PHÁP HỘI PHỔ MINH BỒ TÁT
THỨ BỐN MƯƠI BA
Hán dịch : Nhà Đường, Ma Ha Pháp Sư
Việt dịch : Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vầy tôi nghe, một lúc Đức Phật ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng chúng đại Tỳ Kheo tám ngàn người câu hội. Đại Bồ Tát vạn sáu ngàn người đều là bực bất thối chuyển từ các Phật độ đến họp, đều là bực nhất sanh thành Phật.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Trưởng Lăo Ma Ha Ca Diếp: " Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn pháp thối thất trí huệ:
Một là chẳng tôn trọng pháp chẳng kính pháp sư.
Hai là được thọ thâm pháp bí ẩn chẳng nói hết.
Ba là có người ưa thích pháp th́ làm chướng nạn nói các nhơn duyên làm trở hoại ḷng họ.
Bốn là kiêu mạn tự cao ti hạ người khác.
Đây là Bồ Tát bốn pháp thối thất trí huệ.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn pháp được đại trí huệ:
Một là thường tôn trọng pháp cung kính pháp sư,
Hai là tùy theo pháp được nghe dùng tâm thanh tịnh mà rộng giảng nói cho người chẳng cầu tất cả danh văn lợi dưỡng,
Ba là biết rằng từ đa văn mà sanh trí huệ nên siêng cầu chẳng lười như cứu cháy đầu,
Bốn là nghe kinh tụng tŕ thích như thuyết thật hành chẳng theo ngôn thuyết.
Đây là Bồ Tát bốn pháp được đại trí huệ.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn pháp mất tâm Bồ Đề:
Một là khi dối sư trưởng chẳng cung kính kinh pháp đă thọ,
Hai là chỗ không có nghi hối mà làm người khác nghi hối,
Ba là người cầu Đại thừa mắng rầy chê bai bêu xấu họ,
Bốn là dùng tâm siểm khúc mà tùng sự nơi người.
Đây là Bồ Tát bốn pháp mất tâm Bồ Đề.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát bốn pháp đời đời chẳng mất tâm Bồ Đề nhẫn đến lúc ngồi đạo tràng tự nhiên hiện tiền:
Một là dầu là nhơn duyên mất mạng cũng chẳng vọng ngữ huống là chơi cười,
Hai là thường dùng trực tâm tùng sự cho người rời ĺa siểm khúc,
Ba là đối với chư Bồ Tát tưởng là Phật hay xưng dương danh hiệu các Ngài khắp bốn phương,
Bốn là tự ḿnh chẳng yêu thích pháp Tiểu thừa có giáo hóa ai đều khiến họ an trụ Vô Thượng Bồ Đề.
Đây là Bồ Tát bốn pháp chẳng mất tâm Bồ Đề nhẫn đến đạo tràng tự nhiên hiện tiền.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn pháp mà pháp lành đă được sanh phải mất chẳng tăng trưởng:
Một là dùng tâm kiêu mạn đọc tụng tu học kinh lộ già gia,
Hai là ḷng tham lợi dưỡng đến nhà đàn việt,
Ba là ghét và hủy báng Bồ Tát,
Bốn là với kinh chưa nghe th́ trái nghịch chẳng tin.
Đây là Bồ Tát bốn pháp làm mất chẳng tăng trưởng pháp lành đă sanh.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn pháp mà pháp lành được sanh tăng trưởng chẳng mất:
Một là bỏ ĺa tà pháp cầu chánh kinh điển lục Ba la mật Bồ Tát pháp tạng,
Hai là ḷng không kiêu mạn. Đối với chúng sanh khiêm ti hạ hạ,
Ba là như pháp được bố thí biết vừa biết đủ ĺa các tà mạng, an trụ thánh chủng,
Bốn là chẳng bêu tội lỗi hư thiệt của người, chẳng cầu chỗ dở của người, nếu ở các pháp ḷng ḿnh chẳng thông đạt th́ nghĩ rằng: Phật pháp vô lượng tùy chỗ thích của chúng sanh mà thuyết pháp cho họ, chỉ có Phật biết chẳng phải chỗ hiểu của tôi, lấy Phật làm chứng mà chẳng sanh ḷng trái nghịch.
Đây là Bồ Tát bốn pháp mà pháp lành đă sanh th́ tăng trưởng chẳng mất.
Nầy Đại Ca Diếp! Có bốn tâm siểm khúc mà Bồ Tát phải xa ĺa:
Một là ở trong Phật pháp th́ sanh ḷng nghi hối,
Hai là đối với chúng sanh th́ kiêu mạn sân hận,
Ba là với lợi dưỡng của người th́ sanh ḷng tật đố,
Bốn là mắng chửi Bồ Tát bêu tiếng xấu các Ngài.
Đây là bốn tâm siểm khúc mà Bồ Tát phải xa ĺa.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn tướng trực tâm:
Một là có phạm tội không phú tàng mà phát lộ với người ḷng không phiền muộn,
Hai là nếu mất nước thân mạng tài sản, gặp lúc sự việc gấp ấy cũng chẳng vọng ngữ chẳng nói khác,
Ba là tất cả sự ác hủy báng mắng nhiếc đánh đập trói buộc, lúc bị các sự khổ nạn như vậy chỉ tự trách ḿnh tự y theo nghiệp báo chẳng giận hờn người,
Bốn là an trụ tín lực nếu nghe Phật pháp thậm thâm khó tin th́ tin ḿnh thanh tịnh có thể đều thọ tŕ cả.
Đây là Bồ Tát có bốn tướng trực tâm.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn tướng bại hoại:
Một là đọc tụng kinh điển mà sanh hí luận chẳng thật hành theo pháp,
Hai là chẳng có thể cung kính phụng thuận sư trưởng khiến ḷng các Ngài vui đẹp,
Ba là làm tổn sự cúng dường của người tự trái bổn thệ mà thọ tín thí,
Bốn là Bồ Tát tốt th́ khinh mạn bất kính.
Đây là Bồ Tát có bốn tướng bại hoại.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn tướng thiện thuận:
Một là kinh chưa được nghe, nghe rồi tín thọ thật hành như lời y chỉ nơi pháp chẳng y theo ngôn thuyết,
Hai là tùy thuận sư giáo hay biết ư chỉ dễ dàng cùng thưa nói chỗ làm đều hay giỏi chẳng sai ư sư trưởng,
Ba là chẳng thối giới định dùng tâm điều thuận mà thọ cúng dường,
Bốn là thấy Bồ Tát tốt th́ cung kính yêu thích tùy thuận người lành bẩm thọ đức hạnh.
Đây là Bồ Tát có bốn tướng điều thuận.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn tướng sai lầm:
Một là với người chẳng tin được mà đồng ư với họ,
Hai là với chúng sanh phi khí mà thuyết pháp thậm thâm,
Ba là với người thích Đại thừa lại tán thán Tiểu thừa cho họ,
Bốn là lúc bố thí chỉ cho người tŕ giới người lành mà không cho người ác.
Đây là Bồ Tát có bốn tướng sai lầm.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn chánh đạo:
Một là đối với chúng sanh có tâm b́nh đẳng,
Hai là khắp giáo hóa chúng sanh đồng dùng Phật huệ,
Ba là đối với chúng sanh b́nh đẳng thuyết pháp,
Bốn là khắp làm cho chúng sanh đồng an trụ chánh hạnh.
Đây là Bồ Tát có bốn chánh đạo.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn chẳng phải thiện tri thức, chẳng phải thiện đẳng lữ:
Một là người cầu Thanh Văn chỉ muốn tự lợi,
Hai là người cầu Duyên Giác vui thích ít sự,
Ba là đọc ngoại điển Lộ Già Gia Tỳ văn từ nghiêm sức,
Bốn là người được thân cận chỉ thêm thế lợi chẳng lợi ích chánh pháp.
Đây là Bồ Tát có bốn phi thiện tri thức phi thiện đẳng lữ.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn thiện tri thức bốn thiện đẳng lữ:
Một là người đến cầu xin cầu học là thiện tri thức v́ là nhơn duyên Phật đạo,
Hai là người khác khiến xuất gia là thiện tri v́ sanh trí huệ,
Ba là người hay bảo người khác khiến xuất gia là thiện tri thức v́ tăng trưởng thiện pháp,
Bốn là chư Phật Thế Tôn là thiện tri thức v́ tăng trưởng tất cả Phật pháp vậy.
