Kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật lúc sắp niết bàn
(cũng
gọi là kinh Giáo huấn để lại của Phật)
HT. Thích Trí Quang dịch
Phần Kính Phụng Di Giáo
Nhất tâm đảnh lễ Bổn sư Thích ca mâu ni phật, cùng
Phật bảo khắp cả pháp giới. Nhất tâm đảnh lễ kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật
lúc sắp niết bàn, cùng Pháp bảo khắp cả pháp giới. Nhất tâm đảnh lễ đại chúng
Tỷ kheo trong đêm Phật sắp niết bàn, cùng Tăng bảo khắp cả pháp giới.
Kính lạy đức Thế
tôn,
biển công đức vô
thượng,
thương xót độ
chúng sinh,
nên con xin qui
mạng.
Pháp tạng sâu và sạch,
tăng tiến cho hành giả
bằng pháp thế xuất thế,
con xin lạy tất cả.
Nay con nguyện thọ trì
Pháp tạng ấy của Phật,
để biết đạo phương tiện
của Bồ tát tu tập.
Biết đạo phương tiện ấy
thì Phật pháp trường tồn,
diệt trừ lỗi phàm thánh,
thành tựu lợi tự tha.
Nam mô Bổn sư Thích ca mâu ni Phật.
Kinh Giáo huấn
vắn tắt của Phật lúc sắp niết bàn
Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp lần đầu tiên hóa độ tôn giả Kiều
trần như, thuyết pháp lần cuối cùng hóa độ tôn giả Tu bạt đàla. Những người có
thể hóa độ, Ngài đã hóa độ tất cả. Hôm nay, trong rừng Sa la, giữa cây song
thọ, Ngài sắp niết bàn. Bấy giờ là lúc giữa đêm, hoàn toàn yên lặng, không một
tiếng động, Ngài đãvì các đệ tử mà nói tóm tắt những điều cốt yếu của chánh
pháp.
Các thầy
Tỷ kheo, sau khi Như lai diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới,
như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới
là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu Như lai ở đời thì cũng không khác gì tịnh
giới ấy.
Giữ tịnh
giới thì các thầy không được buôn, bán, đổi chác, sắm sửa đất nhà, nuôi người,
tôi tớ và súc vật, lo việc gieo trồng, kinh doanh tài bảo. Tất cả việc này, hãy
tránh như tránh hố lửa. Kể cả việc chặt phá cỏ cây và đào cuốc đất đai. Những
việc chế thuốc thang, coi bói tướng, coi thiên văn, đoán thời tiết, tính lịch
số, đều không thích hợp với các thầy. Các thầy hãy tiết chế cơ thể, ăn đúng thì
giờ, sống bằng cách sống trong sạch, không được tham dự thế sự, lãnh sứ mạng
liên lạc. Chú thuật, thuốc tiên, giao hảo quyền quí, và thân thiết với họ, rồi
hèn hạ, ngạo mạn, tất cả đều không được làm. Phải tự đoan tâm, chánh niệm cầu
độ. Không được che giấu lầm lỗi, tỏ ra kỳ dị để mê hoặc quần chúng. Đối với bốn
sự hiến cúng thì phải biết tự lượng và biết vừa đủ. Hễ được hiến cúng thì không
nên tích trữ.
Đó là Như
lai nói tóm tắt về sự giữ giới. Giới thì chính thuận với căn bản của sự giải
thoát, nên Như lai mệnh danh Ba la đề mộc xoa. Nhờ giới mà phát sinh thiền
định, và trí tuệ có năng lực hủy diệt thống khổ.
Thế nên, các
thầy Tỷ kheo, hãy giữ tịnh giới, đừng cho vi phạm, thiếu sót. Ai giữ tịnh giới
thì người đó có thiện pháp. Không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không thể
phát sinh. Do đó mà biết tịnh giới là chỗ yên ổn nhất, làm nơi trú ẩn cho mọi
thứ công đức.
Các thầy
Tỷ kheo, đã ở trong tịnh giới thì phải chế ngự năm thứ giác quan, không cho
phóng túng vào trong năm thứ dục lạc. Như kẻ chăn trâu, cầm gậy mà coi giữ,
không cho phóng túng, phạm vào lúa má của người. Phóng túng năm thứ giác quan,
thì không những chỉ có năm thứ dục lạc, mà có thể sẽ không còn giới hạn nào
nữa, không thể cấm chế. Như con ngựa hung hãn mà không được chế ngự bằng giây
cương, thì sẽ mang người lao xuống hầm hố. Giặc cướp làm hại, khổ chỉ một đời,
còn giặc giác quan họa đến nhiều kiếp: tai hại rất nặng, các thầy không thể
không cẩn thận. Thế nên người có trí thì chế ngự mà không theo, giữ như giữ
giặc, không cho phóng túng. Giả sử phóng túng năm thứ giác quan, thì cũng không
bao lâu ta sẽ thấy chúng tàn diệt tất cả.
