Phẩm
Tu Di Đảnh Kệ Tán
Thứ
mười bốn
Lúc bấy giờ, do thần-lực của đức Phật, từ ngoài trăm
phật-sát vi-trần-số quốc-độ, mười-phương đều có một đại Bồ-Tát, mỗi vị đều cùng
một phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng vân tập đến. Mười đại Bồ-Tát là : Pháp-Huệ
Bồ-Tát, Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, Thắng-Huệ Bồ-Tát, Công-Đức-Huệ Bồ-Tát,
Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát, Thiện-Huệ Bồ-Tát, Trí-Huệ Bồ-Tát, Chơn-Thiệt-Huệ Bồ-Tát,
Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát, Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát. Cơi nước của các ngài theo thứ-tự là
: Nhơn-Đà-La-Hoa thế-giới, Ba-Đầu-Ma-Hoa thế-giới, Bửu-Hoa thế-giới,
Ưu-Bát-La-Hoa thế-giới, Kim-Cang-Hoa thế-giới, Diệu-Hương-Hoa thế-giới,
Duyệt-Ư-Hoa thế-giới, A-Lô-Hoa thế-giới, Na-La-Đà-Hoa thế-giới, Hư-Không-Hoa
thế-giới. Chư Phật ngự trị nơi đó theo thứ tự là : Thù-Đặc-Nguyệt-Phật,
Vô-Tận-Nguyệt Phật, Bất-Động-Nguyệt Phật, Phong-Nguyệt Phật, Thủy-Nguyệt Phật,
Giải-Thoát-Nguyệt Phật, Vô-Thượng-Nguyệt Phật, Tinh-Tú-Nguyệt Phật,
Thanh-Tịnh-Nguyệt Phật, Minh-Liễu-Nguyệt Phật.
Chư Bồ-Tát này đến đảnh-lễ chơn Phật, rồi tùy phương
đến, đều riêng hóa hiện ṭa sư-tử Tỳ-lô-giá-na-tạng mà ngồi kiết-già trên đó.
Như chư Bồ-Tát vân tập đến đảnh núi Tu-Di nơi thế-giới
này, thập-phương thế-giới cũng đều như thế cả, đến danh hiệu, quốc-độ và chư
Phật cũng đồng.
Lúc đó đức Thế-Tôn, từ nơi các ngón của hai chưn phóng
trăm ngàn ức quang-minh màu đẹp chiếu khắp trong cung của Đế-Thích ở mười
phương thế-giới, Phật và đại-chúng đều hiển hiện cả.
Pháp Huệ Bồ-Tát thừa oai-thần của Phật quan-sát khắp mười-phương
rồi nói kệ rằng :
Phật phóng tịnh quang-minh
Thấy khắp tất cả Phật
Đảnh núi Tu-Di-Vương
Ở trong điện Diệu-Thắng.
Tất cả Thiên-Đế-Thích
Thỉnh Phật vào cung-điện
Đều nói mười kệ hay
Ca ngợi chư Như-Lai.
Trong các đại hội ấy
Bao nhiêu chúng Bồ-Tát
Đều từ mười-phương đến
Hóa ṭa mà an-tọa.
Bồ-Tát trong hội đó
Danh hiệu đồng chúng tôi,
Những cơi từ đó đến
Danh-tự cũng vẫn đồng;
Bổn-quốc chư Như-Lai
Hồng-danh đều cũng đồng,
Bồ-Tát nơi bổn Phật
Tịnh tu hạnh vô-thượng.
Đại chúng nên quan-sát
Như-Lai tự-tại-lực
Tất cả Diêm-Phù-Đề
Đều nói Phật tại đấy.
Chúng tinh-tấn
nay thấy Phật
Trụ nơi đảnh
Tu-Di
Thập-phương cũng
như vậy
Như-Lai
tự-tại-lực.
Trong mỗi mỗi
thế-giới
Phát tâm cầu
phật-đạo
Nương nơi nguyện
như vậy
Tu tập hạnh
bồ-đề.