Đây là Bồ Tát bốn thiện tri thức bốn thiện đẳng lữ.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn phi Bồ Tát mà tợ Bồ Tát:
Một là tham cầu lợi dưỡng mà chẳng cầu pháp,
Hai là tham cầu danh xưng mà chẳng cầu phước đức,
Ba là tham cầu tự vui mà chẳng cứu chúng sanh để diệt pháp khổ,
Bốn là thích tụ họp đồ chúng mà chẳng thích xa ĺa.
Đây là bốn phi Bồ Tát mà tợ Bồ Tát.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn chơn thiệt Bồ Tát:
Một là hay tin hiểu không mà cũng tin nghiệp báo,
Hai là biết tất cả pháp không có ngô ngă mà đối với chúng sanh khởi tâm đại bi,
Ba là rất thích Niết Bàn mà đi trong sanh tử,
Bốn là thật hành xả thí đều v́ chúng sanh mà chẳng cầu báo.
Đây là bốn chơn thiệt Bồ Tát.
Nầy Đại ca Diếp! Bồ Tát có bốn đại tạng:
Một là nếu Bồ Tát được gặp chư Phật,
Hai là hay nghe sáu Ba la mật và nghĩa giải ấy,
Ba là dùng tâm vô ngại nh́n người thuyết pháp,
Bốn là thích hạnh viễn ly tâm không giải đăi.
Đây là Bồ Tát có bốn đại tạng.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn pháp hay quá ma sự:
Một là thường chẳng bỏ rời tâm Bồ Đề,
Hai là đối chúng sanh ḷng không giận hại,
Ba là biết rơ các tri kiến,
Bốn là ḷng chẳng khinh tiện tất cả chúng sanh.
Đây là Bồ Tát bốn pháp hay vượt khỏi ma sự.
Nầy Đại Ca Diếp ! Bồ Tát có bốn pháp nhiếp các thiện căn:
Một là ở tại chỗ không nhàm rời ĺa tâm siểm khúc,
Hai là ở trong các chúng sanh hành bốn nhiếp pháp mà chẳng cầu báo,
Ba là v́ cầu pháp nên chẳng tiếc thân mạng,
Bốn là tu các thiện căn ḷng không chán đủ.
Đây là Bồ Tát bốn pháp nhiếp các thiện căn.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn vô lượng phước đức trang nghiêm:
Một là dùng tâm thanh tịnh mà thật hành pháp thí,
Hai là ở nơi người phá giới sanh ḷng đại bi,
Ba là ở trong các chúng sanh ca ngợi tuyên dương tâm Bồ Đề,
Bốn là đối với những kẻ hạ liệt th́ tu tập nhẫn nhục.
Đây là Bồ Tát có bốn vô lượng phước đức trang nghiêm.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Gọi là Bồ Tát ấy chẳng phải chỉ danh tự là Bồ Tát mà người hay thật hành pháp lành, thật hành tâm b́nh đẳng th́ gọi là Bồ Tát. Lược nói người thành tựu được ba mươi hai pháp th́ gọi là Bồ Tát:
Một là thường v́ chúng sanh thâm cầu an lạc đều làm cho họ được an trụ trong Nhứt thiết trí,
Hai là ḷng chẳng ganh ghét trí huệ của người,
Ba là phá hoại kiêu mạn,
Bốn là rất thích Phật đạo,
Năm là yêu kính không luống thân hậu cứu cánh,
Sáu là ở trong oán thân tâm ḿnh đồng đều đến nơi Niết Bàn,
Bảy là lúc nói thường mỉm cười để ư thăm hỏi trước,
Tám là công việc được làm chẳng nghỉ giữa chừng,
Chín là khắp v́ chúng sanh mà b́nh đẳng hành đại bi ḷng không nhàm mỏi,
Mười là đa văn không chán,
Mười một là tự t́m lỗi ḿnh chẳng nói lỗi người,
Mười hai là dùng tâm Bồ Đề hành các oai nghi,
Mười ba là ban ơn cho người chẳng cầu báo đáp,
Mười bốn là chẳng y nơi chỗ sanh mà hành tŕ giới,
Mười lăm là ở trong các chúng sanh hành vô ngại nhẫn,
Mười sáu là v́ tu tất cả thiện căn mà hành tinh tiến,
Mười bảy là rời ĺa sanh cơi Vô Sắc mà phát khởi thiền định,
Mười tám là hành phương tiện huệ ứng dụng bốn nhiếp pháp,
Mười chín là với chúng sanh thiện hay ác đều từ tâm vô úy,
Hai mươi là nhứt tâm nghe pháp,
Hai mươi mốt là tâm an trụ viễn ly,
Hai mươi hai là tâm chẳng thích ham các sự thế gian,
Hai mươi ba là chẳng tham Tiểu thừa,
Hai mươi bốn là ở trong Đại thừa thường thấy lợi ích lớn,
Hai mươi lăm là ĺa ác tri thức thân cận thiện hữu,
Hai mươi sáu là thành bốn phạm hạnh,
Hai mươi bảy là du hí thần thông,
Hai mươi tám là thường y chơn trí,
Hai mươi chín là ở nơi chánh hạnh được các chúng sanh thật hành đều chẳng vứt bỏ,
Ba mươi là lời nói thường quyết định,
Ba mươi mốt là quí pháp chơn thiệt,
Ba mươi hai là tất cả việc làm đều lấy Bồ Đề làm đầu.
Nếu người có ba mươi hai pháp nầy th́ gọi là Bồ Tát.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát phước đức vô lượng vô biên nên dùng thí dụ nhơn duyên để rơ biết.
Ví như đại địa, tất cả chúng sanh thọ dùng mà không tâm phân biệt chẳng cầu họ báo đáp. Cũng vậy, Bồ Tát từ sơ phát tâm đến ngồi đạo tràng, tất cả chúng sanh đều nhờ lợi ích, mà Bồ Tát tâm không phân biệt chẳng cầu báo đáp.
Ví như thủy chủng, tất cả lúa mạ cỏ cây đều được tăng trưởng. Cũng vậy, Bồ Tát v́ tự tâm thanh tịnh nên từ bi trùm khắp tất cả chúng sanh đều khiến tăng trưởng tất cả pháp lành.
Ví như hỏa chủng đều có thể thành thục tất cả trái hột của lúa cây. Cũng vậy, trí huệ của Bồ Tát đều có thể thành thục tất cả pháp lành.
Ví như phong chủng có thể thành lập tất cả thế giới. Cũng vậy, Bồ Tát phương tiện đều có thể thành lập tất cả Phật pháp.
Ví như mặt nguyệt từ lúc sơ sanh ánh sáng h́nh sắc của nó ngày ngày tăng trưởng. Cũng vậy, Bồ Tát tịnh tâm tất cả pháp lành ngày ngày tăng trưởng.
Ví như mặt nhựt lúc mới mọc đồng thời phóng quang chiếu sáng khắp nơi cho chúng sanh. Cũng vậy, Bồ Tát phóng trí huệ quang đồng thời chiếp khắp tất cả chúng sanh.
Ví như sư tử thú vương đến chỗ nào cũng chẳng kinh chẳng sợ. Cũng vậy, Bồ Tát tŕ giới thanh tịnh trí huệ chơn thiệt ở chỗ nào cũng đều chẳng kinh chẳng sợ.
Ví như tượng vương khéo điều thuận th́ có thể làm xong việc lớn nặng mà thân chẳng mệt nhọc. Cũng vậy, Bồ Tát v́ khéo điều tâm nên có thể v́ chúng sanh làm lợi ích lớn tâm không mỏi nhọc.
Ví như các hoa sen sanh trong nước mà nước chẳng dính được. Cũng vậy, Bồ Tát sanh giữa thế gian mà pháp thế gian chẳng ô nhiễm được.
Ví như có người đốn cây v́ c̣n gốc nên lại mọc. Cũng vậy, Bồ Tát v́ có sức phương tiện nên dầu đoạn kiết sử mà c̣n có thiện căn ái nên lại sanh trong tam giới.
Ví như những ḍng nước các phương chảy vào biển th́ đều thành một vị. Cũng vậy, Bồ Tát dùng nhiều pháp môn họp các thiện căn hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề đều thành một vị.
Ví như núi Tu Di, chư Thiên Trời Đao Lợi và Trời Tứ Thiên Vương đều nương đó mà ở. Cũng vậy, tâm Bồ Đề của Bồ Tát làm chỗ nương ở cho Nhứt Thiết Trí.
Ví như có đại quốc vương do sức các quan mà xong việc nước. Cũng vậy, trí huệ của Bồ Tát do sức phương tiện nên đều thành tựu được tất cả Phật sự.