Các thầy
Tỷ kheo, năm thứ giác quan do tâm chủ động, vì vậy mà các thầy lại phải thận
trọng chế ngự tâm mình. Tâm còn đáng sợ hơn cả rắn độc, thú dữ, giặc thù, lửa
dữ bùng cháy lan tràn cũng chưa đủ để ví dụ cho tâm. Như một kẻ tay bưng bát
mật mà chuyển động chạy nhảy, chỉ thấy bát mật chứ không thấy hố sâu, như thế
không khác gì voi điên mà không có móc sắt, vượn khỉ mà được cây rừng, thì sẽ
hung hăng nhảy vọt, khó mà ngăn cản; các thầy phải cấp tốc tỏa chiết, đừng cho
phóng túng. Phóng túng tâm ra thì làm tan nát việc thiện của người. Chế ngự tâm
lại một chỗ thì không việc gì không thành. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy nỗ
lực tinh tiến mà chiết phục tâm mình.
Các thầy
Tỷ kheo, thọ dụng đồ ăn thức uống, hãy coi như việc uống thuốc, ngon không ham,
dở không bỏ, vừa đủ duy trì cơ thể cho khỏi đói khát. Như ong lấy hoa, chỉ lấy
mùi vị mà không tổn thương hương sắc, người xuất gia cũng vậy. Thọ dụng cúng
phẩm của người vừa khỏi đói khát thì thôi, không được ham cầu cho nhiều, phá vỡ
thiện niệm của họ. Hãy bắt chước kẻ khôn ngoan, biết lượng sức lực con trâu của
mình chịu đựng nhiều ít, không dùng quá sức đến nỗi kiệt lực.
Các thầy Tỷ
kheo, ban ngày thì nỗ lực thực tập thiện pháp, không để thì giờ lướt mất, đầu
đêm cuối đêm cũng đừng phế bỏ, giữa đêm lại phải tụng niệm để tự tiêu trừ điều
ác, sinh trưởng điều thiện. Đừng vì lý do ngủ nghỉ mà để đời mình trôi đi,
không được một chút ích lợi. Hãy nhớ ngọn lửa vô thường đốt cháy thế gian, để
sớm cầu tự độ, đừng ham ngủ nghỉ. Giặc phiền não thường rình giết ta, dữ hơn kẻ
thù, tại sao ta có thể ngủ nghỉ mà không tự cảnh giác? Phiền não ngủ trong tâm,
cũng như rắn hổ mang màu đen nằm ngủ trong nhà, các thầy phải dùng móc sắt giữ
giới mà cấp tốc móc kéo nó ra. Rắn ngủ ra rồi mới nên yên tâm ngủ nghỉ. Không
ra mà ngủ thì thật là kẻ không biết hổ thẹn.- Sự hổ thẹn là phục sức đẹp nhất
trong mọi thứ phục sức. Như cái móc sắt, sự hổ thẹn có năng lực chế ngự mọi thứ
phi pháp của con người. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy luôn luôn biết hổ thẹn,
sỉ nhục, đừng bao giờ, dầu chỉ tạm thời mà thôi, được phép quên mất đức tính
ấy. Mất hổ thẹn là mất công đức. Có hổ thẹn là có thiện pháp, không hổ thẹn thì
không khác gì cầm thú.
Các thầy
Tỷ kheo, nếu ai cắt xả thân thể các thầy ra từng đốt, các thầy cũng phải tự kềm
chế tâm mình, đừng cho giận dữ. Lại phải giữ lấy miệng lưỡi, đừng để phát ra
lời tiếng không tốt. Tâm giận dữ nổi lên là tự hại đạo nghiệp, hư mất công đức.