Phật dùng nhiều
thân h́nh
Du hành khắp
thế-gian
Pháp-giới không
chướng ngại
Không ai trắc
lượng được.
Huệ-quang hằng
chiếu khắp
Đời tối đều trừ
diệt,
Tất cả không sánh
bằng
Thế nào lường
biết được !
Nhứt-Thiết-Huệ
Bồ-Tát, thừa oai-lực của đức Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :
Giả-sử trăm ngàn
kiếp
Thường thấy đức
Như-Lai
Chẳng y chơn-thật
nghĩa
Mà quán đấng
Cùu-Thế,
Người này chấp
lấy tướng
Thêm lớn lưới mê
lầm
Giam trói ngục
sanh tử
Đui mù, chẳng
thấy Phật.
Quan-sát nơi các
pháp
Đều không có
tự-tánh
Tướng nó, vốn
sanh-diệt
Chỉ là danh
thuyết giả.
Tất cả pháp
vô-sanh
Tất cả pháp
vô-diệt
Nếu hiểu được như
vậy
Chư Phật thường
hiện tiền.
Pháp-tánh vốn
không tịch
Vô-thủ, cũng
vô-kiến
Tánh không, tức
là Phật
Chẳng thể nghĩ
lường được.
Nếu biết tất cả
pháp
Thể tánh đều như
vậy
Người này thời
chẳng bị
Phiền-năo làm
nhiễm trước.
Phàm phu thấy các
pháp
Chỉ chuyển theo
tướng giả
Chẳng rơ pháp
vô-tướng
Do đây chẳng thấy
Phật.
Đức Phật ĺa ba
thời
Các tướng đều đầy
đủ
Trụ nơi vô-sở-trụ
Cùng khắp mà
bất-động.
Tôi quán tất cả
pháp
Thảy đều được rơ
ràng
Nay thấy đức
Như-Lai
Quyết-định không
nghi ngờ.
Pháp-Huệ trước đă
nói
Như-Lai
chơn-thiệt tánh,
Tôi từ đó rơ biết
Bồ-đề khó nghĩ
bàn.
Thắng-Huệ Bồ-Tát
thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :
Như-Lai đại
trí-huệ
Hi-hữu không sánh
bằng
Tất cả những
thế-gian
Tư-duy chẳng đến
được.
Phàm-phu vọng
quan-sát
Chấp tướng chẳng
đúng lư
Phật ĺa tất cả
tướng
Chẳng phải họ
biết được.
Kẻ vô-tri mê lầm
Vọng chấp tướng
ngũ-uẩn
Chẳng biết
chơn-tánh kia
Người này chẳng
thấy Phật.
Rơ biết tất cả
pháp
Đều không có
tự-tánh
Hiểu pháp-tánh
như vậy
Thời thấy
Lô-Xá-Na.
V́ do
tiền-ngũ-uẩn
Có hậu-uẩn
tương-tục
Rơ biết nơi tánh
này
Thấy Phật khó
nghĩ bàn.
Ví như báu trong
tối
Không đèn thời
chẳng thấy
Phật-pháp không
người nói
Dầu huệ chẳng
biết được.
Cũng như mắt bị
ḷa
Chẳng thấy màu
xinh đẹp
Như vậy tâm
bất-tịnh
Chẳng thấy các
phật-pháp.
Lại như mặt trời
sáng
Kẻ mù không thấy
được
Tâm không có
trí-huệ
Trọn chẳng thấy
chư Phật.
Nếu chữa hết bịnh
ḷa
Bỏ ĺa ḷng tưởng
sắc
Chẳng thấy nơi
các pháp
Thời thấy được
Như-Lai.
Nhứt-Thiết-Huệ đă
nói
Chư Phật Bồ-Đề
pháp
Tôi nghe lời ngài
nói
Được thấy
Lô-Xá-Na.
