm niệm của mình, có
thể đem thế giới hẹp làm thế giới rộng, thế giới rộng làm thế giới hẹp, thế
giới cấu uế làm thế giới thanh tịnh, thế giới thanh tịnh làm thế giới cấu,
những thế giới loạn trụ thứ trụ, đảo trụ, chánh trụ, tất cả vô lượng thế giới
như vậy đều có thể đổi làm lẫn nhau.
Hoặc tùy tâm
niệm nơi trong một vi trần để một thế giới núi Tu Di, sông, biển, v.v... mà thể
tướng của vi trần kia vẫn như cũ, trong đó tất cả thế giới đều hiện rõ.
Hoặc tùy tâm
niệm ở trong một thế giới thị hiện hai thế giới trang nghiêm, nhẫn đến bất khả
thuyết thế giới trang nghiêm.
Hoặc ở trong một
thế giới trang nghiêm thị hiện hai thế giới nhẫn đến bất khả thuyết thế giới.
Hoặc tùy tâm
niệm đem chúng sanh trong bất khả thuyết thế giới để trong một thế giới. Hoặc
đem chúng sanh trong một thế giới để trong bất khả thuyết thế giới, đối với
chúng sanh không làm tổn hại.
Hoặc tùy tâm
niệm nơi một lỗ chân lông thị hiện tất cả sự trang nghiêm của cảnh giới Phật.
Hoặc trong một
niệm thị hiện bất khả thuyết thế giới vi trần số thân, mỗi mỗi thân thị hiện
ngần ấy số tay, mỗi mỗi tay đều cầm hằng hà sa số hộp hoa, trấp hương, tràng
phan, bửu cái, cùng khắp mười phương cúng dường đức Phật. Mỗi mỗi thân lại hiện
ngần ấy số đầu, mỗi mỗi đầu hiện ngần ấy số lưỡi, ở trong mỗi niệm tán thán
công đức của Phật cùng khắp mười phương.
Hoặc tùy tâm
niệm, ở trong một niệm, khắp cùng mười phương thị hiện thành chánh giác nhẫn
đến niết bàn và cùng cõi nước những sự trang nghiêm.
Hoặc hiện thân
mình cùng khắp tam thế mà ở trong thân có vô lượng chư Phật và quốc độ những sự
trang nghiêm, thế giới thanh hoại đều hiển hiện cả.
Hoặc trong một
chân lông nơi thân phát ra tất cả luồng gió, nhưng vẫn không tổn hại chúng
sanh.
Hoặc tùy tâm
niệm đem vô biên thế giới làm một đại hải, trong biển nầy hiện đại liên hoa
sáng chói tốt đẹp, trùm khắp vô lượng vô biên thế giới, ở trong đó thị hiện
những sự trang nghiêm của cội cây đại Bồ đề, nhẫn đến thị hiện thành nhứt thiết
chủng trí.
Hoặc ở nơi thân
mình hiện thập phương thế giới tất cả quang minh ma ni bửu châu, nhựt nguyệt
tinh tú mây chớp các thứ ánh sáng.
Hoặc dùng miệng
hà hơi có thể động thập phương vô lượng thế giới, mà chẳng làm cho chúng sanh
có quan niệm kinh sợ.
Hoặc hiện thập
phương phong tai, hỏa tai và thủy tai.
Hoặc tùy tâm sở
thích của chúng sanh thị hiện sắc thân đầy đủ sự trang nghiêm.
Hoặc ở nơi tự
thân thị hiện Phật thân, hoặc ở Phật thân mà hiện tự thân. Hoặc ở Phật thânh
hiện quốc độ của mình, hoặc ở quốc độ mình mà hiện Phật thân.
Chư Phật tử !
Pháp Vân Ðịa Bồ Tát này có thể hiện như vậy, và còn vô lượng trăm ngàn ức na do
tha thần lực tự tại.
Bấy giờ trong
chúng hội, chư Bồ Tát và Thiên, Long, bát bộ, hộ thế Tứ Thiên Vương, Thiên Ðế,
Phạm Vương, Tịnh Cư Thiên, Ðại Tự Tại Thiên Vương, các hàng Thiên Tử đều nghĩ
rằng : Nếu Bồ Tát mà thần thông trí lực dường ấy thời đức Phật lại thế nào ?