Ví như lúc tạnh sáng sạch không có mây mù ắt không có tướng mưa. Cũng vậy, Bồ Tát quả văn không có tướng pháp vũ.
Ví như lúc trời đầy mây âm u ắt có thể mưa xuống đầy đủ cho chúng sanh. Cũng vậy, Bồ Tát từ mây đại bi khởi mưa đại pháp lợi ích chúng sanh.
Ví như Chuyển Luân Vương xuất hiện nơi nào th́ có thất bửu. Cũng vậy, lúc Bồ Tát xuất hiện th́ ba mươi bảy phẩm trợ đạo xuất hiện thế gian.
Ví như châu Như Ư Bửu ở chỗ nào th́ có vô lượng kim ngân trân bửu. Cũng vậy, Bồ Tát xuất hiện ở nơi nào th́ có trăm ngàn vô lượng bửu Thanh Văn, Duyên Giác.
Ví như chư Thiên Trời Đao Lợi vào vườn Đồng đẳng th́ chỗ thọ dụng đều đồng đẳng. Cũng vậy, v́ Bồ Tát tâm chơn tịnh nên ở trong chúng sanh b́nh đẳng giáo hóa.
Ví như sức chú thuật và thuốc làm cho độc chẳng hại người. Cũng vậy, do sức trí huệ mà Bồ Tát kiết độc chẳng đọa ác đạo.
Ví như vật dơ uế phế thải trong đại thành mà đem đổ vào ruộng mía ruộng nho th́ có lợi ích. Cũng vậy, Bồ Tát kiết sử c̣n thừa đều là nhơn duyên lợi ích Nhứt Thiết Trí.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát thường muốn học kinh Đại Bửu Tích này th́ phải thường tu tập chánh quán các pháp. Thế nào là chánh quán? Đó là chơn thiệt tư duy các pháp. Người chơn thiệt chánh quán th́ chẳng quán ngă nhơn chúng sanh thọ mạng. Đây gọi là trung đạo chơn thiệt chánh quán.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Người chơn thiệt quán th́ quán sắc chẳng phải thường chẳng phải vô thường, quán thọ tưởng hành và thức chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường. Đây gọi là trung đạo chơn thiệt chánh quán.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Người chơn thiệt quán th́ quán địa chủng chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường, quán thủy hỏa và phong chủng chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường. Đây gọi là trung đạo chơn thiệt chánh quán.
Tại sao vậy? V́ thường là một bên, vô thường là một bên, c̣n giữa thường và vô thường th́ không có sắc không có h́nh không có danh không có tri giác, đây gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Ngă là một bên, vô ngă là một bên, c̣n giữa ngă và vô ngă th́ không có sắc không có h́nh không có danh không có tri giác, đây gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Nếu tâm có thiệt th́ là một bên nếu tâm phi thiệt cũng là một bên, nếu không có tâm thức cũng không có tâm số pháp, đây gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Như thế th́ pháp thiện và pháp bất thiện, pháp thế gian và pháp xuất thế gian, pháp có tội và pháp không có tội, pháp hữu lậu và pháp vô lậu, pháp hữu vi và pháp vô vi, nhẫn đến pháp có cấu uế và pháp không có cấu uế cũng đều như vậy, rời ĺa hai bên mà chẳng thể thọ được cũng chẳng thể nói được, đây gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Hữu là một bên, vô cũng là một bên, c̣n giữa hữu và vô th́ không có sắc không có h́nh không có danh không có tri giác, đây gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Nầy Đại Ca Diếp! Thập nhị nhơn duyên đă được ta thuyết pháp: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lăo tử ưu bi khổ năo.
Nhơn duyên như vậy chỉ là họp lại thành, là khối đại khổ. Nếu vô minh diệt th́ hành diệt, hành diệt th́ thức diệt, thức diệt th́ danh sắc diệt, danh sắc diệt th́ lục nhập diệt, lục nhập diệt th́ xúc diệt, xúc diệt th́ thọ diệt, thọ diệt th́ ái diệt, ái diệt th́ thủ diệt, thủ diệt th́ hữu diệt, hữu diệt th́ sanh diệt, sanh diệt th́ lăo tử ưu bi khổ năo diệt mà khối đại khổ diệt. Minh cùng vô minh không có hai không có khác. Biết rơ như vậy th́ gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Như thế th́ hành và phi hành, thức và sở thức, danh sắc thấy được và chẳng thấy được, các lục nhập xứ và lục thần thông, xúc và sở xúc, thọ và thọ diệt, ái và ái diệt, thủ và thủ diệt, hữu và hữu diệt, sanh và sanh diệt, lăo tử và lăo tử diệt, đều không hai không khác. Biết rơ như vậy th́ gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Người chơn thiệt quán, chẳng do v́ không khiến các pháp không mà pháp tánh tự không, chẳng do v́ vô tướng khiến các pháp vô tướng mà các pháp tự vô tướng, chẳng do v́ vô nguyện khiến các pháp vô nguyện mà các pháp tự vô nguyện, chẳng do v́ vô khởi vô sanh vô ngă vô thủ vô tánh khiến các pháp vô khởi đến vô tánh mà các pháp tự vô khởi đến vô tánh. Người quán như vậy gọi là thiệt quán.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Chẳng phải v́ vô nhơn nên gọi là không mà không nó tự không: tiền tế không, hậu tế không, trung tế cũng không. Nên y nơi không chớ y nơi nhơn. Nếu do được không bèn y nơi không th́ nơi Phật pháp là thối đọa vậy.
V́ thế nên, nầy Đại Ca Diếp! Thà khởi ngă kiến chứa bằng núi Tu Di mà chẳng lấy Không-kiến khởi tăng thượng mạn.
Tại sao vậy, v́ tất cả kiến chấp do nơi không mà được thoát, nếu khởi không kiến th́ chẳng thể trừ được.
Ví như y sư cho thuốc khiến bịnh chuyển động, thuốc ấy ở trong thân người bịnh mà không ra ngoài, nầy Đại Ca Diếp, ư ông thế nào, người bịnh ấy được lành chăng?
- Bạch Đức Thế Tôn! Không lành, thuốc ấy chẳng ra ngoài th́ bịnh càng tăng.
- Nầy Đại Ca Diếp! Cũng vậy, tất cả kiến chấp duy không là có thể trừ diệt, nếu khởi không kiến th́ chẳng trừ được.
Ví như có người sợ hư không kêu khóc đấm ngực mà la lên rằng: Tôi bỏ hư không. Nầy Đại Ca Diếp! Ư ông thế nào, hư không ấy có bỏ được chăng?
- Bạch Đức Thế Tôn! Không bỏ được.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu ai sợ pháp không th́ ta bảo người ấy cuồng loạn thất tâm. V́ họ thường đi trong pháp không mà lại sợ pháp không vậy.
Ví như họa sư tự tay họa tượng quỉ Dạ Xoa, rồi thấy tượng quỉ lại kinh sợ mê muội té xuống đất. Cũng vậy, tất cả phàm phu tự tạo sắc thanh hương vị xúc nên qua lại sanh tử thọ các khổ năo mà chẳng tự hay biết.
Ví như huyễn sư tự hóa người huyễn rồi trở lại tự tàn hại. Cũng vậy, Tỳ Kheo có pháp được quán đều không đều tịch không có kiên cố, quán ấy cũng không.
Ví như hai khúc gỗ cọ nhau có lửa phát sanh trở lại đốt cháy khúc gỗ ấy. Cũng vậy, do chơn thiệt quán nên sanh thánh trí, thánh trí sanh rồi trở lại đốt tiêu thiệt quán.
Ví như thắp đèn th́ tối tăm tự không có, tối ấy không từ đâu lại đi cũng không đến đâu, chẳng phải từ phương Đông lại đi cũng chẳng đến Nam Tây Bắc tứ duy trên dưới, chẳng từ kia lại đi cũng chẳng đến đâu. Ánh sáng đèn nầy không có quan niệm tôi hay diệt tối. Chỉ v́ đèn sáng mà không tối. Sáng và tối đều không, vô tác, vô thủ. Cũng vậy, lúc thiệt trí sanh th́ vô trí diệt. Trí và vô trí đều không vô tác,vô thủ.
Ví nhà tối suốt ngàn năm chưa từng thấy ánh sáng, nếu lúc thắp đèn, nầy Đại Ca Diếp, ư ông thế nào, bóng tối ấy chừng có quan niệm rằng tôi ở đây đă lâu chẳng muốn đi chăng?
- Bạch Đức Thế Tôn! Không, nếu lúc thắp đèn, tối ấy vô lực ắt phải diệt mất.