Công-Đức-Huệ
Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :
Các pháp không
chơn-thật
Vọng chấp là
chơn-thật
Cho nên các
phàm-phu
Luân-hồi ngục
sanh-tử.
Nơi ngôn từ
thuyết pháp
Tiểu trí vọng
phân-biệt
V́ thế sanh
chướng-ngại
Chẳng rơ được
tự-tâm.
Chẳng rơ được
tự-tâm
Đâu biết được
chánh-đạo
Họ do huệ
điên-đảo
Thêm lớn mọi điều
ác.
Chẳng thấy các
pháp không
Hằng thọ khổ
sanh-tử
Người này chưa có
được
Pháp-nhăn
thanh-tịnh vậy.
Xưa kia tôi thọ
khổ
V́ tôi chẳng thấy
Phật,
Nên phải tịnh
pháp-nhăn
Xem kia chỗ đáng
thấy.
Nếu được thấy nơi
Phật
Thời tâm không
chấp lấy
Người này thời
thấy được
Pháp của Phật đă
biết.
Nếu thấy Phật
chơn-pháp
Thời gọi bực
đại-trí
Người này có
tịnh-nhăn
Hay quan-sát
thế-gian.
Không thấy chính
là thấy
Hay thấy tất cả
pháp
Nơi pháp nếu có
thấy
Đây thời là không
thấy.
Tất cả các
pháp-tánh
Không sanh cũng
không diệt
Lạ thay đấng Đạo-Sư
Tự-giác hay
giác-tha.
Ngài Thắng-Huệ đă
nói
Pháp của Như-Lai
ngộ
Chúng tôi nghe
Ngài nói
Biết được Phật
chơn-tánh.
Tinh-Tấn-Huệ
Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Nếu trụ nơi
phân-biệt
Thời hư
thanh-tịnh nhăn
Thêm ngu-si,
tà-kiến
Trọn chẳng thấy
được Phật.
Nếu rơ được
tà-pháp
Như thiệt chẳng
điên-đảo,
Biết vọng vốn tự
chơn
Thấy Phật thời
thanh-tịnh.
Có thấy, thời là
nhơ
Đây thời chưa
phải thấy
Xa ĺa các kiến
chấp
Như vậy mới thấy
Phật.
Pháp ngôn-ngữ
thế-gian
Chúng-sanh vọng
phân-biệt
Biết thế đều
vô-sanh
Mới là thấy
thế-gian.
Nếu thấy 'thấy
thế-gian'
'Thấy' là tướng
thế-gian
Như thiệt đồng
không khác
Đây gọi người
chơn-kiến.
Nếu thấy đồng
không khác
Nơi vật chẳng
phân-biệt
Thấy này ĺa
phiền-năo
Vô-lậu được tự-tại.
Chỗ chư Phật khai
thị
Tất cả pháp
phân-biệt
Đây đều chẳng thể
được
V́ pháp-tánh
thanh-tịnh.
Pháp-tánh vốn
thanh-tịnh
Vô-tướng như
hư-không
Tất cả không năng
thuyết
Người trí quán
như vậy.
Xa ĺa nơi
pháp-tưởng
Chẳng thích tất
cả pháp
Đây cũng không
chỗ tu
Thấy được
Đại-Mâu-Ni.
Như ngài Đức-Huệ
nói
Đây gọi là thấy
Phật;
Chỗ có tất cả
hạnh
Thể-tánh đều
tịch-diệt.
Lúc đó Thiện-Huệ
Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Hi-hữu đại
dũng-kiện
Vô-lượng chư
Như-Lai
Ly-cấu tâm
giải-thoát
Tự độ hay độ
người.
Tôi thấy
Thế-gian-Đăng
Như thật chẳng
điên-đảo
Như trong
vô-lượng kiếp
Bực đủ trí chỗ
thấy.
Tất cả hạnh
phàm-phu
Đều mau về diệt
tận
Tánh nó như
hư-không
Nên nói là
vô-tận.