Giải Thoát
Nguyệt Bồ Tát biết tâm niệm của chúng hội, bèn bạch Kim Cang Tạng Bồ Tát rằng :
Thưa Phật tử ! Nay đại chúng nầy nghe nòi thần thông trí lực của bực Ðệ Thập
Ðịa Bồ Tát mà sanh lòng nghi. Xin Ngài thị hiện chút ít sự trang nghiêm thần
lực của Bồ Tát để dứt lòng nghi cho đại chúng.
Kim Cang Tạng Bồ
Tát liền nhập Nhứt thiết Phật độ thể tánh tam muội.
Lúc Bồ Tát nhập
tam muội, tất cả Bồ Tát và đại chúng đều thấy thân mình ở trong thân của Kim
Cang Tạng Bồ Tát, trong đây thấy rõ cõi Ðại Thiên có bao nhiêu sự trang nghiêm,
cả ức kiếp nói cũng chẳng hết. Lại nơi đây thấy cây Bồ đề chu vi mười muôn Ðại
Thiên thế giới, cao trăm muôn Ðại Thiên thế giới, nhánh là che trùm cũng như
vậy. Có tòa sư tử xứng với thân cây. Trên tòa có đức Phật Nhứt Thiết Trí Thông
Vương ngự. Tất cả đại chúng đều thấy đức Phật ngự, đủ tất cả tướng hảo trang
nghiêm dầu đến ức kiếp kể cũng không hết.
Hiện thần lực
như vậy rồi, Kim Cang Tạng Bồ Tát làm cho đại chúng trở lại như cũ.
Bấy giờ đại
chúng được thấy sự chưa từng có cho là rất đặc biệt lạ lùng, ngồi yên lặng nhứt
tâm chiêm ngưỡng Kim Cang Tạng Bồ Tát.
Giải Thoát Nguyệt
Bồ Tát bạch Kim Cang Tạng Bồ Tát rằng : "Thưa Phật tử ! Nay tam muội nầy
rất là hi hữu, có thế lực lớn, tên gọi là gì ?"
Kim Cang Tạng Bồ
Tát nói : " Tam muội này tên là Nhứt thiết Phật độ thể tánh".
Lại hỏi : "
Cảnh giới của tam muội nầy thế nào ?"
Ðáp : " Nếu
Bồ Tát tu tam muội nầy thời tùy tâm sở niệm, có thể ở trong thân mình hiện ta
hằng hà sa thế giới vi trần số cõi Phật, lại có thể hiện hơn số nầy vô lượng vô
biên.
Chư Phật tử ! Vì
Bồ Tát trụ nơi bực Pháp Vân Ðịa nầy được vô lượng trăm ngàn môn đại tam muội
như vậy, nên thân và thân nghiệp, ngữ và ngữ nghiệp, ý và ý nghiệp của Bồ Tát
nầy đều chẳng thể lường biết được. Thần thông tự tại quán sát tam thế, cảnh
giới của tam muội, cảnh giới của trí huệ, du hí tất cả môn giải thoát. Biến hóa
làm ra, thần lực làm ra, quang minh làm ra, lược nói nhẫn đến cắt chân, hạ chân
tất cả việc làm ta, dầu là bực Pháp Vương Tử Thiện Huệ Ðịa Bồ Tát cũng đều
chẳng biết được.
Chư Phật tử !
Cảnh giới của Pháp Vân Ðịa Bồ Tát lược nói như vậy, nếu nói rộng ta thời dầu
nói suốt vô lượng trăm ngàn vô số kiếp cũng chẳng hết được.
Giải Thoát
Nguyệt Bồ Tát hỏi : Thưa Phật tử ! Nếu Bồ Tát thần thông cảnh giới như vậy,
thần thông của Phật lại thế nào ?
Kim Cang Tạng Bồ
Tát nói : Thưa Phật tử ! Ví như có người lấy được cục đất nơi bốn châu thiên hạ
rồi nói rằng cục đất nầy là nhiều hay là đất của vô biên thế giới là nhiều ?
Tôi xem lời của
Ngài vừa hỏi cũng như vậy.