- Nầy Đại Ca Diếp! Cũng vậy, trăm ngàn vạn kiếp đă kiết nghiệp từ lâu, dùng nhứt thiệt quán sát th́ liền tiêu diệt. Ánh sáng đèn kia là thánh trí vậy, bóng tối kia là kiết nghiệp vậy.
Ví như hột giống mà ở hư không th́ chẳng bao giờ sanh trưởng được. Cũng vậy, Bồ Tát thủ chứng th́ chẳng bao giờ tăng trưởng Phật pháp được.
Ví như hột giống mà ở tại ruộng tốt th́ hay sanh trưởng. Cũng vậy, Bồ Tát có các kiết sử rời ĺa thế gian pháp có thể tăng trưởng Phật pháp.
Ví như đất khô cao nguyên chẳng sanh hoa sen. Cũng vậy Bồ Tát ở trong vô vi chẳng sanh Phật pháp.
Ví như trong bùn nước ướt thấp sanh hoa sen. Cũng vậy Bồ Tát ở trong sanh tử tà định chúng sanh hay sanh Phật pháp.
Ví như có bốn đại hải, trong ấy, đầy sanh tô. Cũng vậy, Bồ Tát hữu vi thiện căn nhiều vô lượng.
Ví như chẻ sợi lông ra làm trăm phần, lấy một phần lông chấm một giọt nước trong biển. Cũng vậy, tất cả hành Thanh Văn thiện căn hữu vi cũng rất ít như vậy.
Ví như lỗ rỗng trống của một hột cải nhỏ. Trí huệ hữu vi của tất cả hành Thanh Văn cũng nhỏ như vậy.
Ví như khoảng không gian mười phương vô lượng vô biên. Bồ Tát hữu vi trí huệ năng lực cũng vô lượng như vậy.
Ví như Đại Vương ḍng Sát Lợi có đại phu nhơn thông dâm với kẻ bần tiện mang thai sanh con trai, nầy Đại Ca Diếp, ư ông thế nào, có phải là Vương Tử chăng?
- Bạch Đức Thế Tôn! Không phải.
- Nầy Đại Ca Diếp! Cũng vậy, chúng Thanh Văn của ta dầu đồng chứng do pháp tánh sanh mà chẳng gọi là chơn thiệt Phật tử của Đức Như Lai.
Ví như Đại Vương ḍng Sát Lợi thông dâm với thể nữ có thai sanh con trai, dầu ra từ họ hèn hạ mà được gọi là Vương Tử. Cũng vậy, sơ phát tâm Bồ Tát dầu chưa có đủ phước đức trí huệ lại qua sanh tử tùy lực thế của ḿnh mà lợi ích chúng sanh. Đây gọi là Như Lai chơn thiệt Phật tử.
Ví như Chuyển Luân Thánh Vương có ngàn con trai chưa có một người có tướng Thánh Vương, trong ngàn con trai ấy Chuyển Luân Thánh Vương chẳng nghĩ tưởng là con trai ḿnh.
Cũng vậy, dầu có trăm ngàn vạn ức Thanh Văn quyến thuộc vây quanh mà không có Bồ Tát trong đại chúng ấy, Đức Như Lai chẳng nghĩ tưởng là Phật tử.
Ví như Chuyển Luân Thánh Vương có đại phu nhơn mang thai bảy ngày, đứa con trai ấy có tướng Chuyển Luân Vương chư Thiên tôn trọng hơn các con trai khác đă có đủ thân thể sức lực. Tại sao? V́ Vương Tử trong thai non ấy chắc sẽ nối ngôi tôn quí kế làm giống Thánh Vương. Cũng vậy, sơ phát tâm Bồ Tát dầu chưa đủ Bồ Tát căn nhưng được chư Thiên thần vương hết ḷng tôn trọng hơn bực đại A La Hán đủ bát giải thoát. Tại sao? V́ Bồ Tát ấy được gọi là nối ngôi tôn quí chẳng dứt giống Phật.
Ví như một viên lưu ly châu hơn cả ṭa núi thủy tinh. Cũng vậy, Bồ Tát từ lúc mới phát tâm đă hơn chúng Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Ví như ngày phu nhơn của Đại Vương sanh con trai, các tiểu vương quần thần đều đến bái yết. Cũng vậy, Bồ Tát lúc sơ phát tâm, chư Thiên thế nhơn đều nên lễ kính.
Ví như trong núi Tuyết sanh dược thảo không thuộc về ai không có phân biệt, tùy bịnh uống dùng đều hay chữa trị. Cũng vậy, Bồ Tát chức họp trí huệ không chỗ phân biệt b́nh đẳng cứu hộ khắp tất cả chúng sanh.
Ví như mặt nguyệt sơ sanh được mọi người ái kính hơn mặt nguyệt tṛn. Cũng vậy, người tin lời Phật th́ ái kính Bồ Tát hơn Đức Như Lai. Tại sao? V́ do nơi chư Bồ Tát mà sanh ra Đức Như Lai vậy.
Ví như kẻ ngu bỏ mặt nguyệt mà lễ thờ tinh tú. Người trí th́ chẳng như vậy, chẳng bỏ ĺa người tu hạnh Bồ Tát để lễ kính hàng Thanh Văn.
Ví như tất cả thế gian dầu Trời hay Người giỏi dồi sửa viên ngọc giả cũng chẳng thể làm thành lưu ly bửu châu được. Cũng vậy, người cầu Thanh Văn dầu tŕ tất cả giới thành tựu thiền định cũng trọn chẳng thể được ngồi đạo tràng thành Vô Thượng Bồ Đề.
Ví như dồi sửa lưu ly bửu châu hay xuất sanh vô lượng trân bửu. Cũng vậy, giáo hóa thành tựu Bồ Tát hay xuất sanh vô lượng Thanh Văn Bích Chi Phật.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Chư Bồ Tát phải thường cầu lợi ích cho chúng sanh và chánh tu tập, tất cả thiện căn phước đức đă có đều b́nh đẳng ban cho tất cả chúng sanh, trí dược đă có mang đến khắp mười phương chữa trị cho chúng sanh khiến đều cứu cánh.
Những ǵ gọi là trí dược cứu cánh? Đó là dùng bất tịnh quán trị tham dâm, dùng từ bi quán trị sân khuể, dùng nhơn duyên quán trị ngu si, dùng không quán trị các kiến chấp, dùng vô tướng quán trị các ức tưởng phân biệt duyên niệm, dùng vô nguyện quán trị tất cả nguyện xuất ly tam giới, dùng tứ phi đảo trị tất cả đảo, dùng nghĩa các pháp hữu vi đều vô thường để trị quan niệm điên đảo chấp thường trong vô thường, dùng nghĩa hữu vi đều khổ để trị quan niệm điên đảo chấp vui trong các khổ, dùng nghĩa vô ngă để trị quan niệm điên đảo chấp ngă trong vô ngă, dùng Niết Bàn tịch diệt để trị quan niệm điên đảo chấp tịnh trong bất tịnh.
Dùng Tứ Niệm Xứ để trị những chấp kiến dựa nương thân thọ tâm pháp. Hành giả quán thân, thuận theo thân tướng mà quán chẳng sa vào ngă kiến, thuận theo thọ tướng mà quán chẳng sa và ngă kiến, thuận theo tâm tướng mà quán chẳng sa vào ngă kiến, thuận theo pháp tướng mà quán chẳng sa vào ngă kiến. Tứ niệm xứ ấy hay chán tất cả thân thọ tâm pháp mà mở cửa Niết Bàn.
Dùng Tứ Chánh Cần hay dứt các pháp bất thiện đă sanh và ngăn các pháp bất thiện chưa sanh, hay khiến các thiện pháp chưa sanh th́ xuất sanh và các pháp thiện đă sanh th́ hay khiến tăng trưởng. Tóm lại, hay dứt tất cả pháp bất thiện và thành tựu các thiện pháp.
Dùng Tứ Như Ư Túc hay trị tất cả thân tâm trầm trọng khiến được như ư thần thông.
Dùng Ngũ Căn trị các chúng sanh bất tín giải đăi thất niệm loạn tâm không trí huệ.
Dùng Ngũ Lực chướng ngăn sức lực của các phiền năo.
Dùng Thất Giác Phần trị sự ngu si nghi hối sai lầm ở trong các pháp.
Dùng Bát Chánh Đạo trị tất cả chúng sanh sa vào tà đạo.