Người trí nói
vô-tận
Đây cũng không
chỗ nói.
V́ tự-tánh vô-tận
Được có nan-tư
tận.
Trong chỗ nói
vô-tận
Không chúng-sanh
được có
Biết chúng-tánh
như vậy
Thời thấy
Đại-Danh-Xưng.
Không thấy nói là
thấy
Vô-sanh nói
chúng-sanh
Hoặc thấy, hoặc
chúng-sanh
Rơ biết không
thể-tánh.
Năng-kiến cùng
sở-kiến
Kiến-giả đều
khiển trừ,
Chẳng hoại nơi
chơn-pháp
Người này rơ biết
Phật.
Nếu người rơ biết
Phật
Và pháp của Phật
nói
Thời hay chiếu
thế-gian
Như Phật
Lô-Giá-Na.
Chánh-giác khéo
khai thị
Đạo một pháp
thanh-tịnh,
Đại-Sĩ tinh-tấn
huệ
Diễn nói vô-lượng
pháp.
Hoặc có hoặc
không có
Tưởng niệm này
đều trừ
Như thế thấy được
Phật
An-trụ nơi
thiệt-tế.
Lúc đó Trí-Huệ
Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :
Tôi nghe pháp
tối-thắng
Liền sanh trí-huệ
quang
Chiếu khắp
mười-phương cơi
Đều thấy tất cả
Phật.
Trong đây không
chút vật
Chỉ có danh-tự
giả
Nếu chấp có ngă
nhơn
Thời là vào đường
hiểm.
Những phàm-phu
chấp trước
Chấp thân là
thiệt có
Phật chẳng phải
sở-thủ
Họ trọn chẳng
thấy được.
Người này không
huệ-nhăn
Chẳng thể thấy
được Phật
Ở trong vô-lượng
kiếp
Lưu chuyển biển
sanh-tử.
Hữu-tránh nói
sanh-tử
Vô-tránh là
niết-bàn
Sanh-tử và
niết-bàn
Cả hai chẳng nói
được.
Nếu theo danh-tự
giả
Chấp lấy hai pháp
này
Người này không
đúng thật
Chẳng biết Phật
diệu-đạo.
Nếu móng tưởng
như vầy :
'Đây Phật, đây
tối-thắng'
Điên-đảo chẳng
phải thật
Chẳng thấy được
Chánh-giác.
Biết được thật
thể này
Tướng chơn-như
tịch-diệt
Thời thấy đấng
Chánh-Giác
Vượt khỏi đường
ngữ-ngôn.
Ngôn ngữ nói các
pháp
Chẳng hiển được
thiệt-tướng
B́nh-đẳng mới
thấy được
Như pháp, Phật
cũng vậy.
Thời quá-khứ chư
Phật
Vị-lai và
hiện-tại
Dứt hẳn gốc
phân-biệt
Thế nên gọi là
Phật.
Chơn-Thật-Huệ
Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :
Thà thọ khổ
địa-ngục
Được nghe
hồng-danh Phật
Chẳng thích
vô-lượng vui
Mà chẳng nghe
danh Phật.
Sở-dĩ nơi thời
xưa
Chịu khổ vô-số
kiếp
Lưu chuyển trong
sanh-tử
V́ chẳng nghe
danh Phật.
Với pháp chẳng
điên-đảo
Mà hiện chứng như
thật
Ĺa các tướng ḥa
hiệp
Gọi là
Vô-Thượng-Giác.
Hiện chẳng phải
ḥa hiệp
Khứ, lai cũng như
vậy
Tất cả pháp
vô-tướng
Đây là chơn-thể
Phật.
Nếu quán được như
vậy
Các pháp nghĩa
thậm-thâm
Thời thấy tướng
chơn thật
Pháp-thân của chư
Phật.
Nơi thật thấy
chơn-thật
Chẳng thật thấy
chẳng thật
Hiểu rốt ráo như
vậy
Cho nên gọi là
Phật.