Trí huệ cảnh
giới của đức Như Lai vô biên vô đẳng, thế nào lại đem so sánh với Bồ Tát.
Lại như lấy chút
ít đất nơi bốn châu thiên hạ, thời đâu có thể đem so sánh với cả bốn châu.
Thần thông trí
huệ của bực Pháp Vân Ðịa Bồ Tát, dầu nói suốt vô lượng kiếp cũng chỉ được một
ít phần, huống là Như Lai địa.
Thưa Phật tử !
Nay tôi đem sự chứng minh để Ngài được rõ cảnh giới của Như Lai.
Giả sử mười
phương, mỗi phương đều có vô biên thế giới vi trần số Phật độ, mỗi Phật độ đều
có đông đầy bực Pháp Vân Ðịa Bồ Tát nầy như mía, tre, lau, lúa, mè, rừng rậm.
Tất cả Bồ Tát đều tu hạnh Bồ Tát trong trăm ngàn ức na do tha kiếp phát sanh trí
huệ, đem so sánh với cảnh giới trí huệ của một đức Như Lai, thời không bằng một
phần trăm nhẫn đến không bằng một phần ưu ba ni sa đà.
Chư Phật tử !
Bực Bồ Tát này trụ trí huệ như vậy chẳng khác đức Như Lai, thân, ngư,?ý chẳng
rời tam muội lực của Bồ Tát. Trong vô số kiếp thừa sự cúng dường tất cả chư
Phật. Trong mỗi mỗi kiếp dùng tất cả thứ cúng dường để dâng lên chư Phật. Ðược
thần lực của tất cả chư Phật gia hộ, trí huệ quang minh lại càng tăng thắng. Ở
trong pháp giới, khéo giải thích các điều vấn nạn, không ai khuất phục được.
Chư Phật tử ! Ví
như thợ kim hoàn, dùng chơn kim thật tốt làm đồ trang sức, dùng báu ma ni cẩn
xem trong vàng. Tự Tại Thiên vương tự mang đồ trang sức này vào mình. Tất cả đồ
trang sức của trời người đều không thể sánh kịp.
Bực Bồ Tát cũng
như vậy. Từ Sơ Ðịa đến Cửu Ðịa Bồ Tát, tất cả trí hạnh đều không sánh kịp được
Ðệ Thập Ðịa Bồ Tát.
Trí huệ quang
minh của bực Bồ Tát nầy có thể làm cho chúng sanh tăng tiến đến chứng nhập nhứt
thiết chủng trí. Những trí huệ quang minh của các bực Bồ Tát khác đều không
được như vậy.
Chư Phật tử ! Ví
như Ma Hê Thủ La Thiên Vương quang minh, hay làm cho thân của chúng sanh được
mát mẻ, quang minh khác không kịp được.
Bồ Tát ở bực này
cũng như vậy, trí huệ quang minh có thể làm cho chúng sanh đến được thanh lương
nhẫn đến trụ nơi nhứt thiết chủng trí. Trí huệ quang minh của tất cả Thanh Văn
Duyên Giác cho đến bực Ðệ Cửu Ðịa Bồ Tát đều không sánh được.
Chư Phật tử !
Ðại Bồ Tát này đã có thể an trụ trí huệ như vậy. Chư Phật Thế Tôn lại vì các
Ngài mà thuyết tam thế trí, pháp giới sai biệt trí, biến nhứt thiết thế giới
trí, chiếu nhứt thiết thế giới trí, từ niệm nhứt thiết chúng sanh trí nhẫn đến
thuyết chứng đắc nhứt thiết chủng trí.
Trong mười môn
ba la mật, bực Bồ Tát này tăng thượng nơi trí ba la mật. Các môn khác thời tùy
sức tùy phần.
Chư Phật tử !
Ðây là nói lược về bực Bồ Tát Ðệ Thập Pháp Vân Ðịa. Nếu nói rộng thời dầu nói
suốt vô lượng vô số kiếp cũng không hết.
Chư Phật tử ! Bồ
Tát ở bực nầy phần nhiều làm Ma Hê Thủ La Thiên Vương tự tại nơi các pháp, hay
truyển thọ hạnh ba la mật cho tất cả Thanh Văn Duyên Giác và tất cả Bồ Tát. Ở
giữa pháp chúng không bị khuất phục vì sự chất vấn.