Đức tính của Nhẫn, giữ giới và khổ hạnh không thể sánh bằng. Thực hành đức Nhẫn
mới được mệnh danh là bậc thượng nhân có sức mạnh. Kẻ nào không thể tiếp nhận
cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không thể được ca
tụng là người nhập đạo có trí. Tại sao, vì giận dữ thì phá hủy hết thảy thiện
pháp và danh tiếng đáng quí, hiện tại vị lai không ai muốn nhìn. Sự giận dữ hơn
cả ngọn lửa ác liệt, vì thế mà các thầy phải đề phòng một cách thường trực,
đừng cho xâm nhập tâm trí. Giặc cướp công đức không chi hơn giận dữ. Thế gian
hưởng thụ dục lạc, không phải là kẻ hành đạo, không có phương pháp để tự khống
chế, thế nên giận dữ thì còn có thể tha thứ được. Còn người xuất gia hành đạo
là kẻ loại bỏ dục vọng, vậy mà giận dữ thì thật bất đáng ; không khác gì giữa
bầu trời mây trong mát mà sấm sét lóe lửa là điều không thích hợp.
Các thầy Tỷ
kheo, hãy tự xoa đầu mình, đã bỏ sự trang sức và đồ tốt đẹp, mình mặc áo hoại
sắc, tay cầm đồ thích ứng, khất thực để sống; tự thấy như vậy mà kiêu ngạo còn
nổi lên, thì phải cấp tốc tỏa chiết. Tăng thêm kiêu ngạo là điều mà thế nhân
còn không nên có, huống chi người xuất gia nhập đạo là kẻ vì giải thoát, tự
giáng mình xuống mà đi khất thực?
Các thầy
Tỷ kheo, tâm lý dua nịnh quanh co trái ngược đạo pháp, thế nên các thầy phải
chất trực tâm mình. Phải ý thức dua nịnh quanh co chỉ để dối trá, mà người nhập
đạo thì không thể như vậy. Vì thế mà các thầy cần phải ngay thẳng tâm mình, lấy
đức tính chất trực làm căn bản.
Các thầy
Tỷ kheo, phải biết kẻ ham muốn nhiều, thì vì nhiều sự cầu lợi nên khổ não cũng
nhiều. Còn ít ham muốn thì không cầu hồ, không dục vọng, nên không có cái họa
đó. Chỉ có như thế mà thôi, sự ít ham muốn cũng đã phải thực tập, huống chi sự
ấy còn đem lại đủ các công đức. Người ít ham muốn thì không dua nịnh quanh co
để cầu được lòng người, cũng không bị các giác quan lôi kéo. Thực hành đức tính
ít ham muốn thì lòng bình thản, không lo sợ, gặp cảnh ngộ nào cũng thấy thừa
thải, không bao giờ có cảm giác thiếu thốn. Có ít ham muốn là có niết bàn. Đó
là hạnh ít ham muốn.
Các thầy Tỷ
kheo, muốn giải thoát khổ não thì các thầy hãy cứu xét sự biết vừa đủ. Chính sự
biết vừa đủ là giàu sang, vui thú và yên ổn. Biết vừa đủ thì nằm trên đất cũng
thấy vui thích, không biết vừa đủ thì ở thiên đường cũng vẫn bất mãn. Không
biết vừa đủ thì giàu mà nghèo, biết vừa đủ thì nghèo mà giàu. Không biết vừa đủ
thì luôn luôn bị cả năm thứ dục lạc lôi kéo, làm cho người biết vừa đủ phải xót
thương. Đó là hạnh biết vừa đủ.
Các thầy
Tỷ kheo, muốn cầu yên tĩnh, vô vi và an lạc, thì các thầy hãy thoát ly mọi sự
ồn ào và bối rối, ở đơn độc và ở một cách thư thái. Người ở yên tĩnh thì chúa
trời Đế thích và chư thiên đều tôn kính. Vì thế mà các thầy hãy thoát ly đồ
chúng của mình, và đồ chúng của người, ở đơn độc, thư thái và thanh vắng, dùng
"tư duy tu" mà cắt đứt gốc rễ đau khổ. Nếu thích đồ chúng thì sẽ bị
đồ chúng quấy phá, như cây đại thọ mà cả bầy chim chóc tập hợp lại thì vẫn bị
cái họa khô gãy. Thế gian ràng buộc mà chìm ngập thống khổ, thì cũng không khác
gì voi già mà sa xuống bùn lầy, hết mong thoát khỏi. Đó là hạnh siêu thoát.
Các thầy
Tỷ kheo, nỗ lực tinh tiến thì không có việc gì khó khăn. Thế nên các thầy phải
thực hành sự nỗ lực tinh tiến. Nước nhỏ mà chảy mãi thì có thể xuyên thủng cả
đá. Nếu người hành đạo mà hay biếng nhác phế bỏ, thì cũng như kéo lửa chưa nóng
mà đã ngừng, dầu thiết tha có lửa, lửa cũng khó mà có được. Đó là hạnh tinh
tiến.