Phật-pháp chẳng
giác được
Rơ đây gọi 'giác
pháp'
Chư Phật tu như
vậy
Một pháp
bất-khả-đắc.
Biết do một nên
nhiều
Biết do nhiều nên
một
Các pháp không
chỗ tựa
Chỉ do ḥa hiệp
khởi.
Không năng-tác,
sở-tác
Chỉ từ nghiệp
tưởng sanh
Tại sao biết như
vậy
V́ khác đây không
có.
Tất cả pháp
vô-trụ
Định-xứ
bất-khả-đắc
Chư Phật trụ nơi
đây
Rốt ráo không dao
động.
Vô-Thượng-Huệ
Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :
Đấng đại-thừa
vô-thượng
Xa ĺa tưởng
chúng-sanh
Không có ai hơn
được
Nên hiệu là
Vô-Thượng.
Chỗ chư Phật đă
được
Vô-tác,
vô-phân-biệt
Thô-thần-thông
vô-sở-hữu
Vi-tế cũng như
vậy.
Cảnh chư Phật
sở-hành
Trong đó không có
số
Là chơn-pháp của Phật.
Như-Lai quang chiếu khắp
Diệt trừ những tối-tăm
Quang này chẳng có chiếu
Cũng chẳng phải không chiếu.
Nơi pháp không chỗ chấp
Không niệm cũng không nhiễm
Không trụ không xứ sở
Chẳng hoại nơi pháp-tánh.
Trong đây không có hai
Cũng lại không có một
Bực đại-trí thấy đúng
Kheó an-trụ thật lư.
Trong không, không có hai
Không hai cũng như vậy
Tam-giới tất cả không
Là chỗ thấy chư Phật.
Phàm-phu không hay biết
Phật khiến trụ chánh-pháp
Các pháp vô-sở-trụ
Ngộ đây thấy tự thân.
Chẳng thân mà nói thân
Chẳng khởi mà hiện khởi
Không thân cũng không thấy
Là Phật-thân vô-thượng.
Như ngài Thật-Huệ nói
Chư Phật diệu pháp-tánh
Nếu người nghe pháp này
Sẽ được thanh-tịnh-nhăn.
Lúc đó Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật
quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Vĩ-đại ! quang-minh lớn
Bực vô-thượng dũng kiện
V́ lợi ích quần-sanh
Mà xuất hiện thế-gian.
Phật dùng tâm đại-bi
Quan-sát khắp chúng-sanh
Thấy ở trong ba cơi
Luân-hồi thọ nhiều khổ.
Chỉ trừ đấng Chánh-Giác
Đấng Đạo-Sư đủ sức
Tất cả các Trời Người
Không ai cứu hộ được.
Nếu chư Phật Bồ-Tát
Chẳng xuất hiện thế-gian
Thời không một chúng-sanh
Có thể được an-lạc.
Như-Lai đẳng-chánh-giác
Và các chúng Thánh Hiền
Xuất hiện ở thế-gian
Cho chúng-sanh được vui.
Nếu ai thấy Như-Lai
V́ được lợi hành lớn
Nghe hiệu Phật sanh tin
Thời là tháp thế-gian.
Chúng tôi thấy Như-Lai
V́ được lợi ích lớn
Nghe diệu-pháp như vậy
Đều sẽ thành Phật-đạo.
Chư Bồ-Tát quá-khứ
Do thần-lực của Phật
Được huệ-nhăn thanh-tịnh
Rơ cảnh-giới chư Phật.
Nay thấy Lô-Xá-Na
Càng thêm thanh-tịnh-tính
Phật-trí không ngằn mé
Diễn thuyết chẳng thể hết.
Thắng-Huệ Bồ-Tát thảy
Và tôi Kiên-Cố-Huệ
Trong vô-số ức kiếp
Cũng nói chẳng thể hết.
*****