Tất cả công hạnh
như bố thí ái ngữ, lợi hành đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, nhẫn đến chẳng rời
niệm viên mãn nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát nầy lại
tự nghĩ rằng : Nơi tất cả chúng sanh tôi sẽ là thượng thủ, là thắng, nhẫn đến
là chỗ y tựa cho bực nhứt thiết chủng trí.
Nếu Bồ Tát này
tăng gia tinh tấn, trong khoảng một niệm được mười bất khả thuyết trăm ngàn ức
na do tha Phật sát vi trần số tam muội, nhẫn đến thị hiện ngần ấy số Bồ Tát để
làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thù thắng để thị hiện thời hơn số trên
đây, cho đến trăm ngàn ức no do tha kiếp chẳng thể đếm biết được.
Chư Phật tử !
Ðại Bồ Tát này lúc hành tướng thập địa thứ đệ hiện tiền thời có thể chứng nhập
nhứt thiết chủng trí.
Ví như ao A Nậu
Ðạt là nguồn nước của các sông lớn chảy khắp Diêm Phù Ðề, nước ao đã không khô
cạn mà lại nhiều thêm, nhẫn đến chảy vào biển làm cho nước nơi đây được sung
mãn.
Cũng vậy, Bồ Tát
từ tâm Bồ đề lưu xuất thiện căn đại nguyện, dùng bốn nhiếp pháp nhiếp độ tất cả
chúng sanh đã không cùng tận lại thêm tăng trưởng, nhẫn đến vào nơi biển nhứt
thiết chủng trí và làm cho nơi đây được sung mãn.
Chư Phật tử ! Bồ
Tát thập địa, vì do Phật trí mà có sai, như nhơn đại địa mà có mười núi lớn.
Những là Tuyến Sơn, Hương sơn, Tý Ðà Lê Sơn, Thần Tiên Sơn, Do Càn Ðà Sơn. Mã
Nhĩ Sơn, Ni Dân Ðà La Sơn, Chước Yết La Sơn, Kế Ðô Mạt Ðể Sơn, Tu Di Sơn.
Chư Phật tử !
Như Hương Sơn, tất cả thứ hương đều chứa đủ trong đó, lấy không thể hết. Cũng
vậy, Bồ Tát trụ bực Ly Cấu Ðịa, tất cả giới hạnh oai nghi của Bồ Tát đều ở cả
nơi đây, nói không thể hết.
Chư Phật tử !
Như Tỳ Ða Lê Sơn thuần bằng chất báu, tất cả bửu chất châu ngọc đủ cả nơi đây,
lấy không thể hết. Cũng vậy, Bồ Tát ở bực Phát Quang Ðịa, tất cả thế gian thiền
định, thần thông, giải thoát tam muội, tam ma bát đề đủ cả ở bực nầy, nói không
hết được.
Chư Phật tử !
Như Thần Tiên Sơn thuần bằng châu báu, ngũ thông Thần Tiên luôn có trong đó
không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát ở bực Diệm Huệ Ðịa, tất cả trí huệ thù thắng
đều đủ nơi đây nói không thể hết.
Chư Phật tử !
Như Do Càn Ðà Sơn thuần bằng chất báu, Thần Dạ Xoa đều ở trong đó không cùng
tận. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Nan Thắng Ðịa, tất cả tự tại như ý thần thông đều
ở trong đây nói chẳng thể hết.
Chư Phật tử !
Như Mã Nhĩ Sơn thuần bằng chất báu, trong đây đủ tất cả trái cây, lấy không hết
được. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Hiện Tiền Ðịa, quả chứng nhập lý duyên khởi
Thanh Văn đều ở trong đây nói không hết được.
Như Ni Dân Ðà La
Sơn thuần bằng chất báu, đại lực Long Thần đều ở nơi đây không cùng tận. Cũng
vậy, Bồ Tát ở bực Viễn Hành Ðịa, phương tiện trí huệ Ðộc Giác quả chứng đều đủ
nơi đây nói không thể hết.
Chư Phật tử !