Các thầy Tỷ
kheo, cầu thiện tri thức, cầu thiện hộ trì và cầu thiện hỗ trợ, đều không bằng
không quên chánh niệm. Không quên chánh niệm thì giặc phiền não hết cách xâm
nhập tâm trí. Thế nên các thầy hãy luôn luôn tập trung chánh niệm lại nơi tâm
trí. Mất chánh niệm là mất công đức. Nếu chánh niệm có sức lực vững mạnh, thì
dẫu phải vào trong đám giặc ngũ dục, cũng không bị chúng sát hại; tựa như tướng
sĩ lâm trận mà mặc áo giáp lát đồng, thì không còn sợ hãi gì nữa. Đó là hạnh
không quên chánh niệm.
Các thầy
Tỷ kheo, tập trung tâm lại thì tâm sẽ ở trong thiền định. Tâm ở trong thiền
định thì có thể thấu triệt trạng thái chuyển biến của vũ trụ. Vì thế mà các
thầy phải luôn luôn tinh tiến, nỗ lực thực tập thiền định. Thiền định được thì
tâm hết tán loạn. Tiếc nước thì phải đắp đê sửa bờ cho khéo, hành giả cũng vậy,
hãy vì nước trí tuệ mà thực tập thiền định để giữ cho nó khỏi chảy mất. Đó là
hạnh thiền định.
Các thầy
Tỷ kheo, có trí tuệ thì hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh và tự dò xét, không
để lầm lỗi có thể có được, như thế là trong chánh pháp của Như lai, người ấy có
khả năng thực hiện giải thoát. Không như thế thì đã không phải xuất gia, lại
không phải thế tục, không còn biết gọi là gì. Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền
chắc nhất vượt biển sinh lão bịnh tử, là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô
minh, là thần dược cho mọi kẻ bịnh tật, là búa sắc chặt cây phiền não. Vì thế
mà các thầy hãy dùng cái tuệ văn tư tu chứng để tự tăng tiến ích lợi. Có trí
tuệ soi chiếu, thì dẫu mắt thịt, cũng vẫn là kẻ thấy rõ nhất. Đó là hạnh trí
tuệ.
Các thầy
Tỷ kheo, nếu hý luận đủ thứ thì tâm trí rối loạn. Như vậy, tuy đã xuất gia mà
chưa được siêu thoát. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy từ bỏ tức khắc sự hý luận
rối loạn tâm trí. Các thầy muốn thực hiện cái vui tịch diệt, thì chỉ có cách
cấp tốc diệt trừ cái họa hý luận. Đó là hạnh không hý luận.
Các thầy Tỷ
kheo, đối với mọi thứ công đức, các thầy hãy thường xuyên nhất tâm tu tập,
tránh sự phóng dật như tránh giặc thù. Thể hiện lòng đại bi, Như lai đã nói
chánh pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành.
Hoặc trong rừng núi, hoặc cạnh đầm vắng, hoặc dưới đại thọ, các thầy hãy ở một
cách thư thái, trong tịnh thất nhỏ, nhớ và chiêm nghiệm chánh pháp đã tiếp
nhận, đừng để quên mất. Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu
tập, đừng để đời mình sẽ chết đi một cách vô ích, vàsau này sẽ phải lo sợ hối
hận. Như lai như vị lương y, biết bịnh mà chỉ thuốc, còn uống hay không, không
phải lỗi của lương y. Lại như người dẫn đường rất tốt,chỉ dẫn đường tốt cho
người, nhưng nghe rồi mà không đi, thì không phải lỗi của người dẫn đường.
Các thầy
Tỷ kheo, đối với bốn chân lý, các thầy còn hoài nghi chỗ nào thì có thể chất
vấn tức khắc, không được giữ sự hoài nghi mà không cầu giải đáp. Thế tôn nói
lên ba lần như vậy, nhưng không ai chất vấn. Vì lẽ chư Tăng không có ai còn
hoài nghi gì nữa. Bấy giờ tôn giả A nâu lâu đà quán sát tâm trí chư Tăng, rồi
thưa với Ngài, bạch đức Thế tôn, mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có
thể làm cho lạnh đi, nhưng bốn chân lý mà đức Thế tôn đã dạy thì không thể làm
cho khác đi được. Ngài dạy khổ thì thật là khổ, không thể làm cho vui lên; tập
là nguyên nhân của khổ, thì không còn có nguyên nhân nào khác nữa; diệt là khổ
diệt vì nguyên nhân đã diệt, mà nguyên nhân diệt thì kết quả cũng diệt ; đạo là
phương pháp diệt khổ nên thật là đạo, không có đạo nào khác hơn. Bạch đức Thế
tôn, đối với bốn chân lý,các vị Tỷ kheo đây đã quyết định, không còn hoài nghi
gì nữa.