Đây là cứu cánh trí dược của Bồ Tát mà chư Bồ Tát phải thường siêng tu tập vậy.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Trong hàng y sư nơi Diêm Phù Đề, Kỳ Vức y vương là tối đệ nhứt. Giả sử tất cả chúng sanh trong tam thiên Đại Thiên thế giới đều như Kỳ Vức, nếu có người hỏi thuốc trị bịnh kiết sử phiền năo tà kiến nghi hối trong tâm th́ họ c̣n chẳng đáp được huống là chữa trị được.
Bồ Tát ở trong đây phải quan niệm rằng: Tôi chẳng nên lấy thế dược làm đầy đủ mà phải cầu học tu tập thuốc trí xuất thế, cũng tu tất cả thiện căn phước đức. Bồ Tát như vậy được trí dược rồi đến khắp mười phương cứu cánh chữa lành cho tất cả chúng sanh.
Những ǵ gọi là Bồ Tát trí dược? Đó là:
Biết các pháp theo duyên ḥa hiệp mà sanh,
Tin tất cả pháp không có ngă nhơn chúng sanh thọ mạng tri kiến, không có tác không có thọ, tin hiểu thông đạt không có ngă ngă sở.
Ở trong pháp không vô sở đắc ấy không có kinh sợ siêng năng tinh tiến mà suy t́m tâm tướng. Bồ Tát suy t́m tâm như vầy: Ǵ là tâm? Là tham dục hay sân khuể ngu si ư? Là quá khứ vị lai hiện tại ư! Nếu là tâm quá khứ th́ đă dứt mất hết rồi, nếu là tâm vị lai th́ chưa sanh chưa đến, nếu là tâm hiện tại th́ không có an trụ. Tâm nầy chẳng phải ở trong, ở ngoài, hay ở trung gian. Tâm nầy không có sắc, không có h́nh, không có đối, không có thức, không có tri, không có an trụ, không có xứ sở. Tâm ấy như vậy, tam thế thập phương chư Phật đều chẳng có đă thấy, đang thấy, sẽ thấy. Nếu tất cả chư Phật quá khứ vị lai hiện tại mà chẳng thấy được tâm ấy th́ nó làm sao có được? Chỉ do nơi điên đảo tưởng nên tâm sanh các pháp nhiều thứ sai biệt. Tâm nầy như ảo huyễn do ức tường phân biệt mà khởi các thứ nghiệp và thọ các thứ thân.
Lại nầy Đại Ca Diếp!
Tâm đi như gió v́ chẳng nắm bắt được,
Tâm như nước chảy v́ sanh diệt chẳng ngừng,
Tâm như ngọn đèn v́ các duyên mà có,
Tâm như ánh chớp v́ niệm niệm diệt dứt,
Tâm như hư không v́ khách trần ô nhiễm,
Tâm như khỉ vượn v́ tham lục dục,
Tâm như họa sư v́ hay khởi các nghiệp nhơn,
Tâm chẳng nhứt định v́ theo dơi các thứ phiền năo,
Tâm như đại vương v́ là chủ tăng thượng các pháp,
Tâm thường độc hành không hai không bạn v́ không có hai tâm đồng thời,
Tâm như oan gia v́ hay khởi tất cả khổ năo,
Tâm như voi cuồng đạp ngả các nhà đất v́ hay phá hoại tất cả các thiện căn,
Tâm như nuốt lưỡi câu v́ trong khổ mà tưởng là vui,
Tâm nầy như mộng v́ trong vô ngă mà sanh ngă tưởng,
Tâm như lằn xanh v́ trong bất tịnh mà sanh tịnh tưởng,
Tâm như giặc dữ v́ hay gây sự khổ khảo lược,
Tâm như ác quỉ v́ t́m dịp hại người,
Tâm thường cao hạ v́ tham và sân làm hư hại,
Tâm như trộm cướp v́ cướp mất tất cả thiện căn,
Tâm thường tham sắc như bướm đáp lửa,
Tâm thường tham thanh như quân đi lâu thích tiếng trống trận,
Tâm thường tham hương như heo thích nằm trong chỗ bất tịnh,
Tâm thường tham vị như cô gái nhỏ ham ưa ăn ngon,
Tâm thường tham xúc như ruồi ưa dầu.
Như vậy, nầy Đại Ca Diếp!
Suy t́m tâm tướng ấy trọn bất khả đắc.
Nếu bất khả đắc th́ chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại.
Nếu chẳng phải quá vị hiện tại th́ ra ngoài tam thế.
Nếu ngoài tam thế th́ phi hữu phi vô.
Nếu phi hữu phi vô th́ bất khởi.
Nếu bất khởi th́ vô tánh.
Nếu vô tánh th́ vô sanh.
Nếu vô sanh th́ vô diệt.
Nếu vô diệt th́ vô sở ly.
Nếu vô sở ly th́ vô lai vô khứ vô thối vô sanh.
Nếu vô lai khứ thối sanh th́ không có hành nghiệp.
Nếu không có hành nghiệp th́ vô vi.
Nếu là vô vi th́ là căn bổn của tất cả chư Thánh, trong ấy không có tŕ giới phá giới.
Nếu không tŕ phá th́ vô hành cũng vô phi hành.
Nếu không có hành, không có phi hành th́ không có tâm, không có tâm số pháp.
Nếu không có tâm tâm sở th́ không có nghiệp không có nghiệp báo.
Nếu không có nghiệp, không có nghiệp báo th́ không có khổ lạc.
Nếu không khổ lạc là thánh tánh, trong ấy không có nghiệp không có người khởi nghiệp, không có thân nghiệp khẩu nghiệp và ư nghiệp, trong ấy không có thượng trung hạ sai biệt, v́ thánh tánh b́nh đẳng như hư không vậy.
Tánh ấy không sai biệt v́ các pháp b́nh đẳng nhất vị.
Tánh ấy viễn ly v́ ĺa tướng thân tướng tâm.
Tánh ấy ĺa tất cả pháp v́ tùy thuận Niết Bàn tịch diệt vậy.
Tánh ấy thanh tịnh v́ ĺa các phiền năo cấu uế vậy.
Tánh ấy vô ngă v́ ĺa ngă ngă sở vậy.
Tánh ấy không cao hạ v́ từ b́nh đẳng sanh vậy.
Tánh ấy là chơn đế v́ là đệ nhất nghĩa đế vậy.
Tánh ấy vô tận v́ cứu cánh bất sanh vậy.
Tánh ấy thường trụ v́ các pháp thường như vậy.
Tánh ấy an lạc v́ Niết Bàn là đệ nhứt vậy.
Tánh ấy thanh tịnh v́ ĺa tất cả tướng vậy.
Tánh ấy vô ngă v́ cầu ngă bất khả đắc vậy.
Tánh ấy chơn tịnh v́ từ bổn lai cứu cánh tịnh vậy.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Các ông nên tự quán bên trong chớ duyên theo bên ngoài.
Như vậy, nầy Đại Ca Diếp! Các Tỳ Kheo đời sau như chó đuổi theo khối đất.
Thế nào là Tỳ Kheo như chó đuổi theo khối đất?
Ví như có người lấy khối đất ném chó, nó liền bỏ người mà đuổi theo khối đất. Cũng vậy, có các Sa Môn Bà La Môn sợ tục lụy mà ưa sắc thanh hương vị xúc, họ đến ở chỗ không nhàn không bè bạn rời chúng ồn náo, thân họ rời ngũ dục mà ḷng họ chẳng bỏ. Có lúc hoặc họ nhớ sắc thanh hương vị xúc tốt rồi sanh ḷng tham muốn mà chẳng quán bên trong, họ chẳng biết thế nào là rời sắc thanh hương vị xúc. V́ chẳng biết nên có lúc họ đi vào tụ lạc thành ấp ở trong nhơn chúng, rồi họ lại bị sắc, thanh, hương, vị, xúc tốt trói chặt. Do họ tŕ tục giới nên sau khi chết được sanh cơi trời rồi lại bị ngũ dục lạc trói chặt. Sau thân trời họ chẳng khỏi được bốn ác đạo: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và A Tu La. Đây gọi là Tỳ Kheo như chó đuổi theo khối đất.
Thế nào là Tỳ Kheo chẳng như chó đuổi theo khối đất?
Nếu có Tỳ Kheo bị người mắng chẳng mắng lại, bị người đánh chẳng đánh lại, bị người giận hại chẳng giận hại lại, chỉ tự quán bên trong cầu điều phục tâm ḿnh mà suy nghĩ như vầy: Kẻ mắng kẻ đánh kẻ hại là ai? Người thọ chịu là ai? Đây gọi là Tỳ Kheo chẳng như chó đuổi theo khối đất.