Như Chước Yết La Sơn thuần bằng chất báu, chúng Tự Tại đều ở trong núi nầy
không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Bất Ðộng Ðịa, tất cả Bồ Tát tự tại sai
biệt thế giới đều ở trong đây nói không hết được.
Chư Phật tử !
Như Kế Ðô Sơn thuần bằng chất báu, đại oai đức A Tu La Vương đều ở trong đó
không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Thiện Huệ Ðịa tất cả trí hành sanh
diệt thế gian đều ở nơi đây nói không thể hết.
Chư Phật tử !
Như Tu Di Sơn thuần bằng chất báu, đại oai đức chư Thiên đều ở trong đây không
cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Pháp Vân Ðịa, Phật trí lực, vô sở úy, bất
cộng pháp, tất cả Phật sự đều ở trong đây tuyên nói không hết được.
Chư phật tử !
Mười Bửu Sơn nầy đồng ở trong đại hải mà có tên sai khác. Thập Ðịa Bồ Tát cũng
như vậy, đồng ỡ trong nhứt thiết chủng trí mà có danh hiệu sai khác.
Chư Phật tử ! Ví
như đại hải do có mười tướng mà được gọi là đại hải không bị đổi tên. Ðây là
mười tướng : một là tuần tự sâu lần ; hai là chẳng chứa tử thi ; ba là các dòng
nước chảy vào đều mất bổn danh ; bốn là phổ đồng một vị ; năm là có vô lượng
trân bửu ; sáu là không ai đến tận đây được ; bảy là rộng lớn vô lượng ; tám là
loài thân to lớn ở ; chín là thủy triều chẳng quá hạn ; mười là chứa khắp hết
nước mưa to mà vẫn không tràn.
Cũng vậy, Bồ Tát
hạnh do mười tướng mà được gọi là Bồ Tát hạnh không bị đổi tên. Ðây là mười
tướng : Hoan hỉ Ðịa xuất sanh đại nguyện lần lần càng sâu : Ly Cấu Ðịa chẳng
chứa tất cả thây phá giới ; Pháy Quang Ðịa bỏ rời sanh tự giả của thế gian ;
Diệm Huệ Ðịa đồng một vị với công đức của Phật ; Nan Thắng Ðịa xuất sanh vô
lượng phương tiện thần thông làm thành những trân bửu của thế gian ; Hiện Tiền
Ðịa quán sát lý duyên sanh rất sâu ; Viễn Hành Ðịa giác huệ rộng lớn khéo quán
sát ; Bất Ðộng Ðịa thị hiện sự trang nghiêm rộng lớn ; Thiện Huệ Ðịa được thâm
giải thoát du hành thế gian biết đúng như thiệt chẳng quá hạn ; Pháp Vân Ðịa có
thể lãnh thọ tất cả đại pháp của Như Lai không hề nhàm đủ.
Chư Phật tử ! Ví
như châu đại ma ni có mười đặc tánh hơn hẳn các thứ châu báu khác. Ðây là mười
đặc tánh : Một là xuất sanh từ đại hải ; hai là thợ khéo trau dồi ; ba là tròn
đầy không thuyết ; bốn là trong sạch không bợn ; năm là trong ngoài sáng suốt ;
sáu là dùi lỗ rất khéo ; bảy là xỏ bằng dây báu ; tàm là đặt trên tràng cao
bằng lưu ly ; chín là phóng ra đủ loại ánh sáng chiếu khắp nơi ; mười là có thể
theo ý nhà vua ma mưa các loại châu báu và vật dụng làm thỏa mãn tâm nguyện của
nhơn dân.
Chư Phật tử ! Bồ
Tát đây cũng như vậy, vì có mười sự nên hơn các bực thánh khác. Ðây là mười sự
: Một là phát nhứt thiết trí ; hai là trì giới đầu đà chánh hạnh sáng sạch ; ba
là các thiền tam muội viên mãn không khuyết ; bốn là đạo hạnh thanh bạch lìa
các cầu uế ; năm là phương tiện thần thông trong ngoài sáng suốt ; sáu là duyên
khởi trí huệ hay khéo dùi xỏ ; bảy là xâu bằng giây phương tiện trí ; tám là để
trên tràng cao tự tại ; chín là quán hạnh chúng sanh mà phóng quang minh văn
trì ; mười là thọ chức Phật trí dự ở hàng Phật có thể vì chúng sanh mà rộng làm
Phật sự.