Chư Tăng
lúc ấy, những người tu học chưa hoàn tất, thì thấy Phật diệt độ hãy còn bi cảm.
Những người mới vào chánh pháp, nghe Phật nói liền được hóa độ, như trong đêm
tối mà điện chớp sáng là thấy ngay đường đi. Còn những người tu học đã hoàn
tất, đã vượt qua biển khổ, thì chỉ nghĩ rằng, đức Thế tôn diệt độ sao mà mau
chóng như vậy.
Do đó,
tôn giả A nâu lâu đà tuy đã bạch Phật, rằng chư Tăng ai cũng thấu triệt bốn
chân lý, nhưng đức Thế tôn muốn làm cho tất cả đều được kiên định, nên vẫn đem
tâm đại bi mà huấn dụ thêm nữa. Các thầy Tỷ kheo, không nên buồn rầu ; nếu Như
lai ở đời lâu đến một đại kiếp đi nữa, thì sự kết hợp nào rồi cũng phải tan rã.
Kết hợp mà không tan rã là điều không thể có được. Chánh pháp tự lợi lợi tha đã
có đầy đủ. Như lai sống cho lâu cũng không còn ích lợi gì nữa. Ai có khả năng
tiếp nhận hóa độ, thì ở trên chư thiên hay ở trong nhân loại, Như lai đã hóa độ
tất cả. Ai chưa thể tiếp nhận hóa độ, thì Như lai cũng đã tạo yếu tố hóa độ cho
họ. Từ nay về sau, đệ tử của Như lai hãy triển chuyển thực hành. Như thế là
pháp thân của Như lai thường trú bất diệt.
Thế nên,
các thầy Tỷ kheo, phải ý thức toàn bộ cuộc đời là chuyển biến vô thường, có kết
hợp thì có tan rã, đừng lo buồn gì cả. Ngược lại, cuộc đời như thế thì các thầy
phải nỗ lực tinh tiến để sớm cầu tự độ, đem ánh sáng trí tuệ diệt trừ hắc ám vô
minh. Vũ trụ quả thật mong manh, không một thứ chi bền bỉ. Như lai được diệt độ
thì cũng như trừ được cơn bịnh khủng khiếp. Đây là vật tội ác và đáng bỏ,giả
hiệu là thân thể mà lại chìm ngập trong biển cả già bịnh sống chết, như thế
người có trí tuệai lại không hoan hỷ khi trừ bỏđược thân này như trừ bỏ kẻ thù?
Các thầy
Tỷ kheo, hãy thường nhất tâm, nỗ lực cần cầu tuệ giác giải thoát. Toàn thể vũ
trụ, dầu pháp biến động hay pháp bất động, đều là trạng thái bất an và tan rã.
Thôi, các thầy hãy yên lặng, không nên nói nữa. Thì giờ sắp hết, Như lai muốn
diệt độ. Trên đây là những lời giáo huấn tối hậu của Như lai.
Nam mô Bổn sư
Thích ca mâu ni phật.
Đệ tử chúng con
kính tụng di giáo
của đức Thế tôn
lúc sắp niết bàn.
Kinh Di giáo này
là pháp tối thượng
trong những khả năng
duy trì Phật pháp.
Đệ tử chúng con
nhờ phước quá khứ
mới được xuất gia
và tụng kinh này.
Nguyện cầu chúng con
giới hạnh an
toàn,
lại cầu chư Tăng
giới pháp thanh
tịnh.
Làm cho Phật pháp
tồn tại lâu dài,
tự lợi lợi tha,
chứng pháp tối
thượng.
Nhất tâm đảnh lễ Bổn sư Thích ca mâu ni phật, cùng Phật bảo
khắp cả pháp giới. Nhất tâm đảnh lễ kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật lúc sắp
niết bàn, cùng Pháp bảo khắp cả pháp giới. Nhất tâm đảnh lễ đại chúng Tỷ kheo
trong đêm Phật sắp niết bàn, cùng Tăng bảo khắp cả pháp giới.
---o0o---