Ví như người chăn ngựa giỏi, tùy con ngựa ngang chứng thế nào đều có thể điều phục. Cũng vậy, hành giả giỏi tùy tâm ḿnh hướng nơi đâu liền có thể thâu nhiếp, chẳng cho nó phóng dật.
Ví như bịnh nghẹt yết hầu liền có thể chết. Cũng vậy trong tất cả kiến chấp, duy có ngă kiến có thể tức th́ đoạn mạng trí huệ.
Ví như có người bị trói, họ tùy chỗ bị trói mà cầu được mở. Cũng vậy, tùy tâm tham chấp chỗ nào, hành giả phải cầu tháo mở.
Nầy Đại Ca Diếp! Người xuất gia có hai tâm bất tịnh: Một là đọc tụng các kinh sách ngoại đạo như Lộ Già Gia v.v..., hai là chứa nhiều y bát tốt.
Người xuất gia c̣n có hai sự cột chặt: Một là kiến phược và hai là lợi dưỡng phược.
Người xuất gia c̣n có hai pháp chướng: Một là thân cận bạch y, hai là ghét bỏ người thiện.
Người xuất gia c̣n có hai thứ cấu uế: Một là chịu đựng phiền năo, hai là tham các đàn việt.
Người xuất gia c̣n có hai thứ mưa đá phá nát thiện căn: Một là trái chê chánh pháp, hai là phá giới mà thọ của tín thí.
Người xuất gia c̣n có hai nhọt ghẻ: Một là t́m thấy lỗi người, hai là tự che lỗi ḿnh.
Người xuất gia c̣n có hai pháp thiêu đốt: Một là tâm cấu uế mà thọ mặc pháp y, hai là thọ sự cúng dường của người lành tŕ giới.
Người xuất gia c̣n có hai thứ bịnh: Một là ôm ḷng tăng thượng mạn mà tâm chẳng phục, hai là phá hoại người phát tâm Đại thừa.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Hàng Sa Môn có bốn hạng: Một là h́nh phục Sa Môn, hai là oai nghi khi dối Sa Môn, ba là tham cầu danh văn Sa Môn, bốn là thiệt hành Sa Môn.
Có hạng Sa Môn h́nh dạng và y phục đầy đủ: Cạo bỏ râu tóc, đắp tăng già lê, cầm bát mà thành tựu thân nghiệp bất tịnh, khẩu nghiệp bất tịnh, ư nghiệp bất tịnh, chẳng khéo giữ ḿnh tham xan tật đố giải đăi phá giới làm ác, đây gọi là h́nh phục Sa Môn vậy.
Có hạng Sa Môn đầy đủ bốn oai nghi nơi thân Sa Môn đi đứng ngồi nằm nhất tâm an tường, dứt các mùi ngon tu bốn thánh chủng, xa rời chúng hội và nhà ồn náo, nói năng dịu dàng, thật hành các pháp như vậy đều là để dối trá chớ chẳng phải là v́ đạo thiện tịnh, nơi pháp không họ có chỗ thấy được, với pháp vô sở đắc họ sanh ḷng e sợ như sợ rơi xuống hố sâu, với Tỳ Kheo luận đàm pháp "Không" họ quan niệm như oán tặc, đây gọi là oai nghi khi cuống Sa Môn vậy.
Có hạng Sa Môn do nhơn duyên hiện tại thật hành tŕ giới mà muốn khiến người biết, tự lực đọc tụng muốn khiến người biết ḿnh đa văn, tự lực ở một ḿnh nơi nhàn tĩnh muốn khiến người biết ḿnh là a lan nhă, thiểu dục tri túc hành viễn ly hạnh chỉ v́ muốn người biết chớ chẳng v́ chán ĺa, chẳng v́ đạo thiện tịch, chẳng v́ đắc đạo, chẳng v́ bốn quả Sa Môn, chẳng v́ Niết Bàn, đây gọi là tham cầu danh văn Sa Môn vậy.
Có hạng Sa Môn chẳng tham thân mạng huống là lợi dưỡng, nghe các pháp không, vô tướng, và vô nguyện th́ tâm thông đạt tùy thuận thật hành đúng như lời. Họ chẳng v́ Niết Bàn mà tu phạm hạnh huống là tam giới, họ c̣n chẳng ưa khởi khiến chấp không vô ngă huống là kiến chấp ngă nhơn chúng sanh thọ giả. Họ ĺa pháp y chỉ mà cầu giải thoát phiền năo. Họ thấy tất cả pháp bổn lai vô cấu, cứu cánh thanh tịnh mà tự y chỉ, cũng chẳng y chỉ nơi người, do chánh pháp thân c̣n chẳng thấy Phật huống là h́nh sắc khác, do không viễn ly nên c̣n chẳng thấy Pháp huống là tham trước âm thanh ngôn thuyết, do pháp vô vi nên c̣n chẳng thấy Tăng huống là thấy có ḥa hiệp chúng, mà nơi các pháp không chỗ đoạn trừ không chỗ tu hành, chẳng an trụ sanh tử chẳng tham trước Niết Bàn, biết tất cả pháp bổn lai tịch diệt, chẳng thấy hệ phược chẳng cầu giải thoát, đây gọi là thiệt hành Sa Môn vậy.
Như vậy, nầy Đại Ca Diếp! Các ông nên tập làm thiệt hành Sa Môn, chớ bị danh tự nó làm hư hoại.
Nầy Đại Ca Diếp! Ví như người nghèo cùng hèn hạ giả danh giàu sang, ư ông thế nào, có xứng với danh chăng?
- Bạch Đức Thế Tôn! Không.
- Cũng vậy, nầy Đại Ca Diếp! Người chỉ có danh tự Sa Môn Bà La Môn mà không có công đức hạnh chơn thiệt của Sa Môn Bà La Môn th́ cũng như kẻ nghèo hèn kia mang danh giàu sang giả.
Ví như có người trôi ch́m giữa ḍng sông lớn đói khát mà chết. Cũng vậy, có các Sa Môn đọc tụng nhiều kinh điển mà chẳng thể ngăn được sự thiếu khát tham sân si nên trôi ch́m trong pháp thủy mà chết v́ phiền năo.
Ví như dược sư tay cầm túi thuốc đi mà tự thân bịnh lại chẳng trị được. Cũng vậy người đa văn có phiền năo, dầu có đa văn mà chẳng ngăn phiền năo th́ chẳng được tự lợi ích.
Ví như có người uống thuốc quí của nhà vua mà chẳng thích hợp nên bị thuốc làm hại. Cũng vậy, người đa văn có bịnh phiền năo được thuốc pháp tốt mà chẳng thể tu tập th́ tự hại thiện căn.
Ví như ma ni bửu châu rơi vào chỗ bất tịnh th́ không thể đeo vào ḿnh. Cũng vậy, người đa văn tham trước lợi dưỡng th́ chẳng c̣n lợi ích được cho Trời Người.
Ví như thây người chết đeo chuỗi vàng, Tỳ Kheo đa văn phá giới đắp pháp y thọ người cúng dường cũng như vậy.
Ví như trưởng giả tử cắt móng tắm gội sạch thoa xích chiên đàn mặc y phục trắng mới đội ṿng hoa trong ngoài tương xứng. Tỳ Kheo đa văn tŕ giới mặc pháp y thọ người cúng dường cũng như vậy.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Có bốn hạng Tỳ Kheo phá giới mà tợ tŕ giới tốt.
Có hạng Tỳ Kheo tŕ giới đầy đủ, trong các tội lớn nhỏ ḷng thường e sợ, giới pháp được nghe đều có thể làm theo, thân nghiệp, khẩu nghiệp và ư nghiệp đều thanh tịnh, chánh mạng thanh tịnh, mà Tỳ Kheo nầy lại tuyên nói hữu ngă luận. Đây là tợ tŕ giới tốt thứ nhứt.
Có hạng Tỳ Kheo tụng tŕ giới luật thật hành theo lời mà thân kiến chẳng diệt. Đây là tợ tŕ giới tốt thứ hai.
Có hạng Tỳ Kheo tŕ giới đầy đủ chấp lấy tướng chúng sanh mà hành từ tâm, nghe nói tất cả pháp bổn lai vô sanh th́ rất kinh sợ. Đây là trợ tŕ giới tốt thứ ba.
Có hạng Tỳ Kheo thật hành đủ mười hai đầu đà hạnh thấy có sở đắc. Đây là tợ tŕ giới tốt thứ tư.