Chư Phật tử !
Ðây là Bồ Tát hạnh pháp môn phẩm nhóm họp công đức nhứt thiết chủng, nhứt thiết
trí. Nếu chúng sanh chẳng vun trồngthiện căn thời chẳng được nghe.
Giải Thoát
Nguyệt Bồ Tát hỏi : "Nghe pháp môn nầy thời được bao nhiêu phước ?".
Kim Cang Tạng Bồ
Tát nói : "Như phước đức của nhứt thiết trí tập họp, nghe pháp môn này
phước đức cũng như vậy".
Vì chẳng phải
nghe công đức pháp môn này mà có thể tin hiểu thọ trì đọc tụng, huống là tinh
tấn tu hành đúng như lời.
Do đây nên biết
rằng cần phải được nghe tập họp nhứt thiết trí công đức pháp môn này mới có thể
tin hiểu thọ trì tu tập, rồi sau mới đến bực nhứt thiết trí.
Bấy giờ do thần
lực của Phật và do pháp như vậy, nên mười phương đều có mười ức Phật độ vi trần
số thế giới chấn động đủ mười tám tướng. Những là động, biến động, đẳng biến
động nhẫn đến kích, biến kích, đẳng biến kích. Trên không khắp nơi mưa thiên
hoa, thiên man, thiên y, thiên bửu trang nghiêm, thiên tràng phan, thiên tắng
cái. Nhạc trời hòa tấu âm thanh hòa nhã, đồng thời phát ra tiếng ca ngợi công
đức của bực nhứt thiết trí.
Tất cả thế giới
khắp mười phương cũng đồng diễn thuyết pháp trên đây như ở Vương cung Tha Hóa
Tự Tại Thiên nơi thế giới này.
Lại do thần lực
của Phật, ngoài mười ức Phật sát vi trần số thế giới ở mười phương, có mười ức
Phật sát vi trần số Bồ Tát đến đại hội này đồng nói như vầy : "Lành thay !
Lành thay ! Kim Cang Tạng Bồ Tát hay nói pháp này. Chúng tôi cũng đồng tên Kim
Cang Tạng, ở thế giới khác nhau nhưng đồng tên Kim Cang Ðức, Phật đồng hiệu Kim
Cang Tràng. chúng tôi ở tại bổn quốc đều thừa oai lực của Như Lai mà nói ph1p
này, hội chúng đều đồng như đây, văn tự cú nghĩa cũng không khác. Chúng tôi đều
nương thần lực của Phật đồng đến đây để chứng minh cho ngài".
Kim Cang Tạng Bồ
Tát quan sát tất cả hội chúng khắp mười phương pháp giới, muốn tán thán phát
tâm nhứt thiết chủng trí, muốn thị hiện cảnh giới Bồ Tát, muốn tu tập hạnh lực
của Bồ Tát, muốn thuyết nhiếp thủ đạo nhứt thiết chủng trí, muốn trừ diệt tất
cả cấu nhiễm thế gian, muốn ban cho nhứt thiết trí, muốn thị hiện sự trang
nghiêm của trí bất tư nghì, muốn hiển thị những công đức của tất cả Bồ Tát,
muốn cho ý nghĩa của thập địa đây càng thêm sáng tỏ, nên thừa thần lực của Phật
mà nói kệ rằng :
Tâm đó tịch diệt
hằng điều thuận
Bình đẳng vô
ngại như hư không
Lìa thân cấu
trược trụ nơi đạo
Thắng hạnh này,
Phật tử nên nghe.
Trăm ngàn ức
kiếp tu điều lành
Cúng dường vô
lượng vô biên Phật
Cũng cúng Thanh
Văn Ðộc Giác Tăng
Vì lợi ích chúng
sanh phát tâm lớn.
Tinh cần trì
giới thường nhu nhẫn
Tàm quý phước
trí đều đầy đủ
Chí cầu Phật trí
tu huệ lớn
Mong được thập
lực nên phát tâm.
Cúng dường khắp
tam thế chư Phật
Nghiêm tịnh khắp
mười phương quốc độ
Biết rõ các pháp
đều bình đẳng
Vì lợi ích chúng
sanh phát tâm lớn.