Nầy Đại Ca Diếp! Người thiệt tŕ giới tốt th́ không có ngă ngă-sở, không có tác phi tác, không có sở tác, cũng không có tác giả, không hành phi hành, không sắc không danh, không có tướng phi tướng, không có diệt phi diệt, không có thủ xả, không có khả thủ khả khí, không có chúng sanh cũng không có danh tự chúng sanh, không có tâm không có danh tự tâm, không có thế gian phi thế gian, không có y chỉ phi y chỉ, không lấy giới đức để tự cao cũng chẳng chê giới người, cũng chẳng ức tưởng phân biệt giới ấy. Đây gọi là giới hạnh được chư Thánh thọ tŕ, vô lậu chẳng hệ phược chẳng thọ tam giới xa rời tất cả các pháp y chỉ".
Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa nầy nên nói kệ rằng:
Người tŕ giới thanh tịnh
Vô cấu vô sở hữu
Tŕ giới không kiêu mạn
Cũng không chỗ y chỉ
Tŕ giới không ngu si
Cũng không có hệ phược
Tŕ giới không trần ô
Cũng không có trái lỗi
Tŕ giới ḷng lành mềm
Rốt ráo thường tịch diệt
Xa rời tất cả niệm
Ức tưởng và phân biệt
Giải thoát các động niệm
Là tịnh tŕ giới Phật
Chẳng tham tiếc thân mạng
Chẳng dùng sanh tam giới
Tu tập các chánh hạnh
An trụ trong chánh đạo
Đây gọi là Phật pháp
Chơn thiệt tŕ tịnh giới
Tŕ giới chẳng nhiễm thế
Cũng chẳng nương thế pháp
Thành tựu sáng trí huệ
Không tối không sở hữu
Không tưởng ngă tưởng bỉ
Đă thấy biết các tướng
Đây gọi là Phật pháp
Chơn thiệt tŕ tịnh giới
Không thử ngạn bỉ ngạn
Cũng không có trung gian
Nơi không thử bỉ trung
Cũng không có sở trước
Không hệ phược không lậu
Cũng không có khi dối
Đây gọi là Phật pháp
Chơn thiệt tŕ tịnh giới
Tâm chẳng trước danh sắc
Chẳng chấp ngă ngă sở
Đây gọi là an trụ
Chơn thiệt tŕ tịnh giới
Dầu hành tŕ tịnh giới
Mà ḷng chẳng tự cao
Cũng chẳng cho là hơn
Gặp giới cầu thánh đạo
Đây gọi là chơn thiệt
Thanh tịnh tŕ giới tướng
Chẳng cho giới tối thượng
Cũng chẳng quư tam muội
Quá hai sự nầy rồi
Tu tập chánh trí huệ
Không tịch vô sở hữu
Tánh thể của hiền thánh
Tŕ tịnh giới như vậy
Được chư Phật ngợi khen
Tâm giải thoát thân kiến
Trừ diệt ngă ngă sở
Tin hiểu nơi chư Phật
Sở hành pháp không tịch
Tŕ thánh giới như vậy
Th́ không ǵ sánh bằng
Y giới được tam muội
Do định tu trí huệ
Nhơn nơi tu trí huệ
Bèn được thanh tịnh trí
Người đă được tịnh trí
Th́ đủ giới thanh tịnh.
Đức Phật nói kệ xong, có năm trăm Tỳ Kheo chẳng thọ các pháp tâm được giải thoát Ba vạn hai ngàn người xa trần ĺa cấu được pháp nhăn tịnh. Có năm trăm Tỳ Kheo nghe thâm pháp nầy ḷng họ chẳng thông đạt chẳng tin hiểu, họ rời chỗ bỏ đi.
Trưởng lăo Đại Ca Diếp bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Năm trăm Tỳ Kheo ấy đều đă được thiền định mà v́ chẳng thể tin hiểu nhập vào pháp thậm thâm nên họ đứng dậy bỏ đi".
Đức Phật nói: " Nầy Đại Ca Diếp! Các Tỳ Kheo ấy đều là hạng tăng thượng mạn, họ nghe giới tướng thanh tịnh vô lậu nầy chẳng tin hiểu được chẳng thông đạt được Kệ của Đức Phật nói ư nghĩa thậm thâm, tại sao? V́ chư Phật Bồ Đề rất thậm thâm vậy. Nếu là người trồng thiện căn chẳng dầy, bị ác tri thức nắm giữ, sức tin hiểu ít th́ khó tín thọ được.
Nầy Đại Ca Diếp! Thuở Phật Ca Diếp quá khứ, năm trăm Tỳ Kheo ấy làm đệ tử ngoại đạo, họ đến chỗ Phật Ca Diếp muốn t́m hay dở. Họ nghe Phật thuyết pháp được chút ít ḷng tin mà suy nghĩ rằng: Đức Phật đây hy hữu lời nói lành tốt vi diệu. Do tâm lành ấy nên sau khi chết họ được sanh Trời Đao Lợi. Măn thọ Trời Đao Lợi, họ sanh làm người Diêm Phù Đề được xuất gia trong pháp của ta. Các Tỳ Kheo ấy chấp sâu các kiến chấp, họ nghe nói pháp thậm thâm chẳng tin hiểu được chẳng tùy thuận thông đạt được. Các Tỳ Kheo ấy dầu chẳng thông đạt nhưng do nhơn duyên nghe pháp thậm thâm nầy họ được lợi ích lớn chẳng sanh ác đạo. Họ sẽ ở thân hiện tại được nhập Niết Bàn".
Đức Phật bảo Trưởng lăo Tu Bồ Đề: " Ông qua nơi kia đem các Tỳ Kheo ấy đến đây".
Trưởng lăo Tu Bồ Đề bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Họ c̣n chẳng tin được lời Phật dạy, huống là Tu Bồ Đề nầy".
Đức Phật liền hóa làm hai Tỳ Kheo đi trên đường mà năm trăm Tỳ Kheo ấy đang hướng đến.
Chư Tỳ Kheo ấy gặp Hóa Tỳ Kheo liền hỏi: " Hai Đại Đức muốn đi về đâu?". Hóa Tỳ Kheo đáp: " Chúng tôi muốn đến chỗ ở riêng để tu Thiền định lạc. Tại sao? V́ chẳng tin hiểu được Pháp của Phật nói".
Các Tỳ Kheo nói: " Nầy hai Đại Đức! Chúng tôi nghe Phật thuyết pháp cũng chẳng tin hiểu được nên muốn đi ở riêng tu hạnh thiền định".
Hóa Tỳ Kheo nói: " Chúng ta phải rời ĺa ḷng tự cao nghịch tranh chấp, phải cầu tin hiểu nghĩa của Phật nói. Tại sao? V́ không cao không tranh chấp là pháp Tỳ Kheo vậy. Niết Bàn được nói gọi là diệt ấy là diệt những ǵ? Trong thân nầy có ngă để diệt chăng? Có nhơn, có tác giả, có thọ giả, có mạng giả để diệt chăng?".
Chư Tỳ Kheo đáp: " Trong thân nầy không có ngă, nhơn tác giả, thọ giả, mạng giả để diệt, chỉ v́ tham dục sân khuể ngu si diệt mà gọi là Niết Bàn".
Hóa Tỳ Kheo nói: " Tham sân si của các Ngài có tướng nhứt định diệt hết được chăng?".
Chư Tỳ Kheo đáp: " Tham sân si chẳng ở tại nội chẳng ở tại ngoại chẳng ở tại trung gian, ĺa các ức tưởng th́ nó chẳng sanh".
Hóa Tỳ Kheo nói: " V́ thế nên các Ngài chớ có ức tưởng. Nếu các Ngài chẳng khởi ức tưởng phân biệt nơi pháp, thời ở nơi các pháp không nhiễm không ĺa. Không nhiễm không ĺa th́ gọi là tịch diệt. Giới phẩm được có cũng chẳng văng lai cũng chẳng diệt tận. Định phẩm huệ phẩm giải thoát phẩm giải thoát tri kiến phẩm cũng chẳng văng lai cũng chẳng diệt tận. Do pháp như vậy nên gọi là Niết Bàn. Pháp ấy đều không, đều viễn ly cũng chẳng thủ lấy được. Các Ngài xả ly tưởng niệm Niết Bàn ấy, chớ theo tưởng chớ theo phi tưởng, chớ dùng tưởng để xả bỏ tưởng, chớ dùng tưởng để quán nơi tưởng. Dùng tưởng xả bỏ tưởng th́ bị tưởng hệ phược. Các Ngài chẳng nên phân biệt tất cả thọ tưởng diệt định, v́ tất cả các pháp vô phân biệt vậy. Nếu có Tỳ Kheo diệt dứt các thọ tưởng mà được diệt định th́ là măn túc không c̣n có trên".
Lúc Hóa Tỳ Kheo nói pháp ấy, năm trăm Tỳ Kheo chẳng thọ các pháp tâm được giải thoát, họ trở lại chỗ Đức Phật đầu mặt lạy chơn Phật rồi đứng qua một bên.
Trưởng lăo Tu Bồ Đề hỏi các Tỳ Kheo: " Các Ngài đi đến chỗ nào, nay từ đâu lại?"
Các Tỳ Kheo đáp: " Như Đức Phật thuyết pháp, không từ đâu lại, đi không đến đâu".
Hỏi: Ai là thầy các Ngài?
Đáp: Thầy chúng tôi từ trước chẳng sanh cũng không có diệt.
Hỏi: Các Ngài từ đâu nghe pháp?
Đáp: Không có ngũ ấm thập nhị nhập thập bát giới từ đó nghe pháp.
Hỏi: Nghe pháp thế nào?
Đáp: Chẳng v́ hệ phược chẳng v́ giải thoát.
Hỏi: Các Ngài tu tập pháp ǵ?
Đáp: Chẳng v́ được chẳng v́ dứt.
Hỏi: Ai điều phục các Ngài?
Đáp: Thân không định tướng, tâm không sở hành, là điều phục tôi.
Hỏi: Làm sao tâm được giải thoát?
Đáp: V́ không dứt vô minh không sanh vô minh vậy.
Hỏi: Các Ngài là đệ tử ai?
Đáp: Người vô đắc vô tri kia.
Hỏi: Các Ngài chừng nào sẽ nhập Niết Bàn?
Đáp: Như hóa nhơn của Đức Như Lai nhập Niết Bàn chúng tôi sẽ nhập.
Hỏi: Các Ngài đă được kỷ lợi chăng?
Đáp: V́ tự lợi bất khả đắc vậy.
Hỏi: Các Ngài chỗ làm đă xong chăng?
Đáp: V́ chỗ làm bất khả đắc vậy.
Hỏi: Các Ngài tu phạm hạnh chăng?
Đáp: Nơi tam giới chẳng hành cũng chẳng phải chẳng hành là phạm hạnh của chúng tôi vậy.
Hỏi: Các Ngài phiền năo đă hết chăng?
Đáp: Tất cả các pháp cứu cánh không có tướng hết vậy.
Hỏi: Các Ngài đă phá ma chăng?
Đáp: Ấm ma bất khả đắc vậy.
Hỏi: Các Ngài phụng sự Đức Như Lai chăng?
Đáp: Chẳng do thân tâm vậy.
Hỏi: Các Ngài an trụ phước điền chăng?
Đáp: Không có an trụ vậy.
Hỏi: Các Ngài đă đoạn sanh tử qua lại chăng?
Đáp: Không có thường không có đoạn vậy.
Hỏi: Các Ngài tùy pháp hành chăng?
Đáp: Vô ngại giải thoát vậy.
Hỏi: Các Ngài cứu cánh sẽ đến chỗ nào?
Đáp: Tùy nơi chỗ đến của hóa nhơn của Đức Như Lai".
Lúc Trưởng lăo Tu Bồ Đề cùng các Tỳ Kheo hỏi đáp, trong đại chúng có năm trăm Tỳ Kheo chẳng thọ các pháp tâm được giải thoát. Ba vạn hai ngàn người xa trần ĺa cấu được pháp nhăn tịnh.
Bấy giờ Phổ Minh Bồ Tát bạch Phật rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Muốn học kinh Bửu Tích nầy, Bồ Tát nên trụ thế nào nên học thế nào?".
Đức Phật dạy: " Bồ Tát học lời được nói trong kinh nầy đều không có tướng nhứt định, chẳng thủ lấy được cũng chẳng nên trước. Tùy theo đây thật hành có lợi ích lớn.
Nầy Phổ Minh! Ví như có người ngồi thuyền bằng đất chưa hầm chín để qua sông Hằng, họ dùng sức tinh tiến nào để ngồi thuyền ấy mà qua sông được?".
Phổ Minh Bồ Tát bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Người ấy phải dùng sức đại tinh tiến mới qua sông được. Tại sao? V́ sợ giữa ḍng thuyền ră".
Đức Phật dạy: " Nầy Phổ Minh! Cũng vậy, Bồ Tát muốn tu Phật pháp nên siêng tinh tiến c̣n hơn nữa. Tại sao? V́ thân nầy vô thường không quyết định, nó là tướng bại hoại chẳng dừng được lâu trọn về nơi dứt diệt, v́ sợ chưa được pháp lợi mà giữa chừng hư hoại vậy.
Ta ở ḍng nước lớn muốn độ chúng sanh dứt bốn ḍng nước vậy, nên tu tập pháp thuyền rồi ngồi pháp thuyền ấy qua lại sanh tử độ thoát chúng sanh.
Thế nào là pháp thuyền được Bồ Tát tu tập?
Đó là tâm b́nh đẳng. Tất cả chúng sanh làm nhơn duyên của thuyền, tu tập vô lượng phước để làm dây chắc, giới thanh tịnh làm ván, bố thí và quả để làm trang nghiêm, tịnh tâm Phật đạo làm chất gỗ, tất cả phước đức để làm hoàn đủ, nhẫn nhục làm dây kiên cố mềm dài, chánh niệm là định. Các Bồ Đề phần kiên cường tinh tiến tối thượng diệu thiện sản xuất trong rừng pháp, bất khả tư nghị vô lượng thiền định phước đức nghiệp thành, thiện tịch điều tâm để làm thợ giỏi, cứu cánh bất hoại được đại bi nhiếp lấy, dùng tứ nhiếp pháp rộng độ đến xa, dùng sức trí huệ pḥng ngừa các oán tặc, sức thiện phương tiện nhiều thứ tập họp, dùng bốn phạm hạnh lớn để trang nghiêm, dùng tứ niệm xứ làm lầu vàng, dùng tứ cần tứ túc làm gió mạnh, ngũ căn khéo quan sát rời ĺa hiểm trở, ngũ lực càng nhẹ nổi, thất giác thường giác ngộ hay phá giặc ma, vào đường bát chánh chơn tùy ư đến bờ ŕa mé ngoại đạo, chỉ làm điều ngự, quán làm lợi ích, chẳng dính mắc hai bên, có pháp nhơn duyên để làm an ổn, Đại thừa rộng răi biện tài vô tận tiếng tăm vang xa, hay tế độ thập phương tất cả chúng sanh mà tự xướng lên rằng: Đến đây lên pháp thuyền theo đường an ổn đến bờ Niết Bàn khỏi bến thân kiến mà đến bến Phật đạo rời tất cả kiến chấp.
Nầy Phổ Minh! V́ thế mà Bồ Tát phải tu tập pháp thuyền như vậy.
Dùng pháp thuyền ấy trải vô lượng trăm ngàn vạn a tăng kỳ kiếp ở trong sanh tử độ thoát tất cả chúng sanh trôi ch́m trong ḍng nước lớn.
Lại nầy Phổ Minh! C̣n có pháp hành hay làm cho Bồ Tát mau được thành Phật. Đó là các việc được làm đều chơn thiệt chẳng hư, tu tập thiện pháp sâu dày, thâm tâm thanh tịnh, chẳng bỏ tinh tiến, ưa muốn gần sáng suốt để tu tập tất cả các thiện căn, thường chánh ức niệm v́ thích pháp lành, đa văn không chán v́ đủ trí huệ, phá hoại kiêu mạn để tăng ích trí huệ, trừ diệt hí luận để đủ phước đức, thích an ở một ḿnh v́ thân tâm rời ĺa, chẳng ở ồn náo v́ xa kẻ ác, sâu cầu chánh pháp v́ y đệ nhứt nghĩa, cầu đại trí huệ v́ thông đạt thiệt tướng, cầu nơi chơn đế v́ được bất hoại pháp, cầu nơi pháp không v́ sở hành chơn chánh, cầu nơi viễn ly v́ được tịch diệt vậy.
Nầy Phổ Minh! Đây là pháp hành hay làm cho Bồ Tát mau thành Phật đạo".
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Phổ Minh Bồ Tát, Trưởng lăo Đại Ca Diếp, Trưởng lăo Tu Bồ Đề v.v... tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La đều rất hoan hỉ đảnh đới phụng hành.
PHÁP HỘI PHỔ MINH BỒ TÁT
THỨ BỐN MƯƠI BA
HẾT
|
|