Trụ bực Sơ Ðịa
sanh tâm này
Rời hẳn điều ác
thường hoan hỷ
Nguyện lực rộng
tu những pháp lành
Do
lòng bi mẫn nhập Nhị Ðịa.
Giới,
văn đầy đủ thương chúng sanh
Rửa
trừ nhơ bợn tâm sáng sạch
Quán
sát thế gian lửa tham sân
Bực
trí quảng đại lên Tam Ðịa.
Tất
cả ba cõi đều vô thường
Như
trúng tên độc thân đau khổ
Nhàm
bỏ hữu vi cầu Phật pháp
Bực
trí quảng đại nhập Tứ Ðịa.
Niệm
huệ đầy đủ được đạo trí
Cúng
dường trăm ngàn vô lượng Phật
Thường
quán những công đức tối thắng
Bực
này tiến nhập Nan Thắng Ðịa.
Trí
huệ phương tiện khéo quán sát
Thị
hiện mọi cách cứu chúng sanh
Cúng
dường Thập Lực Vô Thượng Tôn
Tiến
lên vô sanh Hiện Tiền Ðịa.
Thế
gian khó biết mà biết được
Chẳng
thọ ngã nhơn lìa có không
Pháp
tánh bổn tịch, tùy duyên chuyển
Ðược
diệu pháp này lên Thất Ðịa.
Trí
huệ phương tiện tâm rộng lớn
Khó
làm, khó phục, khó biết rõ
Dầu
chứng tịch diệt siêng tu tập
Lên
bực như không Bất Ðộng Ðịa.
Phật
khuyên khiến từ tịch diệt khởi
Rộng
tu trí hạnh đủ các môn
Ðủ
mười tự tại quán thế gian
Do
đây được lên Thiện Huệ Ðịa.
Dùng
trí vi diệu quán chúng sanh
Tâm
hành, nghiệp, hoặc những rừng rậm
Vì
muốn độ họ vào Phật đạo
Nên
nói thắng nghĩa tạng của Phật,
Tuần
tự tu hành đủ hạnh lành
Nhẫn
đến Cửu Ðịa gồm phước huệ
Thường
cầu pháp tối thượng của Phật
Ðược
Phật trí thủy dùng quán đảnh,
Chứng
được vô số môn tam muội
Cũng
biết rành được công lực kia
Tam
muội sau cùng tên Thọ Chức
Trụ
cảnh quảng đại luôn bất động.
Lúc
Bồ Tát được tam muội này
Ðại
bửu liên hoa bỗng nhiên hiện
Thân
ngồi trên đó xứng cùng hoa
Phật
tử vây quanh đồng chiêm ngưỡng,
Phóng
đại quang minh trăm ngàn ức
Diệt
trừ tất cả khổ chúng sanh
Lại
nơi trên đảnh phóng quang minh
Chiếu
khắp mười phương các Phật hội,
Dừng
giữa hư không làm lưới sáng
Cúng
dường Phật xong, từ chân vào
Tức
thời chư Phật đều rõ biết :
Nay
Bồ Tát này lên Thập Ðịa.
Mười
phương Bồ Tát đến quán sát
Ðại
sĩ thọ chức phóng quang minh
Chặng
mày chư Phật cũng phóng quang
Chiếu
khắp mọi nơi, nhập vào đảnh,
Mười
phương thế giới đều chấn động
Tất
cả địa ngục đều diệt khổ
Bấy
giờ chư Phật trao chức cho
Như
Chuyển Luân Vương phong Thái Tử.
Nếu
được chư Phật quán đảnh cho
Bồ
Tát này gọi là Pháp Vân Ðịa
Trí
huệ thêm lớn không ngằn mé
Khai
ngộ tất cả khắp thế gian.
Dục
giới, sắc giới, vô sắc giới,
Hữu
số, vô số và hư không
Tất
cả như vậy đều thông đạt.
Tất
cả hóa dụng oai lực lớn
Chư
Phật gia trì trí vi tế
Kiếp
số bí mật, mao đạo trí,
Ðều
hay quán sát đúng như thiệt.
Thọ
sanh, xả tục, thành chánh đạo
Chuyển
diệu pháp luân nhập Niết Bàn
Nhẫn
đến tịch diệt pháp giải thoát
Và
chỗ chưa nói đều biết được.
Bồ
Tát trụ bực Pháp Vân Ðịa
Ðầy
đủ niệm lực trì Phật pháp,
Ví
như đại hải nhận nước mưa
Bực
này thọ pháp cũng như vậy.
Mười
phương vô lượng các chúng sanh
Ðều
được văn trì thọ Phật pháp,
Nơi
một đức Phật được nghe pháp
Hơn
cả số trên vô lượng số.
Do
bổn trí nguyện oai thần lực
Một
niệm khắp cùng mười phương cõi
Rưới
mưa cam lồ diệt phiền não
Do
đây Phật nói hiệu Pháp Vân.
Thần
thông thị hiện khắp mười phương
Vượt
hơn cảnh giới trời người thảy
Lại
hơn số này vô lượng ức
Thế
trí suy lường ắt mê loạn.
Trí
lượng công đức một cất chân
Ðến
bực Cửu Ðịa vẫn chẳng biết,
Huống
là Thanh Văn Bích Chi Phật
Cùng
với tất cả loài chúng sanh !
Bực
Bồ Tát này cúng dường Phật
Cùng
khắp cõi nước ở mười phương
Cũng
cúng dường thánh chúng hiện tiền
Trang
nghiêm đầy đủ Phật công đức.
Trụ
ở bực này lại vì nói
Tam
thế pháp giới trí vô ngại
Chúng
sanh, quốc độ đều cũng vậy
Nhẫn
đến tất cả Phật công đức.
Bồ
Tát thập Ðịa trí quang minh
Khai
thị chúng sanh : đường chánh pháp
Sáng
Tự Tại Thiên trừ thế ám
Trí
quang diệt ám cũng như vậy.
Bực
này thường làm vua ba cõi
Khéo
hay diễn thuyết pháp tam thừa
Vô
lượng tam muội một niệm được
Ðược
thấy chư Phật cũng như vậy.
Nay
tôi lược nói Thập Ðịa rồi
Nếu
muốn nói rộng không thể hết.
Các
địa như vậy trong Phật trí
Như
mười sơn vương cao vọi vọi :
Sơ
Ðịa nghề nghiệp vô cùng tận
Ví
như Tuyết Sơn chứa dược thảo,
Nhị
Ðịa giới văn chư Hương Sơn,
Tam
Ðịa : Tỳ Sơn phát diệu hoa,
Diệm
Huệ đạo bửu vô cùng tận
Ví
như Tiên Sơn, chư Tiên ở,
Ngũ
Ðịa thần thông như Càn Sơn,
Lục
Ðịa : Mã Sơn đủ loại trái,
Thất
Ðịa huệ lớn như Ni Sơn,
Bát
Ðịa tự tại như Luân Vi,
Cửu
Ðịa vô ngại như Kế Ðô,
Thập
địa đủ đức như Tu di,
Sơ
Ðịa : nguyện lớn, Nhị : trì giới,
Tam
Ðịa ; công đức, Tứ : chuyên nhứt,
Ngũ
Ðịa : vi diệu, Lục : thậm thâm,
Thất
Ðịa : đại huệ, Bát : trang nghiêm,
Cửu
Ðịa tư duy nghĩa vi diệu
Vượt
hơn tất cả đạo thế gian,
Thập
Ðịa thọ trì pháp chư Phật,
Biển
hạnh như vậy không cạn hết.
Mười
hạnh xuất thế : phát tâm trước,
Trì
giới thứ hai, thiền thứ ba,
Thứ
tư hạnh tịnh, năm : thành tựu,
Thứ
sáu : duyên sanh, bảy : xâu suốt,
Thứ
tám : để trên tràng kim cang,
Thứ
chín : quán sát những trù lâm,
Thứ
mười quán đảnh tùy vương ý,
Ðức
bửu như vậy lần thanh tịnh.
Mười
phương cõi nước nghiền làm bụi
Một
niệm biết được số bao nhiêu,
Lông
đo không gian biết số lượng,
Ức
kiếp nói "Ðịa" không thể hết.